TIN VUI

Tuần san Bạn trẻ Công Giáo  -  Số 117 CN  23.11.2007

 

 

Web site www.tinvui.org E-mail : bantreconggiao@yahoo.com

 

MỤC LỤC

 

 Chúa Nhật IV Thường Niên A..

TRUYỀN TIN CHO GIUSE..

Lễ Chúa Giáng Sinh.

NHƯ HẠT BỤI.

Nhân lễ Giáng Sinh  GẶP GỠ CHÚA GIÊSU..

SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊĐICTÔ XVI CHO VIỆC CỬ HÀNH  NGÀY THẾ GIỚI HOÀ BÌNH 1 THÁNG GIÊNG 2008  GIA ĐÌNH NHÂN LOẠI, MỘT CỘNG ĐỒNG HÒA BÌNH..

Lễ cung hiến nhà thờ mới Thiện Lâm và kỉ niệm 25 năm thành lập giáo xứ..

Cần hết sức quan tâm đến việc “đào tạo” và tạo điều kiện để mỗi người “tham gia” theo chức năng. 

Phỏng vấn Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn.

22-12 : Lễ Hội Giáng Sinh người có hoàn cảnh Đặc biệt

ĐỨC CHA RAPHAE NGUYỄN VĂN DIỆP..

ĐHY Phạm Minh Mẫn họp bàn về việc tổng kết 10 năm nhìn lại tình hình Mục vụ TGP Saigòn (1998-2008)

ĐÊM THÁNH CA " CA LÊN ĐI MỪNG CHÚA GIÁNG SINH".

Phỏng vấn LM nhạc sĩ Kim Long dịp kỉ niệm 50 năm viết thánh ca.

Đôi nét về sự nghiệp âm nhạc của linh mục nhạc sư Kim Long.

HỌC CÙNG GIÊSU..

(Cảm nhận từ hai ngày tĩm tâm Mùa Vọng tại Trung tâm mục vụ Giáo phận TP. HCM)

GIÁNG SINH VÀ HOÀ BÌNH..

Người Ki-tô hữu và hoà bình.

Noi gương Đức Maria, gương mẫu sống Mùa Vọng.

CÂY THẬP GIÁ TRONG MẦU NHIỆM GIÁNG SINH..

TÀI LIỆU THƯỜNG HUẤN LINH MỤC GIÁO PHẬN ĐÀ LẠT 2007.

MỘT VẤN ĐỀ..

TRONG CÁC XỨ TRUYỀN GIÁO THƯỢNG :

NAM NỮ SỐNG CHUNG TRƯỚC BÍ TÍCH HÔN NHÂN..

Chuyện ngụ ngôn đêm Chúa giáng sinh.

TÌNH CHO..

CHIA SẺ CÔNG TÁC MỤC VỤ GIÁO XỨ TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY (tiếp theo)

 

 

 

SỐNG LỜI CHÚA

 

Chúa Nhật IV Thường Niên A

(23.12.2007)

Mt 1, 18-24

"Chúa Giêsu sinh ra bởi Đức Maria, đính hôn với Thánh Giuse con vua Đavít".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, bạn của bà, là người công chính, không muốn tố cáo bà, định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo.

Nhưng đang khi định tâm như vậy thì thiên thần Chúa hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse, con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần: bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội".

Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng Tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta".

Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền: ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu. Đó là lời Chúa.

TRUYỀN TIN CHO GIUSE


 Tin mừng Matthêu kể câu chuyện truyền tin cho Giuse: “Bà Maria, mẹ của Đức Giêsu, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giuse, là con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”... Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.” ( Mt 1, 18 – 21. 24 )


Tin mừng giới thiệu về những đóng góp của Thánh Giuse vào công trình Nhập Thể. Với sự quãng đại, Thánh Giuse đã bỏ dự định của mình để thi hành chương trình của Chúa. Đó là cho Chúa Giêsu một tư cách pháp lý là con cháu Vua Đavit. Đúng như lời Thiên Chúa đã hứa từ thời Cựu Ước. Giuse đặt tên cho Chúa Giêsu, nhận Chúa Giêsu là con mình theo pháp lý. Từ nay Giuse bao bọc Đức Maria và Chúa Giêsu. Isaia loan báo: “Này đây Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai, n gười ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (Is 7,14). Lời ngôn sứ có một tầm quan trọng trong nhiệm cục cứu rỗi. Lời đó khẳng định "chính Thiên Chúa" sẽ ban cho Đavid một người thuộc dòng dõi, như là "dấu chứng" lòng trung tín của Người. Lời hứa này đã thực hiện với sự sinh ra Chúa Giêsu bởi Đức Trinh nữ Maria. Giuse đựơc vinh dự tham gia vào nhiệm cục cứu rỗi đó.


Đức Giêsu Kitô là Emmanuel “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Người là Đấng Cứu Độ, Đấng đến giải thoát và ban bình an cho dân Chúa. Nhưng qua câu chuyện Tin Mừng hôm nay, Chúa đã gây một cú sốc quá lớn cho Thánh Giuse. Khi biết Maria bỗng dưng có thai, Giuse đau khổ, âm thầm mang lấy nổi đau riêng mình. Là người công chính nên Giuse luôn lắng nghe và mau mắn thi hành thánh ý Chúa. Vì thế mà ngài trở nên Thánh Cả và là mẫu gương cho mọi tín hữu.


1. Mẫu gương đức tin, công chính và cầu nguyện.

 

Thánh Giuse, con người đức tin, công chính và cầu nguyện. Đức tin liên kết với sự công chính và sự cầu nguyện, đó là thái độ xứng hợp để gặp “Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta".


Tự thâm sâu, tình yêu của Giuse vẫn trổi vượt. Giuse không hề quay lại bản thân mình để cảm thấy bị lừa dối xúc phạm, nhưng chỉ hướng về Maria để tiếp tục tin rằng vị hôn thê của mình vẫn thật sự trong sạch vẹn tuyền. Không hề tra hỏi Maria một lời nào, Giuse chỉ im lặng ôm lấy phiền muộn, một cõi riêng tư.


Vì yêu Maria nên Giuse không muốn làm hại bạn mình. Ngài đã chọn con đường rút lui trong âm thầm, một giải pháp thua thiệt cho bản thân vì sẽ mang tiếng là “sở khanh”. Một quyết định can đảm nói lên tình yêu và tấm lòng quảng đại của Ngài. Giuse đúng thật là người công chính. Nơi Thánh Giuse, "sự công chính nội tâm" trùng với "tình yêu". Tình yêu dâng hiến luôn hướng về người khác, sẵn sàng hy sinh để làm người mình yêu có giá trị hơn và đựơc hạnh phúc hơn. Chấp nhận chịu thiệt thòi để người yêu đựơc lợi, chấp nhận đau khổ để người mình yêu hạnh phúc. Sẵn sàng thông cảm và tha thứ cho người mình yêu khi có lầm lỗi. Giuse đã yêu Maria bằng tình yêu dâng hiến như thế.


Giuse là một người mở lòng đón nghe Lời Chúa trong cầu nguyện. Thiên thần giải thích cho Giuse biết "người sinh bởi Đức Maria là do Chúa Thánh Thần", theo lời ngôn sứ phán xưa: "Này đây: Trinh nữ sẽ thụ thai", và Giuse sẵn sàng tiếp nhận những ý định của Chúa, những ý định vượt quá những giới hạn của loài người.


Giuse như là một con người đích thực sống đức tin. Đức tin liên kết với sự công chính và cầu nguyện, đó là thái độ phù hợp để gặp Đấng Emmanuel. Tin có nghĩa là sống trong lịch sử mở lòng đón nhận sáng kiến của Thiên Chúa, đón nhận sức mạnh sáng tạo của lời Người.


2. Mẫu gương luôn vâng theo thánh ý Chúa.


Thánh Giuse là người công chính như Kinh Thánh đã khen tặng. Trong suốt cuộc đời Giuse hằng luôn vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa (x. Mt 1,18-25; 2,13-23; Lc 2,1-7.22).


Thánh ý Chúa, được sứ thần truyền đạt đến cho thánh Giuse, vừa xoá tan mọi nghi ngờ đang dằn vặt ngài vừa mạc khải cho ngài về lai lịch và sứ mạng của thai nhi đang được cưu mang. Đó là Đấng Thánh vì được thụ thai do quyền năng của Thiên Chúa. Đó cũng là Đấng sẽ giải phóng dân tộc của ngài khỏi ách đô hộ của ngoại bang. Sứ thần xác nhận Maria mang thai do Chúa Thánh Thần và bảo ông đừng rút lui mà hãy đưa Maria về với mình, bởi Chúa đã giao cho ông một sứ mạng. Giuse sẵn sàng làm bất cứ điều gì Chúa muốn để hoàn tất chương trình của Người. Dự tính muốn ra đi âm thầm không phải chỉ do sự tôn trọng luật pháp hay tôn trọng danh dự Maria thúc đẩy, nhưng còn có cái gì sâu xa hơn nữa. Có thể ví với thái độ của những người đối diện với một mầu nhiệm cao cả: họ thụt lại vì kinh kính sợ, tựa như ông Môsê đã cởi dép khi tiến gần bụi gai đang cháy rực (St 3,5), tựa như Isaia thất kinh khi diện kiến Thiên Chúa cực thánh(Is 6,5), tựa như ông Simon sau khi chứng kiến mẻ cá lạ lùng (Lc 5,8). Giuse đựoc biết là Maria “có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần”, vì thế ông không dám chiếm hữu người con không phải là của mình. Vì thế ông toan tính rút lui. Để cũng cố thêm cho sự giải thích vừa rồi, cha Ignace de La Potterie nhận xét rằng cần phải xét lại các bản dịch cổ truyền. Thay vì “ông Giuse là người công chính không muốn tố giác bà”, cần phải dịch là “ông Giuse là người công chính không muốn tiết lộ {mầu nhiệm}, quyết định rời bỏ bà cách kín đáo. Động từ deigmatisai (ít được sử dụng trong tiếng Hy lạp) tự nó chỉ có nghĩa là thông báo, nói cho biết, đưa ra ánh sáng), và tuỳ theo mạch văn mà thay đổi ý nghĩa: có thể là “tố cáo, tố giác” (điều xấu), “bày tỏ, tiết lộ” (điều tốt). Ông Giuse đựơc bà Maria tâm sự về sự cưu mang do quyền năng Thánh Thần, và ông không dám tiết lộ mầu nhiệm này. (x.Lm Phan tấn Thành, Thánh Giuse trong cuộc đời Chúa Kitô và Hội thánh)

 

Như một khí cụ ngoan ngoãn trong tay người sử dụng, thánh Giuse đã được Thiên Chúa chọn làm người bảo trợ Đấng Thiên Sai, và Ngài đã cùng bạn mình là Đức Maria, thực hiện mọi quyết định của Thiên Chúa, dầu có phải trải qua biết bao thử thách gian nan, cả về vật chất lẫn tinh thần.


Người Công Chính Giuse suốt cuộc đời luôn luôn thức tỉnh trước thánh ý Thiên Chúa, thức tỉnh ngay cả trong giấc ngủ.


Ở Bêlem: “Sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi !” Ông Giuse liền chỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập.” ( Mt 2, 13 – 14 ).


Ở Aicập: “Sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giuse bên Aicập, báo mộng cho ông rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi. ”Ông liền chỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen.” ( Mt 2, 19 – 21 )


Ở Giuđê: “Vì nghe biết Áckhêlao đã kế vị vua cha là Hêrôđê, cai trị miền Giuđê, nên ông Giuse sợ, không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Galilê, và đến ở tại một thành kia gọi là Nadarét.” ( Mt 2, 22 – 23 ).


Giuse luôn thao thức lắng nghe tiếng Thiên Chúa, và khi nghe được rồi thì đáp lại không chần chừ, dù cho phải trả giá.


Một câu ngạn ngữ của người Nigêria nói rằng: Hãy lắng nghe và bạn sẽ nghe đựoc những bước chân của các con kiến. Chúng ta được mời gọi để lắng nghe những bước chân âm thầm của Thiên Chúa trong cuộc đời.

Hãy “học trường” Giuse, bài học lắng nghe và thi hành Lời Chúa, trong tinh thần khiêm tốn, vâng phục, tin tưởng và phó thác.

 

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Mục lục

 

 

Lễ Chúa Giáng Sinh

(Thánh lễ nửa đêm 24.12.2007)

Lc 2, 1-14

"Hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria. Mọi người đều lên đường trở về quê quán mình. Giuse cũng rời thị trấn Nadarét, trong xứ Galilêa, trở về quê quán của Đavít, gọi là Bêlem, vì Giuse thuộc hoàng gia và là tôn thất dòng Đavít, để khai kiểm tra cùng với Maria, bạn người, đang có thai.

Sự việc xảy ra trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong hàng quán.

Bấy giờ trong miền đó có những mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ, khiến họ hết sức kinh sợ. Nhưng thiên thần Chúa đã bảo họ rằng: "Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Đavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ".

Và bỗng chốc, cùng với các thiên thần, có một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm".

Đó là lời Chúa.

NHƯ HẠT BỤI

 

1. Lời loan báo :

 

Ngôn sứ Isaia công bố tin mừng về “một ánh sáng huy hoàng”, ánh sáng đó làm cho dân chúng vui mừng vì được giải thoát khỏi ách của những kẻ áp bức. Nhưng tất cả những điều đó lại được thực hiện nhờ một trẻ thơ : “Vì Chúa đã cho một trẻ thơ chào đời, đã  ban tặng một trẻ thơ cứu ta “ ( Is 9, 5tt).

 

Làm sao một “trẻ thơ” có thể làm được chuyện đó ?

 

Ngôn sứ Isaia nói rằng. Trẻ Thơ ấy có quyền bính trên vai, có tài năng như “cố vấn kỳ diệu” , có sức mạnh của “Thần linh dũng mãnh”…và trẻ thơ ấy sẽ “mở rộng quyền bính” củng cố cho “vương quốc được kiên cố vững bền”…Có lẽ chính kiểu diễn tả như thế khiến cho người Do thái luôn mong chờ một Đấng Mêsia hùng mạnh, và khiến họ không thể chấp nhận được một Đấng Mêsia lại xem ra như thua cuộc trên thập giá

 

“Trong khi người Do thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận” ( 1 Cr 1,2-23).

 

Tin Mừng thánh Luca đêm nay kể lại chuyện Đấng Mêsia đến trần gian. Ngài đúng là một trẻ nhỏ, nhưng ta lại không thấy một quyền bính hùng mạnh hoặc kỳ diệu nào cả. Ngài thực sự là một hài nhi bé nhỏ, yếu ớt, đang bị phiêu bạc vì sức mạnh của quyền binh đế quốc…

 

Hôm nay Đấng Cứu độ anh em đã ra đời…anh em cứ dấu này mà nhận ra Người, : anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh, bọc tã, nằm trong máng cỏ” ( Lc 2, 12).

 

  1. Sức mạnh của binh lực hay của tình thương.

 

Đế quốc Rôma thật sự rộng lớn và mạnh mẽ. Chỉ cần một lệnh kiểm tra dân số của hoàng đế, cả đế quốc như rung chuyển, đời sống của bao nhiêu người bị đảo lộn, bao nhiêu thân phận nhỏ bé bị cuốn theo một cơn lốc của quyền lực. Quyền lực trần thế vẫn luôn có thể thổi tung những sinh mạng nhỏ nhoi của con người; và Đấng Mêsia trong thân phận một hài nhi yếu đuối quả thật chỉ là một hạt bụi trong cơn lốc xoáy ấy.

 

Đấng Mêsia bị cơn lốc quyền lực thổi bay, nhưng chính nhờ cơn lốc, hạt bụi Giêsu có thể làm thành tựu ý định vững bền của Thiên Chúa và có thể đến mọi xó xỉnh, đến với  những người đang bị cơn lốc cuốn bay.

 

Trong khi chiếu chỉ của hoàng đế Augustinô biểu lộ một sức mạnh, một sức mạnh có khả năng tiêu diệt, thì hình ảnh yếu ớt của một gia đình nhỏ lại biểu lộ tình thương, một tình thương làm nẩy sinh sự sống : “Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria tới ngày mãn nguyệt khai hoa” ( Lc 2, 6).

Và trong khi sắc lệnh của hoàng đế làm cho bao gia đình phải ly tán, thì sự hiện diện của một Hài Nhi lại có sức qui tụ, qui tụ những người nghèo và qui tụ cả trời và đất : “Vinh danh Thiên Chúa  trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” ( Lc 2, 14).

 

  1. Nhiệm cục cứu độ.

 

Sự hiểu lầm về một Đấng Mêsia quyền lực có lẽ là sự hiểu lầm chính trong cuộc đời Đức Giêsu. Hiểu lầm vì người ta tưởng rằng chỉ có  sức mạnh quyền lực mới có thể chống lại được quyền lực, chỉ có sự sắc bén của gươm giáo mới có thề phá đổ sự áp bức của “cái ách đè lên cổ”, của “cây gậy đập xuống vai” và của “ngọn roi kẻ hà hiếp”

 

Đường lối của Thiên Chúa lại khác, Đấng Mêsia chỉ như hạt bụi và một cách nào đó, Đức Giêsu có dáng dấp một “dân bụi”. Đúng hơn, Ngài trở nên người bạn của “dân bụi”, để nhờ cung cách “lê la” ấy, Ngài có thể đến với những người bị đẩy khỏi xã hội, đến cùng kẻ bị bỏ quên bên lề đường, bị khinh khi trong xã hội, bị xô đẩy vì những khốn khó cuộc đời. Đường lối cứu độ của Thiên Chúa, trước tiên, chỉ là tình thương, bằng cách trở nên một người bạn đường, và thể hiện nhiệm cục Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

 

Lm. Giuse Nguyễn Trọng Viễn, OP

Mục lục

 

 

TU ĐỨC

 

 Nhân lễ Giáng Sinh

 GẶP GỠ CHÚA GIÊSU

 

 

 Lễ Noel có muôn màu sắc. Người thì lo mừng lễ. Người thì lo sắm quà lễ. Người thì lo ăn lễ. Người thì lo thăm bạn bè dịp lễ. Người thì lo đi nghỉ lễ. Người thì lo tổ chức lễ.

 

Đáng chú ý nhất là dịp lễ này nhiều người lo đến hang đá để có những gặp gỡ.

 

Thực sự, nhiều gặp gỡ đã diễn ra. Nhưng không phải gặp gỡ nào cũng vì mến Chúa.

Xưa, khi nghe Đấng Cứu thế giáng trần, vua Herôde đã nôn nóng muốn gặp Người, nhưng với ý đồ xấu, đó là để sát hại Người.

 

Xưa, dân cư ở Bêlem cũng đã gặp hai ông bà Giuse Maria đi tìm chỗ trọ. Nhưng vì thấy hai ông bà quá nghèo, nên họ đã từ chối đón nhận.

 

Vì thế, kỷ niệm biến cố Đấng Cứu thế giáng sinh cũng gián tiếp nhớ lại sự kiện Người bị chối từ và bị lùng bắt.

 

Nay, lễ Noel, nhiều người coi như đến tìm gặp Chúa. Nhưng, có người chỉ tìm ngắm tượng ảnh, xem cảnh hang đá đèn sao nhấp nháy. Có người tìm đến hang đá, chỉ để quay phim chụp ảnh. Có người đi tham quan hang đá, chỉ để giải trí, để gặp bạn, để tham gia bầu khí lễ hội, để mua bán, để khoe áo quần. Thậm chí, cũng có người đến hang đá, để chỉ tìm ăn trộm ăn cắp.

 

Thành ra, động lực đến hang đá ngày Noel rất tản mát.

 

Tuy nhiên, số người đến hang đá, do động lực muốn gặp gỡ chính Chúa Giêsu vì tình mến, không phải là ít. Mỗi người có những kinh nghiệm riêng tư về sự gặp gỡ này. Ở đây tôi chỉ đề cập tới ba kinh nghiệm.

 

1/ Gặp gỡ Chúa trong chính tâm hồn mình, để sống nội tâm

 

Với lòng khao khát, họ nhìn Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế của họ. Họ muốn được gặp Người. Họ cầu nguyện, hồi tâm, dự lễ. Và Chúa đã đến. Chúa đến trong lòng họ. Lòng họ là máng cỏ, mà Chúa ưa thích. Chúa biến đổi họ nên mới.

 

Trong gặp gỡ nội tâm, họ như nghe được hơi thở của Hài nhi Giêsu, họ như thấy được một Đấng vô hình, họ như nếm được sự ngọt ngào của tình yêu cứu độ, họ như chạm đến được dòng chảy sự sống thiêng liêng. Ngũ quan thiêng liêng của họ bỗng được đánh thức dậy. Họ cảm thấy lời Chúa phán sau đây đang thực hiện nơi họ: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến với họ và ở lại trong người ấy" (Ga 14,23).

 

Việc Chúa đến trong nội tâm mở ra cho nội tâm con người một chiều kích thiêng liêng sâu thẳm. Con người cảm thấy sự hiện diện của một Đấng yêu thương mầu nhiệm gọi mình. Và họ sẽ trả lời: "Lạy Chúa, Chúa đến gọi con. Này con đây ".

 

2/ Gặp gỡ Chúa Giêsu để đón nhận ơn bình an

 

Rất nhiều người, lễ Noel, đã gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện, và Chúa đã ban cho họ một quà tặng quý giá, đó là ơn bình an.

 

Ơn bình an là ơn được nhắc đặc biệt trong lễ Noel. Những ai được ơn bình an đêm Noel sẽ cảm nghiệm được lời Chúa Giêsu phán hứa sau này: "Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban cho các con bình an của Thầy. Thầy ban cho các con không như thế gian ban" (Ga 14,27).

 

Có thể nói: Ơn bình an Chúa ban trong lễ Noel sẽ được hiểu cùng với hình ảnh những người chăn chiên khó nghèo bé mọn, nhất là cùng với hình ảnh Hài nhi Giêsu khiêm hạ nghèo khó.

 

Bé mọn, khiêm tốn, khó nghèo, chỉ cậy tin phó thác nơi Chúa. Đó là nguồn gốc sự bình an Phúc Âm. Chúa Giêsu đã nói về ơn đó nhiều lần sau này. Như: "Thầy bảo thật các con, nếu các con không quay trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời" (Mt 18,3).

 

 "Lạy Cha là Chúa trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha" (Mt 11,25-26).

Đức Mẹ Maria cũng đã đề cao kẻ khiêm nhường, bé mọn. "Chúa nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư" (Lc 1,52-53).

 

Ai nhận thức mình không có gì để tự mãn, không khao khát được giàu có hơn, được hưởng thụ hơn, được uy tín hơn, nhưng ý thức mình nghèo hèn về mọi mặt, chỉ vâng phục ý Chúa, chỉ đợi chờ mọi sự nơi Chúa, người đó sẽ được ơn bình an sâu xa của Chúa ban cho.

 

Ai vui lòng chấp nhận sự mong manh của mình, sự nghèo hèn của mình, sự phục vụ âm thầm và sự chia sẻ bé nhỏ của mình, người ấy sẽ được ơn bình an. Ơn bình an này đòi nhiều phấn đấu.

 

3/ Gặp gỡ Chúa Giêsu, để biết tham dự vào vẻ đẹp cứu độ

 

Khi gặp gỡ chính Chúa Giêsu trong hồi tâm thinh lặng, người ta sẽ thấy vẻ đẹp cứu độ của Thiên Chúa. Vẻ đẹp đó không phải là những vinh quang lẫy lừng trước quần chúng đông đảo, những cuộc đắc thắng uy phong lẫm liệt đè bẹp quân thù, nhưng là tình yêu với hy sinh.

 

Con đường cứu độ Chúa đã chọn là tình yêu khiêm nhường, là tình yêu hy sinh, là tình yêu gánh đau khổ thay cho nhân loại.

 

Tình yêu cứu độ của Chúa giáng sinh ở Belem là thế. Tình yêu cứu độ của Chúa tử nạn ở Calvê cũng vậy.

(

Chia sẻ vắn tắt trên đây cho thấy: Lễ Chúa Giáng sinh là một kho tàng vô tận. Vẻ đẹp cứu độ là từ trên. Ơn bình an là từ trên. Sống nội tâm là từ trên. Ba ơn từ trên đó soi sáng cho thời sự sống đạo hôm nay.

 

Đạo Công giáo đang và sẽ còn là thiểu số ở Á đông nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Điều đó không quan trọng. Điều quan trọng đáng ta phải quan tâm, là mỗi người công giáo chúng ta phải thực sự đạo đức, theo gương Chúa Giêsu trong háng đá Belem.

 

Được như vậy, chúng ta mới có thể đi về tương lai lịch sử, với hy vọng góp phần đáng kể vào việc phục hưng và phát triển đạo đức cho Quê Hương Việt Nam chúng ta.

 

Xin Mẹ Maria giúp chúng ta biết luôn tỉnh thức, để gặp được Chúa đi vào lịch sử của riêng ta, lịch sử của khắp Hội Thánh, và lịch sử chung của Đất Nước chúng ta.

 

ĐGM GB. Bùi Tuần

Mục lục

 

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI

 

SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊĐICTÔ XVI CHO VIỆC CỬ HÀNH

 NGÀY THẾ GIỚI HOÀ BÌNH 1 THÁNG GIÊNG 2008

GIA ĐÌNH NHÂN LOẠI, MỘT CỘNG ĐỒNG HÒA BÌNH

 

 

Vào đầu Năm Mới, tôi xin gửi lời cầu chúc hoà bình tốt đẹp, cùng với một sứ điệp tha thiết ước mong hoà bình cho hết mọi người nam nữ trên toàn thế giới. Tôi gửi những lời này bằng cách đưa ra một chủ đề mở đầu sứ điệp để chúng ta cùng nhau suy tư. Đây là một điều tôi đặc biệt quan tâm: gia đình nhân loại, một cộng đồng hoà bình. Hình thái hiệp thông đầu tiên giữa con người là loại phát sinh do tình yêu giữa một người nam và một người nữ, họ quyết định kết hợp với nhau một cách vững bền để cùng nhau xây dựng một gia đình mới. Tuy nhiên các dân tộc trên thế giới cũng được kêu gọi để thiết lập những quan hệ liên đới và hợp tác, theo tư cách là các phần tử  trong một gia đình nhân loại duy nhất: Công Đồng Vaticanô II đã long trọng tuyên bố: “Mọi dân tộc đều thuộc về một cộng đồng có chung một nguồn gốc, vì Thiên Chúa đã cho toàn thể nhân loại sinh sống trên khắp mặt địa cầu (x. Cv 17, 26); họ lại có cùng một mục tiêu tối hậu là Thiên Chúa” (1).

 

 Gia đình, xã hội và hoà bình

 

 2. Gia đình tự nhiên, do bởi sự kết hợp thâm sâu trong sự sống và tình yêu, đặt nền tảng trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ, (2) là “nơi chốn đầu tiên để ‘nhân hoá’ con người và xã hội”, (3) và là “cái nôi của sự sống và tình yêu ” (4). Bởi đó gia đình được gọi một cách đích xác là xã hội tự nhiên đầu tiên, “một định chế do Thiên Chúa thíêt lập, làm nền tảng cho cuộc sống con người, là nguyên mẫu đầu tiên của mọi trật tự xã hội”(5).

 

3. Thật vậy, trong đời sống của một gia đình lành mạnh chúng ta cảm nhận được những nhân tố cơ bản của hoà bình: sự công bằng và tình yêu giữa các anh chị em, chức năng quyền bính của cha được thể hiện, sự quan tâm ưu ái dành cho những người yếu kém hơn, vì còn trẻ, đau ốm hoặc già cả, sự tương trợ trong các nhu cầu của cuộc sống, sự sẵn sàng chấp nhận người khác, và nếu cần thì sẵn sàng tha thứ cho nhau. Do đó, gia đình là nhà giáo dục đầu tiên và không thể thay thế được về hoà bình. Vì vậy, chúng ta đều cho rằng nếu bạo lực mà xảy ra trong gia đình thì bị coi là  thể dung thứ được. Như thế, khi nói rằng gia đình là “tế bào sống đầu tiên của xã hội” thì người ta xem nó như là điều thiết yếu. Gia đình được coi như nền móng của xã hội còn vì lí do này: nó giúp cho những người trong gia đình cảm nhận sự an bình đích thực. Từ đó, cộng đồng nhân loại không thể bỏ qua sự đóng góp của gia đình. Những người trẻ còn đang được thụ huấn có thể học biết cảm nếm “hương vị” tinh tuyền của hoà bình ở đâu tốt hơn là ở chính cái “tổ ấm” nguyên thuỷ mà tự nhiên chuẩn bị cho họ? Ngôn từ trong gia đình là một thứ ngôn ngữ hoà nhã; chúng ta phải múc lấy từ gia đình nếu không, chúng ta sẽ đánh mất “từ ngữ” hoà bình. Trước sự lạm phát ngôn từ hiện nay, xã hội đừng thôi tham chiếu thứ “văn phạm” mà các trẻ em học biết từ ánh nhìn, từ hành vi của các cha mẹ, ngay cả trước khi chúng học nói từ cha mẹ chúng.

 

4. Giữ nhiệm vụ giáo huấn những người trong nhà, gia đình là chủ thể của các quyền đặc thù . Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, khi vạch một dấu mốc cho sự khai phóng mang tính pháp lí về các giá trị phổ quát đích thực, xác quyết rằng “gia đình là một đơn vị nền tảng và tự nhiên của xã hội, có quyền được xã hội và Nhà Nứơc bảo vệ” (7). Về phần mình, Toà Thánh đã nhìn nhận phẩm giá pháp lí đặc biệt phù hợp với gia đình khi công bố “Hiến Chương Các Quyền Gia Đình”. Phần mở đầu ghi nhận: “Các quyền con người, cho dẫu thể hiện các quyền cá nhân, đều mang một chiều kích xã hội căn bản, nó tìm được trong gia đình sự diễn tả một cách sống động và thâm sâu” (8). Các quyền được liệt kê trong Bản Hiến Chương biểu lộ và diễn tả  luật tự nhiên đã được ghi khắc trong tâm khảm, được nhận biết qua lương tri của con người. Phủ nhận hoặc giới hạn các quyền gia đình vừa che khuất sự thật về con người, vừa đe doạ chính nền tảng của hoà bình.

 

 5. Vì thế, bất cứ ai dù không cố ý mà ngăn cản định chế gia đình đều làm cho  hoà bình trong toàn thể cộng đồng, quốc gia cũng như quốc tế trở nên mong manh, bởi vì họ đã thực sự làm suy yếu tác nhân chủ yếu của hoà bình. Đây là điểm cần đặc biệt suy nghĩ: tất cả những gì góp phần làm suy yếu gia đình đặt nền tảng trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ, tất cả những gì trực tiếp hay gián tiếp cản trở họ nhận lãnh trách nhiệm đón nhận sự sống mới, tất cả những gì ngăn cấm quyền được có trách nhiệm ưu tiên trong việc giáo dục con cái, đều tạo nên một trở ngại khách quan trên con đường dẫn tới hoà bình. Gia đình cần có nhà ở, việc làm, và sự nhìn nhận chính đáng sinh hoạt gia đình của cha mẹ, tự do chọn trường cho con cái,  việc chăm sóc sức khoẻ thông thường cho mọi người. Khi xã hội và chính trị không dấn thân giúp đỡ gia đình trong những lĩnh vực này thì nó để mất một nguồn lực thiết yếu phục vụ hoà bình. Một cách riêng, các phương tiện truyền thông xã hội, do bởi khả năng giáo dục của nó, có một trách nhiệm đặc biệt trong việc phát huy sự tôn trọng gia đình bằng cách nêu ra các ước nguyện và các quyền của gia đình, nêu bật  vẻ đẹp của nó.

 

 Nhân loại là một đại gia đình

 

 6. Để sống trong hoà bình, cộng đồng xã hội được kêu gọi noi theo các giá trị làm nền tảng cho gia đình. Điều này cũng đúng cho những cộng đồng địa phương, cộng đồng quốc gia, và cả cộng đồng quốc tế nữa, bởi vì gia đình nhân loại cùng sống trong ngôi nhà chung là trái đất . Tuy nhiên, ở đây chúng ta không được quên rằng gia đình phát sinh từ lời “ưng thuận” dứt khoát và trách nhiệm của một người nam và một người nữ, và họ tiếp tục sống lời “ưng thuận” bằng cách ý thức về những người con dần dần kết nạp vào gia đình ấy. Để phát triển, cộng đồng gia đình cần có sự đồng lòng quảng đại của mọi phần tử. Ý thức này cũng cần được mọi người xác tín để cùng nhau tạo lập một gia đình nhân loại chung. Chúng ta cũng cần phải nói “ưng thuận” đối với ơn gọi mà Thiên Chúa đã ghi khắc trong chính bản tính của chúng ta. Chúng ta đừng sống hờ hững, coi nhau chỉ như do tình cờ. Tất cả chúng ta đang tiến bước trên một con đường chung như là những con người, và do đó là anh chị em với nhau . Do đó, điều thiết yếu là tất cả chúng ta đều phải dấn thân sống đời sống của mình bằng thái độ trách nhiệm đối với Chúa, nhìn nhận Người là nguồn mạch sâu thẳm của chính sự sống của chúng ta cũng như của người khác. Trở về với Nguyên Lí tối thượng này, chúng ta mới có khả năng đón nhận giá trị tiên quyết của mỗi con người, và mới có thể đặt ra những tiền đề để kiến tạo một nhân lọai sống trong hoà bình. Không có Nền Tảng siêu việt này, xã hội chỉ như một tập hợp những con người sống bên nhau, chứ không phải một cộng đồng anh chị em với nhau, được kêu gọi xây dựng một gia đình nhân loại duy nhất.

 

 Gia đình, cộng đồng nhân loại và môi trường

 

 7. Gia đình cần một mái nhà, một môi trường thích hợp để phát triển các tương quan chính đáng. Đối với gia đình nhân loại, ngôi nhà này chính là trái đất, là môi trường mà Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá đã ban cho chúng ta để cư ngụ với sự sáng tạo và trách nhiệm. Chúng ta cần chăm sóc môi trường đó: nó đã được giao phó cho con người để gìn giữ và bảo vệ trong sự tự do và trách nhiệm, mà việc mưu cầu ích chung cho mọi người luôn được coi như tiêu chuẩn hướng dẫn. Hiển nhiên con người có giá trị cao vượt trên toàn thể thiên nhiên. Bảo vệ môi trường không có nghĩa là coi vật chất và thú vật quan trọng hơn con người. Đúng hơn, điều đó có nghĩa là con người không được ích kỉ coi thiên nhiên là hoàn toàn thuộc quyền sử dụng để phục vụ tư lợi của chính họ, bởi vì các thế hệ tương lai cũng có quyền được hưởng những lợi ích của nó và cũng phải có trách nhiệm đối với thiên nhiên như chính chúng ta đang đòi hỏi. Chúng ta cũng không được bỏ rơi người nghèo, trong nhiều trường hợp bị loại khỏi thiện ích chung mà tài nguyên thiên nhiên dành cho mọi người. Nhân loại hôm nay phải quan tâm đúng mức về sự cân bằng sinh thái cho tương lai. Về vấn đề này, chúng ta cần đưa ra những đánh giá được thực hiện một cách cẩn trọng, trong sự đối thoại với các chuyên gia và những người am hiểu, đừng để những áp lực ý thức hệ tác động mà đưa ra những kết luận hấp tấp, và trên hết là nhằm mục tiêu đạt đến sự đồng thuận về một mô hình phát triển bền vững, bảo đảm an sinh cho mọi người trong khi vẫn tôn trọng sự cân bằng sinh thái. Nếu việc bảo vệ môi trường đòi những giá phải trả thì giá biểu phải được phân ra một cách công bằng, tùy theo mức độ phát triển khác nhau của mỗi quốc gia và nhu cầu liên đới với các thế hệ mai sau. Khôn ngoan không có nghĩa là bỏ mặc trách nhiệm và trì hoãn quyết định; mà có nghĩa là phải dấn thân để đề ra quyết định chung sau khi cứu xét một cách trách nhiệm con đường phải chọn, quyết định phải nhắm để tăng cường sự hài hoà giữa con người và môi trường. Sự hoà hợp ấy sẽ phản chiếu tình yêu của Thiên Chúa sáng tạo, nơi Người chúng ta phát xuất và hướng về Người chúng ta tiến bước.

 

8. Về vấn đề này, chúng ta cần phải “nhận thức” rằng trái đất này là “ngôi nhà chung của chúng ta” và để quản lí cũng như để nó phục vụ tất cả mọi người, chúng ta chọn con đường đối thoại hơn là chọn những quyết định đơn phương. Có thể cần phải thiết lập những cơ quan quốc tế để cùng nhau quản lí “ngôi nhà” của chúng ta; tuy nhiên điều quan trọng hơn là sự cần thiết phải càng ngày càng xác tín hơn về đòi hỏi phải hợp tác một cách trách nhiệm. Những vấn đề đang lộ ra phía chân trời thật phức tạp nhưng lại cấp bách. Để đối phó một cách hữu hiệu với tình thế này, cần phải đồng tâm hiệp lực. Một lĩnh vực cần tăng cường đặc biệt sự đối thoại giữa các quốc gia, đó là sự quản lí những nguồn năng lượng của trái đất. Về vấn đề này, những nước tiến bộ về kĩ thuật đang phải đối phó với hai đòi hỏi thúc bách: một mặt, họ phải định lại mức độ tiêu thụ thái qúa do bởi mô hình phát triển hiện tại, và mặt khác, phải đầu tư thích đáng nguồn năng lượng bằng cách tìm tòi những nguồn năng lượng thay thế mà lại gia tăng hịêu qủa sử dụng hơn. Các nước đang phát triển đều cần nhiều năng lượng, nhưng đôi khi việc thoả mãn nhu cầu này lại gây thiệt hại cho những nước nghèo, do bởi những nước này thiếu hạ tầng cơ sở, bao gồm  hạ tầng cơ sở công nghệ, mà bị bó buộc phải bán rẻ những nguồn năng lượng họ sở hữu. Đôi khi, tự do chính trị của các nước này được thoả hiệp bằng những hình thức bảo hộ, hoặc ít ra bằng đủ loại điều kiện đầy nhục nhã.

 

 Gia đình, cộng đồng nhân loại và kinh tế

 

 9. Một điều kiện thiết yếu để có hoà khí trong mỗi gia đình là gia đình phải được xây trên nền tảng vững chắc của những giá trị thiêng liêng và đạo đức chung. Tuy nhiên cần nói thêm rằng gia đình cảm nhận sự an bình thực sư khi không có ai phải thiếu những gì cần thiết, và khi tài sản của gia đình- thành quả lao động của người này, nguồn tiết kiệm của những người khác, và sự cộng tác tích cực của mọi người- được quản lí tốt trong tinh thần liên đới, không quá chi mà cũng không hoang phí. Sự an lạc trong gia đình còn cần phải hướng mở về gia sản siêu việt của các giá trị, và quan tâm quản trị khôn ngoan của cải vật chất cũng như những mối tương quan liên vị. Lơ là việc này sẽ dẫn đến sự sụp đổ lòng tin tưởng lẫn nhau khi đứng trước sự bất an đang đe doạ nền tảng tương lai gia đình.

 

10. Những suy nghĩ này cũng được áp dụng cho gia đình khác là toàn thể nhân loại. Gia đình nhân loại hôm nay càng ngày càng liên kết với nhau nhờ tiến trình toàn cầu hoá, thì ngoài một nền tảng giá trị chung, cũng cần đến một nền kinh tế khả dĩ đáp ứng một cách hữu hiệu những đòi hỏi phân phối thiện ích chung mang tầm mức toàn cầu. Về vấn đề này, tham khảo một chút với gia đình tự nhiên cũng thật hữu ích. Những tương quan chân thành và thẳng thắn cần phải được đề cao giữa các cá nhân và giữa các dân tộc nhằm tạo cho mọi người biết hợp tác trên căn bản chân thực và bình đẳng. Cần phải thực hiện mọi nỗ lực để bảo đảm việc sử dụng một cách khôn khéo các nguồn tài nguyên cũng như việc phân phối của cải một cách công bằng. Đặc biệt, việc trợ gíup các nước nghèo phải được hướng dẫn bằng những nguyên tắc kinh tế hợp lí, tránh những hình thức lẵng phí ràng buộc vào việc duy trì những thủ tục quá rườm rà tốn kém. Rất cần phải đặt ra những đòi hỏi luân lí nhằm bảo đảm rằng nền  kinh tế không chỉ được điều hành bởi những luật lệ tàn nhẫn nhắm lợi nhuận trước mắt, nhưng lại tỏ ra vô nhân đạo.

 

 Gia đình, cộng đồng nhân loại và luật luân lí

 

 11. Một gia đình sẽ sống an lạc nếu mọi người thuận theo một chuẩn mực chung : điều này ngăn chặn tư tính và nối kết các cá nhân lại với nhau, nuôi dưỡng cuộc sống chung hài hoà, để tạo ra những định hướng chung cho công vịêc. Nguyên tắc này hẳn nhiên cũng đúng cho những cộng đồng rộng lớn hơn : từ các cộng đồng địa phương cho đến các cộng đồng quốc gia và quốc tế. Để có hoà bình, cần phải có một luật chung để phát triển tự do đích thực chứ không phải để tự tung tự tác, cũng như để bảo vệ kẻ yếu khỏi bị kẻ mạnh thế đàn áp. Trong gia đình các dân tộc, người ta nhận ra rất nhiều đường lối độc đoán, cả trong từng Quốc Gia và trong những quan hệ liên Quốc Gia. Trong nhiều hoàn cảnh, các nước yếu kém không quy phục mệnh lệnh của công lí mà lại thuận theo quyền lực duy nhất của những nước mạnh thế hơn mình. Cần phải nhắc lại rằng: sức mạnh phải luôn được luật lệ quy định, và điều này cũng áp dụng cho những quan hệ giữa các cường quốc.

 

12. Nhiều lần Giáo Hội đã lên tiếng về bản chất và chức năng của luật pháp: đó là quy luật pháp lí giúp điều chỉnh những mối tương quan giữa các cá nhân, quy định các hành vi bên ngoài, và đăt định những khung hình phạt cho những người vi phạm, nó lấy luật luân lí đã in sâu vào bản tính sự vật làm tiêu chuẩn. Lí trí con người có thể nhận biết luật luân lí này ở mức thông thường nhất, trong phạm vi những đòi hỏi cơ bản, và từ đó có thể vươn cao lên tới trí năng của Thiên Chúa tạo thành là cội nguồn của mọi sự vật. Luật luân lí phải điều khiển các quyết định của lương tâm và hướng dẫn mọi hành vi nhân linh. Có phải các quy luật pháp lí tồn tại là vì các mối quan hệ quốc gia làm nên gia đình nhân loại? Và nếu hiện hữu, nó có hoạt động không? Câu trả lời là có, các quy luật như vậy vẫn tồn tại, nhưng để bảo đảm rằng nó thật sự hoạt động thì cần phải trở về với luật luân lí tự nhiên làm nền tảng cho luật pháp định ; nếu không, luật pháp định cứ còn mãi tùy thuộc vào những thoả thuận mong manh và chóng qua.

 

13. Nhận biết luật luân lí tự nhiên không phải không thể đạt thông đối với những ai cố gắng tìm hiểu trật tự nội tại của các khuynh hướng sâu thẳm nhất nơi hữu thể của họ khi họ suy nghĩ về chính bản thân và vận mệnh của mình. Dẫu có những do dự và ngờ vực, họ vẫn có thể khám phá ra luật luân lí phổ quát này, ít nhất là trong những đường nét chính yếu, mà vượt trên mọi khác biệt về văn hoá, nó giúp con người đến hiểu nhau liên quan đến những lãnh vực quan trọng nhất về thiện và ác, về công bằng và bất công. Nhất thiết phải trở về với luật nền tảng này và nỗ lực dành mọi năng lực tư duy tinh từơng nhất cho cuộc tìm kiếm đó, và đừng thất vọng nản chí vì những lầm lẫn hoặc sơ sót. Những giá trị cắm rễ nơi luật tự nhiên, dù rời rạc và không luôn luôn chắc chắn, vẫn hiện thực trong các hiệp định quốc tế, trong những hình thức quyền bính được mọi người nhìn nhận, trong những nguyên tắc về luật nhân đạo tháp nhập vào pháp chế của mỗi Quốc Gia hoặc những đạo luật thuộc các cơ quan quốc tế. Nhân loại bất vi “vô luật”. Do vậy, duy trì đối thoại về những vấn đề trọng đại này thật là cấp bách, đồng thời cần cổ vũ pháp chế của từng quốc gia để nó nhìn nhận các quyền căn bản của con người. Phát triển một nền văn hoá pháp lí toàn cầu, do vậy, tuỳ thuộc ở sự dấn thân liên tục để tăng cường nội dung công pháp quốc tế mang tính nhân bản sâu xa, nếu muốn tránh cho nó không bị thu giản vào những thủ tục dễ bị nhào nắn bởi những lí do ích kỉ và ý thức hệ.

 

 Loại bỏ xung đột và giải trừ vũ khí

 

 14. Bất hạnh thay, nhân loại hôm nay đang sống trong sự phân hoá nghiêm trọng, và những cuộc xung đột dai dẳng đang phủ một bóng tối dày đặc trước tương lai của họ. Những miền rộng lớn trên thế giới bị đẩy vào những tình thế gây nên những căng thẳng liên tục, trong khi hiểm hoạ của sự gia tăng con số các quốc gia sở hữu các vũ khí hạt nhân làm cho tất cả những người hữu trách đều hết sức quan ngại. Nhiều cuộc chiến tranh dân sự vẫn còn đang bùng nổ tại châu Phi, dù một số các quốc gia tại đó đã đạt được những tiến bộ trên con đường đi đến tự do và dân chủ. Miền Trung Đông vẫn còn là một sân khấu của xung đột và bạo lực, làm ảnh hưởng đến những vùng và những nước lân cận, tạo nguy cơ cuốn hút các nước này rơi vào vòng xoáy bạo lực. Trên phạm vi rộng hơn, chúng ta phải day dứt nhìn nhận sự gia tăng con số các quốc gia lao vào cuộc chạy đua vũ trang: ngay cả một số quốc gia đang phát triển cũng dành ra những khoản tiền lớn trong sản phẩm quốc dân ít ỏi của họ để mua các vũ khí. Trách nhiệm đối với cuộc kinh doanh đen tối này không có giới hạn: các quốc gia thuộc về thế giới kĩ nghệ phát triển được hưởng lợi nhuận lớn lao từ việc bán vũ khí, trong khi tập đoàn lãnh đạo tại nhiều quốc gia nghèo lại muốn củng cố vị trí của họ bằng việc thủ đắc các vũ khí ngày càng tối tân hơn. Trong thời điểm nguy nan như hiện nay, mọi người thành tâm thiện chí nhất định phải ngồi lại với nhau để đạt đến những thoả thuận cụ thể nhằm giải trừ quân bị một cách hữu hiệu, nhất là trong khu vực vũ khí hạt nhân. Trong khi tiến trình thảo luận về việc không làm giàu hạt nhân vẫn bế tắc, tôi cảm thấy bó buộc phải hối thúc các nhà chức trách quyết tâm nối lại các cuộc đàm phán nhằm từng bước thoả thuận tháo gỡ tất cả các vũ khí hạt nhân hiện có . Nhắc lại lời kêu gọi này, tôi biết mình đang nói lên niềm khao khát của tất cả mọi người quan tâm đến tương lai của nhân loại.

 

1. Sáu mươi năm trước Liên Hợp Quốc đã long trọng công bố Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (1948- 2008). Với tài liệu đó gia đình nhân loại đã phản kháng những nỗi kinh hoàng của Cuộc Chiến Tranh Thế Giới lần thứ hai bằng việc nhận thức sự hiệp nhất của mình đặt nền tảng trên phẩm giá bình đẳng của mọi người và dành sự tôn trọng các quyền căn bản của các cá nhân cũng như của các dân tộc làm trọng tâm cho sự chung sống giữa con người. Đây là một bước quyết định trên hành trình khó khăn và thử thách hướng đến sự hoà hợp và hoà bình. Năm nay đánh dấu ngày kỉ niệm lần thứ hai mươi lăm Toà Thánh chuẩn thuận Hiến Chương Các Quyền Gia Đình (1938- 2008) và là dịp kỉ niệm bốn mươi năm cử hành Ngày Thế Giới Hoà Bình lần đầu tiên (1968- 2008). Phát xuất từ trực cảm được quan phòng của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI  và được duy trì thực hiện với niềm xác tín mạnh mẽ bởi đấng tiền nhiệm đáng kính của tôi, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, việc  cử hành Ngày Thế Giới Hoà Bình này trong những năm qua giúp Giáo Hội trình bày, qua các Sứ Điệp, một nội dung giáo thuyết sáng tỏ liên quan đến điều thiện hảo nền tảng của con người. Dưới ánh sáng của những ngày kỉ niệm đầy ý nghĩa này, tôi mời gọi tất cả  mọi người, nam cũng như nữ cùng nhận thức sống động hơn mình thuộc về một gia đình nhân loại duy nhất, và nỗ lực tạo cho cuộc sống chung đó thể hiện hơn nữa niềm xác tín này, bởi vì đó là nền tảng cho sự thiết lập một nền hoà bình đích thực và lâu dài. Tôi cũng mời gọi các tín hữu tha thiết cầu xin Thiên Chúa ban hồng ân hoà bình. Về phần các Kitô hữu, họ biết mình có thể tín thác vào sự chuyển cầu của Mẹ Maria, Đấng vừa là Mẹ của Con Chúa nhập thể cứu chuộc nhân loại vừa là Mẹ của tất cả chúng ta.

 

Tôi xin gửi đến tất cả mọi người lời cầu chúc Năm Mới tốt đẹp nhất!

 

 Từ Vatican, ngày 8 tháng Mười Hai, 2008

 

 BENEDICTUS PP. XVI

 

(1) Tuyên Ngôn  Nostra Aetate , 1.

(2) x. Công Đồng Vaticanô II,

Mục lục

 

 

Lễ cung hiến nhà thờ mới Thiện Lâm và kỉ niệm 25 năm thành lập giáo xứ

Sáng thứ sáu 14.12, Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Giám mục Giáo phận Đà Lạt đã chủ sự thánh lễ cung hiến và khánh thành nhà thờ giáo xứ Thiện Lâm. Nhà thờ Giáo xứ Thiện Lâm tọa lạc trên đường Nguyên Tử Lực, Đa Thiện (trên đường từ Vườn hoa Đà Lạt vào Thung Lũng tình yêu).

Cách đây 32 năm Đức cha Batôlômêô Nguyễn Sơn Lâm đã thành lập giáo xứ Thiện Lâm trên cơ sở tách từ giáo xứ Đa Thiện và bổ nhiệm Cha Giuse Trần Minh Tiến làm quản xứ từ đó đến nay. Tên gọi Thiện Lâm được ghép bởi từ Đa Thiện và Nguyễn Sơn Lâm để ghi nhớ công ơn người sáng lập.

Hàng chục năm qua, bà con giáo dân sinh họat phụng tự trong ngôi nhà nguyện nhỏ, đơn sơ, nhưng số giáo dân ngày càng tăng, cùng với anh chị em di dân đến tá túc mưu sinh tại Đa Thiện, Thiện Lâm ngày càng đông, chưa kể khá đông sinh viên Đại học Đà Lạt thường xuyên đến dự lễ, mặt khác Thiện Lâm là “đất lành chim đậu” thường xuyên có các hội đòan đến nghỉ dưỡng, tĩnh tâm… thấy được nhu cầu đó cha quản xứ và bà con giáo dân đã thao thức rồi đi đến quyết tâm xây dựng ngôi nhà thờ mới rộng lớn hơn khang trang hơn.Trong thánh lễ Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn đã chia vui với giáo xứ và nhắc nhở: ” Anh chị em đã đòan kết bên nhau để làm nên ngôi nhà thờ khang trang rộng lớn này. Anh chị em hãy đón nhận nhà thờ mới, hãy siêng năng đến nhà thờ gặp gỡ Chúa, đón nhận Lời Ngài. Bời vì ai có tâm hồn ngay chính, thiện chí đó chính là đền thờ Chúa ngự”.


Nhà thờ Thiện Lâm có diện tích 900m2 (đủ chỗ cho 1000 người), được thiết kế dựa trên ý tưởng hội nhập văn hóa, sự hòa hợp Đông-Tây, đồng thời mang dấu ấn văn hóa của miền đất cao nguyên, hai mái nhà thờ ngụ ý 2 ngọn núi LangBian hùng vĩ. Đặc biệt nhà thờ có tháp chuông 9 tầng ( cao 38m), theo Cha quản xứ: 9 tầng thể hiện “cửu trùng” trong Kinh thánh và quan niệm Đông phương; các tháp thiết kế ô vuông tròn biểu tượng của bánh chưng- bánh dày; mái đón ở sảnh theo kiến trúc Á Đông. Đứng trên tháp cao sẽ nhìn thấy tòan cảnh thành phố du lịch xinh đẹp. Từ nay Thiện Lâm có thêm điều kiện và sẵn sàng mở rộng vòng tay tiếp đón các đòan du khách hành hương và làm công tác tông đồ, từ thiện xã hội.

LỊCH SỬ GIÁO XỨ THIỆN LÂM

Giáo xứ Thiện Lâm nằm ở khu vực chung quanh trung tâm Nguyên Tử dalat. Ðầu tiên, giáo xứ này chỉ là một giáo họ mang tên Thánh Tâm, Ðathiện 2, trực thuộc xứ Thánh Mẫu, thời cha Mạnh Trọng Bích. Giáo dân của giáo họ Thánh Tâm thời đó là một nhóm người Ðức Ninh, họ lẻ của giáo xứ Ngọc Ðồng, địa phận Thái Bình, Bắc Việt, vì công vụ hay di dân, đã đưa nhau đến ấp Ða Thiện Ðalạt, Lam viên, để lập nghiệp chuyên nghề trồng rau, ngoài ra, cũng có một nhóm người gốc huế mới theo đạo, gốc địa phận Hanội nữa.

Trong thời gian còn thuộc về xứ Thánh Mẫu, vì đường xá xa xôi, giáo dân Thánh Tâm thường đi lễ ở nhà thờ Hà Ðông cho đỡ xa. Ðến khi tách khỏi xứ Thánh Mẫu và thuộc xứ ÐaThiện, họ vẫn có khuynh hướng đi lễ ở nhà nguyện viện Ðại học, hoặc Don Bosco hay nhà thờ Chính Toà vì việc đi lại gần hơn hoặc tiện hơn. Tuy thế, với tư cách là phần tử xứ ÐaThiện, họ vẫn gắn bó với xứ mẹ của mình: họ tích cực trong việc xây cất nhà thờ mới ÐaThiện tham gia mọi sinh hoạt của giáo xứ và bỏ tiền xây đài đặt tượng Ðức Mẹ ở đồi nghĩa trang Ða Thiện ( nay là hồ thuỷ lợi con rồng, thung lũng tình yêu)

Năm 1970, giáo dân đã khai hoang một đồi đất rộng hơn 8500m2 để xây dựng một ngôi nhà nguyện nhỏ rộng 8m dài 20m và theo ý Ðức cha Nguyễn văn Hiền nên hướng tới việc xây thêm một trường Tiểu học sau này, có lẽ Ðức cha cũng đã thấy được tiềm năng phát triển ở vùng đất này trong tương lai.

Từ năm 1972, với tính cách là giáo họ của giáo xứ Ða Thiện, cha xứ Ða Thiện là cha Benado Nguyễn Tiến Huân sau đó là cha Giuse Nguyễn Thanh Long đều đến dâng lễ mỗi chiều chúa nhật, còn lể hằng ngày thì do cha Giuse Maria Nguyễn văn Hoạt dòng Biển Ðức Thiên An Huế đảm nhận. Cũng trong năm 1972 để có sự phong phú về mặt giáo hội giáo dân đã nhường 2000m2 đất cho tu viện Biển Ðức với ý định xây một học viện, bù lại cha Nguyễn văn Hoạt cũng xây cho nhà thờ 2 phòng nhà xứ cho các nữ tu Ða Minh Lạc Lâm ở lại trông coi nhà thờ. Sau năm 1975, dòng Biển Ðức lại nhường lại cho dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn và từ đó đến nay một chi nhánh của cộng đoàn Mến Thánh Giá Qui nhơn cũng hiện diện tới nay

Ngày 25 tháng 5 năm 1975 Ðức giám mục Batolômeô Nguyễn Sơn Lâm quyết định nâng giáo họ này lên hàng giáo xứ và bổ nhiệm cha Giuse Trần Minh Tiến làm cha quản xứ. Ngày 31-5-1975 cha tổng đại diện Phêrô Nguyễn Văn Nhơn đã đưa cha Tiến về nhận xứ có sự tham dự của cha Nguyễn văn Hân và Ðinh Viết Hoàng, giáo xứ mang tên Thiện Lâm

Sau 25 năm, giáo dân giáo xứ đã ý thức trách nhiệm đóng góp vật chất để xây dựng giáo xứ. Về mặt thiêng liêng: tinh thần hy sinh về việc chung được lan rộng, các sinh hoạt đoàn thể, tổ nhóm theo khu vực được ý thức chặt chẽ; số giáo dân tăng dần, giáo dân từ nơi khác về cũng tăng, đặc biệt mối quan hệ với bà con lương dân và chính quyền các cấp rất tốt đẹp, tạo được uy tín cao.

Từ một khu đồi trọc lúc đầu, xuất hiện một ngôi nhà nguyện, của một nhómgiáo dân. Giờ đây đã hình thành một cộng đoàn dân chúa có khuôn viên nhà xứ đẹp, rộng rãi thoáng mát, có nhiều cảnh quan cây xanh.

Hôm nay, nhân ngày Ðức cha Phêrô, Giám mục địa phận ban bí tích thêm sức, cũng là ngày giáo xứ tổ chức lễ tạ ơn 25 năm, tất cả đã hiệp thông cầu nguyện cho cộng đoàn giáo xứ Thiện Lâm được tiếp tục phát triển trong tinh thần hiệp nhất thương yêu, xứng đáng là một cộng đoàn nhân chứng của chúa Kitô.

Lm. Trần Minh Tiến

Mục lục

 

 

Cần hết sức quan tâm đến việc “đào tạo” và tạo điều kiện để mỗi người “tham gia” theo chức năng.

 

Phỏng vấn Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn

 

Nhân dịp Giáo phận Đà Lạt kết thúc Năm thánh kỷ niệm 80 năm truyền giáo cho người dân tộc, Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Giám mục giáo phận Đà Lạt, đã dành cho báo Công Giáo Và Dân Tộc cuộc phỏng vấn về việc sống Năm thánh của giáo phận Đà Lạt. Cũng nhân dịp này, trong tư cách là Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, ngài cũng chia sẻ những khắc khoải về tương lai Giáo hội Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam (1960-2010)

 

CG&DT: Thưa Đức cha, giáo phận Đà Lạt đã trải qua thời gian sống Năm Thánh kỷ niệm 80 năm truyền giáo cho người dân tộc, xin Đức cha cho biết đôi điều về nhịp sống của giáo phận Đà Lạt trong thời gian qua?

 

Đức Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn: Nhân dịp kỷ niệm biến cố người dân tộc bản địa đầu tiên được vị thừa sai Gioan Cassaigne ban Bí tích rửa tội vào ngày áp lễ Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội 07/12/1927, Giáo phận đã cử hành Năm Thánh từ ngày 29/10/2006 đến 08/12/2007. Đây thực sự là thời gian hồng phúc cho Giáo phận. Chúng tôi đã hình thành thêm được những ngày truyền thống: cho anh chị em dân tộc vào chúa nhật cuối tháng 10, nghĩa là ngay sau ngày Thế giới Truyền giáo hằng năm. Vào ngày đầu tháng 12 vừa qua, chúng tôi cũng đã tổ chức được ngày hành hương cho các bạn trẻ với trên 3.500 bạn tham dự.

 

Chúng tôi tạ ơn Chúa, vì vào đúng ngày kỷ niệm 80 năm người phụ nữ bản địa đầu tiên được trở nên con cái Chúa, cũng là ngày áp lễ bế mạc Năm Thánh truyền giáo, Giáo Phận đã hân hoan cử hành lễ đặt viên đá đầu tiên khởi công xây dựng một ngôi thánh đường mới dâng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm, ở xã Đạ-Tông thuộc huyện Đam-Rông, để phục vụ 7.000 tín hữu sắc tộc Kơho và Mnông. Thánh lễ được đông đảo các thành phần dân Chúa trong Giáo Phận tham dự, với trên 100 linh mục đồng tế và 10.000 giáo dân sắc tộc tham dự. Mọi người đều nhận ra tình Chúa luôn yêu thương con cái Ngài. Chắc chắn đây là một biến cố ghi đậm nét trong lịch sử Giáo Phận.

 

Tôi cũng nói thêm là trong năm kỷ niệm này, Giáo phận đã tổ chức tuần thường huấn cho các linh mục triều và dòng với chủ đề “Yêu thương và phục vụ” nhằm tìm hiểu đôi nét về phong tục tập quán, xã hội và văn hóa của người Kơho và Churu, để nhờ việc hiểu biết con người và những gì làm nên cuộc sống của những anh em này, các linh mục sẽ dấn thân phục vụ những anh em này tốt hơn, bởi vì có một câu của Đức cố Giáo hoàng Gioan-Phaolô II nói làm chúng tôi phải ngẫm nghĩ: “Con người là con đường của Giáo Hội” (Thông điệp Đấng Cứu Chuộc Con Người, s. 14).

 

CG&DT: Một cách riêng, đặc biệt hướng tới anh chị em bản địa, giáo phận Đà Lạt đã đề ra quyết tâm: xây dựng ngôi thánh đường Đạ Tông để ghi nhớ dịp kỷ niệm 80 năm truyền giáo, hoàn thành bản dịch Sách lễ Rôma theo ngôn ngữ Kơho, bảo tồn gia sản văn hóa của anh chị em nơi thi ca và truyền thống... Công việc này đã đến đâu?

 

Đức Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn: Những nỗ lực của Giáo Phận chuẩn bị và thực hiện nhân biến cố Năm Thánh mừng 80 năm truyền giáo cho anh chị em dân tộc bản địa thực là nhiều, và tạ ơn Chúa, đang từng bước đạt được kết quả. Thực vậy, cụ thể chúng tôi đã quyết tâm phục vụ anh chị em về các mặt khác nhau của đời sống: trước hết là bảo tồn gia sản văn hóa của anh chị em bản địa, đặc biệt trong sắc tộc Kơho và Churu, qua việc xây dựng phòng truyền thống và sưu tầm các bản văn ca dao, tục ngữ... ; thứ đến là giúp anh chị em làm phong phú ngôn ngữ của mình, đặc biệt là kiện toàn lời kinh tiếng hát và hoàn thành việc dịch thuật các sách phụng vụ; cuối cùng là giúp thăng tiến đời sống của anh chị em, qua việc chăm sóc sức khỏe, khuyến học...

 

Tôi đặc biệt đề cập đến việc phiên dịch sách phụng vụ. Ngay sau Công Đồng Vatican II, Hội Thánh cho phép sử dụng ngôn ngữ địa phương trong phụng vụ thì Giáo Phận Đàlạt đã được phép dùng một phần thường lễ trong ngôn ngữ Kơho vào năm 1966. Rồi khi Sách Lễ Rôma phát hành ấn bản mẫu thứ ba vào năm 2002, chúng tôi đã tiếp tục công việc dịch thuật theo các chỉ dẫn của Tòa Thánh, rồi từng bước thực hiện theo các trình tự: trình Hội Đồng Giám Mục chấp thuận, rồi đệ trình Tòa Thánh xin phê chuẩn. Vào đầu năm 2005, Bộ Phụng Tự và Kỷ luật bí tích đã ban Sắc lệnh phê chuẩn “Nghi thức thánh lê”, ngày 08/11/2005 Sắc lệnh phê chuẩn phần II gồm các lời nguyện cho các mùa Phụng vụ và lễ riêng các Thánh. Chúng tôi đang chờ Sắc lệnh phê chuẩn phần còn lại. Như vậy hy vọng vào cuối năm 2008, Giáo Phận Đàlạt sẽ có thể phát hành Sách Lễ Rôma cho ngôn ngữ Kơho cho khoảng 70.000 người Kơho. Chúng tôi cũng đã được Hội Đồng Giám Mục phê chuẩn bản dịch 4 sách Tin Mừng. Sắp tới chúng tôi còn phải hoàn thành Sách Bài Đọc và các Nghi thức bí tích.

 

CG&DT: Trong thư Mục vụ mùa Vọng 2007, Đức cha nói “khi Năm Thánh đã gần kết thúc, cả Gia Đình thân yêu chúng ta lại hướng tới dịp kỷ niệm Kim Khánh Giáo Phận” (vào năm 2010), hẳn giáo phận sẽ tiếp tục sống tinh thần của Năm Thánh 80 năm Truyền Giáo Cho Người Dân Tộc, hoặc là mang một sắc thái mới hòa cùng việc kỷ niệm 50 năm thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam?

 

Đức Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn: Năm 2010 vừa là Kim Khánh thành lập Giáo Phận, vừa là Kim Khánh thiết lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam, vì thế Giáo Phận trong khi nghĩ đến mình thì vẫn hướng về Giáo Hội Việt Nam. Công cuộc truyền giáo là chính sự sống của Giáo Hội, vì thế khi Giáo Phận nỗ lực truyền giáo thì đã làm một phần truyền giáo của Giáo Hội Việt Nam.

 

Giáo Phận cũng rất quan tâm đến những nỗ lực mà Giáo Hội Việt Nam đang thực hiện, vì biết rằng mình cũng là một bộ phận trong Thân Thể sống động là Giáo Hội Việt Nam. Khi đón nhận và thực hiện những sáng kiến mà rồi đây cả 26 Giáo Phận cùng góp phần xây dựng, Giáo Phận cương quyết đồng hành trong nỗ lực “nói về Chúa Giêsu Kitô cho người Việt Nam” như định hướng của Đại Hội Truyền Giáo Á Châu lần I tại Chiang-Mai 2006, làm sáng tỏ hình ảnh Hội Thánh là “Bí tích, nghĩa là dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hợp nhất toàn thể nhân loại” như Công Đồng Vaticanô II đề ra (x. GH 1).

 

CG&DT: Nhân nói tới việc kỷ niệm 50 năm thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam, Đức cha có thể giải thích cho độc giả CG&DT hiểu rõ hơn về sự khác biệt giữa Công Nghị và Công Đồng. Và khi nào Giáo hội địa phương cần triệu tập Công Nghị và để đáp ứng điều gì?

 

Đức Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn: Trong thời gian vừa qua, trên các trang thông tin công giáo, nhiều người được biết : trong Đại Hội lần thứ X vào tháng 10 vừa qua, “các giám mục còn lập Uỷ ban chuẩn bị mừng 50 thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam vào năm 2010 (24/11/1960). Trong 3 năm tới, Uỷ ban do Đức Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn đứng đầu sẽ tổ chức các hội thảo và triển lãm về các hoạt động của Giáo Hội trong 50 năm qua kể từ khi Hàng Giáo Phẩm được thành lập năm 1960. Uỷ ban cũng sẽ tổ chức một Công Đồng để nhìn lại 50 năm qua và đề ra các định hướng mục vụ cho Giáo hội địa phương trong thời gian tới”.

 

Khi nói đến Công Đồng (Concilium) hay Công Nghị (Synodus) còn gọi là thượng hội đồng là nói đến cuộc hội nghị của các Giám mục để cùng nhau giải quyết các vấn đề chung. Có một khác biệt ở chỗ Công Đồng có quyền biểu quyết, còn Công Nghị hay Thượng hội đồng chỉ mang tính tư vấn. Đây là một sinh hoạt đã có từ rất lâu trong Giáo Hội.

 

Giáo Luật 1983 đề cập đến hai hình thức: Công Đồng Chung liên hệ đến toàn thể Giáo Hội, ví dụ gần đây nhất là Công Đồng Chung Vaticanô II (1962-1965) ; và Công Đồng miền hay Công Đồng giáo tỉnh liên hệ đến các Giáo Hội địa phương. Hình thức sau (Công Đồng miền) nay đã trở nên họa hiếm. Tuy nhiên, liên hệ đến lịch sử Giáo Hội Việt Nam, từ khi có hai Địa phận Đại diện Tông Tòa Đàng Trong và Đàng Ngoài năm 1659, thấy có ghi lại các Công đồng địa phương theo thứ tự thời gian : 1665 Juthia (Thái Lan) chung cho các giáo đoàn Trung Hoa, Việt Nam, Thái Lan ; 1670 tại Dinh Hiến (Đàng Ngoài) ; 1672 tại Hội An (Đàng Trong) ; 1900 Kẻ Sặt (toàn Bắc Kỳ) ; 1912 Kẻ Sở (toàn Bắc Kỳ lần II) ; 1934 Hà Nội (toàn Đông Dương).

 

Giáo Luật cũng đề cập đến Thượng Hội Đồng, một cách đặc biệt rõ nét từ Tự sắc Apostolica Sollicitudo của Đức Phaolô VI thiết lập ngày 15/9/1965 mà hiện nay chúng ta đã thấy trở nên quen thuộc: hoặc là Thượng Hội Đồng khóa thông thường, hoặc là khóa ngoại thường khi có nhu cầu đặc biệt, hoặc là khóa Thượng Hội Đồng đặc biệt liên hệ trực tiếp đến một miền đất nhất định như châu lục hay quốc gia.

 

Trở lại với quyết định của Giáo Hội Việt Nam hướng tới năm 2010, các Giám mục đã ủy thác cho Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn đứng đầu Ủy ban tổ chức các hội thảo và triển lãm, đồng thời tổ chức một Công Đồng. Nay, vào ngày 30/11 vừa qua, Đức Hồng Y đã cho phổ biến “ĐỀ ÁN : CỘNG ĐỒNG DÂN CHÚA VIỆT NAM CỬ HÀNH NĂM THÁNH 2010”, để "1/ nhìn lại quãng đường lịch sử gần 500 năm truyền giáo qua ba thời kỳ...; 2/ nhìn lại đặc biệt thời kỳ 50 năm chính tòa và thẩm định đời sống yêu thương và phục vụ của Giáo Hội trong chức vụ ngôn sứ, tư tế, mục tử hôm nay ; 3/ đồng thời cũng nhìn tới tương lai trong bối cảnh văn hóa xã hội đang thay đổi của những thập niên đầu thiên niên kỷ III". Với những mục tiêu như trên, có lẽ một tổ chức gọn nhẹ sẽ rất phù hợp hơn, dựa trên sáng kiến và kinh nghiệm của các Giáo Phận. Xem ra Đức Hồng y Gioan Baotixta cũng chọn lựa phương hướng này khi Ngài chia sẻ với chúng ta: “Sau ba lần hội ý với nhóm Tư Vấn tại Giáo Phận và nhóm Tư Vấn tại Roma, nay tôi thấy việc Cộng Đồng Dân Chúa Việt Nam cử hành Năm Thánh 2010, trong đó có Đại Hội Dân Chúa Việt Nam thì tiện lợi và đem lại nhiều ơn ích hơn là tổ chức Công Đồng như đã dự kiến”.

 

CG&DT: ĐHY G.B. Phạm Minh Mẫn đã được HĐGMVN giao phó nhiệm vụ tổ chức Công Nghị, nhưng về phần Đức cha, trong cương vị Chủ tịch HĐGMVN, Đức cha sẽ góp phần như thế nào?

 

Đức Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn: Đại Hội X của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã tín nhiệm trao cho Đức Hồng Y Gioan Baotixita nhiệm vụ tổ chức Công Nghị. Tuy nhiên, tất cả các giám mục và từng giám mục đều phải nỗ lực góp phần để cộng tác. Và Đức Hồng Y Gioan Baotixita sẽ thi hành nhiệm vụ của mình trong việc lắng nghe các ý kiến của các giám mục để vạch ra đường lối, phương hướng và tổ chức cho phù hợp. Như thế tất cả chúng tôi sẽ cùng làm việc chung với nhau và cố gắng hoàn thành cách tốt nhất công việc đã được trao phó.

 

CG&DT: Hàng Giáo phẩm Việt Nam sẽ kỷ niệm 50 năm thành lập vào năm 2010, xin Đức cha chia sẻ những cảm nhận của mình về giai đoạn này?

 

Đức Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn: Chúng tôi rất náo nức hướng về biến cố trọng đại đó. Trước hết đây là hồng ân lớn lao Chúa ban cho Giáo Hội Việt Nam, nên chúng tôi cần phải đón nhận cách xứng đáng. Và sau đó, chúng tôi cũng rất ý thức còn nhiều vấn đề phải được đem ra trao đổi để sửa chữa, canh tân, kiện toàn... Trong niềm tin vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa, chúng tôi sẽ biết cầu nguyện, lắng nghe, chia sẻ... để có thể đón nhận được ý muốn của Chúa và đem ra thi hành.

 

CG&DT: Đức cha mường tượng như thế nào về nhu cầu mục vụ của GHCGVN trong giai đoạn tới?

 

Đức Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn: Nhu cầu mục vụ của Giáo Hội Việt Nam, cũng như mọi nơi, luôn có nhiều và cụ thể trong từng thời kỳ. Nhưng với 50 năm hình thành và sinh hoạt, lẽ dĩ nhiên mọi người đều mong ước được trông thấy sự trưởng thành của Giáo Hội Việt Nam. Nhưng thế nào là trưởng thành? – Theo thiển ý của tôi, đó phải là một Giáo Hội như lòng Chúa mong ước khi Ngài thiết lập từ thuở ban đầu. Tôi đặc biệt ưu tư ở những điểm sau đây :

-Trên hết mọi sự, phải là một Giáo Hội “thánh thiện” như chúng ta vẫn xưng mình là “Hội Thánh” (x. Ep 5,27) ;

-Để là thánh thiện thì phải “hiệp thông” như Chúa dạy : “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20) ;

-Để được hiệp thông thì phải sống “hiền lành và khiêm nhường” như Chúa Giêsu đã dạy bảo khi Ngài ở giữa các môn đệ : “Hãy học với tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29) vì chúng ta được gọi và sai đi như những sứ giả của hòa bình (x. Lc 10,5) để có thể “phục vụ” như Thầy của chúng ta:“Vì Con Người đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ” (Mt 20,28).

Giáo hội Công giáo Việt Nam trong giai đoạn sắp tới nỗ lực phát triển trên nền tảng đã được xây dựng gần 500 năm qua, kể từ khi Tổ tiên đón nhận Phúc âm của Chúa và đã dùng máu đào để làm chứng cho Đức Tin Công giáo và đặc biệt 50 năm qua với hàng Giáo phẩm Việt Nam, cách riêng kể từ ngày Hàng Giáo phẩm Việt Nam được gặp nhau trong Đại Hội các Giám Mục Việt Nam năm 1980 .

Để có được một Giáo Hội, một Giáo Phận, một giáo xứ, một cộng đoàn, một gia đình như thế, cần hết sức quan tâm đến việc “đào tạo” và tạo điều kiện để mỗi người “tham gia” theo chức năng của mình (một Giáo Hội – tham gia).

Chúng ta đang sống trong những ngày mùa Vọng, hãy chiêm ngưỡng Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người để yêu thương cứu chuộc nhân loại bằng con đường thập giá, cũng là ơn gọi của mỗi người chúng ta.

 

CGvDT: Xin chân thành cám ơn Đức cha về cuộc phỏng vấn này.

 

Phạm Ngọc - Quốc Trung, thực hiện

 

Trích báo Công Giáo Và Dân Tộc

số 1637-1638, tuần lễ từ 21/12 đến 27/12/2007

Mục lục

 

 

22-12 : Lễ Hội Giáng Sinh người có hoàn cảnh Đặc biệt

 

THƯ MỜI

Lễ Hội Giáng Sinh của Người Có Hoàn Cảnh Đặc Biệt ra đời năm 2001 và mỗi năm số người tham dự tăng cao hơn. Năm nay, với sự cộng tác của các Mái Ấm, các Trung tâm Khuyết tật, các Ca sĩ và các Mạnh Thường Quân, Nhóm Đức Tin & Văn Hoá tiếp tục tổ chức Lễ Hội này để đem niềm vui Giáng Sinh đến những người Khuyết tật, Khiếm thính, Khiếm thị, Trẻ em Đường phố, Mồ côi, Bệnh nhân Phong, Người có HIV/AIDS.

Chương trình Lễ Hội gồm có:

Tổ chức các gian hàng giới thiệu và bán sản phẩm, do chính những Người Có Hoàn Cảnh Đặc Biệt thực hiện (từ 14g đến 21g).

Tổ chức các trò chơi có thưởng dành cho Các Em có Hoàn cảnh Đặc biệt (từ 15g đến 17giờ00).

Tặng quà cho người Có Hoàn Cảnh Đặc Biệt.

Văn Nghệ Mừng Chúa Giáng Sinh do các Ca sĩ và Người Có Hoàn Cảnh Đặc Biệt trình diễn (từ 17g đến 20g15).

Đưa đón các em (ước tính khoảng 3000 em).

Thời gian và địa điểm:

- Từ 14g00 đến 21g00, ngày 22 – 12 – 2007

- Trung Tâm Mục Vụ, Số 6 bis Tôn Đức Thắng, Q.1, Tp.HCM.


Ủng hộ tài chánh cho Lễ Hội, xin gởi vào Tài khoản:

Phòng khám Mai Khôi, số tài khoản : 4211.90.00.S0.02570ABBANK,

78-80 CM Tháng Tám, Q.3, Tp.HCM.

Hoặc trao trực tiếp tại:

Văn phòng của Nhóm Đức tin & Văn hóa:

Cô Kim Dung, 44 Tú Xương, Quận 3, Tp. HCM (đt: 08-9322637)

hay Lm Nguyễn Thái Hợp (đt: 0918456754).

Để biết thêm thông tin, xin vào:

www.vongtrondongtam.com

Trân trọng kính mời Quý Vị và Quý Bạn đến tham dự Lễ Hội Giáng Sinh để khích lệ tinh thần và yểm trợ những “Người Có Hoàn Cảnh Đặc Biệt”.

Vào cửa tự do.

TM. Ban Tổ chức

Ô. Phạm Khắc Thiện

Hợp thỉnh

Lm Nguyễn Thái Hợp, O.P.

www.vongtrondongtam.com

Mục lục

 

ĐỨC CHA RAPHAE NGUYỄN VĂN DIỆP

 Nguyên Giám Mục Phó Giáo Phận Vĩnh Long. Đã được Chúa gọi về lúc 21 giờ 30 ngày Thứ Năm 20/12/2007

 

 

CÁO PHÓ

 

Trong niềm tin tưởng vào Chúa Kitô Phục sinh,

Văn Phòng Toà Giám Mục Vĩnh Long trân trọng báo tin :

ĐỨC CHA RAPHAE NGUYỄN VĂN DIỆP



Nguyên Giám Mục Phó Giáo Phận Vĩnh Long.

Đã được Chúa gọi về lúc 21 giờ 30 ngày Thứ Năm 20/12/2007

tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương Thành phố Saigòn.



Những ngày sau hết của Đức Cha Raphae:

Đức Cha Tôma Nguyễn Văn Tân sẽ dâng thánh lễ cầu nguyện cho Đức cha Raphae vào lúc 9 giờ ngày 22 tháng 12 năm 2007 tại nhà Thờ Chánh Tòa Vĩnh Long, xin các linh mục Giáo Phận cùng đến hiệp dâng thánh lễ với Đức Giáo Mục Giáo Phận cầu nguyện cho Ngài.

Theo Qui Chế Linh Mục Giáo Phận các Linh Mục Giáo Phận dâng 3 Thánh lễ cầu nguyện cho Đức Cha Raphae.

Chúa Nhật thứ IV Mùa Vọng (23/12/2007) tất cả các họ đạo của Giáo Phận Vĩnh Long hiệp ý cầu nguyện cho Đức Cha Raphae trong thánh lễ ngày hôm nay.


Khi được thông báo chính thức, sẽ có những phái đoàn thân hữu của Giáo Phận đến kính viếng và cầu nguyện cho Ngài. Xin Quí Cha, Quí Tu sĩ Nam Nữ, Anh Chị em Giáo dân hiệp lời cầu nguyện cho linh hồn Đức Cha Raphae được an nghĩ trong Chúa.

TIỂU SỬ ĐỨC CHA RAPHAE

Nguyên Giám Mục Phó Giáo Phận Vĩnh Long.

Giám Mục Hiệu Toà Tubusuptu.

Khẩu Hiệu: Vigilante et Orate - Hãy Tỉnh Thức và Cầu Nguyện.

Cuộc đời Đức Cha Raphae:

• Sinh ngày 20 tháng 10 năm 1926.

• Tại Long Thới, Chợ Lách, Bến Tre. Thuộc họ Cái Nhum.

• Nhập Tiểu Chủng Viện Sàigòn ngày 09 tháng 08 năm 1938.

• Vào Đại Chủng Viện Thánh Giuse ngày 13 - 08 - 1948 đến năm 1950.

• Du học Roma tại Học Viện Giáo Hoàng Urbano từ năm 1951 đến 1955.

• Thụ phong Linh Mục ngày 07 tháng 12 năm 1954 tại Roma.

• Tấn phong Giám Mục phó Giáo Phận Vĩnh Long với quyền kế vị Đức Giám Mục Giacôbê Nguyễn Văn Mầu ngày 15 tháng 08 năm 1975.

• Ngày 10 tháng 05 năm 2000 Toà Thánh đã chấp nhận đơn xin nghỉ hưu với tuổi 75, sau 25 năm làm Giám Mục phó Giáo Phận Vĩnh Long.

Hoạt Động của Đức Cha Raphae:

Sau khi thụ phong Linh Mục Ngài tích cực trong việc mục vụ giáo xứ:

• Quản xứ Cái Đôi và Bến Giá từ năm1955 đến 1956.

• Phó và Chánh xứ họ Bải Xan từ năm 1956 đến 1961.

• Giám đốc Trung tâm Công Giáo Giáo Phận Vĩnh Long từ năm 1961 đến 1964

• Giám đốc Trung tâm Truyền Giáo Giáo Phận Vĩnh Long và

• Chánh xứ Họ đạo Cầu Vòng từ năm 1964 đến 1975.

• Giám Mục Phó Giáo Phận Vĩnh Long từ 15 - 08 - 1975 đến 10 - 05 - 2000.

Trong cương vị Giám Mục Phó Ngài vẫn tiếp tục việc mục vụ họ đạo tại Cầu Vòng đến năm 2000.

Sau khi Toà Thánh đã chấp nhận đơn nghỉ hưu, Ngài hưu tại Dòng Đồng Công Thủ Đức.

giáo phận Vĩnh Long

 

Mục lục

 

ĐHY Phạm Minh Mẫn họp bàn về việc tổng kết 10 năm nhìn lại tình hình Mục vụ TGP Saigòn (1998-2008)

 

SAIGÒN -- Sáng thứ năm 20.12.2007 tại Tòa Tổng giám mục Saigòn, Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn đã có một buổi họp với các linh mục hạt trưởng, Bề Trên các dòng nam, nữ cùng đại diện thành phần dân Chúa của các đoàn thể, các giới trong Tổng Giáo Phận Sài Gòn để lấy ý kiến cho việc tồ chức Tổng Kết Tình Hình Mục Vụ TGP Sài Gòn trong 10 năm kể từ ngày ngài về coi sóc giáo phận cho đến nay ( 1998-2008)



Trong buổi họp này Đức Hồng Y Mẫn đã công bố danh sách Hội Đồng Linh Mục gồm 1 Ban Điều Hành và 37 thành viên nhằm mục đích giúp Giám Mục hoạch định quy chế Linh Mục và các tổ chức mục vụ. Hội Đồng Linh Mục gồm có:


I. HỘI ĐỒNG LINH MỤC

 

Ban Điều Hành:

Chủ tịch : ĐHY G.B Phạm Minh Mẫn

Thư ký điều hành : Lm Giuse Trịnh Tín Ý

Thư ký văn bản : Lm P. Xavie Lê Văn Nhạc

Thư ký ngoại vụ : Lm Đaminh Ngô Quang Tuyên


37 thành viên gồm:

1. ĐGM Giuse Vũ Duy Thống

2. Lm G.B Huỳnh Công Minh

3. Lm Ernest Nguyễn Văn Hưởng

4. Lm Giuse Vũ Minh Nghiệp

5. Lm G.B Võ Văn Ánh

6. Lm Gioan Bùi Thái Sơn

7. Lm Giuse Trịnh Văn Viễn

8. Lm Giuse Phạm Văn Thăng

9. Lm Đaminh Võ Văn Tân

10. Lm P.X Đinh Quang Tịnh

11. Lm Giuse Bùi Bằng Khấn

12. Lm Giuse Phạm Bá Lãm

13. Lm Félix Nguyễn Văn Thiện

14. Lm Giuse Trần Ngọc Thao

15. Lm Antôn Nguyễn Đình Thục

16. Lm Đaminh Nguyễn Thế Hoạt

17. Lm G.B Phạm Văn Hợp

18. Lm Inhaxiô Nguyễn Thới Hòa

19. Lm Đaminh Đinh Ngọc Lễ

20. Lm Inhaxiô Mai Xuân Hậu

21. Lm Matthêu Lê Minh Châu

22. Lm Phêrô Nguyễn Công Danh

23. Lm Đaminh Trương Kim Hương

24. Lm Agustinô Nguyễn Văn Trinh

25. Lm Giuse Nguyễn Đức Quang

26. Lm Giuse Phạm Hồng Thái

27. Lm Đaminh Hà Huy Dũng

28. Lm Giuse Phạm Hoàng Lương

29. Lm P.X Huỳnh Hữu Đặng

30. Lm Inhaxiô Hồ Văn Xuân

31. Lm Têphanô Huỳnh Trụ

32. Lm Luy Nguyễn Anh Tuấn

33. Lm Gioan Lê Quang Việt

34. Lm Giuse Nguyễn Hữu Triết

35. Lm Giuse Phạm Đức Tuấn

36. Lm Giuse Phạm Hưng Thịnh, OP

37. Lm G.B Trần Văn Hào, SDB


Hằng năm, Hội Đồng Linh Mục họp 3 kỳ và theo nhu cầu của giáo phận Đức Hồng Y đã triệu tập các cuộc họp ngoại lệ, Hội Đồng Linh Mục đại diện cho Linh mục đoàn, soạn thảo các quy chế của giáo phận và tư vấn cho Đức Hồng Y, đồng thời chuyển những nguyện vọng của linh mục đoàn lên trên ĐHY.


2. Ban Tư Vấn

Tư vấn cho Đức Gíam Mục điều hành nhân sự và mục vụ.


3. Ban Kinh tế

Tư vấn cho Đức Giám Mục về kinh tế tài chánh của giáo phận.


3. Ban Tương trợ Linh mục

- Lo quỹ tương trợ linh mục đoàn

- Lo cho các cha hưu dưỡng


II. CÁC BAN MỤC VỤ GIÁO PHẬN:


ĐHY đã thành lập Ban Mục Vụ Thiếu Nhi, Ban Mục Vụ Giới Trẻ, Ban Mục Vụ Gia Đình, Ban Phụng Tự, Ban Loan Báo Tin Mừng, Ban Bác Ái Xã Hội,Ban Mục Vụ Di Dân, Ban Đại Diên Giáo Dân.


III. TỔ CHỨC MỤC VỤ GIÁO HẠT


Gồm có 15 giáo hạt, mỗi giáo hạt có 1 Hạt Trưởng và 1 Hạt Phó trong đó có 199 giáo xứ, 35 giáo điểm, 310 cơ sở Dòng tu, Tu hội.


IV. CÁC TỔ CHỨC MỤC VỤ GIÁO DÂN

 

Gồm có các đoàn thể: Các Bà Mẹ Công Giáo, Gia Đình Phạt Tạ Thánh Tâm, Hội Legio Mariae, Hiệp Hội Thánh Mẫu, Giới Trẻ Vinh Sơn Con Đức Mẹ, Liên Đoàn Thanh Sinh Công.

 

Các Giới Công Giáo: Giới Gíáo Chức, Giới Y-Bác Sĩ, Giới Nghệ Sĩ, Giới Doanh Nhân, Giới Trẻ... nhằm giúp các thành viên Công Giáo các giới chia sẻ những khó khăn đặc trưng trong đời sống đạo theo từng nghành nghề. Mỗi giới có linh mục đồng hành làm linh hướng.


Các Hiệp Hội Tông Đồ Gia Đình: Có Gia Đình Chúa, Gia Đình Cùng Theo Chúa, Khôi Bình, Hiệp Sống Kitô.


V. CÁC DÒNG TU VÀ TU HỘI TÔNG ĐỒ


Số Dòng Tu và Tu sĩ : Trong TGP SG có 268 cộng đoàn tu : 57 Nhà Chánh tại GP, (12 nhà Dòng Tu nam, 26 nhà Dòng Tu nữ, 4 Tu Hội nam, 15 Tu Hội nữ), 33 cộng đoàn (chi nhánh) của 5 Dòng nam, 25 Dòng nữ và 3 Tu hội.


Đây là buổi họp để chuẩn bị cho tổng kết 10 năm nhìn lại, ĐHY cho biết sẻ có thêm một buổi họp nữa để đúc kết những gì còn thiếu sót.

 

Lê Kim

Mục lục

 

 

ĐÊM THÁNH CA " CA LÊN ĐI MỪNG CHÚA GIÁNG SINH"

 

Kỷ niệm 50 năm viết thánh ca của Linh mục nhạc sư Kim Long

HÀ NỘI -- Để mừng kỷ niệm 50 năm viết thánh ca của linh mục nhạc sư Kim Long, trong tinh thần tôn vinh Thiên Chúa và cổ vũ sinh hoạt thánh nhạc, Tổng giáo phận Hà Nội đã đứng ra tổ chức Đêm Thánh Ca với chủ đề CA LÊN ĐI MỪNG CHÚA GIÁNG SINH vào lúc 19h00 ngày 18.12.2007. Cùng với Ban Thánh nhạc giáo phận, quý cha Ban Giám đốc, Ban Giáo sư và chủng sinh đại chủng viện Hà Nội đã nhiệt tình đóng góp sức lực tổ chức đêm thánh ca.

Người công giáo Hà Nội đã háo hức đêm đặc biệt này cả tháng trước. Gần đến giờ khai mạc, hàng nghìn người đủ mọi thành phần, trong cũng như ngoài Công giáo từ khắp nơi đổ về Đại chủng viện Hà Nội nơi diễn ra Đêm Thánh Ca. Ước tính có hơn 4.000 ngàn người tham dự sự kiện này, trong đó có một số giáo sư nhạc sĩ đến từ Nhạc viện Hà Nội. Sân đại chủng viện không đủ sức chứa, nên nhiều người khác đành phải ở tại khuôn viên Tòa giám mục tham dự Đêm nhạc qua hệ thống truyền hình. Thời tiết thật tuyệt vời: trời không rét, không mưa, chỉ se se lạnh như tiết trời thu.

Đêm Thánh Ca được chia làm hai phần: Phần thứ nhất CA LÊN ĐI và phần thứ hai MỪNG CHÚA GIÁNG SINH. Một số bài thánh ca quen thuộc như: Ca Lên Đi, Bản Tình Ca, Khúc Hát Mùa Xuân, Tình Chúa Yêu Con, Khuôn Mặt Tình Yêu, Cảm Mến Hồng Ân, Bên Máng Cỏ, Mầu Nhiệm Của Tình Thương, Chúa Không Lầm, Trong Cánh Đồng Be Lem, Kinh Hoà Bình v.v… Tất cả 19 bài hát được tuyển chọn trong hơn 3.000 bài thánh ca của tác giả. Tưởng cũng nên biết rằng, đến nay cha Kim Long đã cho ra đời 25 tập thánh ca với tựa đề "Ca Lên Đi".

Đêm Thánh Ca đã diễn ra hết sức long trọng với sự tham gia biểu diễn của Đại chủng viện, Hội dòng Mến Thánh Giá và Phaolô Hà Nội, ca đoàn các giáo xứ Hàm Long, Nam Định, Nhà thờ Chính tòa, Thái Hà thuộc giáo phận Hà Nội, ca đoàn Vượt qua Nhà thờ Chính tòa Sài Gòn, cùng các ca sĩ: Hoàng Hiệp, Lưu Hương Giang (giáo phận Hà Nội), Tấn Đạt, Thanh Sử, Trần Ngọc và Diệu Hiền (giáo phận Sài Gòn) và MC Trường Giang.

Mở đầu chương trình là những tiếng trống hội giòn giã và tiếng kèn đồng hùng tráng. Tiếp theo đó là bài hợp xướng “Ca Lên Đi“ giục giã muôn vật, muôn loài ngợi khen Thiên Chúa được chính Đức Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt, Cha Giám Đốc ĐCV Laurenxô Chu Văn Minh, đại diện nam nữ tu sĩ và giáo dân lĩnh xướng. Sau đó, Đức Tổng Giám mục, người khởi xướng tổ chức đêm thánh ca, đã nói lời khai mạc và ý nghĩa của đêm thánh ca: kỷ niệm 50 năm viết thánh ca của cha Kim Long trong tinh thần tôn vinh Thiên Chúa và cổ vũ sinh hoạt thánh nhạc trong Tổng giáo phận Hà Nội. Đức TGM Hà Nội đã tâm sự như sau:

"Thánh nhạc là một phần không thể thiếu của đời sống Giáo hội và là một phần không thể tách lìa với phụng vụ. Không thể tưởng tượng được một cử hành phụng vụ mà thiếu tiếng đàn ca. Còn hơn thế nữa, thánh nhạc giúp nâng cao tâm hồn cầu nguyện. Thánh Augustino quả quyết : “Hát hay là cầu nguyện hai lần”.

Câu nói đó ghi nhận tầm quan trọng nhưng cũng cho thấy những khó khăn của người viết thánh ca. Vì ngoài một tâm hồn nhạc sĩ, người viết thánh ca còn phải có tâm hồn cầu nguyện. Đòi hỏi một tâm hồn nhạc sĩ đã khó. Đòi hỏi một tâm hồn cầu nguyện còn khó hơn. Giữ được hai tâm hồn hòa quyện với nhau, bền vững trong một thời gian lâu dài lại càng khó hơn nữa.

Linh mục nhạc sĩ Kim Long đã vượt qua được tất cả những khó khăn đó nên đã liên tục viết thánh ca trong nửa thế kỷ. Để vượt qua biết bao khó khăn, cha Kim Long đã phải phấn đấu rất nhiều. Nhờ những phấn đấu đó, cha góp phần quan trọng phục vụ Thiên Chúa, phục vụ Hội Thánh và phục vụ con người trong lĩnh vực thánh nhạc Việt Nam.


Tổ chức đêm nhạc Kim Long với chủ đề “Ca Lên Đi Mừng Chúa Giáng Sinh” không đủ sức tôn vinh người nhạc sĩ có nhiều công lao, chỉ có nguyện ước như một kỷ niệm đánh dấu quãng đường 50 năm phục vụ của một tâm hồn nhạc sĩ chứa đầy tâm tình cầu nguyện. Kỷ niệm này cũng mong khơi dậy cảm hứng nơi nhiều tâm hồn để có thêm nhiều người viết nhạc, nhiều người ca hát tôn thờ Chúa và phục vụ đồng loại trong đời sống đạo. Kỷ niệm này như một lời mời gọi gửi đến mọi người hãy cùng nhau “Ca Lên Đi” chúc tụng Chúa, khuyến khích nhau trong đời sống phục vụ.


Với những ước nguyện đó, tôi long trọng tuyên bố khai mạc đêm thánh ca Kim Long “Ca Lên Đi Mừng Chúa Giáng Sinh”.


Từ ngàn xưa, những trang Thánh Kinh Cựu Ước đã vang lời mời gọi muôn loài chúc tụng Thiên Chúa: "Chúc tụng Chúa đi, mọi công trình của Chúa - Muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn… Chúc tụng Chúa đi, kìa hoa lá cỏ cây…Chúc tụng Chúa đi, hỡi phàm nhân dương thế". Cùng với tâm tình ngợi khen chúc tụng đó, ngày hôm nay, chúng ta cũng có thể vang lên lời mời gọi:Chúc tụng Chúa đi, hỡi Hà Nội ngàn năm văn hiến - Chúc tụng Chúa đi, hỡi Việt Nam dòng giống lạc hồng. Thật là một dịp đặc biệt khi mọi thành phần dân Chúa trong Tổng giáo phận Hà Nội, cùng với linh mục nhạc sư Kim Long Ca Lên Đi những bài ca tôn vinh Thiên Chúa.


Đã từ rất lâu, những bài thánh ca của linh mục nhạc sĩ Kim Long với cung điệu bình ca xúc động lòng người. Chúng giúp con người thoát khỏi mọi xao động cuộc đời mà hướng lòng lên với Chúa, sống với Chúa và cho Chúa. Nhạc Kim Long đã đi vào lòng người tín hữu Việt Nam vì giai điệu bình dị, tiết tấu nhẹ nhàng, tinh tế, thanh thoát và thánh thiện, lời ca đơn sơ không cầu kỳ, giống như một lời thì thầm cầu nguyện và đặc biệt được bắt rễ sâu trong lời Chúa và Thánh Vịnh. Nhạc Kim Long thực sự là nguồn nâng đỡ cho tâm hồn các tín hữu, giúp họ cầu nguyện, can trường tiến bước theo Chúa và làm chứng cho Tin Mừng.

Trong Đêm Thánh Ca, các tiết mục hợp xướng được dàn dựng rất công phu, trang trọng. Những tiết mục đơn ca, song ca do các ca sĩ Công giáo biểu diễn thật có hồn. Hội dòng Mến Thánh Giá Hà Nội đã góp cho chương trình thêm rực rỡ với tiết mục diễn nguyện đặc sắc. Mọi người chăm chú lắng nghe, không một tiếng nói chuyện hay di chuyển ồn ào. Dường như tất cả đều chìm vào những lời thánh ca du dương, lay động lòng người. Bầu khí ấy đã làm cho đại chủng viện Hà Nội trở thành một không gian linh thánh. Đêm thánh ca đã thực sự trở thành một đêm tôn vinh Thiên Chúa đằm thắm tin yêu.


Mọi người đến tham dự không chỉ vì lòng yêu quí linh mục nhạc sư Kim Long, yêu mến nền thánh nhạc Việt Nam, nhưng còn để cùng dâng lên Thiên Chúa lời tạ ơn vì Chúa đã ban cho Giáo hội Việt Nam một tài năng âm nhạc lớn, một cây đại thụ trong nền thánh nhạc Việt Nam. Nếu mùa Giáng Sinh là mùa tặng quà, thì x in chúng ta cùng nhau tạ ơn Thiên Chúa đã gửi cha Kim Long như một quà tặng quí giá cho Giáo hội Việt Nam, đặc biệt là nền thánh nhạc Công giáo. Đức cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa, Chủ tịch Ủy ban Thánh nhạc thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam, đã nhận định: "Các tác phẩm của cha Kim Long không chỉ làm phong phú nền thánh nhạc Việt Nam mà còn giúp phát triển đời sống đức tin và đời sống phụng vụ của người Công giáo địa phương".


Ngắm nhìn bầu trời Mùa Giáng Sinh tôi chợt có một liên tưởng. Mùa Giáng Sinh xưa, trên bầu trời Belem có một vì sao sáng soi đường cho các Hiền sĩ đến thờ lạy Hài nhi Giêsu. Mùa Giáng Sinh nay, Kim Long như một vì sao sáng lung linh trong bầu trời thánh nhạc Việt Nam soi lối cho muôn người đến gặp gỡ Chúa qua những bài thánh ca. Giáng Sinh xưa, trên không trung có ca đoàn thiên sứ loan tin vui sáng danh Thiên Chúa, bình an loài người. Giáng Sinh nay, giữa đất trời Việt Nam, Kim Long -một thiên sứ bằng xương bằng thịt- cũng đang viết lên, ca lên những bài ca tôn vinh Thiên Chúa, lay động lòng người.


Tưởng cũng nên nói thêm về triết lí âm nhạc của Kim Long. Vừa tròn một nửa thế kỉ dâng hiến cho Chúa, cho Giáo hội qua sự nghiệp thánh nhạc với gia tài hơn 3,000 bài thánh ca, linh mục Kim Long quả thực là người đã sống chết với thánh ca. Phải là một người có tâm hồn rất phong phú về nghệ thuật lẫn tâm linh, cộng với những khát vọng và nỗ lực vượt bậc mới có thể có được một gia tài phong phú như thế. Trong sự nghiệp thánh nhạc, n gài luôn nhủ lòng mình cùng căn dặn môn sinh: một bài Thánh ca hay là bài Thánh ca được cầu nguyện hai lần. Lần thứ nhất tác giả phải cầu nguyện để viết ra, lần thứ hai người hát phải cầu nguyện để hát bài Thánh ca ấy. Bởi vì chủ đích của Thánh ca chính là để cầu nguyện với Chúa bằng lời ca. Suốt 50 năm làm việc liên tục không ngừng nghỉ trong ơn gọi viết thánh ca, điều cha hằng thao thức là làm thế nào để lúc viết và hát thánh ca cũng là lúc cầu nguyện.


Chính vì triết lý viết thánh ca là đọc, suy và cầu nguyện, mà những bài thánh ca của Kim Long đã luôn đồng hành trong những buổi cầu nguyện và cử hành phụng vụ của Giáo hội. Thánh ca Kim Long đã thực sự đem lại một sức sống dồi dào cho đời sống thiêng liêng của Giáo Hội Việt Nam. Cha luôn tâm niệm: Viết Thánh ca không phải vì mục đích để lại những tác phẩm lưu danh muôn thuở. Hát Thánh ca không phải là dịp để phô trương tài năng của mình. Nhưng viết và hát Thánh ca là để cầu nguyện với Thiên Chúa. Viết và hát Thánh ca là vì Chúa, vì Giáo hội và vì cộng đoàn. Trong ít phút trò chuyện giao lưu với cha Kim Long nơi phần đầu chương trình, cha Tiến Lộc đã nói thật di dỏm: "Nếu Thánh Augustinô bảo hát hay là hai lần cầu nguyện, thì dạy hát sẽ là sáu lần cầu nguyện và sáng tác thánh ca sẽ lên tới mười hai lần cầu nguyện"!


Linh mục nhạc sư Kim Long đã nhận được nén bạc thánh nhạc Chúa trao, và bổn phận của cha là phải cố gắng sinh lợi nén bạc đó. Thế nên, khi viết thánh ca, cha không bao giờ trông mong tiền tác quyền hay những lời khen ngợi, cha chỉ mong có được nhiều người đồng cảm với cha, để cùng hát lên và cầu nguyện bằng những bài thánh ca với tất cả tấm lòng tin yêu. Cha viết thánh ca là vì Chúa, vì Giáo hội và vì cộng đoàn. Tuy không nhận được tiền tác quyền, nhưng cha đã nhận được những thứ mà tiền không thể mua được, đó là tấm lòng ưu ái của mọi người khắp nơi trong cũng như ngoài nước dành cho cha. Và điều đó mang lại niềm vui và hạnh phúc cho cha.


Xin cầu chúc linh mục nhạc sư Kim Long tiếp tục viết thêm nhiều giai điệu đẹp để ca tụng Chúa và để mọi người nâng hồn lên với Chúa.


Sau gần 3 tiếng đồng hồ, Đêm Thánh Ca đã khép lại bằng bài ca bất hủ: Kinh Hòa Bình. Một quang cảnh thật cảm động: Tất cả cộng đoàn tham dự cùng đứng lên, tay cầm nến cháy lung linh và hát những lời ca với tất cả tâm hồn: Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người… Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lí vào chốn lỗi lầm…


Đêm Thánh Ca không còn dừng lại ở một đêm trình diễn nghệ thuật, nhưng đã thực sự trở thành một đêm ngập chìm trong bầu khí tôn giáo, một đêm nối kết các tâm hồn trong tin yêu, để những tâm hồn ấy cùng một lòng một ý nâng tâm hồn lên tôn vinh Thiên Chúa. Đêm Thánh Ca chỉ diễn ra chưa đầy 3 tiếng đồng hồ, nhưng âm hưởng của nó còn đọng lại lâu dài, đọng lại mãi trong tâm hồn mỗi người tham dự. Những bài thánh ca không chỉ được hát lên trong một đêm, nhưng là được hát lên trong suốt cả cuộc đời; những bài thánh ca không chỉ do người Công giáo hát lên, nhưng là do tất cả mọi người trên trần hoàn này. Chúng ta tin rằng Đêm Thánh Ca đã trở thành dấu chỉ chứa chan hi vọng cho nền thánh nhạc Việt Nam.

 

Nguyễn Xuân Trường

Mục lục

 

 

 

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO

 

Phỏng vấn LM nhạc sĩ Kim Long dịp kỉ niệm 50 năm viết thánh ca

 

HÀ NỘI -- Linh mục nhạc sư Kim Long, mà da số chúng ta đều biết ngài như ”một cây đại thụ trong làng thánh nhạc Công Giáo Việt Nam hiện nay”. Những bài thánh ca của cha được phổ biến khắp nơi, không một cuốn sách thánh ca nào lại không có bài hát của cha, và gần như nghi thức phụng vụ nào cũng đều có bài cha sáng tác… Thời gian thấm thoắt, cha đã trung thành theo đuổi con đường phục vụ thánh ca được 50 năm. Trong những ngày chuẩn bị cho đêm hoan ca với chủ đề “ca lên đi mừng Chúa Giáng Sinh” mừng kỉ niệm 50 năm viết thánh ca của ngài diễn ra tại thủ đô Hà nội, chúng tôi đã có dịp gặp gỡ để nghe ngài nói chuyện về đêm diễn này. Kính mời qúy độc giả cùng theo dõi cuộc phỏng vấn LM nhạc sĩ Kim Long:

Hỏi: Kính chào cha Phêrô! Thưa cha, đêm Thánh ca của cha lần đầu tiên được trình diễn tại thủ đô Hà nội, xin cha cho qú‎y độc giả biết đôi điều cảm nhận về sự kiện đặc biệt này?

Lm Kim Long và Đinh Sơn

 

- Tôi rất vui vì Ban thánh nhạc Tổng giáo phận Hà nội tổ chức đêm thánh ca của Kim Long ngay tại thủ đô này. Nhưng phải nói đây không phải là dịp để suy tôn cá nhân vì cá nhân chẳng là gì cả, tất cả đều nhắm đến việc phụng sự Thiên Chúa cách hữu hiệu hơn. Thật tình mà nói thì sự chuẩn bị cho đêm thánh ca này hơn vội vã nên chưa đạt được những gì mà chúng tôi mong muốn, song cũng là dịp để bày tỏ những nỗ lực của mỗi thành phần trong chúng ta.


Hỏi: Xin cha cho chúng con biết rõ về mục đích mà đêm thánh ca này nhắm tới?


- Vì ước muốn cổ võ nền thánh nhạc trong Tổng Giáo Phận Hà Nội, nên Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt muốn có một đêm thánh ca đặc biệt tại thủ đô Hà nội. Đây cũng là dịp cho các ca đoàn gặp gỡ, giao lưu với nhau để khuyến khích nhau hát thánh ca cho tốt, cho đẹp. Ngoài ra, ngài còn muốn nhờ dịp này giúp các ca đoàn y thức được tầm quan trọng của việc hát thánh ca, mỗi người sẽ thấy mình cần phải học hỏi và tập luyện nhiều hơn nữa để việc hát thánh ca ngày một hoàn thiện.


Hỏi: Thưa cha, việc tổ chức một buổi hoan ca thôi cũng không giản đơn, huống chi đây lại là một buổi trình diễn thánh ca có quy mô lớn, xin cha cho qúy độc giả thấy được những khó khăn và thuận lợi khi chuẩn bị cho đêm nhạc này?


- Sự thật thì khó khăn chồng chất, chỉ có một thuận lợi duy nhất là tôi đã dạy tại Đại chủng viện 11 năm nay, nên có điểm tựa chính là Đại chủng viện, gần nữa thì có Dòng mến thánh giá vì mỗi khi ra đây tôi đều có dịp gặp gỡ và giảng dạy tại đó. Vì khó khăn nhiều nên thời gian này tôi được sự giúp đỡ nhiệt tình của qúy cha trong Đại chủng viện, các ngài đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi, nhất là thu xếp thời gian cho các thầy tập hát phục vụ đêm diễn này.


Về khó khăn trước tiên đối với tôi là cha trưởng ban tổ chức ở xa nên việc liên lạc không đơn giản….Thôi thì có được bao nhiêu thì mình dùng bấy nhiêu, có được khả năng nào thì mình chấp nhận như vậy, tôi vẫn nói với học trò của mình là: thà thắp lên một ngọn đèn còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối.


Hỏi: Xin cha cho chúng con biết thêm về những đơn vị tham dự chính thức trong đêm thánh nhạc lần này?


- Gần tôi nhất là Đại Chủng Viện Thánh Giuse Hà nội, Dòng Mến Thánh giá, Dòng Phaolô và ca đoàn các giáo xứ: nhà thờ Chính toà, Hàm long, Thái hà, Nam định và hai ca sĩ ở Hà nội. Xa hơn thì có một ca đoàn đến từ Thành phố Hồ Chí Minh tình nguyện ra phục vụ, đó là ca đoàn Vượt qua của nhà thờ Chính toà, và thêm 3- 4 ca sĩ trong Nam cộng tác cho đêm hoan ca thêm nhiều màu sắc.


Hỏi: Trong 50 năm sáng tác cha đã để lại cho thế hệ hậu duệ một kho tàng thánh ca vĩ đại, xin cha giới thiệu đôi nét về kho tàng đó và cho chúng con biết bài thánh ca nào đã để lại tình cảm sâu đậm nhất với cha?

- Viết thánh ca đối với tôi được coi là nhu cầu vì mỗi khi đọc Thánh Kinh hay một cuốn sách đạo đức, tài liệu nào đánh động lòng mình thì tôi đi cầu nguyện với y tưởng đó và bài thánh ca được hình thành. Vì vậy, tôi không chủ trương phải viết bao nhiêu bài nên chưa một lần ngồi đếm những bài thánh ca mình sáng tác.


Tuy nhiên, dịp kỉ niệm 50 năm viết thánh ca được tổ chức ở thành phố Hồ Chí Minh vừa rồi thì người ta đã ước chừng trên 3000 bài. Tôi nghĩ một người mà cộng tác và đóng góp vào kho tàng thánh nhạc của giáo hội Việt nam được như vậy thì kể cũng khá chân tình và cố gắng rồi. Từ khi tập tễnh viết bài thánh ca đầu tiên cách đây 50 năm, rồi được khuyến khích sang Rôma học, khi về việt nam ngoài chức linh mục ra thì việc viết thánh ca đối với tôi có thể coi là tất cả cuộc đời.


Thầy hỏi tôi bài thánh ca nào sâu đậm nhất thì cũng khó trả lời, đứa con tinh thần nào của mình cũng đều qú‎y vì khi viết một tác phẩm đều có những dấu ấn riêng. Ví dụ chuẩn bị làm linh mục, lúc đó tôi rất e ngại trước sứ mạng cao cả nên tôi đã viết “lạy cha, nếu có thể…”, khi nhìn lại cuộc sống của mình, thấy mình chưa đáp ứng được những mong muốn của Chúa thì tôi viết “Chúa không lầm”…. Nếu bây giờ hỏi trong mấy người con này, người con nào mình qúy nhất thì cha mẹ khó có thể trả lời…


Hỏi: Với tư cách là phó trưởng Ban Thánh nhạc toàn quốc, cha muốn nói gì với những người phụ trách thánh nhạc hiện nay, đặc biệt là ban thánh nhạc Tổng giáo phận Hà nội?


- Sinh hoạt thánh nhạc đều có những khó khăn và thuận lợi nhất định. Nỗi trăn trở nhất của chúng tôi hiện nay là còn thiếu nhiều chuyên môn, nhân sự còn mỏng. Thực tế mỗi giáo phận cần có một đại diện về thánh nhạc, song những người đại diện hiện nay nhiều khi chưa đáp ứng được trình độ chuyên môn. Tôi ước mong ban thánh nhạc của mỗi giáo phận đầu tư nhiều cho vấn đề nhân sự, dĩ nhiên với nhiều cấp độ.


- Như ở trong Hiến Chế Phụng Vụ nói là cần đầu tư cả những bậc thầy về âm nhạc.


- Đức Piô X cũng đòi hỏi, thánh nhạc phải là một thứ nghệ thuật đích thật, mà nghệ thuật nào cũng có những quy tắc riêng của nó…


Mong muốn lớn nhất của tôi hiện nay là chúng ta phải để ý từ cấp ca đoàn giáo xứ sao cho họ phải được huấn luyện kĩ càng. Cao hơn nữa là các ca trưởng cần được cải thiện về chuyên môn…


Trong thành phố HCM, ban thánh nhạc đã cộng tác với trung tâm mục vụ mở những lớp nhạc để huấn luyện ca trưởng với 5 môn học : kí xướng âm, thanh nhạc, âm nhạc trong Phụng vụ, phân tích hoà âm và điều khiển ca đoàn. Cần phải học hỏi và đầu tư nhiều thì nền thánh nhạc mới vững được. Đôi khi chúng ta chỉ phong trào ào đi một cái, hát cho đông, cho vui thì sau đó dễ bị sẹp xuống nhanh. Vì vậy, khi nào chúng ta đầu tư được nhân sự thì phong trào thánh nhạc mới đạt được kết quả tốt đẹp.


Hỏi: Giáng sinh và năm mới đang bên thềm, xin cha ngỏ lời với qúy độc giả nhân dịp đặc biệt này?


- Giáng sinh luôn là mùa của niềm vui, tôi nhớ một câu nói cuả thánh Augustinô: “người ta vui người ta hát, và người ta vui nhất là khi người ta yêu”. Ước mong mùa Giáng Sinh năm nay qúy vị cảm thấy được tình yêu của Thiên Chúa Nhập Thể, cảm nghiệm được tình yêu rồi thì chúng ta sẽ cất lên lời ca ngợi Thiên Chúa.

Trước thềm năm mới Kỉ Sửu, ta hãy lợi dụng thời gian đặc biệt này để ca ngợi Thiên Chúa và đem niềm vui đến với mọi người.


Chúng con xin trân thành cảm ơn cha và kính chúc đêm “ca lên đi mừng Chúa giáng sinh” tại thủ đô Hà nội được thành công tốt đẹp, kính chúc cha luôn dồi dào sức khoẻ, vui tươi để cha tiếp tục cống hiến cho giáo hội những đứa con tinh thần khỏe, đẹp.


Cuối cùng, chúng con xin mượn lời của Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống, Chủ tich Uỷ Ban Văn Hoá thuộc HĐGMVN để kết thúc bài viết này: “…Nửa thế kỉ trôi qua với một Kim Long Mục tử tốt lành, một Kim Long thầy dậy nhiệt tình, một Kim Long chan hoà cuộc sống và một Kim Long đang yêu…”

 

Gioan Đinh Sơn

Mục lục

 

 

Đôi nét về sự nghiệp âm nhạc của linh mục nhạc sư Kim Long


Mừng kỷ niệm 50 năm viết thánh ca của linh mục Kim Long, trong tinh thần tôn vinh Thiên Chúa và cổ vũ sinh hoạt thánh nhạc, Tổng giáo phận Hà Nội đã đứng ra tổ chức Đêm Thánh Ca với chủ đề CA LÊN ĐI MỪNG CHÚA GIÁNG SINH vào ngày 18.12.2007. Nhân dịp này, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu đôi nét về linh mục nhạc sư Kim Long.



Linh mục Kim Long sinh ngày 09.01.1941 tại họ đạo Bách Tính, giáo phận Bùi Chu. Ngài đến với thánh ca rất sớm. Năm 1949, khi mới tám tuổi, ngài tham gia ca đoàn họ đạo. Có lẽ những bài bình ca đầu tiên thời thơ ấu đã ảnh hưởng nhiều đến tâm thức và khuynh hướng âm nhạc sau này của Ngài.


Biến cố năm 1954, cậu bé Kim Long cùng với gia đình di cư vào Nam và cậu học tại tiểu chủng viện Thánh Phanxicô. Năm 1957, với sự khích lệ ân cần của cha giáo Ngô Duy Linh, ngài viết tác phẩm thánh ca đầu tay: “Con hân hoan”. Lúc này ngài vừa tròn 17 tuổi. Cuốn nhạc của ngài xuất bản đầu tiên là cuốn “Suối Thiêng”

 

Năm 1960, với tác phẩm “Kinh Hoà Bình" bất hủ, Kim Long đã đưa lời cầu nguyện tuyệt vời của thánh Phanxicô Assisi thấm sâu vào lòng muôn ngàn tín hữu. Đây là năm thật đáng nhớ của người nhạc sĩ vì gắn liền với tác phẩm được nhiều người biết đến và yêu mến nhất.


Từ năm 1961, tập thánh ca “Ca Lên Đi" đầu tiên trong số 25 tập của nhạc sĩ Kim Long bắt đầu ra mắt. Tập đầu tiên này được in tại nhà in Nguyễn Bá Tòng.


Năm 1968, nhạc sĩ lãnh nhận tác vụ linh mục và sau đó đi du học tại Giáo Hoàng Học Viện về Thánh Nhạc tại Rôma. Cha chọn chuyên ngành bình ca vì quan niệm rằng bình ca có những giá trị đặc biệt đem lại ánh sáng cho việc sáng tác thánh ca của mọi thời đại.

Năm 1973 cha về nước và coi sóc giáo xứ Đức Hoà, thuộc giáo phận Mỹ Tho. Đồng thời, cha dạy thánh nhạc tại Đại học Đà Lạt, Đại học Thành Nhân, Đại chủng viện Sàigòn và biên soạn nhiều sách giáo khoa về âm nhạc.


Sau biến cố 1975, cha đã âm thầm tiếp tục viết thánh ca, để rồi lần lượt cho ra đời những tuyển tập “Ca lên Đi” từ số 10 cho đến số 25. Linh mục Nguyễn Duy nhận định: ”Trong những tuyển tập Ca Lên Đi này, người ta thấy một dòng nhạc mới xuất hiện, nhiều đảo phách và nghịch phách hơn, lời ca được dệt mang nhiều chất thơ hơn và nhiều trăn trở hơn”. Một trong những bài thánh ca nổi tiếng của những sáng tác mới này là bài: “Chúa Không Lầm”.


Từ những năm đầu thập niên 80 thế kỉ trước, cha nhận thấy nhu cầu nở rộ của các ca đoàn tại Sài Gòn và các giáo phận khác, nên ngài đã suy tư, cầu nguyện để viết nên những trang hợp xướng. Những bài hợp xướng này đa phần khởi hứng từ Kinh Thánh và những lời thơ của Đức Ông Xuân Ly Băng. Hai tuyển tập Hợp ca đã ra đời từ hoàn cảnh đó. Có một điều thật kì lạ: Trong thời gian vô vàn gian khó này, nhờ ơn Chúa ban, cha lại viết nhiều hơn, dạy nhiều hơn. Trong giai đoạn này Ngài đã chăm sóc truyền thụ rất tận tình không chỉ kiến thức và kinh nghiệm âm nhạc, thánh nhạc mà nhất là cái tâm một lòng phụng sự Chúa và Giáo hội trong lĩnh vực thánh nhạc cho các học trò, trong số này có thể kể tới linh mục Nguyễn Duy, Huy Hoàng, Phanxicô Ngọc Linh, Anh Tuấn, Viết Khôi, Hải Triều, Cát Minh… Cũng trong thời gian này, Ngài cùng các với các môn sinh và thân hữu cho phổ biến 5 tập “Chung Lời Ngợi Ca”.


Năm 1994, lại một điều kì lại khác xảy ra, theo lời cha kể: ngài lâm trọng bệnh. Theo khuyến cáo của bác sĩ, ngài đã chuẩn bị sẵn sàng ra đi với lời than thở: “Chúa ơi, sao gọi con về sớm thế!” Nhưng vì công việc soạn nhạc cho tất cả các Thánh Vịnh Đáp Ca dùng trong phụng vụ còn đang tiến hành dở dang, nên ngài nài xin: “Nếu đẹp ý Chúa, xin Ngài ban thêm chút thời gian cho con để công việc được hoàn thành…”. Và tuyệt vời thay, Chúa đã nhậm lời. Bộ sách THÁNH VỊNH ĐÁP CA đã ra đời đáp ứng nhu cầu của cộng đoàn và theo đúng ý Hội thánh.

 

Từ đó, ngài vẫn tiếp tục sáng tác. Những năm gần đây, cha chấp bút với đề tài thánh ca suy niệm để phục vụ những buổi tĩnh tâm và đời sống thiêng liêng trong các tu viện… Tới nay đã hoàn thành trên 1.000 bài.


Đến nay vừa tròn 50 năm, nhiều bài thánh ca của cha Kim Long đã luôn đồng hành và phục vụ cho các cử hành phụng vụ cũng như các buổi hội họp cầu nguyện của tín hữu. Ngài luôn nhủ lòng mình cùng căn dặn môn sinh: một bài Thánh ca hay là bài Thánh ca được cầu nguyện hai lần. Lần thứ nhất tác giả phải cầu nguyện để viết ra, lần thứ hai người hát phải cầu nguyện để hát bài Thánh ca ấy. Bởi vì chủ đích của bài Thánh ca chính là để cầu nguyện với Chúa bằng lời ca. Suốt 50 năm làm việc liên tục không ngừng nghỉ trong ơn gọi viết thánh ca, điều cha hằng thao thức là làm thế nào để lúc viết và hát thánh ca cũng là lúc cầu nguyện.


Chúng ta cũng không quên những tập thánh ca nhỏ viết về Mùa Vọng và Giáng Sinh, Mùa Chay và Phục Sinh với tựa đề thật dễ thương: “Những Bông Hoa Nhỏ”.


Thêm vào đó, cha còn đảm trách những công việc chuyên môn với tư cách là Phó ủy ban Thánh nhạc Việt Nam và Tổng Thư ký Ủy ban Phụng Tự trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam.


Song song với sự nghiệp sáng tác, cha còn tích cực giảng dạy thánh nhạc cho nhiều nơi: Trung tâm Mục vụ Tổng giáo phận Sài Gòn, các đại chủng viện Hà Nội, Huế, Sài Gòn; các Hội Dòng, các giáo phận từ Nam tới Bắc. Thêm vào đó, cha còn soạn thảo những giáo trình và những tập sách nghiên cứu về âm nhạc như: Nhạc lý căn bản, Hoà âm, Đối âm, Hướng dẫn Đánh nhịp, Một vài kinh nghiệm để viết thánh ca, Thánh nhạc trong Phụng Vụ…


Vừa tròn một nửa thế kỉ dâng hiến cho Chúa, cho Giáo hội qua sự nghiệp thánh nhạc với gia tài hơn 3,000 bài thánh ca, linh mục Kim Long quả thực là người đã sống chết với thánh ca. Phải là một người có tâm hồn rất phong phú về nghệ thuật lẫn tâm linh, cộng với những khát vọng và nỗ lực vượt bậc mới có thể có được một gia tài phong phú như thế. Trong sự nghiệp thánh nhạc, ngài luôn nhủ lòng mình cùng căn dặn môn sinh: một bài Thánh ca hay là bài Thánh ca được cầu nguyện hai lần. Lần thứ nhất tác giả phải cầu nguyện để viết ra, lần thứ hai người hát phải cầu nguyện để hát bài Thánh ca ấy. Ngài luôn tâm niệm: Viết Thánh ca không phải vì mục đích để lại những tác phẩm lưu danh. Hát Thánh ca không phải là dịp để phô trương tài năng của mình. Nhưng viết và hát thánh ca là để cầu nguyện với Thiên Chúa. Viết và hát thánh ca là vì Chúa, vì Giáo hội và vì cộng đoàn.


Khi cha Kim Long sáng tác hoặc giảng dạy là cha đang làm việc đặt lương tâm cha trước mặt Thiên Chúa. Cha đã nhận được nén bạc Chúa trao, và ước nguyện của ngài cố gắng hết sức sinh lợi nén bạc đó. Vì thế, ngài không bao giờ trông mong tiền tác quyền hay những lời khen ngợi mà chỉ mong có được nhiều người đồng cảm với mình để cùng hát lên và cầu nguyện bằng những bài thánh ca với trọn vẹn tấm lòng tin mến.
Các tác phẩm của linh mục nhạc sư Kim Long theo dòng thời gian:

 

Năm 1957: CON HÂN HOAN - KÍNH CHÀO NỮ VƯƠNG.


Năm 1958-2001:

- 25 tập CA LÊN ĐI

- 5 tập CHUNG LỜI NGỢI CA (cùng với thân hữu và môn sinh)

- Tuyển tập HỢP CA - THÁNH VỊNH-THÁNH CA - 2 tập CỘNG ĐOÀN HOÀ CA

- THÁNH VỊNH ĐÁP CA - 2 tập NHỮNG BÔNG HOA NHỎ

- 5 tập BÀI CA SUY NIỆM.

Năm 2002:

- Tuyển tập CA LÊN ĐI (1000 ca khúc phổ thông)

- BÀI CA SUY NIỆM 6.

Năm 2003: tuyển tập HỢP CA 2.

Năm 2004-2006: BÀI CA SUY NIỆM 7-9

Năm 2007: BÀI CA SUY NIỆM 10.

 

Nguyễn Xuân Trường
Mục lục

 

HỌC CÙNG GIÊSU

 

(Cảm nhận từ hai ngày tĩm tâm Mùa Vọng tại Trung tâm mục vụ Giáo phận TP. HCM)           

 

Tĩnh tâm là vậy sao?

 

Gia đình tôi gồm hai vợ chồng và 3 đứa nhóc, cùng tham dự 2 đêm Tĩnh tâm canh thức Giáng Sinh (6-7 /12 /07) với chủ đề “Học Cùng Giêsu, Khiêm nhường và Hiền lành” tại trung tâm Mục Vụ giáo phận Saigon.

 

Cứ nghĩ sẽ là kinh hạt, giờ chầu, nghe giảng, suy niệm :

 

Nhưng hoàn toàn không phải vậy.

 

Trước đó, cũng đã báo cho một vài người quen (bạn bè, con đỡ đầu), nhưng rồi bận bịu, và có lẽ nghĩ rằng tĩnh tâm đâu cũng vậy, nên họ không đến. Bản thân tôi cũng vậy, vừa trải qua mấy tuần liền căng thẳng công việc, chỉ muốn hết giờ là về nhà. Nhưng cố gắng tạt qua Trung Tâm Mục Vụ Giáo Phận, vì nghĩ bà xã phải chở 3 đứa.

 

Xin nói ngay, trong cả 2 ngày, khoảng hơn 7,000 người tham dự hết mình trên dưới 4 tiếng đồng hồ mỗi buổi tĩnh tâm, kể cả động tác "khởi động" bằng lần chuỗi Mân Côi - sốt sắng đến không ngờ.

 

Không buổi tĩnh tâm nào tại các nhà thờ giáo xứ, với hình thức và nội dung theo cách truyền thống, đạt tới con số đó! Hay như người MC nói : "chỉ có Giêsu mới tập họp được như vậy..."

 

Nhiệt huyết và thu hút như Cha Giuse Trần Đình Long, “thiên hạ” cứ gọi lúc thì ông Cha HIV, ông Cha Khuyết Tật hoặc .. ông cha “đường phố” (vì người ta thấy Cha rất sát cánh cùng những người HIV, những trẻ em khuyết tật, hoặc lang thang đường phố), cũng chỉ dừng ở mức một MC dẫn chương trình.

 

Người giảng tĩnh tâm nối tiếng hấp dẫn, Cha Phêrô Nguyễn Khảm (tôi hiểu rất rõ điều này khi Ngài còn ở nhà thờ Đức Bà Saigon), cũng chỉ xuất hiện vài phút trước vào sau mỗi buỗi tĩnh tâm.

Có xiếc, có ca nhạc, có nhảy múa, có phỏng vấn như người đương thời.

Như vậy mà là tĩnh tâm sao?

 

Cha Khảm đặt câu hỏi tương tự. Và Ngài nói luôn, đại ý, có thễ tĩnh tâm ngay trong các hoạt động đời thường, tỏ bày và thu nhận tình yêu Thiên Chúa qua những con người ngay cạnh ta. Con gái tôi cũng hỏi : “ Bố, người ta bảo tĩnh tâm là để lắng đọng tâm hồn, nhưng sôi động thế này sao mà lắng đọng được?” Nhưng sau 2 ngày, cháu rất suy nghĩ và khẳng định “con rất thích”.

Và chúng tôi cũng vậy...

 

Vâng, đích thị là một cuộc tĩnh tâm thực sự với tất cã ngữ nghĩa và lợi ích cho đời sống tính thần, đời sống Đức Tin của một đợt tĩnh tâm - Dừng lại, soi rọi vào chính mình bằng những chứng từ đầy suy niệm, bằng những lời gợi ý  mà như cầu nguyện.

 

Chứng Từ Đức Tin là vậy sao?

 

Một thanh niên có giọng nói mạnh mẽ và tự tin, nếu chỉ nghe giọng nói của anh, nếu chỉ nhìn khuôn mặt của anh, nếu biết anh đang giúp đỡ được nhiều người, sẽ không ai nghĩ anh là người nhiễm HIV, một người con từng được nuông chiều, rồi thiêu thân vào trụy lạc cuộc đời, chạy trốn một tình yêu, chán nản, thất vọng, lao người vào xe lửa, anh không chết nhưng hai chân anh đã phải tháo tới khớp háng và còn lại một khuôn mặt như “con quỷ” (sic)  anh chửi mắng đời và mọi người, chửi rủa chính mình,”tôi sống sao đây với nữa xác thân, một tâm hồn chỉ còn muốn chết", xua đuổi cả những người đang cố chìa tay ra cho anh...

 

Một người khác có giọng nói trầm khàn có âm điệu người Bắc di cư 54, từng đâm chém, du dãng, đòi nợ thuê... nay đang cố từng ngày sống với tinh thần phạt tạ cùa Hội Legio, và giọng rất hạnh phúc khi nói rằng, nếu anh chết, anh được về với Chúa...

 

Một cô gái, chỉ vì vài triệu bạc nợ nần, mà mất thân với người đàn ông đáng tuối cha mình, rồi mọi thứ áp lực đến với cô, dĩ nhiên là cả áp lực phá thai...

 

Một người mẹ, bản thân cũng liệt hai chân, chính mình còn đói thế mà lại có thể nuôi dưỡng lớn khôn và khỏe mạnh tới mấy chục đứa con tật nguyền, bị vứt bỏ trong xó chợ đầu đường, trong ghẻ chốc, tật nguyền.

 

Bản đồng ca hát về hang đá bethelem bừng sáng của những em bé ... mù loà, câu trả lời "con ước học giỏi và không làm các sơ buồn" của em bé mù đọc Thánh Kinh.

 

Chú bé mồ côi làm xiếc thật .. hồi hộp, có những câu trả lời thật thà đến nỗi làm mọi người cười lăn.

 

Một nhóm gồm những cô cậu rất xinh xắn, múa một điệu mang phong cách quý phái trong trang phục của Châu Âu cổ điển. Họ múa rất đẹp, nhưng vẫn có chút gì đó là lạ trong phối hợp nhịp điệu.

 

Thì ra, họ có nghe thấy nhạc đâu, các em khiếm thính và không nói được, chỉ múa theo cử điệu của một chị hướng dẫn đứng ... dưới sân khấu. Thật không thể ngờ các em làm được như vậy.

Và nhiều cuộc đời khác nữa như thế lần lượt xuất hiện...

 

Cuộn phim của các cuộc đời đau khổ này được chiếu lại bằng giọng kể của chính nhân vật thật xúc động, nhìn quanh chợt thấy một vài người gần mình kín đáo chận nước mắt.

 

Tôi không khóc ...nhưng đến khi cô ca sỹ hát đại ý "Giê -su đến đế lau khô những dòng nước mắt" thì tôi lại thấy mắt mình lại ngấn ứơt. Thật là kỳ cục quá, Chúa Giêsu ơi!

 

Đau khổ và bất hạnh của các cuộc đời trên rất khác nhau, nhưng kết cục thì lại giống nhau. Họ đã nhận được và nhận ra tình yêu vô bờ và tha thứ đến khắc khoải của Thiên Chúa dành cho mọi người. Họ đến cuộc tĩnh tâm này, là để nói lên và chứng tỏ thông điệp yêu thương đó.

Họ đến để ban phát cho chúng tôi, những người lành lặn thể chất, những món quà, đúng như Cha Khảm nói, vô giá.

 

Họ mù lòa, câm điếc và tật nguyền nhưng nhưng họ lại mở mắt, mở trí, truyền sức mạnh cho chúng tôi, những người "bình thường".

 

Rằng khiêm tốn chỉ là việc nhìn nhận sự thực. Tất cả những gì mà ta có là của Thiên Chúa, do Chúa ban, như người chủ ban những số lượng nén bạc khác nhau cho đày tớ, ta sẽ làm gì để có lợi ra hay lại chôn dưới gầm giường?

 

Rằng hiền lành không phải là nhu nhược, đớn hèn, mà là sống và thể hiện ra chân lý trong yêu thương.

 

Rằng của Xê da thì hãy trả về cho Xê da. Còn con người với những phẩm giá nhân bản là của Thiên Chúa sẽ được trả về cho Thiên Chúa.

 

Chứng từ Đức Tin là vậy đó.

 

Còn gì nữa?

 

Hàng ngàn cánh tay, hàng ngàn chiếc quạt, hàng ngàn ngọn nến lung linh,... lạ thật, chẳng một chút luyện tập cùng nhau, vẫn cứ giơ lên, sang trái, sang phải, đung đưa, ... theo điệu Thánh Ca, băng reo, nhạc điệu, quạt cho bên trái, bên phải, quạt cho mình, đều ơi là đều, chẳng phải là hình ảnh hiệp nhất sao?

 

Hàng ngàn cọng cỏ làm bằng giấy, được thấm đẫm hơi thở cầu nguyện từng người, đơn sơ nhưng thật lòng gửi lên làm máng cỏ đón Chúa Hài Đồng. Chẳng là một máng cỏ ấm áp nhất sao?

Và thấy các anh chị em khuyết tật nhày múa tươi vui, chẳng hiều sao lại nghĩ tới câu hát :

 

“.... Ta đã thấy gì trong đêm nay

Bàn tay muôn vạn bàn tay

Những ngón tay thơm nối tật nguyền

Nối cuộc tình nối lòng đổ nát

Bàn tay đi nối anh em

Về suối quê hương tắm gội nhục nhằn ....”

 

Một lần tĩnh tâm thay đổi được nhiều cách nghĩ và tư duy về tinh yêu Thiên Chúa khi bước vào mùa vọng.

 

Nguyễn Thái Vũ

Mục lục

 

GIÁNG SINH VÀ HOÀ BÌNH

Vinh danh Thiên Chúa trên trời

Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương!

Người ta thường lấy những lời này làm khẩu hiệu cho lễ giáng sinh, và chắc chắn đó là sứ điệp cốt yếu của ngày đại lễ này.

Nhưng ngày nay trước tình hình thế giới còn đầy dẫy hận thù, chia rẽ, bạo lực và máu lửa, thì những lời tung hô kia của các thiên thần trên hang đá Bê-lem xưa lại vang lên bên tai chúng ta như một lời chất vấn hay thách thức: Chúa Cứu Thế ra đời để mang lại cho nhân loại hoà bình và tình thương, nhưng đã 20 thế kỷ qua, trật tự thế giới có gì thay đổi không? Người Kitô hữu đón nhận sứ điệp hoà bình của Chúa giáng sinh có sống sứ điệp ấy không, đến mức nào? Nó có liên quan gì tới tới nền hoà bình mà loài người hằng khao khát và cố gắng xây dựng không?

Hoà bình: một khát vọng sâu xa

Hoà bình, bình an là khát vọng sâu xa của con người bởi vì con người luôn khao khát sống và sống hạnh phúc sung mãn. Mà thiếu hoà bình, thiếu bình an thì làm sao có hạnh phúc? Người Việt Nam ta, cũng như nhiều dân tộc khác, thường thăm hỏi nhau với câu: "Anh (chị, ông, bà, gia đình ...) có được bình an không? Và một trong những điều chúng ta cầu chúc cho nhau nhiều hơn cả cũng là bình an, nhất là trong dịp tết nguyên đán. Hai chữ bình an mang một nội dung cụ thể rất phong phú: bình an là không bị đau ốm,không bị tai nạn, không gặp những khó khăn rắc rối trong các mối quan hệ nơi gia đình, ngoài xã hội hay trong công việc làm ăn,v.v.: tích cực hơn, bình an là khoẻ mạnh, vui vẻ, tinh thần thư thái thảnh thơi, sống hoà hợp với mọi người, gặp những điều tốt lành, may mắn? Người Việt Nam thường gắn chữ AN vào một số chữ khác, làm thành những lời chúc hay những cách diễn tả một ước muốn đẹp đẽ, như: an cư, an chức, an dưỡng, an hưởng, an tâm, an toạ, an giấc... Đặc biệt, chúng ta quen gắn bình an với hạnh phúc trong các lời chúc đầu năm mới.

Hằng năm, Giáo Hội công giáo chọn ngày 1 tháng 1 dương lịch làm "ngày thế giới hoà bình" để cầu nguyện cho hoà bình và giáo dục ý thức hoà bình. Trong sứ điệp hoà bình năm 1974, Đức Thánh Cha Phao-lô VI đã viết : "Hoà bình là lý tưởng của loài người. Hoà bình là cần thiết. Hoà bình là một bổn phận. Đó là một sự khẩn thiết phát sinh từ nội tại đời sống chung."

Hoà bình của Đức Kitô

Nhưng nguyện vọng con người được sống hoà bình, trong một trật tự hoà hợp với nhau và với vạn vật cũng hoàn toàn hợp với ý muốn và chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Giáo lý công giáo dạy rằng Thiên Chúa muốn cho loài người sống thành một gia đình, biết nhìn nhận Người là Cha chung và sống hiệp nhất yêu thương nhau như anh em. Nhưng tội lỗi của con người chống lại Thiên Chúa đã gây nên tình trạng xáo trộn, đổ vỡ, chia rẽ trong gia đình nhân loại: bắt đầu là giữa hai tổ tông A-dong và E-và, tiếp đến là giữa hai anh em Ca-in và A-ben (cuộc huynh đệ tương tàn đầu tiên theo Kinh Thánh), rồi giữa loài người trong vụ xây tháp Ba-ben... Và những gì Thiên Chúa làm sau đó để cứu độ con người, là một loạt những sáng kiến và hành động nhằm tái lập lại trật tự hoà hợp nguyên thủy. Mà hành động quyết định và kỳ diệu nhất là việc Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người, nối lại nhịp cầu giữa Thiên Chúa và loài người và làm cho con người lại được trở nên con cái Thiên Chúa và anh em với nhau thực sự. Vì thế, thánh Phao-lô đã có thể viết: "Đức Ki-tô là bình an của chúng ta" (Ep 2,14), là "Đức Chúa của bình an" (2 Tx 3,16): Tin mừng của Người là "Tin mừng bình an" (Ep 6,15) và Nước Thiên Chúa mà Người rao giảng là "sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần" (Rm 14,17).

"Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá"...

Hoà bình Đức Ki-tô đem tới không phải là chuyện dễ dàng mà một kẻ mơ mộng, một người lười biếng hay nhu nhược cũng có thể làm được. Trái lại, nó đòi hỏi người ta phải mạnh mẽ, can đảm chiến đấu không ngừng để tiêu diệt tính ích kỷ, lòng tham lam, óc thống trị và sự hận thù. Muốn có thứ hoà bình đó, phải hy sinh quên mình và nếu cần, phải đổ máu ra vì hạnh phúc của anh em. Chính Đức Ki-tô đã dạy và đã sống như thế: "Con Người đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mt 20,28). Và: "Người đã liên kết đôi bên, dân Do-thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét" (Ep 6,14).

Chúa đến trần gian không thay đổi số phận bề ngoài của con người, Người không mang lại những giải đáp cụ thể cho các vấn đề của chúng ta--vấn đề hoà bình cũng như các vấn đề khác. Tìm các giải đáp là bổn phận của chúng ta. Nhưng điều Người đem tới trần gian là một tinh thần, một sức mạnh tinh thần, một nguyên lý hành động lớn lao có sức cải tạo vô song: đó là tình yêu, tình liên đới, tinh thần phục vụ và niềm cảm thông sâu xa với mọi người, mọi vật.

Chúa không muốn cứu con người từ xa xa (như người ta chìa cái sào ra cho một người sắp chết đuối), nhưng Người đã từ bỏ hạnh phúc trời cao, dấn mình vào lịch sử con người, làm người anh em của mọi người, không trừ ai. Chính những kẻ bé mọn, nghèo khó, đau khổ, những người bị khinh dể, bị loại trừ, những người tội lỗi là những người đầu tiên nhận ra Người là vị Cứu Tinh của họ.

Người Ki-tô hữu và hoà bình

Là người đã được cứu độ, Ki-tô hữu trở thành "người con của hoà bình", nên họ có nhiệm vụ phải xây dựng hoà bình hơn ai hết. Hoà bình mà Chúa Cứu Thế mang tới trước hết là sự bình an sâu thẳm của một cõi lòng đã được "bình định", được "giải hoà" với Thiên Chúa và với anh em. Như thánh Phan-xi-cô nói, không thể gieo rắc bình an, xây dựng hoà bình nếu bản thân mình không có bình an trong lòng. Song nói cho triệt để thì chúng ta chưa bao giờ là Ki-tô hữu (trọn vẹn) cả, nhưng không ngừng phải trở thành Ki-tô hữu. Bởi thế chúng ta chưa góp phần tích cực mà đáng lẽ mình phải góp cho hoà bình trong xã hội và trên thế giới. Nếu Chúa Cứu Thế ra đời đã hai ngàn năm mà trật tự thế giới chưa thay đổi bao nhiêu, đó một phần là do tại những người tin Chúa không nỗ lực đưa tinh thần Phúc Âm vào trong cuộc sống cá nhân, gia đình và xã hội. Hoà bình đích thực của thế giới chắc chắn không thể xây dựng ngoài tinh thần của Đức Ki-tô: trên sự thật, công lý và tình thương.

Hoà bình đích thực trọn ven không bao giờ có được trên thế gian này, nhưng như Đức Phao-lô VI đã viết, hoà bình vẫn là một lý tưởng mà loài người phải cố gắng vươn tới, đồng thời là một ân huệ Chúa ban. Cử hành lễ Chúa Giáng Sinh, chúng ta, những người Ki-tô hữu, không những phải cầu xin ơn hoà bình mà còn phải có ý thức xây đắp hoà bình: "Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa" (Mt 5,9). Chúng ta hãy bắt đầu một cách khiêm tốn bằng những việc nhỏ, ngay từ các môi trường sống thông thường của mình: gia đình, khu phố, xóm làng, trường học, chợ búa, nơi ta làm việc: mỗi ngày hãy cố gắng gieo rắc chung quanh mình một chút bình an hoà thuận, một chút tin tưởng, hy vọng, tha thứ, hiệp nhất và một niềm vui nho nhỏ; mỗi ngày, hãy dấn mình vào cuộc sống với tinh thần Tám Mối Phúc mà thánh Phan-xi-cô đã hoạ lại thật tuyệt vời trong Kinh Hoà bình:

Lạy Chúa, xin biến đổi con thành lợi khí xây dựng bình an của Chúa...

(Giáng Sinh 2007).

Lm Nguyễn Hồng Giáo, dòng Phanxicô

Mục lục

 

Noi gương Đức Maria, gương mẫu sống Mùa Vọng

 

(Mt 1, 18-25)

Trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, vài trò của Thánh Giuse rất quan trọng. Bởi chính nhờ sự vâng phục của Thánh Giuse mà Đấng Emmanuel đã hiện hữu cách hợp pháp giữa lòng nhân loại với tư cách là con cháu vua Đa-vít. Để rồi qua một dòng họ, một dân tộc cụ thể, Ngôi Hai Thiên Chúa đã thực hiện công trình cứu độ cửa mình.

Thật vậy, sự vâng phục của Thánh Giuse đã khai thông bế tắc cho Đức Maria : không chồng mà có chửa ! Mặc dù Đức Maria đã được thụ thai bởi phép Đức Chúa thánh Thần, và Mẹ vẫn là một trinh nữ, nhưng với người đời, nào có ai biết và tin, ngay cả đối với Thánh Giuse, Ngài cũng thật sự ngỡ ngàng. Hơn nữa, sự im lặng của Mẹ, có thể do lòng khiêm tốn mà không muốn tiết lộ đặc ân cao cả này hoặc muốn dành sự sắp đặt cho một mình Thiên Chúa, cũng khiến cho Thánh Giuse sửng sốt và bối rối không biết phải giải quyết làm sao. Vì vậy mà Ngài đã định rời bỏ Đức Maria cách kín đáo. Thế nhưng, sau khi được sứ thần báo tin và cho biết rõ sự thật, Thánh Giuse đã can đảm nhận Đức Maria làm vợ và lãnh trách nhiệm làm cha của Đức Giêsu.

Qua đó chúng ta thấy sự vâng phục của Thánh Giuse quan trọng như thế nào.

Tuy nhiên, vai trò của Đức Maria thật sự còn lớn lao hơn nữa. Bởi chính nhờ lời xin vâng của Mẹ mà Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người, đã mặc lấy xác phàm để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia tiên báo thuở xưa : “Này đây trinh Nữ sẽ thụ thai, sinh hạ con trai và đặt tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Is 7,13).

Như vậy, Đấng Thiên Chúa thiêng liêng và siêu việt nay trở thành phàm nhân và “cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Nhờ Người, nhân loại được giải phóng khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết ; nhờ Người, chúng ta được giao hoà với Thiên Chúa và trở nên con cái Thiên Chúa.

Đức Maria được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, đó là một hồng ân lớn lao, là một nhiệm vụ vĩ đại và một vai trò to lớn, một vinh dự mà không một phàm nhân nào có được. Khi được sứ thần truyền tin, Đức Maria đã không hoài nghi như ông Dacaria, mặc dù Mẹ có bối rối khi biết mình sẽ có thai đang khi vẫn là một trinh nữ. Tuy nhiên, Mẹ cũng không vội vã nhận lời ngay. Đức Maria chỉ nhận lời sau khi đã tìm hiểu và nhận biết được thánh ý của Thiên Chúa. Và từ lúc thốt ra lời “xin vâng”, Mẹ đã can đảm đón nhận mọi sự xảy đến trong vai trò của mình một cách kín đáo : nơi hang Bê-lem bên máng cỏ cũng như dưới chân cây thâp tự.

Cũng như Đức Maria, mỗi người tín hữu được mời gọi sống đời tuyệt hảo bằng cách vâng theo thánh ý Chúa. Chúa mời gọi chúng ta làm con trong lòng Giáo hội không phải vì chúng ta giàu sang, đạo đức hay tài giỏi, nhưng Chúa mời gọi chúng ta chỉ vì yêu thương chúng ta và muốn chúng ta được ơn cứu độ, nên điều quan trong là chúng ta phải có thành tâm thiện ý để đáp trả lời mời gọi đó. Hơn nữa, không phải Thiên Chúa gọi chúng ta và chúng ta đáp lời “xin vâng” mà mọi việc sẽ được dễ dàng. Bởi sau khi đáp lời “xin vâng”, Đức Maria còn gặp nhiều thử thách, gian khổ hơn trước. Vì vậy chúng ta cũng phải trải qua nhiều khó khăn, gian khổ trong cuộc đời mình khi chúng ta đáp “xin vâng”.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho chúng con luôn biết sẵn sàng xin vâng theo thánh ý Chúa trong mọi tình huống của cuộc đời, nhất là khi gặp phải những khó khăn, gian khổ trong cuộc sống thường ngày. Và xin cho chúng con luôn biết cố gắng sống bác ái, yêu thương, để trở nên khí cụ bình an đem tình thương của Chúa đến cho mọi người. Chúng con xin phó thác mọi sự trong tay Chúa, xin Chúa hãy xếp đặt cuộc đời con và ban cho con theo đuổi cách xứng đáng và thích hợp với linh hồn.

Lạy Chúa,
Chỉ mong con chẳng còn gì,
nhờ thế gọi được Ngài là tất cả của con.
Chỉ mong ý muốn trong con chẳng còn gì,
nhờ thế con cảm thấy Ngài ở mọi nơi,
đến với Ngài trong mọi sự, mọi điều
và dâng Ngài tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong con chẳng còn gì,
nhờ thế con không bao giờ lẩn tránh Ngài.
Chỉ mong mọi ràng buộc trong con chẳng còn gì,
nhờ đó con trói buộc thân mình vào ý muốn của Ngài
và nhờ thế thực hiện ý Ngài trong suốt đời con,
ý ấy là tình yêu Ngài ràng buộc thân con.
(R. Tagore, TTHD 34)

 

Minh Thiện op

Mục lục

 

CÂY THẬP GIÁ TRONG MẦU NHIỆM GIÁNG SINH

 

 Có lẽ sẽ gây ngạc nhiên nhiều cho không ít người khi nói: “Cây thập giá trong mầu nhiệm giáng sinh”. Người ta quen nhắc đến thập giá, suy nghĩ về thập giá trong mùa chay, đặc biệt là tuần Thánh. Người ta cũng chỉ quen suy niệm về thập giá khi nhìn vào đau khổ, hoặc đối diện với đau khổ. Không biết có mấy ai nhìn thập giá khi đặt mình sống mầu nhiệm giáng sinh? Bởi vì từ những lời Kinh Thánh đến phụng vụ của Giáo Hội; từ tâm thức của Giáo Hội đến đời sống của xã hội đều nhìn mùa giáng sinh bằng ánh mắt của niềm vui tưng bừng. Niềm vui ấy đối với đa số người hình như còn lấn át cả đêm phục sinh. Như  vậy nói đến thập giá trong mầu nhiệm giáng sinh có phải là lạc điệu?

1. Nếu hiểu thập giá là sự đau khổ thì: Thập giá đã xuất hiện từ ngàn xưa.

·  Ngày nguyên tổ bị tước mất hạnh phúc nguyên khởi ở địa đàng do tội, thì ngay ở điểm bị tước mất hạnh phúc đã là thập giá. Hạnh phúc tột cùng bị thay thế bằng bất  hạnh quá sức: Đất để canh tác thì bị nguyền rủa, phải đổ mồ hôi, sót con mắt mới có bánh ăn; lao nhọc cả một đời rồi sẽ chết, sẽ trở về bụi đất (St 3, 8- 19).

Nhưng cũng từ sự mất mát ấy, bình minh ơn cứu độ bắt đầu ló dạng: Lời Thiên Chúa hứa cứu chuộc được phác khởi: “Ta sẽ đặt mối thù giữa dòng giống ngươi (kẻ chủ mưu của tội) và dòng giống người phụ nữ. Dòng giống đó sẽ đánh vào đầu người” (St 3, 15).

·  Trải dài trong lịch sử Cựu ước, ơn cứu chuộc không ngừng được nhắc đi, nhắc lại mãi cho đến thời cận Tân ước, đặc biệt là thời sách tiên tri Isaia ra đời. Trong đó Thiên Chúa báo trước ơn cứu chuộc đã đến gần, Thiên Chúa sẽ tha thứ tội lụy muôn dân, bình an sẽ sớm đến. Nhưng để chuộc lại sự bình an cho muôn dân, thập giá bắt đầu xuất hiện nơi khuôn mặt người Tôi trung chịu đau khổ.

 

2. Nếu hiểu thập giá là sự bình an thì: Thì thập giá đã xuất hiện trong mầu nhiệm giáng sinh.

và đến lúc ơn cứu chuộc của lời hứa bắt đầu được thực hiện, lúc mà Đức Maria, một người mẹ trần gian sinh ra Đấng là Thiên Chúa của mình, Thiên Chúa của vũ trụ và gọi Đấng ấy là con, thì ngay chính lúc ấy, thiên thần lại hát vang trời: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời bình an dưới thế cho người Chúa thương”.

Dẫu cho khi Thiên Chúa làm người, trần gian được bình an, ơn cứu chuộc mà Thiên Chúa chuẩn bị từ xa xưa trở thành sự thật, được cụ thể nơi một con người mang tên Giêsu, thì thập giá cũng đã xuất hiện từ đó: Thiên Chúa làm người đã sinh ra, nhưng không phải trong đền đài, không phải nơi cung điện nhà vua, cho nên ai tìm Thiên Chúa làm người ở những nơi sang trọng ấy sẽ không gặp Người. Bằng chứng là ba nhà đạo sĩ đã đến cung điện vua Hêrôđê và đã không gặp Người. Thiên Chúa làm người sinh ra ở chốn nghèo hèn, chỉ có hang đá làm nhà, máng cỏ làm nôi. Thiên Chúa làm người trong thân phận của một bé thơ yếu đuối…

Thập giá vẫn tiếp tục xuất hiện trong mầu nhiệm giáng sinh. Khi mà tiếng hát “Vinh danh Thiên Chúa trên trời bình an dưới thế cho người Chúa thương” của thiên thần còn chưa dứt, thì Đức Maria đã bồng con chạy trốn vì bạo vương Hêrôđê đang tìm giết hại. Và ông ta đã giết thật, dù không thể giết Thiên Chúa, thì cũng đã giết hàng loạt trẻ em do thái.

Thập giá đã xuất hiện từ ngàn xưa. Thập giá vẫn xuất hiện trong cuộc đời. Bởi đó thập giá ngang qua mầu nhiệm giáng sinh không là điều khó hiểu. Hướng tới niềm vui của mùa giáng sinh, mà nghĩ đến “cây thập giá trong mầu nhiệm giáng sinh” cũng là điều dễ hiểu. Điều quan trọng là làm sao tìm được bình an khi vác thập giá cuộc đời?

3. Nếu hiểu thập giá là sự cứu chuộc thì: Bình an thập giá cần trong đời người.

Trong niềm vui lớn lao của mầu nhiệm giáng sinh, vẫn xuất hiện bóng dáng của thập giá, thì trong đời thường chắc chắn không vắng bóng thập giá.

Nói đến thập giá là nghĩ ngay đến đau khổ, là bất an, dằn co, thiếu thốn… Vậy làm sao để đạt được bình an?

Lời Chúa Giêsu nói trong bữa tiệc ly soi dẫn chúng ta: “Thầy ban BÌNH AN CỦA THẦY cho các con. Thầy ban KHÔNG NHƯ THẾ GIAN ban tặng” (Ga 14, 27). Cũng gọi là bình an, sao lại phân biệt “của Thầy”, “của thế gian”? Vậy “bình an của Thầy” là bình an gì, như thế nào mà lại “không như thế gian”?

Suy nghĩ về thập giá trong mầu nhiệm giáng sinh, cho ta khám phá ra “bình an của Thầy”.

Qua lời thiên thần, Thiên Chúa làm người đã ban bình an. Cùng lúc ban bình an ấy, Người cũng dạy ta vác thập giá mà chính Người đã chấp nhận từ  thuở mới sinh làm người. Hóa ra bình an mà Chúa Giêsu dạy là bình an thập giá.

Trong bữa tiệc ly, trước lúc chịu tử nạn, Chúa ban bình an cho các môn đệ để các ông đủ nghị lực đối diện với cuộc tử nạn của Người, càng là bằng chứng cho thấy bình an của Chúa là bình an thập giá. Cũng chính vì thế mà nó không giống bình an thế gian ban tặng.

Bình an thập giá cũng là một thái độ nội tâm. Một thứ bình an của tâm hồn có thể chấp nhận và chịu đựng mọi thử thách trong cuộc sống. Người đời thường nghĩ, bình an là khi họ hạnh phúc, họ vui tươi, không vướng vào đau khổ. Bình an ấy cần, nhưng không bền vững: nay còn, mai mất. Chỉ có bình an nội tâm mới bền vững. Nó quan trọng và cần thiết. Thập giá trong cuộc đời là một thực tế. Muốn trốn chạy cũng khó thoát. Có được bình an nội tâm thì đối diện với thập giá, ta sẽ bình tĩnh hơn, đón nhận dễ dàng hơn. Bình an nội tâm để đón nhận thập giá, không những giúp ta bớt chán nản, không phàn nàn Thiên Chúa, mà ngược lại còn vững niềm tin hơn, vững lòng trông cậy hơn.

Trong mầu nhiệm giáng sinh, nếu Chúa Giêsu chấp nhận thập giá của Người, thì Đức Maria, thánh Cả Giuse cũng chung vai vác thập giá cùng đi bên cạnh con mình. Dẫu gian nan, Mẹ Maria, thánh Cả Giuse vẫn một lòng tin tưởng trẻ thơ ấy là Chúa, và vẫn một lòng yêu mến Thiên Chúa đến cùng.

Chấp nhận bình an của thập giá, và theo Chúa trong lòng tin và tình mến như thế, thập giá cuộc đời sẽ trở thành phương thế cứu chuộc ta.

4. Linh mục, người trao ban bình an.

Sống giữa cộng đoàn dân Chúa và cả những người chưa biết Chúa, linh mục trở thành mẫu gương sống đức tin cho mọi người. Đức tin đòi người linh mục chấp nhận thập giá để sống bình an: bình an của thập giá – bình an trong tâm hồn, sẽ giúp linh mục thông cảm với anh chị em, làm cho linh mục gần gũi mọi người, mọi người cũng sẽ không ngại ngần khi cần gặp linh mục.

Chấp nhận bình an thập giá linh mục sẽ chấp nhận sống nghèo khó, sống dấn thân như Chúa Giêsu để phục vụ con người, phục vụ Giáo Hội và phụng sự Chúa.

Bình an thập giá sẽ làm cho linh mục dễ nên thánh hơn khi biết chấp nhận và thánh hóa sự độc thân của mình, biết chấp nhận và thánh hóa những hiểu lầm, những chống đối đến từ phía người khác. Biết chấp nhận thập giá như thế, người linh mục sẽ không nuôi oán hận, mà dễ tha thứ hơn.

Mỗi lần dâng thánh lễ, dang tay ban bình an cho anh chị em của mình, linh mục hãy trao ban bằng tất cả tâm hồn bình an mà mình đã gắn bó với Chúa sau khi đã chìm đắm trong cầu nguyện, và giờ đây nài xin Thiên Chúa tuôn đổ bình an ấy xuống trên anh chị em. Linh mục cũng hãy ý thức rằng, mình cần có bình an nội tâm sâu lắng để trở thành nơi nương tựa và nâng đỡ đức tin cho những anh chị em gặp bất an trong cuộc sống của họ. Linh mục hãy dâng thánh lễ một cách ý thức và sốt sắng để thánh lễ trở thành nơi gặp gỡ bình an thực sự giữa cộng đoàn dân Chúa.

5. Một lời cầu nguyện.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con ý thức từng ngày để đừng xây cung điện, đền đài trong tâm hồn mình là mọi thứ tham vọng: tham vọng quyền lực, tham vọng vật chất, tham vọng dục tính, tham vọng nổi nang. Herôdê vì ngự trong cung điện giàu sang quý phái và xây cho mình quá nhiều đền đài tham vọng, cho nên ông trở thành kẻ vô tâm, độc đoán đến nỗi độc ác. Chúa không ngự trong những cung điện, đền đài ấy.

Vì thế, lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết xây dựng lòng mình thành hang đá Bêlem, một hang đá tâm hồn khiêm nhu, nghèo hèn, không tiếng tăm, không quyền lực, biết xa lánh những cám dỗ thấp hèn. Với tâm hồn hang đá như thế, con tin, Chúa sẽ yêu thích ngự vào.

Lạy Chúa Giêsu, ngay trong mầu nhiệm giáng sinh, Chúa đã làm đảo ngược tất cả: cung điện dù nguy nga đến đâu, đền đài dù tráng lệ cách mấy, lại không có chỗ chứa đựng Đức Chúa được tuyên xưng là Chúa các chúa, Vua các vua; Còn hơn thế nữa: là Vua vũ trụ! Vậy mà chỉ cần một hang đá Bêlem khiêm cung lại có thể chứa đựng Đấng quyền năng vô biên ấy. Hóa ra hang đá trở thành cung điện, còn cung điện chỉ là một thứ hang đá nghèo.

Và như thế, khi chiêm ngắm mầu nhiệm giáng sinh và nhận ra thập giá trong mầu nhiệm ấy, chúng con hiểu được rất nhiều về ý nghĩa của sự giàu trong cái nghèo. Hiểu được như thế lòng chúng con rất bình an, một sự bình an nội tâm để chúng con mạnh mẽ tiếp tục dấn bước giữa đời. Amen. 

Lm. Vũ Xuân Hạnh

Mục lục

 

TÀI LIỆU THƯỜNG HUẤN LINH MỤC GIÁO PHẬN ĐÀ LẠT 2007

 

MỘT VẤN ĐỀ

TRONG CÁC XỨ TRUYỀN GIÁO THƯỢNG :

NAM NỮ SỐNG CHUNG TRƯỚC BÍ TÍCH HÔN NHÂN

Trước hết cần lưu ý rằng từ ngữ sống chung ở đây hiểu theo nghĩa là đã cưới xin theo tục lệ, nhưng chưa cử hành Bí tích Hôn Phối theo luật đạo, việc này thường hoãn lại một thời gian sau đó.

Đã là tục lệ thì cần hiểu đó là chuyện bình thường xưa nay trong xã hội Thượng, trong khi đó việc áp dụng luật đạo cho hôn nhân vẫn còn đang là chuyện mới mẻ, chưa ảnh hưởng đủ mạnh để tạo nên  truyền thống và ăn rễ sâu trong cuộc sống, nên họ chưa hiểu và còn xa lạ, chưa thấy sự thiết thực bằng những tập tục cổ truyền của họ.

Không thể không lưu ý tới một số những khó khăn khác không do lỗi họ, ví dụ linh mục quản xứ ở quá xa, vấn đề mục vụ trong các vùng Thượng còn gặp rất nhiều bất cập do rất nhiều yếu tố khác nhau, khiến cho nhiều đôi bạn Thượng nghĩ rằng việc cưới xin theo đúng thủ tục của Giáo hội là quá khó khăn cho họ, họ đành phải chọn cưới nhau theo tập tục của cha ông theo thông lệ để cho xong chuyện, vì đó là cách thức trong tầm tay của họ.

Hiện tượng cưới xin này hiện nay còn khá phổ biến trong các xứ Thượng, khiến có thể nói rằng con số cử hành Bí tích trước khi về chung sống vẫn đang là con số ít, so với con số về chung sống trước và cử hành Bí tích Hôn phối sau.

Điều trên đây gây khá nhiều khó khăn cho mục vụ hôn nhân và gia đình trong các vùng Thượng.

Cần phải đặt vấn đề này trong bối cảnh đặc thù của nó, để thấy được đâu là những mối liên hệ tạo nên sự khó khăn đó cho chính các đôi hôn nhân Thượng, và từ đó giúp nhận ra những khúc mắc hiện nay nằm ở chỗ nào.

Một số những lý do cho việc chung sống trước Bí tích

Để trả lời cho vấn đề là tại sao có nhiều cặp nam nữ cưới nhau theo tục lệ trước, và rồi sống chung một thời gian, sau đó mới xin cử hành Bí tích hôn phối ?

Có thể thấy 2 lý do chính như sau :

1.                                                      Tập tục cưới xin cổ truyền cho đến nay vẫn thống lĩnh trong vấn đề cưới xin, dù cho họ đã theo đạo.

Để giải thích cho lý do này thì có thể nói rằng tập tục cổ truyền là môi sinh quan trọng nhất của chuyện cưới xin, một khi người Thượng đã rập theo tập tục ấy như đã nói ở phần trên thì chuyện hôn nhân đã được chính thức thừa nhận trong phạm vi gia đình, dòng tộc và cộng đồng.

Từ lúc ấy đôi nam nữ đã có sự ràng buộc với nhau, đã có quyền lợi và nghĩa vụ như mọi đôi vợ chồng khác.

Cho đến nay hầu hết vẫn hiểu Bí tích hôn nhân là một thủ tục tiếp theo cần phải hoàn tất ở một giai đoạn sau đó.

Nói tóm lại là chính cha mẹ là người tạo điều kiện cho chuyện con cái sống chung trước Bí tích hôn phối.

Không có sự hậu thuẫn của cha mẹ đôi bên thì con cái cũng không có sự sống chung, nên cha mẹ là người chịu trách nhiệm một phần lớn cho hiện tượng này.

2.                              Ảnh hưởng của Giáo lý vẫn đang ở thế chưa đủ mạnh trong cuộc sống thực tế hiện nay của người Kitô hữu Thượng.

Điều cần đặt ra ở đây là tại sao cha mẹ lại chấp nhận để xảy ra như thế ?

Là vì Giáo lý đức tin chưa ăn rễ sâu vào trong các cơ cấu tập tục, cơ chế gia đình, dòng tộc và cộng đồng, nên chưa thực sự chi phối chuyện tổ chức đời sống hôn nhân của họ.

Nói cách khác, nhiều người Thượng hầu như còn đang nghĩ rằng hôn nhân của họ theo tập tục cổ truyền là đã có giá trị rồi, Bí tích hôn phối là thủ tục tôn giáo làm tăng giá trị sẵn có ấy lên, nên cái tiên quyết vẫn là tập tục cổ truyền, họ bị áp lực của gia đình, dòng tộc của hai bên đòi buộc như thế, trong khi vẫn một cách nào đó cho rằng Bí tích hôn phối là một sự đòi buộc (của nhà thờ) và đành phải hoàn tất sau.

Từ đó đưa đến chỗ gia đình cũng như dòng tộc có thái độ châm chước, nghĩa là họ cho rằng từ lúc họ cử hành theo tập tục cổ truyền thì con cái họ đã là vợ chồng thật rồi, nên chuyện sống chung không được họ hiểu là xấu là tội, (ờ dri-tơlàr), và họ cho rằng chuyện chưa cử hành Bí tích có thể chấp nhận được.

Họ không chối bỏ bổn phận phải cử hành Bí tích, nhưng trong bối cảnh cụ thể họ dễ chấp nhận để cho luật đạo nhường bước luật đời, hoàn tất thủ tục đời trước và luật đạo sau.

Có vẻ đây không phải là dấu hiệu của sự suy thoái đức tin hay băng hoại về đạo đức, vì thường các cặp sống chung trước vẫn có ý ngay lành trong thực tế, nghĩa là họ có ý cưới nhau thật sự chứ không phải cưới thử, vì mọi sự được tiến hành đúng tục lệ,

Vấn đề là do Giáo lý đức tin vẫn còn trong tình trạng yếu kém trong cuộc sống của họ, nên họ bị sai lầm do không nắm vững Giáo lý khi để cho tập tục lấn lướt Bí tích.

Thực ra chuyện cưới xin thì xưa nay tục lệ vẫn thế, còn Bí tích hôn nhân theo luật đạo hiển nhiên là điều đến sau, nên nếu chưa chi phối và đứng trên tục lệ về hôn nhân thì hẳn không phải là chuyện lạ.

Nói tóm lại, chỉ khi nào Giáo lý ăn rễ sâu trong mọi cơ chế, từ gia đình cho đến dòng tộc và cả cộng đồng thì mới có thể thăng tiến hôn nhân và gia đình người Thượng được.

Đó mới là vấn đề, người Thượng chưa quí chuộng đủ điều mà họ chưa hiểu, đó là điều đương nhiên, trong khi vẫn coi trọng những giá trị truyền thống của họ.

3.                              Đi tìm những phương hướng khả thi cho sự thăng tiến hôn nhân và gia đình người Kitô hữu Thượng.

Có thể suy đoán rằng : điều người ta chưa hiểu thì người ta không thể quý chuộng, điều người ta không quý chuộng thì người ta cũng không giữ.

Vậy cái khúc mắc chính của chuyện đôi bạn sống chung trước Bí tích là do chỗ không hiểu biết giá trị của Bí tích hôn nhân hơn là vì hữu ý coi nhẹ Bí tích.

Ở đây không cố ý đẩy trách nhiệm sang phía khác, nhưng công bằng mà nói thì không thể đòi hỏi người Thượng phải giữ cái mà họ chưa hiểu.

Trong thực tế, rất dễ thấy rằng cưới nhau qua con đường Bí tích trước và sống chung sau chỉ có thể có tại những nơi có nền giáo dục tốt, hay được học hỏi Giáo lý đầy đủ và cẩn thận.

Hôn phối Công giáo đúng nghĩa là hoa quả chỉ có thể thu hái được nơi đã được gieo vãi trước đó.

Vậy vấn đề cần thiết và cần phải làm để thăng tiến đời sống hôn nhân và gia đình Kitô hữu Thượng là gì  ?

Kitô hữu Thượng cũng phải được học hỏi về Giáo lý tốt hơn trong hoàn cảnh cụ thể của họ.

Đặc biệt giới trẻ cũng phải được chuẩn bị hôn nhân bằng những lớp dự bị hôn nhân, sao cho thật thích hợp với hoàn cảnh của họ.

Vấn đề then chốt trong công cuộc rao giảng Tin Mừng cho các cộng đồng Thượng là vấn đề Phúc âm hóa cuộc sống của họ.

Vậy thì tình trạng cưới xin và sống chung trước Bí tích Hôn Nhân là một dấu chứng cho thấy của mức độ Phúc âm hóa ấy còn đang trong thời kỳ bất cập, vấn đề này là do vấn đề hiểu biết Giáo lý còn nông cạn.

Vậy vấn đề đặt ra chính là sự giáo huấn đức tin và đời sống cho các cộng đồng Kitô hữu Thượng, việc này đòi sự thông đạt liên tục và rõ ràng cho một thành phần được coi là bị giới hạn về mặt dân trí, trong đó những tập tục trong chuyện dựng vợ gả chồng không phù hợp với luân lý Kitô giáo, và cách riêng là những hủ tục làm giảm hạ phẩm giá của đời sống hôn nhân.

 

Tóm lại, có hiểu thì người ta mới mến chuộng, có mến chuộng thì người ta mới sống.

 

Mục lục

 

Chuyện ngụ ngôn đêm Chúa giáng sinh

Đang khi Thánh cả Giuse và đức Mẹ Maria trên đường đi tới Bethlehem, một Thiên Thần kêu mời các con thú vật lại một góc khu rừng.

Thiên Thần hỏi về khả năng cùng ý thích của chúng, mục đích để xem con thú vật nào có thể giúp được gì cho gia đình Thánh sẽ vào trú ngụ trong hang chuồng súc vật ngoài cánh đồng.

Chú Sư Tử to lớn mạnh dạn lên tiếng trước: Chỉ có một vị vua xứng đáng được hầu cận Chúa trời đất thôi.“ Nói đến đây anh ta rống tiếng vang khắp khu rừng và tiếp: „ Tôi sẽ canh chừng xua đuổi những ai mon men tới gần Hài Nhi Giêsu“.

Thiên Thần đáp lời: „ Bạn mà như thế, thì qúa hung tợn!“

Chú Chó Sói nhẹ nhàng tới gần hơn. Với vẻ mặt ngơ ngác ngây thơ nói: „ Tôi sẽ săn sóc gia đình Thánh thật cẩn thận. Cho hài nhi con Thiên Chúa tôi sẽ đi kiếm mang về mật ong và mỗi sáng tha về một con gà đã nấu nướng xong xuôi rồi!“

Thiên Thần đáp ngay: „ Như thế, Bạn cũng chẳng giúp được gì cho ta cả!“

Chị Công Công hai chân cao lêu ngêu bước tới gần, đang khi dương đôi cánh mầu sắc rực rỡ như phát thành tiếng gió phát ra chung quanh và nói:“ Tôi sẽ trang hoàng cho căn chuồng nghèo hèn bằng những trang sức qúy gía, như vua Salomon ngày xưa đã làm cho đền thờ của mình!“

Thiên Thần quắc mắt nói ngay: „ Như thế với ta qúa tầm thường!“

Còn nhiều con vật khác cũng đến trình bày ca ngợi công trình nghệ thuật của mình nữa. Nhưng tất cả đều không được chấp nhận. Đảo mắt qua một vòng, Thiên Thần thấy chú Bò và chú Lừa đang cùng Bác nhà nông cày ruộng.

Thiên Thần liền gọi họ lại: „ Còn hai chú có ý kiến gì không?“.

Chú Lừa buồn bã cụp đôi tai lại nói” Không, không có gì hết!“. Ngừng nghỉ giây lát, chú ta lại chậm rãi nói tiếp“ Chúng tôi không học điều gì khác hơn là lòng khiêm nhượng và sự kiên nhẫn. Vì người ta đánh thúc dục chúng tôi và luôn bắt chúng tôi phải mang vác chở thêm!“

Chú Bò lừ đừ có vẻ rụt rè nói thêm vào:“ Có lẽ chúng tôi có thể dùng cái đuôi của mình để đuổi ruồi muỗi bay đi, khiến chúng không mang bệnh truyền nhiễm đến!“

Nghe thế Thiên Thần mỉm cười nói ngay:“ Như thế, thật hữu ích. Hai Bạn là những người ta đang đi tìm!“.

W. Hoffsümmer, Kurzgeschichten 2, Nr. 12.

Lm. Nguyễn Ngọc Long

Mục lục

 

 

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH

TÌNH CHO

 

Khi còn là bạn tình, cả hai đều rất khó nhận ra những khuyết điểm của nhau. Bởi vì thần ái tình đã hớp hồn cả anh lẫn chị. Và giả dụ có nhận ra, thì tình yêu đang bềnh bồng trên mây, lúc đó, cũng dư sức che đi tất cả.

 

Nếu họa chăng, có người ở ngoài, khách quan nhận thấy và cảnh báo: “Suy nghĩ kỹ đi, có vấm đề đó ”. Thì cả hai không những bỏ ngoài tai, mà còn “Chụp mũ”, cho họ là dèm pha, ghen tị, chẳng khác gì một cảnh trong ca dao bình dân: Một người nhắc khéo một cô: “Ai ơi chớ lấy học trò, dia lưng tốn vải ăn no lại nằm”.  Thì cô được nhắc quy ngay cho cái tội:

 

 “Đi đâu chẳng lấy học trò,

Thấy người ta đỗ thập thò ra xem ”.

 

Nếu người ở ngoài là cha mẹ, họ hàng, thì cả cô cậu chẳng ngại ngùng “Phê”: “Bố mẹ gì mà khó tính quá. Yêu nhau trái ấu cũng tròn, huống hồ là mấy các vặt vãnh đó”.

 

 Nhưng thật khổ, khi đã thành vợ thành chồng rồi, con người thật của nhau mới xuất đầu lộ diện, rõ hơn cả ảnh kỹ thuật số.

 

Trước tiên phải nói tới bệnh ích kỷ. Nó là “Nguyên tố” cũa rất nhiều thói xấu khác như: Vô trách nhiệm, cư xử vụng về, ỷ lại, vô tâm, thậm chí tàn nhẫn nữa.

 

Một quy luật muôn đời, trong lãnh vực tự nhiên, là kim loại gặp axít nhất định sẽ bị ăn mòn. Vì thế, chẳng bà nội trợ nào dám đựng giấm, đựng muốn bằng bình nhôm, bình sắt.

 

Trong gia đình, ích kỷ được coi là loại axít cực mạnh, đủ sức tiêu hủy mọi chất tình yêu … Vậy mà, chẳng thiếu những anh chị vẫn đựng tình yêu trong những bình axít đó đấy.

 

Cả anh lẫn chị, không nhiều thì ít, đều ích kỷ, nhưng chẳng ai chịu nhận mình ích kỷ. Vì có ai chịu nhận mắm thối đâu. Anh đổ cho chị, chị gán cho anh, thế là cãi nhau.

 

Chị thì la toáng lên:

 -  Vớ phải cái người ích kỷ thiệt tiếc nát đời.

 Anh cũng đâu chịu thua:

- Ai ích kỷ thì người ấy tự biết. Tiếc cũng chưa muộn đâu!

 Cả hai chẳng ai chịu nhận mình ích kỷ. Lý do, người ích kỷ nào cũng chủ quan. Họ chỉ thấy người khác xấu, còn mình thì luôn tốt.

Hai người ích kỷ sống với nhau, rất có thể một trong hai đúng. Nhưng khổ ở chỗ, sống với người ích kỷ, thì lòng vị tha của người kia, trước sau gì cũng sẽ bị ăn mòn.

 

Ích kỷ, như vậy, quả thật là một bệnh hiểm nghèo của hạnh phúc. Vợ chồng cần phải cảnh giác phòng hờ.

 

Anh chị thân thương,

 

Khi chứng hôn cho anh chị, thừa tác viên của Giáo Hội đã lo lắng hỏi anh chị: “Chúng con có yêu thương và tôn trọng nhau suốt đời không?” Anh chị đã thưa, thưa bằng máy tăng âm cẩn thận, để cả cộng đồng tham dự đều nghe được: “Thưa có”.

 

 Lời thưa đó, đúng hay không, nhất định không chỉ nằm trong lễ thành hôn, mà là cả đời mình.

 

Một đặc tính căn bản của tình yêu là“Cho đi”, càng cho nhiều càng chứng tỏ yêu nhiều. Lộ trình của tình yêu “Cho đi”, không phải là cho mình, mà là cho người khác.

 

Nếu những ngày còn là bạn tình, anh chị đã cho đi, không tính toán, xin hoan nghênh anh chị về điều đó.

 

Nhưng nếu ngày mai, anh chị lại chỉ tìm cách thu về mình …, thì chứng tỏ anh chị chưa thành thật với lời đoan kết: “Yêu thương và tôn trọng nhau suốt đời”

 

 Hy vọng, anh chị sẽ không ở vào hoàn cảnh đó. Ngược lại dù khó khăn, dù trắc trở thế nào đi nữa, anh chị vẫn trung thành với lời thề hứa yêu thương của mình. Lời thề đó bao hàm một cam kết sẵn sàng cho đi, cho mọi sự, cho cả bản thân, có được điều gì, đều là để trao tặng nhau.

 

Cách yêu thương này, anh chị đã có một khuôn mẫu thật tuyệt vời, là Đức Kitô, Ngài đã yêu thương chúng ta, và đã dùng chính cái chết của bản thân Ngài, để minh chứng tình yêu đó. Anh chị hãy cố noi gương Người, thực hiện như Người. Tình yêu giữa anh chị, nhờ đó, mới thực sự là tình yêu chân chính.

 

 

Lm. Hồng Nguyên

Mục lục

 

 

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH

 

CHIA SẺ CÔNG TÁC MỤC VỤ GIÁO XỨ TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY (tiếp theo)

 

C. CỬ HÀNH PHỤNG VỤ THÁNH

a. Thánh lễ

- Cử điệu, giọng nói tự nhiên

Linh mục là người được Thiên Chúa tuyển chọn để -qua các ngài- Thiên Chúa tiếp tục chương trình cứu chuộc của Ngài ở trần gian, nhất là việc cử hành thánh lễ và ban các bí tích cho giáo hữu, cho nên vai trò của linh mục trong Giáo Hội rất là quan trọng, và quan trọng hơn nữa đối với đời sống tâm linh của giáo dân đó chính là thánh lễ.

Giáo dân đến nhà thờ để tham dự thánh lễ tức là đến để chúc tụng, ngợi khen và cám tạ hồng ân Thiên Chúa đã ban cho họ trong cuộc sống, và với đức tin mà họ đã lãnh nhận được, họ tin rằng ơn cứu chuộc đến từ nơi Thánh Giá trên đồi Calvê ngày xưa ấy vẫn đang tiếp tục hiến tế mỗi ngày trên bàn thờ, và qua linh mục, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục hiến tế trên bàn thờ mọi ngày cho đến tận thế.

Cho nên từ cử chỉ động tác cho đến đọc các lời nguyện trên bàn thờ khi cử hành thánh lễ, linh mục chủ tế cần phải ý thức cách trọn vẹn rằng mình đang tiếp tục vai trò thánh thiện của Chúa Giêsu ngày xưa trên đồi Golgotha, tức là dâng hiến Chúa Giêsu trên bàn thờ để xin ơn tha tội cho thế gian. Vì thế mà mỗi ngày, các linh mục luôn tự nhắc nhở mình là phải chuẩn bị chu đáo khi dâng thánh lễ, sự nhắc nhở này cần phải thôi thúc hơn trước khi tiến ra bàn thờ cử hành thánh lễ.

Có một vài linh mục trẻ chỉ chú trọng đến bài giảng sao cho chải chuốc đầy ý đầy tứ, và chú ý giọng lưỡi sao cho truyền cảm, mà không để ý đến thái độ cử chỉ của mình trên bàn thánh khi dâng thánh lễ : có vị thì giang tay rộng hết cở khi đọc lời nguyện, có vị khi đọc lời nguyện hay kinh nguyện Thánh Thể thì đọc nhanh như sợ ai giành đọc, lại có vị thì cử điệu y như là...biểu diễn thời trang rất ư là không tự nhiên, đôi lúc làm cho giáo dân cảm thấy khó chịu và lo ra, vì cha chủ tế cứ uốn giọng sửa tướng trên bàn thờ trước mắt họ.

Thiên Chúa ban cho chúng ta hình hài như thế nào thì cứ thế mà làm sáng danh Ngài, Thiên Chúa ban cho chúng ta dáng đứng tướng đi như thế nào thì cứ như thế mà làm đẹp lòng Ngài.

Có một vị linh mục lớn tuổi sau khi cử hành thánh lễ đồng tế đã nói với vị chủ tế là một linh mục trẻ mới chịu chức được một năm như sau : “Khi đọc lời nguyện cha dang hai tay quá rộng che mất hai cha đồng tế đứng hai bên phải trái của cha...”- Vì để “khẳng định” mình là người được học những môn “thần học phụng vụ” mới, nên các linh mục trẻ “thoải mái” pha chế thêm bớt những điều ngoài quy định của Giáo Hội về cử hành thánh lễ : có vị thì ưa thông báo lúc nào trong thánh lễ thì thông báo, có vị trước khi đọc lời truyền phép thì nhắc nhở “đôi điều” giáo lý về Thánh Thể, có vị thì thánh lễ như là dịp để mình khoe khoang cái hay cái kiến thức uyên bác của mình, mà không chú trọng đến điều cốt lõi để giáo dân đắm mình trong ân sủng của Thiên Chúa, đó là cử điệu đoan trang, giọng nói rõ ràng, thái độ cung kính đầy đức tin và một tâm hồn yêu thương.

Thánh lễ tự nó đã ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống của người Kitô hữu do ân sủng của Thiên Chúa ban cho, nhưng thái độ cử chỉ của vị chủ tế cũng ảnh hưởng rất nhiều đến sự tham dự sốt sắng của giáo dân, bởi vì ân sủng của Thiên Chúa thì vô hình nhưng cử điệu lời nói của linh mục chủ tế thì hữu hình, cho nên giáo dân sẽ miễn cưỡng đến nhà thờ tham dự thánh lễ với một vị chủ tế mà khi cử hành thánh lễ thì giống như...thầy pháp vẽ bùa, làm cho nhanh, cho qua chuyện. Mặc dù thâm tâm linh mục có đức tin, hiểu biết sự cao quý của thánh lễ hơn giáo dân rất nhiều, nhưng lại không bày tỏ ra dáng điệu cử chỉ đoan trang thánh thiện khi cử hành thánh lễ thì cũng là một cớ gây vấp phạm cho giáo dân...

- Trên bàn thờ.

Khi đi dự tiệc chúng ta thấy trên bàn được bày biện rất đẹp mắt, lịch sự và trang nhã khiến cho chúng ta vui vui và khen ngợi sự bày biện của nhà hàng.

Cũng vậy, bàn thờ là tượng trưng cho Chúa Giêsu, là nơi để cử hành Thánh Thể, là trung tâm của thánh lễ và nơi quy tụ giáo dân lại, đó là một dấu hiệu hữu hình của thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô.

Tôi đã thấy có một vài linh mục trẻ đã làm cha sở, phòng ngủ của các ngài sang trọng và sạch sẽ hơn phòng thánh, bàn làm việc của ngài rất trật tự, bàn ăn của ngài thì sạch sẽ bày biện đẹp mắt hơn bàn thờ dâng lễ nhất là khi có khách. Có những cha sở làm cái bàn thờ rất đắc tiền, bằng đá cẩm thạch hoặc gỗ quý, nhưng trên bàn thờ khi cử hành thánh lễ thì quá lộn xộn không ngăn nắp trật tự : khăn thánh thì ố vàng nhăn nhó, chén thánh thì đã bạc màu, sách lễ thì quá cũ và gáy sách đã mất, thậm chí có nhiều trang không đọc rõ chữ, khi các ngài chuẩn bị đọc lời truyền phép thì dĩa thánh chén thánh trên bàn thờ đều để không ngay ngắn trật tự không giống sự ngăn nắp trên bàn ăn của các ngài, thật không xứng đáng là bàn thờ tế lễ Thiên Chúa. Thánh Gioan Maria Vienaney sống rất khó nghèo, nhưng áo lễ của ngài thì đẹp lộng lẫy, chén thánh dĩa thánh của ngài rất sang trọng, những khăn thánh rất sạch sẽ, bởi vì ngài ý thức rằng mình đang tế lễ Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời đất cao sang vô cùng.

Chúng ta chỉ chú trọng đến việc xây nhà thờ thật cao to lộng lẫy, làm bàn thờ thật đắc tiền, nhưng đồ dùng cho việc trực tiếp hiến tế là dĩa thánh, chén thánh, áo lễ, khăn thánh thì lại coi thường. Có giáo dân nọ than phiền với tôi về việc nhà thờ kia cha sở cái gì cũng mua sắm rất đắc tiền, nhưng chén thánh dĩa thánh và khăn thánh thì quá tồi tệ, cái áo lễ đã bạc màu, áo trắng dài (alba) thì cáu bẩn lâu ngày không giặt, không biết ngài bỏ tiền đâu cả mà không thay cái mới hơn để dùng cho việc thờ phượng Thiên Chúa ? Giáo dân không tiếc tiền với nhà thờ thì tại sao cha sở lại tiếc tiền với Thiên Chúa !?

Giáo dân ngày xưa và giáo dân ngày nay khác nhau về trình độ giáo lý, cũng như hiểu biết về thánh lễ hoặc về những việc liên quan đến lễ nghi của Giáo Hội, giáo dân ngày nay bức xúc khi thấy một linh mục dâng thánh lễ không nghiêm trang, cảm thấy buồn lòng khi nghe một linh mục trẻ măng lên giọng cha chú dạy đời giáo dân, và rất bực mình khi thấy một linh mục trẻ ăn nói xấc láo với giáo dân đáng cha chú của mình. Cho nên khi cử hành thánh lễ -có hay không có giáo dân tham dự- thì linh mục cần phải nhớ rằng mình đang đứng trước ngai toà Thiên Chúa để cử hành thánh lễ, để nhờ đó mà mọi cử điệu của ngài sẽ luôn là cử điệu của Chúa Giêsu trong nhà tiệc ly và trên đồi Golgotha : khiêm tốn và yêu thương.

Có một vài linh mục trẻ được phái đi làm cha phó, trên mặt còn phảng phất nét hào quang và thoả mãn của ngày chịu chức, đã hùng hổ tuyên bố trên toà giảng với giáo dân rằng : “Thần học mà cha học là thần học mới, phụng vụ mà cha học là phụng vụ đổi mới”, và thế là mấy em giúp lễ hoặc mấy dì phước dọn phòng thánh của nhà thờ phải mệt đứ người vì cha sở làm lễ thì đơn giản, còn cha phó trẻ làm lễ thì phải thêm cái này bớt cái kia cho ...phù hợp với phụng vụ mới !?

Thánh lễ là trung tâm của người Kitô hữu, do đó vai trò chủ tế của linh mục rất quan trọng, bởi vì nơi các ngài, Thiên Chúa đã trao quyền tế lễ, để nhân danh Chúa Giêsu và Hội Thánh cử hành hiến tế tạ ơn. Quyền tế lễ này không một ai trên mặt đất này thay thế được, nên vai trò của linh mục càng quan trọng gấp bội, và giáo dân vì đức tin, vì Giáo Hội, vì Thiên Chúa mà chấp nhận chúng ta như là những đại diện Chúa Giêsu. Nếu chức tư tế này có thể thay thế -thì có lẽ- giáo dân sẽ thay một người khác đạo hạnh, khiêm tốn và nhân đức hơn chúng ta nhiều để cử hành thánh lễ cho họ.

Cho nên chúng ta -những linh mục trẻ- đường truyền giáo còn dài, cần phải khiêm tốn và luôn trau dồi đức hạnh cũng như trí tuệ của mình mỗi ngày, để xứng đáng cử hành mầu nhiệm thánh ấy.

b. Cử hành bí tích.

Hồi tôi còn giúp xứ, cha sở của tôi đã chỉ cho tôi cách làm bản đồ địa bàn giáo xứ và ghi chú rất cặn kẻ chi tiết tên tuổi, địa chỉ, tên đường, hẽm, số nhà và đánh dấu những ký hiệu thật dễ nhớ, ngài giải thích : “Phải chi tiết như thế, để khi có ai kêu đi xức dầu bệnh nhân thì hỏi rõ tên và tự mình đi cũng được, khỏi phiền giáo dân”. Và quả thật phương pháp này rất có lợi cho cha sở cũng như cho tôi là thầy giúp xứ biết rõ hơn về giáo dân trong họ đạo...

Giáo dân nhờ các linh mục để lãnh nhận các bí tích mà Chúa Giêsu đã lập ra, để chuyển ban ơn cứu độ của Ngài cho họ, cho nên cũng có thể nói cách chắc chắn rằng : làm linh mục là vì phần rỗi của giáo dân.

Đời sống tâm linh của giáo dân rất cần đến các bí tích chữa lành, cứu sống và kiện khang, đó là bí tích Giải Tội, bí tích Thánh Thể và bí tích Xức Dầu bệnh nhân. Ba bí tích này chỉ có các linh mục mới được cử hành, cho nên chúng ta -các linh mục- cần phải đáp ứng nhu cầu của giáo dân khi họ mong muốn lãnh nhận các bí tích này.

Có một vài cha sở từ chối thẳng thừng với giáo dân khi họ gõ cửa xin ngài ngồi toà giải tội ngoài giờ quy định. Tại sao chúng ta từ chối không ban bí tích Giải Tội cho họ chứ, tại sao chúng ta từ chối một tội nhân muốn làm hoà với Thiên Chúa chứ, tại sao chúng ta từ chối đón nhận họ trở về với đời sống mới trong bí tích hoà giải chứ ? Có một vài giáo dân đã nhiều năm không đến toà cáo giải, nay nhờ ơn Thiên Chúa giúp họ ăn năn hối cải trở về với Ngài, nếu chúng ta từ chối ban bí tích hoà giải cho họ, thì vì mặc cảm, vì tức giận, vì thất vọng họ lại sa ngã trong tội thì sao ? Càng suy nghĩ tôi càng thấy sợ hãi vì vai trò của linh mục là chữa lành, là cứu sống, là hoà giải tội nhân với Thiên Chúa, bây giờ lại từ chối người anh em đang cần đến mình để về với Thiên Chúa là cha nhân từ !

Chúng ta là mục tử nhưng chúng ta không học gương Chúa Giêsu đi tìm con chiên lạc trở về, chúng ta là thầy thuốc tâm hồn nhưng chúng ta không học gương Chúa Giêsu là nhân ái và chữa lành bệnh tật trong tâm hồn của giáo dân, giáo dân gọi chúng ta là cha nhưng chúng ta chưa bày tỏ cho họ thấy lòng quảng đại của người cha như ý Thiên Chúa muốn.

Dù cho giáo xứ có quy định giờ ngồi toà cáo giải, dù cho mỗi ngày chúng ta –linh mục- ngồi toà trước và sau thánh lễ, thì chúng ta cũng cần phải luôn vui vẻ, sẵn sàng khi có giáo dân đến xin xưng tội ngoài những giờ ấy, bởi vì những quy định ấy phần nhiều là dành cho giáo dân thường xuyên đi đến nhà thờ hoặc giáo dân nhiệt tình, nhưng không phải giáo dân nào cũng đợi đúng giờ mới đi xưng tội, mà trong giáo xứ vẫn còn có những giáo dân thánh thiện muốn đi xưng tội ngay sau khi đã ăn năn thống hối tội mình.

Linh mục nghĩa phụ (bố đỡ đầu) của tôi đã dạy tôi rằng : “Sau này thầy làm linh mục thì đừng bao giờ từ chối giáo dân khi họ đến xin xưng tội hoặc mời đi xức dầu bệnh nhân bất kể giờ giấc nào trong ngày, bởi vì làm linh mục là để ban bí tích và phục vụ, mà khi giáo dân cần đến mình thì tại sao lại từ chối, thế thì làm linh mục để làm gì ?” Lời dạy này của ngài vẫn ngày ngày ở trong tâm hồn tôi và càng suy nghĩ thì càng thấy là thấm thía, cho nên từ đó, khi đã làm linh mục thì hể nghe chuông điện thoại reo có người mời đi xức dầu hoặc đưa Mình Thánh Chúa cho bệnh nhân, là tôi vội vàng đi ngay dù đang tiếp khách hay làm việc viết lách, hoặc chuông cửa reo có người muốn xưng tội là tôi vội vã xuống ngay nhà thờ với nụ cười trên môi, để cho họ thấy là mình không làm phiền cha sở.

Và đó là bí quyết để giáo dân thích đến toà cáo giải hơn khi họ có vấn đề nan giải với Thiên Chúa và với tha nhân.

Thiên Chúa là tình yêu, tình yêu này được thể hiện rõ ràng nhất nơi các linh mục nói chung và các cha sở cha phó nói riêng, bởi vì linh mục là Chúa Kitô thứ hai, nghĩa là nơi các ngài phải có một tình thương yêu mọi người, nhất là những người đau yếu linh hồn, như Chúa Giêsu đã tỏ lòng thương yêu đám đông dân chúng theo Ngài...

Một linh mục trẻ nói với tôi với giọng chưa hết tức tối : “Anh coi, mở mắt là kêu là réo, họ không biết giờ này là em đang đọc kinh sao, xưng tộì thì từ từ, chết liền đâu mà sợ”, tôi cũng thấy một linh mục trẻ đã không mau mắn ngồi toà cho một giáo dân vì ngài đang bận tiếp khách, đến khi tiễn khách về thì không thấy người giáo dân ấy nữa, vì ông ta đợi quá lâu...

Thánh Vinh Sơn dạy rằng : “Đức ái cao hơn mọi việc, bỏ Chúa thì được Chúa”. Ý nghĩa của câu nói này thì cha Vincent Lebbe[1] giải thích cho các con cái ngài như sau : “Cầu nguyện là công việc cần thiết nhưng Đức Ái thì cao hơn, khi các con đang cầu nguyện (đọc kinh phụng vụ, lần hạt Mân Côi...noi tắt là cầu nguyện) mà nếu có người muốn gặp các con để xin giúp đỡ, để xin xưng tội, để bàn việc khẩn cấp.v.v... thì các con hãy tạm ngưng cầu nguyện nhưng đồng thời nội tâm vẫn kết hợp với Thiên Chúa để đi thi hành bác ái, vì tha nhân mà phục vụ”[2]. Câu nói đầy tinh thần bác ái này của thánh Vinh Sơn thiết tưởng rất thích hợp cho các cha sở, cha phó và những người làm công tác truyền giáo, bởi vì khi chúng ta “tạm bỏ Chúa” để thi hành bác ái vì danh Ngài thì hiệu quả càng cao, và chúng ta lại được Thiên Chúa không phải nơi kinh nguyện nhung là nơi tha nhân, là những hình ảnh sống động của Ngài...

Từ chối người tội lỗi đến xin hòa giải với Thiên Chúa trong bí tích Giải Tội, là linh mục tự tay mình xô hối nhân xuống hố tội lỗi, và trách nhiệm này các linh mục phải trả lời trước mặt Thiên Chúa trong ngày thẩm phán của Ngài, bởi vì chính các linh mục là người hiểu rất rõ về tình yêu của Thiên Chúa và sự công bằng của Ngài hơn các giáo dân.

a. Xin lễ và bổng lễ

Đây là việc tế nhị dù rằng có quy định rõ ràng của Giáo Hội và của đấng bản quyền địa phương, nhưng giáo dân vẫn cảm thấy như có một cái gì đó ngăn họ đến với Thiên Chúa khi nói đến số tiền (bổng lễ) mà cha sở quy định cho giáo dân. Giáo dân hiểu rất rõ rằng không thể dùng tiền để mua thánh lễ, vì đó là phạm thánh và là gương mù để cho những người ghét Giáo Hội có cớ để nói xấu và chỉ trích Giáo Hội của mình.

Cũng vì chuyện xin lễ và bỗng lễ mà có nhiều giáo dân không đến nhà thờ, và đối với họ việc xin lễ và bổng lễ là một cách giúp đỡ cho Giáo Hội và cha sở của mình sinh sống, không có gì phải nói, nhưng cái mà họ không mấy phấn khởi khi đi xin lễ nơi cha sở là vì cha sở có những quy định mà –đối với họ- giống như mua bán thánh lễ, làm mất đi ý nghĩa cao quý của việc xin lễ.

Tại giáo xứ nọ, giáo dân hầu hết là nghèo khổ chưa ăn bữa trưa đã lo bữa tối, giáo dân phần đông làm nghề nuôi tôm, nhưng gặp lúc thất mùa vì mưa lụt, lại càng khổ hơn. Có giáo dân bòn mót được năm mươi ngàn đồng (VN) giữ lại hai chục ngàn để mua gạo cho gia đình, vị giáo dân này đến cha sở để xin lễ giổ giáp năm cho ba mình, cha sở từ chối không nhận tiền lễ ba mươi ngàn đồng, người giáo dân năn nỉ với ngài là nhà hết gạo rồi bán tháo bán đổ mẻ tôm mất mùa được năm chục ngàn, con giữ lại hai chục ngàn để mua gạo cho gia đình, nhưng cha sở đã không động lòng thương xót đòi cho bằng được bổng lễ năm chục ngàn, vị giáo dân nghèo khổ này đành phải về nhà đem nốt hai mươi ngàn đồng bạc để mua gạo ấy đến xin lễ giỗ cho ba của mình...

Tôi được biết là người giáo dân hơn bốn mươi tuổi có hiếu với ba mình này đã rơm rớm nước mắt, vì thương ba và tủi cho cảnh nghèo của mình, và chắc chắn trong tâm họ sẽ nghĩ không tốt về cha sở của mình.

Giáo luật về bổng lễ Giáo Hội chỉ định rất rõ ràng, nhưng có một vài cha sở đã không làm đúng như luật Giáo Hội dạy. Giáo luật dạy rằng : “Hết sức khuyên nhủ các linh mục hãy dâng lễ theo ý chỉ của các tín hữu, nhất là những người nghèo cả khi không có bổng lễ”[3]. Không một ai nhẫn tâm trước cảnh khốn khó của người khác, huống chi là một linh mục của Chúa Giêsu, làm linh mục không bao giờ đói cả, mà nếu ngài có đói một ngày cũng không sao, hơn là cả gia đình giáo dân phải nhịn đói để xin lễ giỗ cho ba của mình. Tấm lòng của giáo hữu với cha sở thì quá lớn nhưng cha sở trên đây tính từng đồng và –nói theo tu đức- ngài đã không có tâm hồn thương xót người nghèo như là một người cha nhân từ và một mục tử chân chính của Chúa Kitô.

Đạo lý của Chúa Giêsu là ở chổ biết yêu thương người thân cận như chính mình, giúp đỡ người nghèo đói là giúp đỡ cho Ngài, điều này các linh mục hiểu rõ hơn bất cứ người nào trên mặt đất này, và sự giúp đỡ yêu thương này các linh mục rất có nhiều cơ hội để thực hiện, cụ thể là vui vẻ dâng lễ cho những giáo dân nghèo không có tiền làm bổng lễ để xin lễ cho người thân của mình.

Có một vài linh mục mà tôi quen biết đã rất hào phóng làm việc bác ái với giáo dân của mình, các ngài không nhận bổng lễ khi giáo dân có đám tang, đám cưới, bởi vì quan niệm của các ngài là : họ là con chiên của mình, đời người có một lần (đám ma, đám cưới) mình là cha sở phải chia buồn (đám ma) và chia vui (đám cưới) với họ bằng cách dâng lễ và cầu nguyện cho họ, đó là bổn phận của một cha sở... Ôi, tâm tình đầy yêu thương giáo dân của các linh mục này đã làm cho tôi suy nghĩ và quyết tâm học theo gương của các ngài khi làm linh mục, và bây giờ tôi đã và đang thực hiện điều ấy : không bao giờ nhận bổng lễ hoặc bất cứ lễ vật nào khác của giáo dân khi có đám cưới hoăc đám tang. Đó cũng là một cách truyền giáo rất thực tế mà chúng ta- các linh mục trẻ- cần phải khai thác với tất cả sự yêu thương.

Có một vài cha sở lại bày ra luật lệ của mình để chất gánh nặng lên vai giáo dân : các ngài ấn định lễ có hát và lễ không có hát với bổng lễ khác nhau, lễ nhiều tiền là làm ngay theo ý người xin, và lễ ít tiền thì bỏ vào cái hòm phía trước nhà thờ mỗi tuần cha sở mở ra một lần để làm lễ theo ý họ.

Đành rằng tiền chi phí điện nước, ca đoàn, giúp lễ là phải có (nên công khai danh mục chi phí này để họ biết mà làm theo đó, lâu ngày thành thói quen) nhưng phần bổng lễ dành cho cha sở thì nên vui vẻ chân tình nói với họ rằng người chết là giáo dân của tôi, tôi có bổn phận phải dâng lễ cầu nguyện cho họ nên không nhận bổng lễ, nếu mỗi cha sở biết làm như thế thì không những ngài có uy tín với giáo dân, lại còn là một mục tử tốt lành dưới con mắt họ, bởi vì không phải ngày nào cũng có người chết cũng như không phải ngày nào cũng có đám cưới mà sợ không có gì ăn !

Có một vài cha sở trẻ rất là không tế nhị về điểm này : có vị thì lên tòa giảng nói khéo để giáo dân xin lễ, có vị nói thẳng lớn tiếng với giáo dân là không biết giữ đạo vì không biết xin lễ, lại có vị thì chỉ trích thẳng mặt với giáo dân có thân nhân ở nước ngoài là keo kiệt vì họ chỉ xin đúng số tiền quy định.v.v... nếu không tế nhị và nếu không có tâm hồn quảng đại thì chúng ta –các linh mục- sẽ là người gây chia rẻ trong giáo xứ của mình về việc bổng lễ : người giàu và người nghèo, mà người phân biệt đối xử trước nhất chính là cha sở khi ngài quy định lễ hát, lễ không hát và lễ ít tiền trong giáo xứ của mình.

Giáo dân không có tiền để xin lễ hoặc xin lễ không đúng với số bổng lễ quy định thì đã sao, bởi vì không một tiền bạc vật chất nào trên thế gian này có thể mua nổi một thánh lễ Misa, thì tại sao chúng ta lại đòi cho đúng năm mươi ngàn đồng khi gia đình giáo dân ở nhà con cái thiếu ăn ? Nếu không vì lễ giáp năm của bố mình thì chắc chắn người giáo dân ấy sẽ không xin lễ với giá không đúng với số tiền đã quy định, nhưng vì chữ hiếu mà xin lễ và vì con cái không có cơm ăn mà phải giữ lại gần nửa số tiền đã bán tôm. Chúa Kitô đã chết trên thánh giá để trở nên của lễ toàn thiêu vô giá dâng lên Chúa Cha xin Ngài tha tội cho thế gian, tại sao chúng ta lại kỳ kèo với người giáo dân nghèo của mình cho đúng với số tiền đã quy định chứ ?

Chúng ta là linh mục tức là những mục tử của giáo dân, mà mục tử thì phải hy sinh –có khi hy sinh tính mạng- để đàn chiên được béo tốt, là đi tìm nơi nào có đồng cỏ tươi tốt để cho chiên ăn chứ không phải bắt chiên mà ăn thịt.

Giáo dân Việt Nam chúng ta có thói quen tốt lành là xin lễ rất nhiều đến nổi có cha sở làm không hết lễ cho một năm, cho nên có những lúc tôi và các anh em linh mục trong dòng nói đùa với nhau rằng : làm linh mục ở Việt Nam sướng hơn ở ngoại quốc, mà đúng như thế, vì giáo dân Việt Nam chúng ta rất kính trọng các linh mục, kính trọng quá mức. Còn giáo dân ở nước ngoài thì họ vẫn kính trọng linh mục theo cách của họ, họ vẫn yêu thương các linh mục của họ, dù cha sở của họ là người bản địa hay là người ngoại quốc họ đều yêu quý như nhau, nhưng họ ít có thói quen xin lễ như ở Việt Nam, có giáo xứ quanh năm cha sở chỉ làm vài lễ theo ý giáo dân xin, có giáo xứ mỗi tuần cũng có xin lễ vài ba ngày.v.v... cho nên –xét cho cùng- cha sở ở Việt Nam sung sướng hơn làm cha sở ở ngoại quốc nhiều, xét về mặt xin lễ.

Giáo xứ của tôi phụ trách là một giáo xứ có thể nói được là có tổ chức quy mô và dân trí cao của giáo phận, vì vị trí của giáo xứ gần các trường đại học nổi tiếng nên đa số các giáo sư công giáo đều ở tại giáo xứ của tôi, tri thức vì trình độ trên đại học và tiến sĩ, thạc sĩ của giáo dân chiếm ¾ giáo xứ, còn lại là đang học đại học hoặc trung học. Tri thức là như thế, nhưng giáo lý thì không thể so với các giáo dân ở Việt Nam chúng ta, và việc xin lễ thì càng hiếm hơn nữa, bởi vì họ ít có thói quen xin lễ...

Nói như thế để cho các linh mục trẻ của chúng ta hiểu rằng, ở Việt Nam, nếu một năm các cha sở trẻ làm “miễn phí” một vài lễ thì chắc chắn là không chết đói so với giáo dân của mình đem năm chục ngàn đến xin lễ mà trong nhà không có gì ăn.

Có giáo dân nói với tôi là cha sở của họ rất là phân biệt người nghèo người giàu, bởi vì thấy người lao động chân lấm tay bùn vào nhà xứ xin gặp cha sở thì ngài không có thái độ vồn vã chào hỏi, ghi sổ lễ xong là nói : tôi bận. Nhưng nếu có người giàu có trong giáo xứ vào gặp ngài thì ngài rất vồn vã, tự tay rót nước mời khách và ngồi trò chuyện rất lâu.v.v...

Có lẽ cha sở có việc của ngài, và giáo dân nghèo có lẽ mặc cảm với cái nghèo của mình nên nghĩ ra như thế chăng ? Tuy nhiên đây là một thực tế có thật mà giáo dân rỉ tai nhau nói như thế.

Con người ta nhân vô thập toàn, các linh mục cũng thế, nhưng cái mà mỗi người chúng ta cần phải đạt cho đến trong cuộc sống của mình, đó là nên thánh, các linh mục tu sĩ nên thánh trước và kéo theo giáo dân nên thánh với mình, đó là bổn phận và trách nhiệm của người tu hành mà cụ thể là các linh mục, tu sĩ nam nữ. Giáo dân kính trọng các linh mục và các linh mục tu sĩ nam nữ là ở chổ họ luôn luôn nêu gương sáng cho mọi người, mà người Trung Hoa có câu như sau : “dĩ thân tác tắc” nghĩa là lấy mình làm gương, mà muốn “dĩ thân tác tắc” thì chúng ta nên công khai cuộc sống của mình, công khai cuộc sống của mình là hoà đồng với hết mọi người, giàu cũng như nghèo, là tiếp đón vui vẻ với mọi giáo dân không phân biệt một ai, bất luận họ đến nhà xứ với lý do gì thì cũng đều coi họ như người trong gia đình : thân tình tự nhiên mà không kiểu cách đạo mạo như ông chủ...

Hãy nói nguyên tắc làm việc của mình cho rõ ràng với giáo dân, bởi vì nguyên tắc nào cũng phải làm cho giáo dân càng ngày càng đến gần Thiên Chúa hơn, cho nên chẳng còn gì vui thích bằng khi giáo dân nói cho nhau nghe : cứ tới cha sở đi, đừng ngại gì cả, vì ngài rất bình dân hoà đồng và sẵn sàng ngổi toà giải tội lúc nào cũng được. Chúng ta đừng sợ giáo dân quấy rầy mình, bởi vì họ rất tôn trọng các linh mục, nếu họ có đến thì chỉ có những dịp này : xin xưng tội, hôn phối, an táng và đem quà đến chia sẻ với cha sở của mình mà thôi, không một giáo dân nào ngày ngày đều đến nhà cha sở trò chuyện, cũng không có giáo nào quý cha sở đến mức ngày ngày đến hầu chuyện với ngài...

Xin lễ là việc đạo đức thánh thiện và bày tỏ lòng quảng đại của giáo dân đối với Giáo Hội, cũng như đối với các cha sở và cha phó hay bất cứ linh mục nào của Giáo Hội, nhưng việc xin lễ sẽ mất đi ý nghĩa của nó nếu chúng ta –các linh mục- không đặt tình thương yêu trên số tiền xin lễ của giáo dân, bởi vì của lễ thì không thể nào quý trọng bằng tâm hồn yêu thương của người xin lễ...

 

[1] Mt 20, 28.

[2] Mt 5, 22.

[3] Xem “Công, Dung, Ngôn, Hạnh của linh mục Chúa Kitô” cùng tác giả.

 

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.