TIN VUI

Tuần san Bạn trẻ Công Giáo  -  Số 124 CN 17.02.2008

 

Web site www.tinvui.org E-mail : bantreconggiao@yahoo.com

 

MỤC LỤC

 

 Chúa Nhật II Mùa Chay A.

HÃY VÂNG NGHE LỜI NGƯỜI.

PHÁT TRIỂN CHIỀU KÍCH THIÊNG LIÊNG.

Đức Thánh Cha chủ sự thánh lễ Thứ Tư Lễ Tro.

Kỷ niệm 150 năm Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức.

Đức Thánh Cha mời gọi các tu sĩ tăng cường sống Lời Chúa.

Những hình thức phong cùi mới trong xã hội ngày nay.

Ấn Độ: Giáo hội sẽ trỗi dậy mạnh mẽ từ đống tro tàn.

Đại Hội Thánh Thể Québec và Thượng Hồi Đồng Giám Mục Thế giới Roma.

GIỚI TRẺ GIÁO XỨ BẮC HẢI ( HẠT HỐ NAI )MỪNG LỄ HỘI TÌNH NHÂN – VALENTINE.

TỪ TRÁI TIM ĐẾN TRÁI TIM..

NĂM TÝ KÝ CHUYỆN CHUỘT THUỘC KINH THÁNH.

BÀI GIẢNG LỄ SINH NHẬT 100 TUỔI ĐỨC CHA MICAE NGUYỄN KHẮC NGỮ NGUYÊN GIÁM MỤC GIÁO PHẬN LONG XUYÊN.

HƯƠNG ĐỒNG GIÓ NỘI BAY ĐI... QUÁ NHIỀU !

Năm Mới Với Mẹ La Vang Phó Thác.

ĂN CHAY VÀ ĂN MẶN.

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC.

Thực trạng đạo đức học sinh.

Khó khăn của công tác giáo dục đạo đức.

Để kết luận.

Giây phút hiện tại

DIỄN VĂN KHAI MẠC HỘI THẢO HIV/AIDS.

ĐÂY LÀ CON YÊU DẤU CỦA TA.

TÀI LIỆU TĨNH TÂM LINH MỤC GIÁO PHẬN PHAN THIẾT.

BÀI 3: ĐỨC GIÊSU, ĐẤNG THIÊN SAI.

TÌNH YÊU SÂU SẮC.

HIỀN LÀNH.

DẤU CHÂN CỦA THẦY.

 

 

 

SỐNG LỜI CHÚA

 

Chúa Nhật II Mùa Chay A

PHÚC ÂM: Mt 17, 1-9

"Mặt Người chiếu sáng như mặt trời".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu đã gọi Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông này, và Người đưa các ông tới chỗ riêng biệt trên núi cao. Người biến hình trước mặt các ông: mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết. Và đây Môsê và Êlia hiện ra, và đàm đạo với Người. Bấy giờ ông Phêrô lên tiếng, thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Nếu Thầy ưng, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Lúc ông còn đang nói, thì có một đám mây sáng bao phủ các Ngài, và có tiếng từ trong đám mây phán rằng: "Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người". Nghe thấy vậy, các môn đệ ngã sấp xuống, và hết sức sợ hãi. Bấy giờ Chúa Giêsu đến gần, động đến các ông và bảo: "Các con hãy đứng dậy, đừng sợ". Ngước mắt lên, các ông thấy chẳng còn ai, trừ ra một mình Chúa Giêsu. Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các ông rằng: "Các con không được nói với ai về việc đã thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại". Đó là lời Chúa.

HÃY VÂNG NGHE LỜI NGƯỜI

 

Cứ vào Chúa Nhật thứ hai Mùa Chay, Giáo hội lại cho chúng ta đọc đoạn Tin Mừng về  Chúa Hiển Dung. Cả ba sách Phúc Âm Nhất lãm đều theo cùng một trật tự này. Phêrô tuyên xưng Thầy là Mêsia ở Xêdarê Philipphê, kế đó Đức Giêsu loan báo về cuộc Khổ Nạn, Tử Nạn và Phục sinh của mình, cũng như về điều kiện để làm môn đệ Người, cuối cùng là trình thuật về việc Đức Giêsu được hiển dung.

 

Khi loan báo về việc Khổ Nạn sắp tới, Đức Giêsu đã chấp nhận cách cứu độ mà Cha đã hoạch định cho mình. Đúng Người là Mêsia, nhưng lại là một Mêsia mang thân phận của Người Tôi Tớ đau khổ, như Isaia chương 53 đã tiên báo. Bản văn Mt 17, 2 thường được dịch là “ Người biến đổi hình dạng…”Thật ra, Đức Giêsu không tự “ biến hình”, nhưng được biến đổi hình dạng (cũng như không tự sống lại và lên trời). Chính Cha biến đổi thân xác Người, khuôn mặt Người. Hiển dung là lời đáp trả của Cha trước sự vâng phục tuyệt đối của Con, khi Con khiêm nhu nói tiếng xin vâng khiến Cha hài lòng.

 

Lời tiên báo về cái chết của Thầy Giêsu hẳn đã làm các môn đệ bị sốc, vì họ quen với quan niệm về một Mêsia chiến thắng lẫy lừng và đầy uy quyền vinh quang. Biến cố hiển dung như thế còn là hành động đặc biệt của Thiên Chúa Cha cho ba môn đệ. Cha muốn nâng đỡ lòng tin của họ và muốn vén mở cho họ thấy, trong một thời gian ngắn, vinh quang được ẩn dấu của Đức Giêsu, trong tư cách Người Mêsia và là Con yêu dấu của Thiên Chúa.

 

Thầy Giêsu từ trước tới nay vẫn xuất hiện dưới khuôn mặt của một người bình thường. Đây là lần duy nhất ba môn đệ được chứng kiến tận mắt khuôn mặt Thầy mình trong vinh quang thần linh. Có một sự biến đổi lớn nơi chính thân xác Thầy Giêsu : “Khuôn mặt Người chói lọi như mặt trời và y phục Người trở nên trắng như ánh sáng” (c.2). Khuôn mặt của Môsê cũng sáng chói sau khi đàm đạo với Thiên Chúa trên núi (Xh 34,29-35). Thành ngữ “chói lọi như mặt trời” ở Mt 13, 43, được hiểu theo nghĩa bóng để chỉ về tình trạng vinh quang của những người công chính  trong Nước Trời. Vị thiên thần hiện ra bên mộ Đấng Phục Sinh cũng có y phục trắng như tuyết ( Mt 28, 3).

 

Vinh quang của Thầy Giêsu còn trở nên lạ lùng hơn nữa khi bất ngờ hai ông Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo với Người. Đây là hai trong số những khuôn mặt nổi bật nhất của Cựu Ước, là hai vị duy nhất được trò chuyện với Thiên Chúa trên Núi Sinai. Trên ngọn núi cao này, họ lại đang trò chuyện với Đức Giêsu rực rỡ chói lọi. Như thế có mối liên hệ giữa Đấng mở ra thời Tân ước với hai đại diện lớn của Cựu Ước. Đấng không đến để bãi bỏ Luật Môsê hay lời các Ngôn sứ (Mt 5, 17) giờ đây đang gặp gỡ Môsê đại diện của Luật và Êlia đại diện các Ngôn sứ. Khi chiêm ngắm Thầy Giêsu đứng nói chuyện với hai nhân vật thuộc thiên giới, các môn đệ nhận ra vị thế cao cả của Thầy mình trong dòng lịch sử cứu độ.

 

Trước thị kiến phi thường này, Phêrô rất phấn khởi : “Lạy Ngài, chúng ta ở đây thì tốt lắm”. Và ông muốn kéo dài giây phút hạnh phúc này : “Nếu Ngài muốn, con xin dựng ở đây, ba cái lều, Ngài một cái, ông Môsê một cái, và ông Êlia một cái”.

 

Như thế Phêrô  nhận ra  hai vị  kia và ông đặt cả ba nhân vật ngang nhau, dù Thầy Giêsu được ông đặt lên trước. Lễ Lều là một  đại lê đầy tràn niềm vui của Do Thái giáo. Người ta sống trong các lều một tuần để nhớ lại thời gian sống trong sa mạc. Đức Giêsu vẫn hành hương lên Giêrusalem để dự lễ này (Ga 7, 2). Khi Phêrô nói đến chuyện dựng lều, có lẽ ông cũng nghĩ đến bầu khí tưng bừng của ngày đại lễ đó.

 

Chính lúc Phêrô còn đang ngây ngất thì một biến cố khác lại xảy ra “một đám mây sáng ngời bao phủ các ông”. Đám mây này tượng trưng cho chính sự hiện diện của Thiên Chúa, như ta thấy trong hành trình ra khỏi Ai Cập “Đám mây che phủ Lều Hội Ngộ, và vinh quang ĐỨC CHÚA  đầy tràn Nhà Tạm. Ông Môsê không thể vào Lều Hội Ngộ vì đám mây đậu trên đó..”(Xh 40, 34-35). Trước mặt Thượng tế, Đức Giêsu cũng nói đến việc Người  sẽ “ đến trên mây trời”  (Mt 26, 64). Đám mây phủ bóng trên ba môn đệ đưa họ vào sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa giới thiệu “ Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe Người”( Mt 17, 5). Khi Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan, từ trời cũng có lời giới thiệu tương tự ( Mt 3, 17). Qua lời từ đám mây, chúng ta nhận ra Đức Giêsu là Con Một của Thiên Chúa , Người được Cha hết lòng yêu mến. Trong tư cách là Con ở đây, Đức Giêsu trổi vượt trên cả hai khuôn mặt của Cựu Ước : “ Hãy vâng nghe Người”, đây là lời nhắn nhủ của chính Thiên Chúa cho các môn đệ và cho chúng ta. Hãy vâng nghe Thầy Giêsu và Thầy chuyển đạt cho chúng ta cách trung thành tuyệt đối ý muốn của Thiên Chúa.

 

Lời của Thiên Chúa từ trong đám mây là cao điểm của việc Thiên Chúa mạc khải Con của Ngài. Ngài đã cho khuôn mặt Thầy Giêsu được biến đổi và bừng sáng. Ngài đã cho Thầy nổi bật trước Môsê và Êlia. Ngài đã cho đám mây sáng ngời bao phủ ba môn đệ. Tất cả như để chuẩn bị cho lời giới thiệu và nhắn nhủ của Thiên Chúa. Và lời này, chúng ta hiểu tại sao Đức Giêsu được hiển dung. Sự toả sáng ngắn ngủi của Đức Giêsu không phải là cái gì từ ngoài mà đến, nhưng là sự hé mở của bản chất là Con Thiên Chúa của Người. Tự sâu thẳm Người được chia sẻ vinh quang rạng ngời của Thiên Chúa.  Các môn đệ “đã thấy vinh quang của Ngài” (Lc 9,32), “ vinh quang của Người Con Một nhận được từ Cha” (Ga 1, 14(. Khi xuống núi với khuôn mặt trở lại bình thường Con Thiên Chúa khiêm tốn sống mầu nhiệm làm người của mình, với vinh quang thần linh được che phủ.

 

Kinh nghiệm trên núi cao thật là một kinh nghiệm vượt sức chịu đựng của ba môn đệ. Họ đã nhìn thấy sự chói lọi của khuôn mặt Thầy Giêsu. Họ đã nghe thấy tiếng nói của chính Thiên Chúa từ đám mây. Kinh nghiệm về linh thánh quá hấp dẫn, nhưng cũng làm họ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất. Chính lúc Thầy Giêsu với khuôn mặt bình thường lại gần họ, chạm vào họ và nói với họ lời nâng dậy, trấn an. Sự đụng chạm của Thầy có thể nhằm cho họ thấy rằng những gì họ mới cảm nghiệm không phải là một ảo giác hay ảo tưởng. Thầy Giêsu với vinh quang bừng tỏa trên núi cũng là Thầy bình thường đang cùng họ xuống núi. Không thể dựng lều trên núi để ở lâu dài, vì Thầy chưa xong nhiệm vụ  Cha giao. Kinh nghiệm ngây ngất trên núi cao đem lại sức mạnh cho cả Thầy lẫn trò còn phải đi trên con đường của từ bỏ, phục vụ và hiến mạng.

 

Trong Mùa Chay, chúng ta được mời sống kinh nghiệm riêng tư của ba môn đệ về một cuộc tôn vinh Thầy Giêsu trên một ngọn núi cao, với khuôn mặt và y phục chói lọi, với hai bậc vị vọng hai bên (Mt 17, 1-8)..Tất cả đầy ánh sáng ! Nhưng trong Mùa Chay, chúng ta cũng được mời gọi để đến với Núi Sọ (Mt 27, 32-54). Đây là chỗ công khai, ai cũng thấy. Nơi đây khuôn mặt của Thầy Giêsu đầy vết khạc nhổ, mồ hôi và bụi đường, quần áo bị bóc lột.  Thầy bị treo trên thập giá, có hai tên cướp hai bên. Tất cả là bóng tối. Đời Kitô hữu chẳng phải là hành trình vượt qua bóng tối để vào ánh sáng, vượt qua cái chết nhục nhã để vào sự sống vinh quang sao ?

 

Phêrô đã không quên được kinh nghiệm chứng kiến Thầy được hiển dung. Ngài đã viết như sau : “Quả thế, Người đã được Thiên Chúa là Cha ban cho vinh quang và danh dự, khi có tiếng từ Đấng tuyệt vời vinh hiển phán với Người “ Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”. Tiếng đó, chính chúng tôi đã nghe từ trời phán ra, khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người (2 Pr 1, 17-18). Mùa Chay là thời gian dành đặc biệt cho cầu nguyện. Đó là thời gian được Đức Giêsu đưa đi riêng lên núi cao, thời gian chiêm ngắm khuôn mặt rất người phàm và rất thần linh của Người, thời gian nghe được tiếng Thiên Chúa. Chúng ta đã nghiệm những thú vui do trần gian cung cấp, để thoả mãn thèm muốn thấp hèn về nghe và nhìn. Chúng ta cần có kinh nghiệm về niềm vui thanh cao và bền vững của người được thấy Chúa diện đối diện, được nghe tiếng Chúa nói với riêng mình.

Thánh Irênê đã viết một câu nổi tiếng

 

“Vinh quang của Thiên Chúa là con người sống,

còn sự sống của con người là được thấy Thiên Chúa”.

 

Mong chúng ta có tâm hồn trong sạch để được thấy Thiên Chúa và được sống.

 

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.

Mục lục

 

 

 

TU ĐỨC

 

PHÁT TRIỂN CHIỀU KÍCH THIÊNG LIÊNG

 

Ngày mồng một Tết, chúng ta đến nhà thờ để dâng lễ, dâng tâm tình tạ ơn và dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa. Việc làm này được coi là hợp tình, hợp lý, hợp văn hóa cổ truyền.


Nó cũng là một dấu chỉ đáng mừng cho một đất nước đang phát triển. Bởi vì, đang khi đẩy mạnh việc phát triển về nhiều mặt, như xã hội, kinh tế, văn hóa, nghệ thuật..., dân tộc ta không quên phát triển về mặt thiêng liêng, coi yếu tố này là quan trọng cho việc phát triển cân bằng con người toàn diện.


Sự phát triển chiều kích tâm linh nơi con người Việt Nam đang tăng lên đều khắp một cách rõ rệt trong những ngày Tết, qua các nghi thức lễ bái nhớ về cội nguồn, được thực hiện trong các gia đình và trong các nơi thờ tự.

 

Hiện tượng này xem ra có chiều hướng phát triển rộng và dài lâu. Hiện tượng này là tự phát, như được thúc đẩy từ một động lực tâm lý bên trong con người. Những thúc đẩy này là một tiềm năng phong phú, sẽ gây được nhiều kết quả tốt, nếu được hướng dẫn và giáo dục. Hướng dẫn tới một mục đích cao đẹp, và giáo dục bằng những cách đạo đức thích hợp.


Trước hết, theo tôi, mục đích cao đẹp mà Chúa muốn chúng ta đi tới, nhờ những thúc đẩy thiêng liêng, đó là "trở nên một con người biết nhận lãnh từ một Ðấng khác, để rồi biết cho những người khác."


"Ðấng khác" mà tôi đến để nhận lãnh chính là Thiên Chúa của tôi. Nhận lãnh thánh ý Người. Nhận lãnh Thánh Linh của Người. Nhận lãnh tình yêu của Người.


Tôi nhận lãnh bằng việc hiến dâng. Không phải là dâng lễ, dâng của mà thôi, mà là dâng chính bản thân mình. Như lời Ngôi Hai đã nói với Chúa Cha: "Những lễ vật toàn thiêu và những lễ vật đền tội đã không được Cha chấp nhận. Bây giờ Con nói: 'Này Con xin đến, để thi hành thánh ý Cha' (Dt 5, 7).


Thánh Phaolô tông đồ cũng khuyên chúng ta điều đó: 'Tôi khuyên anh chị em hãy dâng chính bản thân mình làm lễ tế sống động, thánh thiện. Ðó chính là việc thờ phượng thiêng liêng, đẹp lòng Thiên Chúa' (Rm 12, 1)."


Dâng mình như thế không phải chỉ thực hiện một lần, mà là phải tiếp tục và làm mới lại từng ngày, để tới chỗ đạt được điều Chúa Giêsu dạy: "Các con hãy ở trong Thầy, như Thầy ở trong các con. Chúa Cha yêu Thầy thế nào, Thầy cũng yêu các con như vậy. Các con hãy ở lại trong tình yêu của Thầy" (Ga. 15, 9).


Nhưng ở lại trong tình yêu Chúa Giêsu không có nghĩa là thụ động, an nghỉ. Nhưng là mang tình yêu Chúa ra đi dấn thân phục vụ những người xung quanh và đồng bào mình. Phục vụ một cách đạo đức, vị tha, và như lời Thánh Phaolô dạy: "Với lòng lân mẫn, xót thương, nhân hậu, khiêm nhu, hiền từ, đại lượng, chịu đựng lẫn nhau, tha thứ cho nhau" (Cl 3, 12-13).


Tới được mô hình đạo đức trên đây là tới được một mục đích cao đẹp. Ðể tới đó, thiết tưởng chúng ta cần tự giáo dục mình. Bằng cách nào?


Thưa bằng việc hàng ngày tập thói quen nhìn lên Ðức Kitô để có những lựa chọn tốt, hợp với luật bác ái của Người. Những phục vụ có tình yêu chân thành, đồng thời có khiêm tốn, có từ bỏ vị kỷ, nhất là hướng về những đối tượng bị loại trừ, bao giờ cũng là những lựa chọn đúng và tốt.


Trái lại, những phục vụ hoặc thiếu tình yêu chân thành, hoặc có tính cách khoe khoang, vị kỷ, tham vọng, vụ lợi, tự hào tự đắc, phải coi là những lựa chọn không đúng, không tốt. Sống buông thả, lười suy nghĩ, thích hưởng thụ, trốn tránh phục vụ, không phấn đấu với chính mình để nâng cao khả năng phục vụ, đó là những lựa chọn dứt khoát sai, chúng ta phải khắc phục.


Trên đây là hướng phát triển và cách phát triển chiều kích thiêng liêng trong con người. Ðơn sơ thế thôi. Ðây là một đề nghị rõ rệt tôi chân thành gởi anh chị em. Ðây là một cầu chúc thiết tha tôi thân ái tặng anh chị em. Ðây là một con đường phát triển tôi muốn cùng anh chị em đi vào trong năm mới đầy hy vọng này.


Xin Thiên Chúa nhân lành ở với chúng ta mọi ngày mọi lúc trên con đường phát triển.

ĐGM. GB. Bùi Tuần

Mục lục

 

 

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI

 

Đức Thánh Cha chủ sự thánh lễ Thứ Tư Lễ Tro


ROMA: Chiều thứ tư, 6-2-2008, ĐTC Biển Đức 16 đã chủ sự cuộc rước thống hối từ nhà thờ Thánh Anselmo của dòng Biển Đức tới đền thờ thánh nữ Sabina của dòng Đa Minh và chủ sự thánh lễ tại đền thờ này với nghi thức bỏ tro mở đầu Mùa Chay Thánh.


Lúc quá 4 giờ rưỡi, ĐTC cùng với hơn 20 HY và 15 GM, hàng trăm tu sĩ dòng Biển Đức và Đa Minh, khởi sự cuộc rước trên quãng đường 500 mét, vừa đi vừa hát kinh cầu các thánh, các thánh vịnh Thống hối 50 và 24.


Tại Vương cung Thánh Đường thánh Sabina, trên đồi Avventino, có từ thế kỷ thứ V, ĐTC đã chủ sự thánh lễ, cùng với các Hồng Y và Giám Mục, trước sự tham dự của các linh mục tu sĩ nam nữ và giáo dân, đặc biệt là các vị lãnh đạo Hội Hiệp Sĩ Malta có trụ sở gần Đan viện thánh Anselmo.


Trong bài giảng, ĐTC diễn giảng về vai trò của kinh nguyện và việc chịu đau khổ trong đời sống Kitô hữu. Ngài nói: ”Kinh nguyện nuôi dưỡng hy vọng, vì không có gì biểu lộ thực tại Thiên Chúa trong đời sống chúng ta cho bằng việc cầu nguyện trong tin tưởng... Kinh nguyện chính là khí giới đầu tiên và chính yếu để chiến đấu và chiến thắng trong cuộc chiến chống lại sự dữ”.


ĐTC cũng nhấn mạnh rằng: ”Nếu không có chiều kích kinh nguyện thì cái tôi phàm trần của chúng ta sẽ co cụm vào mình, và lương tâm có nguy cơ biến thành cái gương phản ánh cái tôi của mình thay vì vọng lại của tiếng nói của Thiên Chúa, để rồi cuộc đối thoại nội tâm trở thành một cuộc độc thoại tự biện minh đủ loại cho mình. Vì thế, kinh nguyện bảo đảm sự cởi mở đối với tha nhân. Ai tự do đón nhận Thiên Chúa và các đòi hỏi của ngài, thì đồng thời cũng cởi mở đối với tha nhân, đối với người anh em đến gõ cửa tâm hồn mình, xin được lắng nghe, quan tâm, tha thứ, và đôi khi xin được sửa chữa trong tình bác ái huynh đệ”.


Sang đến vấn đề chịu đau khổ, ĐTC khẳng định rằng: ”Phục Sinh là mầu nhiệm mang lại ý nghĩa cho đau khổ của con người, đi từ sự cảm thông sâu xa của Thiên Chúa được thể hiện trong Chúa Giêsu Kitô... Đau khổ của Chúa Kitô tràn đầy ánh sáng của tình thương: tình thương của Chúa Cha đã giúp Con của Ngài là Đức Kitô tin tưởng đón nhận ”phép rửa” cuối cùng, là tột đỉnh sứ mạng của Người (cf Lc 12,50). Phép rửa đau khổ và yêu thương đó, Chúa Giêsu đã lãnh nhận vì chúng ta và vì toàn thể nhân loại. Vì thế, Chúa đã chịu đau khổ vì chân lý và công lý, mang vào trong lịch sử loài người Tin Mừng đau khổ cũng là một mặt khác của Tin Mừng tình thương.”


ĐTC cũng nhắc nhở rằng ”Hễ niềm hy vọng linh hoạt chúng ta càng lớn lao, thì chúng ta càng có khả năng chịu đau khổ vì lòng yêu mến sự thật và sự thiện, vui mừng dâng hiến những cơ cực lớn nhỏ hằng ngày, liên kết chúng với cuộc đại thương khó của Chúa Kitô”.


Trong nghi thức bỏ tro sau bài giảng, ĐHY Josef Tomko, 84 tuổi, nguyên Tổng trưởng Bộ truyền giáo, có nhà thờ hiệu tòa là Đền thờ thánh Sabina, đã bỏ tro trên đầu ĐTC, trước khi ngài bỏ tro cho các Hồng y và một số tín hữu. (SD 6-2-2008)

 

LỘ ĐỨC. Lúc 9 giờ sáng 11-2-2008, hàng chục ngàn tín hữu hành hương đã tham dự thánh lễ do Đức Cha Jacques Perrier GM giáo phận Tarbes và Lộ Đức, chủ sự tại Lễ Đài trước hang đá Đức Mẹ nhân dịp kỷ niệm đúng 150 năm Đức Mẹ bắt đầu hiện ra với thánh nữ Bernadette tại đây.



 

Kỷ niệm 150 năm Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức

 

Hôm 11-2-2008 cũng là ngày thế giới các bệnh nhân lần thứ 16. Đồng tế với Đức Cha Perrier có gần 30 GM và 800 LM Pháp và nước ngoài.


Ban chiều cùng ngày có giờ Chầu Thánh Thể, và ban tối có cuộc rước nến kính Đức Mẹ bắt đầu lúc 9 giờ tối từ hang đá Đức Mẹ.


Tổng cộng từ ngày 9-11 vừa qua có gần 70 ngàn tín hữu hành hương tuốn đến Lộ Đức, trong đó có hơn 30 đoàn tín hữu hành hương đến từ nhiều nước Âu Châu, và riêng từ Italia có 15 ngàn tín hữu, đặc biệt là một đoàn 2.500 tín hữu trong đó có nhiều bệnh nhân và người tàn tật dưới sự hướng dẫn của Đức ông Luigi Marrucci, Phó Tuyên úy toàn quốc của tổ chức Unitalsi, chuyên giúp đỡ các tín hữu bệnh nhân đi hành hương tại Lộ Đức và các đền thánh khác. 200 ký giả đã đăng ký để theo dõi và tường thuật các sinh hoạt tôn giáo.


Tại Roma


Nhân lễ kỷ niệm này, tại Roma, lúc 11 giờ sáng 11-2-2008 đã có cuộc rước trọng thể từ Lâu Đài Thiên Thần tiến qua đường Hòa Giải, và tới Quảng trường Thánh Phêrô. Hòm đựng hài cốt xương sườn của thánh nữ Bernadette Soubirous cũng được rước đi trong đoàn. Tại đây vào lúc 12 giờ, ĐHY Angelo Comastri, Giám quản Đền thờ Thánh Phêrô, đã chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin với các tín hữu. ĐHY gợi lại thân thế khiêm hạ của thánh nữ Bernadette và mời gọi các tín hữu noi gương thánh nữ đến cùng Mẹ Maria.


Sau đó, vào lúc 4 giờ, cũng tại Đền Thờ Thánh Phêrô, có buổi đọc kinh Mân Côi và thánh lễ do ĐHY Javier Lozano Barragán, người Mêhicô, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh mục vụ y tế, chủ sự, trước sự hiện diện của hài cốt Thánh Nữ Bernadette được đưa tới Roma từ ngày 8-2 vừa qua. 10 ngàn tín hữu ngồi chật thánh đường.


Trong bài giảng thánh lễ, ĐHY Lozano Barragán nhắc đến sứ điệp của ĐTC nhân ngày Thế giới các bệnh nhân lần thứ 16, liên kết ngày này với hai biến cố: kỷ niệm 150 năm Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức, và Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế sẽ tiến hành tại Québec Canada vào tháng 6 tới đây. Có một mối liên hệ chặt chẽ giữa Mẹ Maria và Thánh Thể. Thân Thể Chúa Kitô mà Mẹ Maria trao tặng chúng ta cũng là Mình Thánh Chúa trong Thánh Thể.


ĐHY Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh mục vụ y tế tái đề cao giá trị của đau khổ về làm nổi bật ”đặc tính sáng tạo của khổ đau, vì nhờ đau khổ trên Thánh Giá, Chúa Kitô đã cứu chuộc chúng ta và thiết lập công trình sáng tạo mới... Mỗi người chúng ta có thể nói: Đau khổ mà hôm nay tôi đang chịu Chúa Kitô cũng chịu đau khổ ấy. Nhưng đau khổ của Chúa Kitô không phải là một thứ đau đớn tuyệt vọng và buồn sầu, đau khổ chiến bại. Đau khổ ấy chính là tột đỉnh công trình của Chúa Kitô, là ”giờ” và là sự tôn vinh Ngài.


ĐHY Lozano cũng diễn giảng về ý nghĩa mầu nhiệm Thánh Thể và nhận định rằng Thánh Thể, như một sự tham phần vào đau khổ của Chúa Kitô, thúc đẩy chúng ta săn sóc các anh chị em đau yếu của chúng ta, bó buộc chúng ta trở nên 'bánh được bẻ ra' cho anh chị em.


Sau bài giảng, ĐHY Lozano Barragán và các vị phụ tá đã ban bí tích xức dầu bệnh nhân cho một số anh chị em như một sự chuẩn bị hữu hiệu để cảm nghiệm mầu nhiệm khổ đau cứu độ của Chúa Kitô.


Cuối thánh lễ, có cuộc rước tượng Đức Mẹ Lộ Đức đi giữa gian chính của Đền thờ, trong khi hàng ngàn tín hữu tay cầm nến sáng và miệng hát bài thánh ca kính Đức Mẹ Lộ Đức.


ĐTC không đến gặp và chào thăm các tín hữu được vì ngài tham dự Tuần tĩnh tâm mùa chay tại Vatican do ĐHY Albert Vanhoye, S.J, 84 tuổi, giảng thuyết.


Cũng nên nói thêm rằng cộng đoàn Công Giáo Pháp tại Roma cũng tổ chức một thánh lễ kỷ niệm vào lúc 6 giờ chiều 11-2-2008 tại Hang đá Lộ Đức trong vườn Vatican, do Đức ông Pierre-Etienne Pillot, Quản đốc Nhà thờ thánh Louis người Pháp ở Roma, chủ sự. Sau đó cũng có cuộc rước nến tại Vườn Vatican. (SD 11-2-2008)

 

Mục lục

 

Đức Thánh Cha mời gọi các tu sĩ tăng cường sống Lời Chúa

VATICAN. Chiều ngày 2-2-2008, ĐTC Biển Đức 16 đã gặp gỡ và mời gọi các tu sĩ nam nữ chuyên cần lắng nghe, suy niệm và sống Lời Chúa.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong cuộc gặp gỡ lúc 6 giờ 50 với các tu sĩ tại Đền Thờ Thánh Phêrô, sau thánh lễ bắt đầu lúc 5 giờ rưỡi do ĐHY Franc Rodé, dòng Lazariste người Sloveni, Tổng trưởng Bộ các dòng tu, chủ sự nhân lễ Đức Mẹ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh, cũng là ngày Thế giới lần thứ 12 về đời sống thánh hiến.

Đồng tế với ĐHY còn có Đức TGM Gardin, Tổng thư ký của Bộ các dòng tu, cùng với nhiều vị Bề trên Tổng quyền các dòng nam, trước sự hiện diện của lối 5 ngàn tu sĩ nam nữ và thành viên các tu hội đời và hàng ngàn giáo dân. Sau bài giảng của ĐHY, tất cả các tu sĩ hiện diện đã đồng thanh dâng lời cảm tạ Chúa vì hồng ân đời sống thánh hiến và lập lại quyết tâm dấn thân sống ơn gọi tu trì, các lời khuyên Phúc Âm và làm chứng cho Chúa Kitô.

Trong bài huấn dụ ngắn, sau khi nhắc đến đề tài của Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 12 vào tháng 10 năm nay tại Roma về ”Lời Chúa trong đời sống và sứ mạng của Giáo Hội”, ĐTC gợi lại tầm quan trọng của Lời Chúa, nhất là Tin Mừng, trong việc gợi hứng và soi sáng cho các vị Tổ Phụ sáng lập các dòng tu và trong tu luật, hiến pháp của các dòng, đồng thời ngài nhấn mạnh rằng: ”Theo Chúa Kitô, không chút do dự hay thỏa hiệp, như được đề nghị trong Tin Mừng, chính là qui luật tối hậu và tột định của đời tu trì qua dòng thời gian” (PC 2). ĐTC nhắc nhở các tu sĩ rằng: ”Anh chị em hãy nuôi dưỡng ngày của mình bằng kinh nguyện, suy niệm, lắng nghe Lời Chúa. Vốn quen thuộc với phương thức truyền thống ”lectio divina” (suy niệm và cầu nguyện với Lời Chúa), xin anh chị em hãy giúp các tín hữu đề cao phương thức này trong đời sống thường nhật của họ. Và anh chị em hãy biết diễn đạt qua cuộc sống chứng tá những gì Lời Chúa chỉ dẫn, để cho mình được Lời Chúa uốn nắn, hầu mang lại hoa trái dồi dào như hạt giống được gieo vào thửa đất tốt”.

ĐTC kết luận rằng: ”Ước gì người đời có thể thấy những công việc lành của anh chị em, là hoa trái của Lời Chúa sống trong anh chị em, và ngợi khen Cha của anh chị em trên trời” (Xc Mt 5,16).

Theo ĐHY Franc Rodé, trong toàn Giáo Hội hiện có 1 triệu 40 ngàn tu sĩ nam nữ, trong đó có 137 ngàn linh mục dòng. Nếu kể cả các tu huynh và đan sĩ và thành viên các nam tu hội đời, con số đó lên tới 196 ngàn người. Tổng số nữ tu là 836 ngàn, trong đó có 47 ngàn nữ đan sĩ chiêm niệm và 767 nữ tu thuộc các dòng hoạt động, 21 ngàn thành viên các nữ tu hội đời. (SD 2-2-2008)

Những hình thức phong cùi mới trong xã hội ngày nay

Ngày 27 tháng giêng vừa qua là ”Ngày Quốc Tế cho người Phong Cùi” lần thứ 54. Ngày này đã do ông Raoul Follereau, tông đồ người cùi, khởi xướng hồi năm 1954. Mục đích là để cổ võ tình liên đới của mọi người đối với hàng triệu anh chị em bệnh nhân phong cùi sống rải rác đó đây trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam và nhiều nước Á châu. Tại nhiều nơi nó được cử hành cả tuần và gọi là ”Tuần Cho Người Phong Cùi”, bắt đầu từ ngày 21 tháng giêng hàng năm.

Theo thống kê của Hội Bạn Người Cùi Italia trong năm qua đã có thêm 265.661 người mắc bệnh. So với năm trước nữa thì có hơi giảm một chút. Thật ra đây cũng chỉ là con số phỏng đoán, chứ cho đến nay không ai biết chính xác số người phong cùi cũng như số bệnh nhân mới là bao nhiêu. Lý do rất dễ hiểu, vì đối với nhiều dân tộc hay bộ lạc, bệnh phong cùi là một hình phạt, và người bệnh bị hất hủi, đuổi ra khỏi nhà và khỏi làng. Họ sống lang thang trong rừng sâu, hay tại những nơi hẻo lánh và chết cô đơn trong đó, mà không được ai thương xót đoái hoài tới.

Trong số các quốc gia có nhiều người phong cùi nhất thế giới hiện nay có: Ấn Độ, Brasil, tiếp đến là Indonesia, Congo, Bangladesh, Nepal và Mozambic. Nhưng như đã biết, vì quan niệm và tâm thức sợ hãi của người dân đối với bệnh phong cùi, nên có nhiều người bị bệnh mà không bao giờ khai báo, do đó không thể biết chính xác số người phong cùi trong một quốc gia nào đó và trên thế giới hiện nay là bao nhiêu. Ngoài ra, bên cạnh các người đang mắc bệnh cũng có hàng triệu người sống với các hậu qủa của bệnh phong cùi, cả khi họ đã khỏi bệnh, nhưng đã mất đi một hay nhiều phần thân thể của mình. Ngoài ra còn có một sự kiện không biết tới, đó là tại các nước tây âu cũng có người bị bệnh phong cùi, tuy ít.

Để gây qũy trợ giúp các anh chị em phong cùi, ngày 27 tháng giêng vừa qua tổ chức Bạn Người Cùi Italia đã bán các lọ ”Mật liên đới” tại 800 quảng trường trên toàn nước. Sáng kiến này đã được 3000 người thiện nguyện ủng hộ với sự cộng tác của một vài hiệp hội thương mại. Ngoài ra cũng có các chứng nhân đến từ các quốc gia, nơi tổ chức Ban Người Cùi hiện diện và hoạt động, để trình bầy về căn bệnh này và tình hình sức khỏe trên thế giới. Năm nay ”Hiệp hội các trọng tài bóng đá Italia” cũng tham gia chiến dịch gây qũy trợ giúp người cùi.

Bà Silvia Miletta, thuộc văn phòng dự án nước ngoài của tổ chức Bạn Người Cùi Italia cho biết hiện nay nhiều nước trên thế giới tuyên bố là đã đạt mục đích loại trừ bệnh phong cùi, có nghĩa là giảm số bênh nhân xuống dưới mức 1 bệnh nhân trên 10.000 dân. Nhưng trên thực tế ý niệm loại trừ bệnh cùi chỉ có giá trị thống kê, và các chiến thuật được đề ra để thực hiện mục đích này đã tỏ ra sai lầm. Thí dụ mới đây nước Brasil đã ghi nhận sự không thích hợp của chiến thuật, và đã áp dụng một kiểu mới giúp đối phó với bệnh phong cùi, trong đó bao gồm việc chữa trị và phục hồi với các biện pháp giáo dục và phòng ngừa.

Ông Raoul Follereau đã qua đời cách đây 30 năm, nhưng các chương trình và dự án của ông vẫn được tổ chức Bạn Người Cùi tiếp tục thực hiện. Ở đây việc trợ giúp các anh chị em phong cùi không chỉ hạn hẹp trong việc chữa trị bằng thuốc men, nhưng còn bao gồm việc phục hồi và tái hội nhập người cùi vào xã hội nữa, qua các sinh hoạt tạo công ăn việc làm cho họ. Đồng thời nó cũng gồm việc chống lại các nguyên nhân gây ra căn bệnh này và khiến cho bệnh lan tràn. Các nguyên nhân đó là nghèo túng, thiếu các dịch vụ y tế, cảnh bị gạt ra ngoài lề xã hội và nhất là sự thờ ơ của thế giới giầu có. Do đó, tổ chức Bạn Người Cùi Italia dấn thân giúp mọi người ý thức tình trạng này để chấm dứt căn bệnh mà ông Raoul Follereau gọi là ”bệnh hủi thờ ơ” và ”bệnh hủi ích kỷ”.

Qủa thế, nếu phải kể các thứ bệnh cùi của cuộc sống tinh thần, chúng ta sẽ có danh sách rất dài gồm đủ mọi thứ phong hủi của tâm hồn con người, trong đó có thái độ sống bất công, gian ác, điêu ngoa, dối trá, xuyên tạc sự thật. Cụ thể như các đài phát thanh truyền hình và 600 báo chí của nhà nước đang làm tại Việt Nam, liên quan tới chiến dịch giáo dân Tổng Giáo Phận Hà Nội đốt nết cầu nguyện cho công lý, hòa bình và các quyền con người. Sau mấy tuần ém nhẹm mọi tin tức, không cho nhân dân toàn nước hay biết các biến cố này, giờ đây giới truyền thông của nhà nước được lệnh đồng loạt xuyên tạc sự thật, vu khống, bôi nhọ hàng giáo phẩm, giáo dân và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.

Họ quên rằng từ 6 tuần qua, mọi tin tức và hình ảnh các diễn biến đã được gửi ra ngoại quốc và được toàn thế giới theo dõi. Những lèo lái, xuyên tạc, dối trá ấy không còn tác dụng đối với ai nữa. Chúng chỉ vén mở cho thấy một thứ bệnh phong hủi, lở loét, hôi thối, gặm nhấm tâm trí họ và vô cùng nguy hại cho cơ cấu của chính quyền cũng như nguy hại cho chính cuộc sống và tương lai đất nước mà thôi.

Lậy Chúa, hôm nay chúng con nhớ tới hàng triệu anh chị em bị vi trùng Hansen gặm nhấm thân xác đớn đau mỗi ngày. Nhưng chúng con cũng đặc biết nhớ tới tất cả mọi loại phong cùi trong tâm trí nữa. Đó là mọi thứ tội lỗi trong tâm hồn chúng con. Chúng nguy hại cho chúng con hơn bệnh phong cùi trên thân xác rất nhiều. Xin cứu chữa chúng con khỏi các bệnh phong cùi tâm linh ấy.

Mục lục

 

Ấn Độ: Giáo hội sẽ trỗi dậy mạnh mẽ từ đống tro tàn

AsiaNews - Trong cuộc trao đổi với Tin Tức Á Châu, Đức Hồng Y Telesphore Toppo, Chủ tịch Hội đồng Giám Mục Ấn Độ đã nói về chuyến viếng thăm của ngài tới Bubhaneshwar mới đây, nơi là trung tâm của bạo lực chống lại cộng đồng Kitô giáo trong mùa Giáng Sinh vừa qua. Nơi đây, sự giận dữ của những người quá khích đã cướp đi sinh mạng của sáu người và làm phá huỷ hàng tá nhà cửa và nhà thờ. Hàng ngàn người tị nạn sợ hãi phải trở về nhà. Nhưng “dù cho đau khổ vẫn ánh lên niềm hy vọng trong mặt của các Kitô hữu”. Dưới đây là những phát biểu của ngài:

Những đống tro tàn rộng lớn là những gì còn lại trong khu vực bị ảnh hưởng bởi làn sống bạo lực chống Kitô giáo ở bang Orissa trong mùa Giáng Sinh vừa qua. Đó là điều độc ác, nhà thờ bị báng bổ, nhà cửa bị đốt cháy. Các làng mạc bị những người quá khích Ấn giáo dùng bạo lực huỷ diệt nay thành đống tro tàn rộng lớn.

Những người quá khích Ấn giáo đã phá huỷ mọi thứ. Kitô hữu bị tấn công đơn giản chỉ vì lỗi lầm nào đó hoặc do một sự đối nghịch hay do sự xúi giục, hoàn toàn không có lý lẽ cho những vụ trả đủa như thế. Điều này cho thấy là đã có kế hoạch trước. Trong lịch sử Kitô giáo, Giáo Hội luôn bị đau thương và trên đống tro tàn một Giáo hội mới sẽ trỗi dậy. Các Kitô hữu đã hết sức đau khổ trong lịch sử, nhưng chúng ta không thể đau khổ hơn chính bản thân Chúa Giêsu Kitô.

Với những đau khổ của người dân như thế, tôi đã luôn động việc bằng tinh thần với người dân. Tôi đã thăm viếng các trại tị nạn, nơi đó có thật nhiều hy vọng trong ánh mắt của người dân. Họ mạnh mẽ trong đức tin. Khi người dân nhìn thấy tôi, gương mặt họ rạng rỡ niềm hy vọng và niềm trông cậy nơi ánh mắt họ. Họ mong đợi người dân Ấn Độ giúp họ tái thiết cuộc sống. Họ đã chịu đau khổ về thể lý, nhưng những thế lực tội ác không thể tiêu diệt họ về tinh thần. Tinh thần của con người sẽ không bao giờ chấp nhận những tội ác trầm trọng như thế, và sẽ chống đối những biểu hiện tội ác tàn ác và phi nhân như thế. Vì thế tôi tin chắc là Thiên Chúa sẽ soi sáng những chỗ quanh co tối tăm và người dân Ấn Độ sẽ không cho phép tội ác này chế ngự tinh thần của con người.

Ấn Độ là một đất nước rộng lớn, một nước cộng hoà dân chủ thế tục, tôi thúc giục nhà chức trách thực thi công lý cho các Kitô hữu chúng tôi. Tôi kêu gọi những ai muốn tháo gỡ sự ngự trị của lo sợ của người Kitô ở bang Orissa hãy thực thi trách nhiệm của mình, nhưng Triều đại của Chúa Kitô và sứ mệnh của Ngài sẽ được thực thi trên quê hương Ấn Độ rộng lớn này mãi mãi.

Trong thời điểm này, chúng tôi hằng ghi nhớ diễn từ của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, người đã khai sáng chúng tôi với thông điệp Spe Salvi (Chúng Ta Được Cứu Rỗi Trong Hy Vọng). Chúng tôi cần giải thích điều này trên quan điểm Kitô giáo, đó là Chúa Thánh Thần là Đấng soi dẫn Giáo Hội. Trong ánh sáng của sự bách hại mà người Kitô đã phải trải qua trong các trại tị nạn, niềm hy vọng có tầm quan trọng quyết định khả năng tinh thần của con người trong việc đối mặt với những vấn đề và những khó khăn tồn tại. (John Bosco Nguyễn Hoàng Thương)

Mục lục

 

Đại Hội Thánh Thể Québec và Thượng Hồi Đồng Giám Mục Thế giới Roma

Phỏng vấn Đức Hồng Y Marc Ouellet, Tổng Giám Mục Québec, về Đại Hội Thánh Thể lần thứ 49 tại Québéc và Thượng Hội Đồng Giám Mục về Lời Chúa tại Roma

Trong các ngày từ 15 đến 22 tháng 6 năm nay - 2008 - Đại Hội Thánh Thể lần thứ 49 sẽ được triệu tập tại Québéc bên Canada. Đức Hồng Y Marc Ouellet, Tổng Giám Mục giáo phận đang cùng với mọi thành phần dân Chúa ráo riết chuẩn bị cho Đại Hội Thánh Thể này.

Ngày 12-1-2008 Đức Thánh Cha Biển Đức XVI cũng đã chỉ định Đức Hồng Y làm Tường Trình viên chính của Thượng Hồi Đồng Giám Mục Thế Giới về đề tài ”Lời Chúa trong cuộc sống và sứ mệnh của Giáo Hội”, triệu tập tại Roma trong các ngày từ mùng 5 đến 26 tháng 10 năm nay.

Đức Hồng Y Ouellet năm nay 63 tuổi, thuộc tu hội Xuân Bích từ năm 1968, và từng là học trò của thần học gia Hans Urs von Balthasar bên Thụy sĩ. Năm 2002 Đức Cha Ouellet được chỉ định làm Tổng Giám Mục Québéc, kiêm Giáo Chủ Giáo Hội Công Giáo Canada, và ngày 21 tháng 10 năm 2003 đã được Đức Gioan Phaolo II vinh thăng Hồng Y.


Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận định của Đức Hồng Y Marc Ouellet, Tổng Giám Mục Québec, về Đại Hội Thánh Thể lần thứ 49 tại Québéc và Thượng Hội Đồng Giám Mục về Lời Chúa tại Roma.

Đại Hội Thánh Thể đã được triệu tập lần đầu tiên bên Pháp hồi năm 1881, dưới thời Đức Giáo Hoàng Leo XIII. Hai mươi bốn Đại Hội Thánh Thể đầu tiên đã có đề tài tổng quát. Đại Hội Thánh Thể triệu tập tại Lộ Đức năm 1914 có đề tài chính xác là ”Thánh Thể và chức vương quyền xã hội của Chúa Giêsu Kitô”. Và từ đó trở đi các Đại Hội Thánh Thể đều có một đề tài riêng khác nhau. Các Đại Hội Thánh Thể cuối cùng đã được triệu tập tại Seoul, thủ đô Nam Hàn năm 1989, tại Sevilla bên Tây Ban Nha năm 1993, tại Wroclaw bên Ba Lan năm 1997, tại Roma năm 2000 và tại Guadalajara bên Mehicô năm 2004 về đề tài ”Thánh Thể, ánh sáng và sự sống của ngàn năm mới”.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, càng ngày chúng ta càng tới gần Đại Hội Thánh Thế Quốc Tế lần thứ 49 triệu tập tại Québec, là Tổng Giáo Phận của Đức Hồng Y, công việc chuẩn bị đã ra tới đâu rồi?

Đáp: Công việc chuẩn bị cho Đại Hội Thánh Thế Quốc Tế Québec đang tiến hành tốt đẹp và số người ghi danh tham dự cũng khá đông. Tôi hy vọng sẽ có nhiều người tham dự hơn nữa, đặc biệt là tín hữu đến từ Italia.

Hỏi: Đức Hồng Y cũng đã lấy làm tiếc phải báo cho tín hữu biết là Đức Thánh Cha Biển Đức XVI sẽ không tham dự Đại Hội Thán Thể Quốc Tế được, có đúng thế không?

Đáp: Vâng. Chúng tôi đã hy vọng là Đức Thánh Cha sẽ đến tham dự, nhưng chương trình năm 2008 của Đức Thánh Cha đã dầy đặc rồi. Vào tháng 4 tới đây Đức Thánh Cha sẽ viếng thăm trụ sở Liên Hiệp Quốc tại New York. Vào tháng 7 ngài sẽ chủ sự Ngày Quốc Tế Giới Trẻ bên Australia. Vì thế nên hy vọng của chúng tôi đã là một điều qúa đáng. Dĩ nhiên nếu có sự hiện diện của Đức Thánh Cha, Giám Mục Roma, thì Đại Hội Thánh Thể Québec sẽ long trọng và tươi vui hơn, đặc biệt đây cũng là dịp kỷ niệm 400 năm thành lập thành phố Québec dọc sông San Lorenzo. Québec được thành lập năm 1608. Năm nay cũng là dịp kỷ niệm 1750 năm thánh Lorenzo tử đạo.

Hỏi: Nhưng trong Đại Hội Thánh Thể ban tổ chức có dự định nối liền với Roma qua chương trình truyền hình để cho Đức Thánh Cha có thể trực tiếp ngỏ lời với các tham dự viên hay không thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Trước hết Đức Thánh Cha sẽ gửi một vị Hồng Y đặc sứ của ngài đến tham dự Đại Hội Thánh Thể. Và chúng tôi cũng sẽ lo liệu để Đức Thánh Cha có thể trực tiếp ngỏ lời với các tham dự viên Đại Hội Thánh Thể qua hệ thống truyền hình viễn liên và để Đức Thánh Cha giảng trong thánh lễ. Tín hữu Canada cũng như dân chúng chờ đợi nhiều nơi những gì Đức Thánh Cha sẽ nói với họ.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, Canada là một quốc gia đa tôn giáo, như thế Đại Hội Thánh Thể cũng sẽ có mầu sắc đa đại kết, có đúng thế không?

Đáp: Chắc chắn là Đại Hội Thánh Thể sẽ mang chiều kích đại kết. Tôi đã xin Hội Đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô lập danh sách các nhân vật lãnh đạo các Giáo Hội Kitô và các cộng đoàn không công giáo, để chính thức gửi thư mời các vị tham dự Đại Hội Thánh Thể. Tôi hy vọng các vị được mời sẽ hiện diện, vì Đại Hội Thánh Thể sẽ được cử hành trước từ ngày 11 tới 13 tháng 6, với một đại hội thần học quan trọng.

Hỏi: Ngoài việc tổ chức và cử hành Đại Hội Thánh Thể ra, Đức Hồng Y cũng sẽ rất bận rộn trong Thượng Hội Đồng Giám Mục vào tháng 10 năm nay, vì Đức Thánh Cha đã chỉ định Đức Hồng Y làm Tường trình viên chính của Thượng Hội Đồng Giám Mục về đề tài ”Lời Chúa trong cuộc sống và trong sứ mệnh của Giáo Hội”. Đức Hồng Y đã tiếp nhận sự chỉ định này của Đức Thánh Cha như thế nào?

Đáp: Dĩ nhiên là tôi cảm động vì sự ưu ái mà Đức Thánh Cha Biển Đức XVI dành cho tôi, khi chỉ định tôi vào chức Tường trình viên chính của Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới, cả khi nhiệm vụ này có gia tăng công việc cho tôi. Nhưng đây là một Thượng Hội Đồng Giám Mục quan trọng đang gây được sự chú ý rất lớn trong Giáo Hội công giáo và các Giáo Hội và cộng đoàn Kitô khác trên toàn thế giới.

Hỏi: Như thế đây cũng là một Thượng Hội Đồng Giám Mục có chiều kích đại kết, có đúng thế không thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Chắc chắn rồi. Và chúng tôi hy vọng nó có thể góp phần khiến cho Giáo Hội Công Giáo và các Giáo Hội và cộng đoàn Kitô khác xích lại gần nhau hơn. Thật là điều tốt đẹp, nếu xảy ra như vậy. Lý do là vì chính việc chú giải Kinh Thánh đã là cớ gây ra sự tách rời của phong trào Cải Cách hay Tin Lành. Nhưng Thượng Hội Đồng Giám Mục này cũng sẽ là dịp để tái phát động chiều kích truyền giáo của Giáo Hội. Lời Chúa được trao ban cho tất cả mọi người. Và Giáo Hội có nhiệm vụ rao truyền Lời Chúa cho mọi dân tộc và ở khắp mọi nơi.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y đâu là các nút thắt khó khăn mà Thượng Hội Đồng Giám Mục phải đối phó và tìm cách giải quyết?

Đáp: Một trong những điểm cần được minh giải và phải luôn luôn được ghi nhớ đó là sự phân biệt giữa Kinh Thánh, là một chứng từ, và Lời sống động của Thiên Chúa, là Chúa Giêsu Kitô phục sinh và hiện diện trong Giáo Hội, một cách chính yếu trong các bí tích. Thế rồi còn có một vấn đề khác nữa cần được giải thích rõ ràng trong Thượng Hội Đồng Giám Mục sắp tới, đó là việc chú giải các tác phẩm Kinh Thánh, một sự chú giải không chỉ có tính cách cá nhân, mà phải luôn luôn được đối chiếu với truyền thống sinh động của Giáo Hội. Thế rồi việc chú giải đó cũng phải luôn luôn chú ý tới kho tàng của việc nghiên cứu tìm tòi của khoa giải thích kinh thánh, nhưng đồng thời cũng không được ở trong thế cạnh tranh và chống lại huấn quyền của Giáo Hội.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, trong các tháng qua, Đức Hồng Y đã là người đầu tiên tại Canada đương đầu với quyết định của chính quyền tỉnh Québec thay thế giờ tôn giáo bằng giờ luân lý đạo đức và văn hóa tôn giáo bắt buộc và đồng đều trong tất cả mọi trường học công cũng như tư. Tình hình vấn đề hiện nay ra sao rồi?

Đáp: Luật mà qúy vị vừa nhắc tới đáng lý ra phải bắt đầu có hiệu lực vào năm học tới. Nhưng rất may là có nhiều lực lượng chính trị đã yêu cầu rời việc áp dụng luật trễ hơn một năm, vì giờ học bắt buộc nói trên không hoàn toàn tôn trọng các căn cội Kitô và công giáo của vùng Québec. Và qủa là như thế. Nhà nước không thể cho mình quyền giải thích hiện tượng tôn giáo và áp đặt quan điểm riêng của mình trên dân chúng. Vì khi làm như thế là nhà nước vi phạm quyền của các gia đình và của Giáo Hội. Theo tôi thì quyết định này của chính quyền vi phạm tự do tôn giáo, nó là một hành động chuyên chế, nhân danh cái mà tôi gọi là một sự độc tài của chủ thuyết tương đối hóa. Vào tháng 3 tới đây sẽ có cuộc họp khoáng đại của tất cả các Giám Mục vùng Québec. Tôi hy vọng vào dịp này Hội Đồng Giám Mục sẽ đưa ra lời tuyên bố rõ ràng liên quan tới vấn đề này.

(Avvenire 31-1-2008)

Linh Tiến Khải

GIỚI TRẺ GIÁO XỨ BẮC HẢI ( HẠT HỐ NAI )MỪNG LỄ HỘI TÌNH NHÂN – VALENTINE

Tối thứ năm 14/2/2008 gần 2000 bạn trẻ Giáo Xứ Bắc Hải tổ chức đêm hội “VƯỜN YÊU“

Trước giờ khai mạc đêm hội Cha phó Đaminh Trần Mạnh Duyên – đặc trách giới trẻ dâng Thánh lễ cầu nguyện cho các bạn .

Trong bài giảng lễ, cha lưu ý nhắc nhở các bạn trẻ về “ Tình Yêu “ phải xuất phát từ Thiên Chúa Như lời Thánh Gioan xác định : “Thiên Chúa Là Tình yêu“ và  cao quý hơn là ”Tình yêu biết hy sinh cho nhau “ , “Tình yêu mãnh liệt hơn sự chết “ , “Tình yêu là nguồn sống cho đời “ ..v.v…

Chị Maria Nguyễn Thị Phương Thu – Trưởng Ban Trị Sự giới trẻ xứ cho biết : “Trong xứ Bắc Hải hiện nay có khoảng gần hai nghìn bạn trẻ, cả tháng nay các bạn nô nức đón mừng ngày lễ “ Tình Yêu “ , những hoạt động chuẩn bị cho ngày này là : Tiếp tục mời gọi thêm những bạn trẻ tham gia vào các sinh hoạt giới trẻ của xứ, các nhóm duy trì đọc kinh luân phiên hàng tuần trong các họ đạo, học hỏi tài liệu “Giáo Dục Kito Giáo “ của Giáo Phận gởi cho các gia đình và đoàn thể trong xứ, tổ chức các buổi dã ngoại, trao đổi kinh nghiệm đức tin và cuộc sống cho nhau … nói chung khi các bạn trẻ được mời gọi tham gia  công tác nơi Thánh Đường thì đều thể hiện lòng nhiệt thành , vui tươi  và hiệp nhất, đó là điểm son của người trẻ nơi mảnh đất xứ đạo Bắc Hải thân yêu này “ .

Được sự khích lệ của Cha xứ Bắc Hải Đaminh Bùi Văn Án, Cha phó Đaminh Trần Mạnh Duyên đặc trách giới trẻ xứ cùng các bạn trẻ tổ chức đêm hội “VƯỜN YÊU “ lần đầu tiên tại giáo xứ Bắc Hải thật “ Hoành Tráng – Vui Tươi – Ấn Tượng “ . Băng rôn Ngày Lễ Hội tình yêu được treo nơi cổng nhà thờ trước cả tuần lễ, khung cảnh trang hoàng cho đêm hội là Cổng chào được kết lại bằng nhiều cây Tre Vàng Việt Nam , các dẫy đèn Noel nhấp nháy lung linh đủ mọi mầu sắc , những chuỗi dài bong  bóng xanh đỏ tím vàng …Các ca sỹ như Gia Ân , Phi Nguyễn , Thủy Tiên, anh Minh Ngọc – Xiếc gia Từ Thành Phố Hồ Chí Minh, cùng với sự góp mặt của các nhóm Hip Hop T- Crew , nhóm Fzeag giáo xứ Hòa Hiệp, đã thể hiện những bài hát Thánh Ca, những bài hát ca ngợi Trái tim Tình yêu trẻ trung và các giai điệu Quê hương thanh bình hạnh phúc , các màn biểu diễn ảo thuật thật đặc sắc đầy kịch tính , các điệu nhẩy Hip Hop vui tươi mạnh mẽ điêu luyện …đã thu hút hơn hai nghìn khán thính giả, vừa thưởng thức các món ẩm thực Buffer tại chỗ, vừa theo dõi đêm hội .

Chương trình đêm hội “VƯỜN YÊU“ của các bạn trẻ giáo xứ Bắc Hải được khép lại vào lúc 22g30, xin được hẹn gặp lại vào Lễ Hội Tình Yêu ngày 14/2/2009, và cũng xin được lập lại lời cầu chúc trong thánh lễ mà Cha phó Đaminh Trần Mạnh Duyên – đặc trách giới trẻ xứ Bắc Hải chủ sự : “Cầu chúc cho những người đang yêu, những đôi vợ chồng đã yêu luôn sống hạnh phúc, và sống giây phút hiện tại bằng tình yêu thương chính là hạnh phúc “ .

                                                                                                                   Giuse Khổng Hữu Nguồn

 

Mục lục

 

TỪ TRÁI TIM ĐẾN TRÁI TIM

 

Từ tháng 6 năm 2004 đến tháng 12 năm 2007, Hội từ thiện các doanh nhân Đức (SWHH) đã tài trợ giúp 400 trẻ em Việt nam được mổ tim, tổng chi phí lên đến hơn 1,5 triệu đôla. Bàn tay tài hoa của bác sĩ Nguyễn văn Phan đã giải phẫu thành công 400 ca mỗ tim. Niềm vui những ngày đầu năm mới, niềm hạnh phúc chan chứa trên khuôn mặt các em, các phụ huynh đã hoà quyện trong niềm vui hạnh phúc của các Ân nhân Đức, các bác sĩ, các cộng tác viên đã làm nên lễ hội từ trái tim đến trái tim.

 

Mồng 6 Tết Mậu Tý, một ngày Lễ hội của các trẻ em bị tim bẩm sinh đựơc chữa lành.

Từ sáng sớm khuôn viên giáo xứ Ba Đông – Xuân Lộc đã rộn ràng, nhộn nhịp. Những bài ca mùa xuân vui tươi hát vang chào đón quan khách.

 

Có 300 em cùng phụ huynh đến từ khắp mọi miền đất nước: Sài Gòn, Đồng Nai, Tiền Giang, Bình Thuận, Ninh Thuận, Bến Tre, Bình Phước, Hậu Giang, Sóc Trăng, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Long An, Kiên Giang, Rạch Giá, Cà Mau. Còn 100 em không đến dự được vì quá xa xôi từ các tỉnh phía Bắc.

 

Một số Linh Mục, Tu Sĩ, Nicô và các tổ chức bảo vệ trẻ em cùng tham dự lễ hội như: Hội bảo trợ bệnh nhân nghèo Vĩnh Long, Hội Chữ Thập Đỏ Củ Chi, Uỷ Ban Bảo Trợ Trẻ Em Tiền Giang, Uỷ Ban Dân Số Gia Đình Long An, Hội Bệnh Nhân Nghèo Bến Tre. Vợ chồng bác sĩ Phan, một số bác sĩ thuộc bệnh viện Triều an, Bệnh viện Nhi đồng II cũng đến chia sẽ niềm vui.

 

9 giờ sáng, các Ân Nhân thuộc hiệp hội các doanh nghiệp nước Đức từ Sài gòn đến với lễ hội. Tất cả các em lên sân khấu hân hoan chào đón bằng bài ca vừa lời Việt ngữ vừa lời Anh ngữ “từ trái tim đến trái tim – from the heart to the heart”. Linh mục Thanh Sang dẫn chương trình, đã làm ấm lên bằng nhiều ca khúc vui nhộn.

 

Thầy Sáu Mạnh, Dòng Don Bosco chuyển ngữ tuyệt vời tất cả các bài phát biểu.Xen lẫn là các bài ca vũ điệu của các em mổ tim làm bầu khí thêm phấn khởi náo nhiệt.

 

Sau tiệc liên hoan ban trưa, các bác sĩ bệnh viện Nhi đồng II khám bệnh cho tất cả các em.

 

 

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Mục lục

 

 

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO

 

Hang đá Lộ- Đức


Người tín hữu Công giáo xưa nay hầu như hằng ngày đều đọc kinh suy niệm về những chặng đường đời sống Chúa Giêsu. Phải, chúng ta suy niệm những mầu nhiệm thánh đức của Đức tin. Một trong những suy niệm đó là “hang đá” nơi Chúa Giêsu sinh ra: “Đức Bà sinh đức Chúa Giêsu trong hang đá. Ta hãy xin cho được lòng khó khăn”

Hang đá, hay hang động trong thiên nhiên có liên quan tới gì tới mầu nhiệm thánh của Đức Tin chúng ta?

Hang động trong thiên nhiên

Nơi vùng có núi đá trồi mọc lên thường có những hang động nằm sâu kín trong đó. Thiên nhiên đã tác tạo nên như thế.

Theo Platon, hang động là hình ảnh nói về tình trạng kiến thức hiểu biết của con người trong thế giới, trong đó là những bóng mờ bảo sao chép in lại. Công việc của con người là lôi những bóng mờ bản sao đó ra khỏi “hang động”, cùng tìm cách trình bày những ý tưởng thế giới đó cho trong sáng dễ hiểu.

Từ thượng cổ xa xưa, con người đã nhìn nghĩ hang động trong núi vách đá là nơi chất chứa huyền bí. Những hình vẽ trên vách đá nơi nhiều hang động từ thời xa xưa nói lên điều này. Vẻ huyền bí nhiệm mầu của hang động toát ra từ bóng tối âm u lạnh lẽo nơi không gian trong đó.

Hang động, do sự tin tưởng của con người, nơi được tôn trọng cùng với sự sợ hãi, là nơi chốn sinh ra và cư ngụ của thần tiên, của ma qủi, của thần chết, như nấm mồ sâu kín trong lòng đất.

Trong nhiều chuyện thần thoại và phỏng đoán tiên tri, hang động là nơi vùng sâu thẳm chỉ về điều còn bí ẩn dấu kín, nơi nguồn rễ sự sống, sự sinh động nẩy phát sinh ra.

Theo nền văn hóa bên Ai Cập, nước dòng sông Nils ở xứ này phát nguồn từ một hang động chảy ra mang đến phù sa trù phú cho ruộng đồng được mầu mỡ.

Từ sự tin tưởng đó, hang động âm u sâu kín tối tăm cũng là hình ảnh cung lòng người mẹ, nơi sự sống phát triển sinh ra.

Hang đá Bethlehem

Theo Kinh Thánh thuật lại, Chúa Giêsu sinh xuống làm người trên trần gian trong hang chuồng súc vật ngoài cánh đồng Bethlehem ( Lc 2,7-19).

Nhưng cũng có những nơi xây dựng chỗ Chúa Giêsu sinh ra như một hang động trong núi vách đá. Ở vùng Bethlehem, nơi ngày xưa Chúa Giêsu sinh ra, ngay từ thời các Thánh Tông đồ, thuở Giáo Hội còn sơ khởi, đã xây dựng chỗ Chúa sinh ra là một hang động trong vách đá.

Cũng thời Giáo Hội mới được thành lập sau khi Chúa Giêsu về trời, đã có những sách vở thuật lại: Chúa Giêsu sinh ra nằm trong một hang động ở núi vách đá.

Nhiều xứ đạo xưa nay cũng xây dựng làm núi đá bao phủ, tuy bằng giấy sơn phết kết lại, trong đó có một khoảng trống như một cái hang làm nơi Chúa Giêsu sinh ra.

Hang động là hình ảnh của cung lòng mẹ. Hình ảnh biểu tượng này diễn tả về sự phong phú mầu mỡ của trái đất nhờ trời cao ban ân đưc mưa xuống.

Thiên Chúa nhập thể làm người khởi đầu bằng sự hạ mình bước xuống vùng sâu thẳm trong lòng trái đất, đi vào sự tăm tối của hang động. Chúa Giêsu, con Thiên Chúa, đã được sinh ra trong cung lòng của đất, toàn thể vũ trụ cũng được biến đổi bằng sự sống và sức lực vươn lên. Qua đó đất được nối kết với trời. Ánh sáng của Con Thiên Chúa chiếu dọi vào nơi tối tăm xua đuổi bóng tối tội lỗi.

Các Thánh Giáo Phụ đã so ví cung lòng đức Mẹ đồng trinh Maria như vườn địa đàng. Từ cung lòng vườn địa đàng đó nẩy sinh cây sự sống với hoa qủa thần thiêng thánh đức. Khi con người chúng ta dùng ăn trái cây đó sẽ không phải bị phạt chết như Ông Adong và Bà Evà đã ăn trái cấm và phải bị luận phạt.

Theo truyền thuyết, người Hylạp cho hang động là hình ảnh của sự xa vắng bóng thần thánh. Nhưng Chúa Giêsu sinh đã sinh ra trong đó, Ngài có mặt cùng mang ánh sáng Thiên Chúa tới nơi đó.

Họ cũng cho hang động là nơi chốn trú ngụ của ma qủy, đầy nguy hiểm. Nhưng khi ánh sáng Chúa chiếu tỏa tới chốn hang động, biến đổi nơi đó thành một nguồn nước bình an, không như người ta tin nghĩ nữa.

Hang đá Lộ Đức

Càng ngày với thời gian phát triền trong đời sống, khắp nơi trên địa cầu, người ta càng khám phá ra nhiều hang động thiên nhiên rất đẹp. Và con người cũng xây dựng theo mẫu mã như thế, nhiều hang động nhân tạo cũng bằng gạch đá trong một khu vườn, tùy theo nghệ thuật tạo dựng hình thể cùng ý nghĩa sở thích…

Một trong những hang động nổi tiếng thời danh trong tập tục sống đức tin của người Công giáo là „hang núi đá Đức mẹ Lộ Đức“, một trung tâm hành hương bên Pháp.

Ngày 11.02.1858 lúc 11.giờ Đức mẹ Maria đã hiện ra lần đầu tiên với Thánh nữ Bernadette ( *1844 - + 1879) ở trong hang động vách núi đá Massabielle, bên kia bờ sông Gave de Paul Holz.

Đức Mẹ Maria đã hiện ra tất cả 18 lần với cô bé Bernadette. Theo lời cô thuật lại, Đức Mẹ mặc áo trắng, đội khăn lúp mầu xanh da trời,và trên đôi chân có hoa hồng mầu vàng.

Lần hiện ra thứ 16., Đức Mẹ nói với cô bé Benedatte: “ Que soy era Immaculada Conception – Mẹ là người không mắc tội tổ tông truyền”.

Trước đó, năm 1854 Ðức Giáo hoàng Pio IX. đã long trọng tuyên bố tín điều Ðức Mẹ vô nhiễm nguyên tội. Ðức mẹ Maria là mẹ Thiên Chúa không vướng tì ố tội tổ truyền, sinh hạ Chúa Giêsu mà vẫn còn đồng trinh. Lễ kính mừng trọng thể vào ngày 08.12. hằng năm bắt buộc trong toàn thể Giáo hội Công giáo hoàn vũ.

Ngược dòng lịch sử, ngay từ thế kỷ thứ 10. đến thế kỷ thứ 12. các Giáo Hội Ðông phương đã mừng „Lễ Mẹ Thiên Chúa, thánh thiện trong các vị Thánh, được thụ thai trong cung lòng bà Thánh Anna“.

Ở bên Giáo hội tây phương giám mục Anselm von Canterbury cũng mừng lễ này trong giáo phận của ngài từ năm 1100. Ðức giáo hoàng Sixtus IV. từ năm 1477 đã mừng lễ này ở thành Roma vào ngày 08.12. hằng năm. Ðức giáo hoàng Clemens XI. năm 1708 đã lấy ngày lễ mừng kính Ðức Mẹ Maria thụ thai này là ngày lễ mừng trong cả Giáo hội toàn cầu.

Sau những năm tháng sôi nổi với nhiều nghi hoặc tranh cãi, hoặc ủng hộ công nhận, năm 1866 Bernadette đã lui vào sống trong Tu viện Saint-Gildard ở Nevers, cách xa Lộ - Đức hằng trăm cây số, sống cuộc đời nhiệm nhặt âm thầm là một nữ tu cho tới năm 1879 chị qua đời lúc mới 35 tuổi vì bệnh lao phổi.

Đức Giáo hoàng Pio thứ 11. Ngày 14.06.1925 đã phong chị nữ tu Bernadette lên hàng chân Phước, và ngày 08.12.1933 nâng Á Thánh Bernadette lên hàng Hiển Thánh trong Giáo Hội Công giáo. Lễ kính Thánh nữ Bernadette ngày 16.04. hằng năm.

Ngày nay khi đến hành hương kính viếng Đức Mẹ Maria bên Lộ- đức, ai cũng cúi mình đi vào trong hang động đó đọc kinh cầu nguyện, cùng hứng lấy nước từ hang động núi đá chảy ra.

Nước trong lành từ nguồn đất núi chảy tuôn ra như thức ăn nuôi dưỡng con người.

Nước thánh bình an có sức chữa lành tẩy rửa những vết nhơ tội lỗi cho tâm hồn được vui tươi phấn khởi.

Chúa Giêsu Kitô đã sinh ra trong hang động ở giữa lòng núi đất từ cung lòng người mẹ đồng trinh Maria. Qua đó Người mang ơn cứu độ cho trần thế, mang ánh sáng thần thánh cho đất nẩy sinh sự sống, nơi là quê hương chốn cư ngụ của con người trên trần gian.

“Nếu Lộ Đức dẫn đưa chúng ta đến chỗ suy niệm về lòng từ mẫu của Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm Nguyên Tội đối với những người con bệnh tật và đau khổ của Mẹ, thì Đại Hội Thánh Thể quốc tế tới đây sẽ là cơ hội để thờ lạy Chúa Giêsu Kitô hiện diện trong Bí Tích bàn thánh, tín thác vào Chúa như Niềm Hy Vọng không bao giờ làm thất vọng, đón nhận Chúa như thần dược bất tử chữa lành thể lý và tinh thần. Chúa Giêsu Kitô đã cứu chuộc trần thế bằng đau khổ, bằng cái chết và sự sống lại của Ngài và đã muốn ở lại với chúng ta như ”bánh sự sống” trong cuộc lữ hành trên mặt đất này.” (Đức giáo Hoàng Benedictô 16., Thông điệp ngày Thế giới bệnh nhân 2008).

Kỷ niệm 150 năm Đức mẹ Maria hiện ra ở Lourdes, 1858.11.02.2008



Lm. Nguyễn ngọc Long

 

 

NĂM TÝ KÝ CHUYỆN CHUỘT THUỘC KINH THÁNH


Tý là năm đứng đầu của thập nhị địa chi. Năm Tý có con vật biểu tượng là con Chuột. Chuột là con vật nhỏ, di chuyển bằng bốn chân, có lông tơ mịn thường mầu xám, mõm nhọn, mắt nhỏ đen tròn, vành tai mỏng hình trái xoan, đuôi dài bọc bằng vảy chứ không phủ bằng lông, nhỏ như cái đũa, thon dần thành nhọn ở mút cùng. Chuột ăn ngũ cốc, phá hại mùa màng… Việt Nam ta từ thuở rất xa xưa cho đến nay vẫn còn là một nước nông nghiệp, nên không ai lạ gì con chuột.


Chuột sinh sống khắp nơi, nhưng để dễ kiếm mồi nên thường lén lút ở những nơi xó xỉnh gần gũi người, như gầm chạn góc bếp, trong hang lỗ nương đồng… Chỉ nội cái tội phá hoại cũng đủ làm người ta không ưa gì con chuột. Thế nhưng không hiểu sao người xưa lại coi con chuột là con vật cầm tinh cho năm Tý, năm đứng đầu hoa giáp.


Chả là nhiều bạn bè thấy kẻ hèn này năm nào cũng bi bô nói đến con vật cầm tinh trong năm âm lịch theo Kinh Thánh, có người còn thách chúng tôi năm Tý mà moi được con chuột từ Kinh Thánh ra mới đúng là dòng dõi có tổ tiên biết đọc Evan. Chúng tôi cũng chỉ biết hứa là sẽ cố gắng. Hứa là phải thi hành, chúng tôi ra sức tìm tòi và Trời đã không phụ lòng thành. Nên chúng tôi lại có dịp hầu chuyện quý vị nhân ngày đầu Năm Mới có con chuột hành khiển.


Chúng tôi muốn giữ tập tục từ lâu là ngày Tết đầu năm Tý, phải ký thuật một vài chuyện về con chuột. Theo truyền thống Nhà Đạo, chúng tôi nói về chuyện chuột thuộc Kinh Thánh.


Chuột là loài vật dơ

 

Trên đồng quê Việt Nam, chuột được các tay sính rượu coi là món nhậu khoái khẩu, nhưng nhiều các bà các cô vẫn sợ chuột vì coi nó là vật gớm tởm, không dám đụng đến. Phải chăng những người này chịu ảnh hưởng từ Kinh Thánh? Một trong những sách đầu tiên trong Cựu Ước là sách Lê-vi, đã nói đến con chuột khi chép các luật lệ dân It-ra-en phải tuân giữ để làm tròn bổn phận dân Chúa. Ngay cả đồ ăn thức uống cũng được chỉ vẽ tường tận loài vật nào sạch, loài vật nào là dơ. Không được ăn thịt những con vật nào, những loài vật nào được dùng làm thực phẩm…


Đối với loài vật bốn chân thuộc bộ nhai lại và bộ móng guốc theo sinh vật học ngày nay, thì Kinh Thánh cho ta biết loài nào thuộc bộ nhai lại đồng thời có móng guốc chẵn như trâu, bò…mới được kể là loài vật sạch. Loài nào có nhai lại mà không có móng guốc chẵn, hoặc chỉ có móng guốc chẵn mà không nhai lại thì liệt vào loài vật dơ. Đã thuộc loại động vật dơ thì không những bị cấm dùng làm thực phẩm, mà còn cấm không được đụng tay chân vào chúng nữa. Sách Lê-vi nói rõ về con chuột: “con chuột đồng có nhai lại, nhưng không có móng chẻ hai, nên hãy coi nó là vật không sạch” (Lv 11,5). Điều này Sách Đệ nhị luật cũng nhắc lại như thế: “Nhưng các ngươi sẽ không ăn các giống này trong các loài nhai lại và có móng xẻ hai: lạc đà, thỏ, chuột đồng, vì tuy chúng thuộc loài nhai lại nhưng lại không có móng xẻ hai” (Đnl 14,7). Đúng ra, ngày nay người ta xếp chuột vào bộ gặm nhấm, nhưng có lẽ người xưa chỉ quan sát thấy mõm con chuột (và cả thỏ) lúc nào cũng cử động, nên nghĩ là nó nhai lại (Chuột, thỏ…có răng cửa dài ra cả đời nên chúng phải mài răng vào với nhau khiến mõm cử động luôn luôn, mới giữ được răng bình thường). Nếu chuột không thuộc loài nhai lại, nó có được kể vào hàng vật sạch không? Hãy mở sách Lê-vi sẽ thấy liệt kê tiếp một cách rõ ràng: “Trong số các vật nhỏ nhoi trên mặt đất, các ngươi phải coi những vật này là ô uế: chuột chũi, chuột nhắt, chuột chù…”(Lv 11,29).


Chuột là con vật nhỏ bé, lại được xếp vào loại nhơ nhớp, bị nhiều người tìm cách tiêu diệt, nên lúc nào cũng "len lét như chuột ngày". Đến bao giờ chuột mới thoát được cảnh đời đen tối ấy?


Chuột trong Thánh vịnh

 

Thánh vịnh là 150 bài thơ thuộc Kinh Thánh Cựu Ước. Thời Trung cổ, người ta coi tác giả các Thánh vịnh là vua Đa-vít. Đúng ra theo các nhà Kinh Thánh học thì có khá nhiều Thánh vịnh được sáng tác trong thời kỳ dân It-ra-en lưu đầy bên Ba-by-lon, và cả sau đó nữa. Nghĩa là không phải tất cả các Thánh vịnh đều do vua Đa-vít sáng tác.


Các nhà chú giải Kinh Thánh đã chia các Thánh vịnh thành 4 đề mục chính:


- Những Thánh vịnh tán tụng việc tạo dựng của Thiên Chúa.

- Những Thánh vịnh diễn tả mối liên hệ giữa Thiên Chúa và loài người.

- Những Thánh vịnh về lịch sử dân Chúa.

- Những Thánh vịnh tiên báo về Đấng Cứu Thế.


Thánh vịnh 103 (104) đã tán tụng những kỳ công Chúa làm trong việc tạo thiên lập địa: núi đá chon von, suối tuôn thác đổ, rừng xanh bát ngát, đại dương mênh mông…rồi chim trời, thú rừng, cá biển…tất cả đều được Chúa quan phòng chăm sóc.


“Công trình Ngài, lạy Chúa, quả thiên hình vạn trạng !

Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan,những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất”.


Trong những loài vật lan tràn trên mặt đất ấy, dĩ nhiên có cả loài chuột, chúng cũng biết tìm phương tiện để bon chen sống còn:


“Núi chon von giống dê rừng tìm đến,

Hốc đá sâu loài chuột bóng ẩn mình” (Tv 103-104, 18).

Chuột bóng là tên Việt Nam ta gọi một loại chuột rừng, lông màu nâu tối, dọc theo sống lưng lông sẫm hơn, bụng có lông xám đen, hoặc nâu nhạt, đuôi dài có màu hồng. Loài chuột này thường kéo cả đàn đi kiếm ăn. Nơi chúng ở là các hốc đá có sẵn, hay đào hang dưới các tảng đá lớn.


Trong các bản dịch Kinh Thánh sang Việt ngữ, chữ “chuột” không được dịch đồng nhất cho cùng một loại động vật được gọi là chuột.


Chuột trong sách Tiên tri I-sai-a

 

I-sai-a là một tiên tri lớn, ông thuộc hàng quý tộc tại thủ đô Giê-ru-sa-lem, ông có ảnh hưởng sâu rộng cả về chính trị lẫn ngoại giao của It-ra-en. Về phương diện tôn giáo I-sai-a cao rao Thiên Chúa là Đấng thánh thiện, là Đấng toàn năng, là Vua uy quyền. Còn con người bị tội lỗi làm ra nhơ uế, Thiên Chúa đòi họ sám hối để được thanh tẩy, hầu được dự phần vào sự thánh thiện của Chúa. Tiên tri nhấn mạnh đến đời sống đạo đức bên trong, lên án mọi tế tự hình thức. Những ai không đi theo đường lối Chúa, kẻ đó trêu cơn thịnh nộ của Người:


“Những ai tự phụ rằng

mình thánh thiện thanh sạch

Sau cửa núp trong vườn

ăn vụng đồ gớm ghiếc:

nào thịt heo

nào thịt thú dơ bần

nào thịt chuột

nên chúng chết cùng nhau.

Lời Chúa đúng phong phóc” (Is 66,17).


Các kẻ tế tự trong vườn, tiến lễ bằng thịt thuộc loài nhơ nhớp như thịt chuột, thịt heo…là những kẻ chọc giận cơn thịnh nộ Yavê Thiên Chúa. Vì thế chúng sẽ bị Ngài giáng phạt. (xem Is 65,3-6).

Khi Giavê Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ với thế gian, những kẻ thờ quấy tin nhăng, tế tự bất xứng ấy, sẽ chui rúc vào hang sâu hốc đá tránh mặt oai nghiêm đằng đằng sát khí của Chúa. Và để trốn cơn giận của Chúa, chúng đem huỷ diệt các tượng thần mà chúng tôn thờ:


“Ngày ấy người ta sẽ quăng đi tượng các tà thần, bằng vàng bằng bạc chúng làm ra để thờ, cho lũ dơi đàn chuột” (Is 2,20).


Trong bản dịch theo Kinh Thánh phổ thông thì dơi chuột trong câu này cũng là tượng thần người ta sùng bái mà họ đem đi phá huỷ: “người ta sẽ huỷ diệt các tượng thần vàng bạc gồm cả chuột với dơi mình đã tự chế tạo để sùng bái”.


Năm con chuột vàng


Năm con chuột vàng là câu chuyện về chuột có nhiều chi tiết, được kể trong sách Sa-mu-en quyển thứ nhất. Chuyện có liên hệ đến Hòm Bia Thánh, một báu vật của dân It-ra-en, nơi Thiên Chúa Yavê hiện diện ở giữa dân Người.


Cuối thời tiên tri Ê-li, người Phi-li-tinh giao chiến với It-ra-en. It-ra-en bị thua nặng nên đã cử người đến Si-lô thỉnh Hòm Bia Giao Ước, đem ra mặt trận, có ý xin Chúa cho thắng trận. Không ngờ, một lần nữa, lại bị thất bại nặng nề hơn lần trước. Người Phi-li-tinh cướp được cả Hòm Bia Thánh, đem về Át-đốt, đặt trong miếu thần Đa-gôn, làm thần Đa-gôn bị đổ nát, dân chúng miền Át-đốt bị tai họa, theo bản dịch của Trần Đức Huân từ bản Phổ Thông thì: “Trong các trang trại nơi đồng ruộng khắp xứ, các thứ chuột sinh ra lúc nhúc, chết chóc hỗn loạn trong thị xã” (1Sm 5,6) “Còn những người không bị chết cũng bị bệnh dịch hạch, tiếng la lối trong các thành thị vọng thấu trời” (1Sm 5,12).


Để tránh cho dân chúng khỏi mắc bệnh, người Phi-li-tinh phải dời Hòm Bia Thánh sang thành khác, nhưng đến đâu thì chuột xuất hiện đến đó, đi hết thành nọ đến thành kia, nên tai họa do chuột gây ra lan rộng khắp nơi. Cuối cùng họ phải mời các tư tế và cả thầy bói đến, để bàn nhau trả Hòm Bia Thánh cho dân It-ra-en. Sau khi bàn cãi, họ đã đồng ý đem trả Hòm Bia Thánh lại cho người It-ra-en, có kèm theo của lễ đền tội là “phải theo số các quan tỉnh dân Phi-li-tinh mà chế năm cái khối u bằng vàng và năm con chuột bằng vàng, vì hết thảy các ngươi, cả quan trưởng đều bị một tai hoạ ghê sợ như nhau. Phải chế các khối u như các hạch xoài các ngươi mắc phải, các con chuột phải chế giống như chuột đang phá phách xứ sở, để tôn vinh Thiên Chúa It-ra-en. May ra Người sẽ nhẹ tay với các ngươi...” (1Sm 6,4).


Người Phi-li-tinh đem trả Hòm Bia Thánh, “họ đặt Hòm Bia Thánh lên xe cùng với cái tráp đựng các con chuột bằng vàng và hình tượng các khối u của họ” (1Sm 6,11).


Năm khối u bằng vàng do cư dân năm thành Phi-li-tinh phải cúng. “Ngoài ra còn có các con chuột bằng vàng, tính theo số tất cả năm vương hầu thuộc các thành người Phi-li-tinh, từ thành kiên cố cho đến thành bỏ ngỏ (1Sm 6,18). Chúng ta biết rằng, người Phi-li-tinh muốn tránh khỏi chuột phá hoại, họ đã di chuyển Hòm Bia Thánh chạy từ thành nọ đến thành kia, qua tới năm thành, mỗi thành có một vương hầu cai quản, vì thế mỗi vương hầu ấy phải lãnh trách nhiệm dâng cúng một con chuột vàng làm lễ chuộc tội.

Với mục đích trích ra những câu Kinh Thánh có nói đến năm con chuột vàng trong Sách Sa-mu-en, chúng tôi chỉ tóm tắt như trên chứ không đi sâu vào các chi tiết. Quý vị nào muốn đọc chi tiết hơn, xin mở sách Sa-mu-en quyển thứ nhất, các chương: 4, 5 và 6. (1Sm 4, 1Sm 5 và 1Sm 6).


Con chuột nhắt trong tù


Tiếp nối chuyện chuột thuộc Kinh Thánh, chúng tôi xin kể vài mẩu chuyện về chuột với các Thánh như thế nào.


Dưới triều vua Tự Đức bách hại Đạo Công giáo, người tín hữu bị truy lùng rất gắt gao, bắt phải bỏ đạo, nhất là các thừa sai người ngoại quốc. Linh mục thừa sai người Pháp có tên Việt Nam là Phan Thế Ven, tên thật của ngài là Théophane Vénard. Cha Ven bị bắt tháng 11 năm 1860, bị đóng ngay vào cũi, giải lên Hà Nội. Cũi giam cha đặt tại sân công đường dinh quan Án sát. Cha phải chịu nắng thiêu, mưa lạnh, sương buốt, gió lùa…trong cái cũi trống trải ngoài trời, không mái che liếp chắn.

Thời gian bị giam giữ, cha thường hát Thánh ca, lần chuỗi Văn Côi. Đôi khi cha cũng được đón tiếp các bà đạo đức đến thăm và tiếp tế cho một ít lương thực. Thời giờ còn lại cha cũng tìm cách nào đó để đầu óc thư giãn. Gần cũi giam cha, có một con chuột nhắt ngày nào cũng đến tìm hạt rơi hạt vãi từ số lương thực ít ỏi của cha, về đêm là dĩ nhiên, nhưng cả ban ngày những khi vắng người, chuột cũng tìm đến. Con chuột mới đầu cũng nhút nhát rụt rè, nhưng thấy cha chẳng làm gì nó. Sau vài lần, con chuột quen và mạnh dạn nhảy nhót làm vui cho cha.


Một lần bà Xinh đến thăm cha, thấy con chuột nhắt ở gần cũi, phái nữ vốn không ưa chuột, bà định lấy cây gậy đập chết con chuột. May mà cha Ven vội ngăn cản:


- Đừng đánh đuổi nó, cứ để nó làm vui cho cha những lúc cha ở một mình.


Còn bà Nghiên kể thêm rằng, cha Ven đã sai con chuột nhắt ấy lượm cỗ tràng hạt cha để rơi xuống gầm cũi. Con chuột đã vâng lời, chui vào gầm cũi tha cỗ tràng hạt lên đem lại cho cha. Cỗ tràng hạt này cha đã trao cho bà Nghiên, cùng với cuốn sách nguyện và cây Thánh giá, trước khi cha ra pháp trường ngày mồng 2 tháng 2 năm 1861.


Bang trưởng chuột


Trong hạnh tích Thánh Mactinô đệ Phôrê, vị Thánh lai da đen quê ở thành Lima trong nước Pêru, bên châu Mỹ La-tinh có kể: Thánh nhân là một Trợ sĩ trong Dòng Đaminh, có tinh thần bác ái siêu việt, không những thương yêu người nghèo khổ mà tình bác ái còn lan đến cả thú vật hoang dã. Một dạo, không biết chuột ở đâu kéo từng đàn đến Tu viện Rất Thánh Văn Côi (Santo Rosario), nơi thầy phục vụ, chúng khoét rương, cạp tủ, gặm phá đồ đạc, cắn nát sách vở, áo quần…Các thầy được lệnh phải ra công giệt chuột. Thầy Trợ sĩ Mactinô nghe được lệnh ấy, thầy thấy thương đàn chuột, chỉ vì phá hại nên bị giệt, thầy tìm phương thế làm sao cho lũ chuột ấy được an toàn. Đang suy nghĩ cách cứu đàn chuột, thì may quá, có một chú chuột nhắt chay lạc vào phòng thầy. Thầy gọi nó lại, sai nó đi tìm con chuột đầu đàn.


Con chuột đầu đàn đến phòng thầy. Thầy nói với nó:


- Sao các con lại phá phách thế? Đã đến ngày nguy khốn cho các con, vì các thầy đang sắm cạm bẫy, bả độc để tiêu giệt các con..Hãy kéo nhau đến khu đồi hoang cạnh tu viện mà sống. Ta sẽ nuôi sống các con, nếu các con không làm hại tu viện nữa.


Lũ chuột vâng lời thầy. Chuột lớn, chuột nhỏ lũ lượt bò men theo chân tường, ra khỏi tu viện, đến nơi thầy Mactinô đã chỉ.


Ngay hôm sau, thầy Mactinô ra đồi hoang ấy, phát bỏ cây dại, cuốc đất trồng hoa mầu: nào củ mì, củ khoai, cây ngô, cây lúa…đề mùa nào thức ấy, lũ chuột có đầy đủ thức ăn. Từ đó lũ chuột ấy không những giữ lời hứa không làm hại tu viện mà cũng không đi phá phách hoa mầu cùa dân cư vùng đó nữa.

Thấy thầy Mactinô sai khiến được bầy chuột cách lạ lùng, các thầy gọi đùa thầy là “bang trưởng chuột”.


Vật dơ trở thành sạch


Trong Kinh Thánh Cựu Ước, chuột là loài vật chẳng thấy được lợi ích gì. Ngoài luật buộc không được ăn thịt chuột, không được đụng đến chuột nếu muốn mình khỏi ra nhơ uế, chuột còn phá hoại mùa màng, làm hư hao lương thực, thực phẩm, gieo rắc bệnh tật giết hại con người. Dân Chúa thời ấy phải tuân giữ các luật về vật dơ, vật sạch. Nhưng đến thời Tân Ước thì luật đó không còn buộc. Điều này đã thấy trình thuật ở sách Tông đồ Công vụ, trong một thị kiến của Thánh Phêrô, vị Giáo Hoàng tiên khởi (xem Cv 10,9-16). “Bởi chưng mọi điều Thiên Chúa dựng nên đều tốt lành, không có gì phải loại bỏ, nếu biết tạ ơn mà dùng, vì được tác thánh nhờ Lời Thiên Chúa và sự nguyện cầu” (1Tm 4,4-5).

 

Năm Tý, con chuột được lên chức hành khiển theo lịch Á Đông, chắc chắn nó cũng có ưu điểm, chẳng hạn họ hàng nhà chuột đã có nhiều hy sinh đóng góp cho ngành y khoa, làm con vật thí nghiệm để giúp ích cho nhân loại.



Kính chúc quý bà con đồng bào Việt Nam ta một năm mới thật nhiều may mắn như “chuột sa hũ nếp”, để bắt đầu từ chu kỳ địa chi này, dân tộc ta có được cuộc sống Ấm no Hạnh phúc như nguyện vọng của mọi người.


(Chuyện Chuột thuộc Năm Tý, Tủ Sách Họ Hoàng Bồ Ngọc)

 

MÃNH LỰC CỦA SA-TAN

Chúa Nói: “Simon, Simon ơi, kìa Sa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin” (Lc 22, 31- 32).

Không kẻ thù nào nguy hiểm hơn kẻ thù giấu mặt, kẻ thù làm cho ta mất cảnh giác và quên nó. Sa-tan là kẻ thù như thế. “Ba thù” của người Kitô hữu- thế gian, xác thịt, và ma quỷ- kẻ thù sau cùng là nguy hiểm nhất. Quỷ không chỉ có thể trao vào tay người ta sức mạnh của nó, mà nó còn ẩn diện, và do đó làm cho người ta ít quan tâm và e sợ. Quỷ nắm giữ quyền lực bóng tối. Nó che khuất tầm mắt chúng ta để chúng ta không trông thấy nó. Nó còn náu mình trong bóng tối để không bị phát hiện. Nó còn có cả năng lực hiện hình như một thiên thần sáng láng (x. Mt 4, 6; 2 Cr 4, 4; 11, 14).

Kinh Thánh mặc khải sự hiện hữu của các vật vô hình. Nhìn vào những hoạt động trừ quỷ của Chúa Giêsu trong Tin Mừng và với đức tin, chúng ta nhận biết có Satan.

Công việc lớn lao trọng đại của Chúa tại trần gian là để chiến thắng Satan. Khi đã được đầy Thần Khí qua phép Thánh Tẩy, Chúa Giêsu được dẫn vào sa mạc để đối diện với Satan là thủ lãnh các ác thần và Người đã chiến thắng chúng (Mt 4, 1, 10). Sau thời gian đó Chúa luôn theo dõi hoạt động và sức mạnh khống chế của Satan. Trong tất cả các thứ tội và sự khốn cùng của con người, Chúa nhận ra hình thù của một thế giới sự ác hoạt động mạnh mẽ dưới sự điều hướng của Satan. Chúa nhận ra bóng dáng kẻ thù của Thiên Chúa và con người không chỉ trong những kẻ bị qủy ám mà còn trong những người đau yếu nữa (x. Mt 12, 28; Mc 4, 15; Lc 13, 16; Cv 10, 38). Chúa thấu rõ hoạt động của Satan trong lời của Phêrô khuyên can ngài tránh thoát thập giá, cũng như trong việc ông chối Chúa. Tuy nhiên đôi khi chúng ta vẫn thường coi những chuyện này là tự nhiên như một cách thế tỏ lộ tính khí của Phêrô (x. Mt 16, 23; Lc 22, 31- 32). Trong cuộc thương khó của Người- nơi nhiều người coi đó là tội ác của con người được Thiên Chúa cho phép- thì Chúa Giêsu nhìn nhận đó là quyền lực của bóng tối. Toàn bộ công việc của Người khi sống và cả lúc lâm chung là triệt phá việc làm của Satan và chiến thắng chúng. Và Người sẽ hoàn toàn tiêu diệt Satan vào ngày Người quang lâm (Lc 10, 18; 22, 3; Ga 12, 31; 14, 30; Rm 16, 20; Cl  2, 15; 2 Tx 2, 8- 9; 1 Ga 3,8). 

Lời Chúa nói với Phêrô, được coi như một kinh nghiệm cá nhân, giúp ta biết sợ hãi khi nhìn vào hoạt động của kẻ thù Satan: “Simon, Simon ơi, kìa Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo” (Lc 22, 31). Sau này chính thánh Phêrô cũng nhắc lại: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5, 8). Quỷ không có quyền năng vô biên, nhưng nó biết nắm bắt các điểm yếu và luôn biết lợi dụng mọi lúc sơ hở, mất cảnh giác “để sàng anh như sàng gạo” (Lc 22, 31).

Thật là một hình ảnh nhắc nhở sống động! Thế gian này là cái sàn rê lúa lớn của Satan. Thóc mẩy thuộc về Thiên Chúa còn trấu thuộc về Satan. Nó không ngừng sàng sảy, và tất cả những gì là trấu bổi văng ra ngoài  nó vội vã thu gom vào. Chúng ta là những phàm nhân yếu đuối, làm sao có thể đứng vững trước các cuộc thải trừ dồn dập đó? Nếu không cầu xin ơn Chúa trợ giúp để chiến đấu và chiến thắng, nhiều người sẽ đời đời tiêu vong (x. 1 Cr 5, 5; 1 Tm 1, 20).
Satan không chỉ có sàng sảy. Trước hết nó còn gieo rắc tinh thần thế tục, nghĩa là lòng yêu thích thế gian. Nhiều người rất tốt lành đạo đức lúc nghèo túng, nhưng khi giàu có lên, hoặc có địa vị họ hoàn toàn sống theo tinh thần thế tục, từ bỏ mọi chuẩn mực đạo đức. Nhiều người rất sốt sắng, thánh thiện lúc gặp gian nan, thử thách, hoạn nạn, nhưng khi tai qua nạn khỏi, lại sống phóng đãng sa đoạ.

Cái sàng khác của Satan là tính tự ái và lòng tự mãn. Không biết cảm thương, không sẵn sàng hi sinh để phục Chúa và anh chị em mình, chúng ta không còn phải là muối, là men, những đặc tính căn cốt của người môn đệ Chúa Kitô. Dù có thực hành việc đạo đức bao nhiêu mà thiếu lòng mến thì coi như thiếu tất cả, chỉ còn là vỏ trấu (x. Ga 8, 44; 1 Ga 3, 10- 15; 4, 20).

Một cái sàng khác nữa là thái độ ngộ tín. Ngộ tín là một xác tín sai lạc, không dựa vào biện phân Thần Khí. Nó là một dạng khác của tính kiêu căng, tự mãn, một kiểu mẫu Pharisêu, rất nguy hiểm trong đời sống thiêng liêng, bị Chúa khiển trách nặng lời. Ngộ tín làm cho ta nghĩ rằng mình đang theo hướng dẫn của Thần Khí, nhưng kì thực chỉ làm theo ý riêng. Ngộ tín là một sự trói buộc thiêng liêng, rất khó thay đổi. Người tự tín tưởng mình đang chiến thắng Satan, nhưng ngược lại họ đang bị nó chế ngự (x. Gal 3, 3; 5, 13).

Đời sống là một cuộc chiếu đấu liên lỉ để đương đầu với hoạt động sàng sảy của Satan đã được chúa cho phép. Để có thể đứng vững, chúng ta phải hết mực khiêm tốn, phải luôn biết kính sợ Chúa, và cậy trông nơi Người. “Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giỡi tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao”, nên chúng ta “hãy tìm sức mạnh trong Chúa và trong uy lực toàn năng của Ngừơi. Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước những mưu chước của ma qủy” (Ep 6, 10- 16). Nhưng với Chúa chúng ta không còn phải sợ hãi. Không người nào, không vật nào có thể làm hại chúng ta nếu chính chúng ta không cho phép nó. Bởi vì, như lời một Giáo phụ đã nói, từ khi Chúa bước vào trần gian thì Satan như một con chó bị xích lại vào một góc sân, nó chỉ có thể tru sủa và chạy lòng vòng; nếu chúng ta không lại gần, nó chẳng thể làm hại chúng ta.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, xin mở mắt con để con nhìn rõ diện mạo của kẻ thù ma qủy và những mưu chước của chúng. Xin cho con nhận rõ vương quốc của quỷ để biết sợ hãi và xa tránh tất cả những gì thuộc về chúng. Xin cho con tin tưởng cậy trông nơi Chúa là Đấng đã chiến thắng quỷ dữ và xác tín rằng chỉ khi chúng con cậy dựa vào sức mạnh của Chúa chúng con mới có thể chiến thắng được quỷ. Xin cho con luôn biết hãm dẹp các tính mê nết xấu và tính xác thịt ươn hèn để tìm được sức mạnh trong Chúa. Xin cho con biết luôn luôn cầu nguyện, vì cầu nguyện là khí giới hữu hiệu, là thành trì bảo vệ con chống lại các cuộc tấn công của quỷ.

Lm. Giuse Ngô Quang Trung

BÀI GIẢNG LỄ SINH NHẬT 100 TUỔI ĐỨC CHA MICAE NGUYỄN KHẮC NGỮ NGUYÊN GIÁM MỤC GIÁO PHẬN LONG XUYÊN

01.02.2008

Mc.4,26-34

 

Anh chị em thân mến,

Chúng ta đều biết khi nói về Nước Thiên Chúa, Đức Chúa Giêsu đã không bao giờ đưa ra một định nghĩa nào, mà chỉ đưa ra những hình ảnh bằng các dụ ngôn, vì Nước Thiên Chúa là một thực tại quá lớn lao, quá phong phú đến nỗi không thể chỉ được tóm bằng một định nghĩa ngắn gọn. Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe có hai dụ ngôn mà Chúa Giêsu đã đưa ra để diễn tả phần nào thực tại khởi đầu và phát triển của Nước Thiên Chúa.

Trước hết Nước Thiên Chúa được sánh ví với người gieo hạt giống. Hành động của người gieo giống được đề cao. Khi đến mùa gieo sạ, ông ra đồng gieo hạt xuống đất. Ông gieo một cách hào phóng. Ông cứ gieo, cứ vãi với tất cả lòng nhiệt thành và rộng rãi. Ông gieo với lòng tin tưởng rằng hạt giống sẽ nảy mầm, sẽ sinh hoa trái.  Ông phó thác cho thời tiết, không biết có mưa thuận gió hoà, không biết trời sẽ nắng hạn hay mưa dầm, không biết có sâu rầy hay chuột bọ. Ông tin tưởng vào sức mạnh của hạt giống, phó thác cho sự phì nhiêu của đất đai, phó thác cho đất trời. Phần ông, ông cứ gieo cứ vãi vì ông biết rằng: “Đất tự động sinh ra hoa màu: trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt. Lúa vừa chín, người ấy đem liềm hái ra gặt, vì đã đến mùa."(Mc 4,28-29). Người gieo giống ở đây chính là hình ảnh diễn tả Chúa Giêsu. Ngài đã đến trần gian gieo rắc tin mừng trên cánh đồng thế giới. Ngài gieo một cách quảng đại, một cách hào phóng. Ngài gieo một cách nhiệt thành hăng say, bất chấp cả nắng mưa bão tố, bất chấp cả những toan tính phá hoại của ma quỷ cũng muốn gieo cỏ lồng vực vào đồng lúa Nước Trời. Ngài tin tưởng rồi hạt giống sẽ vươn lên và sẽ có mùa gặt bội thu.

Trong dụ ngôn thứ hai, Chúa Giêsu lại sánh ví Nước Thiên Chúa giống như  hạt cải nhỏ bé, được gieo xuống đất, “Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng."(Mc 4,32). Ở đây Chúa muốn nói đến sức mạnh nội tại của hạt giống. Dù chỉ là một hạt giống nhỏ bé tí ti, bề ngoài chẳng là gì, quá mỏng manh, yếu ớt, nhưng sức mạnh tiềm tàng lại hết sức lớn lao. Nó sẽ mọc lên và trở thành cây lớn chim trời đến làm tổ. Dụ ngôn này đã được thực hiện một cách khít khao nơi Chúa Giêsu và Hội Thánh của Ngài. Chúa Giêsu và 12 Tông đồ chỉ là con số quá bé nhỏ, quá mỏng manh, một nhúm người vô danh tiểu tốt, không quyền lực, không giàu mạnh, nhưng đã phát triển và lớn lên lan tràn trên khắp trái đất và các dân tộc đã tìm đến cư ngụ.

Thưa anh chị em,

Những hình ảnh trên đây phần nào cũng được áp dụng nơi giáo phận Long Xuyên và nơi Đức Cha già Micae khả kính của chúng ta.

Quả vậy, cách đây 48 năm, vào năm 1960, với Sắc lệnh “Mandata Christi” của ĐGH Gioan XXIII, giáo phận Long Xuyên đã được thành lập và được tách ra khỏi giáo phận Cần Thơ. Trước cuộc di cư năm 1954, giáo phận lúc đó chỉ có hơn 10 giáo xứ với khoảng 30.000 giáo dân. Sau năm 1954, với những giáo dân di cư từ miền bắc ồ ạt đến định cư, thì con số tăng lên rất nhanh. Chính lúc đó tức vào năm 1960, Toà Thánh đã bổ nhiệm ĐC Micae làm giám mục tiên khởi của giáo phận Long Xuyên, và giáo phận bắt đầu phát triển. Theo Niên Giám 1964, tức sau 4 năm cai quản của ĐC Micae, Long Xuyên đã có ngót 100.000 giáo dân, với  104 linh mục triều, 3 linh mục dòng, 185 nữ tu, 59 đại chủng sinh, 8 trường trung học, 78 trường tiểu học, 8 cơ sở bác ái từ thiện. Con số này đến năm 1975, tức là năm ĐC Micae không làm việc nữa, đã tăng lên rất nhiều.

Những kết qủa đáng khích lệ này chắc chắn là do ơn Chúa. Chúa đã dùng mọi biến cố và hoàn cảnh lịch sử, vớiø những con người của lịch sử trần thế để xây dựng Nước Trời. Tuy nhiên chúng ta cũng phải nhận rằng kết quả đó cũng có sự đóng góp to lớn của Đức Cha Micae. Ngài đã được Chúa kêu gọi làm người tiên phong đến gieo vãi hạt giống Nước Thiên Chúa trên cánh đồng Long Xuyên này.

Ngài quả là một bác nông phu cần cù nhẫn nại hăng say trong việc gieo hạt giống Tin Mừng. Khi được chọn làm giám mục một giáo phận mới, cơ sở vật chất còn quá thiếu thốn, địa bàn  thì rộng mênh mông mà nhân sự lại ít ỏi. Nhưng Ngài đã không nản lòng. Với tinh thần lạc quan của bác nông phu trong bài dụ ngôn, Ngài đa õlạc quan tin tưởng  vào ơn Chúa, chính Chúa sẽ làm cho hạt giống nảy mầm và vươn lên. Ngài chỉ biết gieo với lòng tin tưởng vào sức mạnh của Chúa. Với lòng nhiệt thành hăng hái, Ngài đã bắt tay vào việc đi mời gọi các nhân tài trong nước và đang du học ngoại quốc. Nhiều người đã đáp lại lời mời gọi của Ngài và đến cộng tác với Ngài. Trong số đó có ĐC GB của chúng ta đây, bấy giờ đi du học Thuỵ Sĩ về. Rồi Ngài đã bắt tay vào việc xây dựng những cơ sở vật chất. Ưu tư đầu tiên của Ngài là đào tạo con người, nên Ngài đã bắt đầu xây dựng tiểu chủng viện rồi đại chủng viện và các trường trung học tại các họ đạo. Từ đây đã đào tạo được biết bao  linh mục và những giáo dân ưu tú cho Giáo Hội. Song song với việc xây dựng các chủng viện và trường học, Ngài cũng thúc đẩy việc xây dựng các giáo xứ và các nhà thờ tại các giáo xứ mới được thành lập. Kết quả như thế nào thì chúng ta đã biết. Ngài đã xây dựng nền móng vững chắc, để rồi sau 15 năm cai quản giáo phận, Ngài đã rút lui đúng thời đúng lúc để đi vào cuộc sống âm thầm trong thinh lặng và cầu nguyện, nhường bước cho ĐC GB tiếp nối sự nghiệp của Ngài trong giai đoạn lịch sử mới. Lúc này đây, tuy không còn làm việc gì, nhưng Ngài vẫn âm thầm cầu nguyện, hãm mình hy sinh cho giáo phận, cho cuộc truyền giáo của giáo phận. Nguyện vọng của Ngài tóm gọn trong khẩu hiệu giám mục mà Ngài đã chọn lựa: “Christus in vobis” Chúa Kitô trong anh em” nghĩa là: Cuộc đời của Ngài kéo dài với tuổi thọ trăm năm chỉ là để loan báo Đức Kitô, đem Chúa Kitô đến cho mọi người, làm sao cho mọi người biết Chúa và yêu mến Chúa. Ngài đã là một người gieo giống không biết mệt mỏi, một người gieo giống luôn tin tưởng vào sức mạnh tiềm tàng của hạt giống Nước Trời. Giáo phận Long Xuyên bây giờ có thể sánh ví với cây cải trong Phúc âm, đã lớn sum xuê và quy tụ nhiều chim trời đến cư ngụ.

Vì thế, hôm nay linh mục đoàn Long Xuyên chúng ta quy tụ về đây để cùng với Ngài dâng lễ tạ ơn Thiên Chúa về những hồng ân Chúa ban cho giáo phận qua Đức cha già Micae khả kính của chúng ta. Chúng ta cầu nguyện cho Ngài, vì mặc dù tuổi cao sức yếu, Ngài vẫn còn ở với chúng ta, cầu nguyện với chúng ta và làm gương cho chúng ta. Chúng ta noi gương bắt chước Ngài trong việc hăng say, nhiệt thành gieo rắc Tin Mừng trên mảnh đất Long Xuyên yêu quý này. Mỗi người trong lãnh vực của mình hãy luôn cố gắng trở thành người vãi gieo hạt giống Nước Trời, gieo với lòng hăng hái tin tưởng vào sức mạnh của Chúa, vì như Thánh Phaolô đã nói: “Tôi trồng, anh A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới đáng kể. Kẻ trồng người tưới đều như nhau, nhưng ai nấy sẽ được thù lao theo công khó của mình. Thật vậy, chúng tôi là cộng sự viên của Thiên Chúa. Anh em là cánh đồng của Thiên Chúa, là ngôi nhà Thiên Chúa xây lên” (1 Cr 3,6-9)

ĐGM.Giuse Trần Xuân Tiếu

Mục lục

 

Mục lục

 

 

HƯƠNG ĐỒNG GIÓ NỘI BAY ĐI... QUÁ NHIỀU !

 

Quý độc giả thân mến,

Mấy hôm nay trên các mặt báo, chuyện tàu xe về quê chiếm những bài dài và quan trọng nhất, năm nào cũng vậy, chuyện tàu xe cho giới nghèo về lại với gia đình luôn luôn căng thẳng, chẳng thấy có chút thay đổi nào để có được hy vọng sáng sủa hơn.

Chuyện vé chợ đen rõ ràng trước mắt, nhưng các quan chức cứ bảo rằng không có, bởi các quan chức có bao giờ phải đi... mua vé tàu đâu ! Chuyện xe nhồi nhét thì cũng quá rõ, nhưng các quan chức vẫn chẳng làm sao giải quyết, bởi các quan chức có bao giờ phải đi... xe nhồi đâu ! Ý định của những người đứng đầu đất nước thì khi phát biểu thành lời thì hay lắm, nhưng rồi ý định ấy chuyển xuống những cái đầu khác thấp hơn thì coi như ách tắc, bởi nó chạm đến quyền lợi thu vén ham hố của các cá nhân và các tập thể lãnh đạo lớn nhỏ. Chính điều làm trì trệ đất nước chúng ta, bao lâu còn duy trì một hàng ngũ lãnh đạo lấy lợi nhuận của mình và của tập thể riêng lẻ của mình làm mục đích mà không lấy quyền lợi của người dân làm mục đích, thì rõ rành rành, người dân hẵng cứ còn khổ lụy dài dài.

Truyền thống đoàn tụ gia đình vào những ngày Tết đã ăn vào máu vào tủy của người Việt Nam, khó có thể xóa nhòa, có lúc đã có một ông nào đấy kết tội là chuyện nghỉ Tết đã tiêu hao quá nhiều năng lượng, gây trở ngại cho nền sản xuất và phát triển chung của đất nước. Thoạt nghe thấy cũng có lý, nhưng sâu xa hơn, nhu cầu tinh thần vẫn là cái lý mạnh nhất của con người, chính cái tinh thần gia đình mà xã hội Việt Nam có thể dựa vào đó để xây dựng lại nền đạo đức đang bị phá sản.

Đã có bao nhiêu tâm hồn nhờ vào tinh thần gia đình mà chống đỡ được sóng gió cuộc đời, đã có bao nhiêu tâm hồn nhờ vào tinh thần gia đình mà can đảm hy sinh vượt qua những khó khăn trở ngại, đã có bao nhiêu tâm hồn đã đứng dậy sau vấp ngã nhờ vào tinh thần gia đình. Truyền thống gia đình, truyền thống dân tộc của người Việt Nam quý biết bao !

Sáng nay, ngày Ba Mươi Tết, tôi xếp những bận rộn qua một bên để làm một việc bổn phận, một bổn phận không thể không thi hành, đó là ra nghĩa địa thăm bố tôi. Cụ nằm ở đó đã gần hai mươi năm, vẫn biết “xác đất vật hèn”, vẫn biết rằng có thể giờ đây chẳng còn gì cho dù là nắm xương dưới phần mộ ( khi chôn bố tôi, tôi nhớ như in vào đầu, có một mạch nước chảy liên tục vào kim tĩnh của bố tôi, phải lấp vội vàng vì sợ nước dâng lên quá nhanh ).

Thế rồi trên đường ra nghĩa trang, tôi đi ngang qua một ngôi Nhà Thờ theo kiểu dáng Đông Phương khá đẹp, trước đây tôi đã nghe xì xào về kinh phí khổng lồ để xây dựng ngôi Nhà Thờ này, và tôi cũng nghe những lời ra tiếng vào về kiểu dáng kiến trúc, kẻ khen người chê.

Tôi bỏ ngoài tai những lời chê bai ấy, vì tôi cứ nghĩ rằng làm được như thế là quý rồi, hơn nữa chẳng có khám phá thì chẳng có thành công, cái gì cũng phải trả giá, chỉ có những người không làm gì mới không bị phê bình, tôi cũng có thiện cảm với những cố gắng cho dù chưa hoàn chỉnh để thể hiện văn hóa dân tộc, truyền thống dân tộc, nên tôi ủng hộ ý tưởng của ngôi Nhà Thờ đó.

Nhưng sáng nay khi đi qua đó thì tôi lại buồn, buồn vì ngay trước mặt Nhà Thờ, vị Linh Mục chính xứ đã để cho ai đó treo lên một tấm pa-nô rất lớn, lớn lắm, chạy dài từ trên xuống dưới hàng chữ: “Merry Christmas – Happy New Year”.

Tôi chẳng ghét tiếng Mỹ, tôi cũng không ưa tiếng Tây, tôi vẫn chủ trương cần phải trau dồi Anh ngữ để phát triển, nhưng khi nhìn vào cảnh tôi vừa mô tả, tôi thấy nó làm sao đấy, nó giống như hình ảnh một cô con gái Việt nhà quê mặc áo dài tứ thân, “mớ ba mớ bẩy”, nhưng tóc thì lại nhuộm đỏ nhuộm nâu, ngồi xe tay ga chạy bạt mạng ngoài phố phường ! Chữ Merry Christmas to đùng trên đó có nghĩa là tấm pa-nô treo đã khá lâu rồi, từ mùa Giáng Sinh mãi cho đến bây giờ để kịp... Happy New Year của Việt Nam luôn, thế mà sao những người có trách nhiệm ở ngôi Nhà Thờ ấy lại không thấy... xốn con mắt trái, ngứa con mắt bên phải ?

Đem hình ảnh người con gái Việt ví von như trên, tôi lại nhớ đến một hình ảnh khác. Lâu lắm rồi, chừng vài ba năm trước thì phải, tôi có dự một buổi “tọa đàm về Hội Nhập Văn Hóa”, nhiều bài tham luận có giá trị được phát biểu, nhiều học giả uy tín hiện diện và trao đổi. Buổi tọa đàm đó sẽ rất thành công nếu không có người dẫn chương trình... “phá đám”. Gọi là “phá đám” vì dẫn chương trình một buổi tọa đàm về văn hóa với chủ đề hội nhập, nhưng người dẫn chương trình, vốn là một Linh Mục khá nổi tiếng, lại để tóc dài như dân Hippy của Sài-gòn những năm sáu mươi, mặc quần Jean, loại vải để đi lao động hoặc để... ăn chơi theo kiểu Mỹ !

Và “phá đám” đạt cao trào ngay phút kết thúc chương trình, người ấy nói mấy lời cám ơn rồi chào thật to toàn bộ cử tọa: “Good bye – See you again” ! Trời đất ơi, tôi chỉ là người tham dự, nhưng lúc đó tôi muốn... độn thổ ! ( Xin ghi chú thêm: Chương trình hôm ấy không hề có một người ngoại quốc nào ).

Ngày Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II ban hành Tông Huấn “Giáo Hội tại Á Châu”, tôi thấy ở Việt Nam chúng ta xôn xao đua nhau học tập, khắp nơi mở các khóa học, trao đổi, nghiên cứu tưng bừng cả lên... Bây giờ hình như Tông Huấn ấy nằm bẹp ở một xó nào đó trong thư viện các Nhà Dòng, các Đại Chủng Viện, các Tòa Giám Mục, không ai buồn rờ tới. Vào một Nhà Dòng ăn cơm vẫn “lẻng xẻng” tiếng muỗng nĩa dao ! Ngôn từ thần học vẫn tràn ngập ý niệm Phương Tây, Nhà Thờ, Nhà Nguyện vẫn thi nhau mọc lên theo kiểu Gothique, Roman, hoặc nửa Tây nửa Tầu, thêm cái chóp, cái tum... Liên-xô !

Cả một đám đông quần chúng tha thiết với truyền thống dân tộc, họ đã phải vượt qua bao nhiêu khó khăn để có những ngày Tết ấm áp giữa gia đình nơi quê hương chôn nhau cắt rốn của họ, trước khi lại phải tiếp tục lao vào cuộc mưu sinh nghiệt ngã. Họ đã phải trả những cái giá vô cùng đắt để giữ cho được một truyền thống đáng yêu như thế.

Phần chúng ta, nếu cứ còn mãi đứng ngoài và xa lạ với truyền thống, chúng ta tự loại ra khỏi cộng đồng thân thương của chính mình rồi đó...

Lm. TÙNG DƯƠNG, DCCT, Tết Mậu Tý 2.2008

Mục lục

 

Năm Mới Với Mẹ La Vang Phó Thác

Bài giảng trong thánh lễ minh niên Mậu Tý của đức TGM Nguyễn Như Thể tại La Vang

1. Kính thưa cộng đoàn hành hương,

Trong tháng chạp Âm lịch, người ta gửi đi khắp nơi những cánh thiệp chúc mừng năm mới, còn các gia đình nhận được những lá thư, điện thư, điện thoại… nhắn tin: “Ba mẹ ơi, Tết nầy, con sẽ về nhà”. Có lẽ đây là câu nói đầy tràn thương nhớ và chứa chan hạnh phúc của những người con xa quê vì chuyện học hành hoặc công việc làm ăn. Và người ở nhà cũng vậy, khi được tin Tết nầy con cháu, người thân, bạn bè sẽ về quê ăn Tết, lòng lại cảm thấy rộn rã một niềm vui ấm áp, giữa tiết trời giá lạnh.

Trong niềm vui đoàn tụ của cái Tết cổ truyền, hôm nay, đoàn con về đây quây quần bên Mẹ La Vang ngày đầu xuân, để cùng Mẹ dâng lên Thiên Chúa những tâm tình chúc tụng, tạ ơn và những ước nguyện tha thiết nhất từ sâu thẳm cõi lòng.

2. Lời Chúa chúng ta vừa nghe mang đến tin vui, tin mừng cho mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn. Hãy tin tưởng vào Chúa quan phòng. Kìa xem chim trời, kìa xem hoa huệ ngoài đồng. Loài vật, cỏ cây… mà Chúa còn thương yêu chăm sóc như vậy, huống hồ là anh em, là con cái Cha trên trời, anh em không quý giá hơn chim chóc hoa lá sao? Vậy, “trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”.

Chúng ta phải hiểu sự quan phòng của Chúa thế nào cho đúng.

Chúa không dạy chúng ta sống vô tư, khoanh tay ngồi chờ, không lo lắng gì, hoặc lãng lánh trách nhiệm của người cha, người mẹ, người thầy, người chủ xí nghiệp… lo cho con cái, lo cho học sinh, lo cho công nhân trong hãng mình. Nhưng Chúa muốn dạy chúng ta đừng lo lắng thái quá đến độ căng thẳng, xao xuyến, không còn bình tĩnh sáng suốt để tìm ra những giải pháp thích hợp cho hoàn cảnh cụ thể mình đang sống.

Nhất là Chúa nhắc chúng ta đừng quá lo lắng sự đời mà xao lãng việc đạo, trở thành nô lệ cho vật chất, như dụ ngôn người gieo giống trong Phúc âm đã cảnh báo: “Có hạt giống rơi vào bụi gai: đó là những kẻ nghe Lời Chúa, nhưng dọc đường bị những nỗi lo lắng và vinh hoa phú quý ở đời làm cho chết ngộp và không đạt tới mức trưởng thành” (Lc. 8,14).

3. Anh chị em thân mến,

Chúng ta có thể đọc thuộc lòng kinh tin kính không sót một chữ, nhưng lại không có lòng tín thác vào Chúa quan phòng, sắp xếp mọi sự một cách khôn ngoan cho chúng ta, lắm lúc còn trách móc Ngài nữa, rồi sống thụ động buông xuôi.

Hãy luôn nhớ rằng con người tuy nhỏ bé, mong manh như hạt cát, hạt bụi, nhưng lại có giá trị vô cùng trước mặt Chúa, vì thứ cát bụi nầy được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, được làm con cái Chúa và được chung hưởng gia tài Nước Trời với Chúa Giêsu. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng hát lên: “Ôi, cát bụi tuyệt vời!”.

Nếu chúng ta có đức tin mãnh liệt vào Thiên Chúa là Cha thương yêu vô cùng và quyền phép vô song, thì sẽ không bao giờ bất an, xao xuyến, thất vọng, tuyệt vọng. Thánh Phêrô dạy giáo hữu rằng: “Mọi lo âu, anh em hãy trút bỏ cho Chúa, và Chúa chăm sóc anh em” (1Pr. 5,7).

Ngôn sứ Isaia nói lời Thiên Chúa ủi an dân Người: “Có bà mẹ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình mang nặng đẻ đau ư? Cho dù bà mẹ đó có quên đi nữa, thì Ta chẳng quên con bao giờ” (Is. 49,15). Ngôn sứ Isaia tuyên sấm những lời yêu thương nầy, khi dân Israel đang thời kỳ suy sụp: đền thờ bị tàn phá, dân Chúa bị bắt đi lưu đày ở Babylon. Họ cảm thấy như Thiên Chúa đã bỏ rơi họ. Nhưng Isaia cam đoan với họ là Thiên Chúa luôn chăm sóc dân Người một cách khôn ngoan, nhiệm mầu.

Thánh Phaolô quả quyết rằng: “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người” (Rm. 8,28).

Trường hợp tổ phụ Giuse trong Cựu ước là một ví dụ điển hình. Ông bị các anh bán sang Ai-cập. Nhưng cũng nhờ đó mà gặp lúc khô hạn, mùa màng thất bát, ông lại là người cứu giúp anh em mình qua cơn đói kém. Chính ông nói với các anh, khi họ đến gặp ông tại Ai-cập rằng: “Không phải các anh, nhưng là chính Thiên Chúa đã lo cho em đến Ai-cập trước các anh. Sự dữ các anh đã làm cho em nay lại biến thành điều lành…, để cứu sống cả một dân tộc đông đúc” (St. 45,8 - 50,20).

4. Anh chị em thân mến,

Xuân đã về. Xuân đất trời. Xuân lòng người. Xuân cỏ cây hoa lá.

Trong các loài hoa biểu trưng cho mùa xuân, thì miền Bắc có hoa đào, còn miền Trung và miền Nam có hoa mai. Hãy nghĩ về hoa mai đang gần gũi với chúng ta đây. Từ những cành cây sần sùi, khẳng khiu ấy, nở ra những đoá mai vàng thuần khiết, thanh tân, tao nhã, không phô trương loà loẹt, không thơm phức ngào ngạt, mà chỉ toả nhẹ hương thầm thoang thoảng.

Cây mai đứng đó, khiêm tốn mà sang trọng, với cung cách an nhiên, tự tại. Giữa cơn gió đông, giữa trời rét mướt, giữa đất ướt trũng…, mai cứ vươn lên, chứ không chịu cúi xuống. Hoa gì cũng có thể ngã nghiêng trước mưa gió, riêng mai thì vẫn đứng thẳng, không nao núng.

Cái khí tiết, cái cốt cách, cái đức lớn nằm trong cành mai, trong hoa mai, lặng lẽ dâng cho đời hương sắc và niềm tin tưởng hy vọng, dạy cho chúng ta bài học làm người cao quý, đó là: sống thanh tao, sống ngay thẳng, sống cương nghị, sống thanh thoát, sống vươn lên.


Lạy Mẹ Maria, Mẹ là hoa hường mầu nhiệm. Mẹ cũng là hoa mai khiêm nhu mà rất đỗi cao sang. Ân sủng Chúa đã un đúc Mẹ nên một nhân cách tuyệt vời vô song, một người nữ tỳ luôn thưa lời xin vâng và hằng được bình an trong tâm hồn và trong gia đạo. Xin Mẹ giúp chúng con noi gương Mẹ, giữa muôn vàn lo toan trong cuộc sống, biết giữ lòng thanh thản, an nhiên, trước tiên tìm kiếm Nước Chúa, tìm làm theo thánh ý Chúa, luôn tin tưởng phó thác vào tình yêu Chúa quan phòng, còn mọi sự khác Người sẽ thêm cho. Amen.

+ Stêphanô Nguyễn Như Thể

Tổng Giám mục TGP Huế

Mục lục

 

ĂN CHAY VÀ ĂN MẶN.

Đời đáng sống, hay không đáng sống…

 

Trong những ngày này, người Công giáo đang sống trong những ngày gọi là “Mùa Chay”. Mùa Chay kéo dài 40 ngày, bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro. Mùa Chay là mùa hy sinh hãm mình, thanh tẩy tâm hồn, canh tân đời sống để chuẩn bị tâm hồn kỷ niệm cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu Kitô và mừng Đại Lễ Phục Sinh.


Chữ “CHAY” nơi đây hiểu theo một nghĩa hơi khác với ý niệm “CHAY” của một số tôn giáo khác. Như bên Phật giáo, chữ “CHAY” có nghĩa là “không ăn thịt”, chỉ ăn rau, hoa trái. “Chay trường” là kiêng ăn thịt suốt đời, hoặc trong một thời gian lâu dài; hoặc ăn chay theo ngày như ‘mùng một và ngày rằm”. Vì thế có danh từ “ĂN CHAY” và “ĂN MẶN”. Có những trường phái hoặc những người chủ trương “ăn chay” (vegetarian) để chữa bịnh, hoặc để tu luyện, như những tu sĩ nam nữ trong các dòng khổ tu Công giáo, như “Châu Sơn”, “Phước Sơn”, dòng tu Camêlô.v.v…


Chữ “chay” bên Công giáo hiểu là “ăn ít đi”, ngày ăn chay là ngày chỉ ăn một bửa chính và một bửa ăn nhẹ, và không ăn “vặt” giữa các bửa ăn, trừ những vị đã già nua, hoặc những người bệnh tật. Còn “kiêng thịt” mới là ngày không ăn thịt. Ngày xưa, người Công giáo không ăn thịt ngày Thứ Sáu suốt năm để kỷ niệm ngày Chúa Giêsu chịu chết trên Thập tự giá để chuộc tội nhân loại. Bây giờ chỉ còn “Kiêng thịt ngày Thứ sáu trong Mùa Chay”. Tuy nhiên nhiều người vẫn kiêng thịt ngày Thứ Sáu quanh năm, có người kiêng thịt ngày Thứ Sáu và ngày Thứ Tư trong tuần.


Trong Mùa Chay, người Công giáo chỉ buộc vừa ăn chay (chỉ buộc những người từ 18 tuổi đến 59 tuổi), vừa kiêng thịt (chỉ buộc những người từ 14 tuổi trở lên), trong hai ngày là ngày “Thứ Tư Lễ Tro” (ngày mở đầu Mùa Chay Thánh) và ngày “Thứ Sáu Tuần Thánh” (ngày đặc biệt kỷ niệm của cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu). Những người đau ốm hoặc quá già nua tuổi tác thì không phải giữ những lề luật trên đây.


Như vậy so với các tôn giáo bạn, thì lề luật “ăn chay”, “kiêng thịt” của Giáo hội Công giáo rất là nhẹ nhàng. Lý do, vì Giáo hội coi các lề luật, kể cả đi dâng lễ ngày Chúa Nhật, chỉ là nhưng “hướng dẫn cụ thể” để mọi người tùy theo hoàn cảnh, tuổi tác tự làm lấy những công việc đó một cách tự nguyện do đức tin chân thành và lòng yêu mến Chúa, chứ không chỉ làm vì sợ tội, sợ hình phạt. Giống như những người con hy sinh thời giờ đến thăm cha mẹ, hoặc giữ những lời chỉ bảo của cha mẹ, vì lòng hiếu thảo, yêu mến cha mẹ, chứ không chỉ vì sợ cha mẹ la mắng, hoặc cha mẹ ghét bỏ. Đó là thái độ “sống đạo trưởng thành”, với tấm lòng, với tình yêu thương, chứ không phải chỉ vì sợ tội. Thiên Chúa luôn luôn tôn trọng tự do của con người. Hơn nữa, Mùa Chay không phải chỉ gồm có ăn chay, kiêng thịt, mà quan trọng ở chỗ “hy sinh hãm mình”, tập luyện ý chí để tự kiểm soát con người của mình (self-control) không bị “danh, lợi, thú” điều khiển cuộc đời của mình.

Như vậy Mùa Chay là thời gian đặc biệt để mọi người tự thanh luyện con người của mình, làm mới lại con người của mình. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần giúp đở để canh tân đời sống. Thực ra đó là những điều mỗi người chúng ta đều phải làm hàng ngày để cải thiện con người của mình, để mỗi ngày trở nên tốt hơn, mới hơn (tân nhật tân); hôm nay phải cố gắng để “mới hơn hôm qua”. Đó là một cuộc hành trình đức tin để tiến lên gần Thiên Chúa là Đấng Chân Thiện Mỹ… Mỗi ngày chúng ta tiến gần cái chết hơn, đến gần nấm mồ của chúng ta hơn, và cũng là tiến gần đến với Chúa hơn. Con đường sống đạo là con đường đi lên, vươn lên mãi mãi.


Một cách cụ thể, trong Mùa Chay, mỗi người thường được nhắc nhở phải cầu nguyện nhiều hơn, ăn chay hãm mình nhiều hơn; nhưng phải đưa đến hiệu quả là “sống bác ái, vị tha” hơn, qua các công việc từ thiện, giúp đở những người nghèo khó trên thế giới, thường được gọi là “làm phúc, bố thí”. Danh từ “bố thí” bây giờ không còn được dùng; vì làm việc từ thiện là một “chia sẽ” trong tình nhân loại, chứ không phải là việc “bố thí” ban phát của người giàu cho người nghèo.

Trong Mùa Chay, mọi người đều được nhắc nhở đọc và suy ngẫm và đưa vào thực hành hàng ngày, những đoạn Kinh Thánh trong sách Cựu Ước cũng như Tân Ước nói đến tinh thần Công bằng, Bác ái.


Trong Cựu Ước Tiên Tri Isaia nhắc nhở: “Việc ăn chay mà Thiên Chúa muốn, đó là: Mở xiềng xích trói buộc cho người bị áp bức, đem tự do cho người bị đàn áp, phá tan gông cùm xiềng xích bất công. Cho người đói ăn; tìm nơi trú trọ cho người không nhà cửa; đem áo mặc cho người trần trụi…” (Isaia 58,6…). Tiên tri Ezechiel kêu gọi: “Không áp bức người ta, trả lại của cải cho người cầm cố; không gian lận của người khác; cho người đói ăn; cho người trần trụi áo mặc. Không cho vay để lấy lời nặng, không gây oan khiên…” (Ezekiel 18,7…). Trong sách Thứ Luật, có đoạn viết: “Anh em đừng cứng lòng, đừng khép lòng với người thiếu thốn; nhưng hãy rộng tay giúp đở họ trong cơn túng cực…(Sách Thứ luật 15,7…); hoặc: “Hãy lắng nghe những lời than van của đồng loại; hãy công bằng trong việc xét xử cho cả hai bên, dù một bên là ngoại kiều. Khi xét xử, đừng nể vị, hãy lắng nghe người bình dân cũng như người quyền thế”. (Thứ Luật 1,16…). Sách Cách ngôn viết: “Đừng bóc lột người nghèo khổ vì họ nghèo khổ; đừng áp bức những người yếu thế nơi xử án… (Cách ngôn 22.22…). Đặc biệt, Tiên tri Giêrêmia viết: “Hãy thi hành sự công minh, chính trực; hãy giải thoát người bị áp bức; đừng ngược đãi, hành hung những người ngoại kiều, kẻ mồ côi, người góa bụa. Không được đổ máu những người vô tội… (Giêrêmia 22, 3…).


Kinh Thánh Tân Ước càng nhấn mạnh rỏ ràng hơn về việc thực hành đức tin qua việc tôn trọng phép công bằng và lòng thương, giúp đở mọi người, nhất là những người gặp cảnh khó khăn thiếu thốn. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa thì chưa có ai nhìn thấy bao giờ; nhưng nếu chúng ta thương yêu nhau thì Thiên Chúa ở trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta mới được hoàn hảo…” (1Gioan 4,12…). “Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở trong người đó được? Anh em thân mến, anh em đừng yêu thương nhau trên đầu môi, chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm!” (1Gioan3, 17…). Thánh Giacôbê viết: “Thưa anh em, anh em nói mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích gì? Đức tin có thể cứu rỗi người đó được chăng? Giá như có người anh em nào không có áo che thân, không đủ ăn hàng ngày, mà anh em nói: Hãy đi bình an, mặc cho ấm, và ăn cho no, nhưng lại không cho họ những thứ họ đang cần, thì nào có ích gì? Đức tin không hành động là đức tin chết!” (Thơ Giacôbê 2,14…). Chỗ khác Thánh Giacôbê viết: “Anh em đã tin vào Chúa Kitô thì đừng đối xử thiên tư. Giả như có một người bước vào dự cuộc hội họp, tay đeo nhẩn vàng, áo quần lộng lẫy, đồng thời một người nghèo khó cũng vào, ăn mặc tồi tàn, mà anh em kính cẩn nhìn ngừơi ăn mặc lộng lẫy và nói: xin mời ông vào ngồi chỗ danh dự này; còn với ngừơi nghèo anh em lại nói: Đứng đó! Hoặc: Ngồi dưới chân tôi đây này! Như vậy là anh em đã chẳng tỏ ra kỳ thị và là những kẻ đối xử bất công đầy tà tâm đó sao!” (Thơ Giacôbê 2:1…).

Chúa Giêsu khi xuống thế làm người, Ngài đã sinh ra trong gia đình nghèo khó, sống cuộc đời nghèo khó (Con cáo có hang, con chim có tổ, con người không có chổ dựa đầu! ), và khi đi rao giãng Tin mừng tình thương, Ngài đã luôn đến với người nghèo khó, bịnh hoạn, phong cùi, để an ủi và chửa lành cho họ. Ngài đã nói nhiều dụ ngôn để kêu gọi mỗi tín hữu hãy biết thương yêu giúp đở người nghèo; như trong dụ ngôn “Người nhà giàu và ông Lagiarô nghèo khó”: Người giàu có ăn mặc lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Trong khi ông Lagiarô thì nghèo khó, mụn nhọt đầy mình, nằm ở cổng người nhà giàu, thèm được ăn những mảnh vụn từ bàn ăn của người nhà giàu rớt xuống mà ăn cho đở đói; nhưng chẳng ai cho. Cuối cùng thì ông Lagiarô chết và người nhà giàu cũng chết. Nhưng số phận hai người sau cái chết khác hẳn nhau. Ông Lagiarô được hưởng cuộc sống hạnh phúc nước trời; còn người nhà giàu phải chịu cảnh khốn khổ! (Phúc Âm Luca 16, 19…).


Mỗi người chúng ta đều phải chết, dù giàu, dù nghèo, và khi chết chúng ta đều trở về cát bụi, không mang theo chút của cải gì. Những gì chúng ta có thể mang theo để dâng lên Chúa đó là những gì chúng ta làm cho người lâm cảnh cùng khốn. Trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta đi dâng lễ rất đông, và chúng ta đều lên chịu xức tro trên trán và nghe ca đoàn hát rất cảm động: “Hởi người, hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro…”.


Ngày phán xét cuối cùng Thiên Chúa sẽ xét xử chúng ta theo những việc chúng ta đã làm cho Chúa qua việc giúp đở những người nghèo khó, bịnh hoạn… Trong câu chuyện “Ngày phán xét chung”, Thiên Chúa nói với những người tốt lành, từ tâm: “Các con hãy vào hưởng hạnh phúc Nước Trời, vì xưa Cha đói các con đã cho Cha ăn, Cha khát đã cho Cha uống, Cha bịnh hoạn các con đã viếng thăm… Khi chúng con làm những điều đó cho anh em là chúng con đã làm cho chính Cha!..” (Phúc Âm Mathêu 25, 31…).

 

Chính những đoạn Kinh Thánh trên đã thúc đẩy nhiều linh mục, tu sĩ, cũng như các tín hữu đã hy sinh thời giờ, tiền của, cũng như cả cuộc đời để lo giúp đở người nghèo khó trên thế giới, phục vụ người đau ốm, săn sóc những bệnh nhân trong các trại phong cùi như ở Việt Nam trước đây và cả hiện nay.

Công việc bác ái, từ thiện là việc chúng ta phải làm suốt năm, suốt đời. Nhưng đặc biệt trong Mùa Chay, chúng ta càng cần đọc và suy ngẫm Lời Chúa để đem vào thực hành trong đời sống, để âm thầm phục vụ tha nhân trong khiêm tốn với cả lòng thương người phát từ lòng chân thành của chúng ta qua tác động của Chúa Thánh Thần. Chúng ta cần tự hỏi: Tôi đã làm gì để giúp đở Chúa qua những người cần được giúp đở?



Một cách thực tế chúng ta thử đặt vấn đề: Trong tủ áo của tôi có biết bao quần áo đắt tiền quý giá, nhiều khi mặc một lần rồi bỏ đó; trong khi trên thế giới có bao người không đủ quần áo để mặc cho ấm vào những ngày thời tiết lạnh giá!


Chúng ta có bao đôi giày mắc tiền, chỉ đi một lần rồi bỏ; trong khi trên thế giới có nhiều người nghèo, không có giày dép để đi.

Chúng ta ăn uống quá đầy đủ và bỏ đi bao đồ ăn dư thừa; trong khi nhiều người không có một bửa ăn no cho mình và cho con cái.


Lương tâm một con người lương thiện, một Kitô hữu không thể không đặt những vấn đề như vậy! Thực tế, đã có nhiều người đã đặt vấn đề, và đã rộng tay giúp đở các công cuộc từ thiện của Giáo hội, nhờ thế hội từ thiện của Giáo hội, thường được gọi là “Caritas” (Bác-Ái)quốc tế, cũng như ở Hoa Kỳ hàng năm, nhất là vào Mùa Chay, đã nhận được nhiều tiền của để giúp các công cuộc từ thiện, các chương trình xã hội trên tòan thế giới.


Xin Chúa Thánh Thần canh tân đời sống chúng ta trong Mùa Chay Thánh này, để chúng ta cũng được “sống lại” với Chúa trong cuộc sống mới, rộng mở tâm hồn để cùng chung tay xây dựng hòa bình, sự thịnh vượng và phát triển trên tòan thế giới, và chúng ta được thấy cuộc đời chúng ta thật tốt đẹp, thật hạnh phúc và giàu ý nghĩa.


“Ăn Chay” hay “Ăn Mặn” là tùy sự lựa chọn và hoàn cảnh sống của mỗi người; tuy nhiên, “Đời đáng sống hay không đáng sống!” “Đời chúng ta có hạnh phúc hay không ?” là tùy thái độ sống của chúng ta và lòng từ tâm quảng đại của chúng ta!

 

LM. Anphong Trần Đức Phương

 

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC

Đứa bé khoanh tay cúi đầu thưa vị linh mục:
- Thưa Ông, con đi học!
- Ủa, hồi chiều con đi học về rồi, sao giớ tối này lại đi học?

Ông vừa nói xong, bà mẹ gia đình đã đỡ lời cho con:
- Cháu đi học thêm, Chú ạ!
- Sao bắt cháu học thêm làm gì? Mới học lớp Lá có gì mà học thêm?
- Thì cháu nó thích thế!

Ông linh mục quay lại hỏi đứa bé:
- Đi học thêm, con có mệt không?
- Dạ mệt lắm!
- Thế sao không ở nhà?
- Dạ, ở nhà, cô giáo không thương.
- Không thương là sao?


- Các bạn không học thêm, cô bắt ngồi cuối lớp và cô không thèm hỏi gì cả (?).

Trên đây là câu chuyện “sống” của anh bạn linh mục X mới kể cho tôi nghe, sau một dịp về thăm gia đình ở một huyện ngoại thành Tp Hồ Chí Minh. Luôn miệng anh bạn kể tiếp: cũng trong số mấy gia đình bà con của anh ở huyện này, có vài cháu là học sinh giỏi, ngoan được bầu làm trưởng lớp. Hỏi chúng: “Làm trưởng lớp, con phải làm việc gì?” Đáp: “Thưa, bạn nào không tốt, hay nói chuyện, hay quậy phá, thì con ghi tên nộp cô giáo.”

Thực trạng đạo đức học sinh

Những điều như trên là hoàn toàn phản giáo dục nhưng lại rất “bình thường” trong nền giáo dục của chúng ta. Chính người lớn đang vô tình gieo vào tâm trí non nớt của trẻ thơ trong trắng những tư tưởng về sự phân biệt đối xử, sự chia rẽ  phân cấp trong xã hội dựa trên giàu nghèo, về thói quen theo dõi kẻ khác để báo cáo cấp trên lấy thành tích (bây giờ có thể chưa xảy ra vì các cháu còn quá nhỏ nhưng nay mai sẽ khó tránh!)…Cho nên đừng ngạc nhiên khi thấy thực trạng đạo đức trong giới học sinh phổ thông – như nhiều người nhận xét- đang có vấn đề đáng báo động, và “chưa bao giờ công tác giáo dục đạo đức học sinh khó khăn như hôm nay” ( Tuổi Trẻ Online, ngày 22/12/2007)!

Để phân tích tình trạng này, ngày 21/12/2007, Sở GD-ĐT tp Hồ Chí Minh đã tổ chức một cuộc hội thảo về “Nâng cao chất lương giáo dục đạo đức trong nhà trường”. Theo báo cáo của Sở thì học sinh được đánh giá đạo đức khá tốt, trên 98%. Nhưng các ý kiến phát biểu tại cuộc hội thảo lại không lạc quan như thế. Số học sinh vi phạm pháp luật, thiếu lễ độ với người lớn, nói tục chửi thề, gây gỗ đánh nhau, không trung thực, ích kỷ, ham chơi, ham “chat”, mê games, đua đòi… ngày càng nhiều . Một lần nữa ta thấy “báo cáo” khi nào cũng tốt hơn thực tế, lý do là vẫn còn do bệnh “thành tích” chi phối hoặc do tiêu chuẩn đánh giá chưa phù hợp. Tham luận của Phòng GD-ĐT quận Tân Bình bi quan: “Chuyện học sinh cầm xe lấy tiền đi Internet, cầm đồ khắp nơi, trộm cướp tài sản tiêu xài ngày càng nhiều” (Tuổi Trẻ Online số nói trên).

Khó khăn của công tác giáo dục đạo đức

Công tác này đặc biệt khó khăn vì các lý do sau đây.

1. Môi trường đạo đức trong xã hội, và có khi ngay trong gia đình và nơi trường học xuống cấp trầm trọng. Chẳng hạn việc chạy trường chạy lớp, việc gian dối “công khai” trong học hành và thi cử, thái độ sống thiếu trung thực của không ít thầy cô (ví dụ bề ngoài tuyên bố là không dạy thêm hoặc chỉ dạy thêm cho những học sinh yếu kém, nhưng trong thực tế lại làm khó dễ ra mặt cho những học sinh không học thêm lớp mình dạy ở nhà), v.v. là những điều làm cho con em  mất tin tưởng vào lời giảng dạy của các bậc mô phạm. Ngoài xã hội, cái tốt cái xấu không còn tiêu chuẩn rõ ràng để phân biệt; dường như cái gì “được việc” hoặc được số đông làm theo là cái tốt, cái đúng. Những giá trị tinh thần xem ra ngày càng “lép vế” trước sức mạnh của vật chất, tiền bạc.

2. Trong lúc đó thì các bài học đạo đức ở nhà trường thường xa rời thực tế, không hợp với tâm lý các lứa tuổi và vẫn theo cách nhồi nhét kiến thức như quen làm. Ở bậc tiểu học, mỗi tuần học sinh lớp 3 được dạy bài đạo đức tựa đề “Đoàn kết với thiếu nhi quốc tế”, học sinh lớp 5 học bài “Tìm hiểu về Liên Hiệp Quốc”! Lên Trung học Cơ sở, với 75 bài học từ lớp 6 đến lớp 9, thời lượng cho môn giáo dục công dân cũng chỉ 26 tiết/năm, trong đó số tiết đạo đức chỉ có 12-15 tiết. học sinh lớp 7 học về bộ máy nhà nước cấp cơ sở, học sinh lớp 8 về quyền sở hữu tài sản, học sinh lớp 9 học về tự do kinh doanh và nghĩa vụ đóng thuế, quyền và nghĩa vụ công dân trong hôn nhân… Ở bậc Trung học Phổ thông, nghịch lý hơn khi học sinh lớp 11 và 12 không có tiết học đạo đức nào. Chương trình giáo dục công dân lớp 10 (29 tiết/năm) rất nặng nề về kiến thức với hai phấn triết học và đạo đức gồm các nội dung trừu tượng, hàn lâm: các phạm trù đạo đức cơ bản, khái niệm về các giá trị đạo đức; vật chất, ý thức, tồn tại xã hội, ý thức xã hội, phương pháp luận biện chứng… (x. Tuổi Trẻ online, số đã dẫn).

3. Qua những ví dụ như trên, chúng ta thấy rằng Bộ GD-ĐT hiểu đạo đức trước tiên là đạo đức chính trị. Ngay 5 điều “nằm lòng” của học sinh cũng mang màu sắc chính trị: Yêu tổ quốc, yêu đồng bào – Học tập tốt, lao động tốt - Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt – Giữ gìn vệ sinh thật tốt – Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm.

Riêng giáo dục công dân lớp 10 thật ra là những bài triết học Mác-Lênin mà ở cấp này chắc chắn học sinh chẳng thể hiểu gì, và chắc chắn các giáo viên cũng quá biết điều đó nhưng vẫn dạy và lấy làm hài lòng khi học sinh “trả bài” thuộc lòng!

Vậy đạo đức làm người ở đâu mà không thấy nhấn mạnh? Dường như người ta coi đạo đức là đạo đức chính trị trong lúc thực ra đạo đức chính trị cũng phải xây dựng trên đạo đức làm người với những đức tính nền tảng như nhân ái, trung thực, lương thiện, lòng tự trọng, tinh thần trách nhiệm, tôn trọng sự sống, tự do và quyền lợi chính đáng của kẻ khác. Ông Huỳnh Công Minh, giám đốc Sở GD-ĐT tp HCM phát biểu tại cuộc hội thảo hồi tháng 12-2007 nói trên như sau: “Cần xây dựng nội dung chương trình môn đạo đức theo hướng đồng tâm, tập trung vào những phẩm chất cơ bản của nhân cách và có tính liên thông cao” (T uổi rẻ Online, số đã dẫn)

4. Một lý do nữa giải thích sự khó khăn của công tác giáo dục đạo đức là thiếu nhân sự thích hợp. “Dạy chữ”, dù sao, vẫn dễ vì chủ yếu là truyền đạt những kiến thức, còn đạo đức luân lý đòi hỏi vừa hiểu biết vừa khả năng thuyết phục, mà tư cách của giáo viên là một yếu tố rất quan trọng. Ở bậc trung, tiểu học các thầy cô cũng chỉ “cho” những gì họ đã “nhận” từ một nền giáo dục, một nền sư phạm với một triết lý giáo dục lỗi thời mà ngày nay người ta đang ra sức “chữa cháy” một cách vất vả…

Để kết luận

Bây giờ người ta bắt đầu ý thức rất rõ (và với đầy bức xúc) những yếu kém, những bất cập và cả những sai lầm trong giáo dục đạo đức cho thiếu nhi và học sinh chúng ta. Những điều đã được nói ra tại cuộc hội thảo mà chúng tôi phản ánh trong bài này nói lên điều đó. Và tôi tin rằng trong thực tế đã có nơi bắt đầu tự mình đưa ra những sáng kiến phù hợp hơn trong lãnh vực giáo dục này. Nhưng dù có “suy tư sáng tạo” đến đâu cũng không ai dám đi ra ngoài chính sách chung hiện hành. Cái cần phải cải tổ sâu sắc là chính đường hướng chung, - mà công việc này, một lần nữa đòi hỏi một triết lý giáo dục mới dựa trên một quan niệm về con người toàn diện hơn quan niệm đang thống trị trong xã hội ta cho tới nay.

Lm Nguyễn Hồng Giáo, dòng Phanxicô

 

 

Giây phút hiện tại

 

Vua Saapas của nước Ba Tư thời cổ thích dùng dụ ngôn để nói chuyện với các quan chức trong triều đình.

Một hôm, ông hỏi các quan cận thần như sau:

 

Âm thanh nào dịu dàng nhất? Người thì cho rằng, tiếng sáo là âm thanh thánh thót nhất, người lại thích tiếng đàn lục huyền cầm, người khác thì lại đề cao tiếng vĩ cầm, trong các quan cận thần, chỉ có ông Nasaky ngồi thinh lặng. Nhà vua vẫn chưa tìm được câu trả lời dứt khoát.

 

Một hôm, ông Nasaky cho tổ chức một bữa tiệc khoản đãi nhà vua và các quan chức trong triều đình. Các nhạc công vận dụng mọi khả năng của mình để chào mừng các quan khách, nhưng hết nhạc khúc này đến nhạc khúc khác mà bàn ăn vẫn còn trống trơn. Không có thức ăn mà cũng chẳng có một giọt nước nào để cầm hơi, lúc đầu các thực khách còn chú tâm để thưởng thức âm nhạc, nhưng càng về khuya bụng càng trống. Lúc đó, không gì khó chịu cho bằng âm thanh dù đó là tiếng nhạc du dương, nhưng vì lịch sự và để giữ thể diện không ai dám lên tiếng thắc mắc.


Vào đúng giữa khuya, ông Nasaky ra dấu gọi người quản tiệc đến, lập tức, một đội quân hầu bàn tiến đến phòng tiệc, mỗi người một mâm đầy của ngon vật lạ, lúc bấy giờ người quản tiệc dùng một chiếc nĩa lớn gõ vào mâm, tiếng kim khí chạm vào nhau tạo thành một âm thanh chát chúa, nhưng tất cả các thực khách đều thở ra nhẹ nhõm. Giờ đã đến, sự chờ đợi của họ đã được đáp trả. Để khai mạc bữa tiệc, nhà vua liền nói như sau:


Tiếng va chạm muỗng nĩa lọt vào tai của một người đang đói. Đó là âm thanh dịu vợi nhất.


Một trong những ý nghĩa mà chúng ta có thể tìm thấy trong câu chuyện trên đây hẳn phải là: hãy sống và bằng lòng với giây phút hiện tại. Sống sung mãn thực sự thiết yếu là sống một cách tích cực giây phút hiện tại. Tại Las Vegas, thành phố cờ bạc nổi tiếng của thế giới người ta thường bắt gặp dòng chữ quảng cáo như sau:


''Bạn hãy chú tâm vào hiện tại mới mong thắng cuộc''.


Nền văn minh tiêu thụ ngày nay không ngừng thôi thúc con người tích lũy, lắm khi con người bị chiếm hữu và giam giữ trong những xiềng xích của những thứ mình tích lũy. Chúng ta sợ mất mát, chúng ta sợ thất bại, chúng ta đồng hoá sự đơn giản với mất mát, sự thinh lặng với trống không và chính vì thế mà chúng ta tìm đủ mọi cách để lấp đầy nhà cửa, lấp đầy thân xác và nhất là lấp đầy tâm trí chúng ta với không biết bao nhiêu của cải và trò giải trí, nhưng càng bị vướng mắc trong màng lưới của của cải chúng ta càng nghèo nàn trong tinh thần. Khi tinh thần của chúng ta trở nên nghèo nàn trống rỗng thì dĩ nhiên phút giây hiện tại sẽ chỉ còn là cái độc điệu, buồn chán. Trái lại, khi tâm hồn con người được sung mãn, thì lúc đó mỗi một giây phút hiện tại sẽ là một kho báu độc nhất vô nhị.


Ánh bình minh hay buổi chiều tà của ngày hôm nay sẽ mãi mãi không bao giờ được lặp lại. Tiếng cười của trẻ thơ hay ánh mắt thân ái của một người bạn sẽ không bao giờ đến lần thứ hai. Do đó, hiện diện trong giây phút hiện tại với những người đang có mặt và những gì đang đến là cách thế duy nhất để chúng ta cảm nhận được một cách sung mãn nhất sự diệu kỳ của cuộc sống. Ai đó đã đưa ra bí quyết của hạnh phúc như sau: Hãy xem việc bạn đang làm việc là việc quan trọng nhất và hãy xem người đang ở trước mặt là người quan trọng nhất. Niềm tin vào tình yêu quan phòng của Chúa luôn đòi hỏi các tín hữu Kitô chúng ta sống giây phút hiện tại với tinh thần ấy.


Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tinh thần đơn sơ, nhỏ bé, để chúng con nhìn thấy Chúa đang đến trong mọi sinh hoạt và bổn phận hằng ngày của chúng con. Xin thánh hoá chúng con để chúng con biết đón nhận và sống một cách sung mãn từng giây phút hiện tại. Xin soi sáng để chúng con tìm thấy thánh ý Chúa trong mọi sự và sống đẹp lòng Chúa
.

 

Văn Hương dưu tầm

 

Mục lục

 

DIỄN VĂN KHAI MẠC HỘI THẢO HIV/AIDS

 

(của Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, Tổng Thư ký Uỷ ban Bác ái Xã hội)

 

Kính thưa Đức cha Giuse Ngô Quang Kiệt, Tổng Giám mục Hà Nội,

Đức cha Giuse Đặng Đức Ngân, Giám mục Giáo phận Lạng Sơn,

Đức cha Giuse Vũ Văn Thiên, Giám mục Giáo phận Hải Phòng,

Đức Ông Vitillo, Đại diện Caritas Internationalis,

Bà Christine Wegner Schneider, Đại diện Caritas Germany,

Ông Eamonn Murphy, Đại diện Tổ chức Phòng chống AIDS của Liên Hiệp Quốc,

Kính thưa Quý vị Đại biểu, Quý Cha, Quý Tu sĩ nam nữ

và anh chị em tham dự viên thân mến,


Trước hết, xin cho phép chúng tôi thay mặt Ban Tổ Chức chào mừng toàn thể Quý vị và anh chị em đã đến tham dự cuộc Hội Thảo này. Tất cả những ai đang hiện nơi đây đều là những người có lòng nhân ái, biết cảm thông và muốn cứu giúp những người đang sống chung với HIV/AIDS.

 

Đến với cuộc Hội Thảo này, chúng ta có các vị đại biểu từ 6 Tổ chức Quốc tế: Caritas Germany, Caritas Internationalis, Catholic Relief Service, Misereor, UNAIDS và Action Aid; các đại biểu đến từ 14 giáo phận có nhiều người sống chung với HIV; các đại biểu đến từ các nhà mở, mái ấm, phòng khám dành cho người có HIV thuộc Tổng Giáo phận TP.HCM; các bác sĩ có những công trình nghiên cứu về HIV/AIDS. Một số giám mục đã gửi điện thư chúc mừng Hội Thảo nhưng không thể tham dự được vì phải tổ chức tĩnh tâm hằng năm cho các linh mục vào những tuần đầu của năm mới. Chúng tôi cũng rất tiếc phải từ chối một vài tổ chức và cá nhân vì điều kiện eo hẹp và giới hạn hiện nay chưa thể đón tiếp toàn thể Quý vị. Số tham dự viên 78 người hôm nay đã vượt xa số dự trù ban đầu là 50 người.

 

Tiếp theo, có lẽ chúng ta nên lược qua tình trạng HIV/AIDS tại Việt Nam để định hướng cho cuộc Hội Thảo này.

 

Kể từ lần đầu tiên phát hiện được người nhiễm HIV vào tháng 12 năm 1990, đại dịch này đang lan rộng rất nhanh tại Việt Nam. Vào cuối năm 1999, Bộ Y tế ước tính có 90.000 người; đến cuối năm 2007, con số này đã lên đến khoảng 300.000 người. Mỗi ngày có khoảng 100 người nhiễm mới. Tỷ lệ nhiễm ở một vài nơi đã lên đến mức dịch, nếu tính theo mức quy định (trên 1%) của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO): như TP.HCM 1,25%, Quảng Ninh 1,15%, Hải Phòng 1,15% (x. Bộ Y tế, Ước tính và Dự báo nhiễm HIV/AIDS ở Việt Nam, 2001-2005, 2005; Khuất Thị Hải Anh, Đương đầu với HIV/AIDS ở Việt Nam, Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội, tháng 11-2007, tr.17).


Cuối năm 2004 đã có trên 72.000 người đi vào giai đoạn AIDS và mỗi năm hơn một chục ngàn người tử vong. Số người nhiễm HIV/AIDS trong những năm đầu tập trung nơi những người nghiện ma tuý qua đường tiêm chích (33,7% vào năm 2005, riêng tại TP.HCM lên tới 64%) và các cô gái mãi dâm qua đường tình dục (6,5% năm 2004, riêng tại TP.HCM 15,5% và Hà Nội 15,6%), nay đang lan rộng trong đại chúng, nhất là nơi những di dân, công nhân và học sinh sinh viên xa nhà, qua những quan hệ tình dục bừa bãi (21,5% nam thanh niên độc thân có quan hệ tình dục với gái mãi dâm). Nhiều phụ nữ, trẻ thơ vô tình trở thành những nạn nhân của đại dịch này. (x. Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội, Bản tin JVnet, tháng 12-2007, tr.20).


Có những giáo phận đầy những tín hữu đơn sơ, hiền hoà như Phát Diệm, Bùi Chu, Long Xuyên mà chúng ta tưởng rằng không bao giờ có mặt HIV thì tại những nơi đó có một vài xứ đạo đã trở thành vùng chết vì có quá nhiều người nhiễm HIV. Họ là những nạn nhân ở vùng Kim Sơn, Ninh Bình mà các chủ bãi vàng đã dùng ma tuý, gái mãi dâm để điều khiển họ. Họ là những phụ nữ nghèo khổ ở An Giang, Tiền Giang, Tây Ninh trong số 27.000 người phải bán thân ở vùng biên giới Campuchia và Việt Nam mà đa số đã bị nhiễm HIV. Quá tuổi 20, những người này trở về gia đình hay lên các thành phố lớn, họ tiếp tục hành nghề để nuôi sống mình và gia đình dù biết rằng mình đã bị nhiễm. Cái đói đã khiến họ bất chấp tất cả. Nếu các người có trách nhiệm trong Giáo hội Việt Nam như giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ và hội đồng mục vụ giáo xứ không quan tâm đến vấn đề HIV/AIDS thì sợ rằng có nhiều giáo xứ thuộc các giáo phận khác cũng sẽ trở thành những vùng chết như Phát Diệm, Long Xuyên.

 

Trong khi đó, ngân sách dành cho chương trình HIV/AIDS tại Việt Nam là rất lớn. Tổng ngân sách từ chính phủ, các địa phương và tài trợ nước ngoài là: 11.352.000 USD (năm 2003), 19.868.000 USD (năm 2004), nhưng đến năm 2005 chỉ còn 19.420 USD vì nhiều tổ chức quốc tế đã không thấy hiệu quả trong những dự án dành cho việc phòng chống HIV của chính phủ do số người nhiễm HIV/AIDS vẫn gia tăng nhanh chóng tại Việt Nam (x. Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội, Bản tin JVnet, tháng 12-2007, tr.21). Quả thật, để đạt được hiệu quả tích cực người ta không phải chỉ tìm cách chạy chữa cho những người đã bị nhiễm mà còn phải ngăn ngừa việc lây lan trong cộng đồng xã hội bằng các phương tiện truyền thông như sách báo, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình. Cũng như không phải chỉ nói riêng về HIV/AIDS mà còn phải nói đến tình dục an toàn, giá trị cao quý của sự sống cho những người nhiễm HIV, cỗ vũ tình yêu chung thuỷ cho những người có gia đình và tình yêu trong sáng cho các bạn trẻ chưa lập gia đình, dạy cho họ những kỹ năng sống, đào tạo nghề nghiệp để khỏi rơi vào tình trạng mãi dâm…

 

Để góp phần vào công cuộc phòng chống HIV/AIDS và trợ giúp những người bất hạnh, nhiều giáo phận đã có những hoạt động riêng lẻ, tự phát của cá nhân hoặc dòng tu trong những năm qua như thăm viếng, săn sóc, trợ cấp thuốc men cho những người trong giai đoạn AIDS, an táng những người qua đời vì AIDS và nuôi dưỡng con cái của họ. Đặc biệt từ sau cuộc hội thảo về HIV/AIDS tại TP.HCM vào tháng 10-2005, một vài mái ấm, nhà mở, phòng khám đã được thiết lập để giúp đỡ những người HIV/AIDS. Một vài dòng tu đã hợp tác làm việc với nhau tại Trọng Điểm ở Bình Phước dưới dự điều hành của Ban Mục vụ dành cho những người HIV/AIDS của Tổng Giáo phận TP.HCM. Tuy nhiên, trong cuộc chiến chống lại căn bệnh thế kỷ người ta không nên chỉ hoạt động riêng lẻ mà cần phải liên kết để tạo nên một chiến tuyến vững chắc, một mạng lưới bền chặt để có thể chia sẻ những kiến thức và kinh nghiệm cho nhau. Sự liên kết này được trải rộng ra đến mọi tổ chức và tôn giáo trong nước cũng như đến mọi tổ chức quốc tế ngoài nước.


Chính vì thế mà Uỷ ban BAXH thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam đã tổ chức cuộc Hội Thảo lần này tại Hà Nội với chủ đề Liên kết các Hoạt động Thực tiễn của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam trước đại dịch HIV/AIDS nhằm những mục đích sau:


- Giúp người Công giáo và những vị lãnh đạo Công giáo nhận định đúng tình hình thực tế của vấn đề HIV/AIDS tại Việt Nam.


- Chia sẻ và đánh giá kinh nghiệm cũng như những phương pháp làm việc của những người làm công tác về HIV/AIDS trong những giáo phận điển hình.

 

- Đánh giá chương trình HIV/AIDS đã được phát động tại cuộc hội thảo 2005.


- Thành lập mạng lưới và đề ra chương trình hành động trong công tác phòng chống HIV/AIDS tại những giáo phận tham gia hội thảo.


Cuộc Hội Thảo này được Đức Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt giúp đỡ trong tư cách vừa là chủ nhà vừa là người tổ chức và được tổ chức Caritas Germany tài trợ. Chúng ta sẽ lắng nghe Đức Ông Robert Vitillo đến từ Caritas Internationalis trình bày những vấn đề về HIV/AIDS trên toàn thế giới và đường hướng mục vụ trong việc chăm sóc những người nhiễm HIV cũng như lắng nghe đại biểu của các tổ chức quốc tế trình bày về mối quan tâm của họ đối với vấn đề này. Chúng ta sẽ dành nhiều thời gian để lắng nghe các kinh nghiệm và những khó khăn của những anh chị em đang làm việc trong lĩnh vực phòng chống HIV/AIDS cũng như các nghiên cứu của anh chị em bác sĩ để tìm cách áp dụng cho địa phương mình. Chúng ta sẽ không tập trung vào việc báo cáo thành tích trong quá khứ nhưng tìm những biện pháp tích cực cho những hoạt động thực tiễn để áp dụng trong hiện tại và tương lai.


Chúng tôi xin giới thiệu với tham dự viên ông Huber Heindl và cô Đoàn Tâm Đan sẽ giúp điều phối chương trình cho cuộc Hội Thảo này.

 

Qua bài hát Kinh Chúa Thánh Thần mở đầu, chúng tôi xin Thiên Chúa chúc lành cho cuộc Hội Thảo và cầu mong cho cuộc Hội Thảo thành công tốt đẹp.


Xin chân thành cám ơn toàn thể Quý vị.

LM Nguyễn Ngọc Sơn

Mục lục

 

ĐÂY LÀ CON YÊU DẤU CỦA TA

 

Một bác sĩ Đông y, khi so sánh Tây y với Đông y, đã nói : “Xét về việc cấp cứu tai nạn, giải phẫu, hay chữa trị những bệnh nhiễm trùng, thì Đông y phải bái phục Tây y; còn trong việc điều trị những bệnh mãn tính thì lại khác”, và ông đã dùng một hình ảnh để minh hoạ cho tư tưởng của mình : “trên bếp có một nồi nước sôi, nếu muốn cho nó nguội đi thì Tây y đổ nước lạnh vào, nó nguội ngay nhưng sẽ dần dần nóng lên và sôi trở lại; còn Đông y thì rút củi trong bếp ra, nó sẽ dần dần nguội đi và lạnh hẳn”.

Tất nhiên đó chỉ là một ý kiến, có giá trị hạn chế và tương đối trong lãnh vực y học mà thôi, nhưng trong đời sống tâm linh, hình ảnh đó có thể được dùng để diễn tả sự từ bỏ triệt để và tận căn của đức tin - lời đáp trả của mỗi người trước tiếng gọi của tình yêu Thiên Chúa - một bước ra đi làm thay đổi toàn bộ cuộc sống, và dẫn đến ơn cứu chữa trong tâm hồn.

Đức tin luôn đòi hỏi một sự sẵn lòng từ bỏ tất cả mà vâng theo ý Chúa, và đi theo Chúa: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi đến đất Ta sẽ chỉ cho ngươi” (St 12,1). Đó là lời mời gọi Chúa gửi đích danh đến từng người, một lời mời gọi luôn đi kèm với một cuộc thử thách của tình yêu, vì chỉ có tình yêu mới có sức làm cho người ta từ khước tất cả để đi theo người mình yêu.

Thiên Chúa sẵn lòng chăm sóc và che chở những ai tin theo Ngài : “Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi; ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa” (St 12,3). Đứn trước một tình yêu như thế, thì không có lời đáp trả nào đẹp hơn lời đáp trả của Áp-ram : “Ông Áp-ram ra đi, như lời Chúa đã phán với ông” (St 12,4).

Hôm xưa, Chúa đã mời gọi Áp-ram từ bỏ quê hương, họ hàng, để đặt trọn niềm tin vào Chúa - điều kiện đầu tiên cho ai muốn bước vào ơn cứu độ, bóng mát của tình yêu Chúa;

Trong thế giới hôm nay, giữa bóng đen tội lỗi u ám, lời mời gọi đó vẫn còn được lập lại nơi Đức Kitô : “tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13).

Từ bỏ tội lỗi là cuộc ra đi của đức tin mà Đức Kitô yêu cầu nơi mỗi người để đáp lại tình yêu Chúa, để biết đến Tin Mừng cứu độ, như Đức Kitô đã nói với người phụ nữ phạm tội ngoại tình : "Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!" (Ga 8,11).

Nhưng sự từ bỏ của đức tin đôi lúc làm người tin thấy phải đau đớn như chịu chết, và là một điều chướng kỳ : “chúng tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ” (1Cr 1,23).

Vì thế, Đức Kitô đã biến đổi hình dạng nên chói lọi như mặt trời để nâng đỡ niềm tin nơi các tông đồ trước mầu nhiệm thập giá : “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy” (Mt 17,9).

Khi đàm đạo với hai ông Môsê và Êlia, Đức Kitô xuất hiện như sự tiếp tục và hoàn tất của Lề luật và các tiên tri, lời ngỏ của tình yêu Thiên Chúa; còn tiếng từ đám mây : “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” cho thấy Ngài cũng là kiểu mẫu cho niềm tin vào Thiên Chúa, lời đáp trả tối hảo từ con người khi sẵn lòng từ bỏ tất cả để vâng theo ý Chúa.

 Những gì các tông đồ xem thấy trên núi cao chỉ là một tia sáng mờ nhạt về vinh quang thực sự của Con Thiên Chúa, vinh quang mà ai đi theo Ngài sẽ được thông dự. Dù chỉ được cảm nếm một chút hương vị của hạnh phúc mai sau mà các ông đã không còn muốn trở lại trần thế : “Lạy Ngài, chúng con ở đây thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (Mt 17,4).

Tin vào Chúa thì phải sẵn lòng từ bỏ tất cả để được lại tất cả trong một cuộc sống mới. Đó là “Tâm tình với Chúa” của Graham Kings mà linh mục Antôn NCS, dòng Tên, đã chuyển dịch sang tiếng Việt như sau :

Khi đến với Chúa, con tháo bỏ đôi giầy : những tham vọng của con,

con cởi bỏ đồng hồ : thời khoá biểu của con,

con gỡ bỏ cặp kính : thái độ ứng xử của con,

con đóng nắp cây bút : các quan điểm của con,

con bỏ xuống chiếc chìa khoá : sự an toàn của con.

để con được ở một mình với Ngài.

Lạy Thiên Chúa duy nhất và chân thật.

Sau khi đã được ở với Ngài rồi, lạy Chúa,

con sẽ xỏ giầy vào để đi theo con đường của Chúa,

con sẽ đeo đồng hồ vào tay để sống trong thời gian của Chúa,

con sẽ mang cặp kính vào để ngắm nhìn thế giới của Chúa,

con sẽ mở nắp bút ra để viết những tư tưởng và tâm tình của Chúa,

con sẽ cầm chìa khoá lên để mở những cánh cửa của Chúa!

Vâng, cửa Nước Trời mở rộng cho ai từ bỏ chính mình để sống theo ý Chúa. Người đó sẽ được Chúa gọi là ‘con yêu dấu của Ta’.

Lm. HK

 

TÀI LIỆU TĨNH TÂM LINH MỤC GIÁO PHẬN PHAN THIẾT

BÀI 3: ĐỨC GIÊSU, ĐẤNG THIÊN SAI

Linh mục là người được sai đi

(Lc 4,16-22)

Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai muôn dân mong đợi. Những môn đệ đầu tiên được Người mời gọi “Hãy đến mà xem” (Ga 1,39) hôm sau về đã kháo với nhau: “chúng tôi đã gặp Đấng Messia” (Ga 1,41). Sứ mạng thiên sai này sau đó được nhiều người nhìn nhận, ngay cả người phụ nữ Samaria là một người ngoại (Ga 4,1-42), nhưng cũng là đề tài tranh cãi của nhiều người (x Ga 7).

Đức Giêsu luôn ý thức về sứ mạng Thiên sai của mình. Trước những đe dọa, những chống đối, Người không do dự, không chùn bước. Người không bằng lòng về những thành quả đã đạt được, nhưng tiếp tục ra đi, tiếp tục đến với các làng mạc. Trước sự đe dọa của bạo chúa Hêrôđê, Người đã thẳng thắn tuyên bố: “hãy đi nói với con cáo ấy thế này: hôm nay và ngày mai tôi trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, ngày thứ ba tôi hoàn tất. Tuy nhiên ngày mai và ngay mốt, tôi còn phải tiếp tục đi…” (Lc13,31-33). Tại Hội đường Nazareth nhân dịp về thăm quê hương, Đức Giêsu đã áp dụng những lời Ngôn sứ Isaia để nói về chính sứ mạng được sai đi của Người: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi… Ngài sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt…”(Lc 4,18-19). Trước sự ngỡ ngàng kinh ngạc của cử tọa, Người đã tuyên bố: “hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,21). Với lời tuyên bố ấy, Người đã thể hiện sứ mạng của mình là đến để khai mở thời hồng ân các Ngôn sứ đã loan báo.

Trong lời cầu nguyện được ghi lại trong Tin Mừng Thánh Gioan, thường được gọi là “lời cầu nguyện tư tế” (ch 17), Đức Giêsu cầu nguyện cho các môn đệ và những ai sẽ tin vào họ được nhận biết Ngài được Cha sai đến trần gian.

Để thực hiện sứ mạng Chúa Cha đã trao phó, Đức Giêsu mời gọi sự cộng tác của con người. Những môn đệ đầu tiên theo Chúa, những người cộng sự với Người, là những người nam, nữ, người già, người trẻ, nhất làm nhóm dân chài đánh cá tại bờ Biển Hồ Galiliêa. Họ đã được mời gọi bỏ mọi sự mà theo Người, để cùng với Người xây dựng Nước Trời, xây dựng vương quốc Chúa Cha, là vương quốc bình an, sự thật và sự sống. Lời sai đi được nêu cụ thể trong giờ phút ly biệt giữa thày và môn sinh được các tác giả Tin Mừng kể lại: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thày đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20).

“Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” Lệnh truyền của Đấng Cứu thế được thông chuyển đến chúng ta, thưa các Cha. Qua nghi thức đặt tay và lời nguyện của Đức Giám mục trong nghi thức truyền chức, chúng ta được thông ban sức mạnh của Chúa Thánh Thần và được biến đổi, trở nên những người được sai đi loan báo Lời Chúa. sự sai đi này khơi nguồn từ Chúa Cha, qua Đức Giêsu, qua Giám mục. Ngôn từ bình dân nhà đạo thường gọi văn thư bổ nhiệm linh mục đi xứ là “bài sai”. Một số vị đại diện Chính quyền cũng thường dùng từ này. Vậy, Linh mục lãnh nhận sự sai đi để làm gì?

-Trước hết, Linh mục như những cộng sự viên của Giám mục, như những cánh tay nối dài để cùng cộng tác với Giám mục trong sứ vụ truyền giáo. Khi đến với một cộng đoàn Giáo xứ. Linh mục có trách nhiệm nối kết họ với Giám mục của mình. Chính vì vậy, Ngài làm việc trong sự hiệp thông và vâng lời. Sách chỉ nam cho thừa tác vụ và đời sống Linh mục đã nêu rõ: “Vì trực thuộc một Linh mục đoàn nhất định, Ngài (Giám mục) phục vụ một Giáo Hội địa phương. Giáo Hội này tìm ra nguyên lý và nền tảng cho sự hiệp nhất của mình với Giám mục, người thi hành trên Giáo Hội này, toàn bộ quyền thông thường, riêng biệt và trực tiếp,cần cho nhiệm vụ của Ngài…” (số 62). Người được sai đi luôn ý thức mình chỉ là người cộng sự trong một chương trình lớn của Giáo phận, vì ích lợi chung. Trong Giáo Hội, có những trường hợp người được sai đi “đánh cắp” sản nghiệp của chủ. Có những Linh mục, vì không bằng lòng với Giám mục, khoanh vùng Giáo xứ của mình như một vùng cấm địa. Hơn thế nữa, còn gây khó khăn khi giáo dân của mình đến liên hệ với Giám mục Giáo phận. chúng ta hãy nhớ lại câu chuyện những tên tá điền bất lương. Khi ông chủ sai người đến để nhận lợi tức, họ đã đánh đập, thậm chí giết chết cả con của ông chủ ngoài khu vườn của ông (x.Mc 12,1-12). Xin đừng quên, khi trao cho Phê-rô quyền chăn dắt đàn chiên, Đức Giêsu đã nhấn mạnh ba lần: “Hãy chăn dắt chiên của Thày” (Ga 21,15 tt), chứ không phải chiên của Phê-rô.

-Linh mục còn được sai đi để sống như một thành viên của xứ đạo. Bài sai của Giám mục trao cho chúng ta một xứ đạo, để rồi chúng ta coi xứ đạo đó như gia đình của mình, mọi người giáo dân trong xứ như anh chị em của mình, mọi người lương dân như những người mà mình phải yêu thương và đem ánh sáng Tin Mừng cho họ. Một xứ đạo bao gồm những người đạo đức, người còn khô khan, người ngăn trở hôn phối, người vãng lai, người thường trú… tất cả được trao phó cho chúng ta. Chúng ta hãy có tâm tình của Đức Giêsu, ý thức mình được sai đến với họ. Những Giáo xứ toàn tòng có nhiều điểm lợi cho đời sống đức tin, nhưng cũng có thể bị biến thành một pháo đài công giáo trong mối tương quan với những người xung quanh.


-Được sai đi, đương nhiên cũng có thể được rút lại. Nhu cầu của giáo phận, của giáo xứ, tình hình địa phương, hoặc đôi khi vì những lý do tế nhị, đòi hỏi phải thuyên chuyển linh mục. Việc luôn ý thức mình được sai đi sẽ giúp chúng ta sẵn sàng “lên đường” trong sự phó thác và trách nhiệm. Đây đó đã xảy ra những chuyện không đẹp khi một linh mục được điều động chuyển xứ. Với quan niệm ngày nay, việc thuyên chuyển linh mục đã trở thành những sinh hoạt bình thường của các giáo phận.

Kết luận: “Tôi tớ không lớn hơn chủ nhà. Kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi (Ga 13,16). Chấp nhận sứ mạng được sai đi là chấp nhận thân phận của Vị Ngôn Sứ Thành Nazareth, là chấp nhận thập giá. Những khó khăn xảy đến có thể làm chúng ta thất vọng. Nhưng ơn Chúa đủ cho chúng ta “Hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33). Xin cho chúng ta được trang bị bằng nghị lực mới nghị lực do Chúa Thánh Thần thông ban. Ngài là sức mạnh, là sự soi sáng cho chúng ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Amen

+ GM. Giuse Vũ Văn Thiên

 

 

Mục lục

 

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH

 

TÌNH YÊU SÂU SẮC

 

Anh làm việc tại một công ty, công việc rất bề bộn, nhiều lúc chỉ còn chút giờ rảnh rỗi để ăn trưa. An xong, nghỉ ngơi mươi mười lăm phút, cùng lắm nửa giờ, lại tất bật đến sở, lăn mình vào công việc. Trong trường hợp này, anh cứ nghĩ, chỉ có mình vất vả khổ sở, mà quên mất vợ anh cũng chẳng nhàn nhả gì hơn anh. Gánh nặng của mình, mình dễ nhận ra. Còn gánh nặng người khác, ở ngoài mình, nên chẳng thấy nặng nề gì.

 

Anh đã vậy, chị cũng chẳng khác gì. Nhiều lúc chị quan trọng hóa công việc nội trợ của chị quá mức, nào cơm nước, giặt giũ, quét dọn, lũ con quậy phá cứ như giặc, đánh lộn nhau chí chóe, làm chị cứ phải đóng vai xử kiện liên tục … Chị thấy mình, nhưng không thấy người, nên nhiều lúc chị gằn hắt chồng, chẳng quan tâm gì đến nhà cửa con cái. Chị quên mất rằng, anh cũng tất bật từ sáng tới tối với những công việc, nhiều khi rất căng thẳng, khó khăn, có thua gì chị ở nhà đâu.

 

Phụ nữ các chị, khi tâm sự với bạn bè, chủ đề thường được gợi ra, là ca thán về các đức ông chồng. “Anh ấy không hiểu tôi” là câu “ca” thường được nghe nhất. Đàn ông không thích tâm sự như đàn bà. Điều đó không loại trừ những trường hợp, các ông cũng than về các bà: “Bà xã tôi khó chiều quá!”

 

Để giải tỏa những “lệch pha” đó, anh chị hãy cảm thông nhau, đặt mình vào địa vị của nhau. Là chồng, anh hãy thử tưởng tượng xem, nếu ở vào hoàn cảnh vợ, anh có cư xử khác chị ấy không? Có hiểu được những thử thách chị ấy đang phải đương đầu không? Những khó khăn đó, nếu là của anh, anh sẽ xử trí thế nào? Đặt ra những câu hỏi đó, là anh đã phần nào thấy được, những thách đố mà chị đang gặp, không dễ dàng giải quyết như anh nghĩ đâu.

 

Từ cơ sở này, anh sẽ biết lắng nghe chị ấy hơn, yêu thương chị ấy hơn, đồng thời chính anh cũng giảm thiểu cho mình những công phá của sự căng thẳng. Và chính người vợ của anh cũng cảm nhận được sự giảm nhẹ như thế. Thái độ quan tâm và cảm thông của anh trước những khó khăn của chị, chắc chắn sẽ là nguồn an ủi lớn lao cho chị, và giả dụ đã có một sứt mẻ nào đó, nó sẽ được hàn gắn lại mau chóng.

 

Tin nhận mình được cảm thông và được lắng nghe, sẽ là sức hút kỳ diệu nối kết anh chị lại với nhau. Một khía cạnh lạ lùng khác cũng xảy ra, khi anh chị cảm thông những vấn đề rắc rối của nhau, thì trong một động tác tái hồi, chính anh chị sẽ nhận lại được những cảm giác thân thiết đó quay về chính mình.

L. Tolstoi, một văn hào nổi tiếng của nước Nga, đã nhận định: “Yêu sâu sắc, điều đó có nghĩa là quên bản thân mình”. Vì thế, nếu anh chị chưa quên mình vì nhau, thì tình yêu anh chị mới “Nông” chứ chưa “Sâu”. Chưa sâu nên mới chỉ thấy cái khổ của mình, chứ chưa cảm được cái khổ của người. Chỉ sứt tay qua loa, anh đã kêu trời kêu đất. Còn chị rên rỉ vì đau nhức, anh vẫn thản nhiên: “Trái gió trở trời tý thôi, mà rên rỉ quá thế”.

 

Nhưng nếu anh có tình yêu, một tình yêu sâu sắc, một tình yêu như ông Gandhi đã giải thích: “Bao giờ cũng hiến tặng mà chẳng có khi nào đòi đền đáp” thì anh sẽ chẳng kêu ca phiền trách, khi anh vất vả lao nhọc vì sự no ấm của gia đình. Bởi vì những lao nhọc đó, chính là quà tặng anh đã mua sắm bằng công sức của mình, để trao tặng chị. Và khi thấy chị đau yếu, tình yêu sâu sắc sẽ làm anh giày vò và khắc khoải, để tìm cách chữa trị cho chị cũng như trấn an chị. Dù trong lúc đau đớn, chị có thể thốt ra đôi lời phiền trách, thì tình yêu sâu sắc sẽ ngăn cản anh khỏi những thái độ phản kháng và trả đũa, ngược lại, biết quảng đại bỏ qua.

 

Anh đối xử với chị như thế, thì chị cũng hãy xử sự với anh như vậy. Tình yêu phải có hai chiều, phải được đền đáp bằng tình yêu, mới có thể đem lại hạnh phúc cho cả hai được.

 

 

 

Lm. Hồng Nguyên

HIỀN LÀNH

I. SUY NIỆM  LỜI CHÚA.

 

          Chúng ta đọc : Mt 11, 28-30 và 1Pr 3,8-9.

 

          Trong cuộc sống hằng ngày, ai trong chúng ta không cảm thấy vất vả, mang gánh nặng, chịu gian nan thử thách, chịu đau khổ cả tinh thần lẫn vật chất, tù bản thân đến gia đình và xã hội ?

 

          Thường tình khi gặp gian nan thử thách buồn phiền, con người hay tìm giải sầu cách tự nhiên trong men rượu, cà phê, thuốc lá, hay tệ hơn nữa trong xì ke ma túy. Có một cách thanh tao hơn để con người giải sầu là tìm đến bạn hữu chân tình để tâm sự cho vơi đi những nỗi buồn phiền.

 

          Lời Chúa trong bài Tin mừng hôm nay làm cho chúng ta được yên ủi vô cùng. Chúa giới thiệu cho chúng ta một phương thế siêu nhiên để vượt qua những thử thách buồn phiền, để được an bình vui tươi trong tâm hồn, đó là đến với Chúa :”Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”(Mt 11,28).

 

          Trong ngôn ngữ Thánh Kinh, “gánh” chỉ luật lệ và “mang lấy ách”nghĩa là học với ai. Chúa Giêsu kêu mời chúng ta hãy học với Ngài và đón nhận luật của Ngài.

 

          - Đến với Chúa để học cách sống của Ngài.

          - Đến với Chúa để sống như Ngài giảng dạy.

          - Đến với Chúa để đón nhận tình thương của Chúa : vì Ngài là nguồn an ủi.

 

          Chúa Giêsu phán bảo ta :”Các con hãy mang lấy ách của Ta”. Câu này có nghĩa là hãy học với Chúa. Đây là kiểu nói bóng các thầy rabbi xưa quen dùng, hàm ý nhìn nhận ai là thầy (Hc 51,31; Is 55, 1). Chúng ta sẽ học nới úa Giêsu những gì ? Chúng ta sẽ học được nơi Ngài đức tính hiền lành và khiêm nhương. Nghĩa là Bất bạo động, tràn đầy tình thương, nhân từ, tha thứ và liên đới giữa mọi người đặc biệt là những người bé mọn, bị bỏ rơi, bị khinh miệt, kỳ thị và bị đàn áp. Đồng thời hãy giữ luật của Ngài vì luật của Ngài là luật yêu thương. Bởi thế, ai mang lấy ách của Ngài và học với Ngài thì tâm hồn người đó sẽ gặp được bình an.

 

II. NGƯỜI ĐỜI VỚI SỰ HIỀN LÀNH.

 

          Trong đời sống hằng ngày, người có quyền bính dễ xử dụng tính nóng nảy của mình đối với người khác, có khi lại còn giận cá băm thớt. Hành động theo tính nóng nảy có phải là phản ứng của người quân tử không ? Người ta đã từng nói :”No mất ngon, giận mất khôn”. Cho nên, để luôn luôn tự cảnh giác, ông Nguyễn đình Giản, thời Lê mạt, đã viết vào một mảnh giấy, dán lên chỗ ngồi giải trí, câu sau đây :

 

                             TẢO CẤP TẮC BẠI SỰ” : Nóng tính thì hỏng việc.

 

          Hơn nữa ông để sẵn một bình nước, mỗi khi gặp một điều trái ý, thấy trong mình lửa giận bốc lên, ông liền cầm uống từ từ, từng hớp nhỏ, cho đến khi lấy lại được hòa khí trong tâm hồn mới thôi.

 

          Ông Tô đông Pha nói :”Chỗ mà người xưa gọi là hào kiệt ắt là phải có khí tiết hơn người. Nhưng, nhân tình có chỗ không thể nhịn được. Bởi vậy, kẻ thất phu gặp nhục, tuốt gươm đứng dậy, vươn mình xốc đánh. Cái đó chưa đủ gọi là dũng. Kẻ Đại dũng trong thiên hạ, trái lại, thình lình gặp những việc phi thường cũng không kinh, vô cố bị những điều ngang trái cũng không giận. Đó là nhờ có hòai bão của họ rất lớn và chỗ lập chí của họ rất xa vậy”.

 

          Nhận xét những cái ở đời , ta thấy biết bao cái mềm thì còn tồn tại mà cái cứng rắn thì mất. Cái đòn gánh không bao giờ cứng mà mềm mới dễ gánh và không bị gẫy. Cái lò xo có sức chịu đựng được sự dồn ép mà không gẫy, khi hết sựï dồn ép thì lại giãn ra như thường. Văn Vương Trung nói:”Lửa bốc lên  cao, nước chảy xuống thác, thế mà bao giờ lửa cũng thua nước”. Người ta sợ lửa hơn là sợ nước, thế mà chết cháy ít, chết đuối vẫn nhiều. Nước mát, lửa nóng, thế mà lửa vẫn sợ nước vì người ta đã lấy nước  trị lửa trong các đám cháy.

 

          Trong Tám mối phúc thật, chúng ta đọc thấy :”Ai hiền lành ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được đất Đức Chúa Trời làm của mình vậy”. Đất nói đây là lòng người.

 

          Chiếm được lòng con người là cái khó  và khó hơn hết, có thể chinh phục chiếm được đất đai, tiền của, địa vị, song chiếm được lòng con người ta, khiến họ yêu mến, kính phục, tận tình, là điều khó. Các cuộc cách mạng liên miên ở nhiều nơi, và những hận thù, cãi cọ, kiện tụng, kêu trách, là dấu chưa chinh phục và làm chủ được lòng người. Hòang đế Napoléon đã chiếm được nhiều đất đai, đã thắng những trận oanh liệt, nhưng một nhà viết sử nói:”Có lẽ trên đời, không có ai bị nhiều người ghét như Napoléon”.

 

          Không đánh đông dẹp bắc, không tuyên truyền rầm rộ, chẳng đổ của ra lấy lòng, không nịnh nọt a dua, người hiền lành chinh phục lòng người cách dễ dàng : ai cũng mến, thích lui tới, bè bạn.  Ta chẳng thấy là gì ? Cha mẹ hiền lành con cái yêu mến, thầy hiền làm học sinh thích thụ nghiệp, mẹ chồng hiền lành con gái thích làm dâu, chủ hiền lành đầy tớ thích giúp việc, người hiền lành có lắm bạn bè. Sự hiền lành như mật ngọt thu hút lôi cuốn, như nam châm kéo mạnh. Chống tàn bạo, vũ khí, thông minh, thế lực, không ai chống kẻ hiền lành.

 

                                      Truyện : Phải sống dễ thương.

          Vua Friedrich Wilhelm cai trị nước Phổ vào khỏang đầu thế kỷ 18. Ông nổi tiếng là người nóng nảy khó tính. Ông không thích những nghi thức rườm rà. Ông chỉ thích đi dạo một mình giữa các đường phố Berlin. Thích sống đơn giản, nhưng ông lại rất nhạy cảm đối với bất cứ một sự xúc phạm vô tình nào của thần dân. Nếu chẳng may có người nào chạm đến ông giữa đám đông, ông sẽ không ngần ngại dùng gậy đập túi bụi  vào người đó. Thành ra, khi thấy đức vua đang đi đến, mọi người đều tìm cách lẩn tránh.

 

          Lần kia, khi ông đang đi giữa phố Berlin, một người đàn ông đang đi tới, bỗng lẩn tránh đi nơi khác. Vừa ngạc nhiên,vừa bực tức vì dân chúng lẩn tránh mình, vua Friedrich mới chận người đàn ông lại và hỏi lý do tại sao ông ta lẩn tránh đi nơi khác. Người đàn ông luống cuống mãi, cuối cùng đành phải thú nhận rằng sở dĩ ông ta lẩn tránh nhà vua là vì  sợ hãi.  Nghe đến đó, vua Friedrich nổi tam bành, ông túm lấy vai ngừơi đàn ông đáng thương  vừa lắc mạnh, vừa thét lên:”Tại sao ngươi dám sợ ta. Ta là vua của ngươi. Ngươi phải yêu mến ta. Ngươi phải yêu mến ta, người có biết điều đó không”?

 

          Chỉ có con người mới biết yêu bởi vì chỉ có con người mới có tự do. Không ai có thể cưỡng bách người khác phải yêu mình… Tạo dựng con người có tự do, Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do ấy. Ngài không cưỡng bách con người phải yêu mến Ngài, nhưng chỉ mời gọi và tỏ tình. Bằng công cuộc tạo dựng, bằng cuộc sống và cái chết của Con Một Ngài, Thiên Chúa đã tỏ tình với con người. Ngài mời gọi con người… Tình yêu luôn đi bước trước. Bước trước ấy là một lời nói, một ánh mắt, một nụ cười, một món quà, một nghĩa cử (Lẽ sống, tr 258).

 

          Trong đời sống gia đình, vợ chồng hãy theo gương Chúa Giêsu và sống dịu hiền khiêm nhường, nhất là người chồng. Tính tình người chồng bao giờ cũng nóng nảy, cần phải kìm hãm, thay vào đó cần phải ăn nói nhẹ nhàng chứ không dám nói là “dịu dàng”, chính những lời nói nhẹ nhàng đó sẽ thấm nhập vào lòng vợ và sẽ khiến vợ phải yêu mình, chứ không thể dùng bạo lực hoặc mánh khóe mà làm cho vợ yêu mình được.

 

          Khi chọn người chồng, bao giờ người vợ cũng nhằm tránh người chồng vũ phu mà muốn chọn cho mình một người chồng dịu hiền, biết thương vợ thương con, biết ăn nói dễ thương. Ước vọng này của các cô gái sắp lấy chồng đã được gói ghém trong câu ca dao được truyền tụng từ ngày xưa :

                                      Chẳng tham ruộng cà ao sâu,

                                      Tham vì anh tú rậm râu mà hiền.

 

          Mạnh Tử cũng khẳng định rằng : Trời cũng yêu thương và phù hộ, gia ân cho những người hiền lành :

Thiên đạo vô thân, thường dữ thiện nhân”

Đạo trời không riêng một ai, luôn gia ân cho kẻ hiền lành.

 

          Thánh Phanxicô Salêsiô là một con người nóng nảy như “Năm Lửa”, sau một thời gian dài luyện tập, đã trở nên một vị Giám mục hiền lành, chính sự hiền lành của Ngài đã lôi kéo được nhiều người lạc giáo trở về với Giáo hội, chính ngài đã nói lên cái kinh nghiệm của mình :”Tất cả đều được chinh phục bởi dịu hiền, chứ không phải bạo lực”.

 

          Người đời xưa nay vẫn ca tụng người hiền lành, ví người hiền lành như hoa chi hoa lan, tỏa hương thơm ra để mọi người chung quanh cũng được thơm lây :

 

                                      Người hiền khác thể chi lan

                                      Gần hơi cho lắm lại càng thơm lây.

                                                    (Ca dao)

 

                                                                             Lm Giuse Đinh lập Liễm

                                                                            

 

Mục lục

 

 

ĐỌC SÁCH 

 

DẤU CHÂN CỦA THẦY

 

(Mc 4,35-41)

 

Thầy kính mến,

 

Đoàn thuyền giong buồm ra khơi. Lòng nhẹ phơi phới như vừa trả xong một món nợ. Phía sau là mồ hôi, là nhọc nhằn. Quên đi! Phía trước là gió lặng, là khung trời bao la, là chân trời xa tít mù khơi. Thảnh thơi. Những bóng dân chài lực lưởng bụm tay làm loa, gọi nhau ơi ới. Những bầu rượu căng phồng chuyển từ tay này qua tay kia làm vang lên những tiếng cười dòn dã. Trời đẹp lạ! Đời vui quá!

Thầy lủi thủi lui về phía sau, trao đổi vài câu với bác tài công, rồi lăn lưng ra ngủ ngay trên sàn. Ngủ như chết, vì mệt muốn chết.

Bỗng trời tối sầm. Gió im phăng phắc. Một vài giọt mưa thật to rơi lộp bộp trên sàn, quất vào mặt đau rát như bị tạt nước sôi. Một con chốt quay quay, vừa quay vừa chạy, chạy dích dắc như lên cơn khùng. Xoáy một cái - cột buồm gãy. Cánh buồm rách tơi tả. Mưa đổ xuống xối xả. Con thuyền dềnh lênh, hẫng bánh lái. Anh tài công kêu “Trời”, ôm mặt mà khóc.

Các tông đồ ướt mem, đi kiếm Thầy để cầu cứu. Thầy vẫn ngủ!

Trời ơi là trời! Chết đến đít rồi mà Thầy vẫn còn ngủ sao?

Thầy ơi! Cứu chúng tôi với! Sắp chết hết rồi!

Thầy mở mắt. Ao ướt sũng. Vô tư. Tự tin đứng dậy. Hét một tiếng động trời “Im”. Tiếng “im” vọng lại từ những cụm mây trập trùng nghe như sấm vang, vô cùng vô tận … Mưa bỗng dứt hạt. Những con chốt chạy trốn vào bờ rồi biến dạng. Những đợt sống lỡ trớn dập dềnh một lát rồi phẳng lặng như tờ. Những con thuyền xơ cờ mất phương hướng, nổi bập bềnh như vô định.

Thầy nhìn đám đệ tử đang quỳ mọp dưới chân, ướt sũng như bầy chuột lột. Vừa thương vừa giận. Người thì lớn cồ cồ, mà đức tin thì nhỏ tí xíu. Thầy lại hét lên:

Tại sao các người sợ? Bọn hèn tin!

?!

“Bầy chuột lột” ghé miệng vào tai nhau, xù xì: “Thầy là ai mà sóng gió cũng phải tuân lệnh?”

Thầy kính mến.

Con không phải là người trong cuộc. Con là khách bàng quan vô tư quan sát và nhận xét về Thầy và các đệ tử của Thầy.

1. Thầy ngủ như chết. Dễ hiểu. Vì mệt quá thì phải ngủ như thế. Nhưng ngủ trên boong, mưa tầm tả, giông tố như điên cuồng, ướt mem như chuột lột mà vẫn khò, thì phải đặt nghi vấn.

Có thể là Thầy ngủ thật. Nếu thế thì con thương cảm Thầy quá sức. Thầy lăn lộn với quần chúng “sống cho” đến cạn kiệt. Đàng khác, con xin chấp tay chào thua Thầy. Vì Thầy ngủ giỏi quá. Ngủ để bù cho sức khỏe đã tiêu hao đến tận cùng.

Có thể là Thầy giả vờ. Nói như thế không oan cho Thầy đâu, vì con bắt được quả tang Thầy giả vờ nhiều lần.

Thầy giả vờ hỏi Philíp: “Ta mua bánh ở đâu để có đủ cho những người này ăn!” (Ga 6,5-6).

Thầy biết tỏng người đàn bà bị băng huyết đụng vào tua áo của Thầy, Thầy vẫn làm bộ không biết để hỏi: “Ai sờ vào tôi?” (Lc 8,45)

Maria Mácđala ngồi khóc trước ngôi “mộ phục sinh”. Thầy giả vờ hỏi: “Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai?” (Ga 20,15)

Thầy giả vờ làm người lạ đồng hành với hai môn đệ đi đến Emmau. Khi đến lối rẽ vào Emmau. Thầy làm bộ đi xa hơn nữa, để họ phải nài ép Thầy lưu lại với họ (Lc 24,13-35)

Giả vờ là một chiến thuật của Thầy. Mục đích của nó lượm hái kết quả nhiều hơn, để gây ấn tượng sâu sắc hơn. Nếu Thầy ngủ thật, thì con thương cảm Thầy. Nếu Thầy giả vờ ngủ, thì con cảm phục Thầy.

2. Các tông đồ sợ là đúng. Đa số họ là dân chài. Họ thuộc lòng khí tượng trên biển hồ. Kinh nghiệm sông nước của họ dầy cộm như một cuốn từ điển. Khi họ hốt hoảng kêu lên: “Thầy ơi! Cứu chúng con với”, thì quả thật cái chết không phải là trò đùa. Lẽ ra Thầy phải an ủi họ. Thế mà Thầy lại mỉa mai họ, coi họ như bầy con nít khóc thét khi thấy con cọp giấy: “Hỡi người hèn tin, tại sao các người sợ”. Sợ đúng mà vẫn bị mắng. Đau quá! Người lớn mà bị mắng. Tức quá!

Nhưng thưa Thầy, chính cái giọng mỉa mai như vô lý ấy lại cho con cảm nghiệm được cái “tâm” của Thầy. Thầy tối kỵ nỗi sợ. Thầy cấm chúng con sợ. Thầy bảo sợ là yếu tin, là hèn. Chúng con sợ là chúng con làm nhục tình yêu và uy quyền của Thầy. Có lẽ Gioan là người hiểu thấm thía cái tính mỉa mai ấy của Thầy, nên sau này ông đã nói một câu tuyệt vời: “Tình yêu loại trừ nỗi sợ. Ai sợ là chưa có tình yêu hoàn hảo (1 Ga 4,18)

Thầy kính mến.

Thầy ghét nổi sợ. Thầy mỉa mai người sợ. Thầy muốn hủy bỏ động từ SỢ trong cuộc sống hằng ngày. Thầy cấm sợ và chống lại nỗi sợ trong niềm tin và trong quy luật yêu thương. Thế nhưng thế gian này vẫn đầy nỗi sợ. Có những cái sợ buồn cười đến chảy nước mắt: Sợ chuột. Có những nỗi sợ làm rung động cả thế giới: Sợ khủng bố. Có những nỗi sợ thầm kín tưởng như có, lại tưởng như không, nhưng vẫn tràn lan qua cửa miệng của con người: Sợ vợ. Có những cái sợ người ta cố tình gieo rắc để có một xã hội trật tự, ngăn nắp và đẹp mắt: “Sát nhất nhân, vạn nhân cụ”, giết một người để hàng chục ngàn người phải sợ. Còn có những nỗi sợ người ta cố tình rao giảng để ngăn ngừa tội lỗi: Sợ hỏa ngục. Và … hỡi ôi, người ta còn dạy nhau sợ Chúa nữa! Cả một dân tộc, cả một truyền thống tôn giáo dạy nhau sợ Giavê như một quan tòa chí công, như một ông thần hẹp hòi đòi phạt tội của Cha đến ba, bốn dời: “An phạt Chúa đã dành, xin Ngài bắt chúng nuốt cho đầy bụng, cả đàn con cũng được ăn thỏa thích, phần còn lại, cho bầy cháu mai sau” (Tv 16,14). Tội nghiệp cho Chúa Cha, tội nghiệp cho Thầy!

Còn bản thân con thì:

1. Chính con cũng đã sợ, sợ rất nhiều: sợ ma, sợ hỏa ngục và … sợ Chúa. Sợ suốt thời thơ ấu. Sợ suốt thời niên thiếu. Bây giờ thì con thôi sợ rồi, hạnh phúc vô cùng!

2. Con đã bị người ta lợi dụng để gieo nỗi sợ cho trẻ thơ. Một bà mẹ dọa thằng cu tí đang khóc: Mày mà không nín, tao mét “ông cố”, “ông cố” cắt chim mày. Thằng cu tí tái mặt, nín bặt, hai tay bụm lại làm lá chắn an toàn … Cả thằng cu tí lẫn con đã trở thành nạn nhân của một người đàn bà vô tình. Buồn quá!

Thầy kính mến.

Suy bụng ta ra bụng người. Con thương thân mình, con lại thương Thầy. Vì thương Thầy mà con quyết tâm thôi sợ. Con không quên được hình ảnh Thầy: nghiêm nghị, mỉa mai, chế diễu các tông đồ là “Bọn hèn tin”, chỉ vì họ sợ. Thế thôi.

 

Lm. Piô NGÔ PHÚC HẬU

Mục lục