TIN VUITuần sanFlowchart: Document: Số 
128
16/03/2008

  

 

 

 

 


 

                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                   

 

 

 

 

MỤC LỤC

 

Chúa Nhật Lễ Lá A..

Mt 27, 11-54.

LÃNH NHẬN VÀ ĐÁP ĐỀN..

HOÀN CẢNH CỤ THỂ..

THÁNH GIUSE KHIÊM NHƯỜNG..

SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA BENEDICTO XVI NHÂN NGÀY THẾ GIỚI TRUYỀN THÔNG LẦN THỨ  40

Giải thưởng mang tên Chân phước Têrêsa thành Kolkata được trao cho các nhân viên hoạt động AIDS toàn cầu.

Mở mộ Cha Thánh Piô và thấy thân xác của Ngài được bảo toàn tốt

Đức Thánh Cha Mừng Kỷ Niệm 25 Năm Ngày Thành Lập Trung Tâm Giới Trẻ San Lorenzo.

Bổ Nhiệm Tân Sứ Thần Tòa Thánh tại Úc Châu.

Bom nổ 26 người chết, Vương Cung Thánh Đường Lahore bị thiệt hại nặng.

Đức Thánh Cha sẽ không đưa ra bất cứ thay đổi nào nữa trong lời nguyện ngày Thứ Sáu Tuần Thánh.

Trò chuyện với Đức cha Giáo phận Thái Bình.

GIUSE : CON NGƯỜI CỦA MÙA CHAY..

LỊCH SỬ NGÀY QUỐC TẾ GIỚI TRẺ..

VUA CỦA TÔI LÀ AI?.

TĨNH TÂM GIA TRƯỞNG GIÁO PHẬN PHÚ CƯỜNG..

CHA MẸ LÀ THẦY DẠY ĐẦU TIÊN..

Theo tinh thần TC/HĐGMVN 2007.

Ảnh hưởng truyền giáo qua lối sống của linh mục.

TÀI LIỆU TĨNH TÂM LINH MỤC GIÁO PHẬN NHA TRANG..

BÀI IV..

LINH MỤC VÀ GIÁM MỤC..

TÔN TRỌNG SỰ SỐNG CÁC BÀO THAI TRONG DẠ MẸ..

KHÁM PHÁ ƯU ĐIỂM...

DẤU CHÂN CỦA THẦY..

 

 

SỐNG LỜI CHÚA

 

Chúa Nhật Lễ Lá A

BÀI THƯƠNG KHÓ:

Mt 27, 11-54

C. Khi ấy, Chúa Giêsu đứng trước tổng trấn Phi-latô, và quan hỏi Người rằng: S. "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?" C. Chúa Giêsu đáp: "Ông nói đúng!" C. Nhưng khi các thượng tế và kỳ lão tố cáo Người thì Người không trả lời chi cả. Bấy giờ Philatô bảo Người: S. "Ông không nghe thấy tất cả những điều họ tố cáo ông sao?" C. Chúa Giêsu cũng không đáp lại về một điều nào, khiến quan tổng trấn hết sức ngạc nhiên.

Vào mỗi dịp lễ trọng, quan tổng trấn có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Lúc ấy có một phạm nhân nổi tiếng tên là Baraba. Vậy Philatô nói với dân chúng đã tụ tập lại đó rằng: S. "Các ngươi muốn ta phóng thích ai, Baraba hay Giêsu mà người ta vẫn gọi là Kitô?" C. Quan biết rõ chỉ vì ghen ghét mà chúng đã nộp Người. Vậy trong khi quan ngồi xét xử, bà vợ sai người nói cùng quan rằng: S. "Xin ông đừng can thiệp gì đến vụ người công chính ấy, vì hôm nay trong một giấc chiêm bao, tôi đã phải đau khổ rất nhiều vì người ấy". C. Nhưng các thượng tế và kỳ lão xúi giục dân xin tha Baraba và giết Chúa Giêsu. Quan lại lên tiếng hỏi họ: S. "Trong hai người đó các ngươi muốn ta phóng thích ai?" C. Họ thưa: S. "Baraba!" S. "Vậy đối với Giêsu gọi là Kitô, ta phải làm gì?" C. Họ đồng thanh đáp: S. "Đóng đinh nó đi!" C. Quan lại hỏi: S. "Nhưng người này đã làm gì nên tội?" C. Chúng càng la to: S. "Đóng đinh nó đi!" C. Bấy giờ Philatô thấy mất công, lại thêm náo động, nên ông lấy nước rửa tay trước mặt dân chúng và nói: S. "Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ các ngươi". C. Toàn dân đáp: S. "Hãy để cho máu nó đổ trên chúng tôi và trên con cái chúng tôi". C. Bấy giờ quan phóng thích Baraba cho họ, còn Chúa Giêsu thì trao cho họ đánh đòn, rồi đem đi đóng đinh vào thập giá.

Bấy giờ lính tổng trấn liền điệu Chúa Giêsu vào trong công đường và tập họp cả cơ đội lại chung quanh Người. Họ lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy, họ quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng rằng: S. "Tâu vua dân Do-thái!" C. Đoạn họ khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy đập trên đầu Người. Khi đã chế nhạo Người xong, họ lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục cũ lại cho Người và điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Lúc đi ra, họ gặp một người thành Xyrênê tên là Simon, liền bắt ông vác đỡ thánh giá cho Người.

Họ đi đến một nơi gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Họ cho Người uống rượu hoà với mật đắng, Người chỉ nếm qua nhưng không muốn uống. Khi đã đóng đinh Người trên thập giá rồi, họ rút thăm chia nhau áo Người, để ứng nghiệm lời tiên tri rằng: "Chúng đã chia nhau áo Ta, còn áo ngoài của Ta, chúng đã bắt thăm". Rồi họ ngồi lại canh Người. Họ cũng đặt trên đầu Người bản án viết như sau: Người này là Giêsu, vua dân Do-thái. Lúc ấy, cùng với Người, họ đóng đinh hai tên trộm cướp, một tên bên hữu, một tên bên tả.

Những người đi ngang qua, lắc đầu chế diễu Người và nói: S. "Kìa, ngươi là kẻ phá đền thờ và xây cất lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi, nếu là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá đi!" C. Các thượng tế cùng luật sĩ và kỳ lão cũng chế nhạo Người rằng: S. "Nó đã cứu được kẻ khác mà không cứu nổi chính mình! Nếu nó là vua dân Do-thái, thì bây giờ hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta sẽ tin nó. Nó đã trông cậy Thiên Chúa, nếu Ngài thương nó thì bây giờ Ngài hãy cứu nó, vì nó nói: "Ta là Con Thiên Chúa!" C. Cả những tên cướp bị đóng đinh trên thập giá với Người cũng nhục mạ Người như thế. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. Vào khoảng giờ thứ chín thì Chúa Giêsu kêu lớn tiếng: "Eli, Eli, lema sabachtani!" C. Nghĩa là: "Lạy Chúa con, lạy Chúa con! sao Chúa bỏ con!" C. Có mấy người đứng đó nghe vậy nói rằng: S. "Nó gọi tiên tri Elia". C. Lập tức một người trong bọn chạy đi lấy một miếng bọt biển, nhúng đầy dấm và cuốn vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. Nhưng có kẻ lại bảo: S. "Hãy chờ xem Elia có đến cứu nó không?" C. Đoạn Chúa Giêsu lại kêu lên lớn tiếng và trút hơi thở.

(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)

Bỗng nhiên màn đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới, đất chuyển động, đá nứt ra. Các mồ mả mở tung và xác của nhiều vị thánh đã qua đời được sống lại. Và sau khi Chúa sống lại, họ ra khỏi mồ, vào thành thánh và hiện ra cùng nhiều người. Còn viên sĩ quan và những kẻ cùng ông canh giữ Chúa Giêsu, thấy đất chuyển động và các sự xảy ra, thì thất kinh sợ hãi và nói: S. "Đúng người này là Con Thiên Chúa".

 

LÃNH NHẬN VÀ ĐÁP ĐỀN

 

Chúa Nhật Lễ Lá cũng được gọi là Chúa nhật Thương khó vì từ hôm nay Chúa Giêsu đã thực sự đi vào cuộc khổ nạn của Người. Tên gọi đó, cùng với những khung cảnh của những ngày Tuần thánh đôi khi đem lại cho chúng ta những hình ảnh ảm đạm và sợ hãi. Nhưng thực ra những ngày này đã khai mở một niềm vui : Đức Giêsu đã hy sinh cho chúng ta trọn vẹn.

 

1. Đức Giêsu đã hy sinh tất cả cho chúng ta.

 

Một khẳng định thần học có vẻ khô khan nhưng có thật : “Thiên Chúa là tình yêu”, và sự sáng tạo, cứu chuộc, chỉ có thể thực hiện được trong tình yêu. Đức Giêsu đã đóng vai trò chính trong biến cố này. Câu nói trích trong thư Do Thái mà chúng ta thường đọc : “Bấy giờ con mới thưa, lạy Chúa này con đây, con đến để thực thi ý Chúa” (Dt 10, 7) đã bộc lộ được hết con đường và cuộc đời của Đức Giêsu đi. Suốt ba mươi ba năm trên trần thế, Ngài không ngớt nói về ý định này. Ngài ôm ấp và khát khao giờ ấy vô cùng “Thầy còn một phép rửa phải chịu và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất” ( Mc 12, 50). Trên quãng đường từ Galilê tới Giêrusalem trong những ngày sau hết cuộc đời. Ngài vừa đi vừa dẫn các Tông đồ vào mầu nhiệm tử nạn, mặc dù các ông không mấy hiểu ra. Có tới ba lần Đức Giêsu loan báo cho các ông về cuộc khổ nạn của Người “Này chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp cho các Thượng tế và Kinh sư. Họ sẽ kết án tử hình cho Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba Người sẽ sống lại” ( Mt 20, 18).

 

Tiến gần về Giêrusalem, Đức Giêsu đã được đón chào như một vị cứu tinh nhân danh Thiên Chúa mà đến. Nhưng Ngài chỉ có thể thống trị và bình an cho dân bằng cái chết đau thương của Ngài. Đức Giêsu một lần nữa ý thức rõ ràng về cuộc hành trình này và Ngài cương quyết dấn than ( Schweizer).

 

Đức Giêsu đã vượt thắng tất cả để đi vào Giêrusalem, vì ở đó ý định trao ban của Ngài sẽ được thiện hiện.

 

2. Lời mời gọi dành cho bạn và tôi

 

Thập giá máu me loang lổ của một chiều tím xứ Giuđê sẽ tuôn tràn muôn hy vọng. Đó là nỗi ước mơ của Người treo trên thập tự. mà thực, ước mơ ấy đã thành tựu. Muôn dân được giải phóng khỏi bao gông cùm, xiềng xích, của đam mê, tội luỵ, tử thần, muôn người được đưa vào nơi vùng sáng lớn vinh quang. Từ  nay ơn cứu độ đã có mặt trên trái đất.

 

Bạn và tôi đang cùng chia sẻ những ngày của Mùa Chay thánh và của những ngày Khổ nạn, chất chứa đầy tình thương. Bạn sẽ nghĩ gì về biến cố năm ấy, một biến cố bi thương và ghi ấn dấu sâu nhất trong đời.  Một cành lá, một tâm tình với lời ca tiếng hát chưa đủ để thể hiện sự hiệp thông. Sự trao ban và hy sinh vẫn còn đó như một lời mời gọi : mời gọi lãnh nhận và đáp đến. Có như thế người trao ban mới không cô đơn và nỗi cô đơn sẽ không biến thành nỗi khổ.

 

“Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống mình người mình yêu” ( Ga 15, 13). Ngài đã dạy con như thế và Ngài đã hy sinh chính bản thân Ngài để minh chứng lời Ngài dạy. Phần con, con sẽ làm gì, thưa Ngài ?

 

Lm. Vinh Sơn Trần Hoà,

Chính xứ Bình Thới

Mục lục

 

TU ĐỨC

HOÀN CẢNH CỤ THỂ

 

Trong mùa Chay, tôi hay nhìn lên thánh giá để suy gẫm. Suy gẫm của tôi dựa trên Phúc Âm.


Phúc Âm kể lại con đường dẫn Chúa Giêsu đến thánh giá. Những gì kể lại là rất cụ thể. Năm nào, ai đứng đầu quyền đạo quyền đời lúc đó, hoàn cảnh ra sao.


Hoàn cảnh cụ thể


Phải nhận rằng: Hoàn cảnh đạo lúc bấy giờ đang phân hoá và xuống dốc.


Đứng đầu cơ chế đạo là thượng tế Caipha, thượng Hội đồng gồm các thượng tế, các kỳ mục, và các kinh sư.


Cơ chế này thường thích một nếp sống đạo ổn định, cho dù lỗi thời và sai.


Bên cạnh cơ chế là nhóm biệt phái. Nhóm này giữ đạo theo hình thức, cốt để phô trương chính mình.


Nhóm thương mại gồm những con buôn và thu thuế. Đa phần họ nhắm vào tiền bạc.


Giai cấp giàu sang. Họ sống quý phái. Cách sống đạo của họ cũng quý phái.


Giai cấp lầm than. Họ là những người nghèo khổ, bệnh tật, bị bỏ rơi, bị loại trừ.


Loại bị quỷ ám. Số người bị quỷ ám bấy giờ khá đông. Hầu như nơi nào Chúa Giêsu đến cũng gặp họ.


Loại người có đạo nhưng không có đức tính nhân bản cũng khá phổ biến. Như trường hợp 10 người phong cùi được Chúa Giêsu chữa lành, chỉ có một người biết cám ơn, người đó lại là người ngoại.


Loại người có đạo sống thụ động, bám vào cơ chế một cách máy móc, dựa trên dư luận một cách mù quáng.


Chính quyền bảo hộ Rôma là quan Philatô và vua Herođê. Chính quyền này lo giữ địa vị và hưởng lợi hơn là xét xử theo công lý.


Con đường cứu độ


Chính nhu cầu đổi thay hoàn cảnh lịch sử cụ thể đó đã là một trong các động lực viết ra con đường cứu độ của Chúa Giêsu.


Chúa Giêsu đã cứu độ bằng rao giảng, bằng cầu nguyện, bằng chay tịnh, bằng gương xót thương, nhất là bằng tự hạ, tự hiến.

"Khi vào thế gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Như Sách Thánh đã chép về con" (Dt 10,5-6).


Ý Chúa Cha là Đức Giêsu phải uống chén đắng Chúa Cha trao cho (x. Ga 18,13).


"Mạng sống của Thầy, không ai lấy đi được. Nhưng chính Thầy tự ý hy sinh mạng sống mình. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi, mà tôi đã nhận được" (Ga 10,18).


Đó là con đường tự hạ, tự hiến. Thánh Phaolô quả quyết:


"Đức Giêsu Kitô

vốn dĩ là Thiên Chúa

mà không nghĩ phải nhất thiết duy trì

địa vị ngang hàng với Thiên Chúa.

Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang

mặc lấy thân nô lệ,

trở nên giống phàm nhân

sống như người trần thế.

Người lại còn hạ mình,

vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,

chết trên cây thập giá" (Pl 2,6-8).


Chính Chúa Giêsu phán: "Thật, Thầy bảo thật các con: Nếu hạt giống gieo vào lòng đất, không chết đi, thì nó sẽ trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết, nó mới sinh nhiều hạt khác" (Ga 12,24).


Con đường khiêm tốn tự chọn, tự hạ, tự huỷ là một hy sinh để chứng tỏ tình yêu. Nhờ vậy, mà muôn ngàn đời, khi nhìn cây thánh giá, người ta sẽ nhận ra: Đây chính là nơi, mọi người sẽ cảm thấy mình được an ủi, được tha thứ, được cứu độ.


Nhìn vào lịch sử

 

Con đường Chúa Giêsu đã chọn để cứu đời cũng là con đường nhiều môn đệ Chúa sẽ chọn trong chương trình cứu độ. Chọn một cách thiết thực và gắn bó. Bởi vì họ luôn kết hợp với Chúa Giêsu. Chúa phán: "Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, các con chẳng làm gì được" (Ga 15,5).


Mọi chấn chỉnh đều nhằm làm chứng cho đạo đức.

 

Nhìn vào lịch sử Hội Thánh, tôi thấy hoàn cảnh lịch sử cụ thể đi liền với sự lựa chọn con đường cứu độ.

Để cứu hoàn cảnh lịch sử lúc đó nơi đó, Chúa đã kêu gọi những vị sáng lập Dòng, những vị mở đầu cho một con đường tu đức mới. Tất cả các vị đó đều có đặc điểm là rất mực khiêm nhường, rất mực khó nghèo, rất mực yêu thương, rất mực hy sinh, rất mực sáng suốt.


Tới đây, tôi nhìn vào hoàn cảnh cụ thể của đạo Công giáo tại Việt Nam hôm nay.


Tôi không dám nói: Đây là một hoàn cảnh không có gì phải chấn chỉnh.


Tôi cũng không dám nói: Sẽ có những chấn chỉnh ngoài mẫu gương Chúa cứu thế.


Vì thế, tôi tha thiết cầu nguyện xin Chúa thương đến Giáo Hội Việt Nam trong hoàn cảnh cụ thể này. Xin Chúa thương ban rất nhiều ơn cho những người Chúa chọn để chấn chỉnh đạo Chúa trong hoàn cảnh cụ thể hôm nay.

 

+ĐGM GB.Bùi Tuần

Mục lục

 

THÁNH GIUSE KHIÊM NHƯỜNG

 

Hội Thánh dành trọn tháng Ba để kính Thánh Giuse. Giữa tháng ba này, tức lễ thánh Giuse (16.3.2008) sẽ là đỉnh cao lòng mộ mến của ta đối với Ngài.

 

Một vẻ đẹp của Ngài vẫn thu hút tôi nhiều nhất, đó là đức khiêm nhường.

 

Thực vậy, thánh Giuse rất khiêm nhường trong mọi liên hệ.

 

1/ Đối với Chúa.

 

Thiên Chúa đối với thánh Giuse luôn là một hiện diện. Chúa hiện diện không như một lý thuyết, nhưng như một Đấng sống động. Đấng sống động ấy đi vào đời, để cứu chuộc. Đấng ấy là Tình Yêu. Người sẽ cứu chuộc nhân loại bằng tình yêu.

 

Tình yêu cứu chuộc là tình yêu khiêm nhường, tình yêu cho đi đến hiến dâng mạng sống chính mình. Đó là sự thực.

 

Sự thực ấy được nhận ra từ đâu ? Thưa từ ơn Chúa kêu gọi trở về. Trở về là khiêm tốn chờ đợi Chúa, chờ đọi kiên trì bằng cầu nguyện khiêm nhường. Chúa sẽ trở thành hiện diện khi con người cầu nguyện tỉnh thức. Con người tỉnh thức cầu nguyện sẽ thấy sự Chúa hiện diện là một sự thực mầu nhiệm. Chúa ban cho ta sự thực đó một cách nhưng không. Sự thực đó vô cùng cần thiết, đặt liên hệ con người Chúa :“Thầy ở đó, và Người gọi con” ( Ga11, 28).

 

Với nhận thức như trên, thánh Giuse biết mình, trước mặt Chúa, chỉ là một tạo vật được Chúa ban ơn trở về. Trong ơn trở về đó, có ơn được Chúa yêu thương, được Chúa gọi, được Chúa sai đi. Tất cả đều do Chúa. Còn bản thân mình nào có gì đâu. Do đó, thánh Giuse luôn rất khiêm nhường trước mặt Chúa, một Thiên Chúa là tình yêu khiêm nhường.

 

2/ Đối với tha nhân

 

Một người thực sự khiêm nhường trước mặt Chúa sẽ phải nhận rằng : Mình phải thực sự khiêm nhường trong liên hệ với tha nhân. Bởi vì mỗi người là một cõi riêng tư. Chúa nhìn mỗi người như một vũ trụ duy nhất. Nếu mình được Chúa thương một cách nhưng không, thì các người khác cũng có thể được yêu thương như vậy.

 

Tình yêu riêng tư là một cái gì không so sánh được, nó cũng là một cái gì không dễ diễn tả cho người khác hiểu được.

 

Vì thế người ta có thể phán đoán việc làm của nhau là điều rất khó. Có thể nói là không nên làm.

 

Thánh Phaolô viết :“Còn tôi, dù có bị anh em hay tòa nào xét xử, tôi cũng chẳng coi là gì . Mà tôi, tôi cũng chẳng tự xét xử lấy mình… Quả thật, Đấng xét xử tôi chính là Chúa”( 1Cr 4, 3-$).

 

Chính Chúa mới là Đấng xét xử. Phúc Âm cho thấy : “Người ta xét xử thế này, nhưng Chúa xét xử lại thế khác”( x Mt 20, 1-16).

 

Trong Phúc Âm, chân lý căn bản nhất là tình yêu. Chúa là tình yêu giàu lòng thương xót. Tình yêu này sẽ xét xử không theo thống kê, nhưng theo thân phận của từng người. Ai sẽ đủ sáng suốt với từng thân phận cho bằng tình yêu giàu lòng thương xót của Chúa.

 

Vì thế, thánh Giuse không hề xét xử, kết án ai. Ngài để Chúa làm. Ngài khiêm tốn cầu cho mọi người. Ngài khiêm tốn với mọi người.

 

3/ Đối với cộng đoàn tôn giáo

 

Tôn giáo thời đó bị tha hoá. Chắc thánh Giuse biết tình hình đáng buồn đó. Nhưng Ngài vẫn khiêm nhường trong địa vị một người tín hữu mọn hèn giữ trọng trách gia trưởng.

 

Ngài giữ luật đạo. Nhưng Ngài không cho việc chính yếu của người tín hữu là giữ đúng luật, mà là làm chứng cho tình yêu.

 

Ngài làm chứng cho tình yêu trong mọi mối quan hệ. Quan hệ với những vị đứng đầu cộng đoàn. Quan hệ với gia đình trong cộng đoàn. Quan hệ với hàng xóm và những người cùng làm nghề mộc. Trong mọi quan hệ. Ngài nhắm vào tình yêu. Ngài rất nghèo của cải, nhưng không nghèo tình yêu.

 

Ngài biết lắng nghe những tâm sự của người khác và giữ kín trong lòng. Ngài biết an ủi đỡ nâng những người gánh nặng muốn chia sẻ với Ngài.

 

Khi thiết lập và nuôi dưỡng các liên hệ. Ngài luôn khiêm nhường. Ngài kín đáo che giấu ơn gọi đặc biệt Chúa trao cho Ngài là bảo vệ Chúa Cứu Thế và Đức Maria. Ngài xuất hiện khiêm nhường như một người tín hữu khiêm nhường, một gia trưởng khiêm nhường.

 

Ngài biết giới hạn hoạt động tôn giáo của mình vào những việc khiêm tốn của gia trưởng và của người giáo dân hồi đó. Ngài biết rằng : Công việc khiêm tốn, nhưng với tình yêu sâu, vẫn là công việc rất đẹp lòng Chúa.

 

4/ Đối với chính mình.

 

Thánh Giuse khiêm nhường đối với Chúa, đối với tha nhân, đối với cộng đoàn tôn giáo. Ngài cũng rất khiêm tốn đối với chính mình. Liên hệ của ngài đối với chính mình không phải là một liên hệ đóng, nghĩa là mình với mình, nhưng là một liên hệ mở ra. Liên hệ đó như một cuộc xuất hành. Ngài ra khỏi mình, để trở về với Chúa. Một sự trở về sâu thẳm. Ngài đi ra để nghe Chúa. Ngài đi ra để biết ý Chúa. Ngài đi ra để Chúa thanh luyện ngài tuỳ ý Chúa.

 

Mọi thanh luyện đều có những gì phải rơi xuống. Như cắt tỉa để cây sinh trái. Như đẽo gọt, để mảnh gỗ trở thành tác phẩm nghệ thuật. Thánh Giuse rất khiêm nhường trong tay Chúa thanh luyện. Ngài nhìn mình như một tạo vật hèn mọn.

 

Suy gẫm trên đây của tôi chắc còn rất xa với sự khiêm nhường thực của thánh Giuse.

 

Với nhận thức đó, tôi hết lòng cầu nguyện xin thánh Giuse cầu bầu cho chúng ta được càng ngày càng đi sâu hơn vào đức khiêm nhường của Ngài. Hy vọng nhờ đó, chúng ta sẽ cùng thánh Giuse tham gia vào sứ mạng bảo vệ Hội Thánh Chúa tại Viện Nam hôm nay.

 

+ĐGM GB.Bùi Tuần

 

Mục lục

 

 

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI

 

SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA BENEDICTO XVI NHÂN NGÀY THẾ GIỚI TRUYỀN THÔNG LẦN THỨ 42

CHÚA NHẬT NGÀY 04/05/2008

Phương tiện truyền thông: trước hai lựa chọn tự tôn phong hay phục vụ.
Tìm kiếm Sự Thật để chia sẻ với người khác

Anh chị em thân mến,

1. Chủ đề của Ngày Thế Giới Truyền Thông năm nay- “Phương tiện truyền thông trước hai lựa chọn tự tôn phong hay phục vụ. Tìm kiếm Sự Thật để chia sẻ với người khác.”- soi sáng cho vai trò quan trọng của các phương tiện truyền thông trong đời sống cá nhân cũng như xã hội. Thật vậy, không có một lĩnh vực nào trong kinh nghiệm của con người, đặc biệt trước hiện tượng toàn cầu hoá đang mở rộng, mà trong đó truyền thông lại không nắm giữ một vai trò bao quát trong các mối tương quan liên vị cũng như trong sự phát triển về xã hội, kinh tế, chính trị và tôn giáo. Như tôi đã trình bày trong Sứ Điệp Ngày Thế Giới Hoà Bình đầu năm (1 tháng Giêng 2008): Các phương tiện truyền thông xã hội, vì tiềm năng giáo dục đặc thù của nó, giữ một trách nhiệm đặc chuyên trong việc phát huy sự tôn trọng gia đình, làm sáng tỏ những nguyện vọng và các quyền của gia đình, cũng như trình bày tất cả vẻ đẹp của nó” (s. 5).

2. Nhờ tiến bộ mau chóng về kỹ thuật, các phương tiện truyền thông đã thủ đắc được những tiềm lực phi thường, nhưng cũng đăt ra biết bao vấn đề mới lạ, những vấn nạn chưa từng có trước đây. Người ta không thể phủ nhận những đóng góp của nó trong việc phổ biến tin tức, truyền đạt những kiến thức về các biến cố cũng như việc phổ cập thông tin: nó nắm giữ một vai trò quyết định, thí dụ như trong việc phổ biến văn hoá và trong tiến trình xã hội hoá, cũng như trong việc phát triển nền dân chủ và đối thoại giữa các dân tộc. Không có những đóng góp của truyền thông thật khó mà mở mang và củng cố sự thông hiểu giữa các quốc gia, khó thổi hơi vào các cuộc đối thoại mang tính toàn cầu, khó bảo đảm lợi ích ưu hảo của việc cập nhật thông tin, mà đồng thời vẫn bảo đảm quyền tự do trao đổi tư tưởng, nhất là cổ vũ các lý tưởng về tình liên đới và công bình xã hội. Quả thật, nhìn một cách bao quát, các phương tiện truyền thông không chỉ là những phương tiện để truyền đạt tư tưởng, mà còn có thể và phải trở thành những khí cụ để phục vụ thế giới được công bằng và liên đới hơn. Nhưng thật đáng buồn, các phương tiện truyền thông đang bị biến thành những hệ thống nhắm vào việc bắt người ta phải lệ thuộc các chương trình đặt ra vì chủ đích lợi nhuận. Điều này xảy ra khi truyền thông bị lạm dụng vào các mục tiêu tuyên truyền ý thức hệ hoặc quảng cáo việc tiêu thụ sản phẩm gây ra bực bội. Mệnh danh là trình bày thực tế, người ta có thể hợp pháp hoá hay áp đặt những kiểu mẫu lệch lạc về đời sống cá nhân, gia đình và xã hội. Hơn nữa, để thu hút và gia tăng khán thính giả, đôi khi người ta không ngần ngại đi trệch hướng để đưa vào những cái tầm thường và bạo lực. Truyền thông cũng có thể trình bày và hỗ trợ các mô hình phát triển, giúp thăng tiến hơn là chế giảm trình độ kỹ thuật giữa các nước giàu và nước nghèo.

3. Nhân loại ngày hôm nay đang đứng trước một giao lộ. Người ta có thể áp dụng đúng mức cho truyền thông những điều tôi đã trình bày trong Thông điệp Spe Salvi liên quan đến tính hàm hồ của sự tiến bộ, một mặt nó tạo ra nhiều khả năng mới mẻ để thực hiện điều thiện, nhưng đồng thời nó cũng mở ra những tiềm lực kinh khủng phát sinh sự ác chưa hề tồn tại trước đây (x. số 22). Bởi đó, chúng ta phải truy vấn xem có khôn ngoan không khi để cho các phương tiện truyền thông bị khai thác bừa bãi vào việc “tự phát triển”, và rốt cuộc lại rơi vào tay những kẻ dụng tâm lèo lái lương tâm con người. Thay vào đó, sao người ta không ưu tiên bảo đảm cho nó luôn phục vụ con người và thiện ích chung cũng như vun trồng “việc đào tạo luân lý cho con người…giúp con người phát triển tâm hồn” (ibid.)? Người ta đều nhìn nhận ảnh hưởng lớn lao của các phương tiện truyền thông trên đời sống cá nhân cũng như xã hội, tuy nhiên ngày hôm nay cần phải nhấn mạnh đến bước ngoặt triệt để, hoặc như người ta có thể nói, sự biến thái hoàn toàn nó đang tạo ra. Hôm nay, truyền thông dường như vẫn không chỉ đòi hỏi trình bày thực tại mà còn xác định thực tại nhờ đặc quyền và sức mạnh dẫn dụ nó nắm giữ. Chẳng hạn, rõ ràng là trong một tình hình người ta không sử dụng truyền thông vào mục đích chính đáng là phổ biến thông tin, mà còn “tạo ra” chính các biến cố. Chuyện thay đổi chức năng gây nguy hại này đã được nhiều vị lãnh đạo Giáo Hội quan tâm chỉ vạch. Chính bởi chúng ta đang tiếp cận với những thực tại có ảnh hưởng sâu đậm trên tất cả mọi khía cạnh của đời sống (luân lý, suy nghĩ, tôn giáo, tương quan, tình cảm, văn hoá), trong đó cái thiện của con người giao chuyển, thì cần phải nhấn mạnh rằng không phải tất cả những gì khả thi về mặt kỹ thuật đều được phép về mặt đạo đức. Do đó, ảnh hưởng của truyền thông trên đời sống hiện đại đặt ra những vấn nạn không thể tránh né, đòi phải có những lựa chọn và giải quyết không thể trì hoãn.

4. Vai trò mà các phương tiện truyền thông thủ đắc trong xã hội phải được nhìn nhận như một phần hoàn chỉnh về vấn đề con người, đang mở ra như một thách đố trọng yếu trong ngàn năm thứ ba. Giống như những gì đang xảy ra trong lãnh vực sự sống con người, hôn nhân và gia đình, trong các vấn đề trọng đại hiện nay liên quan đến hoà bình, công lý, bảo vệ môi trường, thì trong lãnh vực truyền thông xã hội những chiều kích nền tảng về con người và sự thật liên quan đến con người cũng đang nảy sinh. Khi truyền thông đánh mất trụ cột đạo đức của mình, để cho xã hội khống chế thì rốt cuộc nó không còn để ý đến trọng tâm con người, có một phẩm giá bất khả xâm phạm. Hệ quả là nó liều lĩnh tác động ảnh hưởng tiêu cực trên lương tâm của họ, trên chọn lựa của họ để cuối cùng ràng buộc tự do và chính đời sống của họ vào những điều kiện khác nhau. Chính vì vậy, truyền thông xã hội phải miệt mài bảo vệ con người và hết lòng tôn trọng phẩm giá con người. Nhiều người ngày nay cho rằng trong lãnh vực này cần phải có một nền “đạo đức truyền thông”, như đã có nền luân lý sinh học trong lãnh vực y khoa với những nghiên cứu tìm tòi liên quan đến sự sống.

5. Truyền thông phải tránh trở thành tiếng nói cổ xúy cho chủ thuyết duy vật kinh tế và chủ thuyết tương đối về đạo đức, là những vết thương thật sự trong thời đại của chúng ta. Thay vào đó, nó có thể và phải góp phần thông đạt sự thật về con người, và phải bênh vực sự thật chống lại những kẻ muốn phủ nhận hoặc loại bỏ sự thật. Người ta còn có thể xác quyết rằng truy tìm sự thật và trình bày sự thật về con người làm nên ơn gọi cao quý nhất của truyền thông xã hội. Sử dụng mọi ngôn từ cao đẹp và ý nhị vào mục đích truyền thông là một bổn phận đầy phấn khích, được trao phó trước hết cho những nhà quản lý cũng như nhà thực hiện chương trình. Tuy nhiên, đó cũng là bổn phận mà trong một mức độ nào đó, liên quan đến tất cả chúng ta, bởi vì trong thời đại toàn cầu hoá này, tất cả chúng ta đều là những người hưởng dùng và là những người thực hiện truyền thông xã hội. Các phương tiện truyền thông hiện đại- liên lạc viễn thông và đặc biệt Internet- đang biến đổi chính bộ mặt của truyền thông; và có lẽ đây là một dịp quý hoá để tái định dạng chúng, và theo lời vị tiền nhiệm đáng kính của tôi là Đức Gioan Phaolô II, để làm cho những yếu tố nền tảng và thiết yếu của sự thật về con người được hiển thị rõ nét hơn (x. Tông thư Sự Phát Triển nhanh Chóng, 10).

6. Con người khao khát sự thật, họ truy tìm sự thật; sự kiện này được minh chứng bằng việc chăm chú theo dõi những thành qủa đạt được do những ấn phẩm đa dạng xuất bản, những chương trình hoặc những văn phẩm giá trị, trong đó sự thật và nét cao quý của con người, gồm cả chiều kích tôn giáo được trình bày và thu nhận một cách tốt đẹp. Chúa Giêsu nói: “Các ngươi sẽ biết sự thật và sự thật sẽ giải phóng các ngươi” (Ga 8, 32). Sự thật giải phóng chúng ta là Chúa Kitô, vì chỉ Người mới có thể hoàn toàn làm dịu cơn khát về sự sống và tình yêu hiện hữu trong tâm khảm con người. Những ai đã gặp Người và hăng hái đón nhận sứ điệp của Người đều cảm nhận một sự ao ước không thể kềm hãm là phải chia sẻ và truyền thông sự thật này. Thánh Gioan viết: “Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống…chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha, và với Con của Người là Đức Giêsu Kitô. Những điều này chúng tôi viết ra để niềm vui của chúng ta được nên trọn vẹn” (1 Ga 1, 1-3).

Chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần để có được những người làm truyền thông dũng cảm và những chứng nhân đích thực làm chứng cho sự thật, trung thành với mệnh lệnh của Chúa Kitô và nhiệt thành với sứ điệp đức tin, đó là những người biết “cắt nghĩa nhu cầu văn hoá của thời đại, dấn thân đi vào thời đại truyền thông không phải như thời khắc đầy băn khoăn bối rối, nhưng như thời điểm quý báu để tìm kiếm sự thật và phát huy tình hiệp thông giữa con người và các dân tộc” (Gioan Phaolô II, Diễn văn cho Hội Nghị của những người hoạt động Truyền thông và Văn Hoá, 9 tháng Mười Một 2002).

Qua những lời cầu chúc này tôi thân ái ban Phép Lành cho mọi người.

Từ Vatican, 24 tháng Giêng 2008, Lễ Thánh Phanxicô đờ Xan.

+ BENEDITUS PP. XVI

  Lm. Giuse Ngô Quang Trung dịch.

Mục lục

 

Giải thưởng mang tên Chân phước Têrêsa thành Kolkata được trao cho các nhân viên hoạt động AIDS toàn cầu.

New Delhi (UCAN IA04552.1486 Ngày 29-2-2008) - Giải thưởng quốc tế đầu tiên của Giáo hội Ấn Ðộ dành cho công tác nhân đạo đã tôn vinh hai người nỗ lực xoa dịu nỗi đau của những người đang sống chung với HIV/AIDS.

Peter Piot, đứng đầu Chương trình HIV/AIDS của Liên hiệp quốc (UNAIDS), và Mark Dybul, người điều phối chương trình AIDS toàn cầu của Mỹ, đã được trao Giải Nhân đạo quốc tế Chân phước Mẹ Têrêsa đầu tiên hôm 26-2-2008.

Ủy ban Sức khỏe của Hội đồng Giám mục Công giáo Ấn Ðộ (CBCI) đã lập giải thưởng này, và dự định sẽ trao giải hàng năm, để công nhận các cá thể có nhiều đóng góp trong việc đẩy mạnh nhân đạo, đặc biệt là nơi người nghèo trên thế giới.

Giải thưởng mang tên Chân phước Têrêsa thành Kolkata, người đã làm việc vì "người nghèo nhất trong số người nghèo" và đã được quốc tế công nhận và được trao Giải Nobel Hòa bình năm 1979. Ngài qua đời năm 1997.

Ðức Hồng y Telesphore Toppo của Ranchi, cựu chủ tịch CBCI, đã trao giải thưởng đầu tiên này tại một nghi lễ ở New Delhi trước mặt khoảng 100 người được vinh dự mời tham dự. Ngài nói hai người đồng nhận giải thưởng này đã có những đóng góp "mở đường" trong việc giúp những người bị AIDS.

Giải thưởng gồm một bằng khen và một chiếc cúp, linh mục Alex Vadakumthala cho UCA News biết. Giải này không có tiền, vị linh mục thư ký ủy ban sức khỏe của CBCI nói thêm.

Theo thông cáo báo chí phát hành hôm 26-2-2008 của ủy ban, do Ðức Tổng Giám mục chủ tịch ủy ban Bernard Moras của Bangalore ký tên, hai người nhận giải này "làm việc với nhiệt huyết thay đổi cuộc sống của những người sống chung với HIV, đặc biệt là ở các nước đang phát triển". HIV thường chuyển sang AIDS, vốn hầu như luôn gây chết người.

Ông Piot điều hành UNAIDS từ khi mới thành lập năm 1995. Chương trình Liên hiệp quốc này cung cấp thông tin và hỗ trợ dịch vụ. Nhiệm vụ chính của ông Dybul là thực hiện một chương trình khẩn cấp chống AIDS trên toàn thế giới với chi phí 15 tỷ Mỹ kim trong 5 năm.

Theo bằng khen, ông Piot đã "mời gọi các lãnh đạo thế giới xem xét AIDS trong bối cảnh an ninh và phát triển kinh tế xã hội". Dưới sự lãnh đạo của ông, văn phòng của ông đã "tác động tích cực đến cuộc sống của hàng triệu người sống chung với HIV và gia đình họ".

Ông Piot nhận giải thưởng này như là để công nhận công lao của "cả gia đình Liên hiệp quốc", đặc biệt là các đồng nghiệp của ông tại UNAIDS "những người làm việc cho các giá trị gần gũi với tâm huyết của Mẹ Têrêsa nhất đó là phục vụ những người cần giúp đỡ". Giám đốc UNAIDS khen ngợi công tác nâng cao nhận thức chống HIV của Giáo hội.

Ông Dybul không thể tham dự nghi lễ này, nhưng George Deikun, trưởng phái đoàn đại diện Tổ chức phát triển quốc tế của Mỹ (USAID) ở New Delhi, thay ông nhận giải thưởng. Văn phòng của ông Dybul làm việc ở Ấn Ðộ thông qua USAID.

Giải thưởng khen ngợi ông Dybul đã có "sự lãnh đạo truyền cảm" trong việc thực hiện kế hoạch của Mỹ giúp hàng triệu người bị AIDS trong thế giới phát triển được chăm sóc và điều trị.

"Các phương pháp có sáng kiến do ông làm mũi nhọn dẫn đầu đã đảm bảo cho người nghèo trong các nước đang phát triển tiếp cận các phương pháp điều trị cứu sống tốt hơn, không phân biệt sắc tộc, giới tính hay màu da", theo bằng khen. Những nỗ lực của ông Dybul đã nâng cao nhận thức và làm tăng thêm chính kiến giải quyết các khía cạnh nhân đạo của đại dịch này với một tốc độ và quy mô chưa từng thấy trong quá khứ.

Theo ước tính chính thức, Ấn Ðộ có khoảng 2.5 triệu người bị nhiễm HIV, xếp thứ ba sau Nam Phi và Nigeria. Giáo hội Ấn Ðộ quản lý hơn 3,000 bệnh viện và trạm xá giúp những người sống chung với HIV/AIDS. Các chương trình AIDS của ủy ban sức khỏe của CBCI chăm sóc và hỗ trợ thông qua năm trung tâm, cũng như cộng tác với các tổ chức chính phủ và thiện nguyện mở thêm 45 trung tâm như thế, theo cha Vadakumthala.

 UCA News

Mở mộ Cha Thánh Piô và thấy thân xác của Ngài được bảo toàn tốt

NAPOLI, Italia -- Ngày Chúa Nhật 3/3/2008, đặc sứ Đức Thánh Cha là đức TGM Domenico D'Ambrosio cùng với tổ chức 'Voce Padre Pio – Tiếng Nói Cha Piô’ và các linh mục đã mở quan tài Cha Thánh Piô và thấy thân xác ngày vẫn còn được duy trì tốt đẹp.

Cha Thánh Piô là một linh mục người Ý rất thời danh và được toàn dân Ý mến chuộng. Cha Piô trước đây là một tu sĩ dòng Phanxicô khó khăn và có rất đông người Ý cũng như người ngoại quốc kính chuộng và thường đến nghe người giảng. Cha là vị tu sĩ trong cuộc sống trần gian đã được in 5 dấu đanh của Chúa. Hai tay tay và 2 chân của ngài, cũng như cạnh sườn, luôn được băng bó vì máu luôn chảy ra từ 5 vết thương như 5 vết đinh của Chúa trên thánh giá. Sự kiện phi thường này không thể giải thích nổi.

Cha Piô qua đời năm 1968 và đến năm 2002, ĐGH John Paul II đã phong hiển thánh cho ngài.

Giáo hội muốn cải táng xác ngài và sẽ trưng bầy cho dân chúng chiêm ngắm vào cuối năm nay, để dân chúng đến cầu nguyện nhân dịp kỉ niệm 40 năm ngày Ngài qua đời.

Mục lục

Đức Thánh Cha Mừng Kỷ Niệm 25 Năm Ngày Thành Lập Trung Tâm Giới Trẻ San Lorenzo

 

Rôma, 4 tháng 3, 2008: Vatican cho hay Đức Thánh Cha Benedict XVI sẽ khai mạc tuần lễ Kỷ Niệm 25 năm thành lập Trung Tâm Giới Trẻ San Lorenzo.

Theo thông tư được phổ biến ngày hôm nay Đức Thánh Cha sẽ chủ tọa một Thánh Lễ ngày Chủ Nhật 9/3/08 tại Nhà Thờ Thánh Lorenzo ở Piscibus, kế cận trung tâm.

Trung Tâm Quốc tế San Lorenzo nằm gần Vương Cung Thánh đường Thánh Phêrô, được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II khánh thành vào ngày 13 tháng 3, năm 1983. Trong lễ khánh thành Đức Thánh Cha bầy tỏ niềm hy vọng rằng “trung tâm sẽ trở nên lò đào tạo những tín hữu trẻ tuổi có khả năng làm nhân chứng đích thực cho Phúc Âm trong thế giới hiện nay."

Toà Thánh Vatican ghi nhận rằng, trung tâm này được Thánh Bộ Giáo Dân yểm trợ và được trao phó cho Cộng Đồng Emmanuel trông coi, là một “nơi tiếp đón, cầu nguyện, đào tạo và gặp gỡ của giới trẻ từ khắp nơi trên thế giới đang đi hành hương tại Rôma."

Nơi đây cũng lưu trữ cây Thánh Giá của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần thứ nhất.

Vì lý do cơ sở hạn hẹp, thánh lễ do Đức Thánh Cha cử hành sẽ chỉ có các nhân viên của Trung Tâm và một số khách tham dự.

Ngoài cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha, Trung Tâm cũng sẽ có Đức Hồng Y Stanislaw Rylko, Chủ Tịch Thánh Bộ Giáo Dân đến vào ngày Thứ Năm 13 tháng 3. Đức Hồng Y sẽ chủ tế một Thánh Lễ và sau đó sẽ có chầu Thánh Thể và cầu nguyện cho tới nửa đêm.


Ngày hôm sau, Thứ Sáu 14 tháng 3, Cộng Đồng Taizé sẽ tổ chức một buổi canh thức cầu nguyện khác do Tu Sĩ Alois Loser, Bề Trên của Cộng Đồng chủ tọa.

Ngày Thứ Bẩy, 15 tháng 3, một cuộc hội thảo sẽ được tổ chức với chủ đề "Lịch sử và sứ vụ của Trung Tâm Quốc Tế San Lorenzo" với sự tham dự của Đức Hồng Y Stanislaw Rylko và Đức Hồng Y Paul Josef Cordes, Chủ Tịch Thánh Bộ "Cor Unum," (Một Trái Tim) là người đã khởi xướng việc thành lập Trung Tâm 25 năm trước đây.

Các sinh hoạt mừng kỷ niệm 25 năm tại Trung Tâm sẽ chấm dứt vào Chủ Nhật Lễ Lá, ngày 16 tháng 3, với giới trẻ khắp nơi được mời tham dự Thánh Lễ do Đức Thánh Cha Benedict XVI chủ tế tại quảng trường Thánh Phêrô.

Mục lục

Bổ Nhiệm Tân Sứ Thần Tòa Thánh tại Úc Châu

 

Đức Thánh Cha vừa bổ nhiệm Đức Tổng Giám Mục Giuseppe Lazzarotto người Ý, làm Tân Sứ Thần Tòa Thánh tại Úc Châu.


ĐTGM Giuseppe Lazzarotto đã đến Úc ngày 04 tháng Ba năm 2008, trước khi lên thủ đô Canberra nhận nhiệm sở, Ngài đã ghé xuống Sydney trạm dừng chân đầu tiên trên đất Úc. Ra đón Đức Tân Khâm Sứ có Đức Ông Jude Thaddeus Okol và phái đoàn đại diện giáo hội Công Giáo Úc Châu, phía Cộng Đồng Việt Nam có linh mục Dương Thanh Liêm phụ tá tuyên úy cho Cộng Đồng Việt Nam đang làm việc trong văn phòng Tòa Tổng Giám Mục Sydney.


Đức Tân Sứ Thần đã đến gặp gỡ Hội Đồng Giám Mục Úc Châu đang họp tại Sydney. ĐTGM Philip Wilson chủ tịch HĐGM Úc Châu đã nồng nhiệt chào mừng Ngài.


Ngài cũng đã đến gặp gỡ 2 Đức Hồng Y Edward Clancy & Edward Cassidy. Sau đó Đức Tân Sứ Thần Toà thánh đã bay lên Canberra hội kiến với Mr. Collin Hill thứ trưởng Bộ Ngoại Giao Úc.


Theo như chương trình, Đức Tân Khâm Sứ sẽ trình Ủy nhiệm thư lên Vị Toàn Quyền Úc Châu, Sir Michael Jeffery vài ngày sắp tới, sau đó Ngài sẽ bắt tay vào làm việc ngay.


ĐTGM Giusppe Lazzarotto nói lưu loát được 4 ngôn ngữ: Ý, Anh, Pháp và Tây Ban Nha. Ngài sinh năm 1942 và thụ phong linh mục 1967.


Năm 1971, Ngài đã sang Úc làm việc với tư cách là nhân viên sứ vụ của Toà thánh.


Từ năm 2000, Ngài được bổ nhiệm làm Khâm Sứ Toà Thánh qua các quốc gia như: Iraq, Jordan và Cộng Hòa Ireland trước khi chuyển sang Úc Châu,


Ngài đã từng làm tùy viên sứ vụ truyền giáo tại các quốc gia: Zambia, Malawi, Belgium và Cuba và đã làm Bí Thư sứ bộ văn phòng tòa thánh tại Jerusalem.

Bom nổ 26 người chết, Vương Cung Thánh Đường Lahore bị thiệt hại nặng

Lúc 9 giờ 30 sáng thứ Ba 11/3, một vụ tấn công bằng bom nhắm vào Cục Điều Tra Liên Bang Pakistan đã làm 26 người chết, trong đó có hai học sinh Công Giáo, và làm hư hại nặng Vương Cung Thánh Đường Lahore ở ngay gần bên cạnh. Hàng trăm người khác đã bị thương.

Mức độ tàn phá nghiêm trọng của những trái bom đã làm thiệt hại không những cho Vương Cung Thánh Đường Thánh Tâm của Lahore mà còn làm thiệt hại trường Thánh Tâm, Học Viện Thánh Antôn, Trung Tâm Truyền Thông Thánh Phaolô, Văn Phòng Caritas Lahore, một nhà in Công Giáo, một nhà dành cho các nữ tu và một trung tâm dành cho các giáo lý viên.

Thiệt hại vật chất của Giáo Hội Công Giáo được xem là rất nghiêm trọng.

Đức Tổng Giám Mục Lawrence Saldanha của tổng giáo phận Lahore cho biết tiếng bom nổ đã làm rung chuyển văn phòng của ngài nơi có thể nhìn thấy toàn cảnh khu vực bị đánh bom. Đức Tổng Giám Mục nhận định: “Những hành động này phá hủy sự ổn định của quốc gia”.

Cha Morris Jalal, một linh mục giúp đỡ các nạn nhân tại hiện trường cho biết: “Sinh mạng con người không an toàn chút nào trong những ngày này”. Cha kêu gọi chính phủ đối thoại với những nhóm khủng bố Hồi Giáo quá khích.

Đức Tổng Giám Mục Saldanha cũng bày tỏ là chính phủ vừa được bầu lên hồi tháng Hai sẽ thương thảo với những nhóm quá khích hầu tìm ra một giải pháp hòa bình cho Pakistan.

Sau vụ nổ bom này, ngay lập tức một cuộc nổ bom khác lại diễn ra tại khu Model Town ngay trong thành phố Lahore gây cho một số người bị thương.

Các hoạt động của những nhóm vũ trang Hồi Giáo đã làm hơn 500 người thiệt mạng trong vòng một năm qua

Mục lục

Đức Thánh Cha sẽ không đưa ra bất cứ thay đổi nào nữa trong lời nguyện ngày Thứ Sáu Tuần Thánh

 

Bất chấp “những thất vọng” của một số nhà lãnh đạo Do Thái, Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI sẽ không đưa ra bất cứ thay đổi nào nữa trong lời nguyện ngày Thứ Sáu Tuần Thánh theo nghi thức Phụng Vụ tiền Công Đồng Vatican II. Đức Hồng Y Walter Kasper đã cho biết như trên.


Trong cuộc phỏng vấn dành cho đài truyền hình Đức ARD, Đức Hồng Y Walter Kasper, chủ tịch Ủy Ban Đối Thoại với Do Thái Giáo cho biết là không cần phải thay đổi gì nữa vì bản văn do Đức Thánh Cha đưa ra hồi tháng Hai vừa qua “hoàn toàn chính xác về phương diện Thần Học”.

 

Theo dự trù, trong tuần này Đức Hồng Y Walter Kasper sẽ gặp gỡ một số nhà lãnh đạo Do Thái là những người đang cố hết sức thuyết phục Tòa Thánh thay đổi lần nữa bản văn mới vừa được đưa ra trong tháng qua. Đức Hồng Y đã nói thẳng là sẽ không có thay đổi nào nữa. Ngài hy vọng quan hệ giữa Công Giáo và Do Thái Giáo có thể được canh tân trên tình anh em dù có những “khó chịu” liên quan bởi sự bất đồng này.

 

Trong số ra ngày 6/2, tờ L'Osservatore Romano (Quan Sát Viên Rôma) đã đưa ra một thông báo của Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh theo đó Đức Thánh Cha đã truyền cho sửa lại lời cầu cho người Do Thái trong Phụng Vụ tiếng La Tinh ngày Thứ Sáu Tuần Thánh trong sách lễ Rôma 1962.


Thay đổi này chỉ áp dụng cho “hình thức ngoại thường” của Phụng Vụ (ý chỉ Thánh lễ tiếng La Tinh). Sách Lễ Rôma dành cho nghi thức Phụng Vụ sau Công Đồng Vatican II vẫn giữ nguyên lời cầu ngày Thứ Sáu Tuần Thánh như hiện nay.


Nhiều nhà lãnh đạo Do Thái Giáo đã xin Đức Thánh Cha duyệt xét lại lời cầu dành cho người Do Thái trong nghi thức tưởng niệm Chúa chịu chết. Cụ thể, họ xin bỏ đi những ý liên quan đến “sự mù quáng” không tin vào Chúa Kitô là Mêsia như đã được loan báo.

 

Nhiều người còn đi xa hơn khi lên tiếng yêu cầu Giáo Hội phải bỏ đi ý cầu nguyện cho sự trở lại của người Do Thái.


Lời cầu mới bỏ đi những ý liên quan đến “sự mù quáng” nhưng vẫn giữ ý cầu nguyện cho sự hoán cải của người Do Thái.


Lời cầu mới được Đức Thánh Cha sửa đổi đã từng được Đức Thánh Cha Piô XII, và Đức Thánh Cha Gioan XXIII sửa lại. Bản đang dùng trong sách lễ 1962 là bản của Đức Thánh Cha Gioan XXIII.

Phiên bản mới do L'Osservatore Romano công bố như sau:


Oremus et pro Iudaeis. Ut Deus et Dominus noster illuminet corda eorum, ut agnoscant Iesum Christum salvatorem omnium hominum.

 

Oremus.

Flectamus genua.


Levate.

Omnipotens sempiterne Deus, qui vis ut omnes homines salvi fiant et ad agnitionem veritatis veniant, concede propitius, ut plenitudine gentium in Ecclesiam Tuam intrante omnis Israel salvus fiat. Per Christum Dominum nostrum. Amen.


Nghiã là:


Chúng ta hãy cầu nguyện cho người Do Thái: Xin Thiên Chúa là Chúa chúng ta soi sáng tâm hồn họ, để họ nhận biết Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ của toàn thể nhân loại.


Chúng ta hãy cầu nguyện.


Chúng ta hãy quỳ gối.


Chúng ta hãy đứng lên.

 

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn cho mọi người được cứu độ và nhận ra chân lý, xin vì lòng thương xót Chúa cho toàn thể nhà Israel cũng được giải thoát khi cùng toàn thể nhân loại tiến vào Giáo Hội của Chúa, nhờ Chúa Kitô chúng ta. Amen.

( tổng hợp tin tức Công Giáo thế giới )

Mục lục

 

Trò chuyện với Đức cha Giáo phận Thái Bình

 

Nhân dịp giáo phận Thái Bình kết thúc 3 Năm thánh và khai mạc Năm thánh Hồng Đào của giáo phận, chúng tôi có dịp về đây chung vui với giáo dân của miền quê lúa và trò chuyện với Đức cha F.X Nguyễn Văn Sang:


*HT: Xin chúc mừng Đức cha và giáo phận Thái Bình vừa gặt hái được một vụ mùa bội thu sau 3 Năm thánh nhân các sự kiện lịch sử của giáo phận. Đức cha có thể cho biết vắn tắt những kết quả đó?


*Đức cha Nguyễn Văn Sang (ĐC NVS): Nhân 70 năm thành lập giáo phận (1936-2006), 100 năm nhà thờ chính tòa Thái Bình (1906-2006), tôi đã xin với Tòa thánh cho mở 3 năm thánh liên tiếp. Năm 2005 với chủ đề Sám hối và Hòa giải. Năm 2006 là Kiến thiết và Xây dựng. Năm 2007 là Tạ ơn. Đây thật là một đặc ân hiếm có vì ít đâu có được. Thu hoạch lớn nhất là cả giáo phận đều trưởng thành cả về chất và lượng qua ba Năm thánh. Đời sống đức tin của giáo dân được vun đắp. Bầu khí hòa giải, đoàn kết được lan tỏa từ gia đình, xứ họ đến cộng đồng. Một loạt nhà thờ, nhà xứ mới được xây dựng như Đông Phú, Trung Đồng, Cao Mại, Bác Trạch…đặc biệt ngôi nhà thờ chính tòa to đẹp được cung hiến vào ngày13-10-2007 với sự hiện diện của nhiều Hồng y, Giám mục trong cả nước. Giáo phận có thêm 20 xứ mới nâng số giáo xứ trong giáo phận thành 90. Nhiều dòng tu, hội đoàn dược lập mới hoặc tái lập. Bệnh xá Phan Sinh cũng được khánh thành và đi vào hoạt độngj có hiệu quả. Giáo phận có thêm 17 tân linh mục và hiện còn 27 đại chủng sinh đang theo học.

Trong thời gian này, tôi cũng có một ngày lễ đáng nhớ. Đó là lễ Ngân khánh Giám mục và Kim khánh linh mục được tổ chức trọng thể vào ngày 22-4-2006. Trong dịp này, tôi đã nhận được điện văn chúc mừng của Đức Hồng y C. Sepe- Bộ trưởng Bộ Truyền giáo và Đức TGM Hà Nội về giảng thuyết.


Ba Năm thánh của giáo phận đã kết thúc nhưng chúng tôi không muốn dừng lại và phải tiến bước theo tinh thần của Olimpic là “ nhanh hơn, mạnh hơn và xa hơn”. Vì vậy, tôi đã phát động Năm thánh Hồng Đào, khai mạc vào đúng Lễ nến vừa qua.


*HT: Con đã may mắn được tham dự ngày khai mạc đó. Thật là một khung cảnh tuyệt vời. Cả rừng người tay cầm cành đào rước quanh nhà thờ. Khuôn viên Tòa giám mục rực sáng như công viên hoa và cây đào cuối nhà thờ to cao đáng ghi vào guinet. Thưa Đức cha, tinh thần của Năm thánh Hồng Đào là gì?


*ĐC NVS: Chúng tôi bước vào Năm thánh với 4 quyết tâm lớn là Tôn sùng Thánh thể; Kính mến Đức mẹ La Vang; Học tập và thực thi Kinh thánh, giáo lý và làm việc bác ái xã hội. Chúng tôi coi đây là 4 cỗ đại xa của Năm thánh. Ngày mùng 3 Tết vừa qua, tôi và các linh mục cùng đông đảo tu sĩ, giáo dân đã về dự lễ đầu xuân với bà con ở trại phong Vân Môn. Giáo phận cũng đã quyết định thành lập ủy ban bác ái xã hội do tôi làm Trưởng ban. Việc đầu tiên chúng tôi triển khai là mở một Trung tâm chăm sóc trẻ em bị chất độc màu da cam ở Thái Bình. Tôi cũng đã gửi đơn tới chính quyền các cấp xin được sử dụng một số diện tích vốn trước đây là của giáo hội nhưng hiện do địa phương đang sử dụng. Bước đầu, chúng tôi đã nhận được sự ủng hộ của chính quyền các cấp. Ông Bí thư Tỉnh ủy còn nói: Làm từ thiện thì Cụ không có đất, chúng tôi sẽ cấp đất.


*HT: Vấn đề đất đai, tài sản của giáo hội đang là vấn đề nóng ở một số nơi nhất là khu vực Hà Nội. Đức cha có sáng kiến gì để gỡ ra vấn đề nhạy cảm này?


ĐC. NVS: Đất đai là vấn đề nóng bỏng của toàn xã hội thời kinh tế thị trường. Trước đây, người ta cho nhau cả ngàn mét vuông. Còn bây giờ, bố con đưa nhau ra tòa vì vài thước đất. Không chỉ tại “ tấc đất, tấc vàng” mà còn tại cả vấn đề luật pháp, đạo đức, công bằng xã hội. ở Hà Nội, từ dịp lễ Giáng sinh đến nay nổi lên một số nơi như khu vực Tòa Khâm sứ, nhà thờ Thái Hà, nhà thờ Hà Đông. Tôi cũng đã có dịp trao đổi với nhiều vị lãnh đạo ở Trung ương cũng như Đức TGM Hà Nội, dòng Chúa cứu thế và đề nghị một giải pháp “ rút củi để hạ nhiệt”. Rất tiếc đề nghị của tôi không được thực thi nên đã xảy ra những căng thẳng mà lẽ ra tránh được. Ví dụ, nếu mở cửa Tòa Khâm sứ cho giáo dân vào đọc kinh thì đâu có cảnh trèo tường, xô cổng ngày 25-1. Rất may, Tòa thánh đã có hướng dẫn qua văn thư của Đức Hồng y Bertone- Quốc vụ khanh ngày 30-1 và Đức TGM Ngô Quang Kiệt cũng có quyết định sáng suốt, lại thêm hàng giáo sĩ và giáo dân đã vâng lời, nên tình hình đã dịu lại. Bây giờ chỉ chờ Nhà nước giải quyết như thế nào thôi.


Song để tránh lặp lại các vụ việc như Tòa Khâm sứ cần có một ủy ban gồm cả đại diện Nhà nước, các Giám mục và các giáo phận như tôi đã đề nghị 6 năm trước đây để cùng đi khảo sát thực tế và cho hướng giải quyết có lý, có tình.


*HT: Xin hỏi Đức cha câu hỏi cuối, vấn đề nhân sự kế vị Đức cha ở Thái Bình đã có kết quả chưa ạ?


ĐC. NVS: Theo Giáo luật, tháng 1-2007, khi tròn 75 tuổi tôi đã đệ đơn xin nghỉ hưu và Tòa thánh đã chấp nhận với điều kiện khi nào có Giám mục kế vị xứng đáng. Tôi cũng đã gửi cho Tòa thánh danh sách các ứng viên. Đó là những linh mục đang làm mục vụ ở Thái Bình. Tòa thánh đã chấp thuận. Bây giờ phải chờ quyết định của Tòa thánh. Sớm muộn gì năm nay cũng có kết quả thôi.


*HT: Xin cảm ơn Đức cha về cuộc trò chuyện này. Chúc Đức cha và giáo phận Thái Bình tiếp tục gặt hái được nhiều thành quả trong Năm thánh Hồng Đào này.


Huy Thông (thực hiện)

Mục lục

 

 

Thánh lễ cầu nguyện cầu cho cụ cố Maria thân mẫu ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

 

Hà Nội - 6 giờ chiều ngày 6.3.2008, tại Nhà thờ Chính tòa Hà Nội, 82 linh mục thuộc giáo phận và Đại chủng viện Hà Nội đã cùng với Đức Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt hiệp dâng thánh lễ cầu nguyện cho cụ cố Maria, thân mẫu Đức Tổng, nhân ngày giỗ mãn tang. Toàn thể chủng sinh, nữ tu Dòng Mến Thánh Giá, dòng Phaolô và nhiều giáo dân  Hà Nội cùng hiệp thông tham dự thánh lễ.

Bài ca nhập lễ diễn tả thật sinh động niềm tin Công giáo: con người chết không phải là hết, mà là bước vào một cuộc sống mới. Sự sống không mất nhưng chỉ đổi thay. Chính niềm tin vào sự sống vĩnh cửu làm cho con người sống đẹp hơn, ý nghĩa hơn, giúp con người ý thức cuộc đời này chính là cuộc chuẩn bị để bước vào đời sau đi về với Chúa.

Đầu lễ, Đức Tổng Giám mục xúc động bày tỏ lời cảm ơn cha xứ và giáo xứ Nhà thờ Chính tòa đã đứng ra tổ chức thánh lễ. Ngài cũng cảm ơn các cha, nam nữ tu sĩ, chủng sinh và giáo dân đã tới tham dự thánh lễ cầu nguyện cho thân mẫu của Ngài.

Trong bài giảng, Đức Tổng khẳng định: điều quan trọng nhất trong đời đối với Ngài là cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa. Nhân loại ngày nay dù có đầy đủ tiện nghi vật chất hơn, nhưng nếu thiếu vắng Thiên Chúa trong tâm hồn, thì vẫn là những kẻ khốn cùng nhất.

Đức Tổng chia sẻ: Chúa Giêsu là Đấng được Chúa Cha sai đến bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa cho nhân loại. Qua cuộc sống của mình, Đức Giêsu đã thi hành trọn vẹn thánh ý Chúa Cha: "Lương thực của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta". Cụ cố Maria cũng đã hết sức làm chứng cho Thiên Chúa qua việc suốt đời tuân giữa Lời Chúa dạy và chu toàn công việc bổn phận. Cụ cố tuy là người quê mùa ít học, nhưng lại là người rất thuộc kinh, siêng năng cầu nguyện, tham dự thánh lễ và chu toàn việc bổn phận trong gia đình. Đức Tổng kể: cố bà rất ít khi đi ra khỏi nhà vì chỉ lo đi xa thì ở nhà sáng ra không có ai đun nước pha trà cho cố ông. Bà cố làm chứng cho Thiên Chúa bằng việc chu toàn bổn phận với một trái tim tha thiết yêu thương.

Đức Tổng tin tưởng rằng: Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót bao dung sẽ nhậm lời khẩn cầu của cộng đoàn và Ngài sẽ tha thứ mọi lỗi lầm cho cụ cố Maria và đón cụ về hưởng phúc Nước Trời.

Cuối thánh lễ, Đức Tổng và qúy cha đồng tế tiến đến trước di ảnh xá nhang cụ cố. Cụ cố trìu mến nhìn những người con linh mục của mình. Có lẽ cụ cố đang thầm mong ước và cầu xin cho họ luôn là những đứa con ngoan khôn ngoan, đạo đức và yêu thương đến độ Thiên Chúa có thể nói với họ "đây là các con Ta yêu dấu, làm đẹp lòng Ta mọi đàng".

Nguyện xin cho cụ cố về Nhà Cha hưởng phúc và chuyển cầu muôn ơn lành hồn xác cho những người con nơi dương thế. Cũng xin cho những người con còn sống trên trần gian hãy ý thức sống sao, để khi chết là lúc đi về với Chúa, chứ không phải là lúc vĩnh viễn lìa xa Ngài.

Nguyễn Xuân Trường

 

Mục lục

 

 

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO

 

GIUSE : CON NGƯỜI CỦA MÙA CHAY

 

Trong niên lịch Phụng vụ hiện hành tháng 3 kính Thánh Giuse thường trùng hợp với thời gian Phụng vụ Mùa Chay, tín hữu được mời gọi để nhìn lên Thánh Giuse như một mẫu gương và đồng thời hướng đến lễ Phục sinh như một chuẩn đích đang đến gần. Sự trùng hợp ấy lặp đi lặp lại khiến tôi có ý nghĩ : Giuse là con người của Mùa Chay.

 

Gọi như thế không muốn nói ngài đã thực hành việc ăn chay nghiệm ngặt hơn mấy ông Biệt phái; gọi như thế cũng chẳng có ý xa gần ám chỉ đến kiếp chồng chay chồng hờ chả sơ múi gì như kiểu nói vui của mấy vị xốn xồn; nhưng gọi như thế chỉ muốn nêu lên những đức tính nổi bật của ngài, vừa tự nhiên, vừa dễ dàng gần gũi cho mọi người trong hướng sống Mùa Chay, nhất là trong khuôn khổ những ngày tĩnh tâm ở đây.

 

  1. Gọi Giuse là con người của mùa Chay vì lý do thứ nhất là ngài yêu thích sự lặng thầm.

 

Cuộc đời của Giuse qua Phúc Âm là một cuộc đời gắn liền với gia đình thánh, một cuộc đời có nhiều sóng gió bất ngờ. Thế nhưng, trên nền những sóng gió ấy, người ta gặp thấy một Giuse hoàn toàn lặng thầm, lặng thầm đến độ khó tin. Trong Phúc Âm, Đức Maria vốn thích giữ kín và suy niệm trong lòng, ít ra người ta cũng nghe được nơi Mẹ 7 lời vắn gọn gợi mở suy tư, đằng này, tìm đỏ mắt cũng chẳng gặp một lời nào của Giuse hết, ngay cả một lời vâng vắn gọn, ngay đến một tiếng thở dài. Tuyệt đối không.

 

Điều này được chứng thực qua những biến cố trong đời của ngài. Sau biến cố truyền tin, thuở Giuse và Maria mới quen nhau, người ta muốn thấy một Giuse nhút nhát không nói được một câu nào. Rồi khi đã đính hôn, Giuse bỗng thấy Maria đã đổi khác nơi vòng số 2, thì thay vì phải làm cho ra lẽ, người ta lại thấy một Giuse băn khoăn, cạy miệng cũng chẳng hé lời. Có người bảo Giuse yếu, có kẻ nói Giuse dại. Mặc kệ. Ồn ào quá dễ, còn biết im lặng trong tình huống căng thẳng như thế không phải ai cũng làm được. Im lặng vốn là quê hương của những  tâm hồn lớn mạnh. “Phải can đảm mới bền gan yếu đuối, phải khôn ngoan mới dư trí dại khờ”.

 

Nhưng phải đến biến cố tìm lại Chúa Giêsu sau ba ngày lạc mất trong Đền thánh, người ta mới thấy lặng thầm là điều Giuse đã chọn lựa như châm ngôn cuộc đời. Trong biến cố ấy, thay vì trong tư cách trưởng gia đình, có thể trách móc Chúa Giêsu như những người cha khác, người ta thấy Giuse lùi lại đằng sau cho Maria tiến lên, người ta thấy Giuse rút vào im lặng cho Maria cất tiếng mở lời. Rõ ràng, đây không chỉ là một tính cách tự nhiên, mà còn là một chọn lựa thực thi đến độ thuần thục.

 

Thinh lặng là nét đẹp của chay tịnh. Giuse yêu thích sự im lặng, ngài là con người của Mùa Chay.

 

Trong dịp hành hương tại Nagiarét quê hương của Guise, tôi ngạc nhiên vô cùng khi thấy ngoài đường phố, trong cửa hiệu buôn bán, thậm chí ngay ở quầy tiếp tân của khách sạn, tuyệt nhiên không có lấy một bóng người phụ nữ. Họ ở đâu, không ai biết rõ, chỉ biết chắc rằng tất cả mọi sinh hoạt công khai ngoài mặt phố đều do đàn ông đảm trách. Tôi thắc mắc, và hướng dẫn viên đã giải thích rằng : đây là xã hội của đàn ông, đàn bà không có quyền ăn nói, thậm chí không có quyền xất hiện. Trong một nếp sống như thế, lẽ ra Giuse có quyền và có bổn phận phải nói, nhưng một khi ngài đã chọn thinh lặng, ắt hẳn sự thinh lặng ấy phải có một giá trị đặc biệt. Vâng, đó là tĩnh tâm, đó là đi vào sa mạc tâm hồn, đó là đường vào của một tình yêu. Thảo nào cha Philippon, op, đã có lần viết : “Ai yêu mến sự thinh lặng sẽ được Thiên Chúa dẫn tới thinh  lặng của mến yêu”.

 

  1. Gọi Giuse là con người của Mùa Chay, vì lý do thứ hai ngài biết lắng nghe và thực hành lời Chúa.

 

Cầu nguyện theo định nghĩa đầy đủ gồm nhiều động tác như thờ lạy, tạ ơn, tạ tội, dâng hiến, xin ơn. Nhưng với Giuse, đơn giản thôi, cầu nguyện có nghĩa là lắng nghe và thực thi ý Chúa. Sự lặng thầm của ngài không phải là một thứ ù lì chẳng có gì để nói ra, hay một thứ trống rỗng chẳng thấy chi mà ghi nhận vào. Ngược lại, đó là điều kiện để ngài cầu nguyện. Từ ngữ “giấc mơ” mà Phúc Âm nhắc đi nhắc lại nhiều lần, không muốn nói tới một điều gì khác ngoài hình ảnh của một tâm hồn bỏ ngỏ cho thánh ý Thiên Chúa tự do tác động. Giống như chiếc ống sáo sẵn đợi đó cho làn hơi Thiên Chúa thổi vào làm phát ra những giai đoạn ngọt ngào đầm ấm.

 

Trong biến có phải đưa Chúa Giêsu và Mẹ Maria lánh nạn sang Ai Cập, rồi sau đó từ Ai Cập trở về Nagiarét, Giuse đã cho thấy một dáng hình cầu nguyện không thể quên được. Ngài vâng nghe và thực hành lệnh Chúa mau mắn đến độ lạ lùng. Thảo nào, con người ấy phút trước đã có thể đi vào giấc ngủ một cách ngon lành, lại còn mơ một cách vô tư, phút sau đã choàng tỉnh dậy khẩn trương lên đưởng. Thế mới biết người quen lắng nghe và thực thi ý Chúa thì tâm hồn họ bình an chừng nào. Ta gọi đó là tâm tình phó thác. Nghe tưởng dễ, nhưng thực ra từ nghe lời Chúa đến thực hành lời Ngài là cả một khoảng cách không chỉ đo bằng thiện chí, mà còn bẳng nỗ lực không ngừng. Vất vả đường lưu lạc và bơ vơ nơi đất khách, đó là cái giá Giuse phải trả cho đời phó thác tin yêu.

 

Mùa Chay cũng là mùa cầu nguyện, là mùa bắc những nhịp cầu thiêng liêng dâng lên Thiên Chúa bằng những kinh nghiệm hằng ngày, nhưng cầu nguyện không chỉ là cầu kinh, nghĩa là đọc những kinh quen thuộc soạn sẵn trong sách toàn niên như thói quen đạo đức vốn được thực hiện trong các giáo đường, mà cầu nguyện còn là lắng đọng tâm hồn nhận ra ý Chúa mà đem ra thực hiện. Bằng một hình ảnh khá gợi ý, có tác giả tu đức bảo rằng : nhiều người chỉ quen chắp tay cầu nguyện mà không biết mở tay ra đón nhận ý Chúa. Trong ý hướng ấy, tinh thần cầu nguyện biết lắng nghe và thực thi ý Chúa của Giuse cũng là tinh thần cầu nguyện Mùa Chay cần có cho đời tín hữu.

 

Có lần một bạn trẻ tân tòng hỏi tôi phải làm những gì khi cầu nguyện, bởi anh không thuộc kinh như những giáo dân đạo gốc đạo dòng vốn đọc kinh từ khi còn bé, tôi hỏi xem anh đã làm gì khi đến nhà thờ. Anh cho biết : mỗi lần đến nhà thờ anh chỉ biết ngồi đực ra nghe : nghe đọc, nghe giảng, nghe hát. Thế thôi, Anh thích lắm nhưng không làm gì hơn được. Tôi bảo anh : tốt lắm, anh đã bắt đầu cầu nguyện rồi đấy, nhưng mới được một nửa, còn một nửa nữa anh có thể tự làm lấy không cần sách vở kinh kệ gì cả, đó là hãy sống những gì anh tâm đắc khi nghe được nơi giáo đường.Cứ nghe và thực hiện như thế, dần dần anh sẽ biết cách cầu nguyện cho mà xem. Qủa nhiên, sau này mỗi khi gặp lại tôi, anh đều xa gần nhắc lại : cách cầu nguyện như thế đã giúp anh sống đạo rất nhiều, nhất là nó đã giúp anh vượt qua được những nghịch cảnh không thiếu trong cuộc sống hiện tại, khi mà vẫn thấy đó đây cái cảnh dật dờ dắt díu dây dưa, đạo đời điên đảo đá đưa đôi đàng .

 

  1. Gọi Giuse là con người của Mùa Chay, còn vì ngài đã tận tuỵ quên mình phục vụ.

 

Qua cương vị là “bạn thanh sạch của Đức Maria trọn đời đồng trinh, có lẽ người ta chỉ  cảm nhận được một sự hiện diện nhạt nhòa của Giuse cặm cụi làm được mọi việc, trừ mỗi việc làm chồng, thế mà trên vai lại chất chồng không biết bao nhiêu  là trách nhiệm. Nhưng chính ở đó đã sáng lên hình ảnh của một con người tận tuỵ hy sinh. Đối với thánh nhân, làm là cách nói hay hơn cả. Không băn khoăn, chẳng dị ứng, ngài hết mình làm việc bổn phận được trao phó và hết tình gắn bó yêu thương để trở nên trụ cột không phải của một mái nhà che nắng trú mưa cho qua ngày đoạn tháng, mà là cột trụ của một mái ấm gia đình ở đó mọi thành viên đều cảm nhận được hạnh phúc an sinh.

 

Qua cương vị là “cha nuôi của Đấng Cứu Thế”, có lẽ người ta cũng chỉ thấy sự có mặt của một người đàn ông lủi thủi, phải cưu mang giọt máu chẳng phải của mình. Nhưng đó lại là ơn gọi lớn Giuse đã khẳng định được với tất cả ý thức trách nhiệm cao độ quên mình. Tất nhiên, không có Thánh Giuse vẫn có Chúa Giêsu, nhưng Chúa Giêsu ấy sẽ khác lắm, không có một gia đình đúng nghĩa, cũng chẳng được pháp luật chở che. Nhưng bởi vì đã có Thánh Giuse, nên Chúa Giêsu đã có nơi an toàn để mà lớn lên trước mặt Thiên Chúa và trước mắt người đời. Chính ở điểm này, hậu thế thích xưng tụng Thánh Giuse là người tận tuỵ canh giữ Đấng Cứu Thế, đúng như tên gọi một Tông huấn về Thánh Giuse của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II.

 

Thực ra thì Phúc Âm có gọi Thánh Giuse là người công chính, nhưng danh xưng đẹp nhất của thánh nhân chính là danh xưng đặt ngài trong tương quan với Chúa Giêsu và Đức Maria. Thành thủ, qua cương vị ”bạn thanh sạch Đức Maria” và “Cha nuôi Đấng Cứu Thế”, Thánh Giuse đã xuất hiện như một người tận tuỵ hy sinh quên mình phục vụ. Với tính cách ấy, ngài chính là con người của Mùa Chay, bởi Mùa Chay cũng là mùa phục vụ.

 

Tuần trước, ở một giáo xứ nhỏ mới tách ra khỏi giáo xứ mẹ được vài tháng, thấy hầu hết những người trong ban đại diện đều là người trẻ độ 30, tôi ngẫu hứng nói đến tính cách trẻ của yếu tố nhân sự trong Giáo hội.Sau đó, một người trẻ chia sẻ lại với tôi rằng; anh góp mặt trong ban hành giáo không nhắm đến một quyền lợi nào trong tôn giáo cả, mà chỉ muốn đóng góp cùng với người khác một chút gì đó gọi là phục vụ. Bởi anh hiểu phục vụ không phải là nói mà là làm ; phục vụ không phải là làm vì mình, mà là làm cho người khác, rồi phục vụ không phải là làm để cho người khác biết, mà là chỉ để một mình Chúa biết thôi. Tôi lưu ý anh: coi chừng, khi nhấn mạnh đến phục vụ như thế là dấu cho biết mình vật lộn để có tinh thần phục vụ ấy.Anh thú nhận rằng đúng, và bảo rằng đó là điều anh phải chọn lại mỗi ngày. Tôi bỗng hiểu ra : quên mình chính là điều kiện tiên quyết cho phục vụ, và phục vụ có ý nghĩa nhất là phục vụ khởi đi từ sự quên mình. Như Thánh Giuse đã quên mình, như Thánh Giuse đã phục vụ Đấng Cứu Thế.

 

Tóm lại, im lặng, nghe và thực thi Lời Chúa, đồng thời quên mình để phục vụ. Đó là 3 đức tính làm nên một Giuse, con người của Mùa Chay.

 

Trong một thành phố lớn khá ồn ào như Sài Gòn đây, có là lạc điệu không khi nói đến sự tĩnh lặng. Trong một nhịp sống kinh tế nhốn nháo thời hội nhập có đầy đủ gió đông gió tây ùa vào, vàng thau lẫn lộn, như một mời mọc giới trẻ, có là lỗi điệu không khi đề cao việc lắng nghe và thực thi Lời Chúa. Và cuối cùng, trong một bầu khí cạnh tranh thi thố khả năng, qua đó người tài mới được tuyển dụng, còn phó thường dân nam bộ chỉ biết cặm cụi ngày 2 buổi đến xưởng đến trường, có là đơn điệu không khi nhà thờ lại cứ thích kêu gọi sống tinh thần phục vụ.

 

Những câu hỏi ấy và những câu tương tự có thể do người khác hay do tự ta đặt ra với mình, luôn luôn là những trăn trở gợi mở suy tư và gọi mời chọn lựa. Không có câu trả lời soạn sẵn, như những người thi vào quốc tịch Mỹ, chỉ cần nhấn nút cuốn Kim Tự Điển là gặp thấy đáp án, rồi ráng học thuộc lòng là xong, Vâng, không có giải pháp làm sẵn, nhưng bù vào đó vẫn có những mẫu gương, những kinh nghiệm, và Thánh Giuse chính là một  trong số những mẫu gương gần gũi bình dị ấy.

 

Thật vậy, đặt ngài trong tương quan với tiếng gọi Mùa Chay, người ta sẽ thấy Giuse như một mẫu gương đời thường khiến ta sẵn sàng noi theo soi bóng, như một kẻ đồng hành  dầy dạn kinh nghiệm sẵn sàng chỉ bảo cho ta phương cách hữu hiệu để sửa chữa đổi đời, và còn hơn thế nữa, như một Vị bổn mạng đầy thế lực sẵn sàng chuyển cầu cho ta trong những tình huống khó khăn gay cấn nhất của sức khoẻ linh hồn.

 

Xin nhờ kinh nghiệm của ngài ngày xưa đã thành công trong trách vụ canh giữ Đấng Cứu Thế, ngày nay cũng nâng đỡ phù trợ mọi người trong nhiệm vụ gìn giữ Đấng Cứu Thế trong chính cuộc đời ta và cuộc đời những người lân cận, có thể không bằng cánh tay ở phía trước, nhưng rất thường là bàn tay âm thầm phía sau cho ta được nâng đỡ thôi thúc  vững vàng đi lên

 

Xin Thánh Giuse cầu cho chúng con biết sống Mùa Chay trọn vẹn như ngài. Amen.

 

 

ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống

Mục lục

 

LỊCH SỬ NGÀY QUỐC TẾ GIỚI TRẺ

 

1984 : Nhân dịp Năm Thánh Cứu Độ kỷ niệm 1.950 năm biến cố Cứu Độ (= cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu-Kitô, cử hành từ 25/3/1983 đến 22/4/1984), ở Roma đã có cuộc gặp gỡ Bạn Trẻ quốc tế vào ngày Chúa Nhật Lễ Lá 1993. Ngày lễ Chúa nhật Phục Sinh, 22/4 kết thúc Năm Thánh, Đức thánh cha trao cho các Bạn Trẻ cây Thánh Giá,[1][1] với lời nhắn nhủ : “Các Bạn Trẻ thân yêu, cha chào mừng các con nhân dịp kỷ niệm Năm Thánh. Cha tin tưởng trao vào tay các con dấu chỉ của Năm Thánh này : cây Thánh Giá Chúa Giêsu Kitô. Các con hãy mang cây Thánh Giá này đi qua mọi đất nước trên địa cầu. Cây Thánh Giá là dấu hiệu tình yêu Chúa Giêsu Kitô cho con người và hãy loan truyền : chỉ qua sự chết và sống lại của Chúa Giêsu-Kitô, chúng ta mới tìm thấy được ơn cứu độ và sự giải thoát”.

1985 : Cuộc gặp gỡ các Bạn Trẻ quốc tế ngày Chúa Nhật lễ lá, nhân dịp Năm thế giới dành cho người Trẻ. Ngày 31.3.1985 Đức thánh cha gửi tới giới trẻ toàn cầu bức tông thư “Các bạn thương mến – Dilecti Amici” và ngày 20.12.1985 ngài loan báo quyết định thành lập tổ chức Ngày Quốc Tế Giới Trẻ.

Ngày Quốc tế giới trẻ hằng năm được tổ chức tại Giáo Hội địa phương vào dịp Lễ Lá, nhắc lại việc các bạn trẻ đón rước Chúa vào đền thánh Giêrusalem. Trong dịp này Đức thánh cha luôn gửi cho người trẻ một sứ điệp. Ngoài ra, cứ hai hay ba năm một lần, những người trẻ được mời gọi họp mặt với Đức Giáo Hoàng tại một thành phố do Ngài ấn định, thường tổ chức trong một tuần vào dịp hè.

1986 : Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em” (1Pr 3,15).

1987 : Chúng ta đã nhận biết và tin vào tình yêu của Thiên Chúa giữa chúng ta” (1Ga 4,16). Đại Hội Giới Trẻ tổ chức tại Buenos Aires, Argentina từ 11-12 tháng Tư 1987 với khoảng 1.000.000 bạn trẻ tham dự.

1988 : Anh em hãy làm những gì Ngài bảo” (Ga 2,5).

1989 :Thầy là thân cây nho, anh em là cành nho” (Ga 15,5). Ngày Đại Hội Giới Trẻ tổ chức tại Santiago de Compostela, Tây Ban Nha, từ 15-20 tháng Tám 1989 với 500.000 bạn trẻ tham dự.

1990 : “Thầy là thân cây nho, anh em là cành nho” (Ga 15,5).

1991 : Anh em đã tiếp nhận Chúa Thánh Thần, Đấng làm cho anh em nên con cái Thiên Chúa” (Rm 8,15). Đại Hội Giới Trẻ tổ chức tại Czestochawa, Ba Lan từ 10-15 tháng Tám 1991, với trên 1.500.000 bạn trẻ.

1992 : “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15)

1993 : Thầy đến, để anh em có được sự sống dồi dào” (Ga 10,10). Đại Hội Giới Trẻ tổ chức tại Denver, USA, từ 10-15 tháng tám, với 5000.000 bạn trẻ dự.

1994 : Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con như vậy” (Ga 20,21)

1995 : “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con như vậy” (Ga 20,21). Đại Hội Giới Trẻ tổ chức tại Manila, Philuật tân từ 10-15 tháng Giêng với 4.000.000 bạn trẻ.

1996 : Thưa Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai ? Thầy có Lời hằng sống” (Ga 6,68)

1997 : Thưa Thầy, Thầy ở đâu ? Hãy đến mà xem !” (Ga 1,38-39). Đại Hội Giới Trẻ tổ chức tại Paris, Pháp từ 19-24 tháng tám, với 1.000.000 bạn trẻ tham dự nhân năm kỷ niệm 100 năm ngày thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu qua đời. Vào ngày bế mạc Đại Hội, Đức thánh cha tuyên bố sẽ tôn thánh Têrêsa Hài Đồng là Tiến sĩ Hội Thánh.

1998 : Chúa Thánh Thần sẽ dạy anh em mọi điều” (Ga 14,26).

1999 : Chúa Cha yêu mến các con !” (Ga 16,27).

2000 : Ngôi Lời đã làm người phàm và cư ngụ ở giữa chúng ta” (Ga 1,14). Đại Hội Giới Trẻ tổ chức tại Roma, Ý từ 15-20 tháng Tám, trong bầu khí hân hoan của Đại Năm Thánh 2.000, với trên 2.000.000 bạn trẻ.

2001 : “Ai muốn làm môn đệ Thầy hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Thầy !” (Lc 9,23).

2002 : Anh em là muối đất, là ánh sáng trần gian” (Mt 5,13-14). Đại Hội Giới Trẻ tổ chức tại Toronto, Canada, từ 23-28 tháng bảy với gần 1.000.000 bạn trẻ.

2003 : “Đây là Mẹ con” (Ga 19,27).

2004 : “Chúng tôi muốn gặp Chúa Giêsu” (Ga 12,21).

2005 : “Chúng tôi đến thờ lạy Người” (Mt 2,2). Đại Hội Giới Trẻ tổ chức tại Colonia (Koeln), Đức quốc, từ 16-21 tháng Tám, với trên 1.000.000 bạn trẻ. Đức thánh cha Bênêđictô XVI tiếp nối tinh thần của Cố Giáo hoàng đáng kính Gioan-Phaolô khi ngỏ lời với các bạn trẻ ngày 20/4/2005 : “Tôi đặc biệt nghĩ đến GIỚI TRẺ, là những người đã được Đức Cố Giáo Hoàng Phaolô II đặc biệt lưu tâm đối thoại với họ. Tôi gửi đến các bạn trẻ lòng âu yếm mến thương... Tôi muốn tiếp tục đối thoại với các bạn, lắng nghe các ước vọng của các bạn, trong niềm hy vọng tôi sẽ giúp được các bạn gặp gỡ Chúa Kitô luôn sống động và trẻ trung...

2006 : “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi(Tv 119,105).

2007 : “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em (Ga 13,34).

2008 : “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Và anh em sẽ là chứng nhân của Thầy (Cv 1,8). Đại Hội Giới Trẻ tổ chức tại Sydney, Australia, từ 15-20 tháng Bảy, dự trù có trên trên 1.000.000 bạn trẻ.  

Lời Nguyện Đại hội Giới Trẻ Thế Giới 2008

Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, chúng con xin dâng hiến Ngày Giới Trẻ Thế Giới năm 2008 ở Sydney cho Cha. Xin Cha hướng dẫn và gìn giữ Đức Giáo Hoàng Bênêđictô và các vị lãnh đạo Giáo Hội. Xin Cha linh ứng và dẫn dắt tất cả những người đang điều khiển và hoạch định Ngày Giới Trẻ Thế Giới. Xin Cha bảo vệ và nối kết họ lại với lòng săn sóc nhân từ của Cha. Amen

Lạy Chúa Giêsu Kitô, trước khi Chúa về trời với Chúa Cha, Chúa hứa sẽ sai Chúa Thánh Thần đến giúp chúng con trở nên chứng nhân đến tận cùng trái đất. Xin Chúa chúc lành và làm tăng thêm nhiều những cố gắng của ban tổ chức và các thiện nguyện viên. Xin Chúa giúp chúng con vác lấy Thánh Giá và theo Chúa dưới dấu hiệu ngôi sao trên trời. Amen

Lạy Chúa Thánh Thần, xin Chúa đổ tràn ơn thánh trên Vùng Đất Miền Nam bao la nầy và ban cho chúng con một Lễ Hiện Xuống Mới. Xin làm cho vùng đất này trở nên nơi đích thực đón mừng những người trẻ trên toàn thế giới. Xin ban cho những người trẻ đến đây được quay về cuộc sống chân thực, được có một đức tin sâu xa hơn và thương yêu tất cả mọi người. Xin củng cố họ xây dựng một nền văn minh mới về con người, tình yêu và sự thật. Xin làm cho họ trở nên nhân chứng đích thực cho quyền năng và ân sủng của Ngài. Amen

Đức Bà là Ngôi Sao Sáng – Cầu cho chúng con.

Đức Bà Phù Hộ các Giáo Hữu – Cầu cho chúng con.

Chân Phước Mary MacKillop – Cầu cho chúng con.

 

SỨ điỆp Công ĐỒng Vaticanô II gỬi GiỚi TrẺ

do Hồng Y G. Agagianian tuyên đọc lúc bế mạc (8/12/1965) :

Sau hết, Công Ðồng muốn gửi cho các bạn thanh niên và thiếu nữ toàn thế giới bức sứ điệp sau cùng vì chính các bạn sắp được nhận lấy ngọn đuốc từ tay phụ huynh và sẽ sống trong thế giới vào lúc diễn ra những biến đổi vĩ đại nhất của lịch sử. Chính các bạn, trong khi thừa hưởng phần tốt nhất của gương sáng và giáo huấn nơi cha mẹ cũng như thầy dạy, các bạn đang tiến tới việc kiến tạo xã hội ngày mai: các bạn sẽ tự cứu được mình hay sẽ bị tiêu diệt cùng với xã hội ấy.

Ròng rã bốn năm qua, Giáo Hội đã làm việc để làm trẻ lại khuôn mặt mình, sao cho mỗi ngày một phù hợp với ý định của Ðấng sáng lập, Ðấng Hằng Sống Cao Cả là Chúa Kitô muôn đời trẻ trung. Vào phút chót cuộc "duyệt lại đời sống" quan trọng này, Giáo Hội hướng về các bạn. Chính cho những người trẻ các bạn, phải, đặc biệt cho các bạn mà Giáo Hội qua Công Ðồng vừa thắp lên một ánh sáng: ánh sáng soi cho tương lai, tương lai đời các bạn.

Giáo Hội lưu tâm muốn cho xã hội các bạn sắp thiết lập biết tôn trọng phẩm giá, tự do, quyền lợi của con người, cũng là chính con người các bạn.

Giáo Hội đặc biệt lưu tâm làm sao cho xã hội này sẽ để cho cái kho tàng luôn luôn cổ kính và luôn luôn mới mẻ là đức tin được nảy nở, và sao cho tâm hồn các bạn có thể tự do tắm gội trong ánh sáng tốt lành của nó. Giáo Hội tin tưởng rằng : các bạn sẽ gặp được một sức mạnh và một niềm vui lớn lao đến độ các bạn sẽ không bị quyến rũ như một số đàn anh, buông mình theo những triết thuyết ích kỷ và khoái lạc, thất vọng và hư vô, đồng thời đứng trước chủ nghĩa vô thần, hiện tượng của suy nhực và già cỗi, các bạn có thể củng cố lòng mình tin tưởng ở đời và tin chân lý làm cho đời sống có một ý hướng : đó là xác tín có một Thiên Chúa công bình và tốt lành.

Chính nhân danh Thiên Chúa và Con Ngài là Chúa Giêsu, chúng tôi khuyên các bạn hãy mở rộng tâm hồn ra tới mọi chiều hướng của thế giới, lắng nghe tiếng gọi của các anh em và đem những nghị lực trẻ trung ra phục vụ cho họ.

Hãy chiến đấu chống mọi ích kỷ. Hãy chống lại, đừng tự buông thả theo các bản năng hung bạo và hận thù, là mầm mống gây nên chiến tranh và biết bao điều khốc hại khác. Xin hãy đại độ, trong sạch, kính cẩn và chân thành. Xin hãy đem nhiệt huyết ra xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn cái thế giới của đàn anh các bạn !

Giáo Hội nhìn đến các bạn với lòng đầy tín cẩn và yêu thương. Vốn mang một dĩ vãng lâu dài và hằng sống động trong mình đồng thời luôn luôn đi tới sự hoàn thiện nhân loại qua thời gian cũng như vừa tiến tới những chân trời sau cùng của lịch sử và sự sống. Giáo Hôi là sự trẻ trung đích thực của thế giới. Giáo Hội mang vốn liếng làm nên sức mạnh và vẻ đẹp của tuổi trẻ: đó là khả năng biết hoan hỉ trước những gì mới bắt đầu, biết cho đi mà không mong trả lại, biết tự đổi mới và ra đi tìm những chinh phục mới. Xin hãy nhìn Giáo Hội và các bạn sẽ khám phá ra khuôn mặt Chúa Kitô, vị anh hùng chân chính, khiêm tốn và khôn ngoan, vị ngôn sứ của chân lý và tình yêu, là bạn đường và bạn thân của người trẻ. Nhân danh chính Chúa Kitô chúng tôi chào thăm, khuyên nhủ và chúc lành cho các bạn.

 

KINH CỦA NGƯỜI TRẺ

(Lời kinh này do Đức cố Giám mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm soạn cho giời trẻ Đàlạt năm 1993, với nhiều gợi ý Kinh thánh, để các bạn có thể tiếp tục cầu nguyện)

 

LẠy Chúa Giêsu-Kitô,

Chúa đã sống tuổi trẻ như chúng con (x. Lc 2,40.51t) – và đã gọi ngay nhiều người trẻ đến ở với Chúa – khi Chúa vào đời (Ga 1,35tt //) : – Chúa cùng họ rảo hết các xóm làng (Mt 4,23tt) – trèo lên những ngọn núi cao (Mt 5,1) – nhiều lần gặp sóng gió trên biển hồ (Lc 8,22-25 //) – Chúa dạy họ cầu nguyện (Mt 6,5tt)–  để đón nhận mạc khải của Chúa Cha (Mt 11,25-27)– và sai họ đem bình an đến cho mọi nhà (Lc 10,5) ; – rồi tuôn đổ Thánh Thần xuống trên họ (Ga 20,22) – Chúa sai nhóm trẻ đi xây dựng Giáo Hội và thế giới mới (Ga 20,21 ; Mt 28,19t) – trên nền tảng Tin Mừng và Tình Yêu của Chúa.

Xin cho người trẻ chúng con hôm nay – biết đón nhận ánh mắt yêu thương của Chúa (Mc 10,21) – bảo nhau đến với Chúa (Ga 1,42.46) – và trở thành người môn đệ Chúa yêu (Ga 13,23 ; 19,26 ; 20,2) ; – xin thuật lại cho chúng con các dụ ngôn về người trẻ (Mt 13,18tt ; 44tt) – để chúng con không bỏ nhà (Lc 15,13) – khiến cha già phải nhớ thương (Lc 15,20), – nhưng chúng con phải sử dụng tài năng (Mt 25,14tt) – với tinh thần tỉnh thức và khôn ngoan (Mt 25,1tt ; ; – xin đào tạo chúng con – như nhóm trẻ ban đầu của Chúa (Mt 13,10-11 ; – để các đôi bạn trẻ – luôn hân hoan vì rượu mới Chúa ban (Ga 2,1tt) – và để nhiều người trẻ khác – tiếp tục sứ mạng cứu thế – với sức mạnh của Chúa Thánh Thần – hầu nhiều người được sống – và được sống dồi dào (Ga 10,10). A-men.

 Trần Tâm (sưu tầm)

Mục lục

VUA CỦA TÔI LÀ AI?

Nước Sở có người họ Hoà, được một hòn ngọc ở trong núi, đem dâng Lê Vương. Vua sai thợ ngọc xem. Thợ ngọc nói : “Đá, không phải ngọc”. Vua cho họ Hoà là nói dối, sai chặt chân trái.

Đến khi Vũ vương nối ngôi, người họ Hoà lại đem ngọc đến dâng. Vua sai thợ ngọc xem. Thợ ngọc nói : “Đá, không phải ngọc”. Vua lại cho họ Hoà nói dối, sai chặt nốt chân phải.

Đến khi Văn Vương lên ngôi, người họ Hoà ôm hòn ngọc, khóc ở chân núi Sở Sơn suốt ba ngày ba đêm đến chảy máu mắt ra. Vua thấy thế, sai người đến hỏi. Người họ Hoà thưa : “Tôi khóc không phải là thương hai chân tôi bị chặt, chỉ thương về nỗi ngọc mà cho là đá, nói thật mà cho là nói dối”.

Vua bèn sai người xem lại cho rõ kỹ, thì quả nhiên là ngọc thật, mới đặt tên gọi là “Ngọc bích họ Hoà”. (Cổ học tinh hoa)

“Ngọc mà cho là đá” chỉ nói lên phần nào cái bóng tối luôn che lấp sự thật trong lịch sử nhân loại. Đức Kitô bị đóng đinh bởi những người muốn chống lại sự thật, muốn lên án trước khi xét xử : “các thượng tế và toàn thể Thượng Hội đồng thì tìm chứng gian buộc tội Đức Giêsu để lên án tử hình”; bởi những người không muốn tìm sự thật, chỉ biết làm theo những lời xúi giục của các thượng tế và kỳ mục : “Tổng trấn lại nói : ‘Thế ông ấy đã làm điều gì gian ác?’ Họ càng la to : Đóng đinh nó vào thập giá”.

Lời Chúa trong ngày Lễ Lá trình bày Đức Kitô dưới hai dung mạo để mời gọi mỗi người xét lại niềm tin của mình : có phải đó là niềm tin tinh tuyền dẫn đến ơn cứu độ và hạnh phúc thật, hay là niềm tin bị che phủ bởi vinh quang trần thế, niềm tin của người hôm qua đón mừng Đức Kitô vinh hiển với những lời tung hô mà hôm nay chối bỏ ngay khi thấy Đức Kitô chịu đóng đinh,“kẻ qua người lại đều nhục mạ Người”.

Tiếng reo vang đón rước Đức Kitô của họ là sự lập lại lời tung hô của những người rước con bê vàng hôm xưa trong sa mạc, chúa của họ là những tham vọng trần thế. Họ không phải là những ai xa lạ, họ đi theo Đức Kitô, nhưng trong lời tung hô của họ văng vẳng tiếng nài xin của ngay cả những người thân cận nhất của Đức Kitô : "Xin Thầy truyền cho hai con tôi đây, một người ngồi bên hữu, một người bên tả Thầy trong Nước Thầy." (Mt 20,21).

Nhưng sao Chúa không đến thế gian để hiển trị, mà lại vác thập giá?

ĐHY Fulton Sheen, trong lời nói đầu cuốn “Linh mục thời đại mới” đã viết : “trong quyển này chúng tôi sẽ cố gắng chứng minh rằng Chúa đến thế gian không phải để sống, nhưng để chết. Chết để cứu chúng ta, đó là mục đích Người đeo đuổi trong kiếp sống tạm bợ nơi trần gian”.

Thời Salômôn, có hai bà mẹ đem đến nhà vua một đứa bé để xin được phân xử. Bà nào cũng nhận đó là con mình mà chẳng có chứng cớ gì cả.

Để biết ai là người mẹ thật, nhà vua ra lệnh chia đứa trẻ còn sống ra làm hai, cho mỗi người một nửa.

Bấy giờ người mẹ thật của đứa trẻ, động lòng thương con mình, liền thưa với vua : "Ôi! thưa chúa thượng tôi, xin ngài cho chị ấy đứa trẻ còn sống; còn giết chết nó, thì xin đừng!”

Tình yêu sẵn lòng chịu thua thiệt đã cho biết ai là mẹ thật.

Còn Đức Kitô … Người “đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,7-8). Cái chết, và sự tự hạ đến tận cùng vì yêu là bằng chứng cho tiếng nói và sự sống mãnh liệt của Thiên-Chúa-là-tình-yêu nơi Đức Kitô.

Thập giá là nơi ngôi vị Thiên Chúa trong Đức Kitô chia sẻ cách triệt để nhất cái thân phận khốn cùng của con người, và cũng là nơi bản tính con người của Ngài sống cách mãnh liệt nhất sự sống của Thiên-Chúa-là-tình-yêu.

Chết vì yêu là sức mạnh của Đức Kitô. Vì thế, ngày chịu đóng đinh cũng là ngày Đức Kitô bắt đầu vương quyền Nước Trời với lời tuyên tín của viên đại đội trưởng : “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa”.

Thập giá Đức Kitô là Tin Mừng cho con người vì đó chính là nơi phận người yếu hèn nhìn biết rằng niềm tin vào tình yêu Chúa là chỗ dựa vững vàng cho đời mình.

Vì thế, dù ở giữa trăm ngàn gian truân đau khổ, người tin vào Chúa vẫn tìm được bình an : “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Có đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng”.

Trên thập giá, Đức Kitô mặc khải về Nước Trời, trong đó hạnh phúc được Vua Giêsu đem đến cho những ai tin và đáp lại tình yêu Thiên Chúa. Thập giá cho tôi thấy tình yêu bao la mà Chúa dành cho tôi, và chỉ ra phương thế duy nhất mà tôi, trong bản tính con người này, có thể sống sự sống của Chúa một cách hoàn hảo nhất.

Nhưng đâu là Vua của tôi? Tôi tôn thờ và tìm kiếm Đức Kitô được chào đón hay Đức Kitô chịu đóng đinh?

           

Lm. HK

Mục lục

TĨNH TÂM GIA TRƯỞNG GIÁO PHẬN PHÚ CƯỜNG

 

CHA MẸ LÀ THẦY DẠY ĐẦU TIÊN

Theo tinh thần TC/HĐGMVN 2007

 

Dẫn nhập:

Kính thưa Quý vị Gia trưởng, Lễ Kính Thánh Giuse Bạn Trăm Năm Đức Trinh Nữ Maria, bổn mạng của giới gia trưởng Giáo phận chúng ta năm nay, lại trùng vào ngày Thứ Tư Tuần Thánh; vì thế Giáo Hội cho phép chúng ta mừng kính Ngài sớm hơn thường lệ, và do đó ban tổ chức đã chọn ngày Chúa Nhật V Mùa Chay này như là một dịp thuận tiện, gợi hứng cho chúng ta nhiều điều hay của tinh thần Mùa Chay.

Cũng nhân vì năm nay, là năm mà GHVN chọn chủ đề: “Giáo dục hôm nay, xã hội và Giáo Hội ngày mai” làm trọng tâm hoàn thiện chính mình và hoàn thiện các thế hệ con em của chúng ta trong tương lai. Là người Kitô giáo, chúng ta ý thức việc giáo dục đầu tiên và cấp bách nhất, đó chính là giáo dục đức tin. “Vì khi giáo dục đức tin, Giáo Hội cũng nhắm đến giáo dục con người toàn diện” (TC/HĐGMVN 2007, số 33).

Do trách nhiệm giáo dục đức tin thuộc về mọi người Kitô hữu; cho nên, có nhiều lý do đổ vào đầu người gia trưởng một trách nhiệm cao hơn, bởi vì họ là đầu gia đình, thông thường là bậc làm ông bà - cha mẹ, do đó người gia trưởng phải là người thầy dạy đầu tiên, nơi một mái trường đầu tiên. (x. TC/HĐGMVN 2007, số 26 và 28)

Trong khuôn khổ bài này, tôi xin trình bày đôi nét về sứ mạng giáo dục gia đình Kitô giáo theo tinh thần của TC/HĐGMVN 2007.

i.- gia đình Kitô giáo, MỘT GIA ĐÌNH ĐỨC TIN

Hãy dạy cho trẻ thơ con đường chúng phải theo, để khi về già, chúng cũng không lìa bỏ” (Cn 22,6).

Với tình thương chan chứa, Thiên Chúa vô hình đã ngỏ lời với loài người như bạn hữu. Ngài đối thoại với chúng ta và đón nhận chúng ta hiệp nhất với Ngài (x. MK 2). Vì thế, “tin” chính là đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa bằng tiếng “xin vâng” và bằng thái độ vâng phục Thiên Chúa (x. Rm 16,26). Lịch sử Hội Thánh cũng chứng minh cho chúng ta rất nhiều mẫu gương tùng phục nhờ đức tin như của tổ phụ Abraham, các Ngôn sứ, Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse và các Thánh.

Thánh Âu Tinh dẫn chứng về điều này rằng: “Nếu mặc khải là con đường Thiên Chúa đến với con người, thì đức tin là con đường con người đến với Thiên Chúa, là sự đáp trả của con người trước tiếng gọi của Thiên Chúa”. Chỉ có đức tin mới bảo đảm những gì ta hy vọng và là bằng chứng cho những điều ta không thấy (x. Dt 11,1). Vì thế, chúng ta hãy xây dựng đời mình trên nền tảng đức tin và hãy cầu nguyện nhờ Chúa Thánh Thần trợ giúp (x. Gđ 20).

Vậy, để tìm hiểu sâu hơn về lãnh vực đức tin, chúng ta cần biết đức tin là gì?, và tiến trình diễn tiến của đức tin trải qua những bước nào? và cuối cùng là công hiệu của đức tin.

II.-ĐỨC TIN LÀ GÌ?

"Ðức tin là hông ân Thiên Chúa ban và là hành vi tự do của con người, để con người đáp lại lời mời gọi của Chúa và chấp nhận mọi lời Chúa dạy bảo" (Bản toát yếu GLGHCG, số 28). Do đó, đức tin đến với con người từ hai phía: phía Thiên Chúa (gọi là ơn siêu nhiên) và phía con người (gọi là hành vi nhân linh).

1. Ơn siêu nhiên, từ nơi Thiên Chúa:

Đức tin trước hết là hồng ân Thiên Chúa ban, ví như Ngài đã đi bước trước để: thúc đẩy, mở trí, mở lòng và quy hướng con tim dịu hiền của chúng ta về cùng Thiên Chúa và tin theo những chân lý của Ngài (x. MK 5). Tuy nhiên, không phải ai cũng có đức tin (x. 2Tx 3,2), hoặc đức tin của người này không thể so sánh ngang hàng với người khác được, vì mỗi người có một lượng đức tin tùy theo sự phân phát của Thiên Chúa (x. Rm 12,3).

Vì thế, để có đức tin, chúng ta cần phải cầu xin Chúa với lòng thành tín khiêm nhu, như gương các Tông đồ xưa đã xin cùng Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con" (Lc 17,5).

2. Hành vi nhân linh, từ phía con người:

Tin còn là hành vi tự do của con người, vì Thiên Chúa tôn trọng phẩm giá con người do chính Ngài tạo nên, con người ấy phải được tự do và được hướng dẫn theo chính phán đoán của mình. (x. Tuyên ngôn về tự do Công Đồng II, số 11)

Vì thế, đức tin là một nhân đức có thể thụ huấn, rèn luyện và nâng cấp nhờ nỗ lực của con người, như có lần Thánh Phaolô khuyên bảo các Kitô hữu “Anh em hãy bén rễ sâu và xây dựng đời mình trên nền tảng là Đức Kitô Giêsu, hãy dựa vào đức tin mà anh em đã được thụ huấn, và để cho lòng chan chứa niềm tri ân cảm tạ” (Cl 2,7).

III.- TIẾN TRÌNH ĐỨC TIN

1. Mạc khải đức tin

Chỉ với ánh sáng của lý trí, con người sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc nhận biết Thiên Chúa. Hơn nữa, tự mình, con người không thể nào bước vào mầu nhiệm sâu thẳm của Thiên Chúa. Vì thế, Thiên Chúa đã muốn soi dẫn con người bằng cách mặc khải cho họ… (x. Bản toát yếu GLGHCG, số 04). Như khi Tông đồ Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, thì Đức Giêsu nói ngay rằng: “không phải do người phàm mà anh nói được điều ấy, nhưng là nhờ Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời đã mặc khải cho” (Mt 16,17).

Thiên Chúa với lòng nhân hậu và sự khôn ngoan, Ngài đã tự mặc khải chính mình cũng như ý định yêu thương và cứu độ nhân loại. Qua các biến cố và lời nói đã được hoạch định muôn đời trong Đức Giêsu Kitô. Ý định này nhằm đón nhận tất cả mọi người trở thành nghĩa tử trong Người Con duy nhất của Ngài nhờ ân sủng Chúa Thánh Thần và cho họ được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa. Vì thế, mà thư Dothái có chép rằng: “Thuở xưa, nhiều lần và nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cho cha ông chúng ta qua các Ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1,1-2). Chính vì lẽ đó mà các sách Tin Mừng, đặc biệt hơn là Tin Mừng Thánh Gioan đã minh chứng rằng: có nhiều kẻ tin vào danh Người (Đức Giêsu Kitô) bởi đã chứng kiến các dấu lạ Người làm (x. Ga 2,23).

2. Rao truyền đức tin:

Đức tin được Thiên Chúa mặc khải, để ai tin và thi hành đức tin thì sẽ được cứu rỗi. Vậy, nguồn đức tin ấy phải được bảo tồn nguyên vẹn tinh tuyền và lưu truyền lan rộng đến tất cả mọi người, mọi nơi, mọi thời…

Bổn phận ấy, gia sản ấy được ủy thác cho toàn thể Hội Thánh; nghĩa là cho hàng Giáo phẩm và cho tất cả Dân Thiên Chúa, trong đó các Giám mục và Tín hữu hiệp nhất với nhau cùng tuân giữ, thực hành và tuyên xưng đức tin lưu truyền (x. MK 10). Như lời Thánh Phaolô, chúng ta cũng có thể nói: “Có đức tin là nhờ nghe giảng” (Rm 10,17) và nghe giảng là để khơi dậy đức tin. (x. Rm 10,8)

Vậy, khi Hội Thánh trình bày niềm tin của mình, thì cũng chính là Hội Thánh trình bày biến cố lịch sử cứu độ, đặc biệt là cuộc đời và lời giảng dạy của Đức Kitô, dưới ánh sáng của mầu nhiệm tử nạn và phục sinh (x. 1Pr 3,15; Tt 1,2). Do đó, trong ngày lãnh phép rửa tội, chúng ta được hỏi: “Con xin gì cùng Hội Thánh?” Và chúng ta trả lời: “Thưa con xin đức tin… Đức tin đem lại cho con sự sống đời đời”.

Có đức tin chưa đủ, còn phải sống đức tin nữa, vì “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,26). Hay nói cách khác, như trong thư Thánh Phaolô gửi cho người con thiêng liêng và cũng là cộng sự của ông rằng: “Ai không chăm sóc người thân, nhất là người sống trong cùng một nhà, thì đã chối bỏ đức tin, và còn tệ hơn người không có đức tin” (1Tm 5,8).

3. Sống đức tin:

Tuy đức tin là do Chúa ban, nhưng cũng có thể bị sa sút hay bị mất hết, nếu chúng ta không học hỏi, bồi dưỡng hay rèn luyện. Nói rõ hơn, để sống đức tin, chúng ta phải sống đời cầu nguyện: “Tất cả những gì anh em lấy lòng tin mà xin khi cầu nguyện, thì anh em sẽ được" (Mt 21,22); ngoài đời sống cầu nguyện, Hội Thánh còn có nguồn lương thực thiêng liêng nuôi sống đức tin bằng việc siêng năng lãnh nhận các bí tích, tuân giữ các giới răn và sống đời chứng nhân gương mẫu như lời dạy của Thánh Phêrô Tông đồ: “Hãy đem tất cả nhiệt tình, làm sao để khi đã có lòng tin thì có thêm đức độ, có đức độ lại thêm hiểu biết, có hiểu biết lại thêm tiết độ, có tiết độ lại thêm kiên nhẫn, có kiên nhẫn lại thêm đạo đức, có đạo đức lại thêm tình huynh đệ, có tình huynh đệ lại thêm bác ái...”  (2Pr 1,5-7).

IV.-CÔNG HIỆU CỦA ĐỨC TIN

Nếu nói về công hiệu của đức tin, thì tôi xin mượn kiểu nói giống như Thánh Gioan mà xác tín rằng: “công hiệu của đức tin nhiều vô kể, chẳng thể viết cho cùng” (x. Ga 21,25). Tuy nhiên, tôi xin nêu lên đây một vài công hiệu thật chính đáng để chúng ta cùng lưu tâm:

1. Đức tin củng cố các nhân đức khác:

-Đức tin củng cố đức mến: Nhờ lòng tin vào Thiên Chúa, được Chúa Kitô ngự trong tâm hồn; chúng ta được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc thêm tình thương mến (x. Ep 3,17). Và nếu có điều kiện hay thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người, nhất là cho những anh em trong cùng đại gia đình đức tin (x. Ga 6,10), như tinh thần mời gọi của Thư Mục Vụ HĐGMVN 2006: Sống đạo hôm nay, chính là sống đức tin, yêu thương và phục vụ mọi người.

-Đức tin phát triển và biểu lộ đức cậy: Nhờ đức tin, biết bao người đã biến gian nan, thử thách thành cơ hội đợi chờ và phó thác vào Thiên Chúa là nguồn hy vọng, niềm vui và bình an (x. Rm 15,13; Gl 5,5). Đứng trước khó khăn thử thách, Thánh Phanxicô Khó Nghèo đã khẳng định đức tin và đức trông cậy rằng: “Phần thưởng tôi đang trông đợi thật cao trọng vô giá, cao trọng đến nỗi tôi coi các gian khổ đời này là sung sướng”. Và như Thánh Vinh Sơn Phaolô quả quyết: “Chúng ta càng trông cậy Chúa bao nhiêu, chúng ta càng tin kính càng yêu mến Chúa bấy nhiêu”.

-Đức tin phát huy đức can đảm: Ngay từ ngày đầu của Giáo Hội, các Tông đồ và những Tín hữu đã biết phát huy đức can đảm vượt khó nhờ đứng vững trong đức tin kiên cường (x. 1Cr 16,13); luôn luôn cầm khiên mộc là đức tin, nhờ đó họ có thể dập tắt mọi tên lửa của ác thần (x. Ep 6,16); và điều làm cho chúng ta thắng được thế gian, đó là lòng tin của chúng ta, Dù cho: “Ai phải đi đày thì đi đày, ai phải chết vì gươm thì sẽ chết vì gươm. Đây là lúc dân thánh cần phải có lòng kiên nhẫn và đức tin” (Kh 13,10).

Bởi thế mà Thánh Phaolô đã không ngớt lời khen rằng: “Chúng tôi hãnh diện về anh em trước mặt các Hội Thánh của Thiên Chúa, vì anh em kiên nhẫn và có lòng tin mỗi khi bị bắt bớ hay gặp cảnh gian truân” (2Tx 1,4).

2-Đức tin biến con người trở nên công chính:

Vì trong Tin Mừng, sự công chính của Thiên Chúa được mặc khải, nhờ đức tin để đưa đến đức tin, như có lời chép: Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống” (Rm 1,17). Mà không có đức tin, thì không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa, vì ai đến gần Thiên Chúa, thì phải tin là có Thiên Chúa và tin Người là Đấng ban phần thưởng cho những ai tìm kiếm Người (x. Dt 11,6).

Như vậy, một khi đã được nên công chính nhờ đức tin, chúng ta được bình an với Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta (x. Rm 5,1); Người muốn cho thấy rằng Người vừa là Đấng Công Chính, vừa làm cho kẻ tin vào Đức Giêsu được nên công chính (x. Rm 3,26); Vì thế, một khi chúng ta tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn, thì cả tâm hồn và thân xác chúng ta cũng được thanh tẩy tinh tuyền (x. Dt 10,22); Hầu tất cả những ai tin đều được như thế, bất luận là ai (x. Rm 3,22).

3-Đức tin chữa lành:

Đọc Kinh Thánh, chúng ta thấy sức mạnh của đức tin còn có một khả năng đặc biệt là chữa lành; không những chỉ chữa lành thân xác, mà còn chữa lành cả tâm hồn; đáng lưu ý nhất vẫn là khả năng chữa lành tâm hồn. Chẳng vì thế mà Thánh Phaolô đã dạy rằng: “Nhờ lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh; người ấy được Chúa nâng dậy, và nếu người ấy đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha” (Gc 5,15).

Khi chữa lành thân xác, cho những người mù được thấy, người điếc nghe được, người bại liệt đứng dậy đi, người phong cùi được sạch… Chúa Giêsu thường nói: “Đức tin của con (anh, chị, ông, bà, bạn…) đã cứu chữa con…” (x. Mc 5,34; Lc 7,50; 8,48; 17,19)...

Khi chữa lành tâm hồn, cho những người bị quỷ ám, quỷ nhập, hay những người tật bệnh bởi sự đọa đày của tội lỗi… Chúa Giêsu thường nói: “Này con (anh, chị, ông, bà, bạn…), tội của con đã được tha” (x. Mc 2,5; Lc 5,20; 7,48)…

Và trải qua bao thế hệ, nhờ ơn thông truyền của Chúa, các Tông đồ, những người kế vị và những Kitô hữu, đã dùng đức tin và lời cầu nguyện chân thành của mình mà cứu chữa biết bao người đau khổ, tật nguyền, đói nghèo và tội lỗi…

4-Đức tin bảo đảm sự sống đời đời:

Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Thiên Chúa” (Gr 17,7); “người nhận biết Thánh Danh, sẽ một niềm tin cậy, vì lạy Chúa, Chúa chẳng bỏ rơi những ai kiếm tìm Ngài” (Tv 9,11).

Kinh Thánh nói: Ai không tin, thì không thuộc về đàn chiên của Chúa, cũng chẳng thể cậy trông ơn Người cứu độ (x. Ga 10, 26; Tv 78,22); còn kẻ tin thì biết Chúa, nghe Chúa và theo Chúa, và như vậy Chúa sẽ ban cho sự sống đời đời (x. Ga 10,22-30). Vì thế, mọi kẻ tin vào Thiên Chúa và Con Chí Ái của Người là Đức Giêsu Kitô sẽ không phải thất vọng (x. Rm 10,11); điều này được đảm bảo không phải do sức con người mà là do ân huệ của Thiên Chúa, ân huệ đó có được cũng chính là nhờ lòng tin mà chúng ta được nên công chính, được cứu độ và được sống đời đời (x. Gl 3,11; Ep 2,8).

V.-  THAY LỜI KẾT

Chúa Giêsu dạy rằng: "Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: 'Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc', nó cũng sẽ vâng lời anh em” (Lc 17,6). Điều này chứng tỏ rằng: đức tin có sức mạnh phi thường, đức tin có thể làm được tất cả mọi sự, có khi vượt lên trên cả sự chết. Đã có lần Tông đồ Phêrô yếu tin khi đi trên mặt biển mà kêu lên rằng: Thầy ơi, cứu con kẻo con chết mất, và Chúa đã trách ông yếu lòng tin (x. Mt 14,22-33).

Là người công giáo, chúng ta được hồng ân sinh ra trong đức tin, qua Bí Tích Thánh Tẩy, chúng ta tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa (Đấng tạo dựng và yêu thương), tin vào Đức Giêsu Kitô (Đấng hiến tế thân mình để cứu chuộc nhân loại), tin vào Chúa Thánh Thần (Đấng gìn giữ và thánh hóa Hội Thánh), đồng thời tin và hy vọng vào ơn cứu độ, phục sinh của Thiên Chúa.

Hành trang chúng ta phải sẵn sàng hôm nay chính là hành trang đức tin. Vì biết rằng cuộc đời của mỗi người, của cả lịch sử loài người và của cả thế giới này đều có cùng tận. Và chuyện sinh tử đã là điều hiển nhiên của mọi loài thụ tạo.

Chắc có lẽ Quý vị đã từng nghe qua những câu châm ngôn quen thuộc này: “Học cách sống cũng chính là học cách chết” hay “Sống thế nào thì chết thế ấy”… Đây chính là những tiếng trống đánh thức sự định hướng của mỗi người chúng ta. “Như thế, sự chết không còn là chuyện đáng sợ nữa, mà là sợ sự tồn tại của sự chết…?”.

Vậy, thưa anh em, hãy đề phòng, đừng để người nào trong anh em có lòng dạ xấu xa chối bỏ đức tin mà lìa xa Thiên Chúa hằng sống” (Dt 3,12). Hãy sắm sẵn cho mình một kho tàng đức tin, không hề sợ trộm cắp hoặc mối mọt (x. Lc 12,33-34); và hãy sẵn sàng, hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Con Người sẽ đến (x. Lc 12,35-40).

Cuối cùng, những ai luôn biết sống theo đúng con đường trọn lành mà Thiên Chúa đã chỉ dạy, nhờ giáo huấn và công nghiệp cứu chuộc của Đức Giêsu Kitô, thì sẽ được hưởng gia tài không thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai. Gia tài này dành ở trên trời (x. 1Pr 1,4) và khi ấy chúng ta có thể hân hoan mà ca tụng rằng: “Con tin cậy vào tình thương Chúa, được Ngài cứu độ, lòng con sẽ siết bao mừng vui hoan hỷ” (Tv 13,6).

 

Chúa Nhật V Mùa Chay

09-03-2008

 

JB. BÙI NGỌC ĐIỆP-TSVN

 

Mục lục

 

 

Ảnh hưởng truyền giáo qua lối sống của linh mục

Lối sống của các linh mục rất có ảnh hưởng trong vấn đề truyền giáo, đối với những người chung quanh, nhất là những người bên ngoài.

Nhưng vì sống với nhau trong môi trường Ki-tô giáo giữa “con chiên bổn đạo” lai quá quen với ngôn ngữ và lề thói của con nhà có đạo. nên có khi các linh mục không để ý và coi chừng đủ đối với những người bên ngoài, xem người ta nghĩ gì và nghĩ thế nào về mình cũng như về đạo của mình. Thật vậy, đã có bao giờ người công giáo chúng ta nghĩ và đặt ra câu hỏi: “Tại sao đạo của chúng ta chặt chẽ và qui củ như vậy, tại sao nhiều nhà thờ của chúng ta khang trang đẹp đẽ, tại sao các đoàn thể của chúng ta vui vẻ sầm uất, tại sao các lễ nghi trong các nhà thờ của chúng ta đẹp mắt như thế, mà số người vào đạo chẳng được bao nhiêu ?” Ấy là chưa kể đến những họat động từ thiện hay cứu trợ trong những đợt thiên tai hỏa họan đấy ! Tại sao thế ? Nếu căn cứ vào cái vẻ bên ngoài thì phải nói là đạo của chúng ta thật hấp dẫn”. Nhưng thực tế lại không phải như vậy. Âu là có một cái gì tiềm ẩn như một tấm bình phong ngăn cản và che đậy, chưa cho người ta nhìn thấy thực chất và sức quyến rũ đích thật của đạo chúng ta.

Chúng ta vui và lấy làm bằng lòng vì các nhà thờ của chúng ta được mở mang rộng rãi xinh đẹp hơn trước. Chúng ta mừng khi thấy bổn đạo đi lễ, di nhà thờ vẫn đông, đi kiệu đi rước sầm uất, lại siêng năng đọc kinh, xưng tội, rước lễ. Chúng ta hãnh diện vì có đông người đi tu. Tất cả những điều đó thật đáng vui, đáng mừng và đáng hãnh diện, nhưng e rằng tình trạng này không biết còn kéo dài được bao lâu nữa, khi nền kinh tế chung của đất nước phát triển đồng đều và khả quan hơn. Vậy, như thế đã đủ chưa hay còn phải có một cái gì khác thêm nữa và cái thêm đó là cái gì ? Và tại sao tất cả những cái hay nói trên chưa đủ sức thu hút người ta vào đạo ?

Có lẽ vì vậy nên Hội thánh mới phải luôn nhắc nhở và đôn đốc việc truyền giáo. Nói đến truyền giáo thì thường người ta hay nghĩ đến việc đi đến và ở giữa những người ngoài công giáo. Ở giữa những người đó để sống và làm chứng. Hiện đang có những anh chị em của chúng ta ở những vùng sâu vùng xa, bên cạnh dồng bào không phải là công giáo.

Nhưng truyền giáo không nguyên chỉ có nghĩa là đi xa mà còn là ở gần, ở giữa và ở với ngay tại quê hương xứ sở hay nơi mình đang sinh sống và làm việc. Vì vậy, truyện giáo mới có hai mặt, một mặt gọi là bên trong (missio ad intra) và một mặt gọi là bên ngoài (missio ad extra). Mặt ngoài là đi đến với những người ở xa chưa biết Chúa hay đã bỏ Chúa; mặt trong là làm việc truyền giáo ngay tại nhà mình, tại họ đạo mình hay nơi mình đang sống.

Phần đông các linh mục lo công việc mục vụ trong các họ đạo, nên khó làm được việc truyền giáo ở mặt ngoài. Vì thế, phải chú trọng đến mặt bên trong nhiều hơn. Mà mặt bên trong thì ngoài những việc các linh mục vẫn làm liên quan đến mục vụ, thiết tưởng có hai vấn đề nên lưu tâm, đó là thái độ đối với những người ngoài công giáo và cách sử dụng tiền bạc xây cất cơ sở tôn giáo và tổ chức lễ lạt đình đám, để tránh cho khỏi bị mang tiếng là không biết xử thế ở đời, và vô cảm trước cảnh nghèo khổ của những người túng đói, hay lợi dụng cơ hội để làm tiền, như nhiêu người than phiền, vì có những linh mục ở Mỹ tổ chức tiệc tùng tại nhà hàng để mừng kỷ niệm 5 năm, 10 năm, 15 năm linh mục v.v… Nếu tổ chức 25 năm thì người ta còn hiểu được, vì đó là thói quen đã có từ lâu. Tuy vậy, cũng nên liệu sao cho vừa phải, kẻo bị phê bình và mang tiếng là tiêu phí hay mở tiệc đề nhân cơ hội nhận quả cáp và tiền bạc. Vấn đề này hơi khó, vì người Việt Nam quá quen với tiêc tùng, lễ hội, đình đám, khao vọng, nên có thể vì thế, các linh mục cũng bị áp lực nặng nề của dư luận và thói quen. Nhưng có lúc phải vượt lên trên những thứ đó, để xứng với danh là những người giáo dục đức tin và hướng dẫn dư luận.

Vây, chúng ta phải đối xử thế nào với những người bên ngoài và xử sự làm sao khi phải tiêu tiền vào việc xây cất và những dịp lễ lạt đình đám.

Người bên ngoài

Người bên ngoài hay người ngoại, hoặc người bên lương là người không theo đạo Chúa. Bên công gíáo gọi những người này là ngoại đạo hay không có đạo. Những kiểu nói này vô hình trung đã làm cho nhiều người ngoài công giáo bực bội và khó chịu, vì họ cho là mình bị khinh thường và đánh gíá thấp, thậm chí có những người công giáo còn phũ phàng hơn khi gọi họ là “quân ngoại đạo”. Người công giáo Việt Nam chỉ là con số nhỏ trong cộng đồng một dân tộc đông tới hơn 80 triệu dân. Linh mục chúng ta quen sống với những người đồng đạo. Chúng ta thường dùng ngôn ngữ và theo lề thói của những người “có đạo.” Nhưng có mấy khi chúng ta nghĩ đến những người không cùng một đạo ở chung quanh, và những phản ứng của họ khi thấy người công giáo nói năng cư xử không ? Có thể vì kiểu nói hay cách cư xử lạ lùng của người công giáo dưới mắt người ngoài đạo, mà những người này nhìn người công giáo không mấy thiện cảm và cho là “ kỳ cục”. Quả thế, theo một nghĩa nào đó, người công giáo “kỳ cục” thật, vì họ không giống ai cả. Có lẽ vì vậy thánh Phê-rô mới bảo các Ki-tô hữu hãy coi mình như những kẻ xa lạ giữa trần gian (I Pr 2,17). Xa lạ ở đây phải hiểu là vì theo đạo, phải giữ đức tin và những điều đức tin đòi hỏi nên xem ra khác la. Còn ngoài ra, người công giáo không nên biến mình thành những người “kỳ cục” hay xa lạ giữa những người khác.

Ở đây có vấn đề hội nhập văn hóa. Làm thế nào để linh mục và người công giáo không còn bị coi là xa lạ đối với văn hóa dân tộc và đồng bào của mình. Linh mục và người công giáo cũng là người Việt Nam, cùng có chung một nguồn gốc và một di sản văn hóa. Những gì là giá trị của tổ tiên để lại, linh mục và người công giáo cũng phải tôn trọng và yêu quí. Vì thế, hiện nay mới có phong trào tìm lại những giá trị trong văn hóa Việt Nam để đưa vào đạo, và trình bày đạo trong bộ áo ngôn ngữ có màu sắc văn hóa đó.

Vậy, linh mục nên để ý đến những người bên ngoài, để khỏi làm cớ gây ngạc nhiên và khó chịu cho họ về cử chỉ, ngôn ngữ và lối hành xử của mình

Có người kể lại, hồi mấy chục năm về trước, nhà văn Tô Hoài có lần đã viết ở đâu đó rằng: “Linh mục là người suốt ngày bí mật trong chiếc áo chùng thâm”, và nhà báo Chu Tử quãng thập niên 60, cũng viết: “Linh mục là người mặc áo chùng thâm, đi giầy tây”, khi ông đưa ra một định nghĩa về linh mục.

Có lẽ người ngoài cũng chỉ biết về linh mục như Tô Hoài và Chu Tử chăng ? Vậy nhân danh sứ mệnh truyền Giáo, các linh mục cũng nên lưu tâm đến hành vi, cử chỉ, lời nói của mình giữa những người không phải là công giáo. Người ta truyền giáo không phải chỉ bằng lời rao giảng, nhưng nhất là bằng thái độ và đời sống, thái độ trọng kính người khác và đời sống phù hợp với những điều đạo dạy, được cụ thể hóa ra bên ngoài, bằng những hành động thiết thực hơn như thân thiện, gần gũi và trọng kinh v.v,,,

LỄ LẠT ĐÌNH ĐÁM

Tự điển tiếng Việt chỉ có từ lễ lạt mà không thấy từ lễ lạc. Thông thường khi nói đến từ này, người ta hay nghe ra lễ lạc hơn lễ lạt. Theo định nghĩa của tự điển thì lễ lạt là các cuộc lễ hay lễ vật nói khái quát. Chữ này thuộc loại khẩu ngữ. Còn từ lễ lạt mà đọc ra lễ lạc, thiết tưởng có hai lý do : một là phát âm sai, hai là muốn chuyển sang chữ lạc với ngụ ý là vui. Có lễ thì phải có lạc Mà muốn vui, phải có ăn uống.

Từ xưa đến nay, lễ lạt vốn là một thói quen gần như truyền thống trong sinh hoạt của người Việt Nam. Nước ta là một nước nông nghiệp. Làm nông nghiệp phải theo thời vụ. Có thời rất vất vả như lúc cày bừa, gieo mạ, cấy lúa, gặt hái. Nhưng qua những thời kỳ đó, nhiều người dân không có việc làm. Không có việc làm thì phải tìm cách lấp đầy khoảng thời gian trống vắng đó. Phải chăng vì vậy, trong dân gian ngày trước mới có câu: “Tháng Giêng là tháng ăn chơi, tháng Hai cờ bạc, tháng Ba hội hè”. Các thứ hội hè, đình đám như hội chùa Hương, lễ hỏi, đám tang v.v... là những nếp sinh hoạt phản ánh phần nào văn hóa của người Việt Nam. Người có đạo chúng ta cũng sống trong nền văn hóa đó. Phần giá trị trong nền văn hóa này là qua một số biểu thị của lễ lạt đình đám, người ta đối xử với nhau theo tình làng nghĩa xóm, vui buồn có nhau, thân mật gần gũi.

Nhưng bên cạnh đó cũng phải nói đến một vài điều không được hay lắm về mặt xã hội. Đã hẳn, ở đời phải có lễ lạt. Người nào, gia đình nào, đoàn thể nào cũng có những ngày lễ mừng. Vấn đề không phải là mừng, nhưng là mừng sao cho hợp lý và phải đạo. Những lễ mừng quá linh đình tốn phí, ở giữa đám dân nghèo, trong hoàn cảnh khó khăn là điều thật không nên, tuy rằng tổ chức mừng to có thể được khen lao nể trọng. Nhưng đối với những người thuộc về Hội thánh, một Hội thánh muốn phục vụ người nghèo, một Hội thánh không muốn là ốc đảo giữa một đại dương mênh mông của nghèo đói và khốn cùng (Tuyên ngôn Hội nghị các Giám mục Á châu tại Manila năm 1971) thì liệu các lễ lạt tưng bừng tốn phí kia có khỏi là một bằng chứng phản ngược lại với chủ trương trong bàn tuyên ngôn không ? Người bên ngoài vẫn nhìn vào người công giáo để xem lời nói và việc làm có đi đôi với nhau không ? Công việc truyền giáo không phải chỉ diễn ra bằng lời nói, nhưng còn bằng lối sống của người công giáo bên cạnh những người không công giáo. Nhà văn Đồ Phồn trước kia có viết cuốn tiểu thuyết đề là KHAO. Cuốn tiểu thuyết này có thể gợi lên những câu hỏi đáng suy nghĩ về lễ lạt và khao vọng của chúng ta lắm.

Kết luận

Phần đông các linh muc là cha sở. Là cha sở thì có nhiều quyền hành trong họ đạo. Vì có quyền và quen hành quyền nên có thể dễ quên rằng quyền hành là để phục vụ. Công đồng Va-ti-ca-nô II đã có một cái nhin mang nặng tính Tin Mừng, khi nhấn mạnh đến góc cạnh phục vụ của quyền bính: quyền binh là để phục vụ. Chẳng vậy, quyền bính có thể trở thành một chướng ngại cho cả người hành quyền lẫn người tòng quyền: người hành quyền có thể bị mang tiếng là độc tài, còn người tòng quyền có khi phải đau khổ. Đó là những điều đáng tiếc.

Vậy, vì ảnh hưởng truyền giáo, linh mục chúng ta nên lưu tâm đến cách đối xử với những người bên ngoài và cách sử dụng tiền bạc trong việc xây cất và tổ chức lễ lạt đình đám, để tránh gây ra những phản ứng bất lợi nơi người bên trong cũng như bên ngoài đạo.

Lm. An-rê Đỗ Xuân Quế, OP

Mục lục

TÀI LIỆU TĨNH TÂM LINH MỤC GIÁO PHẬN NHA TRANG

BÀI IV

LINH MỤC VÀ GIÁM MỤC

 

Chúng ta đã bàn về mối tương quan với Chúa Giêsu. Ðó là một mối tương quan hàng dọc. Hôm nay chúng ta chuyển sang những mối tương quan hành ngang, nghĩa là giữa con người với nhau, giữa linh mục và các thành phần Dân Chúa khác. Chúng ta hãy bắt đầu bằng mối tương quan của linh mục đối với giám mục.
"Không có thừa tác vụ linh mục ở ngoài sự hiệp thông". Ðó là lời khẳng định của "Cẩm nang cho thừa tác vụ và đời sống linh mục" (số 21). Linh mục không hiệp thông là một khái niệm tự nó mâu thuẫn. Ðã nói đến linh mục là phải nói đến hiệp thông. Bí tích truyền chức đặt linh mục trong mối quan hệ hữu thể đối với mọi thành phần Dân Chúa, từ Giáo Hoàng cho đến giáo dân. Nhưng chúng ta không có đủ thời gian để bàn tới tất cả mọi đối tượng của thế giới hiệp thông rộng lớn đó. Chúng ta chỉ có thể đề cập đến một vài đối tượng có tính cách chủ lực, trong đó không thể không nhắc đến mối quan hệ của linh mục đối với giám mục.
Ðây là một vấn đề tế nhị và dễ gây ngộ nhận. Vì thế, trước khi bắt đầu, tôi muốn xác định ngay là tôi không có ý ám chỉ bất kỳ ai hoặc vụ việc nào của giáo phận Nha trang hay một giáo phận nào khác. Nếu xảy ra một sự trùng hợp nào đó, xin hiểu cho rằng đó chẳng qua là những chuyện đâu đâu cũng có thể lấy làm điển hình để cảnh giác.


1. CHIỀU KÍCH GIÁO HỘI HỌC.


Trước hết chúng ta hãy trở về với cơ sở thần học của mối quan hệ giữa giám mục và linh mục.
Khi thụ phong, chúng ta được khai sinh trong chức linh mục, có nghĩa là chúng ta trở thành thành viên của một trật tự mới, trật tự mà Giáo Hội học gọi là Phẩm Trật. Trật tự đó trước hết là một cơ chế, nghĩa là một cơ chế nhân sự y như bao tổ chức trần thế khác. Giáo hội hữu hình cần phải tạo được sự kính nể.
Nhưng ngoài tính cơ chế, GH do Chúa thiết lập, theo ngôn từ của Thánh Phaolô, là một nhiệm thể trong đó mọi bộ phận và chi thể chỉ hoạt động được trong thế liên kết với nhau và với một đầu não duy nhất. Chúa Giêsu dùng hình ảnh mối quan hệ sinh tồn giữa cành với thân để diễn tả nhựa sống lưu chuyển nuôi sống toàn thân là một nguồn sinh lực chung. Cả hai khái niệm ngành cây và chi thể đều hàm ẩn khái niệm về một thành phần và một toàn thể sống động. Qua hai hình ảnh đó ta thấy rằng không thể tách rời linh mục ra khỏi sự hiệp thông với Giáo Hội và cách riêng là với giám mục. Mối quan hệ đó là điều kiện tồn tại chứ không phải là nhiệm ý, muốn thì quan hệ không muốn thì thôi. Nếu diễn tả theo triết học của Gabriel Marcel mà chúng ta trưng dẫn hôm qua, chúng ta có thể phát biểu rằng tự bản chất, linh mục "là"quan hệ với giám mục chứ không phải "có" quan hệ với giám mục.


Giám mục là người kế vị các tông đồ, và nhờ tính tông truyền đó, ngài trực tiếp nhận chức linh mục từ Chúa Giêsu. Linh mục là người chỉ thông dự vào chức linh mục viên mãn của giám mục nên đương nhiên linh mục chỉ là linh mục nhờ sự hiệp thông với giám mục. Sứ mệnh của linh mục thật ra là sứ mệnh của giám mục, dù giám mục có thế nào đi nữa. Có thể nói được rằng Giám mục là một nhân vật để chúng ta trắc nghiệm tình hiệp thông đối với Giáo Hội.


Cũng vì vậy mà truyền thống thần học của Giáo Hội vẫn luôn coi giám mục là nguyên lý hợp nhất cộng đoàn. Trong mỗi thánh lễ, chúng ta đều cầu nguyện cho giám mục giáo phận. Người Việt Nam chúng ta thường cả nể, nhắc đến tất cả các giám mục đang sống trong giáo phận và cho cả các đức cha khách đang có mặt. Nhưng thật ra, đúng theo phụng vụ, để nói lên tính hiệp nhất, chúng ta chỉ cầu cho một mình vị giám mục đang cai quản giáo phận.


Qua một vài nét phác hoạ trên đây, chúng ta thấy rằng mối quan hệ giữa linh mục và giám mục là một mối quan hệ có nguồn gốc thần linh, chứ không phải hàng ngang mà thôi. Không biết hai đức cha đây thì thế nào chứ riêng con nhiều khi con thấy làm giám mục người ta kính trọng quá mức nên có những lúc rất thèm được sống bình thường. Cha N cùng lớp Nha trang với tôi. Hai anh em rất thân nhau. Ðến khi tôi làm giám mục, ngài bỗng trở giọng. Lúc nào ngài cũng một thưa đức cha hai thưa đức cha. Một hôm tôi bực mình quá nên nói với ngài "cậu thử gọi tớ bằng mày một bữa cho tớ thích xem nào". Ngài đã trả lời rằng : bạn và giám mục đàng nào hơn ? Tôi không bằng lòng nhưng cũng hiểu được rằng cha bạn muốn đề cao sự thánh thiêng của chức giám mục.


Như vậy sống tình hiệp thông với giám mục là sống một giá trị thiêng liêng chứ không phải là một giá trị thuộc lãnh vực nhân bản, xử thế mà thôi. Linh mục cần phải ý thức điều đó để kính trọng giám mục cho đúng tinh thần Giáo Hội.

 

2. KHỦNG HOẢNG HIỆN NAY


Ðáng buồn là những giá trị đó hiện nay đang bị đe doạ. Phải nhìn nhận rằng do ảnh hưởng của não trạng dân chủ khắp nơi trên thế giới đều bị khủng hoảng về quyền bính. Khủng hoảng đó lây nhiễm cả vào Giáo Hội. Người ta không chấp nhận quyền bính cách dễ dàng như xưa nữa. Người ta phủ nhận nguồn gốc thần linh của những tác vụ trong Giáo Hội, nhất là ở phương Tây. Có khi người ta nhạo báng chức sắc của Giáo hội một cách trắng trợn sống sượng. Kể cả Ðức giáo hoàng người ta cũng không tha.


Tôi có một cha thầy cũ thuộc hội thừa sai Paris. Ðó là cha Jean Mais hiện vẫn đang sống tại trụ sở chính nhà MEP. Ngài kể chuyện rằng sau khi chịu chức linh mục, Ðức Cha Marcel Piquet Lợi giáo phận Nha trang đã ra lệnh cho ngài học văn chương cổ ngữ ở đại học Sorbonne để sang Việt Nam dạy chủng viện. Ngài thưa với Ðức Cha : "xin Ðức cha cho con qua Nha-trang ngay chứ bây giờ con hơi lớn rồi nên ngại học quá". Thế là đức cha Piquet đùng đùng nổi giận cảnh cáo ngài rằng : "Ở Việt Nam linh mục vâng lời giám mục chứ không phải nói gì cũng cãi như bên Pháp. Hoặc cha đi học hoặc tôi không nhận cha vào Nha trang nữa".
Như vậy trong tâm khảm của Ðức cha Piquet, ở VN chưa có khủng hoảng. Ðiều đó có lẽ nay không còn nữa. Chức giám mục tại Việt Nam cũng đang càng lúc càng bị xem thường, nhất là từ khi có mạng lưới internet. Thông tin nhanh là một kỳ diệu của nền văn minh tin học nhưng cũng là con dao hai lưỡi. Tin tích cực đi nhanh, tin tiêu cực và tin tai tiếng hay tin thất thiệt cũng đi nhanh. Nhanh và nhiều có khi gây ra những tai hại đáng tiếc. Hơi một tí là đồn, là đưa lên mạng. Những người chống đối Giáo Hội tha hồ mà báng bổ. Ðồn qua đồn lại, câu chuyện trở thành rậm rạp và nghiêm trọng. Bao nhiêu là ngộ nhận hiểu lầm đã xảy ra. Dần dà nó gặm nhấm uy tín và vai trò của chức sắc trong Giáo Hội. Thậm chí có những người thích dạy dỗ giám mục như một "kẻ cả" trịch thượng.


Sau ngày giải phóng, do tình hình xã hội phức tạp nên toà thánh thường chọn người trong địa phận làm Giám mục. Giải pháp này có những điểm tích cực nhưng cũng có rất nhiều khía cạnh tiêu cực. Tích cực là vị giám mục nắm vững hiện trường hơn, nhưng tiêu cực là vấn đề chọn ứng viên không còn giữ được tính độc lập nữa. Nó bị bao nhiêu là yếu tố nhân loại xen vào, tạo ra thảm kịch vạch áo cho người xem lưng.
Do vô tình, chúng ta dễ sa vào nhiều thứ bẫy, bẫy của đối phương, bẫy của kẻ ham danh háo lợi. Cuối cùng chức giám mục và linh mục chẳng còn gì là thiêng thánh nữa. Linh mục không thấy nơi giám mục người Chúa chọn, không thấy đấng kế vị tông đồ nữa. Giám mục chỉ còn là thắng lợi hay thất bại của một thế lực hoặc một phe nhóm nào đó. Hậu quả là kẻ thù của Giáo Hội xem thường Giáo Hội, tìm đủ mọi cách để khai thác khía cạnh trần thế của việc lựa chọn ứng viên giám mục.


3. NHỮNG TIÊU CHÍ THỰC TIỄN.


Vấn đề còn lại là làm thế nào để bảo đảm được chất lượng cho mối quan hệ đó. Tông huấn Pastores dabo vobis nhắc nhở chúng ta rằng, điều quan trọng không phải là mối quan hệ nhưng là thái độ quan hệ.
Mỗi lần nhìn các cha xứ từ vùng sâu vùng xa về thành phố, đèo bồng đủ thứ trên một chiếc xe hai bánh, tôi cảm thấy thật bùi ngùi, nghĩ rằng linh mục của mình vất vả lo cho con chiên. Mỗi lần đi qua La vang, dù có vội đến mấy, tôi cũng tìm cách ghé vào thăm Ðức Mẹ, gửi gắm địa phận cho Ðức Mẹ, nhất là để cầu nguyện cho các linh mục giáo phận được trung thành với ơn gọi. Tôi đặc biệt nhớ đến những linh mục đang gặp khó khăn để xin Ðức Mẹ đỡ đần cứu giúp. Ði Âu Châu mấy lần, không lần nào tôi quên mua quà cho các cha. Các đức cha cùng đi cũng đều làm thế.


Không phải bỗng dưng có thể dành cho linh mục một niềm thương đặc biệt như thế. Phải chăng đó là "ơn bổn phận" (grâce détat) Chúa ban cho các giám mục ? Linh mục cần phải tin vào điều đó. Trong lòng giám mục, mỗi linh mục chúng ta đều có một chỗ đứng đặc biệt.


Linh mục cũng không nên quên rằng giám mục cũng là một con người cần phải được kiện toàn như linh mục. "Kim chỉ nam linh mục" số 89 viết : "Ðể huấn luyện các linh mục của mình, giám mục phải tham gia bằng cách huấn luyện thường chính bản thân ngài. Kinh nghiệm cho thấy giám mục càng lo huấn luyện bản thân mình bao nhiêu, thì càng biết khuyến khích và nâng đỡ việc huấn luyện linh mục đoàn của mình bấy nhiêu" (số 89). Linh mục phải là người tiếp tay vào việc tự huấn luyện của giám mục.


Linh mục chúng ta cũng thường không nhìn nhận sự bất toàn của giám mục. Chúng ta muốn giám mục phải là người xuất chúng vạn năng, giải quyết tất cả mọi vấn đề cách hoàn hảo, vừa ý chúng ta mà quên rằng giám mục phải chọn một trong muôn vàn phương án khác với phương án và kế hoạch của chúng ta. Người nào cũng cho phương án mình là tối ưu nhưng sở dĩ cần phải có giám mục là để chọn một phương án mà thôi. Chúng ta quên rằng ngài cũng có những khuyết điểm giới hạn y như và có khi là nhiều hơn chúng ta.
Chỉ sau hơn ba năm làm giám mục, tôi đã cảm thấy đời sống giám mục đòi hỏi gắt gao như thế nào. Có biết bao nhiêu điều khiến giám mục phải hy sinh mà linh mục không biết đến nếu không đủ nhạy bén. Ðiều đầu tiên chúng ta phải thông cảm đó là giám mục luôn luôn phải phấn đấu để vừa lòng các cha hơn. Trong xứ đạo đôi khi chúng ta thấy lúng túng không biết phải quyết định thế nào trong một số công việc vì chúng ta sợ được việc mà không được người. Giám mục đối với linh mục cũng vậy. Khi xử lý những hồ sơ phức tạp, không dễ gì tìm được cách giải quyết tối ưu. Ðòi hỏi sự lỗi lạc của giám mục trong mọi sự đôi khi là quá đáng làm linh mục mất đi sự tín nhiệm cần thiết phải có đối với giám mục.


Kết luận


Câu hỏi cần đặt ra : nếu tôi là giám mục tôi sẽ làm gì và làm thế nào? Ðôi khi chúng ta chờ đợi ở giám mục những điều chính chúng ta không làm được nếu chúng ta làm giám mục. Hay hơn cả, hãy nhớ lời Chúa Giêsu nói với Phêrô : "còn ngươi, hãy trở về củng cố tinh thần anh em ngươi". "Cẩm Nang cho thừa tác vụ và đời sống linh mục" đã đề ra ở số 24 ? "Trong tinh thần hoàn toàn tôn trọng sự phụ thuộc phẩm trật, linh mục sẽ là người khởi xướng sự quan hệ trực tiếp với giám mục mình, quan hệ gồm có lòng tín nhiệm chân thành, tình bạn mật thiết một cố gắng thật sự nhằm hoà hợp và tập trung tư tưởng và chương trình mà không làm mất đi khả năng thông minh của đề xuất cá nhân và của hành động trong lãnh vực mục vụ"
Theo trích đoạn trên đây, GM vừa là bề trên vừa là mẹ vừa là bạn đời. Vừa vâng phục vừa có sáng kiến. Tắt một lời, chúng ta hãy xác tín rằng giáo phận lý tưởng là giáo phận trong đó linh mục và giám mục yêu thương nhau tận tình theo tinh thần của Chúa Giêsu đấng sáng lập Giáo Hội: "người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy."

 

+ ĐGM Giuse Nguyễn Chí Linh

Mục lục

 

 

SỐNG CHỨNG NHÂN

TÔN TRỌNG SỰ SỐNG CÁC BÀO THAI TRONG DẠ MẸ

Cách đây đúng 30 năm - 1978 - nước Ý ban hành luật 194 cho phép phá thai.

Từ đó đến nay có khoảng 4 triệu 800 ngàn thai nhi không bao giờ trông thấy ánh sáng mặt trời, không bao giờ được sinh ra làm người trên cõi đời này!

30 năm với con số gần 5 triệu thai nhi bị giết chết là một thách đố lớn lao đối với nữ giới nói riêng và đối với xã hội Ý nói chung. Chính vì thế mà trong năm 2008 - nhân tưởng niệm 30 năm nước Ý ban hành luật 194 giết người - nhiều Hội Đoàn và Phong Trào bênh vực Sự Sống tái lên tiếng và mở chiến dịch thức tỉnh lương tâm con người. Thức tỉnh trước hết lương tâm bà mẹ đang mang thai! Xin trích dịch chứng từ của 2 phụ nữ Ý. Người thứ nhất một lần ”lỡ dại” giết con. Người thứ hai may mắn thoát nạn ”giết con” và giờ đây cảm thấy thật tri ân thật hạnh phúc.

... Vào một buổi sáng đẹp trời đầu năm nay - 2008 - bà Anna rụt rè tiến vào trụ sở của Liên Hiệp Ý. Liên Hiệp Ý chuyên làm cố vấn cho các vấn đề liên quan đến gia đình, đặt nền tảng trên giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo. Nước mắt lưng tròng, bà Anna buồn bã gợi lại một kinh nghiệm đau thương. Bà nói.

Hiện tại tôi đã lập gia đình và có hai đứa con, một lên 8 và một lên 6. Thế nhưng trước đây tôi đã tích cực tham gia phong trào đòi nữ quyền kêu gọi giải phóng phụ nữ. Giống như bao phụ nữ ngây-thơ khác, tôi hò-hét tuyên-truyền và ủng hộ quyền của phụ nữ được phá thai. Người ta nói với chúng tôi:

- Bào thai chỉ là một ”nhúm tế bào” nên có thể cắt bỏ và vứt đi khi nào người phụ nữ muốn!

Tôi dại dột tin như thế và càng dại dột hơn khi lập lại y như vậy cho các phụ nữ có thai và muốn phá thai! Chưa hết. Tôi còn đích thân tháp tùng các bà mẹ đang mang thai và muốn phá thai đến các nhà thương phá thai..

Rồi một ngày tôi bỗng khám phá ra mình mang thai. Một bào thai không đợi không chờ. Và dĩ nhiên là tôi tức khắc giết chết bào thai, vì đối với tôi lúc ấy, bào thai này chỉ là ”nhúm tế bào thừa” cần phải cắt bỏ!

Thời gian trôi qua cho đến khi tôi chính thức lập gia đình. Sau đó cả hai vợ chồng chúng tôi đều ước muốn có một đứa con. Và tôi mang thai thật. Khi mang thai đến tháng thứ hai thì tôi đi siêu âm. Lúc nghe tiếng nhịp tim đập nhỏ thật nhỏ của bào thai - đứa con tôi đang mang trong dạ - trái tim tôi bỗng bồi hồi thổn thức. Tôi cảm thấy như thế giới sụp đổ chung quanh. Trong nháy mắt, tôi bỗng nhớ lại những lời gian-dối lừa-đảo trước đó tôi từng tuyên-truyền và thét lớn để bênh vực quyền của phụ nữ được phá thai! Tôi đã phạm một lầm lẫn vô cùng to lớn. Và có không biết bao phụ nữ dại-dột ngây-ngô cũng phạm một lầm lẫn to lớn giống y như tôi!

Bà Anna đau đớn kết thúc chứng từ trong nước mắt dàn dụa khi nghĩ đến đứa con đầu lòng không bao giờ được sinh ra, đến bào thai bà đã giết chết và nói:

- Chúng ta không được phép để cho những chuyện lừa-đảo về quyền phá thai của phụ nữ xảy ra nữa! Chúng ta phải làm mọi cách để ngăn ngừa tệ nạn phá thai, tội giết chết bào thai vô tội đang mang trong dạ. Chúng ta phải gào to thét lớn cho mọi người hiểu, đặc biệt là cho các phụ nữ nghe thấy. Ước gì kinh nghiệm đau thương của tôi là một bài học cho các phụ nữ. Mong rằng Chị Em phụ nữ đề cao cảnh giác và không ngây-ngô nghe theo các lời dụ dỗ để đi đến thảm trạng giết chết chính đứa con của mình!

Hiện nay có hàng ngàn hàng vạn hàng triệu phụ nữ dấu ẩn trong trái tim từ mẫu niềm đau đớn khôn cùng của hành động phá thai như bà Anna trên đây.

Chứng từ thứ hai của một bà mẹ trẻ đã vượt thắng được tội ác phá thai nhờ sự trợ giúp đúng lúc của Liên Hiệp Ý chuyên cổ võ gia đình sống theo giáo huấn của Hội Thánh Công Giáo.

Cùng một ngày đẹp trời đầu năm nay - 2008 - trong khi một nhóm phụ nữ Ý quá-khích tiếp tục đòi hỏi quyền tự do phá thai của phụ nữ thì một bà mẹ trẻ mạnh dạn vui tươi tay bồng một bé trai kháu khỉnh bước vào trụ sở của Liên Hiệp Ý. Phụ nữ trẻ tuổi cảm động nói:

- Nếu con tôi ngày hôm nay có mặt nơi đây thì đó chính là nhờ công ơn của quý vị. Tôi chân thành cám ơn quí vị!

Câu nói tri ân ngắn ngủi diễn tả tầm quan trọng của việc nâng đỡ và tháp tùng các bà mẹ trẻ hoặc nghèo túng hoặc gặp khó khăn trong khi mang thai.

Một xã hội biết tôn trọng sự sống là một xã hội văn minh. Đó là một xã hội biết gieo rắc tình yêu, niềm vui và mang đầy hy vọng cho tương lai!

... THIÊN CHÚA phán tất cả những lời sau đây. ”Ta là THIÊN CHÚA của ngươi. Ta đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai Cập, khỏi cảnh nô lệ.. Ngươi không được giết người. Ngươi không được ngoại tình. Ngươi không được trộm cắp. Ngươi không được phao tin đồn nhảm. Đừng làm chứng gian mà tiếp tay với kẻ xấu. Ngươi không được hùa theo số đông để làm điều trái.. Ngươi không được thiên vị người yếu thế khi họ có việc kiện tụng.. Ngươi không được làm thiệt hại đến quyền lợi của người nghèo cậy nhờ ngươi, khi họ có việc kiện tụng. Ngươi phải lánh xa điều gian dối. Ngươi không được giết chết kẻ vô tội và người công chính, vì Ta không cho kẻ có tội được trắng án. Ngươi không được nhận quà hối lộ, vì quà hối lộ làm cho những kẻ sáng mắt hóa ra đui mù và làm hỏng việc của những người công chính” (Xuất Hành 20,13-15 / 23,1-8).

(”Noi Genitori & Figli”, Mensile di vita familiare, supplemento ad Avvenire, 27 Gennaio 2008, n.115, Anno XII, trang 13-14)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

 

Mục lục

 

 

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH

 

KHÁM PHÁ ƯU ĐIỂM

 

Không một con người bằng xương bằng thịt nào, mà không có một hay nhiều thói tật đáng bực mình. Chuyện đó bình thường thôi, chẳng có gì đáng phải hốt hoảng. Chúng ta chẳng muốn có những thói tật đó và nhất định mình chẳng bao giờ tạo ra chúng. Chúng tuần tự có nơi chúng ta cách rất tự nhiên. Rồi dẫn đến hình thành thói quen.

 

Thí dụ: Cách chúng ta ăn uống, ngồi, nằm, vuốt tóc, rung đùi … và nhiều thứ khác nữa, cả anh, cả chị sẽ gặp thấy nơi nhau.

 

Điều quan trọng, ở đây, là phải cảm thông nhau. Đã là thói quen, một thói quen rất thường, hình thành mà chẳng hề cố ý, thì chẳng nên nổi xung với nó. Muốn cải tạo nó, cũng phải tế nhị và từ từ. Đòi hỏi một sự thay đổi ngay tức khắc, là chuyện khó thực hiện, vì nó đã ăn sâu vào tập quán của chủ nhân nó. Những thói tật riêng đó, cả hai đều có. Là sở hữu của cả hai, nhưng chỉ đòi hỏi bên kia thay đổi, mà không tự thay đổi theo yêu cầu của bên kia, là bất hợp lý và bất công nữa. Giải quyết tốt đẹp nhất, là dung hòa và thẳng thắn khách quan nhận ra điều tốt của nhau. Điều gì không tốt hoặc chưa tốt, thì cố thay đổi hoặc cố làm cho tốt thêm.

 

Chấp nhận chân lý “Nhân vô thập toàn”, là một tiền đề luôn nên có trong mọi tương giao. Chính nhờ thái độ đó, chúng ta sẽ bình tĩnh dự báo những thói tật của bên kia, để chuẩn bị tinh thần đón nhận nó.

 

Một người, dù có nhiều thói tật, cũng vẫn có nhiều tính tốt, thậm chí tuyệt vời nữa. Bởi đó, nên bỏ qua những gì tiêu cực và tập trung vào những điểm tích cực. Chồng hoặc vợ tôi có nhiều thói tật thật, không bằng người nữa, nhưng chân thành yêu tôi …  điều đó đủ với tôi rồi. Những điều khác, tôi không mấy quan tâm. Hành xử được như thế, thì nguồn hạnh phúc đủ sức cuốn đi mọi rác rưới thói tật.

 

Giữa hai thái độ: Một, khó chịu, bực bội vì những thói tật của người trong gia đình mình và cả của mình, cứ muốn chúng phải biến mất, nhưng nó lại cứ chường mặt ra, thách thức, trêu ngươi, nên đã tức lại còn phát điên lên nữa. Hai, là nhìn vào khía cạnh vô hại của nó và hài hước hóa nó ra. Nếu vợ tôi, da dẻ sao chẳng trắng, mà cứ như người da mầu, thì thay “Ca” vì  hãy “Hát”  lên:

 

 “Đen mà đen đẹp đen dòn,

Tối lửa tắt đèn, trắng cũng như đen”.

 

 Thì bực mấy cũng phải tan biến. Giữa hai thái độ trên, anh chị chọn lựa thái độ nào? Tôi nghĩ anh chị chẳng dại gì, để chọn thái độ một, vì nó chỉ chuốc lấy buồn khổ, chớ lợi ích gì đâu. Chọn thái độ hai, nhất định gia đình sẽ là nhà hát cuộc đời, vì ở đó chỉ vọng vang tiếng cười của hạnh phúc.

 

Cuối cùng, xin góp lời với anh chị: Đừng quá bận tâm tới những thói tật vụn vặt và hãy tìm cách quên chúng đi, để chúng không còn là rào cản, ngăn chặn niềm vui tràn tới gia đình anh chị.

 

Joseph Lahey đã kể một câu chuyện về chính đời mình, trong tạp chí Guidepost như sau: Hồi còn nhỏ, ông bị khòm lưng. Có áo che đi trông còn đỡ, nhưng cởi áo ra trông thật xấu xí. Vì thế, ông rất sợ ở trần. Dịp nhà trường tổ chức khám bệnh, tới khi ông vào khám, ông đã run lên như cầy sấy, khi nghe ông bác sĩ bảo: “Cởi áo ra !”. Lúng túng mãi, ông mới cởi hết mấy cái cúc. Lúc đó, ông bác sĩ tới bên, đặt tay lên đầu ông và dịu dàng hỏi: “Cháu có tin Chúa không?” ông trả lời: “Dạ, có”.  Ong bác sĩ lại khích lệ: “Cháu càng tin vào Chúa, thì cháu càng tin vào chính cháu”.  Nói xong, ông vào bàn giấy ghi kết quả vào phiếu sức khỏe của Joseph. Sau đó, rời phòng không biết có việc gì. Trong lúc vắng ông, Joseph nhón gót chân, liếc nhìn tấm phiếu và thấy hàng chữ: “Đặc tính thể lý: có cái đầu cân đối khác thường”.  Biến cố hôm đó đã để lại cho Joseph một cảm kích, không bao giờ có thể quên được.

 

Anh chị cũng nên tập chú ý vào những điểm tốt của nhau, để khích lệ nhau, bởi vì, anh chị không phải chỉ là người canh giữ nhau, mà còn là người thợ nặn ra nhau nữa. Nếu anh biết rằng, chị đang cho anh là người có giá trị và đáng yêu, thì lúc đó anh tự thấy mình có giá trị và đáng yêu. Anh chị hãy cố thực hiện điều đó cho nhau nhé.

 

 

Lm. Hồng Nguyên

Mục lục

 

 

 

 

ĐỌC SÁCH

 

DẤU CHÂN CỦA THẦY

 

 (Mc 4,35-41)

Thầy kính mến,

 

Đoàn thuyền giong buồm ra khơi. Lòng nhẹ phơi phới như vừa trả xong một món nợ. Phía sau là mồ hôi, là nhọc nhằn. Quên đi! Phía trước là gió lặng, là khung trời bao la, là chân trời xa tít mù khơi. Thảnh thơi. Những bóng dân chài lực lưởng bụm tay làm loa, gọi nhau ơi ới. Những bầu rượu căng phồng chuyển từ tay này qua tay kia làm vang lên những tiếng cười dòn dã. Trời đẹp lạ! Đời vui quá!

Thầy lủi thủi lui về phía sau, trao đổi vài câu với bác tài công, rồi lăn lưng ra ngủ ngay trên sàn. Ngủ như chết, vì mệt muốn chết.

 

Bỗng trời tối sầm. Gió im phăng phắc. Một vài giọt mưa thật to rơi lộp bộp trên sàn, quất vào mặt đau rát như bị tạt nước sôi. Một con chốt quay quay, vừa quay vừa chạy, chạy dích dắc như lên cơn khùng. Xoáy một cái - cột buồm gãy. Cánh buồm rách tơi tả. Mưa đổ xuống xối xả. Con thuyền dềnh lênh, hẫng bánh lái.

 

Anh tài công kêu “Trời”, ôm mặt mà khóc.

Các tông đồ ướt mem, đi kiếm Thầy để cầu cứu. Thầy vẫn ngủ!

Trời ơi là trời! Chết đến đít rồi mà Thầy vẫn còn ngủ sao?

Thầy ơi! Cứu chúng tôi với! Sắp chết hết rồi!

 

Thầy mở mắt. Ao ướt sũng. Vô tư. Tự tin đứng dậy. Hét một tiếng động trời “Im”. Tiếng “im” vọng lại từ những cụm mây trập trùng nghe như sấm vang, vô cùng vô tận … Mưa bỗng dứt hạt. Những con chốt chạy trốn vào bờ rồi biến dạng. Những đợt sống lỡ trớn dập dềnh một lát rồi phẳng lặng như tờ. Những con thuyền xơ cờ mất phương hướng, nổi bập bềnh như vô định.

 

Thầy nhìn đám đệ tử đang quỳ mọp dưới chân, ướt sũng như bầy chuột lột. Vừa thương vừa giận. Người thì lớn cồ cồ, mà đức tin thì nhỏ tí xíu. Thầy lại hét lên:

Tại sao các người sợ? Bọn hèn tin!

?!

 

“Bầy chuột lột” ghé miệng vào tai nhau, xù xì: “Thầy là ai mà sóng gió cũng phải tuân lệnh?”

Thầy kính mến.

 

Con không phải là người trong cuộc. Con là khách bàng quan vô tư quan sát và nhận xét về Thầy và các đệ tử của Thầy.

 

1. Thầy ngủ như chết. Dễ hiểu. Vì mệt quá thì phải ngủ như thế. Nhưng ngủ trên boong, mưa tầm tả, giông tố như điên cuồng, ướt mem như chuột lột mà vẫn khò, thì phải đặt nghi vấn.

 

Có thể là Thầy ngủ thật. Nếu thế thì con thương cảm Thầy quá sức. Thầy lăn lộn với quần chúng “sống cho” đến cạn kiệt. Đàng khác, con xin chấp tay chào thua Thầy. Vì Thầy ngủ giỏi quá. Ngủ để bù cho sức khỏe đã tiêu hao đến tận cùng.

 

Có thể là Thầy giả vờ. Nói như thế không oan cho Thầy đâu, vì con bắt được quả tang Thầy giả vờ nhiều lần.

 

Thầy giả vờ hỏi Philíp: “Ta mua bánh ở đâu để có đủ cho những người này ăn!” (Ga 6,5-6).

 

Thầy biết tỏng người đàn bà bị băng huyết đụng vào tua áo của Thầy, Thầy vẫn làm bộ không biết để hỏi: “Ai sờ vào tôi?” (Lc 8,45)

 

Maria Mácđala ngồi khóc trước ngôi “mộ phục sinh”. Thầy giả vờ hỏi: “Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai?” (Ga 20,15)

 

Thầy giả vờ làm người lạ đồng hành với hai môn đệ đi đến Emmau. Khi đến lối rẽ vào Emmau. Thầy làm bộ đi xa hơn nữa, để họ phải nài ép Thầy lưu lại với họ (Lc 24,13-35)

 

Giả vờ là một chiến thuật của Thầy. Mục đích của nó lượm hái kết quả nhiều hơn, để gây ấn tượng sâu sắc hơn. Nếu Thầy ngủ thật, thì con thương cảm Thầy. Nếu Thầy giả vờ ngủ, thì con cảm phục Thầy.

 

2. Các tông đồ sợ là đúng. Đa số họ là dân chài. Họ thuộc lòng khí tượng trên biển hồ. Kinh nghiệm sông nước của họ dầy cộm như một cuốn từ điển. Khi họ hốt hoảng kêu lên: “Thầy ơi! Cứu chúng con với”, thì quả thật cái chết không phải là trò đùa. Lẽ ra Thầy phải an ủi họ. Thế mà Thầy lại mỉa mai họ, coi họ như bầy con nít khóc thét khi thấy con cọp giấy: “Hỡi người hèn tin, tại sao các người sợ”. Sợ đúng mà vẫn bị mắng. Đau quá! Người lớn mà bị mắng. Tức quá!

 

Nhưng thưa Thầy, chính cái giọng mỉa mai như vô lý ấy lại cho con cảm nghiệm được cái “tâm” của Thầy. Thầy tối kỵ nỗi sợ. Thầy cấm chúng con sợ. Thầy bảo sợ là yếu tin, là hèn. Chúng con sợ là chúng con làm nhục tình yêu và uy quyền của Thầy. Có lẽ Gioan là người hiểu thấm thía cái tính mỉa mai ấy của Thầy, nên sau này ông đã nói một câu tuyệt vời: “Tình yêu loại trừ nỗi sợ. Ai sợ là chưa có tình yêu hoàn hảo (1 Ga 4,18)

 

Thầy kính mến.

 

Thầy ghét nổi sợ. Thầy mỉa mai người sợ. Thầy muốn hủy bỏ động từ SỢ trong cuộc sống hằng ngày. Thầy cấm sợ và chống lại nỗi sợ trong niềm tin và trong quy luật yêu thương. Thế nhưng thế gian này vẫn đầy nỗi sợ. Có những cái sợ buồn cười đến chảy nước mắt: Sợ chuột. Có những nỗi sợ làm rung động cả thế giới: Sợ khủng bố. Có những nỗi sợ thầm kín tưởng như có, lại tưởng như không, nhưng vẫn tràn lan qua cửa miệng của con người: Sợ vợ. Có những cái sợ người ta cố tình gieo rắc để có một xã hội trật tự, ngăn nắp và đẹp mắt: “Sát nhất nhân, vạn nhân cụ”, giết một người để hàng chục ngàn người phải sợ. Còn có những nỗi sợ người ta cố tình rao giảng để ngăn ngừa tội lỗi: Sợ hỏa ngục. Và … hỡi ôi, người ta còn dạy nhau sợ Chúa nữa! Cả một dân tộc, cả một truyền thống tôn giáo dạy nhau sợ Giavê như một quan tòa chí công, như một ông thần hẹp hòi đòi phạt tội của Cha đến ba, bốn dời: “An phạt Chúa đã dành, xin Ngài bắt chúng nuốt cho đầy bụng, cả đàn con cũng được ăn thỏa thích, phần còn lại, cho bầy cháu mai sau” (Tv 16,14). Tội nghiệp cho Chúa Cha, tội nghiệp cho Thầy!

 

Còn bản thân con thì:

 

1. Chính con cũng đã sợ, sợ rất nhiều: sợ ma, sợ hỏa ngục và … sợ Chúa. Sợ suốt thời thơ ấu. Sợ suốt thời niên thiếu. Bây giờ thì con thôi sợ rồi, hạnh phúc vô cùng!

 

2. Con đã bị người ta lợi dụng để gieo nỗi sợ cho trẻ thơ. Một bà mẹ dọa thằng cu tí đang khóc: Mày mà không nín, tao mét “ông cố”, “ông cố” cắt chim mày. Thằng cu tí tái mặt, nín bặt, hai tay bụm lại làm lá chắn an toàn … Cả thằng cu tí lẫn con đã trở thành nạn nhân của một người đàn bà vô tình. Buồn quá!

 

Thầy kính mến.

 

Suy bụng ta ra bụng người. Con thương thân mình, con lại thương Thầy. Vì thương Thầy mà con quyết tâm thôi sợ. Con không quên được hình ảnh Thầy: nghiêm nghị, mỉa mai, chế diễu các tông đồ là “Bọn hèn tin”, chỉ vì họ sợ. Thế thôi.

 

Lm. Piô NGÔ PHÚC HẬU

Mục lục

 

 

 


 

[1][1] Vài nét về cây Thánh Giá Giới Trẻ :

Cây Thánh Giá ngày Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới được làm bằng gỗ thiên nhiên, đơn sơ và được gọi từ lúc đầu với nhiều tên khác như “Cây Thánh Giá Năm Thánh”, “Cây Thánh Giá năm kỷ niệm hồng ân ơn cứu chuộc”“Cây Thánh giá của Giới Trẻ”. Đó là những danh xưng của Cây Thánh Giá được Đức thánh cha Gioan Phaolo II cho dựng ở công trường đền thờ Thánh Phêrô vào dịp mừng kỷ niệm “Năm Thánh Cứu Độ” (kỷ niệm 1.950 năm Chúa Giêsu chịu thương khó, chịu chết và sống lại), cử hành từ 25.3.1983–22.4.1984, và sau đó trao cho Giới Trẻ Thế Giới. Cây Thánh Giá này đã được Giới Trẻ đón nhận và rước đi vòng quanh khắp các Châu lục.

Một vài con số liên hệ đến kích thước của Cây Thánh Giá ngày Giới Trẻ Thế Giới được làm bằng gỗ thiên nhiên : chiều cao của cây thẳng đứng 3m80 ; bề rộng của cây ngang 1m75 ; bề rộng của khúc gỗ 25cm ; bề dầy khúc gỗ 05cm ; sức nặng 31 kg. Khi di chuyển trên máy bay hay xe, Cây Thánh Giá ngày Giới Trẻ Thế Giới được được tháo ra hai khúc dọc và ngang, rồi được đặt trong một thùng dài 4m ; rộng 35,4cm, cao 15,6cm, sức nặng 53kg. Cây thánh giá được dựng trên một chân đế bàng sắt cao 51cm ; mặt rông phía trước và sau mỗi phía 45cm ; mặt rộng hai bên mỗi phía 50cm, sức nặng của chân đế 3 kg. Chân đế cây thánh giá cũng được đựng trong một hòm khi di chuyển có chiều dài 6cm, chiều ngang 60cm, chiều cao 70cm và nặng 15kg.