mu
mục lục
Đức Thánh Cha dâng lễ cầu hồn cho Đức Tổng Giám Mục Paulos Faraj Raho
ĐHY Quốc vụ khanh chủ sự lễ an táng Chị Chiara Lubich
Ủy ban Giáo hoàng về Trung Quốc tổ chức cuộc họp đầu tiên tại Vatican
Tín hữu Công giáo tại Trung quốc
Đức Thánh Cha cử hành Chúa Nhật Lễ Lá tại Vatican
LỄ ĐẶT VIÊN ĐÁ ĐẦU TIÊN XÂY DỰNG NHÀ THỜ PHÚ BÌNH
THÁNH LỄ TRUYỀN DẦU TẠI NHÀ THỜ CHÍNH TÒA ĐÀLẠT
ĐẠI HỘI GIỚI TRẺ MÙA CHAY TỔNG GP. SAIGON
Lời Chủ Chăn tháng 4, Mùa Phục Sinh năm 2008
BÀI GIẢNG LỄ TRUYỀN DẦU TẠI GIÁO PHẬN LONG XUYÊN
Lễ Hội Tuần Thánh trong Văn hoá Dân tộc Việt Nam
Bài giảng Tĩnh tâm Giới trẻ Mùa Chay 2008
Dạy con bằng quyền lực hay tình yêu thương
Chúa Nhật Phục Sinh
"Người phải sống lại từ cõi chết".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ, bà liền chạy về tìm Simon-Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu". Phêrô và môn đệ kia ra đi đến mồ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô, và đến mồ trước. Ông cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong. Vậy Simon-Phêrô theo sau cũng tới nơi, ông vào trong mồ và thấy những dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ. Bấy giờ môn đệ kia mới vào, dù ông đã tới mồ trước. Ông thấy và ông tin, vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng, theo Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết.
Đó là lời Chúa.
Khi nói đến đá hay đá tảng, người ta thường nghĩ tới ý tốt lẫn ý xấu.
Để chỉ một ý hướng tốt, người ta coi đó là chỗ dựa vững chắc. Trong Kinh Thánh vẫn nhìn nhận “Chúa là núi đá cho tôi nương ẩn”. Chúa Giêsu xây dựng Giáo hội trên đá tảng là Thánh Phêrô : “Phêrô con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”.
Tuy nhiên, đá tuy cứng nhưng cũng có nhược điểm :“Nước chảy đá mòn”. Để chỉ những người yếu chống lại những thế lực mạnh, người ta thường nói “trứng chọi với đá” chỉ một người lì lợm, người ta thường nói “trơ như đá”.
Tin Mừng của Chúa Nhật Phục Sinh cũng liên hệ đến tảng đá che chắn cửa mộ của Chúa Giêsu. Với diễn biến của “Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần”. Cùng một sự kiện “tảng đá lăn ra khỏi mồ”, Mađalêna đi đến kết luận “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mồ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”. Còn Gioan “ông đã thấy và đã tin”.
Với một tảng đá thất vọng, Mađalêna chỉ thấy tảng đá là sự kết thúc. Còn Gioan lại thấy niềm hy vọng khi thấy tảng đá lăn ra
Tảng đá trong tâm hồn
Với một tảng đá tham lam đè nặng và che khuất tâm hồn, Giuđa đã bán thầy với giá 30 đồng bạc.
Với một tảng đá của sợ hãi đè nặng đã làm cho Phêrô chối thầy đến 3 lần. Còn những tong đồ khác lại bỏ trốn vì sợ liên luỵ đến Thầy Giêsu.
Mỗi người cũng bị một tảng đá vô hình nào đó đè nặng trên tâm hồn mình. Tảng đá đó có thể là những đam mê xấu làm cho tôi không còn thấy những điều hay lẽ phải. Phaolô từng nói : “ Điều tôi muốn tôi không làm, điều tôi không muốn tôi lại làm”.
Tảng đá có thể là những hận thù gây ra cảnh “ con cái chống đối cha mẹ và làm cha mẹ phải chết”.
Tảng đá của đam mê dục vọng khiến nhiều người “tham vàng bỏ ngãi”, “ đứng núi này trông núi nọ”, làm nhiều gia đình rơi vào cảnh “tan đàn xẻ nghé”.
Tảng đá được Thiên Chúa lăn ra khỏi tâm hồn tôi.
Dù người Do Thái tin rằng tảng đá đã khóa chặt Đức Giêsu người tự xưng là con Thiên Chúa thì Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu sống lại. Bởi thế niềm vui Phục sinh là niềm vui của những người được Thiên Chúa lăn tảng đá đam mê ra khỏi tâm hồn họ và làm cho tâm hồn của họ được bình an.
Niềm vui Phục sinh còn là niềm vui của những người được Thiên Chúa giải thoát khỏi những sự cắn rứt của lương tâm.
Một Phaolô đã sống trọn vẹn niềm vui Phục Sinh khi Thiên Chúa lăn cái vảy ra khỏi mắt ông và ông nhìn thấy và dấn bước theo Đức Giêsu.
Một Giakêu, Lêvi đã được Đức Giêsu giải thoát khỏi tảng đá của tội lỗi và họ nhẹ nhàng thanh thản bước theo Chúa Giêsu.
Còn biết bao nhiêu gương mặt được giải thoát khỏi những tảng đá vô hình để bước theo Chúa Giêsu.
Lm. Đaminh Đặng Quốc Hưng
Khi tham dự lễ nghi tuần thánh, nhiều người đã được ơn Chúa đánh động. Riêng đối với tôi, ơn Chúa đánh động mạnh nhất đã đến từ lời Chúa Giêsu trên thánh giá: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46)
Lời cầu đem lại sự bình an.
Lời cầu mang đến ơn cứu độ.
Số người dùng lời Chúa trên đây để cầu nguyện phải kể là rất đông. Với nhiều ý thức khác nhau, nhưng cách riêng với những ý thức sau đây:
1) Ý thức mình tội lỗi bất toàn
Nhận mình tội lỗi bất toàn, đó là việc chúng ta làm mà không sợ xấu hổ. Không cần xét đâu xa, ở đây chúng ta chỉ nhìn vào những điều Chúa Giêsu dạy đặc biệt trong tuần thánh. Khiêm tốn rà soát lại từng điều. Chúng ta sẽ thấy chúng ta đã lỗi lầm nhiều.
a) Phải chu toàn thánh ý Chúa Cha.
Trong vườn cây Dầu, Chúa Giêsu cầu nguyện: “Abba, Cha ơi, Cha có thể làm được mọi sự. Xin cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 14,36).
Tư tưởng “Vâng ý Chúa Cha” tới cùng đã là một lập trường không lay chuyển của Chúa Cứu Thế. Nên khi môn đệ Simon-Phêrô tuốt gươm định chém kẻ bắt Thầy, Thầy đã quả quyết: “Chén đắng Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống” (Ga 18,11)
Chi tiết trên đây cho thấy: Nhiều khi thực hiện thánh ý Chúa là điều không dễ. Vì đó là chén đắng. Vì đó là bị nộp, để đi vào tử nạn. Tính tự nhiên muốn tránh. Bạn bè ngăn cản. Nhưng Chúa Giêsu đã can đảm và khiêm tốn vâng phục. Còn chúng ta đâu được như Người. Trốn tránh, cưỡng lại dưới nhiều lý do tự chọn, để theo ý riêng mình.
Về điểm “vâng phục ý Chúa” chúng ta có nhiều điều phải khiêm tốn nhận lỗi, để được thứ tha trong lời cầu: “Con xin phó thác con trong tay Cha”.
b) Phải thực thi điều răn mới
Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã trối lại một điều răn mới: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là: Các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34)
Đặc điểm của điều răn mới là: “Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13,34)
Công dụng của điều răn mới là: “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35)
Điều răn yêu thương quả là điều răn tối cần thiết, mà Chúa Giêsu đã tha thiết trối lại.
Yêu thương nhau, như Chúa Giêsu đã yêu thương, là phải rất khiêm nhường, theo gương Chúa Giêsu rửa chân, là phải rất tha thứ, theo gương Chúa Giêsu tha thứ cho mọi kẻ làm khổ Người, là phải rất hy sinh, theo gương Chúa Giêsu đã tự nguyện đền tội thay cho mọi người.
Từ khi bị bắt cho đến khi tắt thở trên thánh giá, Chúa Giêsu đã nói rất ít. Người không phản ứng. Không phản ứng trước những lời vu khống. Không phản ứng trước những thái độ khiêu khích. Không phản ứng trước những cử chỉ nhục mạ. Người chỉ trình bày một lập trường. Trình bày một cách bình tĩnh, lịch sự và yêu thương.
Với những gì Chúa Giêsu đã sống trong cuộc tử nạn, Người đã nêu gương bác ái cho chúng ta.
Đem gương đó soi vào mình ta, ta sẽ thấy ta còn rất nhiều thiếu sót trong nhiệm vụ thực thi bác ái.
Để ăn năn sám hối, chúng ta nên khiêm nhường đặt mình trong tay Chúa: “Lạy Cha, con xin phó thác con trong tay Cha”.
c) Phải biết ơn vì bí tích Thánh Thể, bí tích Truyền Chức Thánh
Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể và bí tích Truyền Chức Thánh. “Người cầm lấy bánh, dâng lời cảm tạ, bẻ ra, trao cho các môn đệ và nói: Đây là mình Thầy, hiến tế vì các con. Các con hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy. Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói: Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì các con” (Lc 22,19-20)
Phép bí tích Thánh Thể và bí tích Truyền Chức được thiết lập từ đó. Với hai bí tích này, Chúa Giêsu muốn ở lại với loài người một cách đặc biệt. Ở lại như một hiến lễ, như một giao ước.
Giáo Hội luôn biết ơn Chúa vì hai bí tích này. Kinh nghiệm cho thấy: Nơi nào có Thánh Thể, thánh lễ và các vị mang chức thánh ở lại, nơi đó được chính Chúa hiện diện một cách đặc biệt.
Sự hiện diện đó phải được đón nhận bằng đức tin khiêm nhường. Không có đức tin khiêm nhường, người ta sẽ dễ vấp phạm. Vấp phạm đến phép Thánh Thể sẽ dễ xúc phạm đến phép Truyền Chức. Xúc phạm đến phép Truyền Chức sẽ dễ vấp phạm đến phép Thánh Thể. Sau cùng cứ thế, không chừng chính chúng ta lại trở thành những kẻ đóng đinh Chúa Giêsu và Hội Thánh của Người.
Nếu đó là sự thực, thì tình hình sẽ rất khủng khiếp. Chúng ta chỉ có thể bắt đầu bằng lời cầu: “Lạy Cha, con xin phó thác con trong tay Cha”.
2) Ý thức mình sống trong thử thách
“Lạy Cha, con xin phó thác con trong tay Cha”. Lời cầu đó ngày nào cũng vọng lên từ những tâm hồn sám hối. Lời đó càng khẩn khoản hơn từ những người sống trong thử thách.
Ông Simon-Phêrô tưởng vững như đá. Nhưng ngài đã sụp đổ do việc chối Thầy. Các tông đồ khác tưởng ổn định như tia sáng bởi trời. Nhưng các ngài đã ra tối tăm, kẻ thì do bán Thầy, kẻ thì do bỏ Thầy mà trốn.
Còn Đức Mẹ Maria thì tan nát tâm can. Mẹ sống trong đau đớn cực độ. Đau đớn là một thử thách nặng nề.
Bà Madalena và mấy phụ nữ đi tìm xác Chúa với nước mắt và kiên trì. Nước mắt và kiên trì là những thử thách cam go.
Tất cả các vị trên đây đã chịu thử thách. Các ngài luôn phó thác mình cho Chúa. Sau cùng các ngài không những đã gặp được Chúa, mà còn được đưa vào trái tim Chúa phục sinh giàu lòng thương xót.
Để kết bài chia sẻ này, tôi xin nói lên một kinh nghiệm, đó là: “Lời cầu: Con xin phó thác con trong tay Cha” đã làm lại lịch sử không biết bao nhiêu người.
Lịch sử của người phó thác có phần là lịch sử riêng họ, có phần là lịch sử tôn giáo và xã hội thời họ sống. Một lịch sử như thế không thể trừu tượng chung chung.
Nhưng nhìn sâu vào lịch sử của những người phó thác, tôi thấy nhân tố chính viết nên lịch sử đó, chính là tay Chúa
ĐGM. GB Bùi Tuần
Vatican - Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI đã dâng lễ cầu hồn cho Đức Tổng Giám Mục Paulos Faraj Raho của tổng giáo phận Mosul, người đã bị bắt cóc hôm 29/2 và đã tìm thấy xác hôm 13/3 vừa qua.
Trong thánh lễ cử hành tại nhà nguyện Redemptoris Mater trong điện tông tòa với sự tham dự của nhiều vị Hồng Y, Tổng Giám Mục và ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh, Đức Thánh Cha nói rằng những biến cố diễn ra trong Tuần Thánh cho thấy “một tương phản sâu sắc giữa sự thật và dối trá, giữa sự hiền từ và chân thật của Chúa Kitô với bạo lực và sự quỷ quyệt của những kẻ thù ghét Ngài”. Chúng ta cũng thấy sự tương phản đó trong cái chết của Đức Tổng Giám Mục Raho.
Đức Thánh Cha đã dành nhiều thời gian để quảng diễn bài đọc theo sách Tiên Tri
Isaiah và lời tiên tri về người tôi tớ trung tín công bố công lý. Chúa Kitô,
người Tôi Tớ “khi phải đối diện với bản án bất công vẫn làm chứng cho sự thật,
vẫn trung tín với lề luật yêu thương”.
Đức Cha Raho, noi gương Chúa Kitô, đã vác lấy thập giá của mình và “vì thế ngài
đóng góp cho việc mang lại hòa bình cho đất nước tử đạo và cho toàn thể thế
giới, khi đưa ra chứng tá cho sự thật của mình”.
Từ khi biết Đức Cha Raho chết trong lúc bị bắt giữ - có lẽ vì những thương tích
do những kẻ bắt cóc gây ra hay cũng có thể do không có những thuốc men cho bệnh
tim của ngài - thế giới “đã than khóc trước cái chết của ngài và trước cách thế
vô nhân đạo mà ngài đã bị buộc phải theo để kết thúc cuộc sống của mình”. Tuy
nhiên, Đức Thánh Cha nói thêm là chúng ta tạ ơn Chúa vì những điều tốt lành Đức
Tổng Giám Mục đã thực hiện trong cuộc sống và trong chứng tá của ngài.
Trong Chúa Nhật Lễ Lá tại quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha cũng đã nhắc
đến Đức Tổng Giám Mục Raho “như một chứng tá đẹp đẽ về lòng trung tín đối với
Đức Kitô, với Giáo Hội và với dân mà ngài không muốn bỏ rơi bất chấp nhiều de
dọa”.
Đức Tổng Giám Mục Công Giáo Chalđê Paulos Faraj Rahho tại Mosul, 65 tuổi đã bị bắt cóc vào ngày 29/2 trong lúc người lái xe và 2 người cận vệ không vũ trang đã bị giết tại chỗ. Kể từ đó Đức Thánh Cha đã nhiều lần công khai kêu gọi để thả tự do cho Ngài.
Trong một điện văn được gởi tới trong ngày Thứ Năm 13/3 tới Đức Hồng Y
Emmanuel-Karim Delly tại Baghdat, Thượng Phụ Giáo Hội Công Giáo Chalđê, Đức
Thánh Cha Bênêđíctô XVI đã nói sau khi được báo tin đến “cái chết thể thảm” của
vị Tổng Giám Mục, mà Đức Thánh Cha đã gọi ngài là một “vị mục tử nhiệt thành”,
Đức Thánh Cha muốn gởi tới tín hữu Công Giáo Chalđê và tất cả các tín hữu Kitô
tại Iraq biết rằng Đức Thánh Cha gần gũi với họ.
Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI cũng nói ngài đang cầu nguyện để Thiên Chúa tỏ lòng
“khoan nhân để biến cố thảm thương này sẽ xây dựng một tương lại hòa bình cho
vùng đất tử đạo tại Iraq”.
Linh Mục Dòng Tên Federico Lombardi, Giám Đốc Văn Phòng Báo Chí Tòa Thánh cho
biết Đức Giáo Hoàng đã được báo tin ngay lập tức sau khi tìm thấy xác của Đức
Tổng Giám Mục Rahho.
“Chúng ta tất cả tiếp tục hy vọng và cầu nguyện cho sự tự do cho Ngài, nhưng
tiếc thay, bạo lực vô lý và bất công nhất vẫn đè nặng trên cư dân Iraq và nhất
là trên cộng đồng thiểu số Kitô Giáo, là những người mà Đức Giáo Hoàng và tất cả
chúng ta gần gũi cách đặc biệt trong lời cầu nguyện và trong sự liên kết tới giờ
phút đau thương to lớn này”.
Cha Lombardi nói rằng Tòa Thánh Vatican hy vọng “biến cố thảm thương” sẽ dẫn đến một sự cam kết mạnh mẽ cho tất cả mọi người, nhất là các cộng đồng quốc tế, làm việc cho hòa bình tại Iraq.
Đức Giám Mục Phụ Tá Công Giáo Chalđê Warduni tại Baghdat đã nói với Thông Tấn Xã
Công Giáo SIR rằng bọn bắt cóc đã báo cho các vị lãnh đạo Giáo Hội vào ngày 12/3
rằng “Tổng Giám Mục Rahho rất đau yếu”, rồi vài tiếng đồng hồ sau họ điện thoại
một lần nữa nói rằng ngài đã chết.
Đức Giám Mục Warduni nói “Sáng nay (thứ Năm 13/3) họ đã điện thoại và nói cho
chúng tôi chỗ chôn cất ngài”.
Giáo Hội đã gởi nhiều thanh niên trẻ tới khu vực ngoại ô Mosul nơi bọn bắt cóc
chỉ điểm nơi chôn cất, và xác của ngài đã được tìm thấy.
“Chúng tôi không biết là nguyên nhân vì sức khoẻ hiểm nghèo của ngài hay ngài đã
bị giết”. Đức Giám Mục Warduni đã muốn nói tới tình trạng bệnh tim của ngài mà
phải cần uống thuốc mỗi ngày. “Bọn bắt cóc chỉ nói rằng ngài đã chết”.
Đức Giám Mục Công Giáo Chalđê Rabban al Qas tại Arbil đã nói cho Thông Tấn Xã
Công Giáo AsiaNews rằng “Thật là một thánh giá nặng nề cho giáo hội trước lễ
Phục Sinh”.
Đức Tổng Giám Mục Rahho đã bị bắt cóc sau khi hướng dẫn buổi suy gẫm Chặng Đàng
Thánh Giá tại Thánh Đường Thánh Linh tại Mosul. Tất cả 4 người đang đi trên
chiếc xe hơi bị tấn công, tài xế và 2 cận vệ đã bị bắn và chết tại chỗ.
Bọn bắt cóc, lúc đầu đòi tiền chuộc 1 triệu Mỹ Kim, sau đó lên 2 triệu và cuối
cùng lên 3 triệu.
Trong khi những người đứng làm trung gian đã liên lạc với bọn bắt cóc, thế nhưng
công an và các viên chức tình báo vẫn không thể tìm ra chúng.
Thủ Tướng Iraq Nouri al-Maliki đã ra lệnh cho lực lượng Iraq phải nỗ lực tối đa để cứu thoát vị Tổng Giám Mục, thế nhưng vị chỉ huy lực lượng Hoa Kỳ tại vùng phía Bắc Iraq nói rằng ông không tin là Đức Tổng Giám Mục sẽ được tìm thấy sống sót.
Thiếu Tướng Mark P Herling đã nói vào ngày 5/3 rằng Đức Tổng Giám Mục Rahho “có
thể dễ dàng bị giết và đây thật là điều đáng tiếc”.
Khi vừa được tin Đức Tổng Giám Mục bị bắt cóc, Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI đã
bắt đầu kêu gọi cầu nguyện để ngài được tự do và kêu gọi chấm dứt đến bạo lực
tại Iraq.
Trong lời kêu gọi vào ngày Chúa Nhật 9/3 trong buổi đọc Kinh Truyền Tin, Đức Đức
Thánh Cha đã nói, rất nhiều người Iraq “tiếp tục chịu đau khổ vì bạo lực mù
quáng và phi lý, là điều chắc chắn đi ngược lại ý muốn của Thiên Chúa”.
ROMA. Chiều 18-3-2008, ĐHY Bertone, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, đại diện ĐTC, đã chủ sự thánh lễ an táng Chị Chiara Lubich, người sáng lập Phong trào Focolari, Tổ Ấm.
Trước khi thánh lễ bắt đầu lúc 3 giờ chiều, từ 1 giờ 45, đã có phần thánh ca kèm
theo các bài suy niệm của Chị Lubich, sau đó các vị lãnh đạo Kitô và các tôn
giáo khác đã lên tiếng phát biểu ca ngợi và cám ơn chị Lubich vì những đóng góp
của chị cho hòa bình, phong trào đại kết Kitô và sự xích lại gần nhau giữa các
tôn giáo. Các vị cũng nói đến ảnh hưởng linh đạo của chị Lubich đối với đời sống
bản thân của các vị. Chị Lubich đã từng là Chủ tịch danh dự của Hội đồng các tôn
giáo thế giới về hòa bình.
Tham dự lễ an táng có Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Italia, Chủ tịch Hạ Viện
Fausto Bertinoti, cùng với một số bộ trưởng và đại biểu quốc hội Italia, và lối
40 ngàn người đến từ Italia, Âu Châu và các đại diện từ các châu lục khác. Một
số phụ nữ Việt Nam trong quốc phục áo dài cũng hiện diện. Nhiều người tham dự
thánh lễ từ quảng trường bên ngoài. Lễ an táng được đài Rai Uno và nhiều đài
khác của Italia và nước ngoài trực tiếp truyền đi. Ngoài ra, tại nhiều thành phố
trên thế giới, có nối mạng truyền hình để các thành viên và bạn hữu của Phong
trào Tổ Ấm có thể theo dõi Thánh Lệ.
Đồng tế thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành có 15 Hồng y, trong đó có
ĐHY Stanislaw Rylko, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về giáo dân, ĐHY Kasper, Chủ
tịch Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô, ĐHY Andrea di Montezemolo,
Giám quản Đền thờ Thánh Phêrô, cùng với đông đảo các GM và LM, đặc biệt là ĐHY
Miroslav Vlk, TGM Praha, vốn là thành viên của Phong trào Tổ Ấm. Nhiều vị khác
là các vị HY tổng trưởng và Chủ tịch các cơ quan trung ương Tòa Thánh. Ngoài ra
có hơn 40 GM và hàng trăm linh mục.
ĐTC đã gửi sứ điệp được chính ĐHY Bertone tuyên đọc tại buổi lễ, trong đó ngài
tái nồng nhiệt chia buồn với với các vị lãnh đạo và toàn thể Phong trào Tổ Ấm
cũng như những người cộng tác với chị Chiara Lubich, chứng nhân quảng đại của
Chúa Kitô. Ngài cũng khẳng định rằng có rất nhiều lý do để cảm tạ Chúa vì hồng
ân Người ban cho Giáo Hội nơi người phụ nữ có đức tin can trường, người sứ giả
hiền hậu của hy vọng và hòa bình, sáng lập một đại gia đình thiêng liêng bao
trim nhiều lãnh vực truyền giảng Tin Mừng.
ĐTC không quên đề cao lòng trung thành và tuân phục của Chị Lubich đối với Huấn
quyền Hội Thánh, các vị Giáo Hoàng từ Vị Tôi Tớ Chúa Piô 12 cho đến nay, và ngài
nhấn mạnh rằng 'Giờ đây di sản của Chị được chuyện cho gia đình thiêng liêng của
Chị. Xin Đức Trinh Nữ Maria, mẫu gương mà Chị Chiara luôn tham chiếu, giúp mỗi
thành viên Phong trào Tổ Ấm tiếp tục tiến bước trên cùng con đường để giúp biến
Giáo Hội ngày càng trở thành một căn nhà và một trường hiệp thông”.
Về phần ĐHY Bertone, trong bài giảng, ngài cũng đề cao công trình của Chị Chiara
Lubich, và nêu bật bí quyết của chị là biến cuộc đời mình thành một bài ca chúc
tụng Tình thương của Thiên Chúa, chúc tụng Thiên Chúa là Tình Thương. ”Ai ở
trong tình thương thì ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong người ấy”. Bao
nhiêu lần chị Chiara đã suy niệm những lời này và bao nhiêu lần chị đã nhắc lại
trong các tác phẩm của chị, ví dụ trong những tờ ”Lời sự sống” như nguồn mạch mà
hàng trăm ngàn người đã kín múc từ đó để huấn luyện tinh thần cho mình!
ĐHY Quốc vụ khanh Tòa Thánh ghi nhận trong thế kỷ 20, có những biến cố đau
thương, với 2 cuộc thế chiến, nhưng đó cũng là thế kỷ trong đó Thiên Chúa đã gợi
lên vô số những người nam nữ anh hùng, trong khi thoa dịu các vết thương của các
bệnh nhân và chia sẻ số phận của những người bé mọn, người nghèo và những người
rốt cùng, phân phát bánh tình thương chữa lành các tâm hồn, mở rộng tâm trí đón
nhận chân lý.. Trong bối cảnh đó, vị sáng lập Phong trào Tổ Ấm, với lối sống
thầm lặng và khiêm hạ, đã không thành lập các tổ chức từ thiện và thăng tiến
nhân bản, nhân tận tụy thắp lên ngọn lửa tình thương của Thiên Chúa trong các
tâm hồn. Chị khích lệ con người trở thành chính tình thương, những người sống
đoàn sủng hiệp nhất và hiệp thông với Thiên Chúa và tha nhân; những người phổ
biến ”tình thương - hiệp nhất', biến bản thân, gia đình và nơi làm việc của mình
thành một ”tổ ấm” trong đó tình yêu thương nồng cháy loan tỏa sang người khác và
đốt cháy những gì ở gần.”
Chị Chiara Lubich, người sáng lập phong trào Tổ Ấm Focolare, đã về nhà Cha trên
trời vào lúc 2 giờ sáng nay thứ Sáu 14/3/2008 theo giờ Rôma. Chị qua đời tại nhà
riêng ở Rocca di Papa, gần Rôma. Sau một thời gian điều trị lâu dài tại bệnh
viện Gemelli, chị đã được đưa về nhà theo ý nguyện.
Theo thông cáo báo chí của phong trào Focolare, chị đã “ra đi trong thanh thản
và trong bầu khí sốt sắng cầu nguyện”. Thông cáo cho biết “Nguyên ngày hôm qua,
hằng trăm người gồm thân nhân, những cộng sự viên và những người con tinh thần
đã ghé thăm phòng chị để chào tạm biệt trước khi tập trung bên trong và chung
quanh một nhà nguyện. Một đoàn rước không gián đoạn và tự phát. Với một số
người, chị Chiara đã ra dấu nhận ra, dù sức khoẻ của chị đã rất yếu”.
Chị Chiara Lubich (tên rửa tội là Silvia) sinh tại thành phố Trentô, miền Bắc
Italia, vào năm 1920. Năm 1943, giữa thời thế chiến thứ hai, cùng với vài người
bạn, Chị Chiara Lubich đã bắt đầu sống thực hành giáo huấn phúc âm trong cảnh
sống hằng ngày. Nhóm bạn sống phúc âm này quy tựu lại với nhau thành một cộng
đoàn nhỏ, gọi là "Focolare", tức "Tổ Ấm", khai sinh một phong trào sống phúc âm
giữa đời, mà hiện nay được biết đến với tên gọi "Phong Trào Tổ Ấm", có mặt tại
182 quốc gia, thuộc khắp năm châu, với khoảng 4 triệu thành viên. Ðiều đặc biệt
là trong số thành viên của Phong Trào "Tổ Ấm", có cả những thành viên kitô,
nhưng không phải là công giáo, đến từ 350 giáo hội kitô, hoặc cộng đồng giáo hội
kitô khác nhau. Và có cả những anh chị em hồi giáo, do thái giáo, phật giáo, ấn
độ giáo, lão giáo, vân vân,... đến sinh hoạt trong phong trào. Như thế, với dòng
thời gian, từ một "tổ ấm" nhỏ sống tinh thần phúc âm, một phong trào lớn được
khai sinh, dựa trên tinh thần tu đức hiệp thông, quy tựu những con người thuộc
mọi lứa tuổi, chủng tộc, văn hoá, ngôn ngữ, ngành nghề, hoàn cảnh xã hội. Ðó là
những con người dấn thân trở thành "men tình yêu thương", nhắm xây dựng một thế
giới liên đới hơn, hiệp nhất hơn.
Riêng tại Thụy Sĩ, Phong Trào Tổ Ấm đã có mặt hoạt động từ năm 1962; và hiện có
1,500 thành viên tích cực hoạt động và khoảng 30,000 cảm tình viên. Trên bình
diện xã hội, kinh tế và chính trị, tại Thụy Sĩ, phong trào Tổ Ấm nhắm đến việc
xây dựng, cùng với tất cả mọi công dân trong nước, một thế giới huynh đệ giữa
tất cả mọi người, một thế giới biết chia sẻ công bằng những của cải tài nguyên,
một thế giới hoà bình. Chẳng hạn như trên bình diện kinh tế, Phong Trào Tổ Ấm
tại Thụy Sĩ, đã khai sinh dự án có tên gọi là "Kinh Tế của Hiệp Thông", quy tựu
được 700 công cuộc kinh doanh tham dự.
Nhìn chung, trong hơn 60 năm sinh hoạt, Phong Trào Tổ Ấm do chị Chiara Lubich
sáng lập và làm chủ tịch, đã gợi hứng và khai sinh biết bao sáng kiến cụ thể,
cho người lớn, cũng như cho các bạn trẻ và cho cả những trẻ nhỏ nữa.
Ðể đáp lại tình trạng bất bình đẳng xã hội, chị Chiara Lubich, vào năm 1991, đã
thành lập tại Sao Paolo, bên Brazile, dự án kinh tế được gọi là "Kinh Tế của
Hiệp Thông"; Hiện nay, sáng kiến này hoạt động tại nhiều quốc gia trên thế giới,
theo gợi hứng của tu đức hiệp thông của phong trào Focolare.
Dấn thân của Chị Chiara Lubich đã mang lại nhiều giải thưởng tôn vinh chính cá
nhân của Chị: năm 1977, Chị được giải thưởng Templeton vì sự Tiến Bộ Tôn Giáo;
năm 1996, giải thưởng của UNESCO vì sự giáo dục cho Hoà Bình; năm 1998, giâi
thưởng Âu Châu vì Nhân Quyền. Ðặc biệt, từ năm 1996 đến nay, chị Chiara Lubich,
đã nhận được 9 Bằng Tiến Sĩ Danh Dự, từ các Ðại Học tại Âu Châu, Châu Mỹ La
Tinh, Á Châu và Hoa Kỳ. Nhiều thành phố trên thế giới đã công nhận Chị là "Công
Dân Danh Dự" của thành phố. Chị là đương kim chủ tịch của Hội Ðồng Thế Giới Các
Tôn Giáo Phục Vụ Hoà Bình (WCRP). Chị đã thuyết trình ngày 24 tháng Giêng năm
2007, trong Hội Nghị Liên Tôn tại Assisi, Italia.
Chị Chiara Lubich là một giáo dân đơn sơ, nhưng có một uy quyền tinh thần cao
nhất. Ðược Ðức Gioan XXIII chấp nhận, được Ðức Phaolô VI lắng nghe, và được Ðức
Gioan Phaolô II mộ mến, Chị Chiara Lubich đã tham dự hai Thượng Hội Ðồng Giám
Mục Thế Giới.
Bài của Gerard O'Connell, Ðặc Phái viên ở Rôma
Rôma (UCAN ZY04609.1488 Ngày 10-3-2008) - Hai hồng y và năm giám mục Trung Hoa cùng với các giới chức cấp cao của Vatican và các đại diện dòng tu sẽ tham dự cuộc họp đầu tiên của ủy ban Giáo hoàng về Giáo hội ở Trung Quốc vào ngày 10-3-2008.
Ðức Thánh cha Bênêđictô XVI thành lập ủy ban này vào cuối năm 2007 nhằm nghiên cứu các vấn đề quan trọng liên quan đến Giáo hội Công giáo ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Vatican nói trong một bản tuyên bố của Văn phòng Báo chí Tòa Thánh phát hành hôm 8-3-2008 rằng cuộc họp từ ngày 10-12/3/2008 sẽ xem xét "những phản ứng" về bức thư Ðức Thánh cha Bênêđictô XVI gởi cho người Công giáo ở Trung Quốc đại lục hồi năm 2007. Ðài phát thanh Vatican cũng phát đi bản tuyên bố này.
Ủy ban về Giáo hội Công giáo ở Trung Quốc cũng sẽ "đào sâu nội dung phong phú của bức thư, và qua đó, sẽ xem xét các khía cạnh quan trọng trong đời sống của Giáo hội ở Trung Quốc", bản tuyên bố của Vatican nói thêm.
Tầm ảnh hưởng, nội dung của bức thư và những điều cần phải làm theo là tâm điểm của cuộc họp. Ðây là bức thư đầu tiên và là một trong những kết quả quan trọng nhất của cuộc họp cấp cao về Giáo hội Công giáo ở Trung Quốc đại lục được tổ chức tại Vatican từ ngày 19-20/1/2007 do Ðức Thánh cha Bênêđictô triệu tập.
Cuộc họp đó đề nghị Ðức Thánh cha viết thư cho người Công giáo ở Trung Quốc đại lục. Ngài đã đồng ý khi cuộc họp vẫn còn đang tiếp diễn, và đã ký bản văn lịch sử này vào Chúa nhật Lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống, ngày 27-5-2007. Vatican đã phát hành bức thư này bằng tiếng Trung Quốc và các ngôn ngữ khác hôm 30-6-2007.
Ủy ban mà hôm nay sẽ chính thức hoạt động là một thành quả quan trọng nữa của cuộc họp cấp cao đó. Cuộc họp đã đề nghị thành lập một cơ quan loại này. Ðức Thánh cha chấp thuận ý tưởng đó và đã cho thành lập ủy ban mới này nhưng chưa được Vatican công bố.
Các nguồn tin cho UCA News ở Rôma biết rằng Ðức Hồng y Quốc vụ khanh Tòa Thánh Tarcisio Bertone sẽ chủ sự cuộc họp. Ngài vừa mới viếng thăm Armenia và Azerbaijan về.
Ðức Bênêđictô XVI, người theo dõi sát tình hình Giáo hội Công giáo Trung Quốc từ khi được bầu làm giáo hoàng ngày 19-4-2005, sẽ gặp gỡ và phát biểu trước các tham dự viên, có thể trong phiên họp bế mạc, như ngài đã làm tại cuộc họp cấp cao tháng 1-2007.
Các thành viên trong ủy ban bao gồm các giới chức cấp cao của các văn phòng trong Giáo triều Rôma rành về chủ đề này cũng như đại diện các giám mục Trung Quốc và đại diện các dòng tu. Vatican công bố như vậy nhưng không nêu tên bất kỳ người nào.
Các nguồn tin đoán số tham dự viên cuộc họp có thể là 35 người. Trong đó có Ðức Hồng y Joseph Zen Ze-kiun (Giuse Trần Nhật Quân) của Hồng Kông và Ðức Hồng y Paul Shan Kuo-hsi, giám mục về hưu của Cao Hùng, Ðai Loan. Ba giám mục Trung Quốc khác dự định sẽ tham dự cuộc họp là Ðức Tổng Giám mục John Hung Shan-chuan của Ðài Bắc, tân chủ tịch Hội đồng giám mục Công giáo ở Ðài Loan, Ðức Giám mục Joseph Lai Hung-seng của Ma Cao và Ðức Giám mục phó John Tong Hon của Hồng Kông.
Không có vị nào ở Trung Quốc đại lục tham dự cuộc họp này.
Các viên chức cấp cao của Vatican dự định sẽ tham dự cuộc họp gồm có Ðức Hồng y Ấn Ðộ Ivan Dias, tổng trưởng Thánh bộ Truyền giáo, và Ðức Hồng y William Levada, tổng trưởng Thánh bộ Giáo lý Ðức tin. Ðức Tổng Giám mục Ferdinando Filoni, viên chức đứng thứ ba ở Vatican với tư cách là sostituto, hay đại diện của Văn phòng Quốc vụ khanh, cựu sứ thần ở Philippines với nhiều kinh nghiệm về vấn đề của Trung Quốc, và Ðức Tổng Giám mục Dominque Mamberti, ngoại trưởng, cũng sẽ có mặt.
Các viên chức cấp cao khác của Vatican sẽ tham dự cuộc họp gồm Ðức Tổng Giám mục Claudio Maria Celli, tân chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Truyền thông Xã hội và là một trong các viên chức Tòa Thánh giàu kinh nghiệm nhất về vấn đề Trung Quốc, Ðức ông Pietro Parolin, thứ trưởng ngoại giao rất được kính trọng và Ðức ông Gianfranco Rota Graziosi. Cả ba vị đều từng được Tòa Thánh phái sang Bắc Kinh.
Ðiểm đặc biệt của cuộc họp là một số đại diện các dòng tu có quan hệ đặc biệt với Trung Quốc cũng được mời dự.
Cuộc họp cấp cao này sẽ có các phiên họp sáng và chiều mỗi ngày và sẽ bế mạc vào tối ngày 12-3-2008. Vì Vatican đã công bố cuộc họp, nên các nguồn tin cho rằng có thể, mặc dù không chắc, sẽ có một thông cáo báo chí được đưa ra vào cuối cuộc họp.
UCA News
Rome (Zenit) – Cứ xem số người Kitô giáo ở Trung quốc bị bắt giữ càng ngày càng
gia tăng, thì khó mà thấy rằng Bắc kinh đã có tiến bộ nào trong việc ban phát
cho dân chúng quyền tự do tôn giáo. Đó là lời Raphaela Schmid, một chuyên gia về
tự do tôn giáo, khi đề cập đến mối quan hệ không sáng sủa giữa Trung quốc và Tòa
thánh Vatican.
Bà Raphaela Schmid, giám đốc Viện Becket, quả quyết bà nghi ngờ không có sự gia
tăng tự do tôn giáo của Bắc kinh, vào lúc ủy ban về Giáo hội tại Trung quốc, do
Đức thánh cha Bênêđictô XVI thiết lập, đã nhóm họp tuần qua để xem xét hiệu quả
của lá thư ngài gửi cho giáo hữu Trung quốc ngày 27 tháng 5 năm ngoái.
Toà thánh Vatican cho biết ủy ban, gồm có các vị đứng đầu cơ quan pháp lý của
giáo triều Roma, cùng với một số thành viên của hàng giám mục và cộng đồng tu sĩ
Trung quốc, họp từ ngày thứ hai đến hết ngày thứ tư tuần qua, đã xem xét “sứ
mạng của Giáo hội như là công cụ cứu chuộc cho người dân Trung quốc” dưới ánh
sáng lá thư nói trên của Đức thánh cha.
Mục tiêu của Bà Schmid và Viện Becket là tìm ra những phương thức giáo dục công
luận về các vấn đề tự do tôn giáo hiện nay. Tình hình ở Trung quốc là một lãnh
vực họ chú tâm.
Bà cho thông tấn xã Zenit biết rằng bà coi việc ủy ban của Tòa thánh họp tuần
này như dấu hiệu “là Đức thánh cha đang cho [người Trung quốc] thêm thời giờ, và
để cho sứ điệp của ngài có thời gian thấm sâu hơn. Cần phải có phản hồi trước
khi tiến thêm những bước kế tiếp.”
Bà giải thích: “Lá thư của Đức thánh cha chỉ rõ rằng Giáo hội không có một nghị
trình chính trị nào, và yêu cầu người Công giáo phải là những công dân tốt. Đồng
thời lá thư cũng xác quyết việc không thể chấp nhận phục tùng chính quyền khi họ
can thiệp quá mức vào các vấn đề đức tin và kỷ luật của Giáo hội.”
Chính phủ Trung quốc chỉ cho người họ công nhận được phép tổ chức các hoạt động
tôn giáo, chỉ ở những địa điểm đã đăng ký với Văn phòng Tôn giáo vụ và dưới sự
kiểm soát của Hội Yêu Nước.
Bà quả quyết: “Lá thư của Đức thánh cha mô tả rất rõ rằng âm mưu của Hội Yêu nước muốn thực hiện độc lập, tự trị, tự quản và dân chủ hành chánh của Giáo hội, là những điều “không phù hợp với giáo lý Công giáo”, làm cho những người Công giáo thuộc Giáo hội “công khai” coi việc cộng tác với Hội Yêu nước cũng là trung thành với Tòa thánh Roma.”
Rõ ràng và cụ thể
Một số tín hữu ở Trung quốc chỉ giữ đạo “chui”, từ chối không hợp tác với Hội
Yêu nước. Tháng 7 năm rồi, 4 linh mục “chui” bị bắt giữ vì từ chối không gia
nhập hội. Một số tín hữu khác vừa trung thành với Roma vừa cộng tác phần nào với
chính quyền.
Bà Schmid cho rằng thông điệp của ĐGH Bênêđictô XVI nhằm vào nhóm thứ hai này và
là điểm chính của lá thư.
Bà nói rằng: “Còn điều quan trọng hơn nữa đối với tôi là Đức thánh cha đã yêu
cầu tất cả các giám mục thuộc giáo hội “công khai” đã hòa giải phải hiệp thông
“rõ rệt và cụ thể với Đức giáo hoàng.” Đó là điều đáng chú ý, vì có một số vị
tuyên bố trung thành với Roma nhưng đồng thời chủ trương sự độc lập của Giáo
hội, không để Roma kiểm soát, theo lời sai khiến của Hội Yêu nước.”
“Ở đây, một số theo dõi và phẩm định các tiến triển mới xẩy ra có thể rất hữu
ích cho Tòa thánh Vatican, để xem các giám mục và linh mục này thực tâm đến mức
độ nào đối với đạo Công giáo Roma của họ và sự tự do tôn giáo.”
“Lá thư của Đức thánh cha phác họa việc tự do tôn giáo đích thực khó mà có được
khi nào Hội Yêu nước còn kiểm soát Giáo hội và hội đồng giám mục”.
Bà kết luận: “Thật khó thấy được Bắc kinh đang có tiến bộ nào trong việc ban
phát tự do tôn giáo đích thực. Thời gian trước ngày Thế vận khai mạc, chúng ta
đã thấy có cuộc thanh trừng lớn lao nhất các thừa sai Kitô giáo ngoại quốc kể từ
ngày Cộng sản nắm quyền, và năm ngoái đã có nhiều vụ bắt giữ các tín hữu “chui”
hơn những năm trước.”
Với hàng chục ngàn người Hoa đang được chuẩn bị ráo riết để được đón nhận vào Giáo Hội Công Giáo trong Mùa Phục Sinh này, người ta thật khó nhận ra đây là mảnh đất mà trong thế kỷ 20 và cho đến hiện nay đã từng diễn ra những cuộc bách hại đạo Công Giáo tàn khốc nhất.
Trung Tâm Thánh Linh tại Hương Cảng cho biết trong Mùa Phục Sinh năm nay, sẽ có
ít nhất 14,500 người Hoa sẽ được rửa tội tăng khoảng 150% so với năm ngoái. Bộ
Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc ghi nhận trong mùa Phục sinh 2007 ít nhất
6.000 người đã được rửa tội trong 26 giáo phận và 41 giáo xứ lớn ở Trung quốc.
Một con số khích lệ hơn được UCAN đưa ra là hơn 10,000 người, đặc biệt 80% tân
tòng ở các thành phố lớn của Trung quốc có trình độ cao đẳng, đại học.
Các báo cáo cụ thể trong mùa Phục Sinh 2007 cho thấy giáo phận Nghi Châu có số
tân tòng gia tăng đáng kể. Mùa Phục sinh năm 2006 có 200 người, mùa Phục Sinh
2007 có 600 người. Trong năm nay con số ấy là gần 1000 người. Giáo phận Hàm Đan
có 500 người được rửa tội trong mùa Phục sinh 2007, năm nay tăng đến 600 người.
Trong khi đó, giáo phận Thương Châu sẽ có 600 người được rửa tội. Giáo phận Vệ
Huy, thuộc tỉnh Hà Nam ở phía bắc, và giáo phận Ô Lỗ Mộc Tề, ở Khu Tự trị Tân
Cương nơi có đa số người Hồi Giáo, mỗi nơi sẽ có khoảng 100 người được rửa tội.
Tại Bắc Kinh có hơn 1500 người được rửa tội tại 8 nhà thờ trong thành phố.
Sau Mùa Phục Sinh này, số người Công Giáo trên toàn lãnh thổ Hoa Lục sẽ vượt qua
con số 12 triệu. Theo báo cáo của tổ chức Trợ Giúp Các Giáo Hội Đau Khổ, mỗi năm
có tới gần 100,000 người gia nhập đạo Công Giáo dù cho bách hại vẫn tiếp diễn.
Hiện nay, 12 Giám Mục vẫn bị quản chế tại gia, cầm tù, và một số vị không biết
còn sống hay chết. Thế nhưng, Giáo Hội vẫn cứ tăng trưởng bất chấp mọi thứ.
Theo Trung Tâm Thánh Linh tại Hương Cảng, sự qua đi của Phó Thiết Sơn, giám mục
trái phép tại Bắc Kinh, đã làm lung lay tận gốc Hội Công Giáo Yêu Nước và tạo
điều kiện cho Giáo Hội tăng trưởng mau chóng. Thật vậy, trong thời gian từ ngày
10-12/3, Ủy Ban về Trung Hoa của Tòa Thánh đã ghi nhận là Giáo Hội Công Giáo tại
Hoa Lục đã có những tiến bộ nhất định trong nỗ lực hiệp nhất và đoàn kết với
nhau. Đặc biệt, bất chấp những phản đối gay gắt của tổ chức Công Giáo Yêu Nước,
Tòa Thánh và nhà cầm quyền Trung quốc đã đạt được một thỏa thuận quan trọng theo
đó các Giám Mục được tấn phong trong tương lai phải được sự phê chuẩn của Tòa
Thánh. Ngày nay, giáo hoàng đen Lưu Bách Niên của Trung Hoa chỉ còn là một bóng
mờ chờ ngày về hưu.
Ngày nay nhà nước Trung quốc cảm thấy Hội Công Giáo Yêu Nước là một cơ chế lỗi
thời có tính cách cản trở mà chẳng đem lại lợi ích gì. Hội Công Giáo Yêu Nước
theo thiết kế ban đầu được xem như công cụ đàn áp và hình thành một Giáo Hội tự
trị. Chức năng này Hội Công Giáo Yêu Nước không còn có thể đảm đang được nữa.
Thật vậy, theo thống kê vào đầu năm 2008, tại Hoa Lục có 111 Giám Mục. Có 44
Giám Mục thuộc Giáo Hội Thầm Lặng và 67 Giám Mục thuộc Giáo Hội Quốc Doanh.
Trong số 111 vị này chỉ có 7 giám mục vẫn cương quyết không thần phục Tòa Thánh.
Một trong những yếu tố góp phần vào việc tăng trưởng mạnh mẽ của Giáo Hội Công
Giáo tại Hoa Lục là những cố gắng truyền giáo nhắm vào giới trí thức. Một thí dụ
cụ thể được Trung Tâm Thánh Linh tại Hương Cảng đưa ra là việc quảng bá rộng rãi
các tài liệu Công Giáo bằng cả Hoa Ngữ và Anh Ngữ. Bằng nhiều phương thức khác
nhau, đặc biệt là Internet, người Hoa ở khắp nơi trên thế giới đã có thể giúp
giới trí thức Trung quốc ngày nay có được những tài liệu Công Giáo đích thực.
Nói “đích thực” vì ở Trung quốc ngày nay vẫn còn vô số tài liệu Công Giáo “dỏm”.
Cuốn “Thuật Ngữ Hoa-Anh Các Từ Công Giáo Thường Dùng” là một dẫn chứng cụ thể.
Cuốn sách này được Phó Thiết Sơn biên soạn. Cuốn từ điển dày cui này không gì
khác hơn là một cố gắng nhằm xuyên tạc đức tin Công Giáo theo chiều hướng có lợi
cho cộng sản.
Nói thông thạo tiếng Anh và đã từng theo học Triết Học Mác Lênin tại đại học
Hồng Kỳ (Hong Qi) từ 1963 đến 1966, Phó Thiết Sơn cố gắng thực hiện một điều
không có thể làm được là dung hợp đức tin Công Giáo và học thuyết Mác Lênin. Hậu
quả là một thứ lý thuyết hỗn độn lầm lạc như đã thể hiện rất rõ trong cuốn sách
trên và những sách khác do Phó Thiết Sơn viết và được cộng sản in ra hàng loạt
Vatican - Sáng hôm nay, vào lúc 9 giờ rưỡi sáng tại quảng trường thánh Phêrô,
Đức Thánh Cha đã chủ sự nghi thức làm phép lá và cử hành Chúa Nhật Lễ Lá trước
sự tham dự của hàng chục ngàn tín hữu đứng chật quảng trường Thánh Phêrô.
Khởi đầu buổi cử hành, Đức Thánh Cha đã làm phép lá của anh chị em giáo dân và
những cành ô liu. Trong phẩm phục vàng kim ngày đại lễ, Đức Thánh Cha đã rảy
nước thánh trên những nhành lá trước khi tiến lên bàn thờ được đặt trước tiền
đường Đền Thờ Thánh Phêrô, trong tay ngài giơ cao một cành lá lớn.
Trong bài giảng Đức Thánh Cha đã khuyên anh chị em trong Tuần Thánh này gợi nhớ
lại điều mà ngài gọi là “bi kịch huyền nhiệm nhất trong lịch sử, bi kịch ơn cứu
độ của chúng ta”.
Trong một cử chỉ cho thấy sự bất mãn tột độ của ngài với vụ giết hại Đức Cha
Paulos Faraj Raho, Tổng Giám Mục Công Giáo nghi lễ Chanđê tại Mosul, Đức Thánh
Cha đã kêu lên: “Đã quá đủ với những cuộc thảm sát, đã quá đủ với bạo lực, đã
quá đủ với thù hận tại Iraq”.
Đức Thánh Cha đã nhắc đến Đức Tổng Giám Mục Raho “như một chứng tá đẹp đẽ về
lòng trung tín đối với Đức Kitô, với Giáo Hội và với dân mà ngài không muốn bỏ
rơi bất chấp nhiều de dọa”.
Đức Thánh Cha cũng đã đưa ra lời kêu gọi người dân Iraq những người đã gánh chịu
chiến tranh trong 5 năm qua: “Dân tộc Iraq thân mến, hãy ngẩng đầu lên và chính
anh chị em trước tiên phải là những nhà xây dựng cuộc sống quốc gia anh chị em!
Xin cho hòa giải, tha thứ, công lý, và sự tôn trọng sự sống chung dân sự giữa
các bộ lạc, sắc tộc và các nhóm tôn giáo là con đường hài hòa tiến đến hòa bình
nhân danh Thiên Chúa!”
Từ năm 1986, Chúa Nhật lễ Lá đã được chỉ định làm ngày Quốc tế Giới Trẻ cấp giáo phận. Lý do là vì trong ngày lễ Lá các bạn trẻ cầm cành lá ô-liu đi đón rước Đức Giêsu khi Người lên Giêrusalem lần chót để hoàn tất công trình cứu chuộc. Điều này đã trở thành ca khúc quen thuộc của phụng vụ khi đi kiệu lá từ bao thế kỷ: Pueri haebreorum tollentes ramos olivarum”: “Các trẻ Do-thái cầm nhành ô-liu đi đón Chúa và reo vang ca tụng: Hoan hô trên các tầng trời”. Vào lúc đầu các ngày quốc tế giới trẻ được cử hành ở mỗi giáo phận, rồi kế đó, ngoài các buổi cử hành hàng năm ở cấp giáo phận vào Chúa Nhật Lễ Lá, còn có những Đại hội ở cấp hoàn vũ diễn ra 2 năm một lần. Đại hội lần cuối được tổ chức vào tháng 8 năm 2005 ở Koln (Đức), và lần tới đây sẽ diễn ra vào tháng 7 tại thành phố Sydney (Australia). Điều đáng được nêu bật ở đây là biểu hiệu của ngày quốc tế giới trẻ không phải là ngọn đuốc thiêng như tại Thế-vận-hội, cũng không phải là cành lá ô-liu như các thiếu nhi Giêrusalem đi đón rước Chúa Giêsu, nhưng là cây thập giá. Cây Thập giá được dựng lên tại lễ đài của mỗi Đại Hội, và sau đó được chuyển giao cho đoàn đại biểu của nơi sẽ diễn ra Đại Hội lần tới. Trong khoảng thời gian hai kỳ Đại Hội, cây Thập giá sẽ được rước đi theo một lộ trình do Toà Thánh ấn định với các giám mục liên hệ: đây là sẽ một thời kỳ hành hương học hỏi và cầu nguyện cho các giáo hội địa phương.
Web site Tòa Thánh đã đăng bản dịch tiếng Việt sứ điệp Ngày Quốc Tế Giới Trẻ của
Đức Thánh Cha tại đây:
http://www.vatican.va/holy_father/benedict
Theo truyền thống, Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI sẽ chủ sự buổi đi đàng Thánh Giá vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh tại hí trường Côlôsê lúc 9:15 tối. Văn bản của các chặng đàng Thánh Giá năm nay do Đức Hồng Y Giuse Trần Nhật Quân, Giám Mục Hồng Kông, biên soạn.
Đức Hồng Y Trần Nhật Quân năm nay 76 tuổi. Ngài được thụ phong linh mục ngày 11/2/1961 và được bổ nhiệm Giám Mục Phó Hồng Kông ngày 13/9/1996. Ngày 23/9/2002, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã bổ nhiệm ngài là Giám Mục Hồng Kông.
Năm 1978, ngài đã là Bề Trên Tỉnh Dòng Salêsiêng Trung quốc (bao gồm Hoa Lục,
Hồng Kông, Ma Cao và Đài Loan). Ngài đã từng giảng dạy tại Đại Chủng Viện Bắc
Kinh từ năm 1989 đến 1996.
Đức Hồng Y Trần Nhật Quân là khuôn mặt tranh đấu cho nhân quyền nổi tiếng trên
thế giới.
Theo thông cáo của Phòng Báo Chí Tòa Thánh được đưa ra vài giờ trước đây, cha
Federico Lombardi cho biết Đức Hồng Y Camillo Ruini, Giám Quản Rôma sẽ hướng dẫn
buổi đi đàng Thánh Giá và Đức Thánh Cha sẽ vác thánh giá ở 3 chặng cuối cùng.
Năm ngoái một học giả nổi tiếng về Thánh Kinh, Đức Ông Gianfranco Ravasi, đã
biên soạn các bài suy gẫm trong 14 chặng đàng Thánh Giá.
Đức Ông Gianfranco Ravasi năm nay 66 tuổi thuộc tổng giáo phận Milan, Italia.
Ngài là tác giả của hơn 50 cuốn sách về Thánh Kinh. Ngài là giáo sư môn Thánh
Kinh tại phân khoa Thần Học Bắc Italia, thành viên Ủy Ban Giáo Hoàng về Thánh
Kinh. Ngài cũng là thư viện trưởng thư viện Ambrôsiô tại Milan.
Sáng ngày 15.3.2008, lễ kính Thánh Giuse bạn
trăm năm Đức Trinh Nữ Maria, tại nhà thờ giáo xứ Phú Bình (Giáo phận Tp.HCM) đã
diễn ra nghi thức đặt viên đá đầu tiên xây dựng thánh đường và mừng kỉ niệm Kim
Khánh 50 năm thành lập giáo xứ. Đức cha Phaolô Bùi Văn Đọc, Giám mục Giáo phận
Mỹ Tho chủ tế thánh lễ cùng với sự hiện diện của quý cha: GB Huỳnh Công Minh,
Tổng Đại Diện Giáo phận Tp.HCM, cha Giuse Phạm Bá Lãm, Hạt trưởng hạt Phú Thọ,
cha Giuse Nguyễn Văn Niệm, chính xứ Phú Bình, quý cha gốc giáo xứ Phú Bình và
đông đảo quý cha thân hữu.
Trong bài giảng lễ, Đức Cha Phaaolô nói về lòng mộ mến Thánh cả Giuse của người
giáo dân Việt Nam. Trong mọi gian nan thử thách của cuộc sống người ta thường
chạy đến với Thánh Giuse để xin ngài cầu bầu cứu giúp, xin nhiều ơn lành hồn xác
cho bản thân và gia đình mình. Đức cha nhắn nhủ mọi người điều quan trọng chúng
ta phải xin với Thánh Giuse là ơn đức tin. Thánh Giuse là mẫu gương sống đức
tin. Thánh Giuse cũng rất yêu mến Giáo hội, cho nên cộng đoàn giáo xứ Phú Bình
trong công trình xây dựng nhà thờ cũng phải tin tưởng ở sự bảo trợ của Thánh
Giuse.
Sau phần bải giảng là ghi thức đặt viên đá đầu tiên. Cha Hạt trưởng Giuse Phạm
Bá Lãm đọc văn thư Đức Hồng y GB Phạm Minh Mẫn chấp thuận cho xây nhà thờ giáo
xứ Phù Bình vì nhu cầu đức tin của đồng bào Công Giáo tại điạ phương và để đánh
dấu 50 năm thành lập Giáo xứ. Tiếp theo, Đức cha Phaolô làm phép diện tích xây
dựng nhà thờ,làm phép viên đá đầu tiên và làm phép nơi đặt viên đá
Giáo xứ Phú Bình hiện nay có khoảng 2400 giáo dân, với 500 gia đình, nhà thờ
giáo xứ nằm trên đường Lạc Long Quân, Phường 5 Quận 11, Tp.HCM, do cha cố Tôma
Phạm Ngọc Biểu thành lập năm 1958, tiền thân là trại tiểu thủ công nghệ Phú Bình
gồm một vài gia đình Công Giáo tử Bắc di cư vào Nam và một số gia đình người
Hoa, và từ đó cho đến nay trải qua hơn nửa thế kỷ đồng bào lương giáo luôn sống
chan hoà với nhau. Nhà thờ giáo xứ Phú Bình được hoàn thành vào năm 1960. Giáo
xứ Phú Bình qua 3 nhiệm kỳ linh mục chính xứ đã nhiều lần cho tu sửa lại nhà
thờ. Nhưng đến nhiệm kỳ linh mục chính xứ thứ 4, cha Giuse Nguyễn Văn Niệm,
đương kim chính xứ sau 10 coi sóc giáo xứ đã cho xây dựng lại ngôi nhà thờ khang
trang hơn để xứng đáng tầm vóc của giáo xứ Phú Bình trong hiện tại và hướng đến
tương lai.
Martin Lê Hoàng Vũ
9 giờ 30 sáng thứ Tư, 19.3.2008, Đức Cha Phêrô và Linh mục đoàn Giáo phận Đàlạt đã long trọng cử hành Thánh lễ Truyền Dầu tại Nhà thờ Chánh Tòa Đàlạt. Đây là dịp đặc biệt để các thành phần Dân Chúa trong Gia Đình Giáo phận được qui tụ bên nhau. Ngỏ lời với cộng đoàn hiện diện, Đức Cha Phêrô nói :
“Anh em Linh mục thân mến,
Ngày hôm nay, mọi người cầu nguyện đặc biệt cho anh em, tôi tin rằng anh em cũng cầu nguyện cho mình, cho sự hiệp thông trong Giáo hội và Giáo phận. Chúng ta cầu nguyện cho các tu sĩ và anh chị em giáo dân, vì qua Bí tích Rửa tội, chúng ta được xức dầu Kitô để trở nên những Kitô khác. Việc làm phép và hiến thánh Dầu nhắc lại vinh dự cao quý của mỗi người, không chỉ mang Danh Đức Kitô nhưng còn sống bằng chính sự sống của Đức Kitô. Cử hành long trọng lễ Truyền Dầu để thôi thúc chúng ta mỗi ngày sống xứng đáng hơn với ơn gọi và với chức năng Kitô hữu của mình.
Hàng Giám mục và Linh mục cam kết với Chúa về sự trung thành tuyệt đối, về sự hiệp nhất và về tinh thần phục vụ của mình. Chúng ta thi hành chức năng tư tế cách đặc biệt khi tham dự và cử hành Thánh lễ, là chức năng mà Đức Kitô -Linh Mục Thượng Phẩm- chia sẻ cho chúng ta. Mỗi công việc làm hàng ngày đều có giá trị là của lễ dâng hiến, kể cả chính cuộc đời của mình, điều tốt và chưa tốt, Chúa sẵn sàng đón nhận”.
Dưới ánh sáng Lời Chúa và ý nghĩa của Thánh lễ, Đức Cha Phêrô chia sẻ cùng cộng đoàn tham dự :
Chúa Giêsu vào hội đường Nagiarét, người ta đưa cho Ngài cuốn Kinh thánh, Ngài đọc đoạn sách của tiên tri Isaia (Is 61,1.2) : “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Người đã xức dầu cho tôi, và sai tôi đi loan báo Tin Mừng…”. Tin Mừng Ngài loan báo cho người bị giam cầm biết họ sẽ được giải thoát ; người tù tội biết họ sẽ được trắng án ; người bệnh tật biết họ được chữa lành ; đặc biệt người nghèo khó được loan báo Tin Mừng.
Đọc xong, Chúa Giêsu kết luận : “Hôm nay, điều đó đã được thực hiện”, những điều đã được Cựu Ước loan báo hàng ngàn năm trước về một Đấng Messia mà dân Chúa chờ đợi, thì hôm nay, trong hội đường Nagiarét, được thực hiện chính nơi con người của Chúa Giêsu. Nhưng không dừng ở đó, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục, lúc nào Tin Mừng cũng được loan báo cho người nghèo khó, cho người tội lỗi, cho người yếu đuối, cho người bị ức hiếp để biết rằng họ luôn đón nhận được hồng ân Thiên Chúa.
Chúa Giêsu kêu gọi nhiều người theo Ngài để thực hiện việc loan báo đó. Không chỉ là linh mục hay tu sĩ, nhưng tất cả mọi người khi được mang danh Kitô hữu, là người có Đức Kitô, là người bạn của Đức Kitô. Kitô nghĩa là được xức dầu, Chúa Giêsu đã được Chúa Cha xức dầu Thánh Thần thì những ai tin vào Ngài, đón nhận Bí tích Thánh Tẩy cũng được xức dầu và được gọi là người của Đức Kitô. Là người của Đức Kitô, chúng ta phải luôn biểu lộ và diễn tả trong cuộc sống hàng ngày của mình. Thánh Phaolô nói rất rõ ràng “mặc lấy Đức Kitô” như trong thư Galata : “Bất cứ ai trong anh em được Thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô đều mặc lấy Đức Kitô” (3,29). Và người nào đã mặc lấy Đức Kitô thì người đó sẽ được kết quả là đời sống của mình được biến đổi : “tôi sống nhưng không phải là tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (2,2).
Khi đã mặc lấy Đức Kitô thì “anh em hãy cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa, để thật sự sống công chính và thánh thiện…” (Ep 4,22tt).
Trong Thánh lễ long trọng này, anh chị em tham dự vào nghi thức làm phép và thánh hiến Dầu, để nhắc nhớ cách mạnh mẽ và cụ thể về chức năng của anh chị em, về chính con người của anh chị em. Hãy tham dự và biết đón nhận, phải hiểu đây không chỉ là nghi lễ nhưng còn chính là phương thế Chúa dùng để ban ơn cho chúng ta. Đây là ơn rất cao trọng, vì anh chị em đã trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, đã mặc lấy Đức Kitô và Đức Kitô sống trong anh chị em.
Những lúc chúng ta suy tưởng, những lời chúng ta nói, những việc chúng ta làm phải đối chiếu với Đức Kitô, để sao cho chính Ngài suy tưởng, chính Ngài nói và hành động trong chúng ta.
Dưới thời Đức cố Giáo hoàng đáng kính Gioan Phaolô II, hàng năm vào dịp lễ Dầu, ngài có một lá thư đặc biệt cho các Linh mục, ngài làm điều đó trong suốt 26 năm trời. Còn Đức Giáo Hoàng đương nhiệm luôn dành một phần đặc biệt dành cho các linh mục trong bài giảng của Thánh lễ Dầu.
Năm 2007, khi cử hành Lễ Dầu, ngài đã khởi đầu bài giảng bằng tường thuật câu chuyện ngắn của đại văn hào người Nga, Léon Tolstoï, viết rằng : “Có một vị vua nghiêm khắc hỏi quần thần chỉ cho ông ta thấy Thiên Chúa, không ai làm được việc đó. Cuối cùng một người chăn chiên biết chuyện liền vào triều đình trình diện nhà vua. Nhà vua cho gặp, khi đến trước nhà vua, người ấy nói : Nhà vua không thể dùng mắt của nhà vua để thấy Thiên Chúa được. Nhà vua trả lời : Nếu không thấy được Thiên Chúa thì ít nhất ta phải thấy được việc Chúa làm. Người chăn chiên liền nói : Để có thể biết được việc Chúa làm thì nhà vua phải cởi áo cẩm bào ra và trao lại cho tôi, nhà vua mặc lấy bộ đồ chăn chiên này thì nhà vua sẽ biết. Rất khó chịu, nhưng vì tọc mạch, nhà vua đã làm việc đó… Và lúc ấy, người chăn chiên liền nói : đó là việc Thiên Chúa làm”.
Điều đó đã được thánh Phaolô diễn tả rất sâu sắc : “Ngài là Thiên Chúa nhưng Ngài không tranh giành cho mình quyền ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng Ngài đã hạ mình để mặc lấy thân phận tôi đòi” (Pl 2,6-8). Thánh Phaolô tiếp tục triển khai chữ “mặc lấy Đức Kitô”, Đức Thánh Cha Bênêđitô 16 cũng triển khai ý tưởng này và dừng lại cách đặc biệt trong phẩm phục mà Linh mục mặc khi cử hành Thánh lễ.
Khi mặc phẩm phục để cử hành Thánh lễ, Linh mục trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô (x. Pl 3,10-12). Những lời sẽ nói, những việc sẽ làm không phải chỉ nhân danh Đức Kitô, nhưng “biểu thị Đức Kitô” (in personal Christi), phải diễn tả được, phải là sự sống, là con người của Đức Kitô. Trong phẩm phục của Linh mục khi cử hành Thánh lễ có khăn vai, trước hết phải đặt khăn trên đầu, việc đặt trên đầu để cầu nguyện xin gìn giữ các giác quan để mình biết chế ngự và đưa vào khuôn khổ, đồng thời tập trung tư tưởng để hiểu rằng giờ phút này mình sống vai trò của Đức Kitô chứ không còn là mình nữa. Chiếc áo trắng cùng dây các phép, dễ dàng nhắc lại chiếc áo của tiệc cưới, chiếc áo mà người cha nhân lành bảo mang cho đứa con hoang đàng sau khi thay chiếc áo rách rưới hôi hám. Áo đó muốn được tinh tuyền phải được được thanh tẩy trong máu Đức Kitô. Đức Giáo Hoàng nhớ lại kỷ niệm lúc thơ bé, ngài từng thắc mắc : nếu giặt trong máu làm sao trắng, phải đỏ và có khi còn dơ !? Về sau ngài cảm nghiệm rằng, giặt trong Máu Thánh Đức Kitô là giặt trong Tình Yêu, giặt trong máu Con Chiên (x. Kh 7,14). Khi đã có Tình Yêu thì mọi sự trở nên tinh sạch. Chiếc áo lễ mà các linh mục choàng bên ngoài biểu lộ cái ách của Đức Kitô, thập giá của Đức Kitô. Khi cử hành Thánh lễ là cùng với Đức Kitô vác lấy thập giá. Nhưng đó là ách êm ái, ách nhẹ nhàng và người mang ách đó phải hiền lành, phải khiêm nhường như Đức Giêsu (x. Mt 11,29t).
Chỉ một ý tưởng là mặc lấy Đức Kitô, chúng ta thấy có biết bao nhiêu sự biến đổi nơi con người Linh mục của mình. Tôi nghĩ rằng trong những ngày này, khi suy nghĩ về những điều đó, chắc chắn anh em cảm nghiệm được mình rất gần gũi với Đức Kitô. Không phải gần gũi mà chúng ta trở nên Đức Kitô, chúng ta mặc lấy Ngài trong cuộc sống. Chắc chắn anh chị em đã cầu nguyện và sẽ tiếp tục cầu nguyện nhiều để hàng linh mục của anh chị em ngày càng đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, sống và cư xử như chính Đức Kitô đã làm.
Thánh lễ tiếp tục với việc các linh mục lặp lại lời hứa ngày thụ phong. Liền sau khi cộng đoàn cùng cầu nguyện cho các linh mục được tràn đầy ân sủng, trở nên tôi tớ trung thành, cầu cho Đức Giám Mục trong sứ mạng tông đồ… thì đoàn kiệu dầu thánh và của lễ được tiến dâng cho Đức cha.
Nghi thức làm phép dầu Bệnh Nhân được cử hành vào trước vinh tụng ca kết thúc Kinh Nguyện Thánh Thể ; rồi sau lời nguyện hiệp lễ, Đức cha cử hành nghi thức làm phép dầu Dự Tòng và hiến thánh Dầu Thánh Chrisma.
Kết thúc Thánh lễ, một lần nữa Đức Cha nhắc nhở cộng đoàn về sự cần thiết và giá trị thật của Dầu Thánh trong đời sống của người tín hữu. Rồi đây, từng Giáo xứ sẽ tổ chức nghi thức long trọng để rước Dầu Thánh, đặt vào nơi trang nghiêm tại gian Cung Thánh, hầu giúp mọi tín hữu ý thức hơn khi tham dự các nghi lễ Phụng vụ, hiểu được giá trị của những dấu hiệu hữu hình do chính Chúa Kitô thiết lập, làm phát sinh và gia tăng ân sủng trong tâm hồn và cuộc sống của những ai biết lãnh nhận cách xứng đáng.
Lm. Giuse Trần Ngọc Liên
SAIGON- Chiều ngày 15 tháng 3, tại Trung Tâm Mục Vụ Saigon đã đón khoảng 8 ngàn bạn trẻ đến tham dự ngày Đại Hội Giới Trẻ Mùa Chay với chủ đề NHẬN LÃNH THÁNH THẦN do ban MV Giới Trẻ của Tổng Giáo Phận Saigon tổ chức.
Theo thông lệ thì vé tham dự ĐHGT thường in sẵn chương trình, nhưng năm nay nhìn tới nhìn lui cũng không thấy chương trình in ở đâu. Có lẽ đó cũng là điều khác lạ vì gây được sự thắc mắc trong lòng các bạn trẻ.
Chương trình được chia thành 4 phần với: Nước- suối nguồn Tình Yêu, Gió- chứng nhân Tình Yêu, Đất -đường Tình Yêu và cuối cùng là Lửa- đuốc Tình Yêu.
Tình Yêu của Thiên Chúa được trải rộng và diễn tả trong suốt thời gian đại hội qua những lời thuyết giảng, qua Thánh lễ- đỉnh cao của Tình Yêu và niềm vui gặp gỡ, qua những lời hát, điệu múa chứa chan niềm vui, qua vở kịch “ Bài ca ngàn trùng” diễn tả lại cái chết của “ giáo sĩ” Philipphê Phan Văn Minh, qua việc suy tôn Thập Giá, cung chiêm Thánh Thể và qua việc thắp lên ngọn lửa Tình Yêu từ nơi ngọn đuốc trung tâm như một lời nhắn nhủ các bạn trẻ hãy mang ngọn lửa này thắp sáng những nơi bạn đến, sưởi ấm những người bạn gặp và truyền cho người khác ngọn lửa Tình Yêu.
Theo dự đoán ban đầu của ban tổ chức thì con số các bạn trẻ tham dự lần này chỉ khoảng 5 ngàn vì hầu hết các giáo hạt trong giáo phận đều tổ chức ngày này. Nhưng trái với dự đoán, các bạn trẻ vẫn đến trung tâm Mục vụ rất đông. Và cũng rất tự nhiên, các bạn ngồi vào hàng lối một cách trật tự. Năm nay tôi cảm nhận điểm son của các bạn tham dự ĐHGT đó là sự trang nghiêm, trật tự. Trong thánh lễ, bài thương khó thật dài, đứng mỏi cả chân, cũng như việc chiêm ngắm Thánh Thể quỳ rất lấu, nhưng không thấy một gương mặt nào nhăn nhó, và hầu như đặt hết tâm tình của mình trong những lời Kinh Thánh, trong những lời cầu nguyện. Hoặc trong bài giảng của Đức Hồng Y và trong suốt cả thánh lễ, tôi không hề nghe thấy một tiếng chuông điện thoại nào reo, cũng không thấy các bạn xầm xì nói chuyện. Dưới bầu trời lồng lộng gió, một không gian thật linh thánh và trang nghiêm của những người trẻ tôi thấy mình thật hạnh phúc khi cùng được tham dự bầu khí nhiệt huyết của sức trẻ, được chung chia niềm tin Kitô hữu trong tình huynh đệ.
Với những bài ca quen thuộc trong thánh lễ, các bạn hát thật sốt sáng, hát với cả tâm tình.Và trong căn phòng dựng tạm là nơi đặt Mình Thánh Chúa trong suốt thời gian ĐH, tôi thấy các bạn trẻ đã ghé lại, mỗi người một chút, và chẳng lúc nào mà không có người.
Bài ca chủ đề năm nay, Ban Mục Vụ Giới Trẻ đã chọn bài ca chủ đề của ĐHGT thế giới tại Sydney năm 2008 bài Receive The Power. Tuy nền nhạc chậm buồn, song lại chuyển tải một sức mạnh to lớn. Trong vòng tay của ngày ĐH, trong cái khoác vai nhau, các bạn trẻ cảm nhận được sức mạnh của Tình Yêu, của Thần Lực đang lan toả trong từng lời ca Alleluia được lập đi lập lại nhiều lần. Và nếu được chiêm ngắm những cánh tay của 8 ngàn người từ trên lầu 3 của Trung Tâm Mục Vụ đang khi múa bài hát này, chắc hẳn bạn sẽ cảm nhận được nét đẹp của sự hiệp nhất trong từng cử điệu, đẹp trong từng cái phất tay của mỗi bàn tay, của một rừng bàn tay giữa một rừng người trong một thành phố đang ồn áo náo nhiệt của một buổi tối cuối tuần.
9g 30 kết thúc, nhẹ nhàng và thanh thản, không ầm ỹ, nhưng đọng lại trong mỗi bạn trẻ tâm tình của một người lãnh nhận đựơc Tình Yêu, lãnh nhận Thần Khí qua sự gặp gỡ, qua việc cùng nhau lắng nghe, cùng nhau tham dự Thánh lễ, cùng nhau đan tay cho một bài múa đơn giản.
Lạy Chúa, xin cho mỗi năm khi tham dự ĐHGT lòng chúng con lại mềm hơn để Lời Chúa ở lại trong chúng con mỗi ngày một lâu hơn và trổ sinh hoa trái trĩu hạt hơn.
Minh Nguyên
Anh chị em trong cộng đồng Dân Chúa Việt Nam thân mến,
Mầu Nhiệm Vượt Qua và ánh sáng Lời Chúa
1. Trong Mùa Chay và Mùa Phục Sinh, chúng ta cử hành Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Giêsu Đấng cứu độ chúng ta. Qua Lời Chủ Chăn Mùa Phục Sinh nầy, tôi muốn chia sẻ với anh chị em vài suy nghĩ và tâm tình sống Mầu Nhiệm cứu độ nầy.
2. Chúa "cứu độ" có nghĩa là Chúa mở đường cho ta "vượt qua" bến mê bể khổ để đi đến chân trời yêu thương chân thật và hạnh phúc trường sinh. Là dẫn dắt ta "vượt qua" bóng tối của giả trá để đi đến ánh sáng chân lý vĩnh cửu giải thoát nhân trần.
3. Ánh sáng chân lý của Lời Chúa trong lịch sử cứu độ soi chiếu cho tôi cảm nhận và xác tín rằng:
(1) Thiên Chúa là Cha, là Đấng tạo thành con người theo hình ảnh của Ngài là Tình Yêu,
(2) Thiên Chúa Cha yêu thương chúng ta đến độ sai Con Một là Đức Giêsu Kitô đến sống giữa loài người, chỉ dạy, nêu gương và dẫn dắt ta trên đường thể hiện hình ảnh của Cha trên trời là Tình Yêu chân thật và từ bi bao dung,
(3) Thiên Chúa Cha giàu lòng xót thương gởi Thánh Linh của Ngài là nguồn lực yêu thương để tạo khả năng cho ta sống theo gương Chúa Giêsu yêu thương và quảng đại cho đi đến cùng.
Đạo làm người và thực tế cuộc sống
4. Do đó đạo làm người trong trời đất và trong thiên hạ: - là thể hiện căn tính nhân loại là tình yêu thương mà Cha trên trời đã đặt để trong tâm con người, - là làm chứng cho tình yêu bao dung của Đức Giêsu Kitô.
5. Thế nhưng, tình yêu thương mà ta thường gặp trong thực tế cuộc sống gia đình và xã hội, lại là một loại tình yêu thoái hoá, biến chất. Nguyên nhân là do bệnh dịch trong xã hội nhân loại lây truyền cho nhau. Bệnh chủ quan, ích kỷ, hẹp hòi, biến tình yêu thành một sức mạnh áp đặt trên con cái và đồng bào, đồng loại, áp đặt ý muốn con em phải theo học một ngành, phải đi tu, phải ngồi chỗ cha mẹ đặt để, phải phá thai, phải ly dị... Dịch gà công nghiệp hay mổ nhau, biến tình yêu thành sức mạnh bạo hành và bạo lực, lấy miếng trả miếng...
Niềm tin vào Chúa Phục Sinh
6. Niềm tin vào Chúa Phục Sinh là sức mạnh Chúa ban nhằm trợ lực cho ta "vượt qua" bệnh dịch, rời bến mê bể khổ và cùng nhau tiến bước đến chân trời Tình Yêu từ bi bao dung, quảng đại cho đi.
7. Hồng ân đức tin trong cuộc sống trở thành trách nhiệm đáp trả tình thương của Chúa, thực hành Lời Chúa dạy, sống theo gương Chúa Giêsu từ bi bao dung và quảng đại cho đi đến cùng ( Đối ngoại hữu kỳ tâm, Đối nội vô tâm giả ).
8. Lời Chúa trong các Thư Phaolô nhắc nhở mọi thành viên, mọi gia đình trong cộng đoàn tín hữu, thi hành những việc sau đây như những liều vắc xin phòng trị bệnh dịch đã nêu trên:
(1) hãy chuyên cần cầu nguyện, hãy mở rộng tâm hồn đón nhận ý Chúa và mọi hồng ân Chúa ban;
(2) trong mọi tình huống của cuộc đời, hãy theo gương Thánh Giuse và Mẹ Maria trung thành tuân hành ý Chúa được biểu tỏ nơi Lời Chúa dạy;
(3) trong mọi hoàn cảnh, hãy cùng nhau xây dựng tình hiệp thông huynh đệ, phát huy tinh thần liên đới trách nhiệm, tương thân tương trợ trong gia đình và xã hội (lá lành đùm lá rách).
Lời Chúa là Lời ban sức sống mới và bình an
9. Có những nhóm bạn trẻ, những cộng đoàn tín hữu trong thành phố chúng ta, đã làm chứng cho tôi về tính hiệu quả của những liều vắc xin vừa nêu trên. Họ đã giúp nhau, hỗ trợ nhau, nhắc nhở nhau thực hành Lời Chúa dạy, sử dụng những liều vắc xin đó. Và hiệu quả là không những phòng trị được bệnh chủ quan và hẹp hòi, dịch gà công nghiệp hay mổ nhau, song đó còn là con đường dẫn đưa nhiều người, nhiều gia đình "vượt qua" từ một khu xóm đầy các tệ nạn xã hội đi đến một cộng đoàn đổi mới, trong đó mọi người như được "phục sinh" và sống an lành trong tình tương thân tương ái và đùm bọc lẫn nhau.
Lời cầu chúc.
10. Tôi ước mong trong Mùa Phục Sinh nầy, mọi người chuyên cần học hỏi và thực thi Lời Chúa dạy, để Lời Chúa củng cố niềm tin vào Chúa Phục Sinh, để Lời Chúa ban sức sống mới và bình an cho mọi gia đình, giúp mọi người được "phục sinh" trong tình thương của Chúa, trong tình huynh đệ tương thân tương trợ đối với mọi người anh em đồng bào và đồng loại.
+ GB. Phạm Minh Mẫn, Hồng Y Tổng Giám Mục
Anh chị em thân mến,
Năm nay là năm Giáo dục Đức Tin, chúng ta cùng bước vào Tam Nhật Vượt Qua như bước vào một lớp học của Chúa Kitô. Trong lớp học này, dù là giáo dân, tu sĩ, hay giáo sĩ, tất cả chúng ta vừa là học trò vừa là thầy dạy đức tin. Bài học Chúa dành cho chúng ta hôm nay là: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13). Trong Thánh Lễ truyền dầu này, tôi xin chia sẻ một vài suy tư của tôi về bài học đó với cộng đoàn dân Chúa, đặc biệt với các anh em linh mục của tôi.
Trước hết, thưa quý cha thân mến,
Cộng đoàn dân Chúa ngày nay thường nhìn các linh mục trong tương quan với các tác vụ. Đó là tác vụ rao giảng lời Chúa, tác vụ cử hành các bí tích, và tác vụ chăm sóc mục vụ. Để có thể thi hành các tác vụ này, trước tiên các linh mục cần học hỏi về kiến thức và chuyên môn. Nhiều năm ở chủng viện, các linh mục đã phải dành nhiều thời gian để trau dồi kiến thức, đặc biệt là những kiến thức về thánh kinh, phụng vụ, tu đức, thần học, giáo luật … Ngoài ra, để các tác vụ có hiệu quả cao, các linh mục cũng cần học về chuyên môn; đối với tác vụ rao giảng là khoa sư phạm và hùng biện; đối với tác vụ bí tích là phương pháp cầu nguyện, việc thực hành sự khổ chế …; đối với tác vụ chăm sóc mục vụ là các chuyên môn về tâm lý học thực hành, về phương pháp tổ chức và điều hành…
Hơn nữa việc đào tạo không chỉ giới hạn trong những năm tại chủng viện, mà còn được thực hiện trường kỳ trong suốt đời linh mục nhờ những kinh nghiệm mục vụ, những biến cố xảy ra trong cuộc đời, cũng như nhờ các khoá thường huấn được tổ chức trong nước hay ngoài nước…
Nhưng nếu việc đào tạo chỉ đặt trọng tâm vào kiến thức và chuyên môn, thì rất có thể các tác vụ do linh mục thực hiện trong giáo phận sẽ gặp phải cuộc khủng hoảng như đã và đang xẩy ra tại nhiều nơi. Thực vậy, trong giáo phận LX, nơi này nơi kia đang có những dấu chỉ báo hiệu về cuộc khủng hoảng này. Một trong những dấu chỉ rõ nét nhất là sự thờ ơ ngày càng tăng của giáo dân với các tác vụ được thực hiện do các linh mục tại các giáo xứ. Giáo dân thờ ơ vì nhiều lý do, nhưng lý do đáng để ý nhất đó là vì các tác vụ đang bị lạc hướng, để chỉ còn là các nghiệp vụ. Trong trường hợp này, tác vụ rao giảng chỉ là sự truyền đạt những bài học lý thuyết khô khan xa rời thực tế; tác vụ bí tích chỉ còn là những nghi thức đặt nặng việc tuân thủ các luật lệ của nghi lễ; và tác vụ chăm sóc mục vụ chỉ là những liên hệ lạnh lùng của một cơ chế mang tính qui định và dịch vụ.
Như vậy, hiển nhiên là nếu chỉ thực hiện với kiến thức và chuyên môn, thì các sinh hoạt trên không phải là những tác vụ có thể đáp ứng được những đòi hỏi do sứ mạng của Chúa Kitô trao cho Hội Thánh.
Quả thực, tác vụ rao giảng chỉ thực sự là sứ mạng của Đức Kitô trao cho Hội Thánh khi người rao giảng không nhằm truyền đạt một tri thức thuần tuý, nhưng phải truyền rao một tin vui từ Lời Thiên Chúa nhằm giải thoát con người khỏi sự sợ hãi của kiếp người và soi sáng cho cuộc hành trình của đời người. Bài học từ sự thương khó của Đức Kitô là người rao giảng phải trở thành người chia sẻ sự xác tín về chân lý có khả năng đưa ra những giải pháp làm cho cuộc sống con người có một ý nghĩa siêu việt giữa những thực tại trần thế, như Chúa Giêsu khẳng định trước Philatô: “Tôi đến thế gian để làm chứng cho sự thật” (Ga 19,37 ) “và sự thật sẽ giải thoát anh em” (Ga 8,32).
Cũng vậy, tác vụ cử hành bí tích chỉ thực sự là tác vụ đem lại ơn thánh hoá, khi linh mục cử hành bí tích vượt qua giới hạn của các nghi lễ thuần tuý để có thể làm phát sinh ân sủng từ các màu nhiệm thánh, trong đó ân sủng cao quí nhất chính là mối tương quan thân tình của Thiên Chúa dành cho con người. Bài học từ sự thương khó của Đức Kitô dành cho các linh mục là phải cử hành các bí tích để có được một cảm nghiệm thiêng liêng như gặp thấy đấng vô hình trong cuộc sống thường nhật giữa những bề bộn và lo toan, như Đức Kitô khẳng định: “Thầy là cây nho, anh em là ngành, ngành nào kết hợp cùng cây sẽ trổ sinh hoa trái. . . Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (Ga 15,5 ).
Cuối cùng, tác vụ mục vụ chỉ đem lại hiệu quả thực sự khi linh mục vượt qua những toan tính và ước mong về những thành quả cụ thể do những kỹ năng tổ chức và điều hành; nhưng hơn thế, điểm nhắm của tác vụ mục vụ phải là một tầm nhìn với một hy vọng không lay chuyển về một thế giới mới đang xuất hiện, trong đó mọi người và từng người được trao tặng những cơ hội để hoàn thành định mệnh đời mình một cách độc đáo nhất nhưng luôn hiệp nhất trong một tập thể sống màu nhiệm hiệp thông của Nước Thiên Chúa. Bài học từ cây Thập Giá của Chúa Kitô là người mục tử phải có một cách sống không bị trói buộc bởi tính ích kỷ thường tình của con người, nhưng hưởng sự tự do của con cái Thiên Chúa để thể hiện đức ái mục tử đối với anh chị em mình, như Chúa Kitô tuyên bố: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên”(Ga 10,11).
Anh em linh mục thân mến,
Với tư cách là một linh mục phục vụ cộng đoàn dân Chúa, chúng ta sẽ bước vào Tam Nhật Thánh với các tác vụ rao giảng Lời Chúa, tác vụ cử hành các nghi thức phụng tự, và tác vụ chăm sóc mục vụ cho cộng đoàn. Đồng thời với tư cách là một môn đệ của Đức Kitô, chúng ta cũng phải bước vào Tam Nhật Thánh như một học trò để học bài học về bí quyết của Thầy Chí Thánh thực hiện sứ mạng của Ngài trong màu Nhiệm Vượt Qua. Nếu có câu nói nào trong cuộc thương khó của Chúa Kitô diễn tả được bí quyết của Chúa Kitô để sứ mạng của Ngài đem lại hiệu quả thiêng liêng đích thực, thì chính là lời Ngài đã nói với các tông đồ sau khi Ngài lập Bí Tích Thánh Thể và Bí tích Truyền Chức trong bữa tiệc ly: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13).
Một sự thật là trong Giáo hội có nhiều linh mục có kiến thức rộng và sâu, cũng như có những khả năng chuyên môn trổi vượt về mặt trí thức. Nhưng kinh nghiệm cho thấy, chỉ có những ai đã sử dụng kiến thức và chuyên môn với đức ái mục tử là động lực để sẵn sàng hy sinh mạng sống mình cho anh chị em, mới có khả năng thi hành tác vụ linh mục một cách có hiệu quả thiêng liêng đích thực.
Đức Kitô trên cây thập giá dạy chúng ta rằng hiệu quả thiêng liêng đích thực từ các tác vụ của giáo hội chỉ có thể có được khi các tác vụ này thực hiện bởi các tác viên có một xác tín rằng mình vừa là linh mục, vừa là bàn thờ, và là của lễ. Thực vậy, chỉ với xác tín này, các linh mục mới có thể học biết cách sử dụng kiến thức và chuyên môn như chiếc áo được cởi ra để quì xuống rửa chân cho anh chị em mình; Chỉ với xác tín này, các linh mục mới trao tặng kiến thức, chuyên môn và cả đời mình như đồ ăn và thức uống cho anh chị em mình được sống và được sống dồi dào; chỉ với xác tín này, các linh mục mới có khả năng để đời mình ghim chặt vào cây thập giá của trách nhiệm, nhờ đó đem lại cho anh chị em một cuộc sống mới với niềm vui phục sinh trong màu nhiệm Nước Thiên Chúa.
Để có một niềm xác tín tu đức trên, linh mục cần cắm rễ những tác vụ mình thực hiện vào một đời sống tu đức đặt ưu tiên cho những sinh hoạt thiêng liêng cơ bản và truyền thống như sống cô tịch, suy tư và suy niệm, tâm nguyện và chiêm niệm. Chính nhờ các sinh hoạt thiêng liêng này mà các tác vụ mới đem lại lợi ích thiêng liêng thực sự vì các tác vụ này được thực hiện bởi một niềm xác tín về chân lý mạc khải có tính giải thoát, bởi một cảm nghiệm thiêng liêng về ân sủng của Thiên Chúa, và bởi một thái độ tự do của con Thiên Chúa.
Trong tuần thánh này, anh em linh mục chúng ta vừa có trách nhiệm thi hành tác vụ của giáo hội một cách có hiệu quả nhất, vừa là cơ hội để chúng ta đi vào suy tư và suy niệm, tâm nguyện và chiêm niệm của một nền tu đức đặt trung tâm vào đức ái mục tử. Xin Chúa Kitô Linh Mục giúp chúng ta thực hành trong đời sống và tác vụ linh mục những gì chúng ta cử hành trong Tam Nhật Vượt Qua với Đức Aùi Mục Tử như Đức Kitô.
Anh chị em giáo dân thân mến,
Chúng tôi thiết tha xin anh chị em cầu nguyện cho các linh mục chúng tôi luôn luôn trung thành với lời cam kết của chức linh mục, và nhất là trở thành linh mục, là của lễ và là bàn thờ theo gương thầy Chí Thánh Giêsu Kitô trong màu nhiệm Vượt Qua.
***
ĐGM. Giuse Trần Xuân Tiếu
Dấu Chân: Để khẳng định việc đã đến một nơi nào, người ta thường hay nói đã đặt chân đến nôi ấy, dấu chân, vì thế biểu thị sự hiện diện của một con người đã đến, đã đi. Trong nhiều tôn giáo, nhắc đến nhiều dấu chân, theo truyền thuyết của Đức Phật, ngày đản sinh của Đức Phật, ngài đã bước đi bảy bước trong mỗi chiều của không gian. Theo thần thoại Hy Lạp, thần Vishnu đã bước đi ba bước, bước thứ nhất tiếp xúc với đất, bước thứ hai là bước trung gian, bước thứ ba là tiếp xúc với trời. theo thần thoại này, người ta nghĩ đó là ba bước cơ bản của ba vị trí mặt trời mọc và lặn, bước trung gian là đỉnh vào giữa ngọ. Ở Đông Phương việc thờ phượng các đôi bàn chân của thần Vishnu, của Đức Phật, hay bàn chân tiên ông trong Đạo Lão, hay bàn chân của Mahomet ở La Mecque là thường xuyên.
Dẫm vào dấu chân thần linh. Trong nhiều thần thoại của các dân tộc ở Việt Nam, việc đản sinh của một con người mang tính vượt trội thường là diễn tả sự thụ thai của bà mẹ bước vào dấu bàn chân của nhân vật huyền thoại nào đó chứ không như thường lệ là do người nam. Dẫm vào dấu chân thần linh để diễn tả con người phi thường ấy được sinh ra có sự can thiệp của thần linh chứ không nguyên do con người. Như vậy, trong thần thoại, người xưa đã tin rằng thần linh có mặt trên trái đất này và là chủ của trái đất này. Việc con người dẫm vào dấu chân thần linh là diễn tả con người thuộc về thần linh ấy, con người được các thần linh có tính chủ quyền của đất đai che chở, can thiệp…
Chân là trụ đứng của con người, cây trụ đứng giữa trời này có liên hệ với trục vũ trụ. Con người với đôi bàn chân đứng là trục và là trung tâm của vũ trụ, là trung gian giữa trời và đất, con người là đỉnh cao trong công trình sáng tạo. Là kỳ công của sáng tạo, nên con người cũng được giao phó trách nhiệm quản lý muôn loài thọ tạo. Chân đứng của con người khi khụy xuống hay bị trượt té thì muôn vật cũng theo đó bị đổ vỡ và té nhào. Trong lịch sử, con người đã ngã, vạn vật, thiên nhiên đang rên siết trong sự té ngã của con người. Con người đã không đứng vững và muôn loài cũng đang đau khổ vì cây trụ yếu ớt, mỏng dòn.
Chân là điểm khởi đầu tiếp xúc với đất đối nghịch lại với đầu là phần cuối cùng của thân thể con người. Chân đạp đất biểu thị một quan niệm rất cơ bản: Siêu nhiên cần dựa trên tự nhiên. Siêu nhiên là phần tiếp xúc với đầu, nhưng đầu nhờ có chân nâng đỡ. Cũng chính vì thế khi tự nhiên bị phá đổ, siêu nhiên cũng không còn chỗ đứng. Điều này thánh Augustin diễn tả trong câu nói: “Để dựng nên con, Thiên Chúa không cần có con, để cứu độ con, Thiên Chúa cần đến con”. Cứu độ là hồng ân siêu nhiên hiện tại hóa trong tự nhiên nơi con người Đức Giêsu Kitô. Con người tự nhiên đã bị tội lỗi đánh gục phải nhờ một con người vô tội đến từ siêu nhiên trong con người tự nhiên để cứu vớt. Như vậy, con người muốn được cứu vớt cần được tháp nhập vào trong con người của Đức Giêsu Kitô, việc tháp nhập là do con người quyết định. Thiên Chúa không thể cứu nếu con người không muốn.
Rửa chân trong chiều Thứ Năm Tuần Thánh là một biểu tượng có nhiều liên quan đến việc rửa sạch.
Rửa sạch cái quyền: Quyền của người lãnh đạo đúng như vương quyền Đức Giêsu là cúi xuống rửa chân cho anh em. Thay vì trong vai chủ nhà, theo thông lệ của người Do Thái, Khách đến nhà, chủ gia se lấy nước để khách rửa chân, khi nào là khách quý chính chủ nhà sẽ cúi xuống rửa chân cho vị khách. Chúa Giêsu xem các môn đệ của mình là những người khách quý đến nhà, Ngài đã cúi xuống long trọng rửa chân cho các môn đệ. Hành vi này gây cho Phêrô và các môn đệ thắc mắc: “Sao Thầy lại rửa chân cho con”. Lời thắc mắc này lại mở ra câu trả lời hoàn toàn nghe khác: “Nếu không rửa chân cho con, con se không được tham dự vào Nước của Thầy”. Lãnh vực Nước của Đức Giêsu, cũng bị các môn đệ hiểu sai về một vương quyền trần thế sắp tới. Thực sự, các ông se hiểu rõ hơn: “Nước của Ngài không thuộc thế gian này”. Rửa chân - quyền để phục vụ - Nước Trời, là ba chủ đề liên quan với nhau. Quyền không để trục lợi nhưng để phục vụ, quyền không để chiếm hữu tư lợi nhưng để cùng nhau tiến vào dự tiệc Nước Trời. Quyền bính nếu không để giúp con người sống dồi dào và phong phú hơn, quyền ấy đang bị lạm quyền và mang lại sự chết chóc, tiêu diệt. Rửa quyền hành là rửa sạch tư lợi để được các anh chị em trong hiệp thông sự sống.
Rửa sạch những chiếm hữu: Trần thế này không phải là tất cả, chiếm hữu càng nhiều đôi chân càng bẩn, rửa chân là rửa những chiếm hữu quá đángcủa con người. Khi con người chiếm hữu cho riêng mình phần lớn sẽ chèn ép và tẩy chay những đôi chân khác dù là bé tý. Phá thai – loại trừ sự sống, là cách thức chiếm hữu của con người càng nhiều càng tẩy chay lẫn nhau: “một đứa con sinh ra sẽ chia bớt phần hưởng thụ của cha mẹ và là một gánh nặng thêm cho các gia đình và xã hội”. Rửa sự chiếm hữu để chia cho nhau sự sống và để đi đến hiệp thông trong sự sống.
Rửa các mối tương quan. Từ khi rửa sạch các mối tương quan, con người mới hiểu được di chúc của Chúa trong bữa tiệc ly: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em”. Đó là nội dung chính của việc rửa chân.
Lm. Giuse Hoàng Kim Toan
Ý tưởng này được nói đến nhiều sau Công đồng, nhưng thực ra đã có từ lâu trong
Tin Mừng, khi Đức Ki-tô nói Người đến không phải để được kẻ hầu người hạ mà
chính là để “hầu hạ” người ta: “Con Người đến không phải để được người ta
phục vụ, nhưng là để phục vụ” . (Mc 10,45) Vì thế, Người mới dạy các Tông đồ
rằng ai muốn làm đầu thì phải hầu thiên hạ: “Ai muốn làm đầu anh em thì phải
làm đầy tớ mọi người” (Mc 10,44)
Từ những ý tưởng trên mới nảy ra cặp từ autorité-service trong tiếng
Pháp, nghĩa là quyền hành-phục vụ. Có quyền là để phục vụ hay hành quyền
là phục vụ. Cũng vì tinh thần này mà các Đức Giáo Hoàng thường viết tắt hai chữ
SS trước khi ký tên. Hai chữ này không phải là bí ngữ của công an xung phong
Quốc xã đâu, mà là hai chữ Servus Servorum viết tắt, có nghĩa là tôi
tớ của các tôi tớ. Rồi người ta chuyển sang các chữ khác mà viết là Sua
Sanctitas trong tiếng La tinh, Sa Sainteté trong tiếng Pháp. Những chữ chuyển
dịch này xa với ý nghĩa ban đầu của hai chữ Servus Servorum. Mà thật thế. Gíáo
Hoàng tuy ký là “tôi tớ của các tôi tớ” , một kiểu nói khiêm nhường nhưng
lại là một nhân vật được tôn kính hơn mọi người có quyền hành trên thế gian này.
Người công giáo ở khắp nơi đều kính trọng và yêu mến Đức Giáo Hoàng. Chúng ta
chỉ cần nhớ lại đám tang vô tiền khoáng hậu của Đức Cố Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô
II và lễ đăng quang của Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô XVI thì đủ hiểu. Rồi các
danh xưng đối với các vị chức sắc trong Hội thánh. Người ta xưng với Hồng Y là
Sua Eminentia, Son Eminence, với Giám Mục là Sua Excellentia, Son Excellence,
với Bề Trên cao cấp trong các Dòng tu là Reverendissimus, Reverendissime, với
linh mục là Reverendus, Révérend.
Tất cả những danh xưng đó từ bao đời nay đã làm lu mờ ý tưởng có quyền là để
phục vụ hay hành quyền là phục vụ. Phải đợi mãi đến Công đồng Va-ti-ca-nô II
mới có sự thay đổi. Bắt đầu là sự thay đổi trong giáo triều Roma: Đức Phao-lô VI
không ngồi trên kiệu khi ra cử hành các lễ nghi tại đền thờ thánh Phê-rô nữa;
người bỏ mũ giáo hoàng ba tầng và khi qua đời thì truyền lệnh phải đặt quan tài
sát đất v.v…
Nhưng đối với người Việt Nam thì sự đơn sơ giản dị là hơi khó, vì xã hội chúng
ta là một xã hội nặng về tôn ty đẳng cấp, và không có một nước nào mà cách xưng
hô vừa phong phú lại vừa phức tạp như cách xưng hô của chúng ta. Đàng khác, dân
chủ vẫn còn như là một thứ xa xỉ phẩm đối với phần đông đồng bào chúng ta. Người
Việt Nam lại vốn thích danh vọng địa vị. Vì thế mới có những câu như “Một
miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp” . Ngoài ra, thường làm gì tự nhiên ai
cũng thích cho người khác biết đến. Như thế mới nở mày nở mặt với thiên hạ.
Trước mặt xã hội, phải có danh vọng địa vị gì đó mới được, còn nếu chỉ là bạch
đinh thì thường quá. Vì vậy, trước kia trong làng xã phải bỏ tiền ra mua một
chức nào dó như ông nhiêu, ông xã và trong họ đạo cũng phải có danh phận gì như
ông trùm, bà quản, ông câu, ông biện và ngày nay một chân nào đó trong Hội Đồng
giáo xứ. Danh vọng, chức vị đường như đã là một cái gi cố hữu trong huyết quản
của người Việt Nam rồi, nên gỡ bỏ đi thật là khó. Xã hội của chúng ta bây giờ
bên ngoài vẫn thế. Chẳng may, người nhà đạo chúng ta lại cũng “nhập nhiễm” những
thói này. Cứ nhìn vào cách thức thưa gửi trong nhà thờ vào các dịp lễ đặc biệt
là đủ thấy ảnh hưởng rõ rệt của lối hành xử theo phần đời. Nhiều người nhà tu
cũng không rũ bỏ được những thứ đó. Vì thế, lối hành quyền của chúng ta còn lâu
mới là một cách thế phục vụ. Ở Việt Nam phải cố gắng và cảnh giác lắm mới sống
theo tinh thần Phúc Âm trong vấn đề này được. Lề lối phong kiến ở ngoài đời cũng
như trong đạo còn đè nặng trên vai chúng ta. Vậy phải làm thế nào ?
Trước hết phải ý thức rằng mọi quyền hành là do Chúa ban cho: “Không có quyền
bính nào mà không bởi Thỉên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa
thiết lập.” (Rm 13, 1) Vì là quyền được ban và trao cho, nên người lãnh
quyền và hành quyền là do thiên mệnh để lo ích chung và công việc chung cho đoàn
thể. Người La tinh có câu tục ngữ “honor onus”, vinh dự gánh nặng, nghĩa là được
vinh dự đấy, nhưng cũng phải mang gánh nặng, gánh nặng của trách nhiệm đối với
đoàn thể. Nếu không chu toàn trách nhiệm thì không phải là người điều hành tốt.
Bởi thế, quyền hành đi đôi với điều hành là vậy. Nếu chỉ nắm quyền mà không biết
hành quyền cho phải đạo thì thật là tai hại cho đoàn thể.
Thứ đến là bao lâu còn nắm quyền thì hành quyền, nhưng khi mãn nhiệm, hết quyền
rồi thì không lưu luyến, bằng lòng trở về vị trí như những người khác. Trong các
chế độ dân cử, hết nhiệm kỳ là thôi không còn cố bám lấy chức vụ và địa vị cũ
nữa. Đó là điểm hay của các chế độ dân chủ. Người mãn nhiệm kỳ không đòi hỏi một
đặc quyền hay đặc lợi nào, và cũng không làm gì, ra như kể công về những việc
mình đã làm trong thời gian tại vị.
Cuối cùng, sau khi đã rời khỏi chức vụ hay hết quyền thì “xóa” mình đi, rút lui
vào bóng tối cho người kế nhiệm dễ làm việc. Nếu được mời làm cố vấn hay được
bàn hỏi thì giúp ý kiến, còn tự mình thì không tìm cách duy trì ảnh hưởng hay
làm khó dễ cách nào đó cho người đến sau. Tốt hơn cả là làm thế nào để người kế
nhiệm khỏi cảm thấy ngột ngạt, vì sự có mặt của người tiền nhiệm ở bên cạnh.
Thời gian rời khỏi chức vụ có thể là một thời gian nghỉ ngơi yên tĩnh, sau khi
đã đầu tư thời giờ, sức lực, họat động tối đa trong thời gian tại chức. Thái độ
nên có trong lúc này là thái độ của ông già Si-mê-on trong kinh Nunc dimittis,
một thái độ bình an thanh thản sẵn sàng ra đi.
Nói tóm lại, nếu muốn hành quyền theo tinh thần Phúc âm thì phải thay đổi não
trạng phong kiến và kiểu cách chung của người Việt Nam trong đạo cũng như ngoài
đời, khi nắm giữ quyền hành trong tay. Xin nói lại: Có quyền là để lo cho ích
chung. Ích chung phải là kim chỉ nam hướng dẫn mọi hành động của người nắm
quyền.
LM An-rê Đỗ xuân Quế, OP
Tuần Thánh, hai tiếng tự do đã đạt tới đỉnh cao của nó. Thiên Chúa sử dụng tự do để tự huỷ. Còn con người sử dụng tự do để phá huỷ. Vì con người lạm dụng và sử dụng tự do một cách sai lầm nên đã tạo ra sự tương phản rất lớn giữa con người và Thiên Chúa, con người và thụ tạo.
Cáo và Chiên
Một con cáo bị té xuống giếng mà không thể tự cứu mình được. Một con chiên đi ngang thấy vậy liền ra tay giúp bằng cách nhảy xuống giếng để cứu. Vừa xuống tới nơi, cáo tức khắc nhảy lên lưng chiên phóng lên thành giếng, rồi cười to : Đáng đời, từ nay đừng ngu như thế nhé. Cáo sung sướng chạy nhanh vào rừng.
Con người và Thiên Chúa
Cáo là hình ảnh của nhân loại. Nhân loại đang bị chôn vùi trong lũng cát. Con người đang đắm chìm trong biển chết của xác thịt. Nhân loại đang bị satan bao vây. Con người đã bị rơi vào giếng mê của tục luỵ. Con người không thể tự cứu mình ra khỏi trầm luân của bóng tối được.
Con chiên mà Isaia nói đến là Chúa Giêsu, con chiên không tì ố. Một con chiên bị đem tới lò sát sinh để xén lông, làm thịt mà không hề kêu la.
Con Chiên Thiên Chúa đã tự nguyện từ trời cao nhảy xuống giếng đời để cứu con người, mặc dù Ngài : “là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8).
Thế mà con người lại quay lưng với Thiên Chúa. Không quan tâm, không muốn biết, không muốn theo, không muốn đưa tay để Người lôi ra khỏi u mê tục luỵ. Con người không muốn được cứu mà còn đẩy người khác cho chết chung với mình, xô cả con Thiên Chúa xuống vực thẳm để Người chết đau khổ.
Tàn nhẫn và Nhân từ
Hình ảnh cáo và Chiên, con người và Thiên Chúa làm nổi bật sự tương phản giữa tốt và xấu; giữa hiền lành và độc ác; giữa nhân từ và tàn nhẫn.
Thái độ độc ác quá. Không chút thương cảm, cáo coi chiên là bàn đạp để thoát chết. “Từ nay đừng ngu như vậy nữa nhé”.
Không chút thương tâm, con người cũng coi Con Thiên Chúa là bàn đạp để phóng mình lên chộp lấy tội ác mà satan đang đưa tay chào mời. Rồi con người cũng quay mặt lại nói với Thiên Chúa : Hỡi thầy lang ơi hãy tự cứu mình đi. Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy nhảy xuống khỏi thập giá, chúng tôi sẽ tin. Một sự thách thức nhiễm đầy máu của tội ác, đầy sự ghê tởm của ma quỷ, chứa đầy nọc độc của rắn.
Thất bại và thành công
Cáo đã thành công. Nhưng thành công dựa trên sự hy sinh mạng sống của chiên.
Cáo đã thoát chết khi ma le, lợi dụng đạp lưng chiên, để chiên bỏ mạng dưới giếng.
Con người đã thành công vì đã sử dụng sự khôn ngoan Chúa ban để mưu mẹo, thủ đoạn, xảo quyệt với Đấng đã ban cho sự khôn ngoan ấy. Con người đã chiến thắng khi cấu kết với nhau chống lại, sát hại và tiêu diệt Thiên Chúa. Con người đã thắng, một sự chiến thắng ghê tởm vì dựa vào bàn tay của sự chết là ma quỷ để thắng một Thiên Chúa hiền từ như con Chiên của Isaia đã loan báo : một con chiên không tì ố. Một con chiên bị đem đi để xén lông, bị đưa tới lò sát sinh mà không hề kêu la.
Sự chết và sự sống
Cái nhục nhằn của Thiên Chúa nơi con người, cái khùng dại của Thiên Chúa trước mặt người đời lại làm nên lịch sử, thay đổi thế giới, canh tân vũ trụ.
Cái thất bại của Thiên Chúa lại là tâm điểm để người ta chú ý, tìm hiểu, suy gẫm và bắt chước.
Cái mà con người cho là kết thúc là sự chết, thì với Thiên Chúa, đó mới chỉ là bắt đầu cho một sự sống dài lâu, hoàn hảo.
Đối diện với cái khờ dại phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa, con người mới biết sự thành công của mình là thật hay giả, là đúng hay sai.
Và, con người mãi mãi vẫn phải trông mong và cậy dựa vào sự khờ dại của Thiên Chúa. Vì có như vậy thì mới được ơn cứu độ.
Và từ nay, với cái chết của Chúa Giêsu : “Thiên Chúa Cha đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng : Đức Giêsu Kitô là Chúa" (Pl 2,9-11).
Con cái và cha mẹ
Đã có sự tương phản giữa cáo và chiên, giữa con người và Thiên Chúa, thì sự tương phản ấy cũng có trong mỗi gia đình. Đó là sự tương phản giữa cha mẹ và con cái. Ngày nay, nhìn vào nhiều gia đình, sao thấy khó hiểu và hỗn độn đến thế. Rồi :
Không biết con cái là chiên hay chiên là cha mẹ.
Không biết con cái tốt hay cha mẹ tốt.
Không biết con cái xấu hay cha mẹ xấu.
Không biết con cái từ nhân hay cha mẹ nhân từ.
Không biết con cái đòi hỏi cha mẹ hay cha mẹ đòi hỏi con cái.
Lỗi tại ai, lỗi tại ai. Không phải lỗi tại tôi hồi nào mà lỗi tại tôi mọi đàng.
Không biết con cái là ánh sáng hay ánh sáng là cha mẹ.
Không biết con cái là bóng tối hay cha mẹ là bóng tối.
Không biết con cái gây gương xấu hay cha mẹ làm gương xấu cho con cái.
Không biết con cái không tin cha mẹ hay cha mẹ không tin con cái.
Không biết con cái và cha mẹ ngày nay thế nào mà sao đảo lộn, hỗn độn đến thế.
Lỗi tại ai, lỗi tại ai. Không phải lỗi tại tôi hồi nào mà lỗi tại tôi mọi đàng.
Không biết con cái và cha mẹ ngày nay thế nào mà sao chẳng tôn ti trật tự gì cả.
Không biết con cái và cha mẹ thế nào mà sao ngang hàng, cá mè một lứa như vậy.
Không biết con cái và cha mẹ ngày nay thế nào mà sao khó hiểu đến thế !
Không biết con cái không vâng lời hay cha mẹ không biết cách dạy con ?
Lỗi tại ai, lỗi tại ai. Lỗi tại tôi mọi đàng.
Thanh Thanh
PHÊRÔ : VỊ BỔN MẠNG CỦA THỜI ĐẠI
Kitô hữu bước vào Tuần Thương Khó của Đức Giêsu Kitô với bài trình thuật về cuộc thương khó của Chúa thật bi ai. Có lẽ các kitô hữu quen quá với trình thuật bi đát kể về những giờ phút cuối đời của Chúa Giêsu. Thế nhưng ngày hôm nay phải nói là lần đầu tiên trong đời được vào vai Chúa Giêsu khi đọc trình thuật thương khó đấy. Có lẽ nhập vào vai của Chúa Giêsu quá đến đỗi cứ đến những lần chối Chúa của Phêrô tôi lại càng thấy thương Chúa quá. Thương vì lẽ là Thầy, là Chúa mà gặp ngay một đại ca nổ !
Một tông đồ, một anh hai hay nói ví von là đại ca của nhóm đồ đệ của Chúa Giêsu, đã hơn một lần thề sống thề chết rằng dù bất cứ có ai bỏ thầy nhưng con đây (Phêrô) không bao giờ bỏ Thầy. Nhớ lại cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, cái tình thầy trò ban đầu đấy nó đã làm cho Phêrô nói nhưng chẳng hề biết mình nói cái gì cả. Và theo ngôn ngữ hiện đại thì Phêrô là đại ca của những người nổ. Cũng chẳng sai đâu vì nói như Phêrô ai nói chẳng được nhưng có làm, có thực hiện hay không là chuyện khác. Chẳng hiểu sao cái bệnh nổ của Phêrô ngày xưa đấy nó đã lan tràn khắp nơi để rồi Phêrô vị thánh lừng danh của thời đấy mãi còn lừng danh đến ngày nay. Vì sao ? Vì lẽ ngày hôm nay nhiều và nhiều người mắc cái bệnh nổ như Phêrô lắm !
Sanh sau đẻ muộn nên chẳng được nghe tiếng bom đạn. Ở Việt nam dẫu không còn chiến tranh, không còn bom đạn nữa và cũng chẳng bao giờ người dân phải chứng kiến cảnh ôm bom như vài nước bạn mà chúng ta vẫn thường thấy trên màn ảnh nhỏ trong những lúc xem Tin thế giới nhưng nhiều người vẫn sợ dính miễng do nhiều người sống chung nổ quá ! Mà nghĩ cũng vui, thà nghe tiếng nổ của bom đạn nó hay hơn là nghe tiếng nổ của con người nổ cho nhau. Vì tiếng bom đạn nghe xong thì hết hay chỉ xảy ra đây đó nơi có chiến tranh thôi. Đàng này không có chiến tranh mà đi đâu cũng sợ văng miễng cả.
“Thuốc đắng giã tật, sự thật mất lòng”, nếu như có đụng chạm ai thì xin niệm tình tha thứ vì lẽ trong xã hội thời đại ngày nay nhiều người nổ quá. Bằng chứng là người ta đã lên không biết bao nhiêu là kế hoạch, không biết bao nhiêu là dự án và các dự án, kế hoạch toàn là tầm cỡ quốc tế và quốc gia không à. Nhưng thử hỏi là bao nhiêu cái kế hoạch, bao nhiêu cái dự án đã làm đúng như sự thật ban đầu của nó. Có chăng là người ta cứ nổ. Người làm lớn nổ theo người làm lớn, người làm nhỏ nổ theo người làm nhỏ.
Một cái thực tế ngay trước mắt mọi người đó là các công trình như là cầu đường, như là các khu chung cư, như là các khu đô thị đấy. Thật lòng mà kiểm lại xem bao nhiêu công trình, bao nhiêu chung cư được xây dựng đúng chuẩn của nó hay là công trình nào cũng bị rút ruột, rút gan. Có thời nào mà con người ăn sắt, ăn xi măng, ăn bê-tông cốt thép như ngày nay đâu ? Và mới đây thôi, một công trình để mà xử lý rác rến gì đó ở Củ Chi người ta đã không ngần ngại “ăn đất”. Kinh khủng thật ! Người ta nổ là sống cho dân, vì dân nhưng thực sự sống cho chính bản thân của họ vì họ nên họ mới làm các công trình một cách cẩu thả như thế ! Người ta cứ nổ và vẫn nổ mà thôi.
Nếu không nổ, nếu sống chân chính thì làm gì mà có những vụ việc được ghi vào sử sách như là vụ hầm chui Văn Thánh, cầu Bình Triệu 2 ...
Đó là những người không hề biết ông thánh Phêrô là ai mà còn nổ như thế chứ huống hồ gì là các con cái của ngài. Đã là con cái của thánh Phêrô mà không nổ thì cũng uổng. Đàng này nổ hơn thánh Phêrô nhiều để cho nhà được cái phúc vì là “con hơn cha – nhà có phúc”.
Ta lại cứ thử nhìn lại thực trạng của Giáo hội đi ? Đừng báo cáo, đừng chứng nhận, đừng thành tích, đừng cờ đỏ thi đua nữa. Nói nhiều quá, hô hào nhiều quá, la làng la xóm nhiều quá !
Phải nói một thực trạng đau lòng của người Công giáo thời hiện đại. Từ mục tử đến con chiên và từ con chiên đến mục tử. Riết rồi cha với con, con với cha đánh mất dần đi cái chất mà người ta vẫn thường nói là cái “chất Giêsu” trong con người của mình nên rồi bệnh nổ ngày một tăng và tăng đến độ báo động.
Một thực trạng đau lòng là phẩm chất của người kitô ngày hôm nay nó cứ mờ dần, nó cứ nhạt dần. Mỗi tín hữu, mạnh ai nấy vô tư làm cho khuôn mặt của Đức Kitô mờ đi giữa cuộc đời này. Vì sao ? Vì bệnh nổ.
Nếu giữ đạo và sống đạo nghiêm túc thì đâu đến nỗi có cái tình trạng như ngày hôm nay. Ngày hôm nay chuyện đổ vỡ đời sống hôn nhân không chỉ còn rơi vào những gia đình không có đạo nữa mà nó rơi ngay vào những gia đình có đạo. Đau lòng hơn nữa không phải là gia đình bình thường mà là ở những gia đình tạm gọi là có chức có quyền ở trong giáo xứ như là con cái của các vị trong ban Thường Vụ Hội Đồng Giáo Xứ, con cái của các vị có chức trong Hội các bà mẹ Công Giáo. Rồi kế đến là các tệ nạn như ma túy, phá thai. Ngày hôm nay không chỉ những người không Công Giáo mới buôn ma túy, mới đi phá thai mà cả những người Công Giáo nữa. Và cũng đau lòng vì sợ mang danh mang tiếng nên một vị chánh trương của một giáo xứ nọ, một vị tu xuất thuộc giáo xứ kia đã không ngần ngại bắt con mình phá đi cái mầm sống mà con của các vị đang mang.
Đi đâu người ta cũng hoan hô, đi đâu người ta cũng chúc tụng nhau là người ta giữ đạo, sống đạo tốt nhưng thực tế nó không phải như người ta nói đâu.
Từ đời cho đến đạo và từ đạo cho đến đời, đi đâu cũng thấy người ta hô hào những khẩu hiệu thật lớn, thật to. Đành biết rằng chuyện hô hào khẩu hiệu để mà cổ vũ cho người ta sống theo cái khẩu hiệu đó thì cũng tốt thôi nhưng đừng lạm dụng quá các khẩu hiệu để rồi khẩu hiệu mãi mãi là khẩu hiệu còn chẳng ai sống cái khẩu hiệu đấy cả.
Đến một nhà dòng nọ, thấy có trương một câu của thánh Phaolô làm thành khẩu hiệu sống cho mình thật là to : “Tôi không muốn biết gì ngoài một Đức Giêsu mà là Đức Giêsu chịu đóng đinh” (1 Cr 2,2).
Gớm dziếc ! Không muốn biết gì ngoài một Đức Giêsu mà là một Đức Giêsu không phải là Đức Giêsu ở bờ sông Giođan, Đức Giêsu ở tiệc cưới Ca-na, Đức Giêsu ở nhà bà Matta và Maria nhưng là Đức Giêsu chịu đóng đinh cơ ! Thật sự ai ai trong hội dòng mà sống được cái mầu nhiệm thập giá và mầu nhiệm Đức Giêsu chịu chết trên đó thì thật hội dòng đó chính là thiên đàng tại thế rồi !
Nhớ lại thánh Phêrô trong thấy tội nghiệp quá ! Nếu như ngài biết là do ngài nổ mà để lại hậu quả như ngày hôm nay ngài không dám nổ đâu !
Phải nói là ngày hôm nay nhà nhà cùng nổ, người người cùng nổ, già nổ theo kiểu của già, trẻ nổ theo kiểu của trẻ, thanh niên nổ theo kiểu của thanh niên, thiếu nữ nổ theo kiểu của thiếu nữ nên rồi Thánh Phêrô không chỉ là bổn mạng một số ông, một số anh nhưng bỗng nhiên ngài trở thành bổn mạng của con người thời đại này. Thời đại này chẳng hiểu sao mà nhiều người nổ đến thế !
Ngài làm bổn mạng tốt lắm chứ ! Vì lẽ sau khi ngài lỡ nổ với Thầy mình để rồi đến lúc Thầy vào cuộc thương khó thì lại chối nhưng sau khi Chúa Phục Sinh ngài đã thay đổi hẳn. Thay vì nổ như trước kia thì ngài hối hận và ngài đã sống một đời cho Chúa và sống cho đến chết và xin đóng đinh thập giá ngược với thầy mình vì cho là mình bất xứng.
Nghĩ cũng vui, do ảnh hưởng của môi trường sống hay chăng mà người viết đôi khi cũng nhận thánh Phêrô làm bổn mạng đấy chứ ! Thế nhưng, lỡ nhận thì phải nhận cho trót tất cả các nhân đức của ngài đó là sau khi nổ thì phải hối hận và một lòng một ý theo Chúa suốt đời chứ không phải nổ rồi bỏ Chúa bơ vơ một mình.
Ước gì kinh nghiệm đau thương của Thánh Phêrô cũng là kinh nghiệm của mỗi người chúng ta để rồi chúng ta có lỡ nổ với Chúa, với ai đó thì chúng ta cũng biết sửa sai như thánh nhân đã sửa sai sau khi Chúa Phục Sinh.
Lễ hội Tuần Thánh là một lễ hội mang nét đặc thù của người công giáo Việt Nam,
có nguồn gốc từ nền văn hoá dân tộc, được thích ứng với Đức Tin công giáo.
Dân tộc Việt Nam có truyền thống tín ngưỡng từ lâu đời, thờ kính thần linh một
cách rất sùng mộ. Nền văn minh Lạc Việt vẫn luôn trân quý, tôn trọng những sinh
hoạt tập thể, nét hợp quần vui hội vẫn luôn được thể hiện trong đời sống. Xuân
thu nhị kỳ cầu an, kính vía vị Thần thành hoàng thường biến thành những ngày lễ
hội. Tại các làng giầu có, to lớn, lễ hội có thể kéo dài hàng tuần, linh đình
rực rỡ, vui nhộn náo nhiệt. Làng nhỏ không mấy dư giả, lễ hội cũng vẫn trang
trọng, đầy mầu sắc. Đỉnh cao của ngày lễ hội bao giờ cũng là ngày “vào hèm”, tức
là ngày diễn lại sự tích của vị Thần thành hoàng.
Dựa vào truyền thống đó, ngay từ khi đạo Công Giáo được rao giảng tại Việt nam,
các linh mục thừa sai Dòng Tên cũng đã biến những nghi thức Tuần Thánh thành
những ngày hội, vừa để giáo dân biết thêm về mầu nhiệm trong Đạo, vừa thoả mãn
được nhu cầu lễ hội của giáo dân, ngăn cản được giáo hữu đi xem lễ hội ngoài
làng mà các ngài cẩn thận sợ đức tin có thể bị lung lạc. Tuần Thánh là dịp thuận
tiện để tổ chức lễ hội, vì thường diễn ra vào mùa Xuân. Công việc đồng áng của
nhà nông miền Bắc trước đây đã vãn. Nó cũng còn trùng vào các dịp lễ hội ở ngoài
làng:
Tháng giêng ăn Tết ở nhà,
Tháng hai cờ bạc tháng ba hội hè.
Nhưng với người công giáo thì:
Tháng giêng ăn Tết ở nhà,
Tháng hai Ngắm đứng, tháng ba ra Mùa.
“Ra Mùa” ở đây có nghĩa là hết Mùa Chay của công giáo, tức là Tuần Thánh và lễ Phục Sinh. Vào dịp này, các xứ Đạo miền Bắc ngày xưa thường tổ chức “tống lễ”, mừng lễ một cách rất long trọng, biến thành những ngày hội. Giáo dân khắp các họ lẻ tuốn về họ nhà xứ để tham gia lễ hội.
Lễ hội Tuần Thánh kéo dài ba bốn ngày. Chính thức vào hội là chiều Thứ Năm. Ta
cần nhớ là các nghi thức Tuần Thánh theo sách lễ Rôma xưa đều được cử hành vào
ban sáng. Sau cuộc canh tân phụng vụ của Công đồng Vaticanô thứ 2, các lễ nghi
mới cử hành vào buổi chiều như ngày nay. Vì thế thời đó, buổi chiều có thì giờ
dành cho tổ chức lễ hội theo lễ nghi dân tộc. Chúng tôi dùng câu “theo lễ nghi
dân tộc” ở đây, vì những nghi thức tưởng niệm cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa
không làm theo nghi thức của Hội Thánh (theo sách chữ đỏ), mà diễn tả Tin Mừng
theo tình cảm của dân tộc Việt Nam, để trình bầy Mầu nhiệm Cứu chuộc một cách
sống động, qua các diễn biến như sau:
Rước Tiệc Chiên
Chiều Thứ Năm Tuần Thánh, tín hữu xưa diễn lại việc Chúa chủ tọa bữa tiệc ly ăn
lễ Chiên vượt qua theo với nếp sống của văn hoá người Việt. Vì có đông người
tham dự, không kể giáo dân mà còn có rất đông lương dân kéo đến xem, nên lễ hội
thường được tổ chức tại sân cuối nhà thờ. Người ta trang hoàng một cái rạp trên
bục cao để làm “nhà tiệc ly”. Ở xứ tôi nghe các cụ kể lại, có năm rạp ăn tiệc ly
được cất toàn bằng mía, và lợp bằng bánh đa (bánh tráng nướng).
Những bàn tiệc được trang hoàng bằng những món ăn cao lương mỹ vị, những quả lạ
trái mùa… Nhưng toàn là được đẽo gọt, sơn phết, bằng củ sắn, củ khoai lang,
khoai sọ hay quả đu đủ…Chúng ta nhớ rằng mùa Chay xưa phải kiêng thịt đủ 40
ngày, nên mới có “Thứ Ba béo” trước Thứ Tư lễ Tro, để người ta ăn thịt cho thỏa
mãn, hầu bước vào mùa Chay với những ngày dài kiêng thịt. Chính vì thế mà các
món ăn trên bàn tiệc được làm chỉ để cho đẹp mắt. Trên bàn tiệc bao giờ cũng
phải có mấy cây rau diếp, loại cây đã lên ngồng, trổ hoa vàng li ti như cánh bèo
tấm, được bứng trồng vào cái tô men sứ làm tăng phần trang trọng. Việc này nhớ
lại xưa dân Do Thái ăn chiên vượt qua họ cũng được lệnh phải ăn thịt chiên với
rau diếp đắng (Xh 12,8).
Con chiên được đắp bằng cơm nếp mật. Bên ngoài dán bông làm lông, điểm thêm đôi
mắt… và thế nào cũng phải có một lá cờ đỏ nhỏ, có thánh giá ở giữa, cắm trên
lưng con chiên đó.
Cuộc rước tiệc chiên rất long trọng. Khởi hành từ một nơi có đặt tượng Đức Mẹ
sầu bi, để đọc Đoạn “Đức Chúa Giêsu giã Đức Mẹ mà đi thành Giêrusalem”. Chiêng
đổng trống cái vang vọng, phường kèn, phường trống râm ran. Những bàn tiệc được
khiêng rước đi. Đi trước bàn tiệc là mười hai chức sắc đóng vai 12 tông đồ, mặc
áo thụng lam có bối tử, đầu đội mũ quan viên, tay chống gậy tông đồ thếp vàng
óng ánh. Mỗi vị có anh thanh niên mặc áo nậu cầm lọng đen che hầu. Rồi đến án
thư rước con chiên, có che hai cây tàn đỏ, Vị linh mục chủ sự mặc áo capha đội
mũ ba múi theo sau, có hai cây lọng xanh hộ tống.
Đến “nhà tiệc ly”, các vị ngổi vào vị trí hành lễ chung quanh bàn tiệc. Một thầy
già trang trọng đọc bài “giảng sự thương khó Đức Chúa Giêsu” đoạn nói về việc
Chúa ăn lễ Vượt qua. Đọc đến đâu, các viên chấp sự làm theo đến đó.
Nghi thức Rửa chân cho các môn đệ tiếp nối. Vị linh mục thay mặt Chúa Giêsu cử
hành theo bài “giảng sự thương khó…”. Trước tiên là rửa chân cho Phêrô, trình
thuật khúc này hơi dài vì Phêrô không đồng ý việc sư phụ lại rửa chân cho môn
đồ, Chúa phải giải thích gương phục vụ của Ngài. Người được rửa chân kế là
Giuda, rồi mới tới các tông đồ khác. Vì thế các chức việc được chọn làm tông đồ,
ông nào cũng cố né ngồi chỗ thứ hai…
Nghi thức chấm dứt. Giáo dân vào nhà thờ để thông công Ngắm Đứng. Trong khi đó ngoài khuôn viên thánh đường, người ta đã thấy thấp thoáng “đám lính của các Thượng tế” mặc áo đỏ có nẹp, đội nón dấu, chân quấn xà cạp, tay mang gươm hay vác giáo, do “một quan cưỡi ngựa” chỉ huy, chuẩn bị hùng hổ đi lùng bắt Chúa. (ngựa này được đan bằng tre, phất giấy, người cưỡi cột chặt vào thắt lưng để mang ngựa theo, khi phi ngựa ông phải chạy).
Rước Kiệu Bắt
Chiều Thứ Sáu Tuần Thánh là cao điểm của lễ hội. Hôm nay đúng là ngày “vào hèm”
để diễn lại cuộc thương khó của Chúa Giêsu Cứu Thế: “chịu nạn đời quan
Phongxiô Philatô, chịu đóng đanh trên cây Thánh giá, chết và táng xác” …
Mở đầu là cuộc rước Kiệu bắt, gọi là Kiệu bắt vì trong đó diễn lại việc Đức
Giêsu bị quân dữ bắt đem đi hành hình. Cuộc rước này có tới ba kiệu: Kiệu bắt
rước Tượng Chúa Giêsu vác Thánh Giá trên đường lên Núi Sọ, được khởi hành từ một
nơi gọi là “Dinh Trấn Thủ”. Kiệu thứ hai rước Tượng Đức Mẹ sầu bi, có trái tim
bị bảy cây kiếm đâm thâu, đặt tại một nơi khác gọi là thành Giêrusalem. Kiệu thứ
ba là Tượng Thánh Gioan tông đồ, sắp tại nơi gần Dinh quan Trấn Thủ.
Kiệu Thánh Gioan về Giêrusalem báo tin cho Đức Mẹ: Chúa đã bị lên án tử và đang
vác Thánh Giá ra pháp trường. Đức Mẹ vội vã theo Thánh Gioan đi đón để gặp mặt
Chúa. Cứ thế, lộ trình của hai đoàn rước cùng tiến về nhà thờ. Khi hai đoàn kiệu
gặp nhau, mỗi bên kiệu có một người “đọc đoạn” diễn lại những lời tâm tình của
hai mẹ con khi gặp nhau trong cảnh bi thương ấy. Đức Giêsu yên ủi Đức Mẹ và xin
Đức Mẹ trở về để khỏi chứng kiến cảnh Chúa bị hành hình. Nhưng Đức Mẹ nhất quyết
đi theo đến tận nơi Chúa chịu đóng đanh để được góp phần đồng công cứu chuộc !…
Khi người đọc đoạn bên kiệu Đức Mẹ đọc đến câu: “Con tôi đi đâu thì Mẹ theo
đi đấy” … Trống chiêng lại lên hồi, hai đoàn rước nhập làm một, tiến vào nhà
thờ, nơi đã dọn sẵn “đẳng ngắm” tượng trưng cho đồi Can-vê, pháp trường xử Chúa.
Đóng Đanh
Vào trong nhà thờ, cả ba kiệu cùng tiến lên gần cung thánh. Kiệu Chúa vác Thánh
Giá được đưa vào hẳn trong cung thánh, sau bức màn ngăn cung thánh đã được buông
sẵn. Kiệu Đức Mẹ đặt phía bên trái đẳng ngắm. Kiệu Thánh Gioan đặt phía bên
phải, đối diên với kiệu Đức Mẹ.
Một vị “đọc đoạn” lão luyện, thường là một thầy già, có khi là một linh mục có
giọng đọc diễn cảm, trang trọng đứng trên một bục cao để “giảng sự thương khó
Đức Chúa Giêsu” qua đoạn quân Giudêu đóng đanh Chúa. Tiếng đọc đoạn thảm thương
não nuột khi bổng khi trầm, lúc cao lúc dịu, diễn cảm tùy theo tình tiết mô tả
cuộc hành hình. Thêm vào đó, khi đọc đến tình tiết nào thì từ cung thánh vọng ra
những âm thanh đúng như được diễn đọc mô tả, như tiếng xé áo Chúa, tiếng xô vật
Chúa trên Thánh giá, tiếng búa đóng đanh nghe chan chát chói tai rùng rợn… tiếng
reo hò của quân dữ khi dựng Thánh giá lên…Quang cảnh ấy, âm thanh ấy làm nhiều
người cảm động bật khóc thương Chúa…
Khi Thánh giá đã được dựng lên cũng là lúc bắt đầu ngắm 15 sự thương khó Chúa
một cách trọng thể. Người ngắm mặc áo tang, được trống phách rước lên. Trong khi
ngắm, được thầy già cầm trịch thưởng bằng những “lèo“ mèn, trống từ loại nhỏ đến
loại lớn, lần lượt đánh nối theo nhau, thành một chuỗi âm thanh tiến cấp ! Những
người ngắm giỏi thường được hưởng nhiều lèo, có khi lèo kép đôi, kép ba…
Cứ hết 5 ngắm, lại có một tốp thiếu nữ lên “dâng hạt” (ở xứ lớn có thể hai, ba
dâu dâng hạt). Trong khi dâng hạt cũng có lèo thưởng.
Tháo Đanh, Táng Xác
Khi ngắm đến khoảng ngắm thứ 12, 13, ngoài nhà thờ có cuộc “tập đòn”. Người ta
chuẩn bị cho việc tháo đanh, táng xác Chúa. Kiệu táng Xác là kiệu đặc biệt, phần
chính kiệu là một “cái săng” lộng kính, được trang trí bằng những dây nả (lúa
được rang lên cho nổ gạo ra như cái hoa, rồi dùng chỉ xâu lại).Các nhân viên phù
giá kiệu táng xác (không gọi là đô tùy hay chân đòn đám ma) mặc đồ tang, tay cầm
bộ “sênh”, tập khiêng kiệu cho có quy cách. Tiếng lệnh, tiếng sênh phải ăn khớp
với bước đi cho đều, bày tỏ được sự cung kính cẩn trọng.
Kết thúc mười lăm ngắm và các dâu dâng hạt, đoàn người “tập đòn” ấy biến thành
đoàn rước vào nhà thờ để tháo đanh, táng Xác Chúa. Đi trước kiệu là hai người
đóng vai Giuse Amarithia và Nicôđêmô, mặc bộ đại tang, mỗi người mang theo một
cái thang nhỏ, đầu thang có treo một cái búa và tấm khăn liệm trắng.
Khi hiệu lệnh đặt kiệu xong giữa lòng nhà thờ, bài giảng sự thương khó Đức Chúa
Giêsu, đoạn tháo đanh, táng Xác được diễn đọc, hai vị đóng vai môn đệ tháo đanh
Chúa cứ làm đúng theo diễn tiến của người đọc đoạn. Tượng Chuộc Tội được tháo
xuống đặt trước kiệu Đức Mẹ, người ta cũng được nghe những tiếng than khóc thảm
thiết của Đức Mẹ và Thánh Gioan qua sự diễn tả của những người nhập vai đọc
đoạn. Cuối cùng thì Thánh Gioan cũng xin Đức Mẹ bớt sự phiền mà để cho môn đệ lo
việc an táng.
Xác Chúa được liệm vào “săng”, vì “săng” được lộng kính nên mọi người có thể
nhìn thấu. Kiệu táng Xác khởi hành. Mọi tín hữu tham dự đều mặc đồ trắng, đầu
chít khăn tang, tay cầm nến sáng. Tiếng chiêng đồng, trống cái, tiếng lệnh,
tiếng sênh cái, sênh con cứ tuần tự theo nhịp gióng ba vang lên. Khi tiếng sênh
con vừa dứt là mọi người đồng loạt đưa cao cây nến và cất lên, cung điệu thảm
thương chậm rãi, câu từ trong Kinh Cầu chịu nạn: “Chúa Giêsu đầy tớ táng
trong hang đá - Thương xót chúng tôi” . Đoàn kiệu táng Xác cứ trang nghiêm
lặp lại thứ tự những âm thanh ấy, cho đến hang đá.
Hang đá là mấy gian nhà đã được trang hoàng bằng cây tươi, cột lại thành đường
vòm, chỉ có thể quỳ, nếu đứng phải lom khom, để mọi người vào kính viếng, hôn
chân Chúa phải đi bằng hai đầu gối.
Khi kiệu táng Xác được đặt vào vị trí, linh mục chủ sự tiến vào hôn chân tượng
Chúa đầu tiên. Ngài có xức dầu thơm để mọi người cảm nhận như hương thánh ân
tràn vào tâm hồn qua việc tôn kính mồ Chúa. Người ta cũng đổ nả và hoa xoan vào
“săng” khiến hang đá phảng phất một mùi thơm đặc biệt.
Đám ma Giuđa
Trong khi nhiều người còn đang chờ đến lượt lên hôn chân Chúa, thì ngoài kia lại
có một đám tang nữa. Đó là đám ma Giuda. Tông đồ Giuda đã nhận 30 đồng bạc để
nạp Chúa. Khi thấy Chúa bị án tử, y đem tiền trả lại các Thượng tế, họ không
nhận mà còn tỏ vẻ khinh bỉ y, “và y đã ném bạc vào thánh điện, đoạn lui về mà ra
đi thắt cổ” (Mt 27,5). Trong lễ hội có nơi còn làm một hình nộm Giuda, cho mặc
quần áo xốc xếch, đem treo hình nộm ấy toòng teng trên một cây cao nào đó. Lại
có một người đóng vai vợ Giuda đi tìm chồng, khi thấy Giuda treo cổ tự vẫn, nàng
mới tri hô lên, người ta tuốn đến… Nàng khóc bù lu bù loa thảm thiết kề lể các
tội của Giuda, và tiếc thay cho con người đã theo Chúa mấy năm trời mà vẫn bị
tiền của che mất chân lý, lại thêm yếu lòng tin, thiếu lòng trông cậy và không
có tình yêu mến, nên mới ra nông nỗi…
Người ta xúm lại xem đám ma Giuda không kèn không trống, ít người tham dự. Một
vài người khiêng xác Giuda trên tấm ván thô sơ. Vợ y theo sau lẽo đẽo than khóc…
Đám ma đi mất hút vào bóng đêm tăm tối.
Phá Lâm-bô
Theo phụng vụ của Hội Thánh, Thứ bảy Tuần Thánh là ngày âm thầm lặng lẽ, không
cử hành lễ nghi nào. Thời gian này tượng trưng cho những giờ phút Chúa nghỉ yên
trong mồ. Lễ hội Tuần Thánh hôm nay kỷ niệm Chúa chịu “chết và táng Xác,
xuồng ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại.” Sáng Thứ Bảy
xưa dùng để các đoàn thể và các họ trong xứ thay nhau viếng hang đá. Họ tổ chức
những cuộc rước nhỏ, đem nả và nến đến viếng mồ và hôn chân Chúa. Buổi chiều có
tổ chức rước kiệu đi Đàng Thánh Giá trọng thể ngoài trời, để cùng với Đức Mẹ ôn
lại chặng đường khổ nạn Chúa đã đi qua. Kiệu ngắm Đàng Thánh Giá rước tượng Đức
Mẹ sầu bi đứng dưới chân Thánh Giá có vắt tấm khăn trắng, hai cái thang dùng
tháo đanh bắc hai bên.
Sau khi ngắm 14 nơi Đàng Thánh Giá, kiệu vào nhà thờ để tiếp tục Ngắm Dấu Đanh,
suy niệm về Năm Dấu Thánh Chúa, đã bị đanh sắt, lưỡi đòng gây thương tích. Nguời
ngắm cũng được trống phách rước lên và lèo thưởng như Ngắm Đứng.
Xong Ngắm Dấu Đanh là chuẩn bị cho Thánh Lễ Vọng Phục Sinh. Trong Thánh Lễ, các
bài Sách Thánh diễn tả những biến cố quan trọng từ ngày Sáng thế, nhất là biến
cố Vượt qua trong Sách Xuất Hành để chuyển sang cuộc Vượt Qua của Chúa Cứu Thế
từ cõi chết bước qua Phục Sinh vinh hiển. Chủ tế long trọng hát mở đầu Kinh
Gloria Vinh Danh Thiên Chúa…Chuông nhà thờ, sau ba ngày im bặt, lại vang ngân âm
điệu hân hoan mừng Chúa sống lại khải hoàn. Từ mồ thánh, người ta rước tượng
Chúa Phục Sinh uy nghi lẫm liệt lên bàn thờ. Ngay sau khi kiệu Chúa Phục Sinh ra
khỏi mồ, đám thanh niên trai tráng hò reo phá Lâm-bô.
Lâm-bô hay còn gọi là Ngục Tổ tông như trong ngắm thứ 14 đã gẫm: “khi Linh hồn
Đức Chúa Giêsu ra khỏi Xác xuống Ngục Tổ tông cứu những linh hồn Các Thánh xưa ở
đấy…” nói lên ý nghĩa “Đức Giêsu đã xuống chỗ sâu thẳm của cõi chết, để những
người chết được nghe tiếng Con Thiên Chúa, và những ai nghe tiếng Ngài thì được
sống” (Ga 5,25) “vì Tin Mừng cũng đã được loan báo cho những người đã chết” (1Pr
4,6). Phá Lâm-bô ở đây là đám trai tráng vui đùa dỡ bỏ hang đá nơi đã đặt tượng
Xác Chúa. Việc làm đó có mục đích nhấn mạnh cho mọi người: ý nghĩa cao trọng của
Mầu nhiệm Cứu Chuộc, Chúa Phục sinh đã chiến thắng sự chết, phá tan xiềng xích
tội lỗi của Satan, mở ra cho nhân loại một sinh lộ, dẫn đến Vương quốc Tình Yêu
Thiên Chúa.
Kiệu Mừng
Để kết thúc cho những ngày Lễ Hội Tuần Thánh, chiều Chúa Nhật Phục Sinh là cuộc
rước Kiệu Mừng. Gọi chung là Kiệu Mừng, nhưng thật ra cuộc rước này có hai kiệu.
Kiệu Tượng Chúa Phục Sinh, và kiệu Tượng Đức Mẹ. Hai kiệu xuất phát từ hai địa
điểm khác nhau, cùng tiến về nhà thờ, để rồi hai đoàn kiệu gặp nhau tại cuối nhà
thờ. Ở đó có cuộc “bái kiệu”. Bái kiệu là các người chân kiệu vai vẫn khiêng
kiêu, nhưng nghe theo hiệu lệnh phải bái gối. Để nghi thức bái kiệu được nhịp
nhàng, cung kính nên đã có sự tập dượt kỹ. Bên kiệu Đức Mẹ có bốn cô thiếu nữ
được tuyển chọn có giọng ca tốt, học câu Đức Mẹ chào mừng Chúa theo cung Ngắm Lễ
Mùa Mừng, các thiếu nữ này đứng trong gầm kiệu, cũng phải bái theo tám người
chân kiệu. Bên kiệu Chúa Phục Sinh bốn anh thanh niên cũng được tập hát cung
Evan câu Chúa đáp lại.
Cuộc gặp gỡ giữa Đức Mẹ và Chúa Phục Sinh khi hai kiệu đứng đối diện nhau. Hiệu
lệnh được ban ra, các đoàn thể đi kiệu dàn ra hai bên, cung chiêm cuộc bái kiệu.
Kèn trống ngưng biểu diễn. Bầu khí trang nghiêm thinh lặng.
Trống mèn chấp hiệu bên kiệu Đức Mẹ lên hiệu bắt
đầu “bái kiệu”. Tám người khiêng kiệu và bốn thiếu nữ đều bái gối sao cho kiệu
không rung, không nghiêng lệch. Khi kiệu đứng lên, tiếng chào bên kiệu Đức Mẹ
được cất lên:
- “Mừng Con Tôi rầy đã được sống lại sáng láng vui vẻ vô cùng, i i i”
Kiệu Đức Mẹ bái Chúa ba lần, trịnh trọng và trang nghiêm. Đến bên kiệu Chúa Phục
sinh bái đáp lễ một lần, tiếng chào đáp cũng được ngân lên:
- “Con mừng Mẹ cùng các Đầy tớ rầy được bình an, i i i”
Tiếng chào đáp vừa dứt, kèn trống lại nổi lên, hai đoàn rước nhập làm một tiến
vào nhà thờ. Kiệu Chúa đi trước, kiệu Đức Mẹ theo sau. Khi các kiệu an vị hai
bên cung thánh, là cuộc ngắm 5 sự Mừng của Kinh Mân côi, theo bản ngắm dài mà
người ngắm đọc theo cung giọng Evan. Y phục của người lên ngắm là khăn đóng, áo
thụng lam, họ cũng được rước lên bằng trống phách…
Giầu thêm văn hoá
Chúng tôi vừa trình bầy một số nét về cách diễn tả cuộc thương khó và phục sinh
của Chúa Giêsu, mà người công giáo Việt Nam trước đây đã cử hành theo tình cảm
dân tộc, như một lễ hội. Chúng tôi chỉ viết theo những gì đã cảm nhận được từ
thời thơ ấu mà năm nào cũng háo hức được đi xem. Mấy trang này chắc chắn không
diễn tả hết được cái phong phú, cũng như ý nghĩa mà cha ông chúng ta muốn bày tỏ
trong lễ hội. Chúng tôi ước mong sưu tầm được những tài liệu về đời sống đạo của
người xưa, cũng như sự quan tâm góp ý của quý vị, để có thể viết được nhiều chi
tiết về lễ hội này. Chúng tôi cũng đồng ý với nhiều người đã nhận ra đời sống
đạo của người công giáo Việt Nam luôn thích ứng vào nét đẹp văn hoá và truyền
thống dân tộc. Điều đó chứng tỏ rằng Đạo Công Giáo khi đến Việt Nam đã làm phong
phú thêm cho nếp sống văn hoá Lạc Việt, chứ không phải người công giáo Việt Nam
quên mất cội nguồn.
Dám mong một số nét tiêu biểu của Lễ Hội Tuần Thánh chúng tôi ghi lại trên, như
một gợi ý cho các vị cao minh khai triển, đồng thời cũng giúp các bạn trẻ có một
khái niệm về nếp sống đạo của cha ông chúng ta thuở trước.
(Tuần Thánh 2008)
Hoàng Đức Trinh
Bài 1 : Ham tiền nên phản bội
Kỳ tĩnh tâm này, chúng ta sẽ nói với nhau về một chuyện không mấy ai thích, nhưng cũng không mấy ai tránh khỏi, đó là sự phản bội.
Chúng ta thường nghe nói đến phản bội tình, phản bội lý tưởng, phản bội lại một cơ cấu nào đó. Dù là phản bội cái gì đi nữa, thì con người vẫn là trung tâm gánh chịu mọi hậu quả.
Có một cuộc phản bội, mà ai trong chúng ta đang hiện diện ở đây cũng đều biết rõ, và có vẻ như đang diễn ra cách quyết liệt trong Tuần Thánh này. Đó là cuộc phản bội của Giuđa với Thầy Giêsu của mình. Sự phản bội này đẩy những người theo Chúa Kitô đến tình trạng bi thảm, và đẩy Đức Giêsu đến một kết cục không một môn đệ nào mong đợi. Thầy mình bị giết.
Tôi còn nhớ, lúc nhỏ, khi sinh hoạt thiếu nhi, thỉnh thoảng cũng làm hoạt cảnh hay đóng kịch về các Tông đồ. Mỗi lần như thế các anh chị trưởng rất vất vả để thuyết phục được một em nào đó đóng vai Giuđa Iskariôt, kẻ phản bội. Đơn giản là vì sau khi đóng, rất có thể em ấy sẽ bị các bạn gọi mình mãi bằng cái tên kể phản bội. Kẻ phản bội đáng sợ lắm sao, mà từ trẻ em đến người già đều không thích, người giàu không ưa, kẻ nghèo không cần? Và có chắc rằng chẳng bao giờ chúng ta là kẻ phản bội không?
Kẻ phản bội đáng ghét thì quá rõ ràng, còn liệu chúng ta cũng có thể trở thành kẻ phản bội hay không thì hơi khó nói. Chính vì vậy trong ba ngày này, chúng ta hãy cùng nhau tập chú vào nhân vật Giuđa Iskariôt, là một kẻ phản bội điển hình, để xem anh chàng Yuđa này là con người như thế nào và biết đâu cũng chỉ ra những yếu tố đồng điệu đáng ghét như Yuđa cũng đang có nơi chúng ta?
1. HAM TIỀN NÊN PHẢN BỘI
Lời Chúa trong Tin Mừng Gioan, chương 12, câu 1 đến 11 kể rằng: Cô Maria lấy một bình dầu thơm quý giá xức lên chân thầy Giêsu, Giuđa liền bảo: "Sao lại không bán dầu thớm đó lấy ba trăm quan tiền mà cho người nghèo?" (c. 5). 300 quan là số tiền lớn gấp 10 lần số tiền Giuđa bán thầy Giêsu cho người Do Thái. Nếu làm công tác bác ái tự thiện theo như đề nghị của Giuđa là "cho người nghèo" thì chắc cũng được kha khá.
Lo cho người nghèo, sống với người nghèo chẳng lẽ không tốt? Tốt chứ, thậm chí đó còn phải là một chọn lựa mãi mãi của người Kitô hữu. Nhưng tác giả Tin Mừng Gioan cho chúng ta thấy rõ hơn sự thật này khi đã viết: "Y nói thế không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp: y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung" (c. 6). Như vậy ở đây có một vấn đề khác, chứ không phải là chuyện lo cho người nghèo.
Nhiều sơ, nhiều thầy và cả nhiều cha hay hỏi những anh em đang làm truyền giáo ở các vùng xa, vùng cao rằng có thiếu gì không, có cần gì không? Có lần tôi trả lời: "Tôi đang cần Giêsu !" Nghe nói thế, vị hỏi tôi trợn tròn mắt nhìn. Sau đó vị ấy đã gởi trực tiếp lên cho dân trên vùng đó tiền và hàng cứu trợ. Dân mừng vì những món quà từ phương xa gởi về chia sẻ, nhưng đâu đủ chia cho mọi người, thế là chỉ những người thân và chịu nghe lời người quản lý quà đó mới có phần. Cộng đoàn đó bắt đầu chia làm hai. Tình trạng chia đôi đó đã kéo dài hơn một năm nay rồi. Có lẽ đâu chỉ Giuđa thấy đồng tiền quan trọng hơn Giêsu, mà cả chúng ta nữa !
Có dịp thăm viếng nhiều gia đình, tôi đã chứng kiến nhiều kiểu thực thi quyền hành trong gia đình. Các gia đình người Kinh thì thường là người cha, người ông là người điều khiển gia đình. Các gia đình thuộc các sắc tộc thiểu số ở Tây Nguyên thì khi ở trong nhà thì người mẹ, người bà có quyền hướng dẫn gia đình. Nhưng đó là mẫu thức cũ rồi. Còn mẫu thức mới hôm nay là ai có tiền thì người đó điều khiển gia đình. Tôi đã chứng kiến một cuộc họp gia đình trong những ngày người bố sắp lâm chung, người mẹ lên tiếng giải bày, thì một người con lên tiếng: - Má im đi, má biét gì mà nói !? Tôi cũng đã từng được nghe hai vợ chồng cải nhau, người vợ quát: - Ông có ngon thì dọn đồ ra khỏi nhà tôi đi, đồ ăn bám ! Có nhiều người lý giải rằng, chẳng qua đó là hiện tượng tức nước vỡ bờ, nên mới ra nông nổi thế, chứ thực ra đâu đến nổi. Đó là biện mình, là che đậy sự thật, vì tất cả những người bị quát, bị nạt đó là bà mẹ bệnh tật đã không làm ra tiền hai năm nay, là ông chồng bị thất sủng với xếp bị cho về hưu non hơn một năm.
Vậy sự thật là gì?
Thỉnh thoảng chúng ta vẫn nghe trẻ con và cả người lớn nữa nói câu này : tiền là tiên là phật, là sức bật tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái đà của danh vọng… và còn là nhiều cái cao trọng hơn nữa. Người ta đã quá ham tiền và đã đề cao giá trị đồng tiền vượt trên tình người, vượt trên giá trị làm người.
Vì chỉ chú ý đến đồng tiền, nên Giuđa thấy Maria lấy dầu thơm hảo hạng đổ lên chân Chúa Giêsu là việc làm vớ vẫn, sai trái. Trong cách nói của Yuđa còn cho thấy Giuđa không chỉ trách Maria, mà còn lên án Chúa Giêsu nữa, khi Ngài ngồi im để Maria làm cái trò ngớ ngẫn là đổ dầu quý lên chân mình. Chỉ chú ý đến đồng tiên, nên Giuđa không còn thấy được tình người dành cho nhau là cần. Lòng tri ân cảm tạ của Maria dành cho Chúa Giêsu, vì Chúa đã làm cho em cô sống lại, cũng là một thứ tình cảm cải lương rẻ tiền. Vì chỉ bận tâm đến tiền, Yuđa đã trở nên nghẹt mũi, không nhận ra «cả nhà sực mùi thơm». Maria làm việc đó cho Chúa là việc tốt đáng khen ngợi thì mọi người hãy khen ngợi đi, tôi - Giuđa - không quan tâm. Tôi chỉ mong tiền mà thôi.
Cách đây hơn một tuần, một bạn trẻ viết thư cho tôi kể thế này : «Ba con bảo, nếu con không thôi việc nhà thờ thì ba con sẽ dẹp bàn thờ ở nhà, vì làm việc Chúa không sinh ra kinh tế !» Mà hình như đâu chỉ có ba cô bé ấy nghĩ như vậy, mà rất nhiều người, mà đâu chỉ có người gia hay trung niên, mà ngay giới trẻ cũng đang nghĩ như thế. Có thể nói người Việt Nam đang bị rơi vào hội chứng ham tiền. Hội chứng này khởi đi từ chủ trương «dân giàu nước mạnh». Họ khuyến khích nhau làm giàu bằng mọi cách, cách nào nhanh giàu thì hãy làm. Thế là đã có những nơi giáo viên tổ chức đường dây buôn bán ma túy cho học sinh ngay trong học đường, thế là đua nhau phá thai, vì thêm một miệng ăn thì ta sẽ bớt giàu. Khi thấy tình trạng nguy cập, họ sửa lại cách nói một chút là được làm giàu những không được vi phạm pháp luật, nhưng có phải thế đâu, mà thật chất là làm sao thì làm đừng để ai bắt tận tay, nên để ra đại bệnh cho quốc gia là tham những. Trong một hội nghị tổ chức tại Hà Nội, vị lãnh đạo cao nhất của đảng csvn đã phải thừa nhận : «nhiều biểu hiện tiêu cực trong xã hội phát sinh, phát triển một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng và các biểu hiện xa dân, vô cảm với dân, sách nhiễu dân, cửa quyền, v.v..." Một chính sách chỉ nhắm đến việc làm giàu, mà không nhắm đến xây dựng con người tâm linh thì không bao giờ có thể tạo ra những con người lương thiện được, chứ đừng mong có những nhà lãnh đạo có đức.
Cách của Giuđa đối xử với đồng môn và cũng là cách đối xử với Chúa Giêsu là đặt dồng tiên trên hết có vẻ như không xa lạ lắm với nhiều người trong chúng ta. Và chắc sẽ có nhiều người đang hiện diện ở đây nghĩ thầm rằng lý tưởng như thế thì tuyệt, nhưng phải «có thực mới vực được đạo» ông cha à.
«Có thực mới vực được đạo» có lẽ là một điều đang đúng với đại đa số chúng ta, và cả xã hội đang cố gắng lý luận như thế để sống qua ngày, nhưng hoàn toàn sai với sự phát triển con người trọn vẹn. Ngay từ ban đầu không có con người mà chỉ có Thiên Chúa, có đạo trước. Rồi sau đó Thiên Chúa mới tạo dựng nên muôn loài muôn vật và con người. Rồi chính Thiên Chúa trao vũ trụ và muôn loài cho con người trông coi và sử dụng. Đạo tạo ra thực ! Chúng ta đã nghe sai, đã nói sai theo và đã thành sai luôn mất rồi. Trong thực tế, có lẽ ai trong chúng ta cũng đã mục kích hình ảnh tương tự thế này : Một gia đình nghèo đầu tắt mặt tối kiếm ăn, nhưng sáng tôi quay quần với nhau cầu nguyện, gia đình nghèo thế, mà tiếng cười cứ giòn tan, nhưng thời gian sau thấy cảnh nghèo là nổi nhục, dồn mọi sức, thu mọi nổ lực để tìm cách làm giàu và đã khá hơn thì gia đình không còn cơ hội gặp nhau nhiều hơn nữa, rồi từ từ mạnh ai nấy sống. Nhiều người trong hoàn cảnh đó đã sa ngã, đã không còn tin Chúa nữa. Có thực không những không vực được đạo, mà còn diệt đạo nữa là khác.
Chúng ta cảm thấy lúng túng với cuộc sống thực tại khi nghe những lời chia sẻ này, nhưng nếu chúng ta nghe lại Lời Thiên Chúa nói ở khởi đầu bài đọc một hôm nay, chúng ta sẽ thấy khác : «Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người ta tuyển chọn và hết lòng quý mến» (Is 42, 1). Người tôi trung ở đây là Chúa Giêsu và là tất cả những ai thuộc về Chúa Giêsu. Giữa những người Do Thái đang muốn bắt Chúa Giêsu, giữa lúc Giuđa, một môn đệ thân tín, đang coi Chúa Giêsu không bằng nắm tiền hắn có trong tay thì Chúa Giêsu biết mình thuộc về Cha là Thiên Chúa và đang được Cha nâng đỡ. Sở dĩ giữa cuộc đời nhiều thử thách gian nan, nhiều áp lực đẩy chúng ta vào tình trạng phải đồng lõa với cái xấu, chúng ta cảm thấy kiệt sức là do chúng ta đã không còn thấy trong Đức Kitô Giêsu, chúng ta được Thiên Chúa tuyển chọn, được Thiên Chúa hết lòng quý mến.
Khi chúng ta sống bất chấp vòng xoay của cuộc đời, tức là không chạy theo đồng tiền nữa, thì cũng đừng quá sợ người đời ức hiếp chúng ta, vì lúc ấy Chúa Giêsu sẽ lên tiếng, như người đã lên tiếng với Giuđa mà bênh vực cho Maria : «Hãy để cô ấy yên !»
Vì đồng tiền Giuđa đã phản bội thầy chí thánh của mình. Còn vì tình yêu thương, Maria đã được Chúa Giêsu bảo vệ và trân trọng. Có lẽ không ai trong chúng ta muốn là Giuđa, kẻ phản bội, nhưng để không ham tiền nữa, tự thân chúng ta cũng khó có thể cưỡng lại. Vậy chúng ta chỉ còn cách khẩn cầu Chúa đến với chúng ta, đổ đầy những khoảng trống trong cuộc đời chúng ta, để dẩu có tiền hay trắng tay, chúng ta vẫn có Chúa ; để dẩu đồng tiền có giương oai thị uy thì chúng ta biết rõ, nó chỉ là một sức mạnh bên ngoài, chóng qua, chẳng làm sao được chúng ta, bởi một sức mạnh rất lớn đã có rồi trong chúng ta là chính Giêsu, Chúa chúng ta.
Bài 2 : Tự tin nên phản bội
Khi tôi 20 tuổi, bạn của anh tôi đưa cho tôi quyển sách nhỏ bìa cứng có tựa đề
"Đường hy vọng" của đức cố hồng y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận. Trong 1001
điều ngài đã viết, có điều này: "Mỗi ngày khi con thức dậy, con hãy thưa với
Chúa: Lạy Chúa hôm nay xin cho con bớt tin con đi một chút, để con tin Chúa thêm
một chút". Đọc xong điều đó, tôi không đọc tiếp nữa và ném quyển sách. Vì lúc đó
tôi nghĩ rằng con người mà không tin vào mình thì có là người không. Một quyển
sách lại khuyên người ta sống không còn là người nữa thì chỉ xứng đáng nằm trong
thùng rác. Một người trí thức bậc nhất trong giới trí thức Công giáo Việt Nam mà
chỉ viết được như thế thì không đáng quan tâm. Điều bực bội đó theo tôi một thời
gian dài cho đến khi tôi được biến đổi.
Lúc ấy tôi cảm thấy để viết ra được câu đó, đức hồng y Thuận đã phải hết sức
trung thực với chính mình, ý thức rõ thân phận của mình qua bao thăng trầm của
cuộc đời, với những dự phóng vĩ đại của mình bổng chốc trở thành chiếc lá khô
cho gió thổi bay; với bao điều ước muốn chẳng bao giờ mình làm được. Và đức hồng
y cũng phải cấm rể sâu cây hy vọng của đời mình vào Chúa thì mới có thể viết
được như thế.
Như vậy tự tin tốt hay xấu, có cần hay không cho cuộc sống của chúng ta?
Tự tin là tốt hay là xấu không quan trọng, có cần cho con người hay không còn
tùy mỗi gian đoạn sống của từng người. Nhưng có điều chắc chắn là không ai trong
chúng ta có thể tự tin một cách tuyệt đối và luôn luôn. Tự tin ở mức độ cao nhất
có thể là tự tin cách anh dũng, tức là người đó hành động mà không sợ hãi gì
ngay cả khi lao mình vào vùng tối, chưa rõ kết cục sẽ ra sao để đạt được thành
công. Nhưng có chắc khi khởi đầu công cuộc đó, những người đó đã thực sự tự tin
như thế, hay chỉ đơn gian là liều, vì rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Một
liều, mà hai cũng liều. Nếu không liều thì mất tất cả, hoặc thân bại danh liệt.
Cấp độ tự tin thứ hai là tin vào người khác, nhưng hành động theo cung cách và
sáng kiến riêng của mình. Đây là tình trạng 50/50, vừa tự tin vào mình vừa tin
người khác. Một con người quân bình và không tôn giáo sẽ hành động như thế,
nhưng trong thực tế, tình trạng 50/50 này chỉ có ở mức khởi đầu, còn dần già về
sau hoặc phải chuyển sang cấp độ "liều" như đã nói hoặc phải theo cấp độ "lụy"
như sẽ nói. Cấp độ thứ ba là tự tin lệ thuộc. Lạ kỳ ! Đã tự tin mà lại lệ thuộc,
nghĩa là sao? Tức là một việc sắp làm tôi chẳng hề biết, một điều sắp nói tôi
chẳng hề hay, nhưng có người, có tổ chức đã chuẩn bị sẳn mọi điều từ trước cho
tôi rồi. Khi cần phải làm, những người được giao trách nhiệm sẽ khơi lên tính sỹ
nơi tôi, thuyết phục tôi bằng mọi cách từ lý tưởng cho đến một bảo đảm về vật
chất và thậm chí buộc tôi phải hành động, nếu không tôi phải chết. Những việc
tôi làm và lời tôi nói được mọi người đón nhận như chính tôi là tác giả chứ
không phải tôi bị sai khiến, rồi với sự tương tác tích cực của người đón nhận
làm cho tôi ảo tưởng là tôi đang tự tin làm việc mình cần làm.
Câu chuyện ông bà Adam-Eva ăn trái cấm là tự tin ở cấp độ lệ thuộc.
Satan không chỉ chuẩn bị cho con người việc khước từ Lời Thiên Chúa để ăn trái
cấm mà thôi, mà còn chuẩn bị đẩy con người vào cảnh sống nô lệ cho Satan và lệ
thuộc tội lỗi. Nhưng khi cám dỗ con người, con rắn không hề hé lộ sự lệ thuộc
này, mà chỉ mở ra cho con người thấy một con đường thênh thang và hoành tráng.
Từ nay con người là Chúa của mình cùng muôn vật và thậm chí đến một lúc nào đó
còn có thể là Chúa của Thiên Chúa nữa. Khi hái, trao cho nhau và ăn trái cấm con
người bắt đầu thấy mình đang làm một hành động "tự tin" !
Rồi cứ đà tự tin đó, con người bị đẩy đến tình trạng tội lỗi ngập đầu ngập cổ.
Cộng thêm một chút tự ái vặt, con người cắn răng chịu chết chìm trong tội lỗi mà
không muốn đưa tay cho Chúa cứu.
Thật ra cũng có nhiều người đưa tay cho Chúa cứu, nhưng trong số đó, rất nhiều
người đã không được cứu. Chẳng phải vì Chúa không muốn, nhưng vì họ muốn Chúa
cứu họ theo kế hoạch của họ, mà họ có kế hoạch gì đâu, mọi kế hoạch đó là âm mưu
của ma quỷ mà thôi. Giuđa được tác giả Tin Mừng Gioan mô tả ở chương 13, từ câu
21 đến 30 là thế.
Cũng như Phêrô, Gioan, Giacôbê, cũng như Andrê, Philipphê, Batôlômêô … Giuđa
Iskariôt là một môn đệ của Chúa Giêsu. Anh đã đi theo thầy Giêsu, vì tin Giêsu
là Đấng Mêssia, tức là Kitô là đấng giải phóng Israel.
Đúng vậy, Chúa Giêsu là thế ! Nhưng suốt hành trình ba năm ròng rã bôn ba trên
mọi nẻo đường Palestin, Yuđa đã không thấy thầy Yêsu hành động như anh dự kiến,
thậm chí đôi lúc còn có cảm giác thầy Giêsu không nhưng không phải là thủ lãnh
giải phóng dân tộc mà còn giao du, làm cầu nối cho ngoại bang.
Trong đầu của Giuđa - không chỉ mình anh đâu, mà đa số dân Do Thái lúc đó - nghĩ
Đấng Mêssia phải là một người quy tụ dân chúng, khởi nghĩa chống lại quân Roma,
để giành lại độc lập và quyền cai quản xứ sở cho người Do Thái. Thế mà Chúa
Giêsu đã không hành động theo cách Giuđa nghĩ. Khi dân chúng muốn tôn Chúa Giêsu
làm vua, sau khi đã được Ngài cho ăn no nê nhờ chỉ năm chiếc bánh và hai con cá,
thì Chúa Giêsu lại xua các đồ đệ qua sông, còn Ngài trốn lên núi cầu nguyện. Khi
người lính của một viên quan lớn Roma bệnh nặng, đúng ra đó phải là cơ hội ngã
giá để đòi quyền lợi cho dân Do Thái thì Chúa Giêsu chỉ đơn giản chữa lành cho
người bệnh một cách vô điều kiện. Chúa Giêsu lại còn làm gương mù gương xấu cho
dân khi bảo Phêrô lấy tiền trong miệng con cá nộp thuế cho cho ngoại bang. Chúa
Giêsu hành động không như một người Do Thái ái quốc bình thường, Chúa Giêsu
không phải là mêsia như Giuđa tưởng.
Giuđa thất vọng vì đã tin vào một thầy Yêsu như thế, nên anh đã tự cứu mình, và
gỡ gạt cho nổi thất vọng của mình bằng cách đi bán Chúa.
Tự tin của Giuđa là tự tin lệ thuộc vào một cách thức giải phóng dân tộc đã được
lập trình trước đó vài trăm năm, từ khi người Do Thái bị mất nước vào tay
Babylon. Chỉ có đánh và tiêu diệt người khác mới là giải phóng. Khi sự lệ thuộc
đó lại được khoát lên trên mình một chiếc áo tự tin nữa thì nó sẽ trở thành một
sự điên loạn, ma đôi khi chúng ta gọi là cuồng tín.
Nhiều người, nhất là các bạn trẻ, đặt vấn đề với tôi rằng: Chúa có thật sự yêu
thương chúng ta không? Chúa có hành động vì hạnh phúc của con không?
Tôi trả lời: - Có, có nhiều !
- Nói như cha như vậy, còn gì để nói ? Một bạn đã bẻ lại như thế.
Tức bạn ấy hỏi tôi, nhưng bạn ấy đã có câu trả lời, và bạn ấy chỉ muốn tôi trả
lời như đáp án của bạn ấy. Nhưng bạn ấy quên rằng, nếu trả lời như đáp án ấy thì
bế tắc, vì đáp án đó sai. Y như Giuđa vậy ! Giuđa đã có một kế hoạch riêng về lộ
trình cứu độ của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu, và anh muốn Thiên Chúa và Đức Giêsu
của Thiên Chúa phải thực hiện theo kế hoạch đó. Nếu không thì anh sẽ từ chối,
không công nhận đó là Đấng Mêssia, đó không phải là kế hoạch của Thiên Chúa.
Chúng ta bảo đi theo Chúa, nhưng chúng ta muốn làm thầy, muốn dạy Chúa, muốn làm
thủ lãnh ép Chúa phải làm theo ý mình. Rõ ràng chúng ta đã tin mình hơn tin
Chúa. Chúng ta tin vào kế hoạch đen tối của sự dữ đã xâm nhập vào chúng ta nhiều
hơn tin vào Ánh sáng trần gian là Chúa Giêsu.
Khi đọc trên các báo Việt Nam vào đầu năm 2008, tôi được biết khoảng bảy tám năm
trở lại đây, mỗi năm ở Nhật Bản có 30 ngàn người tự tử.
Thấy con số mà sợ ! Mà hình như ở Việt Nam mình tình trạng cũng không khá hơn.
Theo số tiếp nhận cấp cứu ở một bệnh viện cấp huyện, thì tuần nào cũng có người
nhập viện vì lý do tự tử. Tuần ít là hai ca, tuần nhiều lên đến tám hay mười ca.
Nếu chỉ tính trung bình mỗi tuần bốn ca, thì tại một bệnh viện huyện đó, một năm
đã tiếp nhận ít nhất 200 trường hợp tự tử. Nếu tất cả mọi nơi ở Việt Nam đều như
thế thì con số người tự tử hàng năm có thể lên tới 60.000 trường hợp. Ước mong
điều đó đừng xảy ra ở quê hương chúng con, Chúa ơi, mặc dù điều đó đã là một
thực tế.
Vì sao người ta tự tử ?
Vì quá tin vào mình, và khi không thể tự cứu vãn tình thế nữa, nên đã tự tử. Một
thiếu nữ đã tin mình đủ sức hấp dẫn để giữ người yêu ở mãi bên mình, nhưng khi
sự thật được hé mở, người đan ông mình tưởng đã thu tóm được con tim rồi lại vẫn
đang dành tình yêu dạt dào cho người khác. Mình chỉ là một trong những mối tình
hờ của anh ta mà thôi, giá trị vĩ đại của thiếu nữ ấy bổng dưng mất ý nghĩa hoàn
toàn, nên đã tự tử. Một người vợ chồng chết, thủ tiết nuôi con ăn học và thành
tài. Bà tin người con mãi mãi là chổ dựa cho mình, nhưng khi người con lập gia
đình, bà mẹ mới vỡ lẽ ra, con trai không phải là chổ dựa như mình hằng tin
tưởng, mà ngược lại trong mắt vợ chồng chúng, mình chỉ là một bà già ăn bám khó
tính, nên đã tự tử. Một trường hợp khác thật sự gây ngạc nhiên cho tôi, đó là
một cháu bé 9 tuổi. Đi học bị cô mắng trước mặt bạn, chiều về lấy thuốc rầy của
ba uống để tự tử.
Sự tự
tin đến hủy hại mình và tiêu diệt người khác đã được nhồi nhét trong nền giáo
dục kỳ cục của chúng ta. Họ dạy từ trẻ em đến người lớn phải cảnh giác với mọi
người, kể cả cha mẹ, anh chị em, hay đồng chí của mình. Ai cũng có thể trở thành
kẻ thù. Rồi khi quân địch tấn công ta một, ta tiêu diệt lại được gấp 10 thì đó
là chiến công phải ăn mừng. Một nền giáo dục không dạy học sinh biết tín nhiệm
và tin tưởng người khác.
Đúng như cha Rey Mermet đã viết trong tác phẩm Tin, hành trình khám phá lòng tin
: «Người ta không thể sống, nếu như không có niềm tin !»
Và niềm tin đó sẽ không còn tự đặt ở nơi mình hay một ai khác ngoài Chúa Giêsu.
Đức giáo hoàng Benedicto XVI đã nói trong thông điệp mới nhất của ngài Về niềm
hy vọng Kitô giáo : người ta đã ra hư đốn vì đã sống không hy vọng, không có
Chúa trên đời này.
Giuđa cứ mãi tự tin, cứ mãi bám vào dự phóng và phương thế của thế gian, nên đã
không thấy Chúa, đã không muốn đón nhận con đường cứu độ của Chúa trong Đức
Yêsu. Còn chúng ta thì sao ? Chúng ta tự hào vì mình không bao giờ vong thân, vì
luôn tự tin ở mình hay hạnh phúc vì nhờ tin tuyệt đối vào Chúa mà đang cất lời
tôn vinh Người ?
Không có một chọn lựa nào mà không phải bỏ đi một chút gì đó, nhưng nếu không
dám tin Chúa Yêsu hơn tự tin một chút, không sớm thì muộn chúng ta cũng sẽ bán
Chúa như Yuđa thôi. Nếu không dám chọn lựa một hướng duy nhất cho niềm tin là
quy hướng về Yêsu mà thôi, thì dẫu cho có lắm bạc tiền hay có nhiều lời chúc
tụng từ bạn hữu thì chúng ta vẫn cứ bơ vơ như con đường đẹp mà chẳng ai đi, tô
cơm đầy mà chẳng ai dòm ngó.
Xin Chúa Giêsu đừng dừng lại ở bên ngoài chúng con, mặc dù lòng chúng con chưa
thật dành trọn cho Chúa.
Xin Chúa Giêsu đừng thờ ơ với chúng con, dù chúng con chưa bận tâm đến Ngài.
Xin Chúa Giêsu đừng bỏ con, nhưng dạy con yêu mến Ngài và đưa con vào niềm tin
duy nhất mang danh Ngài, ơ Giêsu ! Chúa con !
Bài 3 : Ngoan cố nên phản bội
Chúng ta đang sống trong bối cảnh toàn cầu hóa, cả thế giới được hình dung như
một ngôi làng. Các quyền lực kinh tế, văn hóa và cả chính trị nữa đang được tập
trung lại ở một số trung tâm của các khu vực. Những người có sáng kiến toàn cầu
hóa nghĩ rằng khi quyền lực được tập trung lại và với lương tâm nhân loại rộng
lớn, những người đói và các nước nghèo sẽ được giải quyết nhanh chóng, thế giới
sẽ hòa bình. Nhưng ước mơ này đã càng ngày càng bộc lộ nhiều yếu kém. Bởi vì hạt
nhân của vấn đề là đời sống cá nhân chủ nghĩa chưa được thay thế, và nếu không
nói ngoa là nó đang bùng lên, làm cho ước mơ ban đầu bất khả thi. Tình trạng
nước nghèo và người đói vẫn còn nguyên, chiến tranh và chết chóc vẫn không dứt.
Quyền lực nơi con người trước tiên là muốn tự điều khiển mình, rồi dần dà muốn
điều khiển người khác vì quyền lợi của mình hoặc ít ra vì một chân lý do mình
xác định … và sẽ dẫn đến xem người khác như là một món hàng để trao đổi hay buôn
bán vì mục tiêu làm vui thỏa lòng mình.
Nhưng khi đã thi thố quyền lực cách man rợ đó rồi, liệu con người có được thư
thả như mong ước hay lúc bấy giờ mới tỏ tường mình đang bị mãnh lực thế gian chi
phối, chẳng qua mình chỉ là con rối trong tay thế giới tối tăm và làm nô bộc cho
tội lỗi mà thôi.
Giuđa Iskariôt đến gặp các thượng tế đặt vấn đề: "Tôi nộp ông ấy cho quý vị, thì
quý vị muốn cho tôi bao nhiêu?" "Ông ấy" như là mẻ cá mới đánh bắt được, "tôi"
là ngư phủ, còn "quý vị" là tập đoàn thu mua hải sản. "Quý vị muốn cho tôi bao
nhiêu?" Tức là mẻ cá đó là của tôi, tôi có quyền trên nó, tôi trao cho quý vị,
tôi bán cho các ông. Các ông mua giá bao nhiêu? Chỉ ba năm thôi chứ có lâu đâu,
từ Giêsu - Thầy Chí Thánh, Con Thiên Chúa hằng sống - trở thành mớ cá trong tay
anh chài lưới, để anh ta ngã giá bán buôn. Còn Giuđa từ là môn đệ trở thành ông
chủ lúc nào không biết, nên đã dám mang Thầy mình đi rao bán như một anh hàng cá
ế ẩm cần người ta thương xót mua nhanh: "Quý vị muốn cho tôi bao nhiêu?"
Xét về cuộc bán buôn thì bên bán có vẻ yếu thế, còn bên mua ở thế cao hơn, nên
người bán không dám ra giá mà chỉ dám nài xin người mua cho một giá tùy ý họ
muốn, và thậm chí bao nhiêu cũng được. Xét về mặt giá trị thì anh Giuđa không
phải là ngư phủ, nên không có quyền bán cá và nhất là Giêsu là Chúa Cứu Thế, là
Thầy của Giuđa chứ không phải mẻ cá để đem bán. Còn những thượng tế là những
người thay mặt dân thờ phượng Thiên Chúa chứ không phải những thương gia. Giá
trị bị đảo lộn trong cuộc bán buôn này. Tư tế muốn làm nhà buôn, học trò muốn
làm ông chủ, và sư phụ bị biến thành món hàng trao đổi.
Trong câu 15, chương 26 của Tin mừng Matthêu còn có một chữ đáng để chúng ta chú
ý nữa, đó là "nộp", "tôi nộp". Nghe chữ «nộp», chúng ta có cảm giác người nộp có
trách nhiệm phải làm điều đó. Ví dụ học sinh làm bài phải "nộp" bài; mua xe phải
"nộp" thuế, các nhà xe khách muốn yên thân để làm ăn lâu dài phải "nộp" mãi lộ.
Như vậy có phải Yuđa rơi vào tình thế phải nộp Thầy Giêsu của mình không? Thánh
Kinh nói rất vắn gọn về chuyện này, nên chúng ta cũng không thể suy luận rằng
Yuđa có bị người ta khống chế bằng cách bắt mẹ bắt con để ép phải nộp Yêsu cho
họ không? Cứ theo cách suy nghĩ bình thường là không! Giuđa không bị khống chế
như thế, nên Giuđa không bị buộc phải "nộp" Giêsu cho ai cả.
Như vậy Giuđa có phần tự nguyện làm việc đó. Chữ "nộp" đã được các dịch giả
Thánh Kinh Việt Nam dịch từ chữ "Paradidomi" tiếng Hylạp. Từ "paradidomi" này có
nghĩa phản bội đem giao cho / nộp cho. Theo nghĩa này Giuđa là người phản bội đã
mang nộp Giêsu cho các tư tế như lễ vật để được họ chấp nhận anh như là người
của họ. Ngoài ra từ "paradidomi" còn có nghĩa là phụ bạc, phụ lòng, lừa dối.
Chúng ta thử thay từ "nộp' bằng những từ này sẽ rõ: thay vi "tôi nộp ông ấy cho
quý vị" thì sẽ là "tôi phụ lòng ông ấy cho quý vị" hoặc "tôi lừa dối ông ấy cho
quý vị".
Xét theo nghĩa này, Giuđa đã công khai việc làm sai trái và vô luân của mình
trước các tư tê, là những nhà cầm cân nảy mực về luân lý trên dân. Theo lẽ
thường tình các tư tế sẽ cảnh cáoYuđa, sẽ răn dạy hắn bỏ đường tà để được sống,
nhưng họ đã không làm như vậy, mà khuyến khích việc làm sai trái đó bằng cách
trao cho anh ta 30 quan tiền. Yuđa thật quá đáng, anh muốn có quyền trên mình,
muốn có quyền trên người khác và muốn có quyền phản bội thầy của mình nữa.
Đôi khi trong cuộc đời, chẳng một ai ép mình làm việc xấu cả, nhưng như để tỏ ra
lòng thành, mình đã tự làm việc xấu như họ để được đồng hội đồng thuyền với họ.
Nhiều lần trong số những lần đó, chúng ta chỉ nhận được phần công sức một cách
tủi nhục, làm cho họ mà còn bị họ khinh miệt. Lúc đó ta tự an ủi mình rằng đã lỡ
leo lên lưng cọp rồi, đã lỡ phóng lao rồi nên phải theo lao thôi.
Rõ ràng Giuđa đã quyết tâm giao nộp Chúa Giêsu, và Giuđa cố thực hiện cho bằng
được ý mình. Chứ theo lẽ thường tình, một người có ý định xấu đã bị chính người
mình định hại lên tiếng cảnh cáo thì không còn đủ can đảm để làm nữa. Ở đây
Giuđa không như vậy, nên khi nghe Chúa Giêsu nói trong số các đồ đệ sẽ có một
người phản bội, Giuđa đã trực tiếp hỏi Chúa : «Rabbi, chẳng lẽ con sao ?» Và
Chúa Giêsu cũng đã thẳng thắn trả lời : «Chính anh nói đó !» (x. Mt 26, 21-25).
Tưởng rằng nghe như thế, Giuđa sẽ từ bỏ ý định xấu sa của mình, nhưng không ngờ,
Giuđa vẫn đường ta ta đi, việc ta đã định ta sẽ làm bất kể đúng sai, bất kể vô
luân hay bất nhẫn.
Thật khủng khiếp khi phải sống chung với những người như vậy !
Nhưng dẫu có đáng tởm thì chúng ta vẫn phải đang sống chung với « lũ » đó thôi.
Hàng loạt những quyết định sai trái, ai cũng biết rõ là sai, mà vẫn cứ khăng
khăng thực hiện cho bằng được. Nhà văn Tô Hoài đã viết rõ về điều này trong tác
phẩm "Ba người khác" khi trình bày về vấn đề cải cách ruộng đất. Ai cũng biết
sai, nhưng không ai chịu ngưng lại.
Cho đến khi huynh đệ tương tàn, phụ tử nát tan thì mới ngưng lại để sửa. Hoặc cụ
thể hơn hàng loạt các cơ sở, ruộng vườn, nhà cửa của các tôn giáo và của cả
thường dân nữa đã bị tước đoạt để buôn bán, chuyển nhượng, phân chia, biến của
công thành của tư, biết của người này thành của người khác. Có ai chẳng rõ đó là
việc làm sai, mà vẫn cứ cô, cứ cố bám vào những lý luận, những quy định không
phục vụ lợi ích con người thật sự.
Đừng nói chi xa, ngay trong gia đình chúng ta có khi cũng vậy thôi. Có ai là
người Công giáo mà lại không biết phá thai là bị mắc vạ ? Tất cả đều biết !
Nhưng trong thực tế đã có những ông bố bà mẹ ép con mình phải phá thai, để giữ
danh dự cho chính họ. Vì quyết bảo vệ danh dự của mình, họ đã ép con mình làm
điều ác và đang tâm giết những đứa cháu nội cháu ngoại của mình. Các anh chị
trong Nhóm bảo vệ sự sống cho tôi biết, khi thuyết phục các cô gái đi phá thai,
thì thuyết phục người Công giáo đừng phá thai khó hơn người không có đạo. Tại
sao vậy ? Có phải vì ta đã quyết rồi, nên ta phải làm cho bằng được, bất chấp sự
khuyên lơn và sự lên án của lương tâm như Yuđa không? Còn ngay chính các bạn thì
sao, từng người chúng ta thì sao ? Chúng ta có bám vào ý riêng mình đến mức bất
chấp chân lý của Chúa chưa ?
Vừa qua, một bạn đã đọc bài tôi viết về vấn đề tự tin và lòng tin vào Chúa đã
nói với tôi đại ý là không thể không tự tin, mặc dù vẫn biết là không có Chúa
thì chúng ta không thể làm được gì. Tôi cũng nói nhiều điều, nhưng sau đó cũng
cảm thấy những lời mình sẽ không đi đến đâu, nên tôi bảo bạn ấy mở thư Rôma đọc
chương 7, từ câu 14 đến 25.
Đọc xong, vài ngày sau bạn ấy bảo : Con đã đọc đoạn Rm 7, 14-25 rồi, con chẳng
hiểu gì cả, con phát khùng lên rồi. Đơn giản là sự thật Lời Chúa đã nói khác
những gì bạn ấy suy nghĩ và đang sống, nên bạn ấy không thể chấp nhận.
Như thế mới nói, đôi khi chúng ta phê bình người ta duy ý chí, nhưng chưa chắc
chúng ta không duy ý chí. Đôi khi chúng ta lên án chủ nghĩa cá nhân hay ghét bỏ
một người chỉ vì người ấy cứ làm theo cái tôi của mình, nhưng chưa chắc chúng ta
ghét họ không vì cái tôi của mình. Thậm chí chỉ vì cái tôi của họ chiếu sáng
quá, còn cái tôi của mình tìm hoài mà không có cơ hội chiếu sáng, nên ghét, nên
loại trừ họ thôi.
Quyết làm theo ý riêng của mình đã đẩy Giuđa đến việc phản bội Chúa Giêsu và
khước từ ơn cứu độ. Chỉ nghe và làm theo ý mình đã đưa chúng ta không chỉ xa
Chúa mà còn dần dần xa hết mọi người, phản bội Đấng cứu độ và chống lại chính
Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, tai chúng con đã nghe quen giọng nói của chính mình rồi, xin Chúa hãy nói to hơn một chút để nhờ đó mà chúng con nghe được Lời Chúa;
Lạy Chúa Giêsu, tim chúng con chỉ ấp ủ những dự định của chính mình và khát khao
thực hiện chúng, xin Chúa hãy tuôn đổ Máu cứu độ từ Con Tim Chúa tràn đầy tim
con, để tẩy xóa, để chữa lành, và để cho con được bắt đầu ấp ủ Lời Chúa.
KẾT
Chẳng ai muốn làm kẻ phản bội như Giuđa, nhưng có vẻ, mỗi người chúng ta khó
thoát khỏi chân dung của Giuđa là một người ham tiền, chỉ biết tự tin và làm cho
bằng được ý mình.
Điều lớn lao cho chúng ta khi suy niệm những điều này là Thiên Chúa không bỏ
chúng ta, là những người đã được Người tuyển chọn và yêu thương. Vì tin vào điều
đó, chúng ta biết chắc, nếu muốn, chúng ta sẽ được Đức Giêsu làm mới cuộc đời
chúng ta bằng cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài.
Và chỉ khi nào chúng ta để Chúa Giêsu Kitô làm Chúa và có quyền quyện đời sống
thần linh của Ngài trong thân xác và tâm hồn của chúng ta, thì lúc đó đời sống
của chúng ta mới thoát khỏi các cạm bẫy đưa chúng ta đến chổ trở thành kẻ phản
bội. Trong Đức Kitô Giêsu, chúng ta được thanh luyện để trở nên những người
trung tin nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần.
Lm An Thanh CSsR
Cha mẹ nên dạy con bằng quyền lực hay tình yêu thương? Vấn đề của nhiều gia đình được lý giải từ góc nhìn của một nhà tâm lý.
Dạy con. Vấn đề xem ra đơn giản, nhưng thật sự chẳng giản đơn tí nào đối với những bậc cha mẹ ngày nay. Nhiều phụ huynh rất tự tin tổng kết "phương pháp" dạy con của mình: "Ngon ngọt không nghe thì cho mấy roi là xong ngay!". Có phải vậy chăng?
Phụ huynh là người có "quyền" vì trẻ phải lệ thuộc mọi nhu cầu trong cuộc sống từ ăn, mặc, ở đến sự nâng đỡ, tình thương… Trẻ lệ thuộc càng nhiều, quyền lực của cha mẹ càng lớn. Nhưng nếu quá dựa trên uy quyền, khi lớn lên trẻ có thể tự lập được, lúc đó quyền lực của phụ huynh sẽ giảm sút.
Trẻ con là những kẻ "bất lực"!
Quyền được thể hiện qua việc hứa hẹn hay đe dọa, cung cấp hay tước mất những gì trẻ đang có, thưởng hay phạt... Nhưng không phải lúc nào phụ huynh cũng dùng quyền hợp lý. Phần con trẻ, chúng phải tuân lệnh người có quyền.
Không ai thích kẻ dùng quyền lực trên mình. Trẻ con cũng thế. Chúng thường không thích, công khai hay ngấm ngầm chống đối, thậm chí còn thù ghét. Trẻ con không làm gì được trước quyền uy và thường "chịu vậy". Theo cách nào đó, trẻ con là những kẻ "bất lực" vì không thể tự lo cho mình, chúng lệ thuộc. Và theo nhà tâm lý Adler, điều này tạo nên trong trẻ mặc cảm tự ti. Nếu thêm vào những áp lực, đòi hỏi khắt khe hay cưỡng ép..., nhất là khi không có tình thương đi kèm, trẻ sẽ căng thẳng, bực tức, dồn nén. Thể chất và tinh thần đều bị ảnh hưởng.
Phụ huynh càng dùng nhiều quyền lực thì sự xa cách, mất mát niềm tin, mất ảnh hưởng trên con em càng sớm. Trẻ sẽ tìm cách thoát khỏi ảnh hưởng của cha mẹ khi có thể - thường ở tuổi vị thành niên hay vừa đến tuổi trưởng thành.
Áp đặt quyền uy: hại nhiều hơn lợi!
Giáo dục lắm lúc cần dùng đến quyền. Nhưng "quyền" như con dao bén nhọn, nó sẽ rất hiệu quả trong bàn tay chuyên môn, khéo léo. Nhưng nếu chúng ta chưa nắm chắc nghệ thuật cầm dao, sự tổn thương khó có thể tránh. Xin nêu một số bất lợi của việc giáo dục dựa trên uy quyền và ép buộc.
1- Thiếu hữu hiệu:
Dùng quyền lực có thật sự tốt không?
Nhiều phụ huynh sẽ đáp: có chứ! Nếu trẻ không có áp lực của quyền lực, chúng sẽ không cố gắng đủ để tự làm chủ chính mình. Nhưng một số phụ huynh khác lại cho rằng khi dùng quyền thì xem như người lớn đã quyết định, đã suy nghĩ thay cho trẻ, chúng sẽ trở nên vô trách nhiệm. Hơn nữa, người lớn ngày càng mệt mỏi hơn để giữ trật tự đã được tạo nên do quyền lực đó.
Dựa trên những nghiên cứu, Gordon còn cho thấy: "Trẻ hư hỏng thường do những dạy dỗ nghiêm khắc và thực thi hình phạt quá nhiều...".
Vì trẻ không được độc lập trong việc tự lo liệu và làm chủ chính mình, nên chúng không có cơ may xây dựng lòng tự tin và nhìn nhận giá trị bản thân. Ngoài ra, dạy dỗ bằng hình phạt nghĩa là bắt trẻ phải tuân theo, chúng sẽ không phát triển tính sáng tạo.
2- Gây cảm xúc tiêu cực ở trẻ:
Nếu ép buộc trẻ thi hành sẽ khơi lên nhiều cảm xúc và hành vi tiêu cực: chống đối, tuân phục, chịu đựng… Nhưng khi trẻ như thế, người lớn lại tìm cách kiểm soát những điều này. Tình cảm cha mẹ - con cái sẽ dần sứt mẻ và trẻ ngày càng không thích gần người lớn.
Rốt cuộc điều này lại gây thêm hình phạt khác, khiến trẻ rút vào vỏ hay tự làm cho mình xa lạ với người lớn. Những trẻ thường răm rắp vâng lời sẽ có vấn đề với trẻ đồng lứa. Vì những trẻ khác thường không thích những trẻ luôn tuân thủ, khép mình thụ động... Chúng sẽ cho những trẻ này "ra rìa", bị cô lập hay tự cô lập.
3- Sự hủy hoại từ bên trong trẻ:
Quyền lực nơi người lớn làm trẻ muốn tách rời gia đình, xa sự lệ thuộc. Trẻ sợ hãi nhưng lại không thể bỏ đi được. Bên trong trẻ trở nên bất ổn và giằng xé. Còn người lớn lại cảm thấy bị đe dọa mất quyền lực, càng cách biệt với trẻ và siết kỷ luật. Điều này gây tổn thương cả đôi bên.
Vì thế các nhà tâm lý đặt ra câu hỏi: xã hội thật sự muốn có những đứa trẻ luôn vâng lời không?
Khi chỉ biết phục tùng, trẻ trở thành người luôn tránh né, chối từ trách nhiệm về hành động của mình. Nguy hiểm nhất là suy nghĩ chúng thấy mình chỉ là một công cụ của người khác mà thôi.
Hãy thử nghĩ khi bị ép làm gì, chúng ta thấy điều đó vô nghĩa. Nhưng chúng ta buộc phải làm, vì nếu không chúng ta có thể bị sa thải... Tuy nhiên, chúng ta vẫn còn một thứ "vũ khí”, đó là sự phá hoại. Chúng ta có thể làm việc nhưng làm miễn cưỡng và có khi gây bất lợi cho người ra lệnh.
Phụ huynh chỉ thật sự thành công khi những gì chúng ta đòi hỏi trẻ cũng là điều mà chúng thích. Lợi ích phải hai chiều. Giáo dục dựa trên quyền lực sẽ bất lợi nếu nhu cầu, ước muốn của người lớn và của trẻ quá khác nhau.
DẤU CHÂN CỦA THẦY
(Lc 8,26-39)
Thầy kính mến,
Văn hào Đôstôlépski đã đọc câu chuyện này và lấy câu chuyện này làm nền cho một tác phẩm lớn của ông. Đó là cuốn: “Lũ Người Quỷ Am”. Dưới nhìn của Đôs. thì:
1. Ma quỷ hung dữ quá chừng. Không một ai khuất phục được hắn. Xiềng xích nào hắn cũng bứt tung. Người ta đành thôi không chống cự hắn nữa. Không ai bén mảng đến chỗ hắn ở “Tránh voi chẳng xấu mặt nào”.
2. Hắn trần trụi như con nhộng. Quần áo nào trao cho hắn, hắn cũng xé thành giẻ rách. Hắn thích trần truồng vì hắn không còn là người, mà là người bị ám, bị chiếm đoạt. Hắn không ở trong nhà, mà ở trong những ngôi mộ trống. Hắn là chúa của sự chết.
Cái “trần truồng”, cái “vô gia cư” của hắn được Đôs. coi như tượng trưng cho cái “không có”. Cái “không có” ấy là một chủ thuyết, chủ thuyết của “không-là-người”.
3. Đôs. rất thích cái cảnh người quỷ ám, người “không có”, người “hung dữ”, người “không-là-người” ăn mặc đàng hoàng, hiền lành ngồi bên chân Chúa. Đôs. muốn tôn vinh Thầy như một lực lượng duy nhất thắng được ma quỷ, thắng được ma quỷ trong ngoặc kép, tức là thứ loài người dữ như ma quỷ. Thắng mà không đè bẹp, không bắt đầu hàng, mà biến hóa trở thành người thân. Thắng toàn diện. Thắng đẹp tuyệt vời!
Con đồng ý với Đôstôlépski về những suy tư ấy. Con cũng cảm phục và tôn vinh Thầy như ông ấy. Nhưng con còn rất nhiều điều phải ngỏ bày với Thầy. Con vẫn chưa hiểu. Con vẫn còn ấm ức. Con vẫn chưa hài lòng về Thầy.
1. Thầy trừ quỷ. Hắn xin nhập vào đàn heo. Thầy” ừ”. Thế là một đàn heo hai ngàn con ồng ộc xô nhau xuống hồ (Mc 5,13). Con thắc mắc:
Tại sao Thầy dễ dãi với hắn? Hắn là quỷ thì không có chuyện nhượng bộ, không có chuyện bao dung. Nếu con là Thầy, con sẽ trả lời hắn: “Xuất ra ngay. Vô điều kiện. Chấm hết”.
Có một linh mục già kể chuyện. Chẳng biết chuyện có thật hay không? Thật bao nhiêu phần trăm. Nhưng con thích lắm.
“Có một thằng con trai bị quỷ nhập. Tôi mặc áo các phép, đeo dây Stola, đọc lời trừ tà … Cuối cùng tôi lên giọng:
Nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi, nhân danh Mẹ Maria, tao truyền cho mày phải ra khỏi người này.
Vâng, con xin ra. Nhưng … xin cho con ra ở đằng đầu.
Không! Mày là quỷ thì mày phải ra ở lỗ. Thằng con trai run rẫy sợ hãi. Bỗng … “bủm” một tiếng thật to. Ai nấy bịt mũi. Còn thằng con trai thì tỉnh lại như thường …”.
Hai ngàn con heo nhào xuống hố. Con lớn bù con nhỏ thì mỗi con cân nặng chừng 50 kí. 2000 con, thì xuýt xoát 100.000 kí thịt hơi. Mỗi kí thịt hơi giá 15.000 đồng, thì 100.000 kí giá một tỉ rưỡi, tức 100.000 đô Mỹ. Bằng ấy số tiền đổ xuống hồ! Bao nhiêu mồ hôi nước mắt biến thành nước lã! Thầy không xót thương sao?
Bọn chăn heo thì hốt hoảng bỏ chạy. Các chủ heo thì đau xót quá chừng. Giận Thầy lắm, nhưng sợ cái uy của Thầy quá, nên chỉ dám đuổi khéo Thầy, mà không dám đòi bồi thường: “Xin Thầy vui lòng rời khỏi nơi này dùm” (Mc 5,17).
Người bị quỷ ám trần như nhộng, bỗng ăn mặc đàng hoàng. Vậy áo ấy lấy ở đâu ra? Con biết Thầy vẫn mặc hai áo: áo dài bên trong, choàng thêm tấm vải bên ngoài (Ga 19,23). Con đoán mò là Thầy tung vội cái áo choàng cho hắn. Còn hắn thì chụp vội, để che ngay cái tô hô, cái mắc cỡ … Thầy vừa rao giảng những cái cao siêu trên trời vừa phải quan tâm đến cả cái “sự đời” ấy nữa sao?! Oi, sứ mạng loan báo Tin Mừng! Vừa mệt đứt hơi, vừa buồn cười đến rơi nước mắt.
2. Thầy bị đuổi khéo. Thầy vội xuống thuyền để trở về Caphácnaum. Thấy Thầy lủi thủi xuống thuyền con thấy đau nhói trong tim. Đau quá! Tức quá! Tức chết được.
Phía “bên kia hồ” là phần đất của dân ngoại. Dân ngoại quý mến Thầy, bao bọc Thầy. Mỗi lần Thầy mệt quá, hoặc bị các kinh sư tấn công ồ ạt quá, Thầy vẫn thường qua bên ấy để nghỉ ngơi dưỡng sức. Hôm nay Thầy bị họ đuổi khéo.
Chẳng biết Thầy có còn qua bên đó nữa không? Chẳng biết bên ấy có còn thương Thầy nữa không?
3. Người bị quỷ ám, khi được chữa lành, xin theo Thầy để cùng loan báo Tin Mừng với Thầy. Hắn chỉ kể chuyện hắn được chữa lành như thế nào cũng đủ để đem lại niềm tin yêu cho bá tánh. Hắn là chứng tá của Tin Mừng. Nhưng Thầy từ chối. Một “ơn gọi” bị chối từ. Nếu con là người ấy, con sẽ khóc. Khóc vì thương Thầy quá mà phải xa Thầy. Khóc vì tủi thân. Khóc vì thấy mình không được như người ta. Hằng chục hằng trăm người được đi với Thầy, mà mình thì … không.
Con thấy người ấy trở về làng, cúi mặt làm thinh. Hắn sẽ kể chuyện hắn được Thầy cứu. Nhưng … đơn thương độc mã giữa rừng người xa lạ. Biết bao giờ mới được gặp lại Thầy để lại được thấy, để lại được nghe? …
Thầy kính mến.
Thầy đã về bên phía bờ tây. Con ở lại một mình bên phía bờ đông. Ngồi trên triền đồi, ngó xuống mặt hồ. Mặt hồ phẳng lặng che giấu hai ngàn con heo đang chìm dần xuống đáy hồ. Nhìn về phía tây. Làng Ghêraxa đang xôn xao như vừa trải qua một cuộc động đất. Lo âu. Sợ hãi. Chẳng biết rồi ngày mai sẽ ra sao. Người bị quỷ ám ấy nay đã trở lại bình thường, vừa mừng vừa sợ. Anh sợ các chủ heo trả thù kiểu “giận cá chém thớt”. Vui đấy mà buồn đấy. Sướng đấy mà cũng khổ đấy.
Bây giờ con cảm nghiệm được rằng:
Xatan dù đang sa xuống như một lần chớp (Lc 10,18), nhưng Thầy vẫn dành cho hắn nhiều quyền hành để hắn sàng loài người như sàng gạo. Hắn vẫn còn khả năng gieo cỏ lùng vào giữa cánh đồng lúa mì. Hắn vẫn dư khả năng xúi giục loài người ngu muội gây nên muôn ngàn tội ác. Hắn chỉ bị rút quyền hoàn toàn khi lịch sử loài người kết thúc.
2000 con heo lao xuống hồ, hằng tỉ bạc tan thành mây khói vẫn là chuyện nhỏ so với động đất, sóng thần … Đó là những sự ác vật lý vẫn xảy ra miên man trong vũ trụ bao la. Chúa chịu trách nhiệm. Chúa có lý do để làm như thế. Chẳng ai hiểu được, vì càn khôn thì bao la, mà người ta thì là cát bụi … Chắc chắc một điều là người Ghêraxa nhìn Chúa bằng con mắt sợ hãi. Nhưng tương lai thì đó sẽ là cánh đồng truyền giáo mênh mông. Lúa chín vàng bát ngát. Những chủ heo nghèo đi một chút. Nhưng hạt giống Tin Mừng lại thích mọc lên từ đống tro của cánh đồng mới qua mùa đốt rừng.
Người bị quỷ ám không được theo Thầy. Buồn cho hắn. Nhưng hắn lại là tông đồ đầu tiên được sai đến với dân ngoại. Trong lịch sử truyền giáo, người ta đề cao các tín hữu ở Antiôkia và gọi họ là “Giáo dân đi hàng đầu đến với lương dân” (Cv 11,19-27). Sau đó người ta lại quên công đầu của các tín hữu ở Antiôkia, để gọi Phaolô là “Tông đồ dân ngoại”. Nhưng người bị quên hoàn toàn chính là người bị quỷ ám ở Ghêraxa. Lịch sử ơi, đừng quên như the
Lm. Piô NGÔ PHÚC HẬU