MỤC LỤC
DIỄN VĂN CỦA ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊĐÍCTÔ XVI GỬI HÀNG GIÁO PHẨM HOA KỲ
ÐTC Beneđitô XVI truyền chức cho 29 tân linh mục vào ngày Chúa Nhật 27/04/2008.
Chương trình của ĐTC đến Pháp đến bây giờ đã hoàn tất
LỄ KHÁNH THÀNH CHỦNG VIỆN THÁNH LINH Ở BRISBANE
Những người vô gia cư chiếm ngữ Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Carmêlô tại Naples.
Đức Thánh Cha chia sẻ kinh nghiệm tông du Hoa Kỳ với các tín hữu
800 Sinh viên Công giáo đến tìm hiểu về ''Kĩ thuật sống'' tại Dòng Chúa Cứu Thế Huế
THÁNH LỄ TẠ ƠN MỪNG 25 NĂM CUNG HIẾN NHÀ THỜ CHÁNH TÒA ĐÀLẠT(24.4.1983 – 2008)
KỶ NIỆM 10 NĂM GIA NHẬP GIA ĐÌNH GIÁO PHẬN
PHẢI HỌC LÀM DÂN ! PHẢI LÀM DÂN !
NHÂN CUỘC KHỦNG HOẢNG LƯƠNG THỰC TOÀN CẦU
THÁNH GIÁ: CẦU NỐI DÂN NGHÈO TRÊN TRÁI ĐẤT
TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH
Những yếu tố chủ yếu gây ra Stress của tuổi thanh thiếu niên
"Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy".
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, mười một môn đệ đi về Galilêa, đến núi Chúa Giêsu đã chỉ trước. Khi thấy Người, các ông thờ lạy Người, nhưng có ít kẻ còn hoài nghi. Chúa Giêsu tiến lại nói với các ông rằng: "Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế".
Đó là lời Chúa.
“ÁI MỘ NHỮNG SỰ TRÊN TRỜI”
Thủ lãnh của một bộ tộc nằm hấp hối trên giường. Ông cho gọi ba người thân cận đến và nói : Ta phải chọn một người kế tục. Các ngươi hãy leo lên đỉnh núi thiêng liêng của chúng ta và mang về đây cho bộ lạc một món quà quý giá nhất.
Người thứ nhất mang về một thỏi vàng lớn. Người thứ hai mang về một viên ngọc quý. Người thứ ba trở về tay không.
Ngạc nhiên, vị tù trưởng hỏi, món quà quý giá của ngươi đâu ?
Anh điềm tĩnh trả lời : khi tôi lên tới đỉnh núi, tôi thấy ở phía bên kia một vùng đất phì nhiêu màu mỡ, tại đó dân chúng có thể có một cuộc sống sung túc tốt đẹp.
Thủ lãnh nói : Ngươi sẽ nối nghiệp ta vì ngươi đã mang về món quà quý giá nhất là một viễn tượng tương lai tốt đẹp.
Chúa Giêsu về trời mở ra một viễn tượng tương lai tốt đẹp là hạnh phúc thiên đàng. Người đi trước mở đường và dẫn chúng ta lên theo Người.
Tin Mừng thuật lại hai sự kiện song hành : Chúa Giêsu lên trời và lệnh truyền rao giảng Tin Mừng. Sự kiện Chúa Giêsu lên trời. Tin Mừng thánh Marcô ghi lại rất vắn tắt. Chúa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Tin Mừng Mátthêu nói đến lệnh truyền : Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Còn theo sách Công vụ Tông đồ, Chúa Giêsu lên trời sau khi sống lại được 40 ngày, và nơi lên trời là núi Cây Dầu. Thực ra khi Chúa Giêsu sống lại, Người đã lên trời rồi theo kiểu nói của Kinh Thánh, nghĩa là Người bước vào cõi vĩnh quang của Chúa Cha. Người ngự bên hữu Chúa Cha, mặc lấy vinh quang và quyền năng của Chúa Cha. Trong 40 ngày sau sống lại, Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần để dạy dỗ và củng cố đức tin của các Tông đồ. Giáo hội đã được thiết lập nay được củng cố để được sai đi. Như vậy sự kiện lên trời mà phụng vụ Giáo hội kính nhớ hôm nay có ý nghĩa sâu xa. Nó chấm dứt thời gian Chúa hiện diện giữa nhân loại bằng thân xác, chấm dứt thời gian huấn luyện các Tông đồ. Một thời điểm có tính cách quyết định của lịch sử cứu độ là Chúa Giêsu ban những giáo huấn cuối cùng, trao những chức vụ phải thi hành trong Giáo hội, chuẩn bị cho các Tông đồ thi hành sứ mạng chứng nhân của Đấng Phục sinh trong thế giới. Từ nay trở đi, Người sẽ hiện diện với chúng ta một cách vô hình. Với quyền năng của Chúa Thánh Thần, thân xác Chúa Giêsu đã được thần khí hoá và đi vào cõi vĩnh hằng của Chúa Cha. Sự hiện diện này thâm sâu hơn và hiệu năng hơn. Khi còn ở trong thân xác, Chúa Giêsu chỉ ở bên cạnh một số người thôi. Từ nay, với quyền năng Thánh Thần, Người sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người. Chúa Giêsu lên trời. Điều đó dạy ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác. Trời là nơi hạnh phúc không còn khổ đau. Trời là nơi cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Trời là nơi tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối. Trời là nơi con người trở thành thánh, sống chung với thần thánh. Như thế trời là niềm hy vọng của con người. Con người không còn bị trói chặt vào trần gian. Định mệnh của con người không phải chỉ là đớn đau sầu khổ. Số phận con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi. Trời cho con người một lối thoát. Trời mở ra cho con người một trời hạnh phúc. Trời cho con người cơ hội triển nở đến vô biên. Trời nâng cao địa vị con người. Có trời, con người không còn bị xếp ngang hàng với loài vật. Loài vật sinh ra để tàn lụi. Con người sinh ra để triển nở, để vượt qua số phận, để đạt tới địa vị con Thiên Chúa. Có trời, con người sẽ được nâng lên ngang hàng thần thánh.
Tuy nhiên, trời không phải xây dựng trong mây trong gió, nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không phải là cõi mơ mộng viễn vông, nhưng đã bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại. Chính vì thế mà hai thiên thần áo trắng đã báo các môn đệ đừng đứng nhìn trời mãi làm chi, nhưng phải trở về mà lo chu toàn nhiệm vụ. Chính vì thế, mà trước khi lên trời, Chúa căn dặn các môn đệ hãy đi làm việc cho Nước Chúa. Sống và làm việc ở trần gian, đó là một nhiệm vụ phải chu toàn. Hoàn thành nhiệm vụ ở trần gian đó là điều kiện để đạt tới hạnh phúc nước trời. Chính Chúa Giêsu cũng đã chu toàn nhiệm vụ trần gian rồi mới lên trời. Nhiệm vụ đó là đi gieo Tin Mừng khắp nơi. Đi đến đâu là thi ân giáng phúc đến đó. Đi đến đâu là làm cho hạt yêu thương nảy mầm lên màu xanh sự sống đến đó.
Người môn đệ của Chúa sống giữa trần gian, yêu mến trần gian, xây dựng trần gian. Vì trần gian là nơi Chúa sai ta đến làm việc. Tuy nhiên ta làm việc ở trần gian mà lòng vẫn hướng lên quê trời. Yêu mến trần gian vì nước trời. Yêu mến trần gian để biến trần gian thành nước trời. Sống giữa thế gian, chúng ta “ái mộ những sự trên trời” như lời kinh hạt : “Thứ năm thì ngắm, Đức Giêsu lên trời. Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời” Nhưng vẻ đẹp trên trời là vẻ đẹp của tâm hồn, tình yêu Thiên Chúa và tha nhân, vẻ đẹp nghèo khó Phúc Âm, khiêm nhường, đơn sơ, thanh tịnh. Đây là vẻ đẹp và sự quyến rũ của nhân đức, một vẻ đẹp hoàn toàn khác với những vẻ đẹp và sự quyến rũ thuộc trái đất. Nhiều người đã bỏ ra hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn Mỹ kim để làm đẹp, để khoa trương sự giàu có và để được người khác ca tụng. Nhiều người không sợ trải qua những cuộc giải phẫu nguy hiểm, đau đớn cốt sao để thấy mình đẹp, mình hơn người là thoải mái, và hạnh phúc. Nhiều người đã sẵn sàng chấp nhận những thách đố lớn lao để chạy đua vào những chiếc ghế quyền lực. Nhưng ít ai bỏ ra một giờ, một ngày, một tuần, một tháng, hoặc một năm, để lo tu sửa và chỉnh trang lại vẻ đẹp tâm hồn
Trên thực tế, tình yêu Thiên Chúa, tình yêu tha nhân, nhân đức nghèo khó, đức đơn sơ, và đức trong sạch là những đòi hỏi cần thiết để đem lại hạnh phúc cho mỗi người, mỗi cộng đoàn, mỗi dân nước. Đó là những gì cụ thể có thể giúp con người chiếm hữu được vĩnh hằng. Rất tiếc, đó cũng là những gì mà nhiều người từ khước; bởi vì không phù hợp với nhãn quan và suy tư của con người.
Giáo hội đã thôi thúc và khuyến khích mỗi Kitô hữu hãy tìm kiếm và yêu mến những sự trên trời. Cầu xin cho được ơn ái mộ là cầu xin Thánh Linh khai mở tâm hồn và trí tuệ để chúng ta có thể nhìn, và có thể hiểu được vẻ cao quí của những giá trị tinh thần ấy. Nhận thức về thế giới tâm linh là một nhận thức ngoài tầm hiểu biết của trí tuệ tự nhiên con người. Những gì thuộc về thần linh là thần linh. Con người cần được soi dọi và khai mở bởi sức mạnh huyền nhiệm của Thánh Thần. Chỉ khi nào trí óc ta, trái tim ta được Ngài khai mở. Lúc đó ta mới ra, mới hiểi biết thế nào là sự cao xa, dài rộng của vẻ đẹp tinh thần của những giá trị đạo đức.
Chúa về trời, không phải chỉ để dọn chỗ mà còn là mở ra một viễn tượng hạnh phúc trời cao “Xin cho chúng con ái mộ những sự trên trời”, để chúng con không bị chọn bám vào thế gian chóng qua và phù du này. Và để chúng con biết tìm kiếm những giá trị cao quí của tinh thần, và để chúng con yêu mến và sống với cuộc sống ấy. Vì đó là những gì chúng con có thể tìm kiếm, mua sắm và đem vào được nơi vĩnh hằng. Nơi mà chúng con sẽ gặp được Chúa là nguồn mạch sự sống, hoan lạc,và hạnh phúc viên mãn của chúng con
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Cách đây 33 năm, cũng vào ngày 30 tháng 4, và cũng tại nhà nguyện bé nhỏ này, tôi đã được thụ phong Giám mục.
I. Khi nằm sấp mặt xuống đất để cùng cộng đoàn đọc kinh cầu Các Thánh, tôi thường nhìn tôi như một hạt lúa được gieo vào lòng đất.
Hình ảnh hạt lúa gieo vào lòng đất được rút ra từ lời Chúa Giêsu : “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trụi một mình. Còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12, 24).
Chúa Giêsu nói lời đó về chính mình. Người coi chính mình Người là hạt lúa được gieo vào lòng đất, đợi được chết đi.
Khi thấy Chúa gởi cho tôi hình ảnh hạt lúa rút ra từ lời Chúa, tôi chỉ hiểu đơn sơ rằng : Đó là một sự sai đi. Tôi đã tin và đã xin vâng.
II. Sau đó, thời gian đã dần dần cho tôi hiểu rõ hơn sự Chúa sai đi. Đó là Chúa muốn :
Một đàng tôi phải kết hợp với hạt lúa Phúc Âm là chính Chúa Giêsu.
Đàng khác, tôi phải gắn bó với đất là Đất Nước Việt Nam hay nói chung và với địa phương Long Xuyên này nói riêng.
a. Là hạt lúa được gieo vào một Đất Nước cụ thể, tôi hiểu địa phương và đất nước hơn. Hiểu không một cách khô khan trừu tượng, nhưng với yêu thương và đồng cảm. Tôi cảm nhận phần nào tâm tình của đồng bào, những niềm vui và những nỗi lo âu, những hy vọng và những thất vọng.Tôi cảm nhận phần nào những gì âm ỉ trong vô thức và tiềm thức của nhân dân. Có những gì như linh cảm mà không nói ra được. Có những mặt sông phẳng lặng và có những sóng ngầm.
b. Là hạt giống gieo vào lòng đất, tôi cảm thấy mình được hạnh phúc vì được chia sẻ. Nhưng hạt giống phải chết đi, như Chúa phán, đó lại là điều tự nhiên tôi không dễ chấp nhận như một hạnh phúc.
Sợ thì phải nói là sợ. Khổ thì phải nói là khổ. Tôi xin thành thực thú nhận rằng : Tôi đã sợ, tôi đã khổ, khi phải từ bỏ ý riêng để vâng phục thánh ý Chúa. Thánh giá vẫn là thánh giá.
Nhưng tôi cũng xin tuyên xưng rằng : Tôi đã được nâng đỡ rất nhiều.
Sự nâng đỡ của Chúa là vô cùng sâu xa.
Sự nâng đỡ của giáo phận là rất lớn lao.
Sự nâng đỡ của Hội Thánh là rất quảng đại.
Sự nâng đỡ của xã hội, của đồng bào là rất đáng trân trọng.
III. Hôm nay, nhìn lại 33 năm, tôi thấy hạt lúa này đã trải qua một hành trình khá dài. Một hành trình không tách rời khỏi hành trình của giáo phận.Một hành trình góp phần làm chứng cho Thiên Chúa chúng ta. Một hành trình Chúa không ngừng đào tạo kẻ Người dùng như một dụng cụ hèn mọn. Một hành trình như chuỗi dài kinh nghiệm cho lý tưởng thiêng liêng.
Tôi xin lợi dụng dịp hiếm hoi này để cảm ơn mọi người vì những đồng hành quý báu.
Xin thân tình cảm ơn cách riêng Đức cha cố Micae và Đức cha Giuse. Hai vị đáng kính đã nâng đỡ tôi về nhiều mặt một cách tế nhị và yêu thương đặc biệt.
Cũng nhân dịp này, tôi xin mọi người tha thứ cho tôi vì bao lỗi lầm thiếu sót của tôi.
Chúng ta tiếp tục cầu nguyện cho nhau, và cùng nhau chúng ta cầu nguyện cho Hội Thánh và Quê Hương chúng ta. Chúng ta vẫn luôn là hạt lúa của Hội Thánh và của Đất Nước Việt Nam này.
Với lòng khiêm tốn, chúng ta cảm tạ Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Người đã sai chúng ta đi. Người luôn ở với chúng ta mọi ngày, nhất là những ngày khốn khó gian nan. Người ở lại với chúng ta như Đấng Cứu Độ, như Đấng an ủi và như Đấng Phục sinh.Chúng ta luôn sống với Người trong ơn đổi mới và phó thác trọn vẹn vào thánh ý Chúa.
ĐGM GB Bùi Tuần
Chư huynh Giám Mục thân mến,
Thật là một niềm lớn lao cho tôi để được ngỏ lời với chư huynh hôm nay, ở ngày đầu của chuyến tông du nước này, và tôi cám ơn Hồng Y George về những lời quí báu ngài đã gửi đến tôi nhân danh toàn thể chư huynh. Tôi muốn cảm ơn tất cả chư huynh, đặc biệt những vị có trách nhiệm trong Hội Đồng Giám Mục, về sự vất vả trong việc chuẩn bị cho chuyến viếng thăm này. Tôi cũng xin gửi tới các nhân viên, các thiện nguyện viên của Đền Thánh Quốc Gia, những người đã đón mừng chúng ta ở đây trong buổi chiều này lòng biết ơn chân thành của tôi. Tín hữu Công Giáo Hoa Kỳ đã được ghi nhận về lòng sùng mộ trung thành đối với Tòa Thánh Phêrô. Chuyến tông du mục vụ của tôi nơi đây là một cơ hội để làm vững chãi hơn những ràng buộc của mối dây liên kết đã hiệp nhất chúng ta. Chúng ta bắt đầu bằng việc cử hành Giờ Kinh Chiều trong vương cung thánh đường dâng kính việc Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Trinh Nữ Maria, một đền thánh mang dấu chỉ đặc biệt đối với Người Công Giáo Hoa Kỳ, ngay tại trung tâm của thủ đô chư huynh. Họp nhau trong lời cầu nguyện cùng với Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu, chúng ta chân thành dâng lên Cha trên trời của chúng ta dân Chúa mọi nơi trên đất nước Hoa Kỳ.
Đối với các cộng đoàn Công Giáo tại Boston, New York, Philadelphia và Louisville, đây là năm cử hành đặc biệt, ghi dấu hai thế kỷ thành lập những Giáo Hội địa phương tức là các Giáo Phận này. Cùng với chư huynh, tôi dâng lời cảm tạ vì muôn ơn lành đã được ban xuống cho Giáo Hội ở đây trong suốt hai thế kỷ. Năm nay cũng đánh dấu hai trăm năm nâng Giáo Phận Baltimore lên hàng Tổng Giáo Phận, nó cho tôi cơ hội để nhớ lại với lòng biết ơn và cảm phục đời sống và sứ vụ vị Giám Mục tiên khởi của Giáo Phận Baltimore, Đức Giám Mục John Carroll – một nhà lãnh đạo xứng đáng của Cộng Đồng Công Giáo trong quốc gia độc lập một cách mới mẻ của chư huynh. Những nỗ lực không mỏi mệt của ngài nhằm truyền đạt Tin Mừng nơi phần đất rộng lớn dưới quyền cai quản của ngài đã đặt nền tảng cho sức sống giáo hội nơi quê hương của chư huynh, và để Giáo Hội tại Hoa Kỳ phát triển tới mức trưởng. Ngày nay, cộng đồng Công Giáo mà chư huynh phục vụ là một trong những cộng đồng rộng lớn nhất và ảnh hưởng nhất. Vì thế, thật quan trọng biết bao để ánh sáng của chư huynh cũng chiếu dọi như thế trước các tín hữu của chư huynh và trước toàn thế giới, “để họ có thể nhìn thấy việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời” (Mt 5:16).
Nhiều người mà Giám Mục John Carroll và những Giám Mục kế vị ngài đã và đang phục vụ trong hai thế kỷ qua đã đến từ những phần đất xa xôi. Tính đa dạng của nguồn gốc họ được phản ảnh trong sự giầu có phong phú của đời sống giáo hội Hoa Kỳ ngày nay. Chư huynh Giám Mục, tôi muốn khuyến khích chư huynh và các cộng đoàn của chư huynh tiếp tục đón tiếp những người di dân, những người tham dự với chư huynh hôm nay để chia sẻ niềm vui và hy vọng của họ, để nâng đỡ họ trong những đau khổ và thử thách, và để giúp họ phát triển tại quê hương mới của họ. Thật ra, đây cũng chính là những gì mà dân tộc của chư huynh đã làm qua các thế hệ. Ngay từ khởi thủy, họ đã mở rộng cửa cho những người nghèo khổ, mệt nhọc, “giữa những hỗn loạn và phức tạp nẩy sinh hơi thở tự do” (cf. Sonnet inscribed on the Statue of Liberty). Đó là dân tộc mà Hoa Kỳ đã tự tạo cho mình.
Đối với những người đã đến để tạo dựng một đời sống mới tại đây, nhiều người đã có thể sử dụng tốt những nguồn tài năng và cơ hội mà họ đã khám phá và để đạt tới sự phồn thịnh cao. Thật vậy, dân chúng của đất nước này được biết đến do sức sống mãnh liệt và khả năng sáng tạo của họ. Họ cũng được biết đến do lòng hảo tâm của họ. Sau cuộc không tặc nhắm vào Tòa Tháp Đôi tháng 9 năm 2001, và một lần nữa sau Trận Cuồng Phong Katrina năm 2005, dân chúng Hoa Kỳ đã tỏ ra sẵn sàng giúp đỡ những anh chị em của mình khi cần thiết. Trên bình diện quốc tế, đóng góp của nhân dân Hoa Kỳ trong những công tác để cứu trợ và cứu vớt sau cơn sóng thần xẩy ra vào tháng 12 năm 2004 là một hình ảnh khác nữa về lòng trắc ẩn này. Xin hãy để tôi bày tỏ lòng biết ơn chân thành về nhiều hình thức giúp đỡ nhân đạo của các tín hữu Công Giáo Hoa Kỳ qua những Hội Bác Ái Công Giáo và những hội đoàn khác. Lòng rộng rãi của họ đã mang lại hoa trái trong việc săn sóc đối với những người nghèo khổ, đang cần sự giúp đỡ, và trong nỗ lực vươn tới xây dựng một hệ thống quốc gia của những giáo xứ, những bệnh viện, những học đường, và những viện đại học. Tất cả những việc này là lý do lớn lao đáng để được biết ơn.
Hoa Kỳ cũng là một phần đất của đức tin vững mạnh. Dân tộc của chư huynh thật phi thường đối với lòng nhiệt thành tôn giáo của họ, và họ lấyy làm hãnh diện thuộc về một cộng đồng thờ phượng. Họ mang niềm tín nhiệm vào Thiên Chúa, và họ không hổ thẹn mang những đòi hỏi của luân lý được đâm rễ trong niềm tin phúc âm vào trong cuộc thảo luận công khai của họ. Sự tôn trọng tự do và tôn giáo được bén rễ sâu vào lương tâm của người Hoa Kỳ – một sự kiện đã đóng góp vào việc hấp dẫn của quốc gia này đối với những thế hệ di dân, đang kiếm tìm nơi mà ở đó họ có thể thờ phượng một cách tự do theo với niềm tin của họ.
Trong mối tương giao này, tôi lấy làm hạnh phúc nhận thấy hiện diện giữa chư huynh còn có các giám mục từ những Giáo Hội Đông Phương trong tình hiệp thông với Đấng Kế Vị Phêrô, những vị mà tôi chào đón với niềm vui lớn lao. Chư huynh thân mến, tôi xin chư huynh chuyển đến các cộng đoàn của chư huynh cảm tình sâu xa và những lời cầu nguyện tha thiết của tôi đối với họ, và cho nhiều anh chị em vẫn còn đang sống tại quê hương của họ. Sự hiện diện của chư huynh ở đây là một lời nhắc nhở về hành động chứng nhân can trường đối với Chúa Kitô của nhiều thành phần trong cộng đoàn của chư huynh, thường xuyên bị bao vây bởi đau khổ tại những quê hương đáng kính của họ. Đây cũng là sự hưng thịnh lớn lao của đời sống giáo hội Hoa Kỳ, đang diễn đạt sống động tính cách công giáo của Giáo Hội và những truyền thống phượng tự cũng như tinh thần của Giáo Hội.
Tại phần đất mầu mỡ này, được nuôi dưỡng từ nhiều nguồn tài nguyên khác nhau, mà tất cả chư huynh, Anh Em Giám Mục, được kêu gọi để gieo vãi hạt giống Tin Mừng hôm nay. Điều này khiến tôi tự hỏi, trong thế kỷ hai mươi mốt này, làm thế nào một vị giám mục có thể hoàn tất tốt đẹp lời mời gọi, “đổi mới mọi việc trong Chúa Kitô, Hy Vọng của chúng ta?” Làm thế nào ngài có thể hướng dẫn dân ngài tới “một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa hằng sống”, suối nguồn mà từ đó phát sinh niềm hy vọng của sự biến đổi sống động mà Tin Mừng nói đến (cf. Spe Salvi, 4)? Có lẽ ngài phải bắt đầu bằng cách dẹp đi một số ngăn trở cho một cuộc đối diện như vậy. Trong khi thành thật mà nói rằng quốc gia này được đánh dấu bằng một tinh thần tôn giáo một cách chính xác, tuy nhiên ảnh hưởng quỷ quyệt của quan điểm thế tục có thể tô vẽ cách thức con người khiến đức tin của họ ảnh hưởng tới thái độ của họ. Phải chăng có liên quan giữa việc tuyên xưng đức tin của chúng ta vào mỗi Chúa Nhật trong thánh đường để rồi trong tuần gia tăng các thương vụ và tiếp tục việc áp dụng y khoa ngược lại những gì trái với những điều tin tưởng đó? Phải chăng có sự liên quan giữa việc thực hành Công Giáo nhưng lại coi thường hoặc làm gia tăng nghèo đói và những người bị bỏ rơi, khuyến khích hành động tính dục ngược lại với giáo huấn luân lý của Giáo Hội, hoặc để đem vào những luật lệ đi ngược lại với quyền sống của con người từ lúc thụ thai cho đến cái chết tự nhiên? Bất cứ hình thức nào coi tôn giáo như một chuyện riêng tư đều phải loại bỏ. Chỉ khi nào đức tin của mọi người thẩm thấu vào mọi lãnh vực trong cuộc sống, lúc đó người Kitô hữu mới thực sự mở rộng cho quyền năng biến đổi của Tin Mừng!
Đối với một xã hội giầu thịnh, một ngãng trở nữa cho việc gặp gỡ với Thiên Chúa hằng sống nằm ở giữa ảnh hưởng tinh vi của duy vật chủ nghĩa, mà tất cả có thể dễ dàng chú mục vào điều mà Thiên Chúa hứa ban gấp trăm lúc này để quên đi sự sống vĩnh cửu đang tới (cf. Mk 10:30). Nhân loại ngày nay cần được nhắc nhở về mục đích tối hậu của cuộc sống. Họ cần nhận ra rằng một cơn khát sâu thẳm về Thiên Chúa đã được ghi dấu trong tâm hồn họ. Họ cần được cống hiến những cơ hội để uống từ giếng nước của tình yêu vô biên của ngài. Thật là dễ dàng để được bước vào bằng hầu hết những cơ hội không hạn chết mà khoa học và kỹ thuật mở ra trước chúng ta. Thật là dễ dàng để rơi vào lầm lẫn khi nghĩ rằng chúng ta có thể chiếm hữu bằng những nỗ lực riêng mình việc khỏa lấp những nhu cầu tiềm ẩn nhất của chúng ta. Đây là một ảo tưởng. Nếu không có Thiên Chúa, Đấng tự mình ban phát cho chúng ta những gì chúng ta không thể tự mình có được (cf. Spe Salvi, 31), đời sống của chúng ta hoàn toàn trống rỗng. Nhân loại cần luôn được nhắc nhở để vun trồng mối liên hệ với Ngài, Đấng đã đến để chúng ta được sống sung mãn (cf. Jn 10:10). Mục đích của tất cả công việc giảng dậy và mục vụ của chúng ta, đối tưởng của việc rao giảng của chúng, và chủ đích của sứ vụ thánh hiến của chúng ta cốt là để giúp nhân loại thiết lập và nuôi dưỡng mối dây sống động ấy với “Chúa Giêsu Cứu Thế, Hy Vọng của chúng ta” (1 Tim 1:1).
Trong một xã hội mà ở đó đánh giá trị trên tự do cá nhân và tự lập, thật dễ dàng để lạc mất hình ảnh của tùy thuộc vào người khác cũng như những trách nhiệm mà chúng ta có đối với nhau. Sự nhấn mạnh đến cá nhân chủ nghĩa này cũng đã ảnh hưởng ngay cả đối với Giáo Hội (Cf. Spe Salvi, 13-15 ), đem lại một hình thức đạo đức mà một đôi khi nhấn mạnh mối tương quan riêng lẻ của chúng ta với Thiên Chúa ở chỗ tiêu hao ơn gọi trở nên những phần tử của một cộng đồng được cứu độ. Thật vậy, ngay từ ban đầu, Thiên Chúa đã nhìn thấy rằng “con người sống một mình không tốt” ( Gen 2:18). Chúng ta đã được tạo dựng như những con người xã hội, nó chỉ tìm được sự viên mãn trong tình yêu – đối với Thiên Chúa và đối với than thân của chúng ta. Nếu chúng ta thật sự nhìn vào Ngài, Đấng là suối nguồn của niềm vui chúng ta, chúng ta cần hành động như những thành phần của Dân Chúa (Cf. Spe Salvi, 14). Nếu điều này xem như nền văn hóa đối kháng, thì đó là một bằng chứng của một nhu cầu cấp thiết cho việc đổi mới việc phúc âm hóa nền văn hóa.
Ở đây, tại Hoa Kỳ, chư huynh được chúc phúc bởi một tập thể tín hữu Công Giáo của một nền văn hóa đa dạng, những tín hữu đặt những tài năng đa dạng của mình trong việc phục vụ Giáo Hội và xã hội một cách rộng rãi. Họ nhìn lên chư huynh để cho họ sự khích lệ, hướng dẫn và lãnh đạo. Trong một thời đại bão hòa với thông tin, thì tầm quan trọng của việc cung ứng âm thanh thành hình trong đức tin không thể bị coi là quá đáng. Người Công Giáo Hoa Kỳ có một truyền thống coi trọng giá trị giáo dục tôn giáo, cả nơi các học đường và những chương trình cho những người lớn tuổi. Những nhu cầu này cần được duy trì và phát triển. Có nhiều người nam nữ quảng đại hy sinh cho công việc bác ái cần được giúp đỡ để canh tân nhiệt tình của họ bằng một “sự hình thành của con tim”: một “sự gặp gỡ Thiên Chúa trong Chúa Kitô làm bừng tỉnh tình yêu và mở rộng lòng hăng say đối với những người khác” (Deus Caritas Est, 31). Ở vào thời điểm khi mà khoa học y khoa đem lại hy vọng cho nhiều người, nó cũng làm nổi lên những thách đố đạo đức một cách không tiên liệu trước. Điều này trở nên quan trọng hơn bao giờ để đề nghị qua sự hình thành việc giảng dậy luân lý trong Giáo Hội cho những người Công Giáo liên quan đến việc săn sóc sức khỏe. Sự hướng dẫn khôn ngoan được coi là cần thiết cho tất cả những vị tông đồ này để họ có thể mang lại những hoa trái dồi dào; nếu họ thành tâm thăng hoa thiện ích chung của con người, cả họ nữa cũng cần được đổi mới trong Chúa Kitô hy vọng của chúng ta.
Là những thầy dậy Tin Mừng và những nhà thủ lãnh của cộng đồng Công Giáo, chư hynh cũng được kêu mời tham dự vào việc trao đổi những ý kiến về công cộng, giúp đỡ để hình thành những sắc thái của văn hóa. Trong một cấu trúc mà ở đó tự do ngôn luận được coi là có giá trị, và ở đó cuộc tranh luận thẳng thắn và nghiêm chỉnh được khích lệ, tiếng nói của chư huynh là một tiếng nói được kính nể nhiều để đưa ra cuộc thảo luận về những câu hỏi liên quan đến luân lý và xã hội hiện tại hôm nay. Bằng cách bảo đảm rằng Tin Mừng phải được đón nghe một cách rõ ràng, chư huynh không những huấn luyện những người trong cộng đồng riêng của mình, nhưng trong một tầm nhìn vươn rộng tổng quát đến một sự hiệp nhất lớn lao, chư huynh giúp truyền rao sứ điệp của niềm hy vọng Kitô Giáo tới mọi nơi trên thế giới.
Rõ ràng là, ảnh hưởng của Giáo Hội trong cuộc tranh luận công khai chiếm vị thế trên nhiều lãnh vực. Tại Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, cũng như mọi nơi khác, có nhiều những dự luật và luật lệ đem lại lý do để quan tâm từ quan điểm luân lý, và cộng đồng Kitô hữu. Dưới sự hướng dẫn của chư huynh cần đưa ra một chứng từ hiệp nhất và rõ ràng về những vấn đề này. Ngoài ra, quan trọng hơn nữa là mở rộng lần lần tâm trí và trái tim của một cộng đồng lớn hơn đối với sự thật đạo đức. Đây là điều phải được thực hiện. Cốt lõi của mối quan tâm ở đây chính là vai trò người tín hữu phải hành động như “men” giữa xã hội. Thật vậy, không thể hàm hồ cho rằng mọi công dân Công Giáo có suy nghĩ hợp với giáo huấn của Giáo Hội về những vấn nạn then chốt liên quan đến đạo đức hiện nay. Một lần nữa, nó dựa trên chư huynh để bảo đảm rằng việc thành hình luân lý với giáo huấn của Giáo Hội phải được dự phòng ở mọi trình độ của đời sống giáo hội phản ảnh giáo huấn chính xác của Tin Mừng sự sống.
Trong mối quan tâm ấy, điều quan tâm chính đối với tất cả chúng ta là tình trạng gia đình trong xã hội. Thật vậy, như Hồng Y George đã lưu ý trước đây rằng chư huynh đã bao gồm việc củng cố hôn nhân và đời sống gia đình cho những quan tâm hàng đầu của chư huynh vào những năm kế tiếp. Trong Thông Điệp Ngày Hòa Bình Thế Giói năm nay, tôi đã nói về sự đóng góp căn bản vào việc kiến tạo hòa bình giữa và trong các quốc gia của đời sống hôn nhân lành mạnh. Trong mỗi gia đình, chúng ta nhận ra “một số những yếu tố nền tảng của hòa bình: công bằng và yêu thương giữa anh chị em với nhau, vai trò và quyền bính được diễn tả qua cha mẹ. Quan tâm yêu thương đối với các phần tử yếu kém do tuổi tác, bệnh tật, hoặc già nua. Giúp đỡ đa phương trong những nhu cầu của đời sống. Sẵn sàng để đón nhận nhau, và nếu cần, tha thứ cho nhau” ( no. 3). Gia đình cũng là nơi đầu tiên của việc phúc âm hóa, truyền đạt đức tin. Giúp đỡ những người trẻ để đón nhận tầm quan trọng trong việc thực hành đạo đức và tuân giữ ngày Chúa Nhật. Làm sao chúng ta không khỏi thể thất vọng khi nhìn thấy sự sa sút trầm trọng của gia đình, một yếu tố căn bản của Giáo Hội và xã hội? Ly dị và phản bội ngày tăng dần, và nhiều người trẻ nam nữ đã chọn con đường trì hoãn hôn nhân hoặc chung sống với nhau mà không cần đến hôn nhân. Đối với một số người Công Giáo trẻ, sự ràng buộc của bí tích hôn phối xem như có thể được tháo gỡ bởi sự ràng buộc dân sự, hoặc ngay cả việc dàn xếp không chính thức và mơ hồ để sống với một người khác. Từ đó, chúng ta có một sự giám thiểu tới mức báo động về số lượng hôn nhân Công Giáo tại Hiệp Chủng Quốc, cùng với việc tăng số việc sống chung ngoài hôn nhân, trong đó sự hiến thân cho nhau theo gương Đức Kitô tự hiến cho người phối ngẫu, được đóng dấu bởi lời hứa công khai thể hiện đòi buộc sống vững bền trọn đời, một cách đơn giản bị vắng mặt. Trong những tình huống ấy, trẻ em bị từ chối môi trường an toàn mà chúng cần thiết để được phát triển như những con người, và xã hội không còn là những tòa nhà kiên cố mà nó đòi hỏi, nếu sự chú tâm về luân lý và liên kết của cộng đồng cần được duy trì.
Như vị tiền nhiệm của tôi, Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã dạy: “Người có trách nhiệm chính đối với một Giáo Phận trong việc săn sóc mục vụ cho các gia đình là giám mục... ngài phải tận hiến cho nó sở thích cá nhân, thời giờ, sự săn sóc, các phương tiện và nhân lực, nhưng trên tất cả là việc trợ giúp cá nhân đối với các gia đình và tất cả những ai... hợp tác với ngài trong việc săn sóc mục vụ gia đình” (Familiaris Consortio, 73). Nó là trách nhiệm của chư huynh là công bố một cách xác quyết những tranh cãi từ đức tin và lý trí nhằm bênh vực luật lệ hôn nhân, được hiểu như một lời thề hứa sống đời với một người nam và người nữ, dẫn tới việc chuyển đổi của đời sống. Sứ điệp này cần được vang vọng tới con người ngày nay, bởi vì nó là một căn bản của tiếng “có” vô điều kiện và thật tình, một tiếng “có” đối với tình yêu, và “có” với những thao thức của con tim chung nhân loại, khi chúng ta gắng sức đổ đầy khát vọng sâu xa về sự mật thiết đối với nhau và với Thiên Chúa.
Giữa những chứng từ đối với Tin Mừng sự sống đó, có một điều mà tại Hoa Kỳ và nhiều nơi khác đã gây rất xấu hổ: lạm dụng tình dục đối với các em vị thành niên. Nhiều vị trong chư huynh đã nói với tôi về sự đau xót lớn lao mà các cộng đoàn của các chư huynh đã gánh chịu khi những giáo sỹ phản bội giới luật của đời sống linh mục và bổn phận của họ bằng hành động vô luân một cách trầm trọng. Khi chư huynh nỗ lực làm giảm thiểu hành động tội lỗi này ở những nơi nó xẩy ra, chư huynh được bảo đảm bằng sự hỗ trợ qua lời cầu nguyện của dân Chúa toàn thế giới. Một cách Một cách rõ ràng, chư huynh liên kết mối ưu tiên nói lên lòng trắc ẩn và sự săn sóc đối với các nạn nhân. Đây là trách nhiệm Thiên Chúa trao ban cho chư huynh như những chủ chăn để băng bó những vết thương gây nên bởi sự phá vỡ lòng tin, để nuôi dưỡng sự chữa lành, để khuyến khích hòa giải, và để vươn tới với sự quan tâm yêu thương đối với những ai bị đối xử bất công một cách nghiêm trọng.
Đáp lại với tình trạng này không phải là dễ dàng, và như vị Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục của chư huynh đã trình bày, “một đôi khi đã được giải quyết một cách không đúng”. Giờ đây mực độ và tầm quan trọng của vấn đề đã được hiểu biết một cách rõ ràng hơn, chư huynh đã có thể đưa ra những giải pháp chữa trị chính xác hơn, những mực độ kỷ luật, và cổ võ một môi trường an toàn để đem lại việc bảo vệ hữu hiệu hơn các người trẻ. Trong khi đó cũng phải nhớ rằng phần lớn giáo sỹ và tu sỹ tại Hoa Kỳ hành động trổi vượt trong việc mang lại sứ điệp giải thoát của Tin Mừng cho những người được trao phó cho sự săn sóc của họ. Điều vô cùng quan trọng là những người dễ bị tổn thương luôn luôn phải được bảo vệ khỏi những kẻ muốn hãm hại. Trong mối quan tâm này, những nỗ lực của chư huynh nhằm chữa lành và che chở mang lại hoa trái lớn lao không chỉ cho những ai trực tiếp dưới quyền săn sóc mục vụ của chư huynh, nhưng cho toàn thể xã hội nữa.
Tuy nhiên, để đạt được kết quả mỹ mãn, những đường hướng và chương trình chư huynh lựa chọn cần phải được đặt vào một bối cảnh rộng lớn hơn. Các trẻ em đáng được lớn lên với sự hiểu biết lành mạnh về tính dục và vị trí đặc rõ ràng của nó trong những quan hệ của con người. Chúng phải được ngăn ngừa khỏi cách thức biểu lộ đồi bại và sức cuốn hút thô tục của tính dục rất thịnh hành ngày nay. Chúng có quyền được giáo dục trong những giá trị luân lý đích thực được bén rễ nơi phẩm giá của con người. Điều này mang chúng ta trở lại với sự quan tâm cốt lõi của gia đình và nhu cầu cổ võ Tin Mừng sự sống. Có nghĩa lý gì khi nói về việc bảo vệ các em khi mà hình ảnh khiêu dâm và bạo lực có thể được nhìn thấy tại nhiều gia đình qua truyền thông một cách rộng rãi và dễ dàng ngày nay? Chúng ta cần tái định giá một cách cấp thiết những giá trị nền móng xã hội, để một nền luân lý lành mạnh có thể được cống hiến cho những người trẻ cũng như những người lớn tuổi. Tất cả mọi người đều có trách vụ phải chu toàn việc này – không chỉ duy phía phụ huynh, các vị lãnh đạo tôn giáo, những giáo chức và những giáo lý viên, nhưng cả truyền thông và kỹ nghệ giải trí nữa. Thật vậy, chăm sóc cho tuổi trẻ và tương lai của nền văn minh của chúng ta cũng có nghĩa là nhận thức trách nhiệm của chúng ta để cổ võ và sống bằng những giá trị luân lý lành mạnh mà chỉ có nó mới có thể làm cho con người phát triển. Trách nhiệm của chư huynh, những mục tử mô phỏng Chúa Kitô, Mục Tử Nhân Lành, là loan báo sứ điệp này một cách rõ ràng và mạnh mẽ, và vì thế đề cập đến tội lạm dụng trong chiều kích rộng lớn hơn của sự ràng buộc phái tính. Hơn nữa, nhờ hiểu biết và đương đầu với vấn đề khi nó xẩy ra trong bối cảnh của giáo hội, chư huynh có thể đưa ra sự hướng dẫn cho những người khác, bởi vì tai họa này được tìm thấy không riêng ở các Giáo Phận của chư huynh, nhưng trong mọi góc cạnh của xã hội. Nó cần được giải quyết, và đáp trả chung.
Các linh mục nữa, cũng cần dự hướng dẫn và gần gũi của chư huynh trong thời buổi khó khăn này. Các vị đó cũng đã cảm nghiệm sự tủi hổ về những gì đã xẩy ra, và có những vị cảm thấy mất lòng tin tưởng và kính trọng mà hơn một lần họ từng nếm hưởng. Không phải chỉ một số đang kinh nghiệm. Phần đông cảm cảm nhận sự gần gũi với Chúa Kitô trong cuộc Thương Khó của ngài khi họ chiến đấu để chấm dứt những thời hạn do những hậu quả của cơn khủng hoảng. Giám mục như người cha, người anh và người bạn của các linh mục, có thể giúp họ đạt được hoa trái thiêng liêng từ việc hiệp nhất với Đức Kitô bằng cách làm cho họ nhận thức được ơn an ủi của Thiên Chúa hiện diện giữa đau khổ của họ, và bằng cách khuyến khích họ bước đi với Chúa trên con đường hy vọng (cf. Spe Salvi, 39). Như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhận xét 6 năm trước: “Chúng ta phải tin tưởng rằng thời gian thử thách này sẽ mang lại một sự thanh luyện cho toàn thể cộng đồng Công Giáo”, đem lại “một hàng ngũ linh mục thánh thiện hơn, một hàng ngũ giám mục thánh thiện hơn, và một giáo hội thánh thiện hơn” (Diễn văn gửi các Hồng Y Hoa Kỳ ngày 23 tháng 4 năm 2002). Có nhiều dấu hiệu để thấy rằng trong thời gian thanh tẩy, sự thanh luyện thực tế đã xuất hiện. Sự hiện diện vững bền của Chúa Kitô giữa những đau khổ của chúng ta đang từ từ biến đổi sự tối tăm của chúng ta thành ánh sáng: mọi vật đều được đổi mới trong Chúa Giêsu Kitô hy vọng của chúng ta.
Vào thời điểm này, phần vụ sống động của chư huynh là tăng cường những mối tương quan với các giáo sỹ của chư huynh, đặc biệt, trong những trường hợp mà ở đó sự căng thẳng đã bùng nổ giữa các linh mục và các giám mục của họ hầu dẫn tới khủng hoảng. Điều quan trọng là chư huynh tiếp tục cho họ thấy sự quan tâm của chư huynh, để nâng đỡ họ, và dể hướng dẫn họ bằng gương sáng. Bằng cách này, chư huynh một cách chắc chắn sẽ giúp họ gặp gỡ Thiên Chúa hằng sống, và chỉ cho họ hướng về niềm hy vọng biến đổi đời sống mà Tin Mừng nói tới. Nếu đời sống của chư huynh được biến đổi một cách gần gũi với Chúa Kitô, Mục Tử Nhân Lành, Đấng đã thí mạng sống mình đoàn chiên, chư huynh sẽ phấn khích anh em linh mục của chư huynh để tái dâng hiến chính mình phục vụ đoàn chiên của họ một cách quảng đại như Chúa Kitô. Thật vậy, việc chú tâm rõ ràng hơn noi gương Chúa Kitô trong đời sống thánh thiện, chính là những gì chúng ta cần phải tiến tới. Chúng ta cần phải tái khám phá niềm hy vọng của cuộc đời mà trong đó Chúa Kitô là trung tâm, gieo trồng nhân đức, và gìm mình trong kinh nguyện. Khi người tín hữu biết rằng mục tử của họ là con người cầu nguyện, tận hiến đời mình để phục vụ họ, họ sẽ đối lại với lòng yêu mến, chân tình mà nó nuôi dưỡng và nâng đỡ đời sống của toàn cộng đồng.
Thời giờ dành cho việc cầu nguyện không bao giờ uổng phí, mặc dù các bổn phận đè nặng trên chúng ta từ nhiều phía. Tôn thờ Chúa Kitô, Chúa chúng ta trong Thánh Thể kéo dài và tăng cường sự hiệp nhất với Ngài được thiết lập qua việc cử hành Thánh Lễ (cf. Sacramentum Caritatis, 66). Suy ngắm những mầu nhiệm Kinh Mân Côi ban cho tất cả quyền lực cứu độ và những ơn cần thiết của nó để nối kết và thánh hiến chúng ta cho Chúa Giêsu Kitô (Cf. Rosarium Virginis Mariae, 11, 15). Trung thành với Kinh Thần Vụ bảo đảm rằng trọn cả ngày của chúng ta được thánh hóa và nó tiếp tục nhắc nhớ chúng ta nhu cầu chú tâm vào công việc của Thiên Chúa, tuy có nhiều sức ép và sao nhãng có thể nảy sinh từ công việc. Vì thế việc tận hiến của chúng ta giúp chúng ta nói và hành động trong Con Người Chúa Kitô (in persona Christi), để dậy dỗ, điều hành, và thánh hóa các tín hữu trong danh Chúa Giêsu, để mang sự hòa giải của Ngài, sự chữa lành của Ngài, và tình yêu của Ngài cho tất cả anh chị em thân yêu của chúng ta. Triệt để nên giống Chúa Kitô, Mục Tử Nhân Lành, chú tâm vào sứ mạng mục vụ của chúng ta, và nếu chúng ta mở rộng mình ra qua lời cầu nguyện trước quyền năng của Thánh Thần, Ngài sẽ ban cho chúng ta những ân huệ chúng ta cần thiết để mang lấy công tác chán nản của chúng ta, để chúng ta không bao giờ “bị lo lắng sẽ phải nói gì và nói như thế nào” (Mt 10:19).
Khi tôi kết thúc những lời này với chư huynh trong buổi chiều hôm nay, tôi trao phó Giáo Hội tại quốc gia của chư huynh một cách hết sức đặc biệt cho sự săn sóc từ mẫu và lời chuyển cầu của Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Quan Thầy Hiệp Chủng Quốc. Xin Mẹ đấng mang trong dạ mình niềm hy vọng của mọi quốc gia chuyển cầu cho dân chúng của quốc gia này, để chớ gì mọi người đều được đổi mới trong Chúa Giêsu Kitô, Con của người. Chư huynh Giám Mục rất thân mến, tôi muốn bảo đảm với từng chư huynh đang hiện diện nơi đây bằng tình huynh đệ sâu thẳm của tôi và sự hiệp thông của tôi trong những mối quan tâm mục vụ của chư huynh. Với tất cả chư huynh, hàng giáo sỹ và giáo dân của chư huynh, tôi tha thiết ban phép lành Tông Đồ của tôi như bảo chứng của niềm vui và bình an trong Chúa Phục Sinh.
Chuyển ngữ: Trần Mỹ Duyệt
Vatican (Vat 27/04/2008 17.35.27) - Trong những năm trước đây, vào dịp chúa nhựt Chúa Chiên lành (Chúa Nhật IV Phục Sinh), ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu, Ðức Thánh Cha Beneđitô XVI truyền chức linh mục cho các giáo sĩ thuộc giáo phận Rôma. Năm nay (2008) vì kề chuyến tông du Hoa kỳ, nên lễ truyền chức được dời sang ngày Chúa Nhật VI Phục Sinh (27/04/2008). Dựa theo các bài đọc Sách Thánh của chúa nhựt VI Phục sinh, đức Bênêđictô XVI đã trình bày chân dung của linh mục như là người phụng sự niềm vui, một đặc trưng của Tin mừng. Thánh lễ truyền chức được bắt đầu từ 9 giờ rưỡi sáng tại đền thánh Phêrô và kéo dài cho đến 12 giờ trưa. Vì thế mãi đến 15 phút sau, Ðức thánh cha mới xuất hiện tại cửa sổ văn phòng để hướng dẫn buổi đọc kinh kính Ðức Mẹ. Những lời đầu tiên là cáo lỗi vì đã đến muộn, tuy rằng ai ai cũng biết lý do. Ngoài việc giải thích ý nghĩa của lễ truyền chức linh mục, ngài còn nhắc đến chuyến tông du tuần trước bên Hoa kỳ, đề tài sẽ được dành cho buổi tiếp kiến chung vào thứ Tư sắp tới. Thêm vào đó là lời chúc mừng các Giáo hội Chính thống bởi vì họ mừng lễ Phục sinh vào chúa nhựt 27/04/2008, dựa theo lịch Giulianô. Cuối cùng, sau khi ban phép lành Tòa thánh, ngài còn thêm những lời kêu gọi dư luận thế giới hãy quan tâm đến thảm trạng của vài quốc gia bên châu Phi. Sau đây là nguyên văn bài huấn dụ.
Anh chị em thân mến.
Thánh lễ ở đền thờ thánh Phêrô vừa mới kết thúc, và tôi đã truyền chức cho 29 tân linh mục. Hằng năm, đây là một buổi lễ lớn và một hồng ân đặc biệt, bởi vì một nhựa sống mới đã được tiêm vào cộng đồng của giáo hội cũng như xã hội. Sự hiện diện của các linh mục là điều không thể nào thiếu trong đời sống Giáo hội, và sự hiện diện đó cũng là một điều quý giá cho hết mọi người. Chúng ta đọc trong Sách Tông đồ công vụ rằng trợ tá Philippê đem Tin mừng đến một thành phố ở Samaria, dân chúng đã hăm hở chấp nhận lời giảng của ông, vì thấy những dấu lạ mà ông thực hiện đối với các người bệnh; và "cả thành phố đều vui mừng" (8,8). Như tôi đã nhắc nhở các linh mục trong thánh lễ truyền chức, sứ mạng của Giáo hội và của các linh mục là gieo rắc cho thế giới niềm vui của Tin mừng! Ðâu mà Chúa Kitô được loan truyền với sức mạnh của Thánh Linh và được tiếp đón rộng rãi, thì xã hội tuy dù sống giữa trăm ngàn vấn đế, nhưng trở nên "thành phố của niềm vui", tựa đề của một cuốn sách viết về hoạt động của Mẹ Teresa Calcutta. Ðây là lời chúc dành cho các linh mục mà tôi xin tất cả mọi người hãy cầu nguyện: xin cho các linh mục đi tới đâu thì hãy truyền bá niềm vui mừng và hy vọng trào ra từ Tin mừng.
Thực ra, đây cũng là sứ điệp mà tôi đã đem sang Hoa kỳ trong những ngày vừa qua, với một chuyến đi dưới khẩu hiệu "Christ Our Hope - Chúa Kitô, niềm hy vọng của chúng ta". Tôi xin tạ ơn Chúa vì đã ban phúc lành dồi dào cho kinh nghiệm truyền giáo đặc biệt này của tôi, và đã dùng tôi như công cụ cho niềm hy vọng của Chúa Kitô dành cho Giáo hội và quốc gia Hoa Kỳ. Ðồng thời tôi cũng xin tạ ơn Chúa vì chính tôi cũng được củng cố bởi niềm hy vọng của các người công giáo Hoa kỳ: thực thế tôi đã chứng kiến một sức sống mãnh liệt và một lòng cương quyết muốn sống và làm chứng cho đức tin vào Chúa Giêsu. Thứ tư tới đây, trong buổi tiếp kiến chung, tôi sẽ nói đến chuyến viếng thăm Hoa kỳ.
Hôm nay, nhiều Giáo hội bên Ðông phương mừng lễ Phục sinh, dựa theo lịch Giulianô. Tôi muốn bày tỏ cùng các anh chị em này sự gần kề về tinh thần. Tôi xin thân ái chào thăm anh chị em, và nguyện xin Chúa Cả Ba ngôi củng cố anh chị em trong đức tin, trút đổ ánh sáng rực rỡ của Chúa Phục sinh, và củng cố anh chị em trong những hoàn cảnh không dễ dàng mà anh chị em thường gặp phải trong cuộc sống và làm chứng cho Tin mừng. Tôi xin mời gọi mọi người hợp ý với tôi khẩn nài Ðức Mẹ, ngõ hầu con đường đối thoại và hợp tác đã khởi đầu sớm mang lại sự thông hiệp trọn vẹn giữa các môn đệ của Chúa Kitô, để họ mãi trở nên một dấu chỉ rạng ngời về hy vọng cho toàn thể nhân loại.
Sau phép lành Toà thánh, Ðức thánh cha đã kêu gọi dư luận thế giới hãy quan tâm đến tình hình bi đát của vài dân tộc Phi châu, đặc biệt là Somalia, Darfur, Burundi, đang phải đương đầu với những cuộc chiến tranh gây thiệt mạng cho nhiều người, cộng thêm với điều kiện sinh sống vốn đã túng cực.
Như đã nói trên, vào lúc 9 giờ rưỡi sáng, đức Bênêđictô XVI đã chủ sự thánh lễ truyền chức linh mục cho 29 giáo sĩ, trong số này 13 xuất thân từ đại chủng viện giáo phận, 9 xuất thần từ đại chủng viện Redemptoris Mater thuộc phong trào Tân dự tòng, và những người còn lại thuộc những dòng tu hoặc hiệp hội giáo phận; ngoài ra còn có một giáo sĩ thuộc giáo phận Baghdad (Irak). Các tân chức thuộc tuổi từ 25 đến 44, thuộc nhiều quốc gia: Italia, Pháp, Chile, Haiti, Paraguay, Ấn độ, và Irak.
Bài giảng dựa theo các bài đọc Sách Thánh của chúa nhựt thứ 6 Phục sinh, trong đó một tư tưởng của bài đọc Một được chú giải đặc biệt "Thành phố tràn ngập niềm vui" (Cv 8,8). ÐTC nhắn nhủ các tân chức như sau: "Các bạn thân mến, đây cũng là sứ mạng của chúng ta: đem Tin mừng cho hết mọi người, ngõ hầu ai ai cũng được nếm được niềm vui của Chúa Kitô và đâu đâu cũng được vui mừng. Còn gì đẹp hơn nữa không? Còn gì cao cả, hấp dẫn hơn là được cộng tác vaò việc truyền bá cho thế giới Lời của sự sống, thông chia nước hằng sống của Thánh Thần. Loan báo và làm chứng cho niềm vui: đây là cốt tuỷ của sứ mạng của các linh mục. Thánh Phaolô gọi các tác viên của Tin mừng là "những kẻ phụng sự niềm vui". Trong thư thứ hai gửi cho các tín hữu Corintô, ngài viết như sau: "Chúng tôi không muốn làm kẻ bá chủ trên lòng tin của anh em; ngược lại, chúng tôi là kẻ hợp tác với niềm vui của anh em, bởi vì anh em đã được vững mạnh trong đức tin" (2Cr 1,24). Ðây là những lời hoạch định cho mỗi linh mục. Ðể trở nên kẻ hợp tác với niềm vui của người khác, trong một thế giới thường mang tâm trạng ảm đạm và tiêu cực, thì cần để cho ngọn lửa của Tin mừng cháy lên trong các bạn, cần để cho niềm vui của Thiên Chúa chiếm đoạt con tim của các bạn, Có như vậy thì các bạn mới có thể trở nên sứ giả của niềm vui, đem vui mừng đến với mọi người, cách riêng cho những ai sầu muộn và nản chí.
Bình Hòa
(Radio Vatican)
Chuyến tông du thứ 10 của ĐTC ở nước ngoài sẽ là Pháp Quốc. ĐCT sẽ đến đất nước
hình lục lăng từ thứ Sáu ngày 12 đến thứ Hai ngày 15 tháng 09/2008 để mừng 150
năm Đức Trinh Nữ Maria hiện ra ở Lộ Đức. Chuyến tông du này nằm trong khuôn khổ
« những cuộc hành hương Đức Maria » mà ĐTC mong muốn thực hiện vào tháng 09, từ
khi được bầu Giáo Hoàng, ngài đã đi hành hương Đức Maria Altotting ở Bavière (ở
Đức) cách đây 2 năm, và hành hương Đức Maria ở nước Áo năm vừa qua.
Ngài sẽ lợi dụng chuyến tông này để thăm mục vụ Giáo Hội Pháp, chặng quan trọng
là ở Paris. Chi tiết chương trình đã được ấn định, và sắp tới đây sẽ được Hội
Đồng Giám Mục và chính phủ công bố công chúng. Nhưng vế phía Toà Thánh có lẽ vào
tháng 06 mới xác nhận chính thức chương trình.
Theo nguồn tin Pháp và Roma, ĐTC sẽ đến Paris sáng thứ Sáu, ngài sẽ được bộ
trưởng Pháp và ĐHY André Vingt-Trois tiếp đón tại phi trường Orly. Sau đó ngài
sẽ được tổng thống Pháp Sarkozy tiếp đón, nhằm đáp lại chuyến thăm chính thức
tháng 12 vừa qua của tổng thống Sarkozy. ĐTC sẽ đến cung điện Champs-Elysee, có
cuộc toạ đàm với tổng thống và một cuộc gặp gỡ ngắn với đội ngũ cơ quan quốc
gia. Trong chuyến tông du đầu tiên của mình 1980, ĐGH Gioan Phao II cũng được
tiếp đón danh dự bởi cựu tống thống Pháp Valréy Giscard d’Estaing.
Thánh lễ ngoài trời tại sân toà nhà nghệ thuật Invalides
ĐTC sẽ đến Toà Khâm Sứ, toạ lạc tại Paris, tại đây ngài có thể sẽ gặp gỡ các vị lãnh đạo cộng đồng Do Thái. Buổi chiều, tại trung tâm mới Giáo Phận Berardins, ngài sẽ nói về văn hoá thế giới trước khoảng 800 người có mặt.
Trong số họ, có các thành viên học Viên Hàn Lâm khoa học đạo đức, khoa chính
trị, Joseph Ratzinger cũng là một thành viên của Học Viện này….Ngài sẽ đến nhà
Đức Bà Paris để đọc kinh tối với các linh mục, các nam nữ tu sĩ. Sau buổi kinh
tối, ngài sẽ nói chuyện với giới trẻ tập trung ở sân nhà thờ.
Sáng thứ Bảy, sẽ có thánh lễ ngoài trời tại sân toà nhà nghệ thuật ở trung tâm
París, các Giám Mục Pháp cùng đồng tế với ĐTC, theo nguồn tin, thánh lễ sẽ được
cử hành tại sân lớn toà nhà nghệ thuật Invalides. Địa điểm này rộng hơn nhà thờ
Đức Bà, và phù hợp với số lượng khách đông: nếu số lương khách vượt quá dự tính
( theo tống giám mục Paris khoảng 200 000 người), thì các tìn hữu có thể ngồi
tới tận bờ sông Seine. Địa điểm này cũng có những thuận lợi khác với Bourget nơi
mà chuyến tông du đầu tiên của ĐGH Gioan Phao II vẫn còn đọng lại trong ký ức
của người công giáo Pháp.
Chuyến thăm Pháp đầu tiên của ĐGH Biển Đức XVI
Chiều thứ Bảy, ĐTC sẽ đến Lộ Đức, là trọng tâm chuyến tông du của ngài. Khi đến
nơi, ngài sẽ dùng « đường năm đại xá » theo chân thôn nữ Bernadette. Buổi tối,
ngài sẽ chủ sự đêm canh thức cầu nguyện Đức Maria với cuộc rước nến tại trung
tâm Lộ Đức.
Sáng Chúa Nhật, ngài sẽ cùng đồng tế đại lễ với giám mục Pháp trên sân cỏ đối
diện hang đá Massabielle, ngài sẽ gặp gỡ làm việc với Hội Đồng Giám Mục Pháp,
theo lời đề nghị của Toà Thánh. Sáng thứ Hai, ngài sẽ dâng thánh lễ Đức Mẹ Sầu
Bi với sự hiện diện các bệnh nhân, cuối buổi sáng, ngài sẽ trở về Roma.
Đây là chuyến tông du Pháp đầu tiên của ĐTC. Nhưng khi ngài còn là trưởng bộ
giáo lý đức tin, thì ngài đã nhiều lần đến Pháp. Được các nhà thần học và các
triết gia Pháp nuôi dưỡng, ĐTC rất am hiểu văn hoá Pháp và nói tiếng Pháp hoàn
hảo. Mới đây, lúc đọc diễn văn tại LHQ, hôm thứ Sáu (18/04/08), ngài đã đọc một
nửa bài diễn văn bằng tiếng Pháp.
( Nguồn: La Croix)
Đức Hồng Y William Levada, Chủ tịch Thánh Bộ Đức Tin đã làm phép khánh thành
chủng viện Thánh Linh (Holy Spirit) ở Banyo thuộc TGP Brisbane Uc Châu
Trong bài diễn văn khánh thánh vào cuối tuần qua 25/4 ĐHY nói cùng tín hữu thuộc
tiểu bang Queensland rằng "Anh chị hãy hãnh diện về ngôi chủng viện mới này, và
anh chị em cũng hãnh diện về các linh mục của anh chị em”.
Chủng viện Thánh Linh là nơi đào tạo các chủng sinh của các giáo phận thuộc tiểu
bang Queensland, bao gồm các giáo phận Cairns, Rockhampton, Townsville,
Toowoomba và TGP Brisbane.
Trong thành phần 500 quan khách bao gồm: Đức Khâm sứ của Úc Châu ĐTGM Giuseppe
Lazzarotto; Giám mục Peter Ingham thuộc giáo phận Wollongong; Đức cha nguyên
Giám mục Townsville đã về hưu là Đức Cha Raymond Benjamin; và Đức cha hưu John
Gerry của TGP Brisbane; Giám mục Anh giáo Philip Aspinall của Brisbane, ngài
cũng là Giám mục chủ tịch của Anh giáo Úc Châu và mục sư Tin lành Giáo Hội Hiệp
Nhất, quản trị giáo phận của tiểu bang Queensland là mục sư David Pitman.
Trong bài giảng ĐHY William Levada nhấn mạnh "việc khánh thành ngôi chủng viện
mới này nói lên niềm tin và hy vọng của Giáo Hội Hội Úc Châu."
Tiếp theo lời thánh hiến ngôi nhà nguyện chủng viện của ĐTGM Bathersby, ĐHY
Levada nói "Khẩu hiệu Mặc lấy Chúa Thánh Linh" mang một ý nghĩa sống hơn là một
huy hiệu. Đó là một lối sống mầu nhiệu ơn cứu chuộc của chúng ta trong Đức Kitô.
ĐTG Bathersby cũng cho hay tên gọi của chủng viện đong đầy tâm tư chúng ta một niềm hy vọng tràn trề và một tâm nguyện Chúa Thánh Thần sẽ hối thúc tâm lòng chúng ta hướng về tương lai với nguồn sinh lực dồi dào mới.
Lm Anthony Nguyễn Hữu Quảng SDB
Naples- Italy: Một nhóm 348 người vô gia cư, bao gồm 115 trẻ em đã chiếm ngữ và sinh sống trong Vương Cung Thánh Đường trong 22 ngày và đòi hỏi chính quyền sở tại phải cung cấp nhà ở cố định cho họ. Đây là một Thánh Đường có tích cách lịch sử vì được xây từ thế kỷ thứ 12.
Các Thánh Lễ tại Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ núi Carmêlô, được nổi tiếng với
tên thường gọi là “The Carmine”, đã phải đình hoãn sau khi những người vô gia cư
đã xâm nhập vào nhà thờ làm nơi sinh sống vào ngày 4/4 với con số hơn 150 người,
là những người đã bị trục xuất khỏi tòa nhà mà họ đã sinh sống một cách bất hợp
pháp sau nhiều năm.
Sau khi hay tin những người vô gia cư chiếm nhà thờ, thì những người vô gia cư
tại các vùng lân cận cũng đã kéo đến với tất cả con số lên tới 348 người, và họ
cương quyết chiếm cứ nhà thờ cho tới khi chính quyền phải cung cấp nhà ở cho họ.
Công an đã ra lệnh cho những người vô gia cư phải rời khỏi nhà thờ hạn chót vào
ngày thứ Bảy 26/4, trong khi một số người đã la lối xỉ nhục đến các tu sĩ Dòng
Carmêlô, là Dòng đã chăm nom nhà thờ từ thế kỷ thứ 13. Thế nhưng tất cả những
người vô gia cư đã thu xếp đồ cá nhân, khăn gói lên xe buýt đang chờ sẵn một
cách ôn hòa để đến nơi tạm trú thuộc ngoại ô thành phố Naples.
Thông Tấn Xã ANSA của Italia đã tường trình đến tình trạng của Vương Cung Thánh
Đường sau khi những người vô gia cư rời khỏi Thánh Đường. Bản tường trình cho
biết những đường và cột bằng cẩm thạch tại khuôn viên bàn Thánh bị hư hại, một
cây Thánh Gía bị gãy, tấm thảm bị dơ bẩn vì đã bị xử dụng như một tấm khăn che
bàn, rất nhiều chỗ bị vẽ bậy trên tường.
Mặc dầu những người vô gia cư rời khỏi vào ngày 26/4, nhưng vẫn không có Thánh
Lễ vào ngày 27/4. Thánh Lễ sẽ được các Cha Dòng Carmêlô cử hành trở lại ngày hôm
nay 30/4.
Đức Hồng Y Crescenzio Sepe, nguyên là Tổng Trưởng Bộ Truyền Giáo, nay cai quản
tại Naples đã gặp gỡ thường xuyên với các viên chức chính quyền thành phố trong
thời gian những người vô gia cư chiếm ngữ trong Vương Cung Thánh Đường. Đức Hồng
Y đã không đưa ra một lời bình luận nào cho tới ngày 21/4.
Đức Hồng Y Sepe nói: “Đây là một tình trạng không ai muốn. Chiếm ngữ một thánh
đường luôn luôn là một sự phạm thánh. Tôi hy vọng vào cuối tuần này, các công
việc mục vụ sẽ thực hiện trở lại tại The Carmine, là một trong những thánh đường
quan trọng nhất trong thành phố”.
Trong lúc chiếm ngữ, Dịch Vụ Bảo Vệ Dân Sự và Người Láng Giềng tại Italia gần
nhà thờ đã mang chăn mền, sữa và thực phẩm cho những người vô gia cư.
Về phần những người vô gia cư, họ đã biến khuôn viên bàn thánh dọc theo bên hông
nhà thờ làm khu vực sinh sống riêng tư cho nhiều gia đình, và họ nói họ cũng tổ
chức một đội ngữ để giữ cho Vương Cung Thánh Đường được sạch sẽ ngay cả khi họ
nấu ăn, ăn uống, ngủ nghĩ, rửa chén và giặt giũ ngay trong nhà thờ. Có nơi một
số thanh niên đã tụ họp chung quanh bàn thánh làm nơi đánh bài.
Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ núi Carmêlô tại Naples đã được xây dựng từ thế kỷ
thứ 12, mặt dầu đã được trùng tu vào cuối thế kỷ thứ 13 và được trùng tu một lần
nữa vào thập niên 1700. Tại đây có đặt tượng Đức Mẹ nổi tiếng có tên là “La
Bruna” hay còn gọi là “The Brown One”, là một bức tượng đã được các Cha Dòng
Carmêlô mang về từ thế kỷ thứ 12 sau khi trốn thoát khỏi những cuộc bạo
loại tại Núi Carmel ở Thánh Địa.
Ngọc Loan
Sáng thứ tư 30-4-2008 đã có hơn 30 ngàn tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi gặp gỡ chung với Đức Thánh Cha tại quảng trường thánh Phêrô. Vì mới công du mục vụ Hoa Kỳ về nên trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã chia sẻ với tín hữu các kinh nghiệm và cảm tưởng của ngài. Đề cập đến mục đích của chuyến viếng thăm Đức Thánh Cha nói:
Như đã biết, dịp viếng thăm là lễ mừng 200 năm giáo phận Baltimore được nâng lên
hàng tổng giáo phận và việc thành lập 4 giáo phận khác là New York, Boston,
Philadelphia và Louisville. Nhân biến cố đặc biệt này của Giáo Hội, trong tư
cách là Người Kế Vị Thánh Phêrô, tôi đã vui sướng viếng thăm nhân dân Hiệp Chủng
Quốc Mỹ yêu dấu, để củng cố các tín hữu trong lòng tin, để canh tân và gia tăng
tình huynh đệ với mọi Kitô hữu, và để loan báo cho tất cả mọi người sứ điệp của
”Chúa Kitô Niềm Hy Vọng của chúng ta” như khẩu hiểu của cuộc viếng thăm.
Tiếp đến Đức Thánh Cha đã lần lượt kể lại các sinh hoạt của ngài trong chuyến
tông du kéo dài từ ngày 15 đến 21 tháng 4 vừa qua. Trong cuộc gặp gỡ với Tổng
Thống Bush Đức Thánh Cha đã bầy tỏ lòng ngưỡng mộ đối với Hoa Kỳ là một đại
quốc, ngay từ ban đầu đã được xây dựng trên nền tảng việc quy tụ các nguyên tắc
tôn giáo, luân lý và chính trị, hiện vẫn là một thí dụ giá trị của tính chất đời
lành mạnh, trong đó chiều kích tôn giáo với các diễn tả khác biệt của nó, không
chỉ được nhân nhượng, mà còn được đánh giá cao như ”linh hồn” của quốc gia và sự
bảo đảm nền tảng cho các quyền lợi và bổn phận của con người.
Trong bối cảnh đó Giáo Hội có thể tự do dấn thân thi hành sứ mệnh rao truyền Tin
Mừng và thăng tiến nhân bản, đồng thời khích lệ một đất nước được mọi người coi
như một trong các tác nhân chính trên trường quốc tế, hướng tới tình liên đới
toàn cầu ngày càng cấp thiết và hướng tới việc kiên nhẫn đối thoại trong các
tương quan quốc tế.
Tại đền thánh Đức Mẹ Vô Nhiễm Washington, Đức Thánh Cha đã gặp gỡ các Giám Mục
Hoa Kỳ trong buổi hát Kinh Chiều để cùng nhau cảm tạ Chúa về con đường lòng tin
của Dân Chúa, về lòng nhiệt thành của các chủ chăn và sự quảng đại của các tín
hữu, được diễn tả ra qua biết bao nhiêu sáng kiến bác ái và nhân đạo bên trong
cũng như bên ngoài nước. Ngoài ra đây cũng là dịp Đức Thánh Cha khích lệ các
Giám Mục Hoa Kỳ trong nhiệm vụ không dễ dàng là gieo vãi hạt giống Tin Mừng
trong một xã hội có nhiều mâu thuẫn, đe dọa sự trung thành của tín hữu cũng như
hàng giáo sĩ. Đức Thánh Cha đã khuyến khích các Giám Mục lên tiếng liên quan tới
các vấn đề luân lý xã hội, và đào tạo tín hữu giáo dân để họ là men trong cộng
đoàn dân sự, bắt đầu từ tế bào nền tảng là gia đình. Đức Thánh Cha cũng khích lệ
các Giám Mục tái đề nghị bí tích Hôn Phối như ơn thánh và sự dấn thân không thể
đoạn tiêu giữa một người nam và một người nữ, và như là môi trường tự nhiên để
tiếp nhận và giáo dục con cái. Giáo Hội, gia đình và học đường, đặc biệt là các
trường Kitô, phải cộng tác với nhau để cống hiến cho người trẻ một nền giáo dục
luân lý vững chắc. Nhưng các giới truyền thông cũng có phần trách nhiện lớn
trong nhiệm vụ này. Khi nghĩ tới các vụ lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên do
một số các thừa tác viên có chức thánh gây ra, Đức Thánh Cha đã bầy tỏ sự gần
gũi với các Giám Mục và khích lệ các vị trong nỗ lực băng bó các vết thương và
củng cố tương quan với các linh mục. Ngài cũng nêu bật tương quan nội tại giữa
Tin Mừng và luật lệ tự nhiên, quan niệm lành mạnh về sự tự do, chiều kích cộng
đoàn của kinh nghiệm Kitô, sự cần thiết loan báo Tin Mừng một cách mới mẻ đặc
biệt cho giới trẻ, ơn cứu rỗi như sự toàn vẹn của cuộc sống, và giáo dục cầu
nguyện, từ đó nảy sinh ra tiếng Chúa gọi.
Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã kể lại kinh nghiệm về thánh lễ cử hành tại
Vận động trường Công Viên Quốc Gia ở Washington, trong đó ngài cùng mọi người
xin Chúa Thánh Thần đổ tràn ơn xuống trên toàn Giáo Hội tại Hoa Kỳ để Giáo Hội
có thể đương dầu với các thách đố hiện tại và tương lai với lòng can đảm và niềm
hy vọng. Một trong các thách đố đó là việc giáo dục. Đây cũng là đề tài cuộc găp
gỡ các viện trưởng các đại học công giáo, các vị hữu trách về giáo dục trong các
giáo phận, dại diện các giáo sư và sinh viên toàn Hoa Kỳ. Đức Thánh Cha đã nêu
bật rằng giáo dục cũng là một phần sứ mệnh của Giáo Hội và Giáo Hội Hoa Kỳ đã
luôn luôn rất dấn thân góp phần phục vụ qúy báu này cho xã hội và nền văn hóa.
Cần phải tiếp tục nhiệm vụ này với nhiều phẩm chất hơn.
Ngoài ra Đức Thánh Cha cũng gặp gỡ đại diện các tôn giáo khác tại Trung Tâm Văn
Hóa Gioan Phaolo II, rồi viếng thăm hội đường do thái. Đó là dịp để cùng các tôn
giáo bầy tỏ quyết tâm dấn thân đối thoại và thăng tiến hòa bình. Tại Hoa Kỳ là
quê hương của tự do tôn giáo, Đức Thánh Cha đã muốn nhắc lại rằng mọi tôn giáo
đều phải cùng chung vai sát cánh bảo vệ tự do tôn giáo, tránh mọi hình thức kỳ
thị và thành kiến. Buổi cầu nguyện đại kết với đại diện các Giáo Hội và cộng
đoàn Kitô khác cũng là dịp cùng nhau xin Chúa gia tăng khả năng làm chứng tá
chung cho lòng tin nơi Chúa Giêsu Kitô và hiệp nhất với nhau hơn.
Đề cập tới mục đích thứ hai của chuyến viếng thăm Hoa Kỳ Đức Thánh Cha nói:
Mục đích chính khác chuyến công du của tôi là viếng thăm trụ sở Liên Hiệp Quốc:
đây là lần viếng thăm thứ tư của một Giáo Hoàng, sau chuyến viếng thăm của Đức
Phaolo VI hồi năm 1965, và hai lần viếng thăm của Đức Gioan Phaolo II vào năm
1979 và 1995. Trong dịp kỷ niệm 60 năm ban bố Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền, Chúa
Quan Phòng đã cho tôi cơ may xác nhận giá trị của Hiến Chương đó, trong sự đồng
ý rộng rãi và uy tín vượt trên ranh giới quốc gia, bằng cách nhắc lại nền tảng
đại đồng của nó, nghĩa là phẩm giá con người, được Thiên Chúa tạo dựng nên giống
hình ảnh Ngài để cộng tác vào chương trình sự sống và hoà bình vĩ đại của Ngài
trên thế giới. Cũng như hòa bình, việc tôn trọng các quyền con người đâm rễ sâu
trong ”công lý”, có nghĩa là trong trật tự luân lý, điều được tóm tắt trong câu
châm ngôn ”Đừng làm cho người khác những gì bạn không muốn người ta làm cho
bạn”, có giá trị cho mọi thời dại và mọi dân tộc; hay nói như Chúa Giêsu: ”Tất
cả những gì các con muốn người khác làm cho mình, thì cũng hãy làm cho họ” (Mt
7,12). Đức Thánh Cha đã tái khẳng định phần đóng góp của Tòa Thánh và dấn thân
của Giáo Hội Công Giáo đối với Liên Hiệp Quốc trong việc củng cố các tương quan
quốc tế, quan trọng đối với các nguyên tắc trách nhiệm và liên đới.
Sau cùng Đức Thánh Cha cũng nhắc tới buổi gặp gỡ các linh mục tu sĩ nam nữ tại
nhà thờ chính tòa St Patrick, nhân dịp kỷ niệm 3 năm giữ chức vụ chủ chăn Giáo
Hội hoàn vũ. Ngài cảm nghiệm được sự yểm trợ của mọi người đối vớ sứ vụ Phêrô
của ngài. Đức Thánh Cha cũng không quên cuộc gặp gỡ với các chủng sinh và giới
trẻ. Ngài đã đề nghị với họ một số gương mẫu chứng nhân của Tin Mừng tại Hoa Kỳ
phục vụ Thiên Chúa, xã hội và tha nhân. Tin Mừng sự thật khiến cho tín hữu được
tự do trong tình yêu thương, trong việc phục vụ và trong cuộc sống xả thân cho
người khác. Nơi các thánh người trẻ tìm thấy ánh sáng đánh tan bóng tối: ánh
sáng đó là Chúa Kitô, hy vọng của mọi người.
Tại Ground Zero Đức Thánh Cha đã cầu nguyện cho các nạn nhân của vụ khủng bố 11 tháng 9 năm 2001 và xin ơn hòa bình cho thế giới. Sau cùng là thánh lễ tại vận động trường Yankee, cử hành 200 năm 5 giáo phận cổ kính nhất của Giáo Hội Hoa Kỳ. Đức Thánh Cha mời gọi mọi người hiệp ý với ngài cảm tạ Chúa vì chuyến tông du vừa qua. Ngài cũng không quên cám ơn Tổng Thống, Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ các giới chức đạo đời và tất cả những ai đã trợ giúp để chuyến viếng thăm diễn ra tốt đẹp. Ngài xin Chúa cho chuyến tông du đem lại nhiều hoa trái cho Giáo Hội tại Hoa Ky và khắp nơi trên thế giới, nhờ lời bầu cử của Đức Trinh Nữ Maria.
Sau khi chào các nhóm hành hương bằng nhiều thứ tiếng khác nhau Đức Thánh Cha đã
cất kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.
HUẾ - Chúa Nhật VI Phục sinh (27/4/2008), sinh viên công giáo học tập tại đây đã có cuộc gặp gỡ tại Dòng Chúa Cứu Thế. Không phải chờ đợi lâu, hội trường của cộng đoàn Dòng đã nóng lên bởi tiếng vỗ tay chào mừng, những lời ca tiếng hát của hơn 800 trăm sinh viên. Đến với buổi gặp gỡ này các bạn có cơ hội nói chuyện về đề tài: "Con là một kì quan", bàn về vấn đề "sống thử", với sự giúp đỡ của nhóm Cha Quang Huy. Mục đích của lần nói chuyện này nhằm giúp cho mỗi bạn sinh viên có được những niềm vui khi hè về, có những ngày hè đảm bảo cho tương lai và đảm bảo cho đức tin, luôn lý để mỗi người tự tin bước vào đời, giữ đựơc sự bằng yên trong tâm hồn và sống đúng tinh thần phúc âm: "ai yêu mến thầy thì giữ lời thầy."
Sống trong thời kì hiện đại hoá thì tình yêu - sự thiêng liêng cao cả - cũng hiện đại hoá theo. Hiện đại bởi những mối tình "sét đánh", những "cuộc tình thoảng qua" và cũng vội vã trao cho nhau "trái cấm."
"Sống thử" từ lâu đã trở thành vấn đề "nóng" của sinh viên. Nó làm băng hoại
những giá trị đạo đức, giá trị người mà Thượng đế là Thiên Chúa toàn năng đã
dành tặng cho mỗi con người trong cuộc đời. Thế nhưng các bạn trẻ lại tỏ ra quá
quen thuộc với cái cảnh "góp gạo nấu cơm chung" và nhiều người lại tỏ ra hài
lòng với cách sống phi đạo đức đó. Còn các bạn sinh viên Công giáo, chúng ta
phải làm gì để có thể tránh được điều đó?
Để trả lời cho câu hỏi này, Bác sĩ, Thạc sĩ, chuyên gia tâm lý Nguyễn Lan Hải đã
có cuộc trò chuyện, diễn thuyết về KĨ NĂNG SỐNG trong thời "yêu vội, sống gấp."
"Sống thử" một khái niệm quá quen thuộc đối với sinh viên, hiểu nôm na là hai
người yêu nhau, dọn về ở cùng nhau mà không cần sự cho phép của gia đình, chính
quyền. Rồi hậu quả của nó sẽ đi đến đâu? Câu trả lời dành cho những ai đã chứng
kiến, đã trải qua.
Có nhiều bạn sinh viên đã thẳng thắn đưa ra quan điểm của mình: "Tôi nghĩ rằng
tôi đã sẵn sàng quan hệ với người tôi yêu". Nếu bạn nghĩ rằng mình đã trưởng
thành, bạn tự chịu trách nhiệm, rằng bạn đã sẵn sàng làm "chuyện ấy" với người
yêu. Còn không bạn hãy tự xây dựng cho mình một kĩ năng sống.
Để có được một tình yêu trọn vẹn, một tình yêu trong sáng theo đúng nghĩa của nó
đó là cả một vấn đề mà không phải ai cũng có thể làm được. Chúng ta hãy cùng
nhau lắng nghe, cùng nhau tìm hiểu và học tập 9 điều trong Kĩ năng sống của bác
sĩ, chuyên gia Lan Hải:
1. Đặt mục tiêu.
Khi bắt đầu cho một tình yêu, hãy nghĩ kĩ xem bạn muốn mọi chuyện đi tới đâu và
đặt ra những mục tiêu cho riêng mình. Bạn nghĩ gì về tương lai? Đừng đánh mất
tương lai của chính mình.
Hãy cho người yêu biết rõ nguyên tắc của bạn, người ấy cần tôn trọng những mục
tiêu và giới hạn mà bạn đặt ra.
2. Bảo vệ chính mình và người yêu
Trước khi "chuyện ấy" xảy ra, hãy trò chuyện với người bạn yêu về việc có thể có
thai và những hệ lụy của nó.
Nếu bạn hoặc người yêu đã quan hệ tình dục trước đó, liệu có gì về bệnh lây
nhiễm qua đường tình dục ? Làm sao để bảo vệ cả hai một cách hiệu quả?
3. Hãy thực tế.
Tình dục có thể là một phần tuyệt vời của một tình yêu được chăm sóc, đặc biệt
khi hai người có thể nói chuyện một cách cởi mở, chân thành về những gì mình
muốn. Nhưng hãy thực tế, đó là thứ bạn học hỏi lẫn nhau qua thời gian, không
phải là một trò chơi, một cam kết được đảm bảo, cũng không phải thần dược để cải
thiện một mối quan hệ tồi.
4. Hãy nói không.
Bạn có quyền nói "không" với quan hệ tình dục và hoàn toàn thoải mái về quyết
định của mình.
Nói không sẽ đem lại cho bạn nhiều lợi ích: không lo lắng về mang thai ngoài ý
muốn và các bệnh lây qua đường tình dục, dành thời gian cùng suy nghĩ, trò
chuyện về mối quan hệ của hai người và các đề tài khác.
Không cần giải thích lý do bạn từ chối. Nhưng nếu người yêu của bạn gây áp lực
để được "nếm trái cấm" thì bạn hãy thẳng thắn bày tỏ quan điểm của mình.
5. Có sẵn vài câu trả lời.
Đứng trước chuyện ấy" khi mà ý chí đã vô hiệu, bạn gái cần chuẩn bị sẵn cho mình
vài câu trả lời:
Nếu chàng thủ thỉ: "Em phải chiều anh, nếu em yêu và tin tưởng anh".
Bạn đừng ngần ngại: "Nếu yêu em thực sự, anh sẽ không thúc ép em".
Chàng tiếp: " mọi người đều làm vậy mà!"
Bạn hãy nói: "Nhưng em không phải là mọi người."
Chàng vẫn không ngừng tấn công: " Anh cần em, anh muốn em, anh phải có em."
Bạn hãy quả quyết: " Không đâu! Nếu em đợi được, anh cũng đợi được."
Còn nếu chàng nổi cáu: "Nếu em không đồng ý, anh sẽ tìm cô gái khác."
Bạn chớ có mềm lòng: "Được thôi anh cứ thử đi."
Có thể bạn sẽ có nhiều câu trả lời hay hơn nữa, tế nhị hơn nữa để thuyết phục
chàng và gìn giữ cho tình yêu của mình.
6. Đặt ra những giới hạn
Bạn muốn tiến tới đâu trng mối quan hệ của bạn vào thời gian này. Bạn nghĩ sao
về một nụ hôn nhẹ nhàng?Một nụ hôn sâu kiểu Pháp? Hay những cái âu yếm vuốt ve
nhau dưới nhiều hình thức, góc độ … Để người yêu làm vậy với bạn?
Đừng làm những gì mà bạn không muốn dù chỉ vì tò mò. Hãy chắc chắn rằng người
yêu của bạn biết rõ những gì bạn cảm thấy và tôn trọng những giới hạn bạn đặt
ra.
7. Hãy tỉnh táo.
Bia rượu và các chất kích thích sẽ làm bạn khó giữ mình. Hãy cố gắng không rơi
vào những tình huống thử thách giới hạn bạn đã đặt ra. Chẳng hạn, đừng bao giờ
uống bia, rượu khi ở một mình với người yêu…
8. Xin lời khuyên
Hãy hỏi những người mà bạn tin cậy thông tin cần thiết về giá trị của tình yêu,
giới tính quan hệ tình dục, sức khoẻ sinh sản, các bệnh lây lan qua đường tình
dục, sự thụ thai hay cách phòng tránh xâm hại tình dục…
Có thể gọi đến các chương trình tư vấn để được các chuyên gia hỗ trợ.
9. Khoái lạc khác hạnh phúc
Nhiều bạn đã lầm tưởng hạnh phúc là sự thoả mãn về nhục dục, gắn tình yêu với
tình dục bất chính. Hãy một lần nhìn lại bản thân để nhận ra "Đâu là hạnh phúc
đích thực!"
Hạnh phúc luôn là niềm vui, là cảm nhận về những điều thiện hảo. Hạnh phúc không
thể tìm thấy trong tội lỗi.
Khoái lạc cũng là hạnh phúc, một khi diễn tả tình yêu vợ chồng và hướng tới tác
phẩm tuyệt vời là con cái. Đôi khi cám dỗ đẹp như niềm hạnh phúc (chẳng ai chọn
cái xấu vì nó xấu).
Chúng ta không phải nói thêm, không cần phải bàn luận thêm về "Sống thử" mà cần
phải thấy được rằng đó là điều đáng lên án trong xã hội và đăc biệt là đối với
mỗi người sinh viên công giáo chúng ta. Hỡi các bạn trẻ, chúng ta đừng cố nguỵ
biện cho những quan điểm, những hành động, những tư tưởng sai lệch về tình yêu,
về "Sống thử".Hãy tập cho mình một kĩ năng sống, đó chính là chìa khoá để các
bạn mở và giữ trọn tình yêu của mình.
Nguyễn Đông
Chiều ngày 24.4.2008, Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Giám mục Giáo phận Đàlạt, đã dâng Thánh lễ Tạ ơn tại nhà thờ Chánh Tòa Đàlạt nhân dịp mừng 25 năm cung hiến nhà thờ Chánh Tòa. Cùng đồng tế với ngài có 20 Linh mục trong Giáo hạt Đàlạt, nhiều tu sĩ nam nữ và giáo dân cùng tham dự Thánh lễ này.
Tuy là dịp kỷ niệm trọng đại, nhưng mọi việc đều diễn ra thật đơn sơ. Trong hai tuần trước đó, vào các Thánh lễ Chúa nhật, giáo dân Chính Tòa được nghe tóm lược về sự hình thành và phát triển của Giáo xứ, đặc biệt các lần xây dựng Nhà thờ. Chắc chắn khi được gợi nhớ lại về các mục tử và những công việc các ngài đã làm để phục vụ Giáo hội, sẽ có rất nhiều lời cầu nguyện, nhiều lời tạ ơn dâng lên Thiên Chúa
Lời Tạ ơn cao đẹp và thánh thiện nhất là Thánh lễ chiều nay, như lời Đức cha Phêrô vào đầu Thánh lễ : “Ngày này cách đây 25 năm chắc chắn còn ghi đậm nét trong lòng nhiều người và như còn rất mới mẻ, vì chúng ta luôn được sống trong tình thương của Thiên Chúa. Cám ơn Chúa đã hiện diện nơi đây và gặp gỡ con cái của Ngài, quy tụ và cho chúng ta được gặp gỡ nhau. Trong vô vàn hồng ân Chúa đã ban mà chúng ta không thể nào cảm nghiệm hết được, hãy biết tạ ơn và xin Chúa tiếp tục đổ tràn ơn lành, để chúng ta luôn quý mến sự hiện diện của Ngài trong Phụng vụ, trong các ngôi nhà thờ và ở giữa chúng ta khi cùng họp nhau cầu nguyện”.
Cũng cần nhắc lại, nếu tính từ ngày Vị Thừa sai đầu tiên đặt chân lên cao nguyên Đàlạt và đặt nền móng xây dựng, đến nay Giáo xứ Chánh Tòa đã tròn 90 năm (1918 – 2008) ; ngôi nhà nguyện đầu tiên vẫn tồn tại và hiện là Phòng Truyền thống, ngôi nhà nguyện này với dòng chữ nổi tiếng được chạm khắc trên cửa chính : “HIC DOMUS EST DEI” (Đây là Nhà của Thiên Chúa).
Đến ngày 07.10.1931, ngôi nhà thờ thứ ba được khởi công xây dựng vì ngôi nhà thờ thứ hai (xây năm 1922) đã trở nên chật hẹp do số giáo dân tăng nhanh. Ròng rã 11 năm, ngày 25.01.1942, Thánh lễ Tạ ơn và khánh thành nhà thờ mới được cử hành trọng thể. Ngôi nhà thờ này được chọn làm Nhà thờ Chánh Tòa của Giáo phận năm 1960, được Đức Cha cố Batôlômêô Nguyễn Sơn Lâm cung hiến năm 1983 trong bầu khí Năm Thánh Cứu Độ (25/3/1983-22/4/1984) – mừng kỷ niệm 1.950 năm biến cố Chúa Giêsu chịu thương khó, chết và sống lại, theo cách tính truyền thống của dân Chúa vì Chúa sống ẩn dật tại Nadarét 30 năm, rao giảng 3 năm và chết năm 33 tuổi – vừa khai mạc được một tháng.
Để có ngày hôm nay, biết bao Vị Mục tử đã hy sinh cuộc đời mình để khai phá và phục vụ, biết bao con người đã hy sinh thầm lặng để vun trồng và gầy dựng, và trên hết, biết bao nhiêu ơn lành Chúa đã thương ban cho gia đình Giáo phận thân yêu. Dịp lễ này cũng là cơ hội, không những chỉ cho Giáo xứ Chánh Tòa mà hết mọi người con trong Giáo phận Đàlạt, nhìn lại chặng đường đã đi để tạ ơn Thiên Chúa, nhớ ơn các tiền nhân và biết góp phần mình để xây dựng và mở mang Nước Chúa.
Đó cũng là điều Đức cha Phêrô chia sẻ trong bài giảng lễ. Dưới ánh sáng của Lời Chúa, Đức Cha nói :
“Anh chị em thân mến,
Bài Phúc âm (Ga 10,22-30) tường thuật lại việc Chúa Giêsu lên đền thờ Giêrusalem vào dịp kỷ niệm cung hiến đền thờ. Đền thờ Giêrusalem bị vua Antiôkhô Êpiphanê tàn phá năm 164 trước Công Nguyên. Sau đó, đền thờ được trùng tu và bàn thờ được cung hiến. Hàng năm lễ này cử hành rất trọng thể, và hôm nay là một trong nhiều lần Chúa Giêsu có mặt, những dịp này là cơ hội thuận lợi để Ngài nói về Thiên Chúa Cha và rao giảng Tin mừng. Thấy Chúa Giêsu, người Do thái xin Ngài cho họ rõ Ngài là ai, Ngài có phải là Đấng Kitô không ? Chúa Giêsu đã nói, đã trả lời và kết luận : “Cha Ta và Ta là một”. Có thể nói đây là tột điểm mạc khải của Chúa Giêsu khi Ngài đến thế gian.
Mỗi lần quy tụ trong nhà thờ để cử hành Phụng vụ là lúc chúng ta được gặp gỡ Chúa, được rước Chúa, được gặp gỡ nhau, được nghe Chúa nói về những chân lý cứu độ, về con đường phải đi, gợi lên những tâm tình phải có ; là lúc Chúa sẽ chỉ dạy, sẽ nói nhiều điều cao cả và quan trọng mà chúng ta không ngờ, dù không biết hay không cảm nghiệm được, thì những điều đó, những ơn đó luôn tác động trên chúng ta. Vì vậy hãy yêu mến Phụng vụ, yêu mến những lúc đến nhà thờ.
Cách đây ba ngày, cha Phó Phêrô của Chánh tòa cùng vài anh em Linh mục đi thăm các Cha đang làm việc tại Đạ tông, nơi này đang tiếp tục xây dựng nhà thờ và còn rất nhiều vất vả. Khi dâng Thánh lễ, Cha Phó Phêrô đã chia sẻ cảm xúc của mình khi thấy trong nhà thờ có khoảng 400 người dân tộc đến dự lễ lúc 4 giờ sáng, dù phải dậy sớm, phải đi bộ 5-7 cây số, phải bồng bế con cái để đến tham dự một Thánh lễ ngày thường trong một nhà thờ chỉ là túp lều đơn sơ…
Thưa anh chị em,
Trước khung cảnh đó chúng ta giải thích thế nào ? Tôi nghĩ sẽ không có lời giải thích mà chỉ biết chiêm ngưỡng và tạ ơn Chúa.
Thật sự chúng ta cố gắng hết sức để có những ngôi nhà thờ xứng đáng, nhưng trong bài đọc I trích sách Tông đồ Công vụ (7,44-50), nhắc cho chúng ta những điều đó không quan trọng, vì “Trời là ngai Ta, đất là bệ chân Ta”.
Có những ngôi nhà thờ hoành tráng, vĩ đại để biểu lộ lòng chúng ta đối với Chúa thì tốt, nhưng đừng hãnh diện và nghĩ rằng đó là nơi xứng đáng với Chúa, không bao giờ xứng đáng hết. Trong bài đọc II trích thư Thánh Phêrô (1Pr 2,4-9) nói rõ : chính chúng ta là đền thờ của Chúa, chúng ta là những viên đá sống động. Tôi nghĩ rằng 400 anh chị em người dân tộc sáng sớm kéo nhau đến túp lều ở Đạ tông để tham dự Thánh lễ là những viên đá sống động, đấy mới là nơi xứng đáng Chúa ngự và là nơi đón nhận được ơn Chúa.
Hôm nay cũng là ngày được chọn để bắt đầu chương trình chuẩn bị mừng Năm Kim khánh Giáo phận (2010). Hãy khởi sự từ việc chuẩn bị những viên đá sống động, và từ những viên đá đó xây dựng ngôi nhà trên nền tảng Đức Kitô, ngôi nhà mà chúng ta gọi là Giáo phận, Giáo hạt, Giáo xứ, cộng đoàn và gia đình của chúng ta.
50 thành lập Giáo phận, 50 năm thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam là một biến cố lớn, nhưng không phải chỉ kỷ niệm, mà phải là một biến cố tác động trên Hội Thánh, tác động trên Giáo phận, trên từng Giáo xứ, từng gia đình và từng người để đổi mới, để chúng ta thật sự trở nên những viên đá sống động, được Chúa kết hợp lại làm thành nhà của Chúa. Trong ngôi nhà đó Chúa hiện diện, chúng ta quy tụ và những người anh em chưa biết Chúa cũng có cơ hội đến để đón nhận ơn cứu độ, đón nhận tình thương của Ngài. Hãy tin tưởng, cầu nguyện và mỗi người hãy bắt đầu xây dựng từ chính bản thân mình.
Những gì xuất phát từ Thiên Chúa và Hội Thánh đều tốt đẹp. Xin cho chúng con luôn biết hướng về Chúa và Mẹ Giáo hội, để đón nhận được tình yêu thương, sự nâng đỡ và ủi an, để chúng con luôn vững bước trên con đường theo Chúa, luôn hiệp nhất với nhau để Danh Chúa được cả sáng.
Kính gởi các thành viên trong gia đình giáo phận
Anh chị em rất thân mến,
1. Hôm đầu tháng 4. 2008 vừa qua, giáo phận có tổ chức Lễ Tạ Ơn và Lễ Hội kỷ niệm 10 năm tôi gia nhập gia đình giáo phận và chọn thành phố nầy làm quê hương. Dịp lễ nầy làm nẩy sinh trong tôi những suy nghĩ và tâm tình khó quên. Qua Lời Chủ Chăn tháng nầy, tôi muốn chia sẻ đôi điều tâm sự, hy vọng mở đường và khơi dậy cho sự đồng cảm trong gia đình thêm sâu rộng, cho mối giây hiệp thông huynh đệ thêm vững bền.
2. Trong đêm Lễ Hội 2.4.2008, một nhóm bạn trẻ, với lời ca tiếng hát, đã gọi nhớ lại bài thơ "Huyền nhiệm Ơn gọi" đã xuất hiện cách đây 10 năm:
" Khi cần một người cha cho dân mình, Chúa đã gọi một ông lão...
" Khi cần một lãnh tụ cho dân, Chúa đã gọi một bạn trẻ con út trong gia đình...
" Khi cần người làm nền móng xây dựng Giáo Hội, Chúa đã gọi một kẻ chối Chúa,
" Khi cần người truyền đạo, Chúa đã gọi một kẻ bắt đạo...
" Khi cần ai đó quy tụ dân, Chúa gọi ngươi...
Tiếng ca chấm dứt, ông bầu đêm Lễ Hội chất vấn tôi một câu:
- Mười năm về trước, Đức Hồng Y rất tâm đắc với bài thơ nầy. Nay, sau 10 năm, Đức Hồng Y cảm thấy thế nào?
- Tôi trả lời ngay rằng nay tôi nhận thấy từ "ngươi" trong câu "Chúa gọi ngươi" không còn chính xác. Phải đổi từ "ngươi" thành "một người mù". (Người mù, có thể mù từ bẩm sinh, hoặc mù do tai nạn, hoặc mù do đi trong đêm tối...)
3. Thời gian 10 năm trôi qua với nhiều biến chuyển trong đời sống gia đình giáo phận, mở mắt cho tôi thấy Thiên Chúa là Người Cha yêu thương từ bi bao dung vô biên, đang dẫn dắt và chăm sóc gia đình giáo phận chúng ta.
4. Nhiều năm về trước, trong một buổi sinh hoạt với anh chị em tu sĩ, tôi có đề cập đến những mẫu số chung (niềm tin, đời thánh hiến...) như nền tảng xây dựng đời sống hiệp thông huynh đệ trong các cộng đoàn gồm những thành phần đến từ ba miền đất nước. Sau buổi sinh hoạt, một bề trên đến nói với tôi rằng Đức Hồng Y quên một mẫu số chung quan trọng, đó là Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, người miền nào cũng có cái "kỳ" của mình. Góp ý nầy mở mắt cho tôi thấy mình cũng có cái "kỳ" của mình, đồng thời mở đường cho tôi đi tìm mặt bổ túc cho nhau của ba cái "kỳ" làm cho đời sống văn hoá của ba miền thêm phong phú.
5. Cách đây vài năm, 250 anh em linh mục trải qua một cuộc khám xét sức khoẻ. Kết quả xét nghiệm y khoa mở mắt cho tôi thấy cuộc sống liên tục bon chen và náo động, luôn ồn ào và ô nhiễm của một thành phố vừa đang phát triển theo hướng kinh tế thị trường mang tính cạnh tranh gay gắt, vừa có mật độ dân số dày đặc như một chuồng gà công nghiệp, dễ làm phát sinh bệnh dịch gà công nghiệp mổ nhau liên tục. Chịu đựng cảnh sống đó lâu ngày dễ sinh bệnh tim mạch, huyết áp cao... Tình cảnh đó thúc đẩy tôi đi tìm phương thuốc phòng trị bệnh dịch cho mọi người trong gia đình giáo phận, giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân.
6. Trong Năm Thánh Thể 2006, anh chị em giáo dân mở mắt tôi và chỉ cho thấy phương thuốc phòng trị dịch gà công nghiệp. Những giờ cầu nguyện trầm lắng thường ngày bên Chúa Giêsu Thánh Thể đem lại ơn bình an cho gia đình, mang năng lượng mới cho sự ổn định đời sống cộng đoàn. Các bạn trẻ chỉ cho tôi phương thuốc khác, là giúp nhau học hỏi Lời Chúa, tìm và tuân hành ý Chúa, sống bác ái huynh đệ tương thân tương trợ. Đó là những phương thuốc mà Thánh Phaolô đã sử dụng và đã truyền lại nhằm giúp cho mọi gia đình, mọi cộng đoàn vượt qua những bất đồng, bất hoà, bất ổn, những kỳ thị và cách biệt, đồng thời củng cố sự đồng cảm, tình hiệp thông liên đới và chia sẻ.
7. Mùa Xuân Mậu Tý vừa qua, cuộc thăm viếng một khu xóm dân cư mở mắt cho tôi nhận thấy đời sống đức tin và bác ái huynh đệ trong cộng đoàn không những mang tính phòng trị bệnh dịch xã hội, song còn là thần dược có sức đổi mới một khu xóm đầy các loại tệ nạn xã hội thành một cộng đoàn huynh đệ sống an lành trong yêu thương đùm bọc lẫn nhau.
8. Những khám phá đó mở mắt cho tôi thấy Chúa đang đồng hành với tôi, với chúng ta, như đã đồng hành với hai môn đệ làng Êmau đang mang tâm trạng đau buồn và thất vọng trong đêm tối của lòng tin yêu và hy vọng. Chúa đồng hành, đồng thời gieo nhiều loại hạt giống ơn thánh, hạt giống ơn đức tin cậy mến, ơn gọi linh mục, tu sĩ... Thăm và cử hành lễ nơi các cộng đoàn giáo xứ, dòng tu, tôi thấy thánh đường nào, tu viện nào cũng đầy tràn những hạt giống Chúa gieo. Đó là tín hiệu cho chúng ta nhận ra Chúa yêu thương đồng hành như người chủ ruộng chuyên cần chăm sóc ruộng đồng của mình. Đồng thời cũng cho tôi nhận ra rằng: nhờ đời sống chuyên cần cầu nguyện làm nguồn nước tưới, nhờ đời sống bác ái huynh đệ, liên đới và chia sẻ, làm nguồn phân bón ruộng đồng, gia đình và cộng đoàn anh chị em trở nên một thửa đất màu mỡ, một cánh đồng phì nhiêu.
9. Mười năm đồng hành với anh chị em đem lại cho tôi trải nghiệm nầy: bóng tối của đêm đức tin, của cuộc thương khó, tan dần, và loé lên ánh bình minh của một ngày mới, ngày Chúa Phục Sinh. Trải nghiệm đó làm cho lòng trí tôi chan chứa niềm hân hoan. Hân hoan vì được sáng mắt, được nhìn ngắm đồng lúa xanh tươi bát ngát, được nhìn thấy khuôn mặt nhiều người rạng rỡ niềm vui và hy vọng khi được làm con Chúa, khi được làm thợ trên cánh đồng truyền giáo của quê hương, được tham gia sứ vụ yêu thương và phục vụ cho Tin Mừng, cho sự sống của mọi người anh em...Đồng thời lòng tôi cũng tràn đầy tâm tình cảm mến tri ân đối với Thiên Chúa là người gieo giống và chăm sóc ruộng đồng, tâm tình biết ơn đối với tất cả anh chị em trong gia đình giáo phận đã dày công vun tưới cho ruộng đồng thêm màu mỡ, cho hạt giống ơn thánh phát triển xanh tươi, trong đó có hạt giống ơn gọi mục tử của tôi.
10. Và cuối cùng, tôi nhận ra vì quý trọng loài người, Thiên Chúa đã biến hồng ân Người ban thành trách nhiệm đặt trên đôi vai của người tin cậy vào Chúa. Trách nhiệm chăm sóc, đào tạo những mục tử như lòng Chúa mong ước, huấn luyện những tay thợ lành nghề cho vườn nho của Chúa, cho cánh đồng truyền giáo trên quê hương đất nước. Trách nhiệm thường xuyên vun tưới các hạt giống Chúa gieo, cảnh giác theo dõi tình hình sâu rầy bệnh dịch đang đe doạ tàn phá mùa màng để kịp thời có biện pháp phòng trị. Trách nhiệm cùng nhau chuyên cần cầu khẩn xin Chúa tiếp tục đồng hành và trợ giúp cho mọi gia đình và mọi cộng đoàn tín hữu vượt qua mọi gian lao và thử thách trong hành trình tiến đến vùng ánh sáng của ngày mới, của sự sống mới, sự sống dồi dào trong yêu thương và an bình.
11. Tôi ước mong mọi thành phần trong gia đình giáo phận luôn ý thức và nỗ lực cùng nhau chia sẻ trách nhiệm chung, hỗ trợ nhau hoàn thành sứ vụ Chúa giao, vì sự sống dồi dào của mọi người anh em trong cộng đồng dân tộc.
Lễ kính thánh Gioan Lasan, một nhà giáo dục Kitô giáo, 7. 4. 2008
Gioan B. Phạm Minh Mẫn
Hồng Y Tổng Giám mục
Sự hướng về bao quát trong thiên nhiên, dường như mọi thọ tạo đều hướng về trời cao; điều này được thấy rõ nét nhất nơi cây xanh thảo mộc. Trong thiên nhiên, ở cõi vật chất, hình ảnh của ngọn núi là bộc lộ sự hướng về trời cao, biểu trưng bằng sự vươn tới. Trong các động vật, sự hướng về biểu lộ trong chu kỳ tiến hóa, từ bậc thấp lên bậc cao. Nơi con người, sự hướng về biểu trưng bằng hình ảnh con người đứng cao đưa hai tay vươn lên cõi trời thăm thẳm.
Sự hướng về luôn là biểu cho mọi sự sống đang bước lên trong ngày đăng quang của
hòan vũ. Tạo dựng hướng về ngày đăng quang, không còn là quay về điểm khởi đầu
để bắt đầu chu kỳ mới. Vạn vật hướng về theo lối đường thẳng, như biểu tựơng của
sự sống trong tiến hóa liên tục, trong hướng chiều vươn lên tới trời cao. Hình
ảnh vươn cao mãi rõ nét nhất là hình ảnh của một cây sự sống, Léonard de Vinci
diễn tả bằng một phân đọan trong bức họa Nữ Thánh Anne, Đức bà Đồng Trinh và
Chúa Hài Đồng. Cây sự sống vươn thẳng, hằng năm thay mùa trút lá, cuộc hóan cải
không ngừng được diễn tả bằng sự trút lá để mọc ra những chiếc lá mới, và cũng
theo chu kỳ thay lá đó, ngọn mỗi ngày vươn cao. Tự thân, cây xanh đó biểu hiện
ba cấp của vũ trụ: Đất - Người - Trời, đó cũng là hình ảnh biểu trưng của Tam
Tài gồm ba yếu tố kết thành: Trời - Đất - Người, làm nên một thể thống nhất.
Trời biểu lộ tính chất Dương, Đất biểu lộ tính chất Âm, Người so với Trời biểu
lộ tính chất Âm, Người so với Đất mang tính chất Dương.
Trời - Đất - Người biểu hiện điển hình cho các bộ ba khác. Trong Đạo Mẫu bộ ba
được biểu hiện Trời - Đất - Nước, trong gia đình biểu hiện bộ ba Cha - Mẹ - Con,
trong lịch sử biểu hiện bộ ba Không gian - Thời gian – Con người. Trên Trống
Đồng Đông Sơn, bộ ba biểu hiện Chim – hươu - người. Bộ ba biến thiên trong kiến
trúc có thấy như Tam Quan, trong cảnh quan tổng thể: thiên nhiên - kiến trúc -
người. Con số ba biểu hiện tư duy đặc thù số lẻ của người nông nghiệp Phương
Nam.
Cây xanh tập trung nơi nó biểu tượng ba cấp độ vũ trụ, rễ bám sâu vào trong đất,
khỏang giữa không gian giữa trời và đất là những cành lá vươn dài tỏa rộng, như
thế đứng của con người dang hai tay ôm lấy hòan vũ, ngọn trên hết những cành lá
là đầu đội trời. Tổng quan nhìn theo cấp độ của con người có thể diễn tả: Con
người đầu đội trời, chân đạp đất, thân đứng thẳng như cây trục của thế giới. Con
người là trung tâm của hòan vũ là đỉnh cao của tạo dựng.
Con người tội lỗi cả vũ hòan quằn quại rên siết, bởi vì chân con người không
vững để đủ làm trụ đứng cho loài thọ sinh. Khi con người bất hòa với trời, có
nghĩa là con người để đầu ngọn cậy chúi đầu xuống đất, hình ảnh này biểu trưng
cho sự quằn quại, chứ không còn biểu trưng cho sự hướng về tuyệt đối. Con người
là trục thẳng đứng của thế giới khi trục đứng ấy ngả nghiêng thì thế giới chịu
sự nghiêng ngả. Sự thực con người đã ngả nghiêng bởi sự lỗi của mình, cho nên
cần có một cây đứng vững để con người bám vào làm trụ.
Cần có một cây trường sinh. Cây đó, đã được trồng trong nhân loại là cây trường
sinh treo Đấng Cứu Thế. Henri de Lubac đã mượn dòng văn trữ tình của Chrisostome
- Giả Danh để diễn tả trong bài giảng ngày Phục Sinh, đã goị cây Trường Sinh đó
là: “Vật đỡ vững chắc của Tạo Hóa, mối liên kết của vạn vật, chỗ dựa cho cả trái
đất, nơi con người cư trú, sự đan thoa vũ trụ mang tất cả bản tính con người.
Được an định bằng những chiếc đinh vô hình của Thần Linh để biểu lộ một ý chí
tối thượng; đỉnh đầu đội trời, gốc cây cắm rễ, cánh tay mở rộng đến vô biên ôm
lấy hòan vũ”.
Như vậy, là đã có một cây thực sự là trụ đỡ nâng tòan vũ hướng về mà Thiên Chúa
đã trồng vào trong nhân thế. Ý chí của con người từ nay không còn biểu lộ sự gục
ngã hòan tòan nếu họ biết ngước mắt nhìn lên (Hình ảnh con rắn đồng). Bóng tối
là sự đóng chặt, nhốt kỹ, bị xé tan khi con người mở ra để ánh sáng theo tự
nhiên của bản chất là tràn vào. Sự vươn lên không mỏi mệt của con người được bảo
đảm không hề tắt trong ý chí hướng thượng. Tội lỗi, sự dữ, cái xấu …không giam
giữ nổi cũng như không thể đánh quỵ một con người, nếu con người còn ngước mắt
nhìn lên.
Sự hướng về được biểu lộ trong ánh mắt nhìn lên, từ nay đã hòan tòan mở ra cho
con người một lối thoát, không có gì có thể kìm giữ được nổi một con người khi
họ còn biết nhìn lên. Nhìn lên là tư thế của một con người xứng đáng là một con
người. Con người nhìn lên để vạn vật được chỗi dậy, nếu con người tin vào khả
năng phi thường đó, con người sẽ tiếp tục trở thành trục của thế giới, là đỉnh
cao của thọ tạo.
Hướng về, nhìn lên là mở ra một con đường hy vọng, sự hy vọng của một bậc thang
bước lên từ hữu hình sang vô hình, mà nhiều nền văn hóa biểu trưng. Cây được
dựng lên, họ nhảy múa, ca hát, thực hành lễ hội chung quanh gốc cây nêu ngày lễ.
Hình ảnh đó cũng được diễn tả những bằng cây trụ đứng được dựng trong Thánh
Đường, trong nhà rông của người dân tộc, trong các Chùa Chiền biểu trưng bằng
cây bửu tháp, trong cây sồi của người Celtes, cây Gia của người Đức, cây oliu
của người Hồi. Sự hy vọng ở đâu và lúc nào cũng được biểu lộ trong hầu hết các
tôn giáo, niềm hy vọng đã thắp sáng sự thành tín.
Sự hy vọng, niềm trông đợi trong niềm tin của Kitô Giáo không dừng tại đó, không
chỉ là hướng về mà còn là bay về, không chỉ là bám đất mà là lên trời. Không
ràng buộc nào nữa có thể giữ chân con người, đó là niềm hy vọng cuối cùng của
vạn vật và con người.
Lên trời hay thăng thiên là một hành vi dứt bỏ hòan tòan mọi quyến luyến trong
hòan vũ này để tới nơi hòan tòan mới, hòan tòan không còn tỳ ố. Trong nhân loại
đã có một người thăng thiên, dứt bỏ hòan tòan và đến nơi hòan tòan của Tuyệt
Đối, con người số một của hòan vũ đó là chính Đức Giêsu Kitô. Trong Đức Giêsu
Kitô, một nhân loại mới được thâu họp. Hạnh phúc và sung sướng tràn ngập trong
hòan vũ này chảy lan tràn như sữa và mật trong ngày Chúa Thăng Thiên. Sự dữ đã
hòan tòan sụp đổ, không còn có một cơ may nào để giữ chân một con người. Con
người đã siêu thăng, sự nguyên tuyền đã được tái tạo vượt xa sự nguyên tuyền
trong ngày đầu sáng tạo. Sự trội hẳn đã khơi mầm trong hòan vũ, một nhân loại
mới được sinh lại hòan tòan mới trong Đức Giêsu Kitô, nhờ Đức Giêsu Kitô. Đó là
niềm tin, sự hy vọng lớn nhất của nhân loại, trong Ngài (Đức Giêsu Kitô) và nhờ
Ngài con người và vạn vật thấy mình được tham dự vào đời sống của Thiên Chúa.
Thăng thiên là lối mở về phía vô biên mà Thiên Chúa đã khai mở cho nhân loại, từ đó niềm xác tín trên trái đất này, ngày càng gia tăng khi tuyên xưng mầu nhiệm: “Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi…”. Thật sự là một mầu nhiệm khi mọi dòng suy nghĩ được bắt đầu sinh ra ở dưới thế, viên mãn ở trên trời, ở nơi Thiên Chúa ngự được hòan tất. Con người từ đó biết rằng sinh ra để sống chứ không để chết, mọi cuộc đời đếu mang một ý nghĩa và giá trị để đòi buộc con người phải tôn trọng sự sống. Như vậy, từ lối khai mở của Thiên Chúa về chốn thăng thiên, con người được mời gọi làm cho tòan vũ này trở nên một nơi đáng sống, cưu mang và thừa hưởng sự sống.
Thăng thiên được diễn tả rất nhiều trong nền hội họa của Kitô giáo, ở đó, diễn
tả con người được giải thóat khỏi xác hay chết này bằng những hình ảnh hai tay
giơ cao như để cầu nguyện, gối quỳ biểu hiện lời khấn vái, thân mình được nâng
lên khỏi mặt đất mà không cần gì để đỡ nâng, những chòm sao kết thành triều
thiên đội trên đầu, và đôi khi có những thiên thần cất cánh đưa con người lên
không trung. Tất cả những thể loại biểu hiện ấy diễn tả con người lúc nào cũng
hướng về nơi tòan thiện, tòan mỹ và chân lý mỗi ngày một hơn trong mọi nỗ lực
của trần thế. Có nhiều cấp độ của sự thăng hoa, đó là những bậc thang trên linh
đạo, ngày mỗi ngày hòan thiện hơn theo lời mời gọi: “ Các con hãy trở nên hòan
thiện hơn như Cha của các con là Đấng Tòan Hảo ngự trên trời” (Mt 5, 48). Trở
nên tòan hảo là đánh dấu một khát mong mọc từ đất thấp vươn tới trời cao, và
được hòan thành nơi đó. Trong các khát khao của nhân loại đã được nhận lời, được
hình thành và là câu trả lời của Thiên Chúa nơi nhân loại, là nơi Đức Maria, Mẹ
đã về trời cả hồn lẫn xác. Đó là một sự kiện bảo đảm chắc chắn cho mọi con đường
nỗ lực vươn lên trong nhân loại. Tinh thần hóa tuyệt đối của tòan thể con người
từ xác thể tới tâm hồn, để thấy rằng thân xác bởi khí huyết này là khởi sự cho
thân xác thần thiêng, sự chết của xác thể này là sự nảy mầm cho thân xác bất tử.
Thăng Thiên và cuối cùng để nhận thấy rằng con người là gì mà được Thiên Chúa quá yêu thương, phàm nhân là chi mà Thiên Chúa lại quá bận tâm và nhận ra rằng Thiên Chúa yêu thương con người quá đỗi. Ngài đã dựng nên con và đã không để con đời đời trong sự hư vô, để cho con có và có tất cả.
Lm. Giuse Hoàng Kim Toan
Tất cả mọi thánh lễ là lễ tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, nghĩa là công trình cứu độ được thực hiện qua đời sống, cuộc khổ nạn và Phục sinh của Người. Thánh lễ là việc thờ phượng cao trọng nhất và có giá trị nhất mà Giáo Hội dâng lên Chúa Cha nhờ Chúa Kitô. Ngày nay Chúa Giêsu tiếp tục dâng Hy Tế của Người lên Chúa Cha để xin ơn cứu độ cho chúng ta. Mọi thánh lễ đều có giá trị như nhau. Tuy nhiên để nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc cử hành các mầu nhiệm khác nhau trong mỗi thánh lễ. Thánh lễ thì có sự phân chia thành những bậc như sau :
Lễ trọng là những ngày đặc biệt trong năm để mừng kính kỷ niệm những biến cố quan trọng trong mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa như Lễ Giáng Sinh, Lễ Phục sinh, Lễ Hiển Linh, Lễ Thăng Thiên, Hiện Xuống, Lễ Chúa Ba Ngôi, Lễ Mính Máu Thánh Chúa, Lễ Thánh Tâm, Lễ Chúa Kitô Vua ( 10 lễ). Lễ mừng kính các đặc ân của Đức Mẹ gồm 3 lễ : Lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa(1.1), Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (15.8), Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội (8.12). Lễ kính những vị thánh quan trọng trong đời sống của Giáo Hội có 4 lễ : Lễ kính Thánh Cả Giuse ( 19.3), kính hai Thánh Phêrô, Phaolô Tông đồ ( 29.6), kính Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả( 24.6), Lễ các Thánh Nam Nữ (1.11)
2. Lễ Kính
Các lễ kính thường gắn liền với biến cố trong cuộc đời Chúa Giêsu hay cuộc đời Đức Mẹ hoặc các vị Thánh có vị trí đặc biệt trong đời sống Giáo Hội như các Thánh Tông đồ, các Thánh Sử vv…
Co 6 lễ kính Chúa : Thánh Gia Thất, Dâng Chúa Giêsu vào đền Thánh(2.2), Chúa Giêsu chịu Phép Rửa, Chúa Biến Hình (6.8). Suy tôn Thánh Giá ( 14.9), Cung hiến Đền thờ Latêranô ( 9.11).
2 lễ kính Đức Mẹ : Đức Mẹ Thăm Viếng( 31.5), Sinh Nhật Đức Mẹ ( 8.9)
17 lễ kính các Thánh : Thánh Phaolô trở lại (25.1), Thánh Giacôbê Tông đồ ( 3.5), Thánh Têphanô(26.12) vv…
3. Lễ Nhớ
Có 2 loại lễ nhớ, lễ nhớ buộc, và lễ nhớ tự do.
Các lễ nhớ trong Phụng Vụ đều liên quan đến Đức Mẹ và Các Thánh, chứ không có các lễ nhớ về Chúa. Lễ nhớ buộc thì phải cử hành theo lịch Phụng Vụ đã ghi. Còn lễ nhớ tự do thì chủ tế được quyền chọn lựa theo nhu cầu mục vụ.
Sự phân biệt các bậc lễ là do truyền thống và thẩm quyền Giáo hội quyết định. Bậc lễ còn có những quy định cho việc cử hành như Lễ Trọng thì có 3 bài đọc ( bài đọc 1, 2 và bài Phúc âm)có Kinh Vinh Danh nhưng không đọc kinh Tín Kính, và không có kinh Tiền Tụng riêng.
Để biết các bậc lễ khác nhau trong năm thì chúng ta cứ mua cuốn Lịch Công Giáo của năm nay trong đó sẽ coi những chỉ dẫn rõ ràng : Khi nào trong lịch ghi chữ đậm Lễ Trọng, Lễ Buộc thì ngày ấy buộc phải tham dự thánh lễ.
Các bậc lễ không làm tăng hay giảm giá trị của Thánh Lễ nhưng chỉ nhằm nhấn mạnh đến tính long trọng của việc cử hành các mầu nhiệm trong Giáo Hội.
Lm. Giuse Nguyễn Ngọc Bích, DCCT
Xưa nay có nhiều hình ảnh ca ví diễn tả về mẹ. Dẫu thế, những hình ảnh dù đẹp, dù cao vời, cũng không thể nào diễn tả hết được lòng mẹ.
Tình mẹ hiện thực trong đời sống con người. Nhưng lại thiêng liêng không có hình hài cùng mầu sắc.
Tình mẹ như đóng khung trong thân thể người mẹ. Nhưng lại bao la sâu thẳm, không sao đo lường được.
Tình mẹ êm thắm nhẹ nhàng. Nhưng lại rộn ràng trào dâng, phát đi tín hiệu bừng lên sức phấn chấn cho người con.
1.Trái tim là trung tâm lọc máu, cùng bơm máu dẫn đi khắp cùng thân thể nuôi dưỡng cơ thể con người. Mẹ như Trung Tâm của gia đình cho con cái. Mẹ sinh thành ra người con, nuôi dưỡng, dậy dỗ giáo dục con mình nên người. Mẹ đôi khi phải nói to tiếng với con, nhưng bà không bao giờ giận ghét con mình. đâu xa vắng, người con nào cũng nhớ về Trung Tâm Mẹ ở nhà. Trung Tâm Mẹ thu hút tập họp con cái anh chị em lại với nhau. Người mẹ nào cũng có sức kiên nhẫn chịu đựng, dù những mệt nhọc, khó chịu, lo toan bận rộn chồng chất.
2. Mẹ như đôi Bàn Tay. Ngay từ lúc mở mắt chào đời, Mẹ luôn cầm tay con mình, bồng bế em bé, dẫn em đi từng bước chập chững, chỉ cho em lối đi.
Bàn tay mẹ xoa dịu, lau sạch đôi dòng nước mắt đang lăn chảy trên đôi gò má người con. Bàn tay mẹ nấu sữa, thay tã quần áo cho em bé. Bàn tay mẹ cầm tay con làm dấu Thánh Gía, tập cho con viết chữ a,b,c. Bàn tay mẹ nấu cơm nước, ủi quần áo, thu dọn nhà cửa sạch sẽ trong gia đình.
Bàn tay Mẹ hằng đưa ra che chở con cái trong gia đình.
3. Mẹ như Bông Hoa. Mẹ yêu thích bông hoa thiên nhiên, vì thế Mẹ hay mua hoa cắm trong nhà. Mẹ cũng tươi đẹp, trong mát như bông hoa mới nở. Có mẹ ở nhà, bầu khí gia đình tỏa hương thơm sáng như cánh hoa tươi nở.
Mỗi khi người con nhìn mẹ mình, niềm vui tươi hạnh phúc bừng lên trong người họ.
4. Mẹ như Ánh Sáng . Nơi nào có ánh sáng chiếu tới, bóng tối bị đẩy lui ra khỏi, và nơi đó có an toàn. Ánh sáng chiếu soi, ánh sáng cũng mang đến không khí vui mừng
Nụ cười của mẹ tỏa mang bầu khí trong ánh sáng, sự hài hòa vui vẻ giữa gia đình. Người con khi tiếp nhận bắt gặp nụ cười ánh mắt mẹ mình, họ như được ánh sáng chiếu tỏa đến: ánh sáng niềm vui, ánh sáng niềm an ủi.
5. Mẹ như một Cuốn Sách. Khi lật dở cuốn sách ra, người ta tìm được những điều muốn tìm hiểu. Trong Cuốn Sách Mẹ có những chỉ bảo thúc dục nhắc nhở việc học hành, giờ giấc ăn ngủ, giải trí, đến cung cách sống làm người: học ăn học nói, học gói học mở.
Cuốn Sách Mẹ ai cũng luôn có trong suốt đời sống.
6. Mẹ như một Ngôi Nhà. Dù là một túp lều nhỏ, với tường vách thô sơ, nhưng đó là căn bản cần thiết cho đời sống an toàn của con người. Trong một ngôi nhà, một túp lều, không chỉ có cửa, có bàn ghế, giường tủ, màn che…nhưng còn có đời sống tình yêu vợ chồng với nhau, cha mẹ với con cái, anh chị em với nhau. Ngôi nhà là tổ ấm tình thương yêu.
Trong Ngôi Nhà Mẹ bầu không khí tình người bao phủ lan tỏa tới mọi con cháu. Mẹ như mái nhà che nắng mưa cho con cháu, gìn giữ con mình cho khỏi bị gía lạnh nóng nực, cùng sự dữ xâm nhập phá hoại .
7. Mẹ như Mặt Trời. Từ mặt trời chiếu tỏa tia nắng cùng sức sống hơi nóng xuống vạn vật trong công trình sáng tạo thiên nhiên. Không có nắng ấm tỏa chiếu xuống trần gian, sự sống không nẩy nở phát triển được.
Từ nơi Mặt Trời Mẹ phát tỏa sức sống nồng ấm cùng sự dịu dàng an bình. Khi thiếu vắng bóng mẹ, không gian gia đình như chìm lặng trong làn mây đen mù che khuất.
Mặt Trời mẹ là nguồn tình yêu mến và niềm vui hạnh phúc.
8. Mẹ như Kho Tàng. Kho tàng nào cũng chứa đựng cất giữ những báu vật, những gì là gía trị cao qúi. Trong Kho Tàng mẹ cả đời người con không sao khám phá ra hết nổi: Kho tàng chứa đựng sự quan tâm săn sóc lo lắng của mẹ cho con cái.
Kho Tàng Mẹ cất chứa đựng những điều thâm cung bí nhiệm, mà người con tin tưởng bày tỏ cùng mẹ mình. Kho Tàng mẹ gìn giữ những điều đó riêng cho bà và cho người con đó thôi.
9. Mẹ như Cơm Bánh. Cơm Bánh là thực phẩm căn bản cần thiết cho thân xác bao tử cùng trí tuệ thần kinh con người. Mẹ lo lắng hằng ngày sao cho con cái có đủ cơm bánh ăn. Mẹ dành thời giờ tâm tính cho bữa ăn trong gia đình sao cho ngon miệng, bổ béo mang đến sức khoẻ cho con.
Con người thiếu hay không có cơm bánh no đủ, sẽ lâm vào tình trạng đói kém yếu sức suy nhược. Thiếu vắng Mẹ, đời sống con người cũng trở nên u buồn ảm đạm.
10. Mẹ như Chiếc Bàn. Dù to hay nhỏ, dù dài hay vuông, hay tròn…chiếc bàn là chỗ trưng bày trải rộng, phơi bày những vật dụng đồ đạc, là nơi chốn ngồi tụ laị nói chuyện tâm tình ăn uống, viết lách.
Với mẹ cũng thế, người con có thể tâm tình phơi bày những mong ước, cùng những suy nghĩ và niềm vui nỗi lo âu của mình ra với mẹ mình.
Lòng Mẹ chiếc Bàn cho người con trải tâm sự mình ra, mà không sợ bị gạt phủi hất đi, hay bị ép buộc lợi dụng. Trái lại đó là nơi chốn an toàn cho những tâm sự thầm kín đời người con.
11. Mẹ như Tiếng Nói bài hát. Ngay từ lúc thuở đầu đời, Mẹ luôn hát ru con ngủ. Bài Hát đã đi vào ký ức kỷ niệm của người con. Tiếng nói của con là do Mẹ tập cho nói. Giọng tiếng con nói cũng do ảnh hưởng của mẹ rót vào tai vào tâm hồn con từ thuở mới mở mắt chào đời.
Lúc còn thơ bé, khi nghe Mẹ nói cùng hát, người con nhoẻn miệng cười sung sướng, và từ từ nhắm mắt chìm trong giấc ngủ mơ màng. Rồi khi đã khôn lớn dần, người con cất tiếng nói và hát theo, cùng cảm thấy lòng sung sướng hạnh phúc.
Có những người ghi nhớ mãi về mẹ mình, mỗi khi nghe thấy câu giọng nói nào, hay bài hát quen thuộc ngày xưa mẹ vẫn hát vang vọng từ xa lại. Và có những người hát thuộc lòng suốt đời “bài hát ruột” mà mẹ con đã từng hát ngay từ lúc còn nhỏ.
Tiếng Mẹ là tiếng mẹ đẻ của con.
12. Mẹ như Giòng Nước. Giòng nước chảy trong lòng sông, nơi con suối mang sức sống, sự trong mát đến cho thiên nhiên phát triển. Giòng nước phát nguồn chảy đổ từ trên nguồn cao xuống dưới thấp.
Sữa mẹ là Giòng Nước thức ăn nuôi dưỡng người con ngay từ thuở thơ bé đầu đời. Khi con khát nước, mẹ mang nước cho con uống.
Giòng nước chảy cuốn trôi đi rác rưởi, sỏi cát…mang đến sự tẩy rửa sạch sẽ mới mẻ. Mẹ hằng ngày tắm rửa cho con nhỏ được sạch thơm. Nhờ thế con khoẻ mạnh mau lớn. Khi con dần khôn lớn, mẹ chỉ bảo cách dùng nước tắm rửa, giặt quần áo, giữ gìn sức khoẻ cho thân thể được tươi mát vệ sinh sạch sẽ.
Giòng Nước Mẹ nuôi dưỡng thân xác và tinh thần con lớn lên đi vào đời.
Trong Kinh Thánh, Thánh Tiên Tri Ê-dê-ki-en, đã có ca ví diễn tả về Mẹ với tâm tình hình ảnh của nguồn đầy sức sống phát triển vươn lên:
„Người Mẹ giống cây nho được trồng bên dòng nước
quả trĩu nặng, cành lá sum sê, nhờ mạch nước dồi dào.“ (Ezechiel 19,10)
Ngày nhớ ơn Mẹ, 04.05.2008
Lm. Nguyễn Ngọc Long
Quý độc giả thân mến,
Tôi rất ngần ngại viết những hàng chữ này, vì câu chuyện xảy ra khá tế nhị, có thể mỗi người sẽ có một cảm thức và phản ứng khác hẳn nhau trước câu chuyện. Khác nhau là dĩ nhiên, nhưng cái khác ở đây có thể là mâu thuẫn nặng nề, thậm chí có thể gây hiểu lầm tai hại.
Thế nhưng Tin Mừng đòi hỏi chúng ta phải lên tiếng, nếu không, chúng ta sẽ có ngày phải đối diện với sự thật, lúc đó khó có thể cứu vãn và bộ mặt của Giáo Hội Thánh sẽ một ngày một xấu đi. Tất cả chúng ta đang đứng trước những thách đố của thời đại, cả Tin Mừng nữa, theo một cách nào đó hoàn toàn tùy thuộc vào cách sống của chúng ta.
Tôi được nghe một câu chuyện từ những người trong cuộc kể lại. Thật ra những câu chuyện tương tự như thế này bản thân tôi và quý độc giả có lẽ cũng đã thường nghe, thậm chí đích thân đã va chạm nữa. Chuyện là thế này...
Ông cụ chưa già lắm, khoảng trên 70 thôi, người ở vùng quê miền đông Nam bộ, vừa đau xót mất một người con trai trạc 50 vì tai biến, cụ kể cho tôi nghe về cách đối xử của cha xứ với gia đình cụ và với chính bản thân cụ. Ngay sau tang lễ, vì nhà xa nên cụ phải nhờ một người cháu chở Honda đến nhà xứ để cám ơn cha xứ, nhưng cha xứ đã không ra tiếp cụ già mặc dầu rõ ràng cha đang có ở nhà, không bận bịu chuyện gì hệ trọng cả !
Ông cụ chờ đợi hơn một tiếng đồng hồ, quá bức xúc, người cháu nội của cụ, là con trai của người vừa qua đời, đánh bạo vào thẳng trong nhà xứ, gõ cửa phòng cha xứ và nhắc rằng: “Ông nội con chờ cha đã quá một tiếng rồi ạ !” Lạnh lùng với hai chữ “được rồi !”, mười lăm phút sau cha xứ mới lững thững đi ra.
Giọng nhát gừng, cha xứ hỏi ông cụ: “Nhà tang có xin lễ cha khách không đấy ?” Cụ già đáp: “Thưa cha không, cha nhà con không nhận lễ”. Lại hai chữ lạnh lùng: “Được rồi !” Ngài quay mặt đi vào, không một lời chào hỏi. Bây giờ đang khi ông cụ kể lể than thở với tôi, anh cháu nội ấy buông một câu chêm vào: “Cha xứ thật là bất lịch sự !” Phản ứng như thế chúng ta thấy là chuyện dễ hiểu, anh ta tuy xuất thân từ “nhà quê” nhưng đã lên thành phố học và đang làm việc trong một công ty nước ngoài, anh dư khả năng để nhận định về thái độ không hay của cha xứ.
Thế còn chính vị Linh Mục là “cha nhà” trong câu chuyện thì kể thêm cho tôi nghe: Mình từ Sài-gòn về, trước hết vào chào cha xứ, ngài tiếp mình một cách hết sức lạnh lùng. Mình xin phép ngài được dâng lễ tang cho người trong gia đình mà mình hết sức thân thiết, thậm chí còn mang ơn họ đã từng giúp đỡ mình nữa, ngài trả lời: “Không dám, cha muốn dâng thì cứ dâng”. Mình ngỡ người nhà thông tin sai vì trước đó người nhà báo rằng cha xứ rõ ràng đã mời mình dâng lễ nên mình thưa rằng: “Thưa cha, con không chuẩn bị dâng lễ, con chỉ đến tham dự để cầu nguyện”. Lúc đó ngài mới đổi giọng lịch sự hơn để mời mình dâng lễ. Lễ xong đứng lại ở nhà xứ trao đổi, ngài than thở rằng cứ phải làm lễ an táng hoài, chán qua, cũng bằng đó người dự, giảng đi giảng lại hoài, không biết nói gì, có cha về dâng lễ thay cho đỡ quá !
Một chuyện thứ hai xin được kể với quý độc giả, chuyện đã khá lâu nhưng các chi tiết tôi vẫn không thể nào quên:
Một lần tôi đi giảng và dùng cơm chiều tại một nhà xứ nọ. Giữa bữa, một ông trùm vào thưa với cha xứ về việc có một gia đình cần gặp, ông trùm nói nhỏ với cha xứ điều gì tôi không nghe được, cha xứ khoát tay bảo với ông trùm: “Ra bảo với họ: cha xứ đang ăn cơm với cha khách”. Nghe vậy, tôi đã vội vàng thưa: “Xin cha đừng bận tâm về con, cha cứ giải quyết việc cho họ”. Mhưng ngài bảo: “Mặc kệ họ, cha mà ra tiếp, thì họ quấy rầy cả ngày”.
Thế rồi bữa cơm chậm rãi trôi qua, hơn một tiếng sau tôi chào ngài ra về. Ra đến cửa nhà xứ thì sao lại lố nhố đông người ngồi bệt xuống nền xi-măng mà chờ chực thế này ? Thấy tôi ra, họ vội vàng đứng lên, tôi hỏi họ, mới biết trong gia đình họ có người vừa qua đời, việc đầu tiên là phải vào trình cha xứ, vì cha xứ là người sẽ quyết định giờ và ngày cử hành tang lễ, tất tần tật ! Không xin ý kiến thì có mà chết !
Hôm ấy, ăn cơm ngon và no căng, nhưng tôi đã ra về với một cõi lòng hoang mang buồn bã, lẽ nào một ông cha khách là tôi mà lại là nguyên cớ làm cho tang gia người ta phải chịu khổ lụy phiền toái quá đáng như thế ư ?
Trong Dòng chúng tôi có cha Trần Sĩ Tín, một ngươi duy nhất còn lại trong bốn người lên Tây Nguyên theo chương trình loan báo Tin Mừng cho anh em dân tôc Jarai, bây giờ quanh ngài đã có hơn một chục Linh Mục trẻ, anh em ngược xuôi mọi nẻo đường rừng để nối bước cha anh. Bốn anh em đầu tiên lên Tây Nguyên đã chọn cách sống giữa bản làng dân tộc, học làm người dân tộc, lặng im thấm nhuần máu dân tôc, để từ đó máu dân tộc thấm nhuần Tin Mừng, khi Chúa Thánh Thần tuôn đổ mưa xuống thì những hạt giống âm thầm bộc phát nảy mẩm không gì ngăn cản nổi.
Nhiều lần trong các trao đổi, ngài trăn trở băn khoăn về cách đào tạo. Hình như nhìn chung người ta đã đào tạo một Giáo Sĩ để làm quan, làm cha mẹ người khác thay vì làm dân cùng với người dân ! Bởi thế mới có những lối ứng xử như hai câu chuyện kể trên. Làm thầy chỉ biết phán biết dạy thay vì chịu khó lắng nghe, mà như thế cũng sẽ không có khả năng nghe được tiếng Chúa nói trong và nói qua anh em mình.
Cha Sỹ Tín bảo chúng tôi hãy thử ngồi im một ngày nghe Giáo Dân của mình người ta trao đổi với nhau, kể chuyện với nhau về những gì Chúa làm cho họ. Người dân tộc trên Giáo Điểm của cha mỗi ngày thứ sáu họ kể chuyện về Chúa cho nhau nghe, họ làm chứng về quyền năng của Chúa cho nhau biết và cha đã ngồi nghe họ từ sáng đến chiều. Ngài cứ nhắc đi nhắc lại, phải học làm dân, phải làm dân !
Tôi xin kết thúc câu chuyện không vui ở đây, chỉ xin được nói rằng, đầu thế kỷ thứ 20, Giáo Hội đã đánh mất người nghèo, đánh mất nông thôn, đánh mất giới vô sản để gần gũi đi lại với giới quý tộc, gần gũi với giới nhà giàu, hậu quả như thế nào trong nhiều chục năm qua chúng ta đã thấy. Đến đầu thế kỷ 21 rồi, đừng để xảy ra điều đáng tiếc ấy nữa...
Lm. VĨNH SANG, DCCT,
thứ sáu 25.4.2008
Tản mạn Nhân Tháng Hoa Đức Mẹ :
Trong nhà người Công giáo nào, có lẽ cũng có ít nhất một tượng Đức Mẹ. Và điều này, chắc chắn cũng xảy đến với mọi gia đình của Giáo xứ...
Vào mỗi buổi tối, không nhiều thì ít, chẳng mấy gia đình là không đọc lấy ít kinh Kính mừng trước ảnh tượng Đức Mẹ. Như thế rõ ràng Đức Mẹ đã trở thành một điểm tựa tha thiết không thể thiếu cả trong đời sống tâm linh lẫn trong đời sống đời thường của nhiều người Công giáo.
Ngoài việc cầu nguyện to tiếng bằng đọc kinh Kính mừng, hát những bài hát ca tụng Đức Mẹ, người ta còn thầm thì, còn thầm thĩ, có khi cả trong nước mắt để kêu cầu với Mẹ. Và nếu có thể nấp được ở đằng sau tượng Đức Mẹ, hẳn mình sẽ nghe thấy những lời cầu xin của mọi người.
Lời mà mình nghe được toàn là những lời thở than: “Bởi ông chồng nhà con khô khan quá, lạy Đức Mẹ, xin cho chồng con nó bỏ được cái tật rượu chè be bét.” “Mẹ ơi, xin cho đứa con gái của con nó bỏ cái thằng bên lương đi. Con không bằng lòng tí nào.” “Lạy Đức Mẹ, xin Mẹ biến đổi cái thằng con trai con. Nó ngang ngạnh quá mức, cứng đầu cứng cổ.” “Xin Đức Mẹ cho con qua khỏi cơn bệnh này.” Và cũng có khi: “ Lạy Đức Mẹ, con nợ nần quá. Bởi chơi số đề quá nhiều. Xin Mẹ cho con trúng quả này để con gỡ.”… Dại dột! Chơi số đề rồi bắt Mẹ gỡ nợ. Đứng sau tượng Đức Mẹ, nghe mà tôi không khỏi thở dài.
Tội nghiệp Đức Mẹ, toàn phải nghe những lời đau khổ. Tôi chợt nghĩ: mình đau khổ thì mình kêu Đức Mẹ thật chắc Đức Mẹ cũng sẽ thương mà nâng đỡ thôi. Nhưng còn đời Đức Mẹ, Đức Mẹ đau khổ ngập đầy thì than thở với ai?
Ta đừng tưởng làm Đức Mẹ là ngon đâu! Dĩ nhiên, được Thiên Chúa chọn để cùng cộng tác cứu chuộc với Chúa quả thực là một hồng phúc vô cùng lớn lao. Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ cơ mà! Nghĩa là trong số tất cả các người phụ nữ trên toàn thế giới từ xưa đến nay và mãi về sau,
Đức Mẹ là người được lãnh hồng phúc lớn nhất. Vì vậy cái thế đứng của Mẹ là một thế đứng vô cùng cao trọng với tất cả tước vị cao sang.
Những tước vị ấy đã được Giáo Hội thâu tóm trong kinh cầu mà chúng ta vẫn đọc: Đức Bà là cửa Thiên Đàng, Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa… Riêng với tôi, tất cả những tước vị cao trọng ấy sẽ trở nên xa lạ, dửng dưng nếu như Đức Mẹ không có một trái tim gần gũi yêu thương vô bờ dành cho nhân loại chúng ta.
Có những lúc, tôi cố gắng sống thật đạo đức, hết sức làm việc lành. Tôi nghĩ như thế Chúa sẽ thương mình, sẽ gìn giữ để mình không bị thất bại, đau khổ.
Nhưng khi đọc lại cuộc đời Đức Mẹ, tôi bỗng giật mình, có ai lại ngoan bằng Đức Mẹ đâu cớ chứ! Cả đời Mẹ là một chữ xin vâng kéo dài. “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ Thần truyền.”
Xin vâng cả khi mình chẳng hiểu gì, dẫu khi biết đó là con đường gian nan. Ngoan thế, dễ thương thế, mà sao đời Mẹ lại quá nhiều đau khổ. Vừa xin vâng để Ngôi Lời nhập thể nơi mình thì đau khổ ùa tới. Mối tình đầu rạn nứt chuẩn bị vỡ toang.
Thánh Giuse định “lìa bỏ Bà cách kín đáo”. Có người con gái nào mà không hoảng loạn, phải nhiều đêm thức trắng khi thấy gần ngày cưới mà người yêu định bỏ đi. Rồi vết thương ấy vừa được bó lại bằng lời bào mộng của Thiên Thần với Thánh Giuse trong giấc ngủ. Thì đùng một cái, đến ngày sinh con. Thánh Kinh không nói, nhưng tôi nghĩ: trong đêm hôm sinh con ấy, Đức Mẹ khóc hết nước mắt. Tủi quá cuộc đời ơi! Có ai cay đắng ê chề như mình không nhỉ? Giữa một chuồng súc vật hôi thối mà mình lại sinh con. Có bà nào, chị nào mà lỡ phải sinh con trong chuồng heo thì sẽ nghe xót xa thế nào?
Mẹ ơi! Sao Mẹ khổ thế?
Cho nên con bỏ qua không nói đến những đau khổ tiếp theo ấy nữa, mà chỉ nói đến một chút nữa, ở quãng đời tử nạn của Chúa thôi. Mẹ hiểu một điều: Con mình chính là Ngôi Hai Thiên Chúa. Vì yêu thương mà đã bỏ trời cao xuống làm người với khát vọng duy nhất là cho con người biết lối mà lên Trời, để làm con Thiên Chúa. Cho nên trong hành trình đi rao giảng của Chúa, Đức Mẹ luôn đồng hành, nhưng dấu mặt phía sau. Chứng kiến tận mắt những mưu đồ, những cạm bẫy, những đểu cáng mà con người đối xử với con mình. Nhưng rõ rệt và chua chát nhất là trong quãng thương khó của Chúa. Nhìn người ta hành hạ con mình, dập vùi con mình mà trái tim vỡ tung, nát vụn. Cuộc đời thì khổ vì những đứa con rắn mặt, khó dậy, hư hỏng. Nhưng đằng này thì Đức Mẹ lại khổ vì con mình quá ngoan. Giá như nó hư hỏng, cuộc đời giầy đạp nó thì cũng có thể hiểu được, nhưng đằng này, con mình lại quá ngoan. Con mình chỉ toàn làm những điều tốt, nói những lời chân lý, mà sao người ta lại ngược đãi con tôi?
Đứng dưới chân Thánh Giá là lòng tan nát. Và rồi, sau khi Chúa về Trời, Đức Mẹ cũng được ân thưởng trên Trời bên Chúa. Ở nơi cao vĩnh phúc mà lòng Mẹ cũng vẫn chẳng được yên. Lòng cứ quặn đau từng phút, từng giây. Bởi vì khi nhìn xuống trần đời ô trọc, Mẹ cứ nghe rụng rời tay chân. Quá nhiều người mù loà không nhận biết Hồng Ân Cứu Độ của Chúa Giêsu con Mẹ.
Người ta chỉ biết cúi mặt đi tìm những thứ dính trên mặt đất như của cải, như nhục dục, như chức quyền mà bỏ quên mất phần linh hồn cao cả của mình. Người ta tự đưa đời mình vào những cạm bẫy của hoả ngục. Chứng kiến những cảnh hư mất ấy, Mẹ lo.
Vì Mẹ yêu mà Mẹ lo. Cho nên Mẹ không thể ngồi yên. Có bà mẹ nào có thể ngồi yêu được khi thấy đàn con của mình đang sắp sửa rơi xuống vực thẳm không? Huống chi là Đức Mẹ. Cho nên Mẹ đã đi khắp nơi, đến khắp các miền. Nào là ở Fatima, ở Lộ Đức, ở Mễ Du, ở La Vang, ở Trà Kiệu… và vô vàn những nơi khác nữa trên trái đất này.
Lần nào hiện ra, Mẹ cũng buồn. Hết chỉ cách này lại đến cách khác, toàn là những cách đơn giản như siêng năng tôn sùng Trái Tim Mẹ, như việc lần hạt Mân Côi, v.v. Mẹ chỉ mong người ta biết nghĩ lại, biết trở về, biết nâng cao giá trị làm người. Và hầu hết, lần hiện ra nào Mẹ cũng khóc.
Có những nơi, nước mắt Mẹ còn là những giọt máu tươi. Mẹ thương quá đàn con của Mẹ, những đứa em của Chúa Giêsu, con Mẹ. Mẹ muốn đời con được bình an và hạnh phúc, cho nên Mẹ phải bôn ba khắp nơi. Vì vậy, có lúc tôi nghĩ: nếu muốn vẽ hình của Mẹ, tôi chỉ yêu cầu vẽ một trái tim. Bởi đời Mẹ chính là tình yêu nồng nàn. Và trái tim ấy, khi di chuyển lại biến thành giọt nước mắt. Bởi suốt đời, Mẹ đau khổ vì các con. Mẹ đau khổ trong trái tim, trong linh hồn. Mẹ đau khổ trong suốt hành trình dõi theo Chúa. Cho nên, chắc chắn một điều: Mẹ hiểu và thông cảm được hết những đau khổ của chúng ta, những đứa con yêu của Mẹ. Mẹ vất vả đi tìm chúng ta.
Chúng ta đừng chốn chạy. Hãy đến để Mẹ phù giúp cho. Bởi Mẹ đã hiểu thế nào là đau, thế nào là khổ, thế nào là cay và thế nào là đắng. Vì vậy, khi đứng trước ảnh tượng Mẹ có một câu hỏi mà tôi thường hỏi Mẹ: Mẹ ơi! Sao mẹ khóc? Mẹ ơi! Sao Mẹ khóc?
Lm. Đaminh Đỗ Văn Thiêm
Một cuộc khủng hoảng lương thực trầm trọng đang diễn ra trên toàn thế giới, gây ra bất ổn tại nhiều nước, thậm chí có nơi chính phủ bị sụp đổ do bạo loạn vì thiếu lương thực. Ngay những nước hiện còn có an toàn lương thực cũng chịu sự tác động của cuộc khủng hoảng này. Ôngc Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc vừa kêu gọi cả thế giới nỗ lực tìm cách đối phó.
Cuộc khủng hoảng khiến chúng ta ngạc nhiên và bổng dưng cho ta cảm thấy rằng trật tự thế giới (cũng như trật tự xã hội trong mỗi nước) hoá ra là khá mong manh. Khi nhu cầu thiết yếu nhất của con người là sống và để sống phải ăn phải uống -nước cũng sẽ là một vấn đề “sống chết” trong tương lai- mà không được giải quyết thì mọi trật tự chính trị, xã hội đều bị đe doạ.
Tôi nhớ lại bài “dụ ngôn” của Xanh-Ximôn (Saint-Simon), một lý thuyết gia của chủ nghĩa xã hội mệnh danh là chủ nghĩa xã hội “không tưởng” (theo cách gọi của Ăng-ghen) như sau:
“Giả sử nước Pháp mất đi cùng một lúc 50 nhà vật lý học hàng đầu, 50 nhà hoá học, 50 nhà sinh vật học, 50 chủ ngân hàng, 200 nhà buôn, 600 nông dân, 50 chủ lò rèn …cừ khôi nhất. Vì họ là những người Pháp cần yếu nhất trong việc sản xuất, tức là những người làm ra những sản phẩm quan trọng nhất, nên quốc gia sẽ là một cái xác không hồn ngay lập tức trong giây phút nó mất đi những con người đó.
Thử tưởng tượng ra một giả thuyết khác. Giả sử nước Pháp giữ nguyên tất cả những thiên tài hiện có trong các ngành khoa học, nghệ thuật, công nghệ nhưng rủi ro lại mất đi trong cùng một ngày ngài bào đệ của nhà vua, tức quận công Ăng-gu-lem (…), tất cả các sĩ quan cao cấp của triều đình, tất cả các bộ trưởng, tất cả các cố vấn quốc gia, tất cả các uỷ viên thẩm tra, tất cả các thống chế, tất cả hồng y, tổng giám mục, giám mục, tổng đại diện và kinh sĩ, tất cả các quận trưởng và phó quận trưởng (v.v.) thì tai hoạ này chắc chắn sẽ làm cho dân Pháp buồn vì họ vốn có lòng tốt; nhưng sự mất mát 30 ngàn cá nhân được xem là quan trọng nhất của Nhà nước ấy, chỉ đem lại nỗi ưu phiền về nặt tình cảm mà thôi vì sự mất mát đó tuyệt đối không gây ra một thiệt hại chính trị nào cho Nhà nuớc”. Xanh-Xinôn viết dụ ngôn này vào năm 1819 [Thời ấy hệ thống giáo phẩm thường cũng bị gắn vào hệ thống chính trị].
Trong giả thuyết thứ nhất của dụ ngôn, chúng ta thấy Xanh-Ximôn đề cao những người trực tiếp và gián tiếp sản xuất ra của cải vật chất, và trong những người này tác giả đặt nông dân lên hàng đầu (ông nói tới những 600 nông dân, 200 nhà buôn, còn các giới khác thì chỉ 50 mà thôi!). Ta không thể không nghĩ tới câu tục ngữ Việt Nam:
Nhất sĩ nhì nông
Hết gạo chạy rông,
Nhất nông nhì sĩ!
Khi Xanh-Ximôn mất, Các Mác mới 7 tuổi. Về sau, trong lý thuyết của mình, Mác sẽ đề cao giai cấp công nhân, coi đó là giai cấp cách mạng nền móng cho xã hội tương lai. Khi Lê-nin đưa thuyết Mác ra áp dụng sau cách mạng Nga 1917, ông sẽ đặt chế độ cộng sản trên giai cấp công-nông liên minh vì lúc bấy giờ Nga chưa có nền kinh tế công nghiệp phát triển như Anh và Đức vào thời Mác. Việt Nam ta hiện nay cũng chủ trương công-nông liên minh.
Báo Tuổi Trẻ ngày 12-4-2008 đăng bài rất được chú ý của nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt nhan đề “Đừng để người nghèo bị gạt ra bên lề”. Ông Kiệt viết: “Chăm lo cho người nghèo hiện nay không đơn giản chỉ là thực hiện một cam kết có tính lịch sử, mà còn là bảo vệ tôn chỉ mục đích của một đảng cách mạng luôn nhận mình đứng về phía nhân dân. Thực hiện cam kết đó không chỉ căn cứ vào những chính sách trực tiếp, mà trước khi ban hành những chính sách lớn cần phải phân tích, đánh giá sâu sắc những tác động của chúng lên các tầng lớp dân nghèo.” Ông nhận định tiếp: “Có lẽ chưa có một quốc gia nào bày tỏ sự quan tâm đến người nghèo một cách thường xuyên như ta (…). Nhưng chúng ta hãy nhìn vào các số liệu điều tra sau đây của UNDP (Chương trình Phát triển của Liên Hiệp Quốc) để thấy chúng ta đã thật sự làm được những gì: nhóm 20% những người giàu nhất ở VN hiện đang hưởng tới 40% lợi ích từ các chính sách an sinh xã hội của Nhà nước, trong khi nhóm 20% những người nghèo nhất chỉ nhận được 7% lợi ích từ nguồn này.” Tờ báo trích bổ sung tài liệu của UNDP: chênh lệch giàu nghèo ở VN là 34,4 lần ; 10% dân số nghèo nhất chỉ chiếm 4,2% thu nhập và chi tiêu quốc gia; 10% giàu nhất chiếm 28% thu nhập và chi tiêu quốc gia; 20% dân số nghèo nhất chiếm 9% tổng số thu nhập và chi tiêu quốc gia; 20% dân số giàu nhất chiếm 44,3% tổng thu nhập và chi tiêu quốc gia.
Ai thuộc về số những người nghèo nhất nói đây? Chắc hẳn là đa số công nhân và nhất là nông dân, bà con các vùng nông thôn, vùng dân tộc. Họ được hưởng rất ít lợi ích từ tiến trình phát triển. Người nông dân chịu thiệt thòi một cách trực tiếp trong quá trình nông nghiệp hoá. Mỗi khi có những nhà máy, những công nghiệp, đô thị mọc lên, những phúc lợi xã hội mà sự phát triển mang lại cho nông dân chỉ chiếm một giá trị rất nhỏ so với lợi nhuận mà đất đai cua nông dân đem lại cho những tầng lớp khác (x. Tuổi Trẻ, sđd, tr 3).
Ông Đặng Ngọc Dinh thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ nói: “Nguồn lực nông dân, nông nghiệp, nông thôn đang được huy động cho phát triển nhưng chính sách đầu tư trở lại chưa cân xứng.” Một cuộc điều tra của Chi cục Phát triển nông thôn Tp Hồ Chí Minh cho thấy năm 2006, trong nhóm những người nông dân bị thu hồi đất, con số lao động bị thất nghiệp tăng từ 28,1 lên 38,88%, còn số người chuyển qua được công nghiệp chỉ tăng từ 3,1 lên 6,6% (x.Tuổi Trẻ ngày 12/12/2007, tr 3).
Người ta cũng tính toán rằng 90% lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam do nông dân đồng bằng sông Cửu Long làm ra. Một lượng cực lớn cà phê xuất khẩu cũng do nông dân Tây nguyên mang lại, nhưng đời sống bà con hai vùng này vẫn thấp nhất nước. Giá nông sản gần đây tăng cao thì thực chất phần giá trị gia tăng lớn nhất không vào túi nông dân mà vào túi các danh nghiệp, các trung gian; còn khi giá cả hạ xuống thì nông dân là người đầu tiên phải khốn đốn vì nhà nước vẫn không có chính sách trợ giúp, trong lúc giá phân bón, thức ăn gia súc, gia cầm cứ tăng vùn vụt (x. Tuổi Trẻ 11/1/2008).
Trong bối cảnh thế giới và đất nước ta hiện nay, đọc lại và nghiền ngẫm dụ ngôn của Xanh-Ximôn viết cách nay gần 190 năm, không khỏi làm cho lòng ta thêm bức xúc!
27-4-2008
Lm Nguyễn Hồng Giáo, dòng Phanxicô
Cha Pedro Ruquoi - người Bỉ - là Linh Mục
dòng Khiết Tâm Đức Mẹ (Các Cha Scheut). Trước khi đến truyền giáo tại Zambia bên
Phi Châu, Cha Pedro Ruquoi từng là Linh Mục thừa sai tại Haiti và tại Cộng Hòa
Dominicana. Sau đây là chứng từ - sau đúng hơn - suy tư của Cha về mầu nhiệm khổ
đau của dân nghèo lồng khung trong hình ảnh khổ nạn của Đức Chúa GIÊSU KITÔ
Chịu-Đóng-Đinh trên Cây Thánh Giá.
Tôi tìm thấy Cây Thánh Giá ngoài chợ bán sắt nổi tiếng ở trung tâm thủ đô
Port-au-Prince của nước Haiti. Cây Thánh Giá nằm lăn-lóc dưới đất và bám đầy
bụi. Người bán lộ vẽ ngạc nhiên khi thấy có khách hàng chú ý đến cái mảnh-gỗ
đen-đủi mất hút giữa muôn vàn vật dụng nghệ thuật khác.
Khi trông thấy Cây Thánh Giá tôi bỗng như nghe văng-vẳng tiếng kêu than ai-oán
của những người thợ cắt mía Haiti sống trầy-trụa với hương-vị chết-chóc lan tỏa
đầy mình. Khi chăm chú nhìn Cây Thánh Giá tôi như thoảng nghe tiếng rên-siết
tỉ-tê của những đứa trẻ Dominicana hậu-duệ Haiti không có tương lai vì bị khước
từ quyền sinh sống hợp pháp. Khi chiêm ngắm Cây Thánh Giá tôi như đụng-chạm đến
nỗi đớn-đau của toàn dân làng Bateys bên Cộng Hòa Dominicana. Họ sống vất-vưởng
ngày qua ngày bên cái nghèo đói bơ-vơ bị xã hội xua-trừ khinh-bỉ...
Tôi cho tay vào túi lấy ra vài đồng tiền Haiti và đưa cho người bán hàng. Anh ta
nở nụ cười to như trái bí-rợ! Tôi trang trọng rước lấy Cây Thánh Giá đưa lên xe
và lái xe trực chỉ làng Bateys nằm ở biên giới Cộng Hòa Dominicana và Haiti.
Về đến nhà xứ, tôi cẩn thận lau chùi kỹ lưỡng Cây Thánh Giá trước khi treo Cây
Thánh Giá lên tường nơi phòng ăn. Với đôi tay giang rộng hướng về Trời Cao, Đấng
Chịu-Đóng-Đinh - đen thủi đen thui giống đám dân nghèo trong giáo xứ - như mời
tôi bước theo Ngài. Tôi không rõ mình trải qua bao nhiêu giờ để chiêm ngắm Đấng
Chịu-Đóng-Đinh trên Cây Thánh Giá!
Từ đó, mỗi khi có một nạn nhân - của tệ nạn buôn bán người - lê bước đến nhà xứ,
trong trạng huống đói-rách bẩn-thỉu và kiệt-quệ, tôi liền đưa vào phòng ăn, mời
nạn nhân ngồi lên chiếc ghế đặt trước Cây Thánh Giá. Anh ta không hề biết rằng,
trong khi anh ta kể lể cho tôi nghe chi tiết thảm họa vừa trải qua, thì không
phải tôi nhìn anh cho bằng tôi đang chiêm ngắm Thầy Chí Thánh Chịu-Đóng-Đinh
trên Cây Thánh Giá treo trên tường đàng sau lưng anh.
Rồi khi có một thiếu niên Dominicana gốc Haiti chạy vào nhà xứ xin trú ngụ vì bị
nhân viên Sở di trú rượt bắt, tôi cũng mời cậu ngồi trên chiếc ghế đặt trước Cây
Thánh Giá. Cậu thiếu niên này cũng không hề biết rằng trong lúc cậu vừa uống
càphê vừa kể cho tôi nghe biến cố đau thương vừa xảy ra, thì đôi mắt tôi lại
hướng về Cây Thánh Giá và chiêm ngắm Đấng Chịu-Đóng-Đinh trên Cây Thánh Giá.
Cây Thánh Giá Haiti đã chủ tọa tất cả các buổi cử hành Thánh Lễ nơi giáo xứ
Bateys cũng như tháp tùng các buổi tuần hành phản đối của dân nghèo đòi hỏi Công
Lý, yêu cầu chính quyền trả lại đất đai để có thể trồng trọt sinh sống. Vào
những cuộc tuần hành đòi hỏi Công Lý ấy, Cây Thánh Giá như lung-linh theo nhịp
múa của các tiếng kêu la phẫn-nộ của đám dân nghèo bị tước đoạt, bị đuổi ra khỏi
đất đai của mình.
Cây Thánh Giá Haiti tháp tùng tôi lúc vui cũng như khi buồn, vào những ngày lễ
hội tưng bừng cũng như trong những lúc bị bách hại đắng cay. Và ngày 17-11-2005
khi tôi bị bắt buộc phải rời khỏi Cộng Hòa Dominicana thì Cây Thánh Giá Haiti
cũng cùng tôi vượt đại dương và đặt chân lên đất Zambia nằm trong đại lục Phi
châu khốn khổ và nghèo đói.
Ngày hôm nay đây, Cây Thánh Giá đang có mặt trước mắt tôi. Cách đây vài tháng
tôi mừng kỷ niệm 35 năm tuyên khấn lần đầu. Vào dịp ấy các Nữ Tu của Mẹ Teresa
Calcutta muốn chúc mừng tôi theo phong tục Ấn Độ. Vào cuối Thánh Lễ, Các Chị vừa
trao cho tôi một vòng dây đeo kết bằng hoa hồng làm bằng giấy vừa hát bài ca
chúc mừng. Vài phút sau đó, tôi đặt vòng đeo hoa hồng này vào cổ Vị
Chịu-Đóng-Đinh. Ngài chính là Đấng Cứu Thế, Đấng luôn soi sáng hướng dẫn và ban
cho tôi mọi sức lực cần thiết vào những giai đoạn cam go nhất trong cuộc lữ hành
trên trần gian này.
Thứ Sáu Tuần Thánh 6-4-2007, Cây Thánh Giá Haiti làm cuộc hành trình đầu tiên
trên các nẻo đường cát-bụi mịt-mờ của đất nước Zambia nằm trong đại lục Phi
châu. Dân quê làng Chowa thay phiên nhau vác Cây Thánh Giá để gẫm Chặng Đàng
Thánh Giá. Một nhóm dân nghèo lê-thê lếch-thếch bước theo sau Cây Thánh Giá.
Nơi mỗi Chặng Đàng Thánh Giá, các tín hữu Công Giáo Chowa gợi lên một thảm trạng
sống thực của chính họ lồng khung trong cảnh Khổ Nạn của Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Họ
lần lượt nhắc đến nỗi thống khổ của các bệnh nhân liệt kháng chiếm 20% dân số
Zambia; hàng ngàn hàng vạn đứa trẻ mồ côi lang thang đầu đường xó chợ; bao nông
dân nghèo lam lũ cực nhọc mới kiếm ra chút ít lương thực nuôi sống gia đình; các
người thợ bị bóc lột tận xương tủy trong các xưỡng dệt do các chủ nhân ông ngoại
quốc điều khiển. Tất cả mọi thành phần khốn-khổ bần-cùng của người dân Zambia
đều được nhắc đến trong 14 Chặng Đàng Thánh Giáo vào Thứ Sáu Tuần Thánh năm
ngoái. Càng tiến gần đến Chặng Cuối Cùng của Đàng Thánh Giá, hòa lẫn giữa tiếng
trống và lời kinh tiếng hát buồn thảm theo cung điệu bi-ai của Ngày Thứ Sáu Tuần
Thánh, Cây Thánh Giá Haiti như lớn dần lớn dần và ôm trọn mọi nạn nhân của bất
công nghèo đói trên toàn thế giới...
Sau mấy tiếng đồng rảo quanh làng để gẫm 14 Chặng Đàng Thánh Giá, đoàn rước Cây
Thánh Giá Haiti tiến về nhà thờ Thánh-Charles. Khi Cây Thánh Giá Haiti tiến vào
thánh đường, có một nhóm 12 phụ nữ quấn tấm vải màu xanh, mình mẩy dính đầy bụi
bặm, vừa lăn lóc vừa than khóc trước Cây Thánh Giá. Khung cảnh gây xúc động mạnh
nơi tôi, bởi vì tôi chưa bao giờ chứng kiến một cảnh tượng như thế lúc Đi Đàng
Thánh Giá! Người điều khiển Cộng Đoàn giải thích cho tôi hiểu:
- Khi một vị trưởng làng qua đời, các phụ nữ cũng than khóc y như vậy trước quan
tài của ông. Vì thế, đối với các phụ nữ này cũng như đối với toàn thể Cộng Đoàn
tín hữu Công Giáo làng Chowa ở Phi Châu đây, thì, Thánh Giá và Đấng
Chịu-Đóng-Đinh đích thực là Thủ Lãnh Tối Cao. Thánh Giá là Trung Tâm Cuộc Sống.
Thánh Giá là TẤT CẢ đối với một tín hữu Công Giáo.
(”CHRONICA CICM”, Bulletin mensuel, 78è Année, n.1, Janvier-Février/2008, trang
8-11)
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
Ở tuổi thanh thiếu niên, con cái còn cần đến cha mẹ hơn bất cứ lúc nào. cha mẹ có thể làm dịu đi stress mà đứa con đang ở tuổi thanh thiếu niên của mình đang chịu đựng trong cuộc sống hàng ngày.
Từ “stress” gần như đồng nghĩa với từ “thanh thiếu niên”. Như vậy cha mẹ có thể làm dịu đi stress mà đứa con đang ở tuổi thanh thiếu niên của mình đang chịu đựng trong cuộc sống hàng ngày. Điều quan trọng là gia đình phải là một tổ ấm an toàn đối với con cái, để con cái có thể trở về vui chơi, nghỉ ngơi, thư giãn, đón tiếp bạn bè.
Một số yếu tố chủ yếu gây ra stress của tuổi thanh thiếu niên là do:
· Chính bản chất của lứa tuổi thanh thiếu niên.
· Đương đầu với những vấn đề thường ngày của gia đình.
· Những thay đổi về sinh lý và áp lực xảy ra trong cuộc sống của thanh thiếu niên.
· Phải hứng chịu nhưũng áp lực từ nhà trường, gia đình, đôi khi từ công việc và từ chính cá nhân người thanh thiếu niên.
· Tất cả những sự việc thông thường làm phiền lòng cho cả người lớn như tang chế, tiếng ồn, xe cộ, vấn đề tiền bạc, những yêu cầu của công việc...
· Phát sinh những cảm xúc tính dục khi đối diện với người khác phái.
Các bậc phụ huynh hãy tin rằng, những đứa con đang ở lứa tuổi thanh thiếu niên của anh/chị còn cần đến cha mẹ hơn cả khi chúng còn là một đứa trẻ sơ sinh, hoặc là một đứa bé đang chập chững tập bước đi trên đôi chân của mình, hoặc lần đầu tin tiếp xúc với thế giới bên ngoài.
Trần Tâm sưu tầm từ “Thanh thiếu niên với stress”
I. SUY NIỆM LỜI CHÚA.
Chúng ta đọc : Ga 17.20-26.
Đọan Tin mừng chúng ta vừa nghe là lời Đức Giêsu cầu nguyện cho những kẻ tin vào Ngài nhờ lời rao giảng và giáo huấn của các môn đệ, nghĩa là Chúa cầu nguyện cho hết mọi thành phần trong Hột thánh. Mục đích Đức Giêsu cầu nguyện là để mọi người tin vào Ngài được hiệp nhất với nhau. Chính sự hiệp nhất này là sức mạnh và có tính thuyết phục thế gian tin vào Đức Giêsu là Đấng Cứùu thế.
Có một chân lý của Đạo mà ai cũng biết, đó là mầu nhiệm “một Chúa Ba Ngôi”, ở đâu có Cha là có Con và Chúa Thánh Thần. Trước khi về trời, Đức Giêsu đã dâng lên Cha một lời cầu thiết tha cho sự hiệp nhất của các tông đồ, của mọi tín hữu trong mọi thời và mọi nơi. Chúa nói :”Lạy Cha, xin cho tất cả nên một, như Cha ỡ trong Con, để cho họ được hòan tòan nên một như chúng ta là một”, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con”.
Đức Giêsu đã làm cho mọi tín hữu thành chỉ thể Ngài, mỗi người có khả năng riêng, đòan sủng riêng, nhưng tất cả là để xây dựng cho cộng đòan là Hội thánh (x. 1Cr 12,4-27).
Là người Kitô hữu, chúng ta có bổn phận làm chứng cho Chúa Giêsu đến tận cùng trái đất. Bài Tin mừng hôm nay cũng trao cho vợ chồng sứ mạng giữa trần gian là làm chứng cho sự hiệp nhất của Chúa và Hội thánh; một điều kiện để thế gian tin rằng “Cha đã sai Con”, để thế gian tin rằng “Cha đã yêu thương họ như đã yêu Con”.
“Nên một” là một lý tưởng của đôi vợ chồng. Nhưng để có sự “hòa hợp nên một”, Hội thánh khuyên vợ chồng :”Yêu thương và tôn trọng nhau suốt đời”. Tôn trọng sự khác biệt giữa mỗi phái, sự hòa hợp chỉ nên một tập hợp phong phú khi âm là âm và dương là dương. Đàn ông phát huy nam tính : chủ gia đình, cột trụ cho vợ con; là người vợ trở thành trái tim của gia đình, lửa mến ấm cúng của gia thất.
II. HÒAN CẢNH CỦA MỖI GIA ĐÌNH.
Hòan cảnh gia đình càng ngày càng phức tạp và khó khăn do áp lực của cuộc sống. Một năm chỉ có bốn mùa xuân hạ thu đông, chia đều thành quí. Nhưng một đời hôn nhân lại có hơn bốn mùa. Còn có mùa “giông bão”, mùa “hạn hán”, mùa “gió chướng”. Đối với nhiều đôi, đông hạ thì quá dài mà xuân thu lại quá ngắn.
Khi nói về người đàn bà trong gia đình, tôi thấy trong báo “Tuổi trẻ cười” có một câu hỏi xem ra cũng hay hay :”Phụ nữ là mùa gì” ?
- Thưa giáo sư, người ta thường ví phụ nữ là “mùa xuân”, còn bản thân tôi với những đụng chạm thực tế, tôi thấy phụ nữ là “mùa nắng”, quan niệm của tôi có sai không ? Theo giáo sư, phụ nữ là gì nếu không phải là mùa xuân ?
Giáo sư trả lời :
- Nếu tôi nhớ không lầm thì chẳng có ai dại dột ví tòan bộ cuộc đời của phụ nữ là mùa xuân. Những nhà thơ lãng mạn, những nhạc sĩ trữ tình, những nhà văn ướt át thì cũng chỉ ngợi ca , ví von cái… quãng đời giữa của phụ nữ (khỏang từ mười mấy đến hăm mấy) là tuổi thanh xuân, thời xuân sắc, thuở xuân tình vv… Việc bạn cho phụ nữ là mùa nắng thì không có gì sai pháp luật, và còn làm cho tôi nhớ đến câu ngạn ngữ của Sudan :”Phụ nữ như là cái mền trong mùa hè, đắp thì nóng, mà mở ra thì… lạnh”. Riêng tôi, tôi ví phụ nữ cả … bốn mùa gộp lại, đến mức dù có một trạm khí tượng thủy văn với hàng tỉ thiết bị tiên tiến vẫn không thể nào… dự báo được (Tuổi trẻ cười, số 133, th 2/95, tr 8).
Trong gia đình, vợ chồng luôn bị thử thách trước sự hiệp nhất, nguy cơ chia rẽ luôn rình chờ. Vợ chồng phải đề cao cảnh giác. Tuy không dùng lời nói để gây chiến tranh với nhau, nhưng những cử chỉ hằng ngày cũng có thể tạo ra một cuộc chiến phá vỡ sự hiệp nhất để đi đến sự chia lìa.
Truyện : vợ chồng câm.
Anh câm chị cũng câm, thế mà vẫn tìm hiểu nhau và đi đến hôn nhân như mọi người khác ! Không những thế, gia đình còn làm ăn khấm khá và dần dần sinh được 6 người con. Xóm giềng thấy thế ai cũng mừng cho gia đình câm và rỉ tai nhau :”Câm cũng khổ và cũng hay, khỏi có lời qua tiếng lại, cũng chẳng phải nghe tiếng nặng tiếng nhẹ, bớt được nhiều vụ va chạm xích mích”.
Ai ngờ đâu, con người có thật lắm cách để bầy tỏ tình cảm của mình ! Vợ chồng câm mà vẫn cơm không lành, canh không ngọt. Cả hai cùng đưa nhau ra tòa ly dị. Thiên hạ hiếu kỳ lại được dịp đi xem. Tòa chấp thuận cho ly dị nhau và quyết định mỗi bên phải nuôi 3 đứa, cứ mỗi tháng hai bên gặp nhau một lần để cho con cái thăm bố mẹ và anh chị em thăm nhau.
Thế nhưng vẫn không xuôi, lại cùng nhau ra tòa lần nữa, vì mấy lần gặp nhau cả hai vợ chồng vẫn có chuyện xích mích trong lúc con cái thì tíu tít vui vẻ. Tòa xử :”Từ đây 3 tháng mới gặp nhau một lần”.
Được một thời gian, gia đình câm ấy lại… dắt nhau ra tòa ! Vì vợ chồng vẫn tiếp tục sinh sự. Tòa án phải đi đến một giải pháp sau hết :”Từ đây, con đi thăm mẹ và anh chị em thì bố đừng đi theo; mà con đi thăm bố và anh chị em thì mẹ phải ở nhà. Chừng ấy mới yên được”.
(Trên đường lữ hành tr 207-208).
III. PHẢI HÀN GẮN LẠI NHỮNG ĐỔ VỠ.
1. Hàn gắn vật chất.
Đồ vật được dùng lâu dễ bị hư hỏng : bị vỡ, bị thủng, bị rách. Đồ dùng bị hỏng là do thời gian qúa lâu, hoặc ta vô ý hay cố tình làm hỏng. Không có đồ dùng nào dễ bị hỏng mà dùng được mãi. Đồ dùng hỏng cũng có cấp độ : hoặc hỏng nặng, hoặc hỏng vừa, hoặc hỏng sơ sơ.
Khi đồ dùng đã bị hư hỏng ai cũng muốn sửa chữa ngay bằng cách hàn gắn lại. Nếu bị hư hỏng nặng, đồ dùng bị bỏ đi; nếu hỏng vừa thì có thể sửa chữa được, nếu hỏng sơ sơ thì càng dễ sửa. Sửa chữa càng sớm càng tốt. Kết quả của sự hàn gắn sau khi đã sửa chữa thì có thể dùng lại được, nhưng không chắc chắn bằng lúc còn lành lặn và cũng không đẹp bằng lúc trước.
2. Hàn gắn tinh thần.
Nếu đồ dùng bị hư hỏng mà người ta còn sửa chữa để dùng, huống hồ những vết thương lòng còn quan trọng gấp mấy sao lại không sửa ?
a) Những va chạm trong đời sống vợ chồng.
Trong đời sống vợ chồng, có rất nhiều mối bất hòa có thể đi đến chỗ xung đột, mất hạnh phúc. Những mối bất hòa ấy do nhiều nguyên nhân : kinh tế, xã hội, tâm lý. Nhưng nếu để ý kỹ đến trạng thái của sự bất hòa xung đột giữa vợ chồng, chúng ta sẽ thấy có hai lọai khác nhau :
- Một là sự bất hòa bùng nổ.
- Hai là sự bất hòa ngấm ngầm.
Thường thì những cuộc bất hòa bùng nổ do các nguyên nhân tài chính tiền bạc hoặc những sai phạm rõ rệt của vợ hoặc chồng như cờ bạc, lăng nhăng. Bản chất của lọai này thường sôi động ầm ĩ, nhưng nếu giải quyết xong, hoặc qua cơn sóng gió thì trời lại yên, gia đình lại trở về mức bình thường.
Lọai bất hòa thứ hai mang bản chất nhẹ nhàng hơn, sâu kín hơn, âm thầm hơn và có khi lại gây đau khổ trường kỳ cho vợ chồng mà một trong những nguyên nhân chính là nguyên nhân tâm lý, nghĩa là những khác biệt về tâm lý nam nữ.
b) Phải hàn gắn vết thương lòng.
Khi vợ chồng đã va chạm nhau nặng thường để lại những dấu ấn trong tâm hồn. Nếu va chạm nặng thì để lại một vết thương lòng, mà nếu không biết hàn gắn lại thì sẽ đi đến chỗ tan vỡ, sau này khó hàn gắn :
Khi tình yêu một lần phản bội
Hết mong được nở lại hoa yêu.
(Xuân Diệu)
Oâng La Rochefoucauld cũng nói như thế :”Khó mà yêu thương được lần thứ hai người mà mình đã hết yêu thương”.
Tuy nhiên, không phải hòan tòan thất vọng, nếu cố gắng vẫn có thể cứu vãn được tình thế :
Tuy rằng đá nát thì thôi
Ai ngờ đá nát nung vôi lại nồng.
(Ca dao)
IV. NHỮNG PHƯƠNG CÁCH HÀN GẮN.
Có nhiều cách hàn gắn, mỗi trường hợp lại có những cách thế khác nhau, nhưng ở đây chúng tôi chỉ đưa ra ba phương cách mà ai cũng có thể áp dụng được.
1. Nhận lỗi và xin lỗi.
Nhận lỗi là bước đầu để đi đến hòa giải. Thực ra ai cũng có lý và ai cũng muốn bênh vực lý của mình, nhưng phải nói rằng lý của chúng ta còn phiến diện, chỉ đúng một phần nào, trong khi đó lý của người khác cũng có tính cách thuyết phục. Lúc đó tốt hết thi cứ nói :
Tại anh, tại ả, tại cả hai bên.
Truyện : Phong tục người Dahomey.
Người xứ Dahomey có phong tục đáng khen ngợi : khi hai vợ chồng giận nhau, mỗi người ngồi một góc nhà. Sau một lúc, người chồng đứng dậy nói với vợ :
- Tôi là một đứa điên.
Lúc sau, người vợ cũng đứng dậy nói với chồng :
- Tôi là một đứa điên.
Sau cùng, cả hai vợ chồng ra giữa nhà và nói :
- Chúng ta là những người điên.
Rồi hai người nhìn nhau thông cảm tặng cho nhau những nụ cười khả ái, duyên dáng tươi vui và bầu khí hòa bình đã trở lại.
2. Nhường nhịn nhau.
Nhường nhịn là chìa khóa thành công trong đời sống chung, đặc biệt là trong đời sống gia đình. Người ta thường nói :”Một sự nhịn chín sự lành”, vợ chồng nhường nhịn nhau chẳng có gì là đáng xấu hỏ vì người ta thường nói :Tránh voi chẳng xấu mặt nào”. Trong cuộc sống vợ chồng, ai cũng có lý và ai cũng muốn bảo vệ cái lý của mình và bắt đối phương phải chấp nhận lý ấy, điều đó chỉ đưa đến xung đột không giải quyết được gì cả. Nhường nhịn là giải pháp tối ưu.
Truyện : ai cũng có lý.
Ở Đông phương, trong vô số truyền thuyết về Hotgia Nacretdin, có một câu chuyện như sau : Đi qua một làng nọ, nghe thấy tiếng cãi cọ của một cặp vợ chồng, người thông thái bèn gọi người chồng ra và nói nhỏ một câu vào tai ông ta. Ông này gật đầu đồng tình và thôi không cãi nhau với vợ nữa. Sau đó, Hotgia Nacretdin lại thầm thì với người vợ khiến bà này nở một nụ cười tươi rói. Nhà thông thái có câu “thần chú” gì mà tài tình vậy ? Thực ra thì ông chỉ nói mỗi câu đối với cả hai người :”Tôi biết ông (bà) có lý. Nhưng ông (bà) là người thông minh nên thừa biết rằng khó mà thuyết phục một kẻ ngu ngốc, vậy nên nhường nhịn ông (bà ) ấy. (Kiến thức gia đình, số 104, tr 55).
3. Yêu thương và tôn trọng nhau.
Tôn trọng theo nguyên ngữ La tinh, bởi động từ Respicere, có nghĩa là “nhìn vào”. Như vậy, tôn trọng là nhìn một người với tất cả hiện trạng của họ và như một cá vị độc nhất. Nói cách khác, tôn trọng là nhận định người khác, cũng có thể tiến triển như chính mình. Tôi muốn người tôi yêu lớn lên, phát triển, không phải để làm lợi cho tôi, nhưng cho chính người tôi yêu. Tôi yêu nàng và cảm thấy là một với nàng, nhưng vì nàng là nàng, chứ không phải là điều tôi muốn nàng trở thành, để làm lợi cho tôi. Tình yêu, như thế, thật vô vị lợi. Đức Kitô cũng đã yêu ta bằng tình yêu đó, Ngài đã cứu ta, đã cho ta tất cả, nhưng chẳng lấy lại gì. Khi cứu chuộc, Ngài cũng không áp đặt, nhưng hòan tòan tôn trọng con người của chúng ta , tự do của ta.
Truyện : Tìm ra khía cạnh tốt.
Mới đây, một viên giám đốc của một hiệu buôn lớn có nói rằng : một trong những điều khó chịu thuộc nghề của ông là phải nghe lời than phiền liên lỉ của khách hàng. Lúc nào họ cũng thấy khuyết điểm trong việc tiếp khách, trong hàng hóa và thấy các cô bán hàng thiếu lễ độ.
Một hôm, có một thiếu phụ muốn gặp ông ta. Ông ta tự nghĩ : lại phiền trách. Nhưng lần này ông ta lầm to. Người đàn bà nói với ông :
- Tôi đến để thưa với ông là tôi rất thích đến mua hàng ở tiệm này. Tôi mới đến đây, và tôi nghĩ nếu tất cả đồng bào trong thành phố này đều tử tế lịch sự như các cô bán hàng của ông, thì tôi thấy sống ở đây rất dễ chịu (cf J. Keller, Just for today).
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta biết quên đi những lỗi lầm mà chỉ thấy cái hay, cái tích cực của người khác. Xin Chúa giúp chúng ta dùng nhiều thời giờ để phô bầy sự thiện ra , hơn là để phiền trách những sai lầm.
Lm Giuse Đinh Lập Liễm
Đà lạt
Hôm ấy Gioan Tẩy Giả đang giảng trên bờ sông Giođan.Dân chúng ùn ùn đến nghe ông giảng. Ông kêu gọi mọi người sám hối, canh tân đời sống để đón nhận Đấng Cứu Thế. Lời giảng của ông làm nhói com tim của mọi người.
Những người thu thuế hà lạm đến với ông. Ông khuyên họ đừng bóc lột, hãy thu thuế theo đúng luật. Họ cúi đầu ngẫm nghĩ. Dường như quá khứ của họ nhơ nhớp lắm : tham ô, móc ngoặc; coi tiền quý hơn tình người.
Bọn lính lê dương cũng rủ nhau đến nghe ông giảng. Ông khuyên họ đứng bắt nạt dân.. Đừng ăn hiếp người cô thân cô thế. Họ cúi đầu tỏ vẻ hối tiếc. Dường như họ có hãm hiếp, có trộm cắp, có ăn gian nói dối. Dường như họ có cờ bạc, rượu chè và đĩ điếm nữa.
Các cô điếm, các mụ tú bà cũng dập dìu đến. Vẫn điệu đà – vẫn hở hang – vẫn liếc mắt đưa tình… Khi họ nhìn thấy cặp mắt của Gioan Tẩy Giả họ bị nhột. Dường như trong ánh mắt của nhà khổ tu Gioan có chút gì là nghiêm khắc, là khiển trách. Nhưng dường như trong ánh mắy ấy lại có một cái gì như xót xa, như tội nghiệp. Và như có một lời khuyên nhủ ngọt ngào nào đó. Họ bắt đầu khép nép. Cặp mắt nhìn xuống ra vẻ lắng nghe.
Bổng vang lên một lời hịch sang sảng nhưng truyền cảm. “Ai bằng lòng sám hối, đổi mới cuộc đời để đón nhận Đấng Mêsia thì… xin mời xuống sông để tôi xối nước cho”. Thế là một rừng người nô nức lội xuống sống, ánh mắt rực lên lòng phấn khởi đổi mới.
Và Đức Giêsu xuấn hiện bất ngờ khiến Gioan giật mình. Ngài mĩn cười với Gioan :
Anh cũng xối nước sám hối cho em với nhá.
- Không dám đâu ! Chú phải xối nước cho tôi mới đúng chứ.
- Không sao ! Việc nào tốt thì mình cứ làm.
Rừng người dừng bước, trố mắt nhìn. Gioan dìu Chúa xuống sống, hai tay bụm lại múc nước xối lên đầu Chúa.
Có một con chim bồ câu lạ từ đâu bay nhiều vòng trên cao, lấy Chúa làm điểm đồng quy. Bỗng lại có tiếng vang vang chẳng biết từ đâu vọng tới “ Con là Con yêu dấu của Cha. Cha rất hài lòng về Con”.
Hằng trăm con mắt đổ dồn về phía Đức Giêsu, rồi nhìn về phía Gioan như muốn hỏi “ông này là ai thế ? . Gioan vội vàng nói ngay “ Đây là Chiên Thiên Chúa, Người đến sau tôi nhưng cao trọng hơn tôi. Tôi đáng xách dép cho Người” .
Đó là sứ mạng của Gioan, người đầu tiên được ghi vào danh sách các vị thừa sai của loài người. Ông cũng là vị thừa sai vĩ đại nhất. Ông chỉ mơ ước một điều là Đức Giêsu phải nổi lên. Còn ông thì chỉ muốn nhỏ đi và lui vào bóng tối. Tất cả cho Đức Giêsu. Đó là phẩm chất cao nhất của một thừa sai.
Mầu nhiệm thứ hai
Đức Giêsu từ Miền Nam trở về Miền Bắc, mang theo năm đệ tử đầu tiên đó là Gioan, Anrê, Philip, Natanaen. Trước khi đến lập trung tâm truyền giáo ở Caphácnaum, Người đến dự tiệc cưới Cana. Đức Giêsu cũng có mặt ở đó.
Đang ăn vui vẻ thì Đức Mẹ đến nói nhỏ bên tai Chúa “nhà này hết rượu rồi “ ngụ ý nói : “ Hết phương cầu cứu rồi, chỉ còn làm phép lạ thôi” . Chúa trả lời một câu chắc nịch, lạnh như băng : “Chuyện này không liên quan gì đến Mẹ và Con (hiểu ngầm là mẹ đừng xía vô). Vả lại thời giờ của Con chưa tới. Y như cánh cổng gỗ lim đóng rầm một cái, khóa cứng lại bằng ổ khóa to đùng. Không còn lối ra, chẳng còn lối vô.
Tưởng như thế là tuyệt vọng rồi. Gia đình này sẽ bị dư luận chế giễu cho đến hết đời, nhục nhã đến chết được. Cô dâu và chú rể mơ màng thấy mình không thể ăn đời ở kiếp với nhau được. Buồn đến chết được.
Thế mà bỗng dưng người ta thấy mặt Đức Mẹ rực lên một niềm hy vọng. Người tập trung đám thanh niên chạy bàn tới, ra lệnh như một bà tướng : “ tụi con nghe dì dặn nè : Anh Hai biểu gì thì tụi con làm ngay nghen”. Anh Hai tức là Đức Giêsu ra lệnh đổ đầy nước vào 6 cái chum, rồi múc một chum trao cho ông trưởng ban tổ chức. Ông uống một miếng rồi trợn mắt hỏi bên sui trai : “Tụi bay là gì mà kỳ cục vậy. Rượu ngon phải cho uống trước, rượu lạt để uống sau. Tuị bay làm ngược không à. Tại sao rượu ngon đến bây giờ bây mới cho uống”. Thì ra 6 chum nước lã đã thành rượu ngon. Do đâu ? Do phép lạ của Đức Giêsu.
Đức Giêsu đã dứt khoát từ chối không làm phép lạ rồi mà. Tại sao Chúa lại đổi ý ? Tại Đức Mẹ. Tại sao Đức Mẹ đổi được cả ý Chúa ? Không biết. Đó là tài khéo của Đức Mẹ.
Mẹ yêu dấu ? Tại sao Chúa đã dứt khoát không làm phép lạ, mà rồi lại làm. Tại Mẹ khéo năn nỉ hay tại Mẹ khóc nức nở làm Chúa mủi lòng? Cho đến bây giờ bí mật ấy chưa bật mí. Chúng con chỉ biết rằng Mẹ đã lật được thế cờ, đưa gia đình nhà đám hôm đó từ nỗi tuyệt vọng đến niềm hy vọng tuyệt vời.
Chúa yêu Mẹ. Chúa quý trọng Mẹ. Chúa không nỡ để Mẹ buồn. Chúa đã thực hiện phép lạ đầu tiên ngoài ý muốn của Người.Một cách gián tiếp Chúa giới thiệu quyền phép cao cả của Mẹ. Từ đó đến bây giờ Mẹ đã lật thế cờ 180 độ bao nhiêu lần rồi. Chúng con cảm phục Mẹ quá chừng. Chúng con xin tặng Mẹ tước hiệu : “ Nữ Vương lật Thế cờ “.
Lm. Piô Ngô Phúc Hậu