MỤC LỤC
Thông cáo chính thức về chuyến viếng thăm của Phái Đoàn Tòa Thánh tại Việt Nam
Vị lãnh đạo mới của Hàn Lâm Viện Giáo Hoàng về Sự Sống
MỘT NGÀY LÀM VIỆC CỦA ĐỨC BÊNÊĐÍCTÔ XVI.
Phiên họp của Ủy ban Liên lạc Hồi giáo–Công giáo
Đức Thánh Cha gởi lời chào đến Đại Hội Thánh Thể
Đức Thánh Cha tiếp kiến Tổng Thống G. W. Bush
Luật cho phép giết người êm dịu
Phái đoàn Toà Thánh thăm Ðại Chủng viện Thánh Giuse Saigòn.
Phỏng vấn LM Hạt Trưởng Quảng Trị về tình hình Thánh Địa La Vang
THÁNH LỄ TẠ ƠN TÂN LINH MỤC ANTÔN NGUYỄN THANH VŨ.
GIÁO XỨ AN NGÃI 03 THÁNG 6 NĂM 2008.
TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH
NHƯ MỘT LỜI MỜI:
- Kính mời quý vị vào trang web www.tinvui.org để đọc các bài viết khác
- Mọi thư từ cộng tác góp ý và giúp đỡ xin quý vị gửi về địa chỉ E-mail :bantreconggiao@yahoo.com
- Ban biên tập Tin vui rất mong nhận được sự đón nhận của quý vị độc gỉa gần xa
- Xin Thiên Chúa ban muôn ơn lành và đồng hành với quý vị trong hành trình đời sống Kitô hữu
Chúa Nhật XII Thường Niên A
"Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Các con đừng sợ những người đó, vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết. Điều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà.
"Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn: Các con hãy sợ Đấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần.
"Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời". Đó là lời Chúa.
Cuộc sống thiên hình vạn trạng, và cuộc đời con người là một chuỗi những cảm xúc tâm lý khác nhau. Sợ hãi, một trong những cảm xúc rất tự nhiên ấy nơi con người, xuất hiện dưới nhiều dáng vẻ. Nó đến rồi đi, nhưng ảnh hưởng để lại không nhỏ.
Bình thường như hơi thở ra và hơi thở vào, sợ hãi đeo đẳng con người chẳng trừ một ai, lứa tuổi nào. Trẻ em sợ ma, người già sợ chết…Nỗi sợ, tự nó không nói lên điều gì, nhưng lại chi phối rất nhiều trong đời sống, khi thức cũng như khi ngủ, do tác động bên ngoài vào lẫn do tác động bên trong ra. Người ta sợ nghèo đói, sợ bệnh tật, sợ đau khổ, sợ bị bị vu oan giá họa, sợ thua người khác, sợ ít có ảnh hưởng hơn người khác, sợ người khác giỏi hơn mình, sợ người khác trổi vượt hơn mình, thậm chí, sợ người khác đạo đức hơn mình, đàng hoàng hơn mình…Có những nỗi sợ này đôi khi lại là nguyên nhân của nỗi sợ khác; sợ phải sống ngay thẳng, liêm chính vì sợ bị thua thiệt, sợ phải sống theo chân lý…
Sợ là một hiện tượng tâm lý rất tự nhiên. Chẳng ai làm người mà ít nhất không một lần sợ hãi. Nếu có ai nói rằng, mình không sợ gì cả, người ấy ắt đang giấu một nỗi sợ nào đó trong lòng, có thể là mơ hồ và cũng có thể đã rõ ràng nhưng người ta không muốn hoặc không dám thừa nhận. Người ta che giấu những giới hạn, những khuyết điểm, những thiếu sót, những điều ám muội, bằng những việc làm tốt, bằng những thái độ bất cần đời hay coi trời bằng vung chỉ vì sợ căn nhà nội tâm của mình bị khám phá.!
Sợ làm người ta mất vui, mất ăn, mất ngủ, mất bình an, mất tự do, và mất cả tình nghĩa với nhau. Vì sợ mà ngươi ta tìm cách hạ bệ nhau, nói xấu nhau, đặt điều vu khống, loại trừ nhau, lập nhóm này nhóm kia để giành ảnh hưởng, để khẳng định chỗ đứng…Vô hình chung, những “nạn nhân của những cơn sóng sợ hãi” lại trở thành “ chủ mưu” gây ra những nỗi đau thương cho người khác.
Chúng ta tự hỏi mình phải làm gì khi những cơn sóng sợ hãi như muốn bao trùm và cuốn trôi chúng ta ? Chúng ta phải làm gì khi những thế lực của các “nạn nhân của những cơn sóng sợ hãi” đang tấn công và như muốn đè bẹp chúng ta ! Thật, lắm khi chúng ta phải giằng co, chiến đấu để chọn lựa hai thái cực : để cho Chúa lớn lên hay để cho con người bị tổn thương của chúng ta phải phản kháng lại trước những tấn công, những câu trả lời của Chúa Giêsu luôn luôn là : Đừng sợ ! Đừng sợ người đời (Mt 10, 27). Đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác(28) ! Đừng sợ vì chúng ta có giá trị trước mặt Chúa (23).
Đã hẳn mỗi người chúng ta đều có những nỗi sợ riêng, và bản tính con người khiến chúng ta muốn hành xử tự nhiên như bản chất chúng ta vốn có, nhưng Đức Giêsu mời gọi chúng ta đối diện và vượt qua những nỗi lo sợ đó bằng lòng tín thác, không để nỗi sợ chi phối đời mình, hay vì sợ mà không dám sống cho chân lý, để được an bình và tự do.
Sợ loài người mà không sợ Thiên Chúa, Đấng có thể “tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục: là dấu chấm hết của đời người, nhưng mở hướng đi vào cửa ngõ cuộc sống mới trong Thiên Chúa ở đời sau. Vì thế, chúng ta được mời gọi trở về với căn nhà nội tâm thiêng liêng của chúng ta- tâm hồn – nơi Thiên Chúa hiện diện ; nơi chúng ta có thể rung cảm, suy nghĩ, và hành động cách chân thực, để vượt ra ngoài những cảm xúc sợ hãi của mình. Bao lâu chúng ta còn sống giữa những cảm xúc sợ hãi, bấy lâu chúng ta sẽ tiếp tục cảm thấy ghen ghét, giận hờn, tức bực và ngay cả cuống loạn. Ngay cả khi những tấn công của kẻ thù gia tăng, hòng lôi kéo chúng ta ra khỏi quyết tâm sống yêu thương của mình, chúng ta cũng được mời gọi bám chặt vào căn nhà nội tâm ấy và ở đó, lắng nghe tiếng nói của tình yêu. Đừng sợ người ta ! Đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục (Mt 10, 28).
Chính khi chúng ta chiến thắng nỗi sợ nhờ niềm tin vào đời sau, và vào Đức Giêsu, Đấng đã trải qua những nỗi sợ hãi nhưng không bị sợ hãi nuốt chủng, mà chúng ta có giá trị trước mặt Ngài: Đức Giêsu sẽ nhận chúng ta trước mặt Thiên Chúa. Ngược lại, Ngài sẽ chối từ chúng ta trước mặt Cha của Ngài (x Mt 10, 32-33).
Tin tưởng vào Đức Giêsu, Đấng đã đi tới cùng và mời gọi chúng ta : “Can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16, 33), chúng ta được mời gọi đừng để cho cõi lòng đang xao xuyến của chúng ta chú ý đến những làn sóng sợ hãi và các thế lực đe dọa bên ngoài, một chỉ chú tâm vào Đấng đang bước đi trên những cơn sóng ấy và nói : “Thầy đây, đừng sợ” ( Mt 14, 27).
Nt. Anna Nguyễn Thị Ngọc Hạnh, Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm
Thánh Gioan Baotixita là “Kẻ dọn đường cho Chúa đến” (Lc 7, 27) Chúa đã đào tạo kẻ dọn đường đó thế nào ? Tôi thấy 4 điểm nổi bật này :
1. Sự câm lặng của người cha
Cha Gioan là thầy tư tế Dacaria. Một hôm ông Dacaria đang dâng hương trong đền thờ Chúa, thì Tổng lãnh thiên thần Gaprien hiện ra với ông. Sứ thần Chúa báo tin cho ông biết là bà Elisabet, vợ ông sẽ sinh ra cho ông một con trai. Ông phải đặt tên cho nó là Gioan. Em bé sẽ được đầy Chúa Thánh Thần, sẽ đi trước mặt Chúa, chuẩn bị cho dân sẵn sàng đón Chúa. Nghe vậy, ông Dacaria bỡ ngỡ, không muốn tin. Để làm dấu cho ông tin, sứ thần bảo : “Này đây, ông sẽ bị câm, không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra” (Lc 1, 5-22). Tư tế Dacaria bị câm cho đến ngày Gioan được cắt bì.
Tôi coi sự câm lặng Chúa làm cho ông Dacaria là một yếu tố quan trọng trong việc đào tạo nên “Kẻ dọn đường cho Chúa đến”.
Ngài câm lặng như một hy sinh bày tỏ sự vâng phục ý Chúa. Kẻ dọn đường cho Chúa sẽ phải là người từ bỏ mình về mọi mặt, nhất là từ bỏ ý riêng mình.
Dacaria câm lặng không phải để mà căm lặng, nhưng để trở về nội tâm mình, mà cầu nguyện và chiêm niệm chương trình của Chúa.
Câm lặng đó không phải cái gì tiêu cực, nhưng là cái gì tích cực. Nó giúp ông Dacaria biết mình là kẻ bất lực bất xứng trước kế họach cứu độ của Chúa. Câm lặng đó là để rèn luyện đức tin.
Ông Dacaria vì thế đã là một nhân tố rất quan trọng đào tạo nên “ Kẻ dọn đường cho Chúa”.
2. Sự ẩn mình của người mẹ
Phúc Âm ghi lại như sau : “Ít lâu sau, bà Êlisabet có thai. Bà ẩn mình năm tháng” (Lc 1, 24).
Sự ẩn mình của bà Elisabet là một chi tiết đạo dức đặc biệt. Theo thói thường, người đàn bà cao tuổi, son sẻ, mà thế gian cho rằng không còn hy vọng có con, nay bỗng có thai. Đó là một tin vui cho phép nở mày nở mặt. Tin vui đó nên được khoe ra để hãnh diện.
Nhưng, bà Elisabet đã không làm thế. Bà ẩn mình trong một thời gian dài. Bà chỉ ra mặt trong tháng thứ sau, để đón tiếp Đức Mẹ Maria cũng mới mang thai Đấng cứu thế.
Trong thời gian dài ẩn mình, bà Elisabet đã tập trung lòng trí mình vào việc tạ ơn và cầu nguyện. Bà không hiểu nhiều về chương trình cứu độ. Bà chỉ đón nhận tin vui như một ơn Chúa ban cho bà một cách nhưng không.
Trước ơn nhưng không đó, bà tạ ơn và cầu nguyện một cách khiêm nhường. Bà tin vào Chúa và nhìn về tương lai với lòng phó thác đơn sơ.
Sự khiêm nhường của đức tin nơi người mẹ đã là môi trường đào tạo nên Gioan. Môi trường ấy là rất đạo đức trong lòng người mẹ. Thai nhi Gioan đã được cưu mang trong môi trường ẩn dật của lòng người mẹ đạo đức. Đúng là giáo dục con từ thuở còn là bào thai.
3. Sự thánh hóa âm thầm của Đức Mẹ Maria
Phúc Âm kể : “Hồi ấy, bà Maria lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Elisabet. Bà Eliasabet vừa nghe tiếng Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói với Maria rằng : Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc’ ( Lc 1, 39-42).
Qua đoạn Phúc Âm vừa ghi, tôi thấy Đức Mẹ đã giữ một vai trò hết sức quan trọng trong việc đào tạo “Kẻ dọn đường cho Chúa đến”. Mẹ đã thánh hóa thai nhi một cách bất ngờ.
Sự thánh hóa bất ngờ đó đã được thực hiện một cách rất hồn nhiên. Không có nghi thức. Chỉ có một lời chào. Lời chào đó đi kèm với sự gặp gỡ thân thương đã chuyển vào thai nhi nguồn ơn thánh đặc biệt. Thai nhi được ơn thánh hóa một cách âm thầm.
Biến cố thánh hóa xảy ra giữa hai phụ nữ thánh, và hai thai nhi thánh. Điều đó cho tôi thấy : Sự thánh hóa thường được thục hiện bởi những nhân vật thánh. Họ sống khiêm tốn, cầu nguyện và hy sinh, vững tin vào Chúa. Họ sống ẩn dật, ngoan ngoãn đặt mình trong sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần.
4. Cảnh hoang địa mà Gioan được đưa vào.
Phúc Âm kể về Gioan : “Cậu bé này lớn lên thì tinh thần càng vựng mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Israel’ ( Lc 1, 80).
Hoang địa mà Gioan được đưa vào không rõ là sa mạc hay rừng cây. Nhưng biết chắc đó là một thiên nhiên vắng vẻ. Sống trong thiên nhiên đó sẽ không có tiện nghi. Một mình phải tự lo lấy để sống từ ngày này sang ngày kia. Tất nhiên cuộc sống sẽ rất vất vả, về cái ăn, cái mặc, cái ở.
Gioan sống khắc khổ, không phải như là một lối sống hoang dã, như một lối sống tu hành. Vừa lao động vừa chiêm niệm, trong một môi trường thiên nhiên vắng vẻ.
Một thoáng nhìn trên đây về con đường đào tạo “Kẻ dọn đường cho Chúa đến’ cho phép tôi đi tới kết luận này :
Môi trường nhân sự là hết sức quan trọng. Ông Dacaria, bà Elisabet, Đức Mẹ Maria là những nhân sự thánh. Các người thánh sẽ góp phần đào tạo nên người thánh.
Môi trường thanh vắng là một yếu tố không nên coi thường. Sự thanh vắng để cầu nguyện và chiêm niệm luôn luôn có sức đào tạo nên những con người thánh.
Môi trường siêu nhiên là yếu tố rất cần thiết. Môi trường này là thái độ của các tâm hồn khiêm tốn, luôn đón nhận mọi ý Chúa, một cách kính trọng, để cộng tác vào kế hoạch cứu độ của Chúa một cách từ bỏ, dấn thân và phó thác.
ĐGM. GB Bùi Tuần
VATICAN - Hôm 17-6-2008, Phòng Báo chí Tòa Thánh đã công bố thông cáo chính thức về chuyến đi của phái đoàn Tòa Thánh tại Việt Nam. Nguyên văn như sau:
"Phái đoàn Tòa Thánh, gồm có Đức ông Pietro Parolin, Thứ trưởng ngoại giao, Đức ông Luis Mariano Montemayor, Tham tán Sứ Thần tại Phủ quốc vụ khanh, và Đức ông Barnabê Nguyễn Văn Phương, Chủ Sự tại Bộ truyền giáo, đã đi Việt Nam trong những ngày từ 9 đến 15-6 và đã về đến Roma hôm qua (16-6-2008).
Như thông lệ, chương trình dự kiến một loạt các cuộc gặp gỡ với chính quyền, ở cấp trung ương cũng như địa phương, và với cộng đoàn Công Giáo. Trước tiên, Phái đoàn đã họp với Đức Cha Phó Chủ Tịch và Tổng thư ký HĐGM, và sau đó với chính Đức Cha Chủ Tịch, Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, GM Đà Lạt, trong cuộc viếng thăm giáo phận của ngài, và với các GM thuộc giáo tỉnh Hà Nội.
”Các phiên họp làm việc với Ban Tôn giáo của chính phủ do ông Nguyễn Thế Doanh làm trưởng ban, đã tạo cơ hội thảo luận, trong bầu không khí thẳng thắn và thân mật, về nhiều khía cạnh của đời sống và hoạt động của Giáo Hội tại Việt Nam, đặc biệt là việc bổ nhiệm các GM, việc trao trả từ từ cho Giáo Hội sử dụng các tài sản đã bị quốc hữu hóa trước đây, sự đóng góp của các tín hữu vào việc thăng tiến con người, sự phổ biến một nền văn hóa liên đới với những tầng lớp yếu thế nhất trong dân chúng, và việc giáo dục luân lý cho các thế hệ trẻ.
Phái đoàn Tòa Thánh đã được Phó Thủ trướng và ngoại trưởng Phạm Gia Khiêm tiếp kiến, và đã trao đổi với ông về thời sự quốc tế. Đặc biệt về ghế thành viên không thường trực của Hội đồng bảo an LHQ mà Việt Nam sẽ đảm nhận lần đầu tiên từ tháng 7 tới đây, chứng tỏ vai trò ngày càng quan trọng mà Việt Nam đang đảm trách trong cộng đồng các quốc gia và trong khuôn khổ miền, cũng như viễn tượng cộng tác với Tòa Thánh để mưu hòa bình và sự phát triển, tinh thần cũng như vật chất, của thế giới. Vấn đề bình thường hóa quan hệ song phương cũng được nêu lên. Để tiến tới điều này, hai bên dự kiến rằng Nhóm Làm Việc, với nhiệm vụ xác định thời gian và thể thức, sẽ khởi sự công việc sớm nhất trong thời gian tới đây. Các vấn đề nói trên cũng là đối tượng cuộc nói chuyện với ông Nguyễn Huy Quang, Phó Chủ tịch Ủy ban ngoại giao thuộc Ủy ban trung ương đảng cộng sản Việt Nam.
"Phái đoàn Tòa Thánh đã gặp Chủ Tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội, Ông Nguyễn Thế Thảo, và các vị Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh Lâm Đồng, Thừa Thiên - Huế và Quảng Trị. Với Ông Nguyễn Thế Thảo Phái đoàn đã nhắc đến những biến cố có sự can dự của các tín hữu thuộc Tổng giáo phận Hà Nội hồi cuối năm ngoái và đầu năm 2008. Về vấn đề này, cũng giống như trong các dịp khác, Phái đoàn nghĩ nên tiếp tục làm cho bầu không khí được thanh quang, tránh những biện pháp có thể đưa tới các hậu quả trái ngược, và tiếp tục đối thoại qua các thẩm quyền liên hệ, để tìm những giải pháp thích hợp, để ý tới những đòi hỏi của công bằng, bác ái và công ích. Ông Thế Thảo, tương đương với Đô Trưởng Hà Nội, đã nhiệt liệt mong ước rằng cộng đồng Công Giáo tích cực tham gia vào việc chuẩn bị mừng kỷ niệm ngàn năm Thành Phố Hà Nội, sẽ diễn ra vào năm 2010. Với chính quyền tỉnh Quảng Trị, Phái đoàn Tòa Thánh cám ơn vì đã quyết định trả lại cho Giáo Hội sử dụng khu đất quanh Trung Tâm Thánh Mẫu Lavang, và ý chí, cùng với tổng giáo phận Hà Nội, cứu xét giải quyết các vấn đề còn tồn đọng để thực sự thi hành quyết định nói trên.
Sau cùng, Phái đoàn Tòa Thánh đã viếng thăm các Giáo phận Đà Lạt và Huế, trong bầu không khí đức tin sinh động và hiệp thông sâu xa của Giáo Hội thường có trong các cuộc gặp gỡ ấy, và Đoàn đã cử hành Thánh Lễ với các Đức Giám Mục Đà Lạt, Mỹ Tho, Nha Trang và Huế, đón nhận sự biểu lộ lòng yêu mến sâu xa và lòng trung thành với ĐTC. Điều đặc biệt cảm động là cuộc viếng thăm và Thánh Lễ tại Trung Tâm Thánh Mẫu La Vang. Phái Đoàn đã để lại Trung Tâm một Mặt Nhật nghệ thuật do ĐTC Biển Đức 16 tặng, và cùng với tất cả mọi người tham dự đến từ tổng giáo phận Huế và các giáo phận của Việt Nam và cả từ nước ngoài, Phái Đoàn cầu nguyện để địa điểm rất được các tín hữu Công Giáo Việt Nam quí chuộng và được cả những người không Công Giáo tôn kính, ngày càng trở thành một trung tâm hiệp nhất và hòa giải cho mọi người dân của Việt Nam quí yêu, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo hoặc chính trị. (SD 17-6-2008)
(LM Trần Đức Anh, OP, chuyển ý)
Vatican Bulletin
ROME - Vào sáng hôm qua Đức Thánh Cha Bênêđíctô 16 đã bổ nhiệm Đức Giám Mục Salvatore (Rino) Fisichella, Giám Mục Phụ Tá của Giáo Phận Rôma và Giám Đốc của Trường Đại Học Giáo Hoàng Lateranô, làm Chủ Tịch của Hàn Lâm Viện Giáo Hoàng về Sự Sống (Pontifical Academy for Life) và đồng thời nâng Ngài lên thành Tổng Giám Mục.
Vị Tân Chủ Tịch của Hàn Lâm Viện Giáo Hoàng về Sự Sống chào đời vào ngày 25
tháng 8 năm 1951. Thầy Fisichella chịu chức Linh Mục cho Giáo Phận Rôma vào ngày
13 tháng 3 năm 1976, và sau đó được bổ nhiệm làm Đức Giám Mục Phụ Tá cho Giáo
Phận Rôma vào ngày 31 tháng 7 năm 1998. Ngài được bổ nhiệm làm Giám Đốc của
Trường Đại Học Giáo Hoàng Lateranô vào ngày 18 tháng 1 năm 2002.
Vị cựu Chủ Tịch của Hàn Lâm Viện chính là Đức Giám Mục Elio Sgreccia đã nghỉ hưu
vì tới tuổi 75.
Đức Tổng Giám Mục Fisichella, người gốc Ý Quốc, 57 tuổi, chính là người đã hổ
trợ cho Đức cựu Hồng Y Joseph Ratzinger lúc đó trong việc chuẩn bị về nội dung
của bức Thông Điệp Fides et Ratio cho Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị.
Việc bổ nhiệm này đến là từ việc Ngài đứng ra triệu tập Đại Hội mừng kỷ niệm 40
năm ngày ra đời của Thông Điệp
Humane Vitae về Sự Sống và Hôn
Nhân Gia Đình vào ngày 8 đến 10 tháng 5 vừa qua. Ngoài việc bổ nhiệm này ra,
Ngài cũng là thành viên của hai Thánh Bộ trong Giáo Triều Rôma đó là: Thánh Bộ
Giáo Lý Đức Tin, và Thánh Bộ đặc trách Việc Phong Thánh.
Đức Tổng Giám Mục Fisichella - vốn không phải là người xa lạ cho lắm - đối với
giới truyền thông đại chúng ở Ý Quốc và những ai mạnh mẽ cổ võ cho các vấn đề có
liên quan đến sự sống, việc phá thai, việc trợ tử, việc nghiên cứu tế bào từ
phôi thai, và hôn nhân đồng tính luyến ái. Ngài vẫn thường xuyên xuất hiện trong
những cuộc tranh luận trên đài truyền hình Ý Quốc để bảo vệ quan điểm truyền
thống về đạo đức luân lý của Giáo Hội, và luôn giữ sự bình tĩnh cũng như tôn
trọng những ý kiến bất đồng khác với quan điểm của Ngài. Ngài nổi tiếng là người
có tài đối thoại với những người trí thức không phải là Công Giáo về các vấn đề
quan trọng kể trên.
Hơn nữa, Ngài cũng là người gây hứng khởi để khiến cho một trong những người Hồi
Giáo nổi tiếng nhất tại Ý là Ông Magdi Alam, quyết định bỏ Đạo Hồi để gia nhập
đạo Công Giáo vào Đêm Vọng Phục Sinh 2008 vừa qua tại Đại Vương Cung Thánh Đường
Thánh Phêrô.
Vào năm ngoái, Giáo Phận Rôma đã mạnh mẽ từ chối cử hành lễ tang theo nghi thức
Công Giáo cho Ông Piergiorgio Welby - một người mạnh mẽ cổ võ cho việc trợ tử,
hay cái chết êm dịu.
Ông này bị mắc bệnh loạng dưỡng cơ bắp (muscular dystrophy) và Ông yêu cầu rằng:
các bác sĩ không cần phải dùng máy hô hấp nhân tạo cho Ông, và mặc dầu tòa án từ
chối lời đề nghị của Ông, thế nhưng một vị bác sĩ Ý Quốc vẫn ngang nhiên coi
thường án lệnh đó, để chỉ tôn trọng ý nguyện của riêng Ông Welby mà thôi.
Báo chí Ý cho biết: mặc dầu vậy, nhưng Đức Tổng Giám Mục Fisichella vẫn cầu
nguyện cho Welby "rằng Thiên Chúa sẽ nhân từ đồng hành với Ông sau khi Ông
phải chịu sự đớn đau trong một thời gian rất dài," và Đức Tổng Giám Mục "luôn
khẩn cầu Thiên Chúa tha tội cho những ai đã giết chết Welby."
Knights of Columbus: June 2, 2008: Hệ Thồng Truyền Hình Muối và Ánh Sáng của Canada đã thực hiện một cuốn phim thời sự sẽ được chiếu tại Đại Hội Thánh Thể Thế Giới.
“Con Đường Hy Vọng: Hành Trình Thiêng Liêng Của Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận” được tài trợ bởi một ngân khoản của Hiệp Sĩ Đoàn Trung Ương (The Knights of Columbus Supreme Council.)
Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận (1928 -2002) được bổ nhiệm làm Tổng Giám mục Saigon năm 1975. Chỉ vài tháng sau khi thành phố Saigon bị chiếm đóng, ngài đã bị bắt và bị giam trong trại cải tạo trong 13 năm, trong đó có 9 năm biệt giam.
Cuốn phim đề cao việc Thánh Thể đã gìn giữ ngài trong thời gian bị giam cầm.
Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận được trả tự do ngày 21 tháng 11, năm 1988, và bị trục xuất sang Ý. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm ngài làm Bộ Trưởng Thánh Bộ Công Lý và Hòa Bình, và ngài được phong chức Hồng Y ngày 21 tháng 2, năm 2001.
Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận dùng những năm cuối của cuộc đời ngài để đi khắp nơi trên thế giới loan truyền sứ điệp hy vọng và tha thứ của ngài, và để soạn thảo Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội (Compendium of the Social Doctrine of the Church), một thành qủa cao nhất của đời ngài được hoàn tất sau khi ngài qua đời. Tài liệu này được Thánh Bộ Công Lý và Hòa Bình ấn hành năm 2004. Ngài qua đời vì bệnh ung thư tại một bệnh viện ở Rôma ngày 16 tháng 9, 2002.
David Naglieri và toán sản xuất phim của hệ thống truyền hình Muối và Ánh Sáng đã hợp tác chặt chẽ với Elizabeth Wong, em gái của Đức Hồng Y hiện đang sống tại Windsor, Ontario, Canada, và Đức Hồng Y Renato Martino, đương kim Bộ Trưởng Thánh Bộ Công Lý và Hòa Bình.
Toán sản xuất được phép đặc biệt để sưu tầm các bức hình của gia đình, các cuốn phim, các lá thư và các tài liệu cá nhân của ngài, kể cả bản nháp cuốn sách “Con Đường Hy Vọng” cuả ngài, và các di vật ngài dùng để dâng thánh lễ trong tù.
Cuốn phim cũng trình bầy các cuộc phỏng vấn đầy đủ chi tiết với các thân nhân trong gia đình ngài, với André Văn Châu, người viết tiểu sử ngài, với Đức Hồng Y Martinô, với các giới chức Tòa Thánh và các nhân vật thân cận đã làm việc với ngài.
(Phỏng theo Isabelle de Gaulmyn, “A day in the life of the Pope” trong Catholic Digest April 2008).
5:30 sáng: Khi công trường Thánh Phêrô còn đang yên tĩnh trong bầu khí buổi sáng sớm của thành Rôma và chờ đợi những đoàn du khách sẽ lần lượt kéo đến, trên tầng thứ ba của tòa nhà nơi Đức Gáo Hoàng cư ngụ và làm việc, người ta thấy ánh sáng đèn bắt đầu chiếu lên; đó là lúc Đức Giáo Hoàng thức dậy và bắt đầu một ngày mới với những giờ phút cầu nguyện và tĩnh tâm sáng.
7:00 sáng: Đức Giáo Hoàng dâng Thánh Lễ tại nhà nguyện riêng cùng với sự hiện diện của hai Đức Ông Goerg Gaenswein và Alfred Zuereb (hai vị Thư Ký của Đức Giáo Hoàng) và bốn người giúp việc. Thời Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thì thường có thêm một số khách được vào cùng dâng lễ.
8:30 sáng: Đức Giáo Hoàng làm việc tại Văn phòng riêng. Nếu trời tốt, cửa sổ nhìn ra công trường Thánh Phêrô sẽ mở (chính từ cửa sổ này, vào mỗi trưa Chúa Nhật, Đức Giáo Hoàng nguyện kinh Truyền Tin cùng với các khách hành hương tụ tập tại công trường Thánh Phêrô phía dưới). Một trong hai Đức Ông Thư ký sẽ đem đến cho Đức Giáo Hoàng tập các văn kiện, bản tóm lược các tin tức quan trọng trên thế giới, chương trình làm việc trong ngày, những người Ngài sẽ gặp và những đề tài chính sẽ đề cập đến.
11:00 Trưa: Đức Giáo Hoàng xuống phòng tiếp tân ở tầng hai để tiếp các vị thủ lãnh các quốc gia, các vị Giám Mục, các nhân vật quan trọng… đã được sắp xếp theo chương trình. Sau đó Ngài tiếp các khách đến viếng thăm tại thư viện riêng.
1:30 Trưa: Đức Giáo Hoàng dùng bữa trưa đơn giản tại phòng ăn ở tầng ba với các viên chức hoặc đôi khi có khách được mời. Sau đó Đức Giáo Hoàng thường chơi Piano, đặc biệt những bản của Mozart, rồi đi dạo một chút trước khi nghỉ trưa.
3:30 Chiều: Đức Giáo Hoàng lại làm việc tại văn phòng để duyệt lại các văn kiện và các bài diển văn.
Vào Mùa Đông từ 4:00 đến 4:45 chiều (vào mùa Hè từ 6:45 đến 7:30) Ngài ra vườn để đi dạo với hai vị thư ký.
6:00 Chiều: Ngài gặp gỡ tại văn phòng riêng, các vị cố vấn thân cận, như các Đức Hồng Y, các Giám Mục Tổng Trưởng, Tổng Thư Ký các Bộ tại Tòa Thánh.
7:30 Tối: Đức Giáo Hoàng ăn bữa tối, xem tin tức trên truyền hình. Sau đó Ngài vào Nhà Nguyện để cầu nguyện trong yên lặng ban đêm.
Khi chuông Đại Thánh Đường Thánh Phêrô điểm 11:00 giờ đêm, đèn phòng ngủ của Đức Giáo Hoàng tắt và Ngài bắt đầu nghỉ đêm.
LM. Anphong Trần Đức Phương
Vatican (VIS) – Phiên họp lần thứ 14 của Ủy Ban Liên lạc Hồi giáo–Công giáo đã được tổ chức từ ngày 11 đến 13 tháng 6 tuần trước.
Phái đoàn Công giáo, đứng đầu là Đức Hồn y Jean-Louis Tauran chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Đối thoại Liên tôn, và dẫn đầu phái đoàn Hồi giáo là Giáo sư Hamid bin Ahmad Al-Rifaie, chủ tịch Diễn đàn Đối thoại Hồi giáo Quốc tế, đến từ Jeddah, nước Saudi Arabia.
Sau đây là bản thông cáo do Hội đồng Giáo hoàng về Đối thoại Liên tôn phổ biến:
“Chủ đề của phiên họp là ‘Người Kitô giáo và Hồi giáo làm Chứng nhân cho Thượng Đế Từ Bi, Công Bằng, và Hoà bình trong một Thế giới Khổ đau vì Bạo lực’. Chủ đề này được xem xét dưới nhãn quan tôn giáo dựa trên các giáo huấn của hai truyền thống tôn giáo. Cả hai phía đồng thuận những điểm sau đây:
1- Từ phẩm giá cố hữu của mỗi con người phát sinh ra các quyền lợi và nhiệm vụ căn bản.
2- Công lý là vấn đề ưu tiên trong thế giới ta đang sống. Ngoài việc thực thi những điều luật lệ hiện có, công lý cần phải tôn trọng các nhu cầu căn bản của những cá nhân và các dân tộc bằng thái độ yêu thương, huynh đệ và đồng cảm. Không có công lý thì không thể có một nền hoà bình đích thực và lâu bền.
3- Hòa bình là một quà tặng của Thượng đế nhưng cũng cần đến sự cam kết của mọi người, đặc biệt là các tín đồ là những người được kêu gọi làm những chứng nhân tỉnh thức cho hòa bình trong một thế giới bị khổ đau vì bạo hành dưới nhiều hình thức.
4- Người Kitô giáo và người Hồi giáo tin rằng Thượng đế là Đấng từ bi và do đó coi mình có bổn phận phải bày tỏ lòng từ bi đối với mọi người, đặc biệt là những người gặp khó khăn và yếu đuối.
5- Các tôn giáo, nếu được thực thi một cách chân chính, đều góp phần hữu hiệu trong việc đề cao tình huynh đệ và hài hòa trong gia đình nhân loại.”
Bản thông cáo kết luận với lời giải thích rằng các tham dự viên đã được Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI tiếp kiến, ngài đã “khuyến khích họ tiếp tục các nỗ lực triển dương hoà bình và công lý.”
VATICAN CITY (Zenit.org).- Vào lúc kết thúc buổi tiếp kiến chung tại Quảng Trường Thánh Phêrô vào chiều thứ Tư hôm qua, Đức Thánh Cha chia sẽ vài lời với các tham dự viên của Đại Hội Thánh Thể Thế Giới, hiện đang diễn ra tại thành phố Quebec, Canada cho đến hết ngày Chủ Nhật tuần này.
Chủ đề của Đại Hội Thánh Thể Thế Giới năm nay chính là: "Phép Thánh Thể: hồng ân của Thiên Chúa cho đời sống cả thế giới" (The Eucharist: gift of God for the life of the world).
Đức Thánh Cha nói:
"Cha hiện diện trong tinh thần với tất cả các con ở kỳ đại hội long trọng nhất này của Giáo Hội, và Cha tin rằng thời gian này sẽ là khoảng thời gian phong phú để cầu nguyện và chiêm niệm về mầu nhiệm của Bí Tích Thánh Thể, cho tất cả các cộng đoàn Kitô hữu ở Canada và cho cả Giáo Hội hoàn vũ. Nguyện cho đại hội này cũng sẽ là một giây phút thuận tiện để qua đó tái khẳng định lại đức tin của Giáo Hội nơi sự hiện diện thật sự của Chúa Kitô trong Phép Thánh Thể."
Đức Thánh Cha Bênêđíctô 16 kết thúc buổi chia sẽ của Ngài bằng cách bày tỏ về niềm hy vọng rằng đại hội:
"sẽ làm hồi sinh nơi những người có niềm tin - không chỉ ở Canada mà thôi mà còn tại các quốc gia khác nữa trên thế giới - một sự nhận thức về giá trị tâm linh và tính rao giảng Phúc Âm vốn đã bị mất đi trong căn tính của họ."
Anthony Lê Đức Thánh Cha gởi lời chào đến Đại Hội Thánh Thể
VATICAN CITY (Zenit.org).- Vào lúc kết thúc buổi tiếp kiến chung tại Quảng Trường Thánh Phêrô vào chiều thứ Tư hôm qua, Đức Thánh Cha chia sẽ vài lời với các tham dự viên của Đại Hội Thánh Thể Thế Giới, hiện đang diễn ra tại thành phố Quebec, Canada cho đến hết ngày Chủ Nhật tuần này.
Chủ đề của Đại Hội Thánh Thể Thế Giới năm nay chính là: "Phép Thánh Thể: hồng ân của Thiên Chúa cho đời sống cả thế giới" (The Eucharist: gift of God for the life of the world).
Đức Thánh Cha nói:
"Cha hiện diện trong tinh thần với tất cả các con ở kỳ đại hội long trọng nhất này của Giáo Hội, và Cha tin rằng thời gian này sẽ là khoảng thời gian phong phú để cầu nguyện và chiêm niệm về mầu nhiệm của Bí Tích Thánh Thể, cho tất cả các cộng đoàn Kitô hữu ở Canada và cho cả Giáo Hội hoàn vũ. Nguyện cho đại hội này cũng sẽ là một giây phút thuận tiện để qua đó tái khẳng định lại đức tin của Giáo Hội nơi sự hiện diện thật sự của Chúa Kitô trong Phép Thánh Thể."
Đức Thánh Cha Bênêđíctô 16 kết thúc buổi chia sẽ của Ngài bằng cách bày tỏ về niềm hy vọng rằng đại hội:
"sẽ làm hồi sinh nơi những người có niềm tin - không chỉ ở Canada mà thôi mà còn tại các quốc gia khác nữa trên thế giới - một sự nhận thức về giá trị tâm linh và tính rao giảng Phúc Âm vốn đã bị mất đi trong căn tính của họ."
VATICAN - Sáng 13-6-2008, ĐTC Biển Đức 16 đã tiếp kiến tổng thống Hoa Kỳ George Bush và Phu Nhân Laura, theo một nghi thức ngoại thường.
Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết: để đáp lại cuộc tiếp đón nồng nhiệt Tổng thống Mỹ đã dành cho ĐTC trong cuộc viếng thăm Hoa Kỳ, cuộc tiếp kiến này không theo nghi thức thông thường.
Khi tổng thống và phu nhân, có Đại sứ Hoa Kỳ cạnh Tòa Thánh là bà Mary Ann Glendon tháp tùng, đến tháp thánh Gioan trong nội thành Vatican vào lúc gần 11 giờ, ông bà đã được ĐTC tiếp đón. Sau đó ngài và Tổng thống đã hội kiến thân mật ở lầu trên trong vòng gần nửa giờ. Trong dịp này, ĐTC tái cám ơn Tổng Thống về sự tiếp đón tại Mỹ và tại tòa Nhà Trắng, cũng như về dự dấn thân bảo vệ các giá trị luân lý cơ bản. Các vị nói về tình hình quốc tế, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Âu Châu, Trung Đông, sự dấn thân cho hòa bình tại Thánh Địa, sự hoàn cầu hóa, cuộc khủng hoảng lương thực và mậu dịch quốc tế, việc thực thi các mục tiêu đề ra trong Ngàn Năm Mới.
Trong khi ĐTC nói chuyện với Tổng thống Bush, ĐHY Bertone, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, nói chuyện với bà Laura và bà đại sứ Hoa Kỳ. Sau đó ĐTC đã gặp chung Tổng thống, Phu nhân và những người tháp tùng. Nhân dịp này Tổng thống đã tặng ĐTC hình chụp với ông có chữ ký của ông và phu nhân ghi trên góc. ĐTC cũng tặng lại tổng thống bức hình chụp ngài với ông bà tổng thống có thủ bút và bộ sách 4 cuốn về Đền Thờ Thánh Phêrô.
Kế đến, ĐTC và Tổng thống Hoa Kỳ đã đi dạo 20 phút trong Vườn Vatican cho đến sân trước hang đá Lộ Đức. Tại đây, ca đoàn Sistina, gồm đa số là các thiếu nhi, đã hợp đướng hai bài thánh ca bằng tiếng latinh: Exultate Deo và bài Alma Redemptoris Mater.
Ngồi trước hang đá và ca đoàn, ngoài ĐTC, Tổng thống Hoa Kỳ và Phu Nhân Laura, ĐHY Quốc vụ khanh, còn có một số người thuộc đoàn tùy tùng của Tổng thống. Tổng thống đã phá nghi thức ngoại giao, đến nói chuyện với Đức Ông Ca trưởng và chụp hình với các thiếu nhi ca viên. Ông Bà Tổng Thống đã giã từ ĐTC lúc 12 giờ để ra về.
Tháp Thánh Gioan là nơi Đức Gioan Phaolô 2 cư ngụ tạm thời khi mới được bầu làm Giáo Hoàng trong khi chờ đợi tu bổ căn hộ của ngài trong dinh Tông Tòa. Về phần ĐTC Biển Đức 16, khi mới đắc cử, ngài ở lại trong nhà trọ Thánh Marta, và ĐHY Bertone đã cư ngụ tại tháp Thánh Gioan trong khi chờ đợi tu bổ căn hộ của ngài. Đây cũng là lần đầu tiên một vị Tổng thống được ĐTC tiếp kiến tại tháp này. (SD 13-6-2008)
Một số nhận định của bà Elisabetta De Septis, giáo sư môn ”Quyền sinh học và luân lý sinh học” tại Cao học khoa học tôn giáo San Lorenzo Giustiniani, Venezia, bắc Italia, về luật giết cho phép người êm dịu.
Hạ tuần tháng 5 vừa qua chính quyền Bỉ đã đề nghị cho phép cả trẻ em vị thành niên quyền quyết định chết êm dịu. Cùng với Hòa Lan và Luxembourg Bỉ là quốc gia thứ ba trong Liên Hiệp Âu châu có luật cho phép trợ tử. Hòa Lan đã là quốc gia đầu tiên trên thế giới chấp nhận luật trợ từ ngày 28-11-2000. Nhưng từ 20 năm trước đó hàng năm vẫn có hàng ngàn người được trợ tử. Chỉ nội trong năm 1999 tại Hòa Lan đã có 2216 trưởng hợp giết người êm dịu.
Luật cho phép giết người êm dịu đã được chính quyền Bỉ chấp nhận ngày 28-5-2002. Kể từ đó tới nay cùng với Hòa Lan, Bỉ ở trên ranh giới các thế quân bình tế nhị giữa các xác tín luân lý tôn giáo và quyền của cá nhân với trách nhiệm xã hội của các bác sĩ và các nhà thương. Tuy 88% người dân Bỉ xưng mình theo Công Giáo, nhưng trong các cuộc thăm dò ý kiến có tới 72% chấp nhận việc trợ tử đối với các bệnh nhân ở trong giai đoạn chót, không thể lật ngược tình thế được nữa và chịu nhiều đau đớn thể lý và tinh thần. Trong năm 2004 đã có 259 trường hợp trợ tử: 54% tại nhà thương, 41% tại gia đình của bệnh nhân, và 5% trong nhà dưỡng lão.
Bắt đầu từ ngày 16-5-2005 hộp thuốc trợ tử do hãng ”Multipharma” sản xuất đã được bầy bán trong các tiệm thuốc tây toàn nước Bỉ. Hộp thuốc gồm 5 ống thuốc, vài kim tiêm và giấy hướng dẫn cách xử dụng giá 60 Euros, có thể mua với toa của bác sĩ, và lấy về nội trong 24 giờ đồng hồ.
Trong thời gian qua tại Bỉ người ta lại tái thảo luận về việc áp dụng luật trợ tử. Ủy Ban Công Lý và và Xã Hội đề nghị chấp nhận cả các lời tuyên bố trước ý muốn được trợ tử của những người lâm tình trạng bão bộ bị hư hại không nói và cử động được nữa. Liên quan tới các trẻ em vị thành niên Ủy ban yêu cầu thêm vào một điều khoản mới cho phép cha mẹ hay các người đại diện hợp pháp quyền xin trợ tử, trong trường hợp đứa bé không có khả năng phân định cần thiết. Theo đó các nạn nhân đầu tiên đương nhiên là các thai nhi bị bệnh nặng hay tàn tật. Những người cổ võ điều khoản mới này của luật cho phép giết người êm dịu nói rằng họ xác tín về sự cấp thiết nới rộng luật trợ tử cho các trẻ em vị thành niên. Và ngày 29-5-2008 bác sĩ Marc Cosyns của thành phố Gant, người đã trợ tự một phụ nữ và một trẻ em 10 tuổi, đã được phép phát biểu trước Quốc Hội Bỉ sự ủng hộ của ông đối với các biện pháp mới này.
Theo các kết qủa cuộc điều tra do nguyệt san ”Lancet” thực hiện, tại Bỉ trong năm 2000 hơn phân nửa các trẻ sơ sinh chết ít lâu sau khi chào đời, là do sự can thiệp của các bác sĩ chích thuốc cho các em chết. Do đó việc đưa thêm điều khoản mới vào luật trợ tử sẽ hoàn toàn hợp thức hóa việc sát hại các trẻ sơ sinh đã được thực hành rộng rãi từ lâu tại Bỉ.
Luxembourg là quốc gia thứ ba chấp nhận luật cho phép trợ tử ngày 20-2-2008. Hiện nay phong trào cho phép giết người êm dịu có khuynh hướng lan tràn sang các quốc gia khác, điển hình như Italia và Tây Ban Nha, vì các đảng phái chính trị nhiều nước muốn đề nghị quốc hội thảo luận và bỏ phiếu dự luật này.
Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận định của bà Elisabetta De Septis, giáo sư môn quyền sinh học và luân lý sinh học tại Cao học khoa học tôn giáo San Lorenzo Giustiniani, Venezia, bắc Italia, về luật giết người êm dịu. Giáo sư Elisabetta De Septis mới cho phát hành cuốn sách tựa đề ”Làm cho thết êm dịu, giữa luân lý sinh học và quyền lợi”.
Hỏi: Thưa giáo sư De Septis, hồi hạ tuần tháng 5 vừa qua chính quyền Bỉ đã đưa ra đề nghị khiến cho nhiều người bị sốc mạnh: đó là cho phép trợ tử cả các trẻ em vị thành niên và những ai đã mất khả năng trí tuệ, theo 4 dự khoản luật sẽ được đảng tự do dân chủ Bỉ đề nghị quốc hội thảo luận trong thời gian tới đây. Giáo sư nghĩ sao?
Đáp: Nếu các dự luật này được chấp thuận, thì chúng ta lại bước thêm một bước lo âu khác nữa: đó là biến việc trợ tử trở thành hợp pháp, mà không cần tới lời yêu cầu của bệnh nhân. Quyết định kết liễu cuộc sống một người đã không xin được chết sẽ tùy thuộc sự lượng định của các kẻ khác, rất dễ đưa tới các phán đoán về phẩm chất cuộc sống của bệnh nhân. Và nó sẽ có nguy cơ bị lạm dụng. Đây là các viễn tượng gây báo động khiến cho người ta ngao ngán, nhưng không ngạc nhiên, vì nó là hậu qủa có thể thấy trước của khuynh hướng hợp thức hóa việc giết người êm dịu ngày càng lan tràn trong xã hội ngày nay.
Đảng tự do dân chủ của Bỉ yêu sách rằng trong các nhà thương, kể cả các nhà thương tâm thần công giáo, nhiều nhất tại Bỉ, phải áp dụng luật giết người êm dịu hiện hành. Tình trạng này khiến cho người ta sợ rằng trong tương lai việc tôn trọng lương tâm sẽ gặp nguy hiểm.
Hỏi: Thế thì luật tại Bỉ hiện nay nói gì thưa giáo sư?
Đáp: Luật dự kiến cho phép làm cho chết êm dịu cả các bệnh nhân không vào giai đoạn cuối đời và các bệnh nhân không còn ý thức nữa. Trong trường hợp này cần phải có một di chúc sinh học xin được trợ tử. Chỉ trong một thời gian ngắn luật này đã đưa vào trong các tiệm bán thuốc hộp thuốc trợ tử gồm các ống thuốc và kim tiêm, có thể mua với toa của bác sĩ. Giá hiện nay của nó là 60 Euros. Nhưng có điều rất lạ là nó đã không khiến cho giới truyền thông chú ý.
Hỏi: Việc tái thảo luận về luật trợ tử là hậu qủa cái chết êm dịu của nhà văn Hugo Klaus hồi tháng 3 năm nay, có đúng thế không thưa giáo sư?
Đáp: Vâng, đúng thế. Nhà văn Klaus bị bệnh lão hóa Alzheimer, chứ không ở giai đoạn cuối cùng của cuộc sống: vì bệnh tình của ông còn đang ở giai đoạn đầu. Cái chết êm dịu của ông đã là một biến cố được giới truyền thông chú ý nhiều. Các sự lựa chọn của những danh nhân có thể điều kiện hóa dư luận của người dân thường, ngưỡng mộ họ, nhưng không có các tư tưởng rõ ràng về việc làm cho chết êm dịu. Sau khi nhà văn chết, người ta ghi nhận số người xin trợ tử gia tăng.
Hỏi: Nhưng mà nước Bỉ không phải là quốc gia duy nhất có luật cho phép trợ tử. Tại các nước khác thuộc Liên Hiệp Âu châu có nhiều hiệp hội phò trợ tử được dân chúng ủng hộ thưa giáo sư.
Đáp: Và các hiệp hội này biết cách lôi kéo sự chú ý và ủng hộ của người dân. Lý do cũng là vì trong các cuôc thảo luận đã không có các tiếng nói cân bằng của phe đối nghịch muốn bảo vệ sự sống. Rất thường khi thế giới công giáo bị bỏ rơi một mình, ”đơn thương độc mã” chống lại trào lưu trợ tử. Và người ta đã không hiểu rằng việc tôn trọng sự sống là vấn đề liên quan tới tất cả mọi người, chứ không phải chỉ liên quan tới những ai tin mà thôi.
Hỏi: Thưa giáo sư De Septis, kể cả các quốc gia không xa Italia như Tây Ban Nha, xem ra người ta cũng đang cố gắng tiến tới chỗ hợp thức hóa việc giết người êm dịu, có phải thế không?
Đáp: Thật ra đây không là điều gây ngạc nhiên, vì đường lối chính trị liên quan tới các vấn đề luân lý sinh học, mà thủ tướng Zapatero đã đề ra trong các năm qua bên Tây Ban Nha, đi theo hướng đó. Một khi di chúc sinh học được thừa nhận như chính quyền Tây Ban Nha đã làm mới đây, thì việc tiến tới luật cho phép giết người êm dịu sẽ rất đơn sơ và mau chóng. Người ta giới thiệu nó như là giải pháp duy nhất nhằm bảo đảm phẩm giá cho bênh nhân và người hấp hối.
Hỏi: Nhưng mà việc giết người êm dịu đâu có phải là giải pháp duy nhất, thưa giáo sư?
Đáp: Vâng, và đây chính là vấn đề. Cần phải thông tin đầy đủ một cách rộng rãi và chính xác, để cho dân chúng có một ý niệm đúng đắn liên quan tới việc giết người êm dịu. Thường khi trong các cuộc thăm dò ý kiến dân chúng trả lời là chấp nhận việc trợ tử, vì họ lẫn lộn nó với việc ngưng bám víu chữa trị bằng mọi giá, khi không còn hy vọng nào nữa. Đây là một điều khác, được phép và đáng làm. Cần phải giải thích cho họ biết rằng làm cho chết êm dịu không phải là con đường duy nhất, trái lại là đàng khác. Thật ra giải pháp: đó là biết lắng nghe các nhu cầu của người bệnh, với sự trợ giúp giá trị, với các phương thức chữa trị giúp giảm đau, và khả năng đưa ra các câu trả lời cho các đòi hỏi sâu thẳm của những người đau khổ, và bảo đảm cho người bệnh được tôn trọng như phải có. Phải thảo luận liên quan tới tất cả các vấn đề này. Nhìn xem những gì xảy ra tại các quốc gia khác liên quan tới đề tài làm cho chết êm dịu là điều hữu ích, vì nó giúp chúng ta hiểu điều không được để xảy ra trong đất nước chúng ta.
(Avvenire 29-5-2008)
Linh Tiến Khải
Saigòn, Việt Nam (15/06/2008) - Sáng Chủ Nhật, ngày 15-6-2008, Phái đoàn Toà Thánh gồm Ðức ông Pietro Parolin, Thứ trưởng Ngoại giao của Toà Thánh, Ðức ông Barnaba Nguyễn Văn Phương, Vụ trưởng Bộ Truyền giảng Phúc Âm cho các dân tộc, Ðức ông Luis Mariano Montamayor, Tham biện Toà Sứ thần tại Phủ Quốc Vụ Khanh, đã đến thăm Ðại Chủng viện Thánh Giuse, Thành Phố Saigòn. Trong chương trình chính thức, Phái đoàn Toà Thánh chỉ đi thăm 2 Giáo phận Ðà Lạt và Huế. Sau khi thăm Giáo phận Huế, ngày thứ Bảy, 14-6-2008, Phái đoàn Tòa Thánh đến Saigòn với mục đích để lấy máy bay trở về Rôma vào trưa Chủ Nhật, 15-6-2008. Tranh thủ thời gian hạn hẹp, Phái đoàn đã đến thăm, dâng lễ với các chủng sinh vào lúc 6g00, sau đó ăn sáng và rồi ra phi trường trở về Rôma. Trong thánh lễ, có sự hiện diện của ông Tổng Lãnh Sự Pháp tại Saigòn. Vì Phái đoàn Toà Thánh không có thời gian, nên ông Tổng Lãnh Sự đã đến tham dự Thánh lễ để có dịp gặp và chào thăm Phái đoàn.
Trừ các bài thánh ca và phần Phụng vụ Lời Chúa với các bài đọc bằng tiếng Việt, Thánh lễ được cử hành bằng tiếng Latinh. Trong bài giảng, Ðức ông Parolin đã chia sẻ về các bài Sách Thánh Chúa Nhật 11 Thường Niên A với 2 điều nhắn nhủ với các chủng sinh: lòng yêu mến Chúa Giêsu và lòng yêu mến Giáo Hội.
Trước hết, khởi đi từ bài Tin Mừng (Mt 9,36-10,8) nói về Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương trước đám đông như đoàn chiên không người chăn, như đồng lúa chín mà không có thợ gặt, nên Ngài đã kêu gọi các môn đệ hãy cầu xin Thiên Chúa sai thợ gặt đến, Ðức ông Parolin đã mời gọi các chủng sinh hướng về tình yêu của Chúa Giêsu như khởi điểm của ơn gọi tông đồ linh mục. Tình yêu thương cứu độ đó được Thánh Phaolô nhấn mạnh trong bài đọc 2, trích thư Rm 5,6-11: "Ðức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta". Vì thế, người chủng sinh, linh mục phải là người yêu mến Chúa Giêsu và có được những tâm tình yêu mến như Chúa Giêsu.
Phái đoàn đến thăm và dâng lễ với các chủng sinh Ðại Chủng Viện Thánh Giuse Saigòn.
Tiếp đến là lòng yêu mến Giáo Hội. Lòng yêu mến Giáo Hội được minh hoạ từ Thánh lễ mà Phái đoàn Toà Thánh đang cùng các chủng sinh cử hành bằng tiếng Latinh và tiếng Việt. Từ âm vang của tiếng Latinh, Ðức ông Parolin đã nhắc các chủng sinh về lòng yêu mến và hiệp thông với Giáo Hội toàn cầu. Trong tâm tình hiệp thông này, một lần nữa, Ðức ông Parolin đã chuyển lời chào thăm của Ðức Thánh Cha đến Giáo hội Việt Nam. Ðồng thời, từ âm vang của tiếng Việt, các chủng sinh được mời gọi yêu mến Giáo hội Việt Nam là Giáo Hội địa phương, đang được cắm rễ trong văn hoá Việt Nam, trong ngôn ngữ Việt Nam.
Từ 2 suy tư và nhắn nhủ trên, Ðức ông Parolin đã chia sẻ tâm tình của ngài khi nhìn các chủng sinh như là tương lai của Giáo Hội. Ngài đã nhắc lại một điểm chủ yếu được nhấn mạnh, khi Phái đoàn Toà Thánh trao đổi với Chính phủ Việt Nam: đó là "cùng hướng đến một tương lai tốt đẹp cho Ðất nước Việt Nam và Giáo hội Việt Nam". Trong cái nhìn đó, các chủng sinh được mời gọi hãy tích cực chuẩn bị trong giai đoạn đào tạo tại chủng viện, để có thể trở thành những linh mục thánh thiện cho ngày mai.
Cuối Thánh lễ, trước khi ban phép lành, Ðức ông Parolin đã cám ơn Cha Giám đốc, các Cha giáo sư và tất cả các chủng sinh. Và ngài mời gọi tất cả hãy cầu nguyện đặc biệt cho những điều mà Phái đoàn Toà Thánh đang còn phải tiếp tục trao đổi với Chính phủ Việt Nam.
Sau Thánh lễ, Phái đoàn Toà Thánh đã chụp hình chung và ăn sáng với gia đình Ðại Chủng viện. Trong bầu khí thân tình tại nhà cơm, Cha Ernest Nguyễn Văn Hưởng, Giám đốc Ðại Chủng viện, đã đại diện đọc diễn văn chào mừng Phái đoàn Toà Thánh.
Trước hết, Cha Giám đốc đã giới thiệu vắn tắt về sinh hoạt của Ðại Chủng viện hiện nay với 153 chủng sinh: 34 chủng sinh thuộc năm 1 Triết học, 43 chủng sinh thuộc năm 1 Thần học và 76 chủng sinh thuộc năm 3 Thần học.
Vào ngày 28-6-2008 sắp tới, trong số 76 chủng sinh thuộc năm 3 Thần học, 14 chủng sinh thuộc Tổng Giáo phận Saigòn và 6 chủng sinh thuộc Giáo phận Ðà Lạt sẽ được phong chức phó tế.
Sau Thánh lễ, Phái đoàn Toà Thánh ăn sáng với gia đình Ðại Chủng viện. Trong bầu khí thân tình tại nhà cơm, Cha Ernest Nguyễn Văn Hưởng, Giám đốc Ðại Chủng viện, đã đại diện đọc diễn văn chào mừng Phái đoàn Toà Thánh.
Kể từ năm học 2007-2008, chính quyền đã chấp thuận cho mở một Cơ sở II của Ðại Chủng viện Thánh Giuse tại Xuân Lộc, vì thế, Ðại Chủng viện Thánh Giuse tại Saigòn chỉ nhận chủng sinh mới nhập học từ 3 Giáo phận: Phú Cường, Mỹ Tho và Saigòn; còn các chủng sinh từ 4 Giáo Phận - Phan Thiết, Ðà Lạt, Xuân Lộc và Bà Rịa - sẽ được gửi đến học tại Xuân Lộc. Và cũng từ năm học 2007-2008, chính quyền đã chấp thuận cho chiêu sinh mỗi năm, thay vì chiêu sinh 2 năm một lần như trước đây.
Sau phần giới thiệu vắn tắt, Cha Giám đốc đã nói đến việc từ nhiều năm qua, giáo dân Việt Nam luôn chú ý theo dõi và cầu nguyện cho những chuyến viếng thăm của Phái đoàn Toà Thánh. Ðặc biệt trong chuyến viếng thăm lần này, Ðại Chủng viện cầu nguyện cho việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Toà Thánh sớm được thực hiện.
Cuối cùng, ngài cám ơn Phái đoàn Toà Thánh về cuộc viếng thăm mà Phái đoàn đã dành cho gia đình Ðại Chủng viện. Dù thời gian rất vắn vỏi, nhưng sự hiện diện của Phái đoàn Tòa Thánh đã là nói lên tình yêu thương dành cho các chủng sinh và sự quan tâm của Toà Thánh cho việc đào tạo linh mục.
Trước khi ra về, Ðức ông Parolin đã xin Cha Giám đốc cho ngài một món quà: đó là xin các chủng sinh hát lại bài hát kết thúc Thánh lễ vừa rồi. Dù không hiểu lời bài hát, nhưng dòng nhạc cũng như những tâm tình mà các chủng sinh đã biểu lộ qua bài hát đã để lại cho ngài một ấn tượng đặc biệt. Lời bài hát được gợi hứng từ Thánh vịnh 126 với hình ảnh vất vả, đầy nước mắt của người ra đi gieo giống, nhưng rồi thay vào đó sẽ là niềm vui hớn hở vào ngày thu hoạch vụ mùa:
"Ðẹp thay, ôi đẹp thay những bước chân gieo mầm cứu rỗi.
Ðẹp thay, ôi đẹp thay những bước chân rảo khắp nẻo đường.
Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong vui sướng.
Ai gieo trong nước mắt, sẽ về giữa tiếng cười.
Ôi đẹp thay những bước chân tiến vào giữa lòng thế giới,
Loan tình thương, tình thương Chúa Trời,
Loan niềm vui, niềm vui cứu đời,
Cho mọi người và mọi nơi".
Ðược biết, trên đường về khách sạn để lấy hành lý ra phi trường, Phái đoàn dành ít phút ghé thăm Nhà thờ Chánh toà Sài Gòn.
UB Truyền thông/HÐGMVN
HUẾ - Linh mục Emmanuel Nguyễn Vinh Gioang, hạt trưởng Giáo hạt Quảng Trị thuộc Tổng giáo phận Huế, nơi có Thánh địa Đức Mẹ La Vang, ngài cũng là một linh mục đã nhiều năm quản nhiệm Thánh địa này trong thời kỳ khó khăn nhất. Nay ngài đang coi sóc mục vụ tại giáo xứ Diên Sanh và một số địa sở tại huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Ngài cũng đã có mặt trong các buổi gặp gỡ chính quyền để đối thoại vấn đề đất đai của La Vang, cũng chính ngài đồng hành với phái đoàn Toà Thánh trong những giờ khắc Phái đoàn Toà Thánh viếng thăm Thánh địa La Vang và gặp gỡ chính quyền tỉnh Quảng Trị hôm 13/6/2008.
Sau đây là bài phỏng vấn Cha Gioang sau sự kiện Phái đoàn Toà Thánh viếng thăm Thánh địa La Vang:
PV: Kính chào Cha,
Trước hết, con xin chúc mừng Cha đã cùng với Tổng giáo phận và Trung tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc tổ chức thành công sự kiện này đón chào phái đoàn Toà Thánh viếng thăm Thánh địa La Vang và Tổng Giáo phận Huế.
Xin Cha vui lòng cho biết một vài nhận định của Cha về quan hệ giữa nhà nước và Giáo hội sau chuyến viếng thăm lần này của Phái đoàn Toà Thánh tại Việt Nam?
Cha Gioang: Giáo Hội Công giáo luôn đứng trên mọi lập trường chính trị, trên mọi đảng phái, vì thế, nói chung, quan hệ nào giữa Nhà Nước và Giáo Hội cũng luôn luôn được cải thiện vì Giáo Hội tìm đủ mọi cách để đối thoại chân thành và cởi mở theo lập trường của Chúa Giêsu dạy: đừng làm tắt tim đèn còn leo lét, nhưng hãy khơi sáng lên.
Nói riêng, quan hệ hiện nay giữa Nhà Nước Cộng sản Việt Nam với Giáo Hội thế nào cũng được cải thiện đôi chút, và nếu cứ kiên trì tìm hiểu nhau, kính trọng nhau, thông cảm với nhau, thì sự cải thiện sẽ dần dần được mở rộng thêm.
PV: Về chuyến viếng thăm của phái đoàn Toà Thánh tại Thánh địa La Vang, Cha mong đợi và hy vọng điều gì cho Thánh địa La Vang?
Cha Gioang: Đây chỉ là một chuyến viếng thăm do Bộ Ngoại Giao Việt Nam mời, và Phái đoàn Toà Thánh được mời, cũng vào hạng thứ trưởng. Đó là nói về mặt ngoại giao giữa hai quốc gia: quốc gia Việt nam và quốc gia Vatican. Vì thế, về mặt ngoại giao, tôi nghĩ đây chỉ là bước đầu sơ bộ để tìm hiểu, để bày tỏ lập trường, và có thể có giải quyết một vài vấn đề giữa đôi bên.
Đức ông Parolin và ĐC Hồng nhìn lên hiện tượng lạ
Nhưng đối với Giáo Hội Việt nam và giáo dân Việt Nam thì lại khác. Việc một Phái Đoàn Toà Thánh đến Việt Nam luôn luôn là điều rất quan trọng đối với Giáo Hội Việt Nam, đặc biệt đối với Thánh Địa La Vang vì việc đến Thánh Địa La Vang lần nầy là do yêu cầu của Phái Đoàn Toà Thánh, nhân danh Đức Giáo Hoàng đương kim. Và Phái Đoàn Toà Thánh đã đến La Vang một cách thoải mái và dễ dàng, đã được Chính Quyền Tỉnh Quảng Trị trân trọng đón tiếp, điều nầy đã làm cho mọi người trong nước cũng như trên khắp thế giới biết đến Thánh Địa La Vang, và làm cho Thánh Địa La Vang được đặc biệt tôn trọng trước con mắt của mọi người. Vì thế, uy thế và uy tín của Thánh Địa La Vang hiện nay trở nên rất lớn.
PV: Cha có hy vọng Thánh địa La Vang sẽ sớm được trả lại cho Giáo hội như nhà nước đã hứa không, thưa Cha?
Cha Gioang: Việc Thánh Địa La Vang được trả lại cho Giáo Hội Việt Nam là điều chắc chắn và rõ ràng, chỉ chờ giải quyết xong những yếu tố liên hệ như định rõ ranh giới, giải tỏa một số hộ đã được cấp chủ quyền trên đất của Thánh Địa La Vang, đền bù một số hoa lợi, chẳng hạn có vài hộ làm ruộng, làm hồ nuôi cá trong đất của Thánh Địa La Vang, v.v…)
PV: Hiện nay việc giải toả đền bù một số hộ dân đang sinh sống trong khu vực Thánh địa đến đâu rồi thưa Cha? Giá cả leo thang, Thánh địa sẽ giải quyết việc này thế nào? Nhà nước có hỗ trợ gì không?
Cha Gioang: Cha Quản Nhiệm La Vang đã vài lần gặp các đại diện của các hộ đang ở trong khu vực Thánh Địa, đã thương lượng với họ, có đại diện của cấp Xã và cấp Huyện dự các buổi họp nầy. Vấn đề chắc sẽ được giải quyết từ từ, trong sự thoả đáng mà các phe liên hệ có thể chấp nhận được.
PV: Hiện nay còn những khó khăn hoặc ngăn trở nào khiến cho Giáo hội chưa chính thức nhận lại và sở hữu đất đai của Thánh địa?
Cha Gioang: Hiện nay, chỉ còn những khó khăn trong việc đền bù, giải toả mặt bằng mà thôi. Xong các việc nầy, Chính Quyền Quảng Trị sẽ chính thức công nhận Đất của Thánh Địa La Vang như Vị đại Diện của Chính Quyền Tỉnh Quảng Trị đã nói ra trong hai dịp quan trọng, dịp gặp Phái đoàn Toà Tổng Giám Mục Huế ngày 19 tháng 4 năm 2008 tại Đông Hà và dịp gặp Phái đoàn Toà Thánh Vatican ngày 13 tháng 6 năm 2008 tại Đông Hà.
PV: Kính thưa Cha, con được biết, trong thánh lễ diễn ra tại Linh đài Đức Mẹ, có một hiện tượng mặt trời toả ánh hào quang đang lúc Đức Ông trưởng phái đoàn toà thánh phát biểu và trao tặng hào quang của Đức Giáo Hoàng gửi tặng Thánh địa. Xin Cha miêu tả và kể lại cụ thể “sự lạ” này được không?
Cha Gioang: Lúc đó là 09 giờ 40 phút, sáng ngày 13 tháng 6 năm 2008, tại Thánh Địa La Vang, tôi đang ngồi ngay sau Linh Đài Đức Mẹ La Vang, sau Ba Cây Đa, để ghi tốc ký những gì Đức ông Pietro Parolin đang nói trong Thánh Lễ ở Linh Đài. Trong khi đang cúi đầu ghi câu “gió mát hài hoà…”, tôi nghe xôn xao rộn ràng quanh tôi và trước mặt tôi.
Tôi vội ngước mắt nhìn lên vì lúc đó tôi đang cúi đầu viết… Tôi sửng sốt vì thấy mọi người không còn nghe Đức ông Parolin giảng, mà ai ai cũng lấy tay che mắt để nhìn lên trời cao cho rõ. Tôi nghe rõ những tiếng rộn ràng vang lên khắp nơi trong Thánh Địa La Vang: nào là: “Sự lạ! Sự lạ!”, nào là “Lạy Mẹ, Lạy Mẹ!”, nào là “Đẹp quá! đẹp quá!”
Linh tính cho tôi biết rằng đang có một “sự lạ” xảy ra.
Nhìn lên trời cao, tôi thấy mặt trời đang được bao quanh bằng một vòng tròn quá lạ và quá đẹp. Tôi vội đưa ngay máy chụp hình hướng lên thẳng mặt trời và chụp bốn lần.
Trong vòng năm phút sau, mọi người được yêu cầu đừng xôn xao, và Thánh lễ được tiếp tục.
Vì chăm chú vào Thánh Lễ, tôi không để ý đến hiện tượng nầy chấm dứt thế nào.
PV: Qua sự lạ này, nhiều người chứng kiến và đã tin, còn riêng cá nhân Cha, Cha có suy nghĩ gì về vấn đề này không? Cha cho đây là một điềm báo lành hay dữ? Cha hiểu điềm báo này thế nào dưới con mắt của một linh mục của Giáo Hội?
Cha Gioang: Thánh Lễ xong, tôi vội tháp tùng Phái đoàn để ra gặp Chính Quyền Tỉnh Quảng Trị. Ngồi trong xe cùng với Đức Giám Mục Phụ Tá Tổng Giáo Phận Huế và Đức ông Vụ trưởng Bộ Truyền Giảng Phúc Âm cho các dân tộc, tôi cũng trao đổi với quý ngài về “sự lạ” nầy.
Sau khi về lại giáo xứ tại Diên Sanh, tôi gặp những người có đi La Vang trong ngày 13 nầy, và biết được ai ai cũng hân hoan vì Đức Mẹ đã cho họ chứng kiến một biến cố lạ tại La Vang.
Lòng tôi tự nhiên suy nghĩ rằng: ngày 13 là ngày nhắc nhở đến sự lạ mặt trời xảy ra tại Fatima. Thế là trí tôi liên tưởng ngay đến “sự lạ Fatima” và “sự lạ La Vang”: hai sự lạ nầy có điểm giống nhau vì hai sự lạ nầy đều có liên quan đến mặt trời. Và tôi thấy tầm quan trọng của sứ điệp Đức Mẹ muốn gởi đến cho chúng ta lúc nầy, cũng là sứ điệp mà Chúa Giêsu là Mặt Trời Công Chính đã đưa ra cho mọi người trong mọi thời đại: ăn năn đền tội, tin vào Tin Mừng, cải thiện đời sống, mến Chúa trên hết và yêu thương mọi người vì Chúa, hoàn toàn tin tưởng vào sự quan phòng kỳ diệu của Chúa qua sự can thiệp đầy yêu thương của Đức Mẹ Maria.
PV: Cha có nghe dư luận người này người khác bàn tán và nhận định gì về sự lạ này không? Ai nói, ở đâu? họ nói thế nào?
Cha Gioang: Tôi điều tra kỹ để xem những ai không đi La Vang trong ngày hôm đó, hoặc lúc đó đang ở xa La Vang, chẳng hạn như ở Thừa Thiên Huế, hay ở những vùng tại Quảng Trị nhưng xa La Vang, trong lúc “sự lạ” xảy ra tại La Vang, thì được những câu trả lời giống nhau: họ không thấy sự gì lạ trên bầu trời dẫu lúc đó họ được những người thân ở La Vang gọi điện thoại di động đến để nói hãy ra xem bầu trời có dấu lạ, nhưng họ trả lời ngay là không thấy gì khác thường trên bầu trời lúc đó. Vi thế, tôi có thể kết luận rằng: “sự lạ” chỉ xảy ra trên bầu trời La Vang, và chỉ có những ai ở La Vang lúc đó mới thấy được “sự lạ” nầy.
Ai có mặt tại La Vang ngày 13/6/2008 cũng đều cho mình có diễm phúc được Đức Mẹ cho thấy một “sự lạ” có một không hai. Và họ đều nghĩ rằng đây là một dấu lạ chứng tỏ lòng yêu thương của Đức Mẹ dành cho con cái mình.
PV: Con xin chân thành cám ơn Cha nhiều. Kính chúc Cha sức khoẻ và nhiều ơn Chúa để tiếp tục làm rạng danh Chúa và Giáo Hội của Ngài tại La Vang, Việt Nam.
Đàm Nguyên
Trong những ngày qua, tại thánh đường nhiều giáo xứù trong giáo phận Đà Nẵng vang lên những bài ca cảm tạ vì hồng ân linh mục Chúa đã thương ban. Tại Trà Kiệu trong thánh lễ truyền chức linh mục, bao lần chúng ta đã nghe những lời thật cảm động. “ ãXin đáp lại tiếng Chúa dắt dìu. Ngài gọi con trở thành ánh sáng... Đêm với ngày biết nói năng gì. Vì tình thương không bờ không bến ( Hoan ca tận hiến) “
Đầu con Chúa xức đượm dầu . Ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời ( TV 22 ) “ Thân con mọn hèn đâu xứng đáng với tình Chúa.Thương con nên Chúa gọi mời ra đi tung gieo lời ngài ( Hiếân lễ tinh yêu) Tình nào yêu con hơn bao mối tình trần gian..Tình nào yêu con khi con là tội nhân. Tình nào yêu con nâng con lên hàng bạn thân...Có một tình yêu lạ lùng, rất bao la hơn đại dương. Chúa yêu con nhiều khi con còn trong bóng tối. Đang khi con là thân yếu đuối.. ( Có một tình yêu) Biết lấy gì cảm tạ..Tình Chúa thương con từ thưở con còn hư vô..ngài gọi con vào đời..thương con như biển rộng mênh mông ( Bài ca tạ ơn) Oâi hồng ân tuyệt vời là cho con được hiện hữu trong Đức Kitô ( Hiện hữu trong Đức Kitô).
Trong thánh lễ hôm nay những điệp khúc và tâm tình tạ ơn lại tiếp tục vang lên qua các bài đọc Cựu và Tân ước mà cao điểm là lời Tin mừng Thánh Gioan đoạn 15, câu 16.
“ Không phải anh em đã chọn thầy, nhưng chính thầy đã chọn anh em và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái ( Gioan 15, 16.)
Hai mươi thế kỹ đã qua đi , kể từ ngày Đức Kitô thiết lập chức vụ linh mục công giáo, mọi người vẫn hướng về linh mục và đặt câu hỏi “ linh mục là gì, linh mục là ai? tại sao có linh mục? Chính bản thân linh mục cũng tự hỏi, tôi là ai? Tại sao tôi mà không phải bạn bè tôi? Về học vấn : họ tài giỏi hơn tôi. Về khả năng lãnh đạo: họ rất xuất sắc . Về đạo đức : họ rất thánh thiện. Về dòng tộc, quê hương ,về khả năng tài chánh...họ hơn tôi nhiều. Mà tại sao Chúa không chọn họ...lại là tôi???
Linh mục đã trở thành một huyền nhiệm.
Tưởng rằng chữ linh mục đã bị thế giới nầy quên lãng, đã được đưa vào viện bảo tàng trước thế kỷ 21 như nhiều chuyên viên các thế kỷ 18, 19, 20 dự đoán. Thế mà lạ thay, chữ linh mục vẫn còn rất sống động trong thời đại toàn cầu hóa, thời đại xa lộ thông tin hôm nay. Tôi thường có một lối giải trí là gỏ một từ õ nào đó vào công cụ tìm kiếm của Google. Không biết Nhật ngữ, Hoa ngữ, Aán ngữ, Nga ngữ và hàng ngàn ngôn ngữ khác viết chữ linh mục như thế nào, nhưng từ linh mục chỉ qua vài ngôn ngữ quen thuộc như từ priest , tiếng Anh tôi thấy hiện ra 72.900.000 tài liệu, từ pretre tiếng Pháp có 4.830.000 tài liệu, từ sacerdote tiếng Ý và tiếng Tây Ban Nha 6.850.000 lần , tiếng Đức priester 6.180.000, và cuối cùng là tiếng Việt từ linh mục cũng hiện ra 6.160.000 bài viết
Hóa ra linh mục vẫn còn có chỗ đứng trên thế gian nầy, trong thời đại con người õ chinh phục không gian, chế ngự nguyên tử, du hành nguyệt cầu.
Cái nhìn và đánh giá về linh mục cũng thật đa dạng, thôi thì thượng vàng hạ cám, linh mục thánh thiện, đạo đức, tài ba lổài lạc cũng có mà tội lỗi khốn nạn cũng không vừa.
Sự hiện diện của linh mục làm cho nhiều kẻ vui mừng , nhưng bóng của ông đi qua cũng làm cho nhiều người khó chịu.
Nhiều người tâng ông lên tận trời , linh mục “ Alter Christus’’, Chúa Kitô khác hoặc thứ hai, nhưng kẻ khác dìm ông dưới đáy địa ngục’’ sọ thầy cả lót đáy hoã ngục’’.
Linh mục luôn là đề tài ăn khách : để ca tụng hoặc hạ bệ.
Do đâu con người nầy có những nghịch lý, những mâu thuẩn nội tại.
Nữ tiểu thuyết gia Lệ Hằng trong cuốn tiểu thuyết Tóc Mây, sôi nổi một thời, đã đặt thẳng câu hỏi.
Linh mục thánh thiện hay tội lỗi ?
Cuộc tranh cải sẽ không thể nào chấm dứt. Quả thật nếu tìm sự thánh thiện thì linh mục cũng có thánh thiện, mà đề cập đến tội lỗi thì linh mục cũng yếu hèn không kém.
Vậy muốn đi tìm chân dung linh mục ta phải dùng đến ‘’ kính hiển vi Tân Ước’’ để khám phá ra hợp chất kỳ lạ nầy.
Trong thư thứ nhất, gưĩ cho Timôtê, thánh Phaolô đã gọi, linh mục là ‘’Homo Dei ‘’ Người của Thiên Chúa’’ ( 1 Tm 6,11 )” Phần anh, hởi người của Thiên Chúa, hãy tránh xa những điều đó; hãy gắng trở nên người công chính, đạo đức, giàu lòng tin va lòng mến, hãy sống nhẫn nại và hiền hòa.ø”
Phân tích hợp chất nầy chúng ta sẽ tìm ra căn tính của linh mục.
Là homo người, là con cháu Ađam Evà nguyên tổ phản loạn, thì cái ‘’ gen’’ tội nguyên đã ăn sâu vào đời sống người linh mục, cho nên họ cũng có thể phạm tội, ngã sa, yếu đuối… Chức vụ linh mục không bảo vệ họ vô nhiểm trước cạm bẩy cám dỗ hằng ngày. Vì thế nếu linh mục phạm tất cả những giới răn của Chúa và Hội Thánh thì cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên.
Chúa Giêsu không cầu nguyện với Chúa Cha ‘’ cất họ ra khỏi thế gian’’ mà chỉ cầu cho họ ‘’ khỏi ác thần.’’ ( Ga 17, 15)
Nhưng linh mục là người “Của Thiên Chúa’’Homo Dei” , tức khắc linh mục được bao trùm trong hương thánh thiện. Một lời nói và một cử chỉ của linh mục trong khi thi hành các nhiệm tích sẽ trở thành những phép lạ.
‘’ Cha rửa con Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần’’ , một con người dưới quyền ma quỷ được ơn tái sinh, ơn sinh lại làm con Chúa, làm con Hội Thánh qua bí tích Rửa tội.
‘’ Vậy cha tha tội cho con Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần’’ thì một tội nhân bên bờ vực thẳm hoả ngục được cứu sốngqua Bí tích giao hòa.
Và ngay cả Thiên Chúa vô cùng cao cả cũng chấp nhận lời đề nghị của linh mục ‘’ Nầy là Mình Thầy, Nầy là Máu Thầy’’ để hiện diện trong nhiệm tích Thánh Thể.
Ôi, linh mục, ngươi mong manh biết bao và cũng dũng mãnh dường nào.
Sự dũng mãnh ấy chắc chắn không phát xuất từ miêu duệ đất bùn AĐam , Evà mà từ hồng ân, từ sức mạnh thần thiêng Thiên Chúa.
Hương thơm quý giá được chứa đựng trong chiếc bình đất sét dễ vỡ.
Bản trườøng ca tuyệt bút của Tình Yêu Thiên Chúa được viết trên nền đất bụi mỏõng manh.
Cái hợp chất lạ lùng : thánh thiện và yếu hèn đã tạo nên con người linh mục.
Tuy linh mụcmang thân phận yếu hèn, nhưng qua con người đó sự thánh thiện và nguồn ân sủõng của Thiên Chúa hiện diện.
Hôm nay, trước những linh mục còn ngát thơm dầu thánh hiến và nhiều linh mục đã ‘’ kinh qua’’ những năm tháng bụi trần, xin anh chị em hãy cầu nguyện cho các linh mục, hãy nâng họ chỗi dậy khi con người trần tục vùng lên như muốn đè bẹp con người thần thiêng.
Xin tất cả hãy cùng cảm tạ hồng ân tuyển chọn của Chúa, vì ‘’ bụi tro, ôi thân con là bụi tro đâu đáng chi ’’, chỉ vì tình thương bao la đã cất nhắc anh em linh mục lên một địa vị quá cao sang diệu kỳ.
Chúa muốn dùng họ để tiếp tục hiện diện trên thế giới nầy. Các linh mục sẽ là đôi chân, là đối tay nối dài của Chúa; là tiếng nói tha thứ , là ánh mắt, là nụ cười, la øcon tim yêu thương của Chúa giữa thế giới còn nhiều khổ đau nầy.
Trên quê hương An Ngãi nầy, một quê hương nghèo nàn “ đất cày lên sỏi đá” nhưng tình Chúa vẫn dỏi theo trên 350 năm qua. Qua lịch sử, chúng ta ít biết đến tên An Ngãi vì tài liệu lịch sữ chỉ nói đến Bàu Nghè. Tú tài Trần Nhật Tỉnh, người làng Quan Nam đã ghi trong Hòa Vang Huyện Chí : An Ngãi đông, An Ngãi tây xưa hợp làm một xã, tục xưng là Bàu Nghè [Hựu án An Ngãi đông, An Ngãi tây cổ vì nhất xã, tục xưng Bàu Nghè )
Nơi đâ đã in dấu chân các vị tu sĩ Dòng Tên tiên khởi như Francesco Busomi. Francesco Pina, Đắc Lộ vào thời kỳ đầu truyền giáo tại Touron, Đà Nẵng.
Sau thời kỳ các linh mục dòng Tên đặt nền móng kế đến các linh mục Thừa sai Paris tiếp nối công việc. Cha Vachet năm 1672 cho biết. "Trên đường (từ Huế) về Phai phô (Hội An) chúng tôi viếng các nhà thờ trên đường đi và chúng tôi đã dừng lại một ngày để thăm thôn Bao nhé, đây là một tổng nhỏø gần như toàn tòng, người ta đếm được 8000 (giáo dân) quy tụ trong 4 nhà thờ khác nhau... phải mất 12 ngày để giải tội”, Ngài cho biết Đức Cha Lambert de La Motte, trong chuyến viếng thăm Địa Phận Đàng Trong lần thứ hai đã dừng lại ở nơi hẻo lánh nầy, một làng hầu như toàn tòng, giáo dân 1500 người. Nơi đây có thể kể tên linh mục Hainques 1669. Linh mục Guiart mất ngày 24 tháng 5 năm 1673. Năm 1681, cha Lenoir làm việc tại khu vực nầy với 4 nhà thờ và 8000 giáo dân. Cuối thế kỷ 17, dầu thế kỷ 18 vùng nầy được gọi là "thiên đường các nhà truyền giáo" (paradis des missionnaires). Vào thời kỳ mà các linh mục luôn di động thì nơi đây được diễm phúc có riêng cho mình một vị mục tử coi sóc với một xứ đạo có ngân quỹ riêng và tổ chức nhân sự rõ rệt., Thừa sai Le Noir ”là vị đầu tiên trong số các thừa sai có được tư cách quản xứ, ngài có đầy đủ các năng quyền (patentes) dưới mọi hình thức."
Qua thế kỷ 18, các linh mục Godefroy 1712, cha Flory 1728, cha Bougine 1734 làm việc tại vùng nầy.
Cuộc bách hại của Võ Vương năm 1750 đã khiến toàn bộ 50 linh mục hoạt động trong Giáo phận Đàng Trong bị trục xuất. Một vài linh mục như Joseph d'Azema trốn ở vùng Bàu Nghè cuối cùng cũng phải ra trình diện và bị điệu về Đà Nẵng. Rồi chiến tranh nhà Nguyễn, Chúa Trịnh và Tây Sơn bùng nỗ năm 1774. Nhân dân trong vùng vô cùng điêu đứng. Linh mục Habout hoạt động tại đây đã viết :
"trong vùng núi, nơi mà con đã rửa tội cho một số đông lương dân đã hầu như hoàn toàn bị phá huỷ. Ở Bàu Nghè, năm qua (1774) từ tháng tư đến tháng chín âm lịch, có 600 giáo dân bị tử nạn Ở một nơi khác, cũng trong khoảng thời gian ấy, có đến 1500 giáo dân chết”
Qua thế kỷ 19, Hòa bình lập lại chưa được bao lâu thì cuộc bách hại do vua Minh Mạng khởi động năm 1835 ập đến và kéo dài đến 1887.
Chính trong cơn bão táp kinh hoàng ấy, Đức Cha Cuenot Thể quyết định xuống tàu thương gia Borel đang buôn bán tại Cửa Hàn về địa phận. Ngày 12-5-1835, từ Phố Mới (Singapore) tàu ra khơi, đến 28-5 đến bãi Mai Liên, tỉnh Phú Yên cho năm người xuống đi ghe ra Quảng nam báo tin để đón. Ngày 30-5-35 tàu tới Cửa Hàn nhưng tới 16 tháng 6 vẫn chưa lên bờ được. Mãi đến 24-6-1835, giáo dân mới đưa ghe ra đón. Lên bãi Thanh Khê, có võng chực sẵn, đưa về họ An Ngãi "vào nhà ông trùm Nên, là nhà đạo đức, là nơi tin cậy, thường các cha ẩn mình tại đó". Vườn Trùm Nên chính là dải dất chúng ta đang cử hành thánh lễ. Tuy gặp bao nhiêu nguy khốn nhưng Đức Cha Thể vẫn lập hai Chủng viện ( Nhà trường) một tại Mương Lở ( tỉnh Bình Định ) và một tại Bàu Nghè ( chính xác là họ đạo Tùng Sơn). Chính tại An Ngãi, Đức cha đã phong chức linh mục cho “ sáu linh mục Việt Nam là cha Hoan, cha Lãnh, cha Lộc, cha Tòng, cha Tư, cùng cha Linh.”
Ba năm sau tức 1838, ngài chuyển về Gò Thị và được diễm phúc tử đạo tại đó năm 1861. Nhưng tại họ đạo An Ngãi nầy những tên vườn Đức Cha Thể, giếng, hầm trú Đức cha vẫn còn đó , cách nhà thờ An ngãi hiện nay chứng 300 mét đường chim bay. ( Mở ngoặc : xin Giáo phận Đà Nẵng và giáo xứ An Ngãi quan tâm khôi phục những di tích nầy.)
Máu các thanùh tử đạo là hạt giống trở sinh tín hữu đã được minh chứng tại vùng thánh địa nầy. Tiếp tục truyền thống tốt đẹp ấy, qua thế kỷ 20, giáo xứ đã hiến dâng nhiều người con trong chức vụ linh mục : Cha Diện ( Hòa Mỹ) phục vụ giáo phận Kontum, cha Chánh, cha Tý, cha Aùi, cha Tới ,Cha Tađêô Mừng, Đức cha Phanxicô Xavie Nguyễn Quang Sách, và lm An Tôn đang chia xẻ với quý vị. Tưởng rằng với tên Thăng...thì mọi hy vọng linh mục cũng “ thăng luôn” nhưng qua thế kỷ 21, những hạt mầm lại vươn lên với cha Thạnh , hôm nay cha Vũ và ít lâu nữa phó tế Kính cũng sẽ tiếp tục.
Hơi dài dòng một chút nhưng quên những trang lịch sử đau thương và huy hoàng ấy , chúng ta quên mất gốc gác, sẽ không còn nhận ra tình thương Thiên Chúa dỏi theo mỗi bước đường chúng ta đi.
Và thưa cha, rồi những ồn ào , lễ lạc của những ngày đầu mới được thụ phong sẽ qua mau.
Rồi những lời xông hương tán tụng, cầu chúc sẽ xa bay… và Thánh Giá Đức Kitô sẽ đè nặng trên vai cha.
Con đường Thánh Giá mới là chính con đường Chúa mời gọi cha.
Tất cả cộng đoàn, bà con, thân hữu hứa sẽ tiếp tục cầu nguyện và nâng đở cha trên bước đường tiến đến Núi Thánh để ‘’ được trở nên khí cụ bình an của Chúa’’, và cũng xin hợp ý với cha trong niềm vui tuyển chọn .
Hợp với cha giáo phận Đà Nẵng nói chung và An Ngãi nói riêng sẽ cùng cha tạ ơn tình thương vô bờ bến của Thiên Chúa.
‘’ Hồng ân Thiên Chúa bao la. Muôn đời con sẽ ngợi ca ơn Người.’’
Lm Antôn Nguyễn Trường Thăng
Sợ hãi dường như đã là thuộc tính của con người. Có biết bao điều phải sợ, sợ hãi trước thiên tai, dịch bệnh đối với mệnh trời. Đối với mệnh người, sợ hãi đói khát, thiếu ăn, thiếu mặc, sợ hãi thân này lỡ hư, sợ hãi những tai ương do mình và cũng có khi chẳng do mình gấy nên. Đối với người khác, sợ hãi bị phản bội, lừa dối, lòng ma dạ quỷ … Cuốc sống bao vây bằng sợ hãi mọi nơi mọi lúc.
Gốc rễ của sợ hãi.
Sợ hãi đến từ gốc rễ con người vốn yếu đuối: Yếu đuối về nhiều mặt: trước sức mạnh của thiên nhiên, trước sự dữ đến từ con người, đau khổ vì tha nhân. Hết cái sợ này đến cái sợ khác vây bọc con người. Con người đã trượt ngã thảm thương rơi vào trong tội. Không ai không là tội nhân, luôn thấy những yếu đuối, luôn thấy những bất hạnh ập đến bất cứ lúc nào, con người không thể tự thân ra khỏi những tội lỗi của mình, luôn bị rình rập trong sợ hãi. Con người vốn sợ hãi trước chính mình: “Tìm củi ba năm đốt trong một giờ”.
Sợ hãi do sợ mất những gì mình đang có: Con người vốn dĩ có quyền sở hữu nhưng cũng chính vì quyền sở hữu mà lại phát sinh ra nguyên nhân sợ hãi. Sợ mất danh dự, sợ mất chỗ đứng, vị thế, mất cửa nhà, ruộng vườn. Những cái sợ rất sợ trước những lần trắng tay, nhục nhã, ngậm đắng nuốt cay, sợ mất tất cả. Đó là những cái sợ rất sợ của con người.
Sợ những ước mong lại không đến. Con người vốn không chỉ sống ở qúa khứ, hiện tại mà con người còn hướng tới tương lai. Tương lai dù có được chuẫn bị kỹ lưỡng trong hiện tại song vẫn không chắc bảo đảm tương lai được thực hiện. Con người khó học nhất là bài học chữ ngờ. Không nờ, bất ngờ luôn là mối đe dọa ở tương lai trở thành hiện thực. Không có một bảo đảm chắc chắn ở tương lai nên con người đầy những sợ hãi.
Sợ người khác: Nỗi sợ hãi không thể không tránh khỏi, vì người khác luôn có người chống đối lại mình. Sợ hãi đến từ dư luận, chẳng biết đúng hay không đúng, nhưng luôn làm tổn thương đến chính người bị khủng bố. Sợ hãi trước sự ranh ma của con người, sợ ngay cả việc “làm ơn mắc oán”. Sợ hãi đến nỗi con người phát sợ trước tha nhân và đôi khi dẫn đến chỗ quá đáng “tha nhân chính là hỏa ngục”.
Sợ hãi trước thiên nhiên: Người tính không bằng trời tính, con người cám thấy mình bé nhỏ trước nhiều vấn đề thiên nhiên. Một thiên nhiên chống lại con người thương xuyên do chính con người khai thác tận diệt thiên nhiên. Con người đi trong sợ hãi nhưng vẫn phải sống trong môi trường thiên nhiên.
Giải quyết sợ hãi:
Có hai hướng giải quyết sợ hãi, hướng tiêu cực và tích cực.
Hướng tiêu cực còn gọi là phương cách đối phó.
Sợ hãi con người vốn yếu đuối: Con người đi tìm cho mình một liều thuốc mạnh như những siêu nhân, một siêu nhân giữa đời thường. Sợ tội thì tránh tội, muốn tránh tội thì phải bịt mắt, bịt tai, bịt miệng trước những điều xấu. Nhưng có một nguy cơ trước những cái bưng bít ấy dẫn đến bùng nổ “chết vì thiều hiểu biết”. Càng sợ tội, càng phòng tránh, con người càng bị bao vây, càng bị siết chặt trong vòng cám dỗ tội lỗi. Cho nên con người vốn cảm nghiệm sâu xa về yếu đuối của mình và luôn cảm thấy: “Chướng nại trong tôi thường dai dẳng, nhưng khi rắp tâm đập tan tôi lại thấy lòng dạ nhói đau”. Con đường yếu đuối trở nên con đường không lối thoát nên cũng phát sinh một chiều hướng khác. Gạt bỏ tội lỗi, yếu đuối ra khỏi cuộc sống. Không có gì là tội lỗi, nếu không phạm luật dân sự. Loại trừ Thiên Chúa để con người sống dễ dàng hơn với nhau khi đồng thuận về bộ luật cho mọi người thực hiện. Một trào lưu mới phát sinh, tương đối hóa mọi sự, tương đối hóa lương tâm, tương đối hóa sự thiện, sự ác, như người việt vẫn quen nói “sống chung với lũ”. Không tránh khỏi thì tìm cách hòa hoãn với tội lỗi mà sống, “Thỏa hiệp để đổi lấy an bình”.
Sợ mất những gì đang có:
Không có thì không mất, người ta chỉ mất những gì mình đang có. Sống mà như chết, chết mà như đang sống. Cái thân ta là cái thân hư không, tô điểm, mặc vào sang trọng, nuôi thân béo phì, cũng chỉ là cái thân hư vô. “ Con người đến từ tay trắng trở về với tay trắng”. Chấp nhân lý thuyết này có nghĩa là chẳng cần phải nỗ lực làm gì, cuối cùng cũng thế thôi! Và sống trên cuộc đời này chẳng có ý nghĩa gì, bởi vì cái ý nghĩa ấy cũng chỉ là hư không. Chẳng là gì nên làm chàng nghệ sĩ đến trong cuộc đời này để rong chơi, để ca hát, và để tiêu khiển cho đủ ba vạn sáu ngàn ngày và rồi rời quán trọ bỏ cuộc chơi. Nỗi sợ mất cũng mang đến một lối sống khác đó là bảo hiểm cho những cái có. Những rủi ro nhất vẫn có những bảo hiểm để khỏi phải lo sợ. Cuộc sống đã bảo hiểm mọi mặt nhưng vẫn một nỗi lo khác xuất hiện: Sợ mất việc, mất việc là mất tất cả. Sợ mất việc luôn là nỗi ám ảnh là xao xuyến nhất là trong những lúc khó khăn trong kinh tế. Con người không tránh được nững nỗi lo, tránh được điều này lại phát sinh cái sợ khác lo âu hơn.
Sơ tương lai không đến:
Không vọng, không tưởng thì không sợ. Bởi trong cái mà ta gọi là "tâm hồn tôi" người thường thì thấy có hai phần: tình cãm và lý trí. Nhưng với Tuệ nhãn của đức Phật thì thấy rất rõ cái mà ta gọi là “tâm của tôi” vốn chỉ là một sự liên kết giả tạo của ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Ta biết rằng Ta Bị Sống chớ không phải Ta Sống. Có một cái gì đó mà ta chưa biết rõ, nó lôi ta "xềnh-xệt" như con trâu bị "xỏ mủi" phải đi theo thằng bé nắm dây vàm. Hàng ngày chúng ta vẫn ăn món nầy mà vọng tưởng món kia, làm việc nầy mà vọng tưởng việc khác. Rốt cuộc toàn bộ cuộc sống của ta chỉ là một chuổi "vọng động". Diệt vọng là con đường để thoát khỏi cảnh đau khổ, nhưng diệt vọng thế nào được nếu không chấp nhận diệt thân. Phật dạy: “Cái nào có co, có mở, có động, có tịnh, có sanh, có diệt, thì cái đó là vọng, thuộc về “khách” không phải ông. Còn cái nào không động tịnh, co mở, không sanh diệt, thì cái đó là “chơn, thuộc về “chủ” chính là ông. Như thế chơn và vọng rất rõ ràng, ông còn chưa hiểu hay sao?”
Sợ tha nhân: Lối sống chọn phương thức hoài nghi về người khác, canh chừng người khác và đôi khi tránh người khác. Cái khó của con người là con người của xã hội, “Ghét của nào trời trao của ấy”. Nhân duyên luôn trái với sự thực ước muốn. Làm người giữa muôn người thật khó. Khó vì “Sống dài chê vắn, sống vắn chê dài” biết làm sao cho vừa lòng người? Sợ tha nhân là một mối sơ phải sống đương đầu bằng con đường: “Biết cũng chết không biết cũng chết chỉ biết sống là sống”. Con đường biết sống chẳng có mẫu số chung, mỗi người biết sống cho mình và cho người khác theo điều mình biệt. Thật khó với con người dầu muốn không sợ hãi vẫn phải run sợ trước con người.
Sơ thiên nhiên: Thiên nhiên chống lại con người, con người cũng đang chống lại thiên nhiên. Con người nỗ lực đi tìm hiểu thiên nhiên, hiểu về nó và sống với nó hài hòa. Nhưng con người dầu biết sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người mật thiết, vẫn không tránh khỏi sự khai thác triệt để thiên nhiên để con người hưởng thụ.
Tóm tắt con đường tiêu cực, tránh mọi cái cần tránh để tình hình không xấu thêm đi và giữ những gì cần phải giữ để không mất thêm những gì đang có. Con đường tiêu cực dẫn đến việc phòng thân và phòng thủ.
Con đường tích cực Kitô Giáo:
Đối với tội lỗi: Thiên Chúa giàu lòng thương xót đến con người tội lỗi và luôn lên án tội lỗi. Tôi lỗi căn nguyên của mọi sợ hãi, nếu con người tránh xa tội thì tránh được hầu hết những sợ hãi. Thế nhưng con người vẫn là một tội nhân và đỉnh cao của người tội nhân khỏi sợ hãi là: “Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài. Như vậy, Ngài thật công bình khi tuyên án, liêm chính khi xét xử. Ngài thấy cho: lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai. Nhưng Ngài yêu thích tâm hồn chân thật, dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan”. Thật tâm sống với Chúa, và thật lòng sám hối là con đường không còn lo sợ, bởi trong tình yêu không có sợ hãi. Nhận biết Tình yêu và sống trong tình yêu Thiên Chúa là một phương cách sống cho mọi người, con người nghèo đến đâu đi chăng nữa vẫn có đủ tình yêu để đáp lại tình yêu. Tình yêu khiến cho lựa chọn trở nên chủ động, thay vì giữ lề luật vì sợ tội thì việc giữ luật lại trở nên vì lòng yêu mến Thiên Chúa mà sống những điều Thiên Chúa muốn. Thái độ tiêu cực trở nên thái độ tích cực nhờ tình yêu đáp trả. Và cảm nghiệm cuối cùng của việc sống đáp trả trong tình yêu: "Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối." Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”.
Sợ Mất: Đừng sợ mất những gì mình đang có vì một lẽ là được Chúa Kitô.
“Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki-tô và được kết hợp với Người”. Cái được và cái mất không còn quan trọng trên cuộc đời này, nếu chúng ta biết Chúa Kitô và sống với Người. Chúa không để những ai trông cậy vào Người phải tủi hổ, nhục nhã và đói kém.
Sợ tương lai: Nếu không còn vọng không còn tưởng thì không còn phát triển. Còn phát triển nên còn chấp nhận mạo hiểm, mạo hiểm để tìm hướng đường phát triển. Nếu con người đặt hy vọng vào thành bại thì hẳn sẽ có thất vọng và thành tựu. Chấp nhận nghĩa là biết rằng nó là điều tất yếu của cuộc sống nên thản nhiên mà sống, nỗ lực kiến tạo, vươn tới, đón nhận tất cả ngay cả thất vọng, và nhận thất bại là bài học thành công. Làm việc với tư cách của một con người và trông cậy vào Thiên Chúa như con người tùy thuộc vào Thiên Chúa: “Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống. Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào! Hãy cậy trông vào Chúa”.
Sợ tha nhân: Con đường đến với tha nhân là con đường của Đức ái: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được”. Nhận Lãnh Chúa Thánh Thần để được sai đến với anh chị em, thế nên người Kitô hữu sẽ mang hoa trái của Chúa Thánh Thần là: “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ. Không có luật nào chống lại những điều như thế”. Không còn sợ hãi mà là lòng mến yêu.
Sợ thiên nhiên: Thiên nhiên là người giúp việc cho con người, con người cần học cách để sử dụng thiên nhiên theo đúng cách của nó mà phục vụ cho phẩm giá con người được sống và sống dồi dào. Con người Kitô hữu chỉ có thể sống hài hòa với thiên nhiên nếu con người biết sống cùng với Chúa Giêsu, nghĩa là con người đi trong đường lối yêu thương của Thiên Chúa để thiên nhiên không còn phải: “rên siết và quằn quại như sắp sinh nở”.
Đừng sợ: Đó là lời mời gọi của Chua hôm nay, đi cùng với Chúa, sống là sống cho Ngài và chết cũng là chết cho Ngài nên chẳng còn gì sợ hãi.
Hãy can đảm lên!
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Mục lục
Có những điều tương phản chúng ta nhận ra được. Có những điều phi lý chúng ta biết được.
Có những điều nghịch lý chúng ta nhìn thấy được. Nhưng cũng có những điều nghịch mà không phi lý.
Thời nay, thời của thức ăn nhanh mà tiêu hoá thì chậm; của con người to lớn hơn nhưng nhân cách nhỏ hơn ; tài sản rất sâu nhưng tình thương lại cạn.
Có một người cha sống bằng và sống trên bãi rác vì bị con cái bỏ rơi, đang khi đó một người kia vào quán mua một tô phở đặc biệt cho con chó ăn ngay trước mặt nhiều người.
Con người thời nay rất thoải mái và hào phóng cho các dịp liên hoan, yến tiệc với chi phí nhiều triệu, nhưng lại so đo, xua đuổi những kẻ nghèo hèn an xin, dù chỉ vài ngàn.
Con người thời nay ăn uống quá nhiều, hút quá nhiều, xài tiền không tính toán nhưng cười lại quá ít.
Con người thời nay thích ăn nhanh, nói nhanh, đi nhanh… nhưng sửa lỗi phục thiện lại chậm.
Con người thời nay có mái nhà đẹp nhưng lại thiếu mái ấm. Nhà thì rộng mà tình thương lại hẹp. Tiện nghi nhiều hơn nhưng thời gian lại ít hơn.
Con người thời nay xây nhà cao lớn hơn nhưng lại hạ thấp nhân tính; xây đường rộng hơn nhưng lại thu hẹp tầm nhìn.
Con người thời nay mua nhiều nhưng dùng ít, có ít nhưng xài nhiều.
Con người thời nay có nhiều bằng cấp nhưng trí thức thì hạn chế. Có nhiều kiến thức nhưng lại thiếu suy xét.
Con người thời nay sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn, mầu sắc đẹp hơn, kích cỡ lớn hơn, số lượng nhiều hơn, nhưng chất lượng chưa chắc đã bổ, đã tốt, đã bền, đã an toàn hơn.
Con người thời nay làm giàu dễ hơn, nhanh hơn, nhưng đầu tư cho nhân cách lại ít hơn. Tài sản thì nhiều nhưng nhân bản lại ít.
Con người thời nay khuynh hướng nói nhiều hơn nghe, ghét quá nhiều mà yêu thương lại ít.
Con người thời thích kéo dài tuổi thọ, nhưng lại không sống đúng với ý nghĩa của thời gian và cuộc sống.
Con người thời nay chinh phục được vũ trụ, không gian, nhưng lại bỏ trống không gian cõi lòng.
Con người thời nay đầu tư làm sạch không khí, nhưng lại làm cho tâm hồn thêm vẩn đục.
Con người thời nay rõ đường đến mặt trăng nhưng lại quên đường đến nhà người thân, nhà hàng xóm.
Con người thời nay biết cách thẳng tiến và tiến nhanh, nhưng lại chưa học cách chờ đợi.
Con người thời học được nhiều cách kiếm sống nhưng lại chưa học được cách sống.
Nghịch lý nhưng không phi lý
Có một loài voi, mỗi con cần vài chục lít nước mỗi ngày để tồn tại nhưng chúng lại có thể sống và tồn tại ở sa mạc.
Có một loài cá, tuy sống cần nước, nhưng lại có thể sống trong lớp bùn của ao hồ, dù hồ ao đã cạn hết nước, lòng hồ đã khô nút nẻ.
Một mẹ có thể nuôi đàn con, nhưng đàn con lại không nuôi nổi mẹ già.
Có một loài thụ tạo tuy chỉ là một thứ bụi tro, nhưng lại là một thứ tro bụi rất có giá trị. Giá trị đến nỗi Đấng Tạo Hoá dám đổi bằng máu, bằng sự sống. Đó chính là con người và Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã chọn một ông già tổ phụ để làm mẫu cho niềm tin, cho từ bỏ và dấn thân, đó Abraham.
Thiên Chúa đã chọn một thanh niên trẻ ít kinh nghiệm để đánh thắng một Gôliat hùng mạnh, đó là Đavít.
Thiên Chúa đã chọn một người ngoại chống đạo để rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, ấy là Phaolô.
Thiên Chúa đã chọn một người chối Chúa ba lần để lãnh đạo dân Ngài. Không ai khác, chính là Phêrô.
Thiên Chúa đã chọn một người phàm để bảo dưỡng và cưu mang kho tàng ơn cứu độ, đó là Mẹ Maria.
Thiên Chúa đã chọn một người được Pharaô đào tạo để chống lại ông ta, đó là Maisen.
Thiên Chúa đã chọn một người ngoại để tuyên xưng
Thiên Chúa đã chọn một người kém cỏi để thu phục các linh hồn là Gioan Maria Vianey
Ôi Thiên Chúa thật khó hiểu và khác người.
Nghịch lý nhưng không phi lý
Thiên Chúa không cần con người chứng minh, vì Ngài như mặt trời không cần ai chứng minh về ánh sáng. Còn con người lại cố gắng chứng minh về Thiên Chúa.
Thiên Chúa chọn anh em chứ không phải anh em chọn Thiên Chúa (Ga 15,16)
Con người không phải là Thiên Chúa, nhưng lại thích tỏ mình ra như là đấng toàn năng, muốn tự sắp xếp, tự quyết định, muốn tự sống, tự lo mọi sự cho đời mình.
Không phải là tôi sống nhưng chính là Chúa Kitô đang sống trong tôi (Gl 2,20) .
Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta trước (1Ga 4,10).
Không phải con người đã biết Thiên Chúa, nhưng là con người đã được Thiên Chúa biết đến (Gl 4,9).
Không phải chúng ta nói Chúa nghe, nhưng là Chúa nói ta nghe.
Không phải chúng ta làm, nhưng là để Chúa làm trong ta.
Cái điên rồ của Thiên Chúa cũng hơn cái khôn ngoan của loài người, cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người (1Cr 1,25).
Những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh (1Cr 1,27).
Gieo xuống thì hèn hạ, mà chỗi dậy thì vinh quang ; gieo xuống thì yếu đuối, mà chỗi dậy thì mạnh mẽ (1Cr 15,43).
Tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời (Kinh Hòa Bình).
Ðức Giêsu nhập thể, nhập thế. Ngài sống với, sống cùng, sống trong, sống giữa thế gian, nhưng lại không thuộc về thế gian. Ngài đã chết, đã Phục Sinh, chính là một nghịch lý vĩ đại đối với con người. Nghịch lý nhưng không phi lý, vì Ngài dám chết vì yêu thương nhân loại.
Thanh Thanh
Không hiểu từ bao giờ hình ảnh trái tim đã được chọn làm biểu tượng cho tình yêu, nhưng lại biết rất rõ ràng vào ngày Thứ sáu Tuần Thánh, khi tên lính lấy dòng đâm cạnh sườn Chúa Giêsu cho máu và nước trong tim chảy ra, thì hình ảnh trái tim mang thương tích đã trở nên biểu tượng cho một tình yêu vô cùng lớn mạnh Thiên Chúa dành cho con người. Và đến khi thiết lập lễ Thánh Tâm, thì hình ảnh trái tim ấy không chỉ được nhìn như một biểu tượng, mà còn là một đối tượng của lóng sùng kính cách chung trong Giáo hội cũng như cách riêng nơi mỗi tâm hồn.
Nói đến tình yêu Thiên Chúa, một câu hỏi thường được đặt ra, ấy là tại sao Thiên Chúa lại yêu thương con người. Phải chăng đó là sự bận bịu của một vị Chúa quá nhàn rỗi, như người ta vẫn bảo : “yêu thương là chuyện nhàn rỗi của người bận bịu và là chuyện bận bịu của người nhàn rỗi? ”Hay phải chăng con người có một phẩm giá cao khả dĩ để Chúa yêu thương ?
Rất may, linh cảm của Thánh Gioan đã cho ta câu trả lời trong Bài đọc thứ hai : không phải vì con người xứng đáng, cũng chẳng phải vì Thiên Chúa nhàn rỗi làm việc bá vơ, nhưng chỉ vì một nhẽ, đó là chính tình thương của Ngài. Trong tình yêu Ngài là người khởi sự.Trong tình yêu Chúa luôn đi bước trước và bằng tình yêu Thiên Chúa luôn bộc lộ sáng kiến của Ngài. Ngài yêu con người không hẳn vì con người đáng yêu, mà chỉ vì Ngài là Tình Yêu tuyệt đối nên càng muốn cho đi cách tuyệt đối.
Bởi yêu thương là cho đi, nên qua những phẩm vật được cho, ta có thể nhận ra mức độ khác nhau của tình yêu. Cho nhau những quà tặng thiết thực như đồng quà tấm bánh đó là tình yêu quý trọng. Cho nhau những quà tặng thiết thân như lời an ủi chuyến viếng thăm đó là tình yêu gieo mầm thân ái. Cho nhau những quà tặng thiết yếu như tình cha lòng mẹ đó là tình yêu bóng cả nước nguồn.
Đến khi hai bên cho và nhận không cùng trên một bình diện như Thiên Chúa yêu con người, như thánh thiện ôm lấy tội lỗi thì ở đó không thể là một tình yêu bình thường nữa mà phải gọi là sự hạ cố đồng nghĩa với lòng thương xót.
Qua lịch sử cứu độ, Thiên Chúa tạo dựng, tuyển chọn và kết ước với Dân mình: đó là tình yêu sáng kiến. Rồi khi Dân lỗi phạm, Ngài tha thứ : đó là tình yêu bao dung. Và cuối cùng Thiên Chúa sai Con Một là Đức Kitô xuống thế chịu chết cứu độ : đó là tình yêu hòa giải luôn đi bước trước : Qua Thánh Tâm của Đấng chịu đâm thâu, ta nhận ra đó chính là trái tim nồng nàn tình thương xót.
Đành rằng Thiên Chúa yêu thương là thế, nhưng ai bắt Chúa chết để cứu độ ? Sao Chúa không cứu độ bằng “ remote” điều khiển từ xa ? Hay theo mắt nhìn của các Giáo phụ Hy Lạp chỉ với việc Nhập Thể thôi cũng quá đủ để cứu chuộc nhân sinh, tội gì phải khổ? Hàng loạt câu hỏi cứ thế được đặt ra, và khi tìm cách trả lời ta mới hiểu Thiên Chúa một khi tự nguyện can dự vào đời sống con người, thì Ngài cũng phải băng mình hiến thân cho con người nữa, và đi đến cùng trong lô-gích ấy chính là tận hiến. Ngài tự nguyện cho đi tất cả, đến người Con Một Ngài cũng chẳng từ. Ngài làm hết mọi cách đến nỗi đã đẩy Con mình đến nỗi phải chết và chết trên Thánh giá để diễn tả tình yêu.
Tại sao Đức Kitô phận ngang hàng với Thiên Chúa lại tự hủy mình ra không mà vâng lời Chúa Cha cho đến chết trên Thánh giá ? Thưa chỉ vì yêu thương loài người. Tại sao Chúa Giêsu lại xâm mình lao đầu vào con đường khổ ải phiêu lưu mạo hiểm đến cả sinh mang ? Thưa cũng chỉ vì yêu thương nhân lọai. Khi rút ruột tâm tình : “không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống vì người mình yêu” là khi Người đã quyết định để cho mình bị treo lên mong kéo được mọi sự lên cùng Người. Yêu thương xem ra bao giờ cũng sánh đôi với đau khổ. Yêu thương không đau khổ phải gọi là yêu thương ảo, vờ vịt, giả dối. Đau khổ không yêu thương thì không quan niệm được nếu không muốn nói là đau khổ thừa, phí uổng, vô ích. Chính vì yêu thương mà chịu đau khổ và bị đau khổ mà vẫn bền bỉ yêu thương, tình yêu mới có cơ sở để gọi là tình yêu đích thực.
Thiên Chúa đã cho ta tình yêu đích thực khi để Chúa Kitô phải chịu đau khổ là Ngài muốn sử dụng ngôn ngữ của con người để nói cho con người về tình yêu của Ngài một cách cụ thể nhất, hùng hồn nhất và chân xác nhất. Nhạc tình thường buồn, truyện tình thường ướt nước mắt, phim tình thường bi lụy chia xa và mối tình Thiên Chúa dành cho con người qua trái tim với vết thương rộng mở rõ ràng đã là tính chất ngất thương đau.
Ở nhà tôi có một bức ảnh Thánh Tâm cỡ lớn có trái tim mọng đỏ với ngọn lửa hồng. Khi còn nhỏ, tưởng trái tim ấy đỏ vì phải bỏng, tôi hỏi mẹ sao không dập tắt ngọn lửa kia đi để Chúa khỏi phải đau. Mẹ tôi bảo : khi nào mẹ con mình cũng như mọi người không phạm tội nữa, ngọn lửa ấy mới không làm Chúa phải bỏng. Sau này lớn lên tôi hiểu : cho dù người người không phạm tội nữa, trái tim Chúa không phải bỏng, nhưng ngọn lửa kia vẫn còn mãi, vì đó là trái tim bốc cháy tình thương mến. Đó là bản chất của Thánh Tâm Chúa, một con tim sống bằng cách cho đi tình thương không mệt mỏi, không vơi cạn, không cùn mòn, không lạnh giá.
Chắc rằng khi tường thuật người lính lấy lưỡi dòng đâm thủng trái tim cho nước và máu chảy ra. Thánh Gioan chỉ nhắm mô tả một sự kiện và làm chứng sự kiện đó có thật, nhưng khi ngài nói đến mục đích là để cho mọi người tin, thì sự kiện kia đã trở thành một hình ảnh tiêu biểu không thể nào quên được về một tình yêu mãnh liệt đến chết vẫn còn mở ra. Nhất là khi đặc tả trái tim ấy đã trào ra những giọt máu và nước cuối cùng, thì con tim nhân loại không thể không hiểu đó là một bằng chứng của một tình yêu đã đi đến chọn lựa cuối cùng : một tình yêu hết lòng.
Chính vì thế các Giáo phụ năm xưa đã khẳng định rằng : Thánh Tâm Chúa Giêsu là cội nguồn của các bí tích đem lại sự sống.Máu là dấu hiệu hiển thị sự sống, có máu lưu chuyển là có sự sống trong mình. Nước cũng là dấu hiệu biểu thị sự sống : có nước là có sự sống triển nở sinh sôi. Và đến khi máu và nước không chỉ dừng lại trong khía cạnh biểu thị mà đã bước sang khía cạnh phát sinh hiệu quả, thì rõ ràng đây là một Bí tích nguồn mạch khai sinh mọi Bí tích của Hội Thánh.
Thánh Tâm Chúa Giêsu không chỉ là biểu tượng cho tình yêu, mà còn là đối tượng của lòng tin, lòng cậy và tình thương mến. Thánh Tâm Chúa Giêsu không chỉ là hình ảnh của tình yêu, mà còn là nguồn mạch từ đó khai sinh ra mọi tình yêu vị tha vô vị lợi, hiếu sinh hiếu hòa, cao thương cao vượt, thánh hóa thánh đức trong cuộc sống nhân sinh. Bởi chưng khi đã được tình Chúa thánh hiến, người ta sẽ hân hoan thể hiệu cuộc sống bằng một con tim dạt dào tình thương mến.
Tóm lại, nhìn Thánh Tâm như một con tim nồng nàn tình thương xót, chất ngất tình thương đau và dạt dào tình thương mến tức là một cách nào đó tìm đến vận hành yêu thương của Thiên Chúa, mong gặp được ơn thánh mà đảm lĩnh phận vụ yêu thương giữa cuộc sống hôm nay, cho dẫu đó đây vẫn còn gặp thấy những trái tim ngục tù, trái tim mùa thu, con tim băng giá và con tim hóa đá.
ĐGM Giuse Vũ Duy Thống
Hơn 8000 người tham dự Hai Đêm Canh Thức Mùa Vọng với chủ đề “Học Cùng Giêsu” ngày 6 -7 /12/2007 tại Trung Tâm Mục Vụ Tổng Giáo Phận đã nhiều lần xúc cảm khi gặp gỡ những chứng nhân sống đạo giữa đời thường hôm nay. Một trong những người đó là anh Liêm. Phaolô Tông Đồ một lần ngã ngựa đã bừng tỉnh trở lại. Thế nhưng với anh Liêm thì Chúa phải ra tay đến lần thứ hai. Hai lần ngã ngựa cho một lần trở về được ơn cải tử hoàn sinh vừa thể xác vừa tâm hồn.
Tôi tình cờ biết Liêm qua một cặp vợ chồng Việt Nam định cư bên Pháp rất nhiệt thành với việc cầu nguyện lòng thương xót Chúa và Đức Mẹ Mễ Du. Về thăm gia đình ở Việt Nam, trong một buổi cầu nguyện ở nhà thờ Huyện Sĩ, sau khi nghe một chứng nhân lên chia sẻ, họ rất xúc động và tìm đến tôi giới thiệu anh chàng “hai lần ngã ngựa.”
Là người được giao nhiệm vụ “săn lùng” các chứng nhân, nghe ở đâu có người “ngã ngựa” là tôi tìm đến. Lặn lội vào các hang cùng ngõ hẻm, làm công việc tiếp cận để đưa ra ánh sáng những mảnh đời rách nát được lòng thương xót Chúa cứu vớt thì chính bản thân tôi cũng được hưởng nhờ ân lộc này. Mắt tôi cũng được sáng ra như Phaolô để nhận biết sự bất toàn của mình, để từng ngày tôi khám phá ra Chúa vẫn luôn mời gọi tôi quay trở về với Ngài. Như Phaolô, tôi không còn hãnh tiến về đạo đức của mình, không còn tự hào về những gì mình làm được, vì “tất cả là hồng ân”. Tuy nhiên, tôi lại thêm lòng tự tin, không mặc cảm, vì như Phaolô đã xác tín mạnh mẽ : “Tôi có thể làm được mọi sự trong Đức kitô, Đấng ban sức mạnh cho tôi.”
Xin ghi lại đây lời trần tình của chàng thanh niên “hai lần ngã ngựa” :
“Tôi là một thanh niên 32 tuổi. Tuy thuộc gia đình Công Giáo gốc, nhưng tôi không giữ đạo cũng chẳng sống đạo. Tính tình ngang bướng, không nghe giáo huấn của Chúa, cũng chẳng biết vâng lời ai, ngay cả cha mẹ mình. Đến năm 18 tuổi, tôi lao vào thế giới ăn chơi, sa đọa. Tôi làm đủ thứ nghề như đòi nợ thuê, đánh ghen thuê, cướp giật, cờ bạc, đâm thuê, chém mướn… bất chấp mọi thủ đoạn, chỉ cốt làm sao có tiền để ăn chơi, hút sách. Tôi thành con nghiện ngay lứa tuổi đôi mươi.
Đến năm 1997, tôi bị bắt tại Vũng Tàu vì tội cướp giật. Sau 12 tháng tù giam, không hề hối cải, tôi tiếp tục lao vào con đường ăn chơi. Tôi cũng cai nghiện Heroin nhiều lần nhưng thất bại.
Năm 2003, trong một vụ phạm pháp, tôi bị bắt đưa vào công an quận Tân Bình, lãnh án 18 tháng tù giam, chấp hành án tại trại giam cải tạo tỉnh Cà Mau. Tại đó tôi được thử máu, và kết quả là nhiễm HIV. Khi được tha về, tôi thất vọng chán nản vì căn bệnh bất trị này, buông trôi cuộc đời mình cho lăn xuống con dốc tội lỗi.
Lại phạm pháp vì tàng chứa heroin, tôi bị bắt. Tòa án Hốc Môn xử ba năm tù. Ở trại giam được 7 tháng, tôi được chuyển đi Bố Lá. Ở đó, tôi ngã bệnh trầm trọng đến nỗi khi có người nhà lên thăm nuôi, phải có người dìu tôi ra tứng bước. Tôi thấy cuộc đời mình đã bỏ di rồi. Thấy vậy, ba tôi lo lắng, lấy một lọ nước nhỏ bảo tôi uống, và nói là nước của Đức Mẹ Lộ Đức do chị của tôi đang tu bên Pháp gởi về. Tôi nghĩ đó cũng chỉ là chai nước lã thôi có gì lạ, nhưng tôi vẫn uống cho ba vừa lòng. Hai tuần sau tôi được chuyển đến trường cải tạo khác, bỗng nhiên tôi cảm thấy mình khỏe mạnh, mập mạp ra.
Chấp hành án được hơn 2 năm tôi lại đổ bệnh và phải nằm trạm xá gần 2 tháng. Cơ thể tôi từ 60kg sụt xuống chỉ còn 32kg. Tôi ở trong tình trạng hoàn toàn suy nhược cho nên phải chuyển ra Bệnh Viện Đa Khoa tỉnh Bình Phước để xét nghiệm và nội soi phổi. Bác sĩ cho biết kết quả là lục phủ ngũ tạng của tôi đã nát bét hết, không còn xài được nữa. Nhưng lúc đó tôi đã ra chai lì, không còn biết sợ là gì, và cũng xác định mình đã ra nông nỗi này thì chết phải chịu thôi. Bác sĩ đề nghị cho tôi về để người nhà lo hậu sự, vì tôi không còn khả năng tự phục vụ cho chính mình nữa.
Gia đình bảo lãnh tôi về nhà để chuẩn bị cho lần ra đi vĩnh viễn của tôi, một đứa con hoang đàng. Ba tôi vội vàng đi mời cha xứ để tôi được lãnh nhận Bí Tích Giải Tội, Xức Dầu và Mình Thánh Chúa. Cộng đoàn thấy tôi quá yếu nên rước thánh tượng Mẹ Mễ Du ở nhà thờ Huyện Sĩ về đọc kinh cầu nguyện cho tôi trong ba đêm liền. Lúc ấy tôi chỉ biết nằm nghe mà thôi chứ không thể cử động nổi. Nhưng thật lạ lùng ! Qua ba đêm ấy, sức khoẻ của tôi dần dần hồi phục. Tôi đã ăn uống được bình thường và không cần người đỡ nâng như trước nữa.
Khi sức khỏe được phục hồi nhờ phép mầu lòng thương xót Chúa và sự chuyển cầu của Mẹ Mễ Du, thì… than ôi ! Tôi đâu có chịu hối cải. Phaolô một lần ngã ngựa, con mắt thể xác mù tối nhưng con mắt tâm hồn sáng ra. Còn tôi thì trái lại. Chúa ban cho thân xác tôi được hồi sinh, nhưng sự chai lì trong tôi làm con mắt tâm hồn vẫn mờ mịt. Đúng là “ngựa quen đường cũ”. Tôi lại lao vào con đường ma tuý. Như chiếc xe không có thắng, tôi lao vào ăn chơi hút chích không thể dừng, mặc cho đời mình đi đến cuối đường là cái chết trắng tay. Mãi cho đến lúc đó mà tôi vẫn chưa nhận ra được tình thương của Chúa của Mẹ dành cho tôi, đã cứu giúp tôi bao lần trong suốt những tháng năm vào tù ra khám, nhất là lúc thập tử nhất sinh vừa rồi.
Tôi chỉ còn là cái xác vô hồn sau khi đã vắt kiệt đời mình vào những cuộc ăn chơi vô độ đến nỗi vô tâm, vô cảm ngay cả với những người thân yêu của mình. Tôi ngã ngựa lần thứ hai! Gia đình thấy tôi quá yếu nhược vội thắp nến đọc kinh cầu nguyện. Tôi nằm đó tê liệt như cái xác không hồn, thao thức, đau đớn, vật vã vì ma túy cho đến nửa đêm. Ma túy ! Đúng ! Nó là con ma, con quỉ độc ác mà tôi đã vô tâm bắt tay với nó, vui vẻ trao trọn cuộc đời mình cho nó để bây giờ nó toan tính kéo tôi lao vào hỏa ngục cho có bạn có bè. Có hối hận thì cũng đã muộn màng ! Trong bóng đêm của cuộc đời mình, tôi mơ màng nghe có tiếng ai nói gì bên tai. Tôi giật mình thức dậy cũng là lúc nhà thờ đổ chuông giờ Lễ sáng. Tôi tỏ ý muốn đi dự Lễ. Ba tôi ngạc nhiên hết sức, không hiểu nổi tại sao tôi lại muốn đi dự Lễ. Như được sự tiếp sức từ trời cao, nên dù không đủ sức khỏe, tôi vẫn cố lê từng bước đến nhà thờ, nơi có Chúa có Mẹ buồn sầu chờ đợi tôi đã bao lâu nay.
Cũng từ ngày đó, tôi mới thấy mình được ơn rất nhiều, đã vượt qua được bệnh tật, nghiện ngập, vượt qua được những lôi kéo của thế gian, xác thịt, ma quỉ, để trở về với tình yêu thương của gia đình, với Cha Trên Trời. Tôi dứt hẳn được cơn nghiện. Tôi cai sống ! Điều mà trước kia đã bao lần tôi muốn dứt bỏ nó mà không thể được. Bao nhiêu trại cai nghiện cũng bó tay với tôi. Heroin không đến tìm tôi thì tôi cũng phải tìm đến nó với bất cứ giá nào. Thế nhưng bây giờ có Chúa rồi, tôi dửng dưng với nó. Thậm chí bạn bè nghiện cũ đưa đến chào mời miễn phí tôi cũng thản nhiên lắc đầu chối từ. Tôi biết sức mình không thể làm được điều này. Chỉ có ơn Chúa và Mẹ Maria qua lời cầu nguyện của cộng đoàn mà tôi mới được như ngày nay. Bây giờ tôi xác tín được như thánh Phaolô rằng : “Tôi có thể làm được mọi sự trong Đức Kitô, Đấng ban sức mạnh cho tôi.”
Tôi, một con ngựa chứng đã cảm nhận được Lòng Thương Xót của Chúa và Tình Thương của Mẹ Maria. Qua “hai lần ngã ngựa”, tôi đã được Máu Thánh Chúa đã đổ ra trên thập giá chuộc tôi về từ cõi chết, cái chết phần xác, cái chết phần hồn. Tôi muốn ghi lại những chứng tích này như dấu chỉ ngàn đời tình yêu nhưng không của Chúa và lòng từ ái khôn lường của Mẹ Maria, với ước mong có bạn trẻ nào còn đang đi vào mê lộ hãy sớm tỉnh ngộ quay về đón nhận ơn tha thứ và tình yêu của Thiên chúa để sống xứng với phẩm giá con người.
Kẻ “hai lần nga ngựa” : Phêrô Nguyễn Gia Liêm
Giáo Xứ Tân Mỹ, Hốc Môn”
Lm. Giuse Trần Đình Long,sss
Ngày xửa, ngày xưa có một lần những màu sắc trong vũ trụ vùng lên tranh chấp quyền lực. Chúng cãi nhau, cố chứng minh mình là quan trọng nhất, đẹp đẽ nhất, và được yêu thích nhất trong hệ màu sắc tồn
tại trên thế gian này.
Màu xanh lá cây giành quyền nói trước: “Hiển nhiên ta là màu quan trọng nhất. Ta là đại diện của cuộc sống và hình ảnh của hy vọng. Tất cả thiên nhiên đều có màu đồng nhất của ta. Thiếu ta, các sinh vật trên trái đất sẽ chết. Hãy nhìn xung quanh các ngươi kìa, đâu đâu không thấy ta!”
Màu xanh da trời cũng chẳng chịu thua: “Cái nhìn của ngươi thật nông cạn. Ngươi chỉ nhìn thấy những gì thấp ngang tầm mắt mà quên rằng trên bầu trời còn có màu xanh kỳ diệu của ta và xa thật xa, ta cũng là biển cả. Nên nhớ ngàn năm nay nước là mạch sống của loài người và trời cao tạo nên không gian, che chở cho nhân lọai. Không có ta, các ngươi chẳng là gì!”
Màu vàng cười mỉa mai: “Tất cả các ngươi đều vô lý. Chính ta mới là người đem đến niềm vui, hạnh phúc và sự ấm áp cho hành tinh này. Ta là mặt trời! Ta cũng là mặt trăng. Và các tinh tú trên cao cũng có ánh sáng thần kỳ của ta. Thiếu ta, cuộc sống sẽ buồn tẻ và vô vị”.
Màu cam cũng không chịu thiệt thòi: “Hãy nhìn lại đi, ta mới chính là sự sống và sức mạnh. Loài người có thể không nhìn thấy ta ở khắp mọi nơi vì ta lại đại diện cho sự sang trọng và cao quý. Thiếu vắng ta, các ngươi sẽ không sống nổi. Ta đem đến cảnh đẹp rực rỡ cho bình minh và hoàng hôn. Bên cạnh sắc đẹp của ta, tất cả những màu sắc các ngươi sẽ bị bỏ quên và lu mờ”.
Không thể chịu đựng được nữa, màu đỏ bật dậy: “Ta là hoàng đế màu sắc. Ta thống trị tất cả. Ta là máu, là sự sống. Ta cũng là sự nguy hiểm và can đảm. Không có ta, trái đất này sẽ đơn điệu và cô độc như mặt trăng ngàn năm chẳng một bóng người. Ta là tình yêu và nỗi đam mê”.
Màu tím ưỡn mình lên tiếng: “Chính ta mới đáng được tôn vinh và thần phục. Màu tím là màu của hoàng tộc và quyền uy. Các vua chúa, các nhà lãnh đạo luôn chọn ta là biểu tượng cho quyền lực và trí tuệ. Mọi người triều bái ta, lắng nghe và tuân lệnh ta”.
Cuối cùng bằng một giọng nói chậm rãi nhưng đầy tính thuyết phục, màu chàm tự khẳng định mình: “Hãy nghĩ về ta, màu sắc của sự im lặng. Có thể các ngươi đã bỏ quên và không chú ý đến sự tồn tại của ta, nhưng thiếu ta, tất cả các ngươi chỉ có cái dáng vẻ bên ngoài. Ta là hiện thân của suy tưởng, lương tâm, là sâu thẳm trong ý nghĩ. Tất cả các ngươi đều cần ta để soi lại mình, để cân bằng cuộc sống và bình an trong tâm tưởng”.
Đến đây thì tất cả các màu sắc đã cùng nổi dậy, cố dùng miệng lưỡi để đánh bại các địch thủ của mình. Mỗi màu đều tự tôn vinh mình là vua. Tiếng cãi vả, lấn át giọng nói của nhau vang lên, to dần, và to dần. Bất thình lình có tiếng sấm sét và từ trên trời rất cao, một vệt sáng rơi ngang làm chói loà các màu sắc nhỏ nhen giờ đây đang nhắm nghiền đôi mắt sợ sệt. Mưa từ đâu chợt đến. Bắt đầu bằng những giọt nhỏ, sau đó lớn dần, lớn dần, và rơi như trút nước. Tất cả các màu sắc co rúm người. Chúng xích lại gần nhau, nép vào những màu sắc bên cạnh, cố tìm cho mình chút che chở và hơi ấm đồng cảm.
Từ trên cao, tiếng mưa thì thầm: “Những màu sắc khờ dại các ngươi. Các ngươi đã cố chứng minh điều gì? Tại sao phải ra vẻ ta đây là quan trọng nhất. Chẳng lẻ các ngươi quên rằng, mỗi người trong các ngươi đều có một giá trị như nhau, đều được tạo ra để phục vụ đời sống con người, để góp phần tôn vinh thế giới muôn màu, muôn vẻ. Tại sao không cùng nắm tay nhau và đến với nhau trong hoà bình”.
Các màu sắc thèn thẹn tìm bàn tay nhau!
Tiếng mưa lại vang lên đều đặn: “Từ nay trở đi, sau mỗi cơn mưa, tất cả các người hãy vươn mình lên cao, ngang bầu trời và để lại một vòng sáng rực rỡ, nhắc nhở lẫn nhau, chúng ta hãy cùng sống trong hoà bình và tương ái. Hãy ghi nhớ, với sức mạnh đoàn kết, chúng ta mới trở nên hữu ích cho xã hội. Ích kỷ và nhỏ nhen là kẻ thù của thành công và kẻ đồng hành của thất bại!”
Trần Tâm sưu tầm
Trong gia đình hạt nhân thời hiện đại, nhiều người không còn quan tâm, đầu tư nhiều cho cuộc sống gia đình, thậm chí không còn khái niệm “nhà mình” nữa
Gia đình hạt nhân thời hiện đại, trên nền tảng tự do, bình đẳng trong quan hệ hôn nhân, tính dân chủ ngày càng được thể hiện cao trong đời sống gia đình. Điều này tạo cho các thành viên tính độc lập cao, luôn cảm thấy tự do thoải mái, tạo điều kiện tối đa cho mỗi người phát huy năng lực vào trong công việc và các mối quan hệ bên ngoài xã hội. Tuy nhiên, cũng từ đó mà một số người không còn quan tâm và đầu tư nhiều cho cuộc sống gia đình.
Gia đình là nhà trọ
Ngay từ những ngày đầu mới cưới vợ, anh Hùng - trưởng một cửa hàng điện thoại - đã có vẻ sướng hơn những người đàn ông mới lập gia đình khác vì anh chẳng phải lo lắng gì cả. Do hoàn cảnh nhà vợ neo đơn, bản thân anh cũng chưa có sự chủ động về kinh tế nên thời gian đầu vợ chồng anh về ở cùng với ba má vợ. Ba vợ anh nguyên là chủ một trại mộc nên cực kỳ tháo vát, má vợ anh làm nội trợ mấy mươi năm nên hết sức đảm đang. Hai ông bà lại còn đang rất khỏe. Thấy con rể mới về nhà mình còn lạ nước lạ cái, lại sợ con tủi thân “ăn nhờ ở đậu” bên vợ nên ông bà luôn giành phần đảm đương mọi việc trong nhà. Tuy không bao cấp toàn bộ về kinh tế, nhưng trong nhà từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ, cũng đều do một tay ba má vợ sắp xếp ổn thỏa. Lúc đầu anh Hùng cũng hơi ái ngại, nhưng chị Dương, vợ anh, nói: “Anh mới về chưa quen việc đâu, làm mất công hổng vừa ý ba má”. Sau đó không lâu, anh cũng quen dần. Cho đến lúc vợ sinh con rồi, anh vẫn còn lơ ngơ như người khách lâu lâu đến chơi. “Nước sôi để đâu em?”, “Giấy vệ sinh hết rồi kìa em!”, “Em ơi dậy dỗ con, nó khóc nãy giờ rồi kìa!”...
Không chỉ trường hợp ở chung với cha mẹ mới có kiểu “làm khách” như anh Hùng. Còn có nhiều gia đình hạt nhân khác, chỉ có vợ chồng con cái với nhau, nhưng cũng không ít người đóng vai như một người khách ở trọ trong chính căn nhà của mình. Ngay chính trong công ty anh Hùng, có chị Tuyết, người vẫn thường tâm sự với mọi người về nỗi khổ có anh chồng hơi “khách sáo”, dù ở cơ quan chồng chị là người rất có năng lực. Mỗi lần đức lang quân dẫn bạn ở cơ quan về nhà liên hoan, là y như đang có một khóa huấn luyện mới trong nhà. Nào là “Em ơi ổ cắm điện để đâu?”, “Con dao ở chỗ nào rồi?”, “Ủa anh lau nhầm giẻ lau bếp hả?”... Lâu lâu nghe chồng hỏi những câu trớt quớt, đại loại như: “Em nhắc một lần là anh biết cuối tuần có đám giỗ rồi, đừng có lải nhải nữa, nhưng mà đám giỗ ai vậy em?”...
Hai, ba khách trọ trong nhà
Phần lớn đàn ông khi lý giải nguyên nhân “làm khách” trong gia đình thường nói rằng do chưa quen với vai trò, vị trí mới. Khi còn độc thân, ở chung với cha mẹ thì không phải để ý đến việc nhà cửa. Cho đến lúc có gia đình riêng thì không thể hình dung hết cuộc sống cần có nhiều thứ phải quan tâm như vậy. Đó là chưa kể, bản tính đàn ông thường vô tư, chỉ chú ý đến tổng thể, ít quan tâm đến chi tiết, chỉ chú ý đến những việc lớn chứ mấy việc nho nhỏ trong nhà làm sao biết được?! Bên cạnh đó, một số phụ nữ cũng tiếp tay cho quan điểm này bằng kiểu lập luận như chị Dương: “Tại sợ ảnh chưa quen!”. Ngoài ra, có những người vợ vốn dĩ giỏi giang, tháo vát, nên có thể kiêm nhiệm luôn vai trò của cả người đàn ông và người đàn bà trong gia đình để chồng yên tâm với những công việc bên ngoài xã hội. Từ đó, người chồng quên luôn nghĩa vụ làm chủ gia đình, ỷ lại và phó thác hoàn toàn cho vợ con.
Tuy nhiên, việc ngày càng có nhiều ông chồng ở trọ trong nhà chưa phải là điều đáng lo nhất. Đáng báo động hơn nữa là phải kể đến việc trong nhà không chỉ có một người mà có thể là hai, ba khách trọ. Vì giờ đây, nhiều gia đình đã có điều kiện thuê người giúp việc nên không chỉ các ông chồng mà nhiều bà vợ cũng trở thành khách trọ khi mọi việc đều phải hỏi người giúp việc. Từ việc ấm trà vỡ lúc nào, cái chổi mua bao lâu rồi, cho đến việc ngày mai cho chồng con ăn gì ... đều phải trông cậy vào người giúp việc, nếu người giúp việc hôm đó nghỉ làm là các chị “bó tay” luôn. Rồi đến con cái, khi lớn lên, đã quen với cách sống của cha mẹ, với nếp sống thiếu gắn bó trong gia đình, mạnh ai nấy đi, chỉ biết đến việc học hành, vui chơi, công việc của bản thân, không ai quan tâm đến “nhà mình” nữa. Từ đó gia đình không còn là tổ ấm mà chỉ đơn thuần là một nơi chốn để có chỗ đi về.
Chung tay xây đắp Dân gian có câu “đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm” không có nghĩa là việc trong nhà chỉ là việc của đàn bà mà nó nói lên sự tương tác, hỗ trợ và thống nhất với nhau giữa vợ chồng trong việc xây dựng gia đình, tạo nên hôn nhân hạnh phúc và bền vững. Để gia đình thực sự là chỗ dựa vững chắc, là động lực tinh thần mạnh mẽ cho con người trong cuộc sống, luôn cần có sự chung tay xây đắp của từng thành viên trong đó. Vì vậy mỗi người, dù là vợ hay chồng, nên ý thức và thực hiện đầy đủ vai trò người chủ xây dựng gia đình, đừng mãi là một khách trọ ngay trong tổ ấm của mình. |
Thạc sĩ tâm lý LÊ THỊ LINH TRANG
Theo Web site www.nld.com.vn
Giáo dục con cái :
Câu chuyện số 1
Một lần tôi nhận được một cú điện thoại của má tôi vào giữa sáng lúc tôi đang làm việc ở sở. Người điện thoại viên nói má tôi gọi khẩn cấp đến cho tôi. Tôi phải ngừng công việc và ngưng cuộc điện thoại đang dở dang với khác hàng, xin lỗi vì có “điện thoại khẩn” của má tôi. Và đây là nội dung: má tôi muốn chỉ tôi cách nấu món thịt hầm đu đủ. Trời đất! Chỉ có vậy mà má tôi cũng điện thoại đến tận văn phòng tôi vào ngay giờ làm việc.
Chẳng phải còn nhỏ, ngay cả những người con đã lớn cũng gặp những rắc rối khi cần đối thoại với cha mẹ.
Câu chuyện số 2
Tôi có hai anh em. Em tôi, nhỏ hơn tôi hai tuổi, vẫn luôn luôn được cha mẹ tôi lấy làm khuôn mẫu cho tôi. Nghĩ cũng tội cho tôi chứ. Tôi lớn hơn nhưng lại hay làm hỏng việc. (Hình như cứ hay bị chỉ trích mỗi khi làm việc gì thì việc đó lại hay sơ sẩy.) Còn em tôi, trái lại, làm cái gì cũng đúng và hợp ý bố mẹ. Chuyện học hành, chẳng hạn, đối với tôi chẳng dễ dàng gì cả. Và mọi chuyện rắc rối có vẻ bắt đầu từ đó. Em tôi vừa học giỏi vừa chơi thể thao hay. Thế là tôi trở thành biểu tượng của sự lười biếng, của thất bại, của không cố gắng, của tương lai không biết ra sao, vân vân và vân vân. Cũng tội nghiệp cho tôi chứ. Nhưng, rồi tôi cũng học xong trung học. Tôi vào làm việc ở bưu điện. Tôi có những ngày nghĩ cuối tuần đàng hoàng. Cuộc sống đều đặn nhưng không có gì nổi bật của tôi cứ thế trôi qua. Rồi tôi lập gia đình với một người làm văn phòng luật sư. Chúng tôi đều thích công việc của mình và chúng tôi cũng kiếm đủ để lo liệu việc học hành sinh hoạt cho hai người con. Chúng tôi có nhà riêng. Bạn thử nghĩ xem như vậy có làm cho cha mẹ tôi hài lòng không?
“Ổng bả” vẫn so sánh tôi với em tôi. Nó tốt nghiệp đại học và làm kỷ sư vi tính. Em tôi lập gia đình với một cô giáo dạy trung học. Bố mẹ tôi thì vẫn buồn phiền vì tôi không vào đại học và cho rằng tôi không cố gắng. Bố mẹ tôi muốn tôi phải trở thành những người mà “ổng bả” muốn kia. Họ muốn con cái phải thế này thế nọ như em tôi chớ không phải như tôi.
Chưa hết, lúc bố mẹ tôi về già. Hai người muốn bán căn nhà đang ở và mua một cơ ngơi khác. Em tôi (chớ không phải tôi) là người bố mẹ tôi tham khảo ý kiến, làm như anh kỷ sư vi tính và cô giáo trung học cũng có đầy ắp những kinh nghiệm nhà đất. Chẳng ai để ý đến việc của tôi hay của vợ tôi là người làm công việc pháp luật. Dường như không tốt nghiệp đại học thì không biết gì trên đời này cả. Vì thế, khi có dịp gặp gỡ, tụ họp gia đình, tôi chẳng muốn nói gì cả. Dường như cả gia đình chẳng ai hiều tôi và cả về sau cũng chẳng ai chịu hiểu tôi cả. Tôi muốn tình trạng này thay đổi vì tôi thấy nó làm cho tôi và gia đình tôi dần dần xa cách mọi sinh hoạt của đại gia đình cũng như làm cho giữa bố mẹ tôi và chúng tôi có một hố ngăn cách gì đó.
Làm sao thay đổi những qui tắc của gia đình?
Dường như những người ở vị trí làm cha làm mẹ đều muốn ý kiến, quan niệm, lời nói của mình là tuyệt đối và không gì có thể thay đổi lại là những cái cần phải thay đổi nhất. Có bà mẹ nhất định cấm con cái đọc truyện “Tam Quốc Chí”, “Thủy Hữ”, “Lịch Sử Tư Mã Thiên”, - cho rằng những thứ đó là chuyện tầm phào. Có vị mới làm cha (có nghĩa là vẫn còn trẻ) nhưng vẫn cho rằng mình có kinh nghiệm và có quyền ra lệnh để mọi người khác phải nghe theo, ngay cả khi những ‘người khác’ đó không cùng chung ‘hộ khẩu’ với mình và ngay cả khi những ý kiến đưa ra đã lỗi thời (Lynn Osterkamp, sđd. Trang 21-23).
Tiến sĩ Lynn kể câu chuyện của Tony, 51 tuổi và người mẹ 76 tuổi của anh. Mẹ tôi luôn luôn đòi sự vâng lời tuyệt đối, tôn trọng tuyệt đối, tôn vinh tuyệt đối. Có nghĩa là mẹ tôi là người luôn luôn đúng, luôn luôn hiểu biết và ngược lại, con cái là con cái, không có quyền trái ý, không có quyền tranh luận trong bất cứ trường hợp nào. Tôi muốn cởi mở và thành thật với mẹ tôi. Tôi cũng muốn nói chuyện với mẹ tôi để có cảm nghĩ rằng bà hiểu tôi. Tôi ghét chuyện phải rào đón và không thích việc mẹ tôi luôn luôn từ chối những điều tôi nói. Đối với chúng tôi, là con cái, mẹ tôi không thích đề cập đến những gì ngoài bổn phận đối với cha mẹ.
Trong hoàn cảnh như vậy, Tony phải quyết định giữ ý kiến của mình và tự chịu trách nhiệm với những quyết định đó. Tuy nhiên điều đó làm anh giữ một khoảng cách xa dần đối với mẹ mình. Cách lựa chọn duy nhất của anh là tránh những điều làm cho mẹ anh không hài lòng. Và dĩ nhiên khi cái bề ngoài hòa hợp giả tạo đó có vẻ tạm thời thích hợp, nó lại chẳng tạo nên một nền tảng cơ bản cho mối quan hệ mà anh ta muốn có đối với mẹ mình. Bởi vì thực tế một quan hệ gần gủi với ai đó chỉ có thể có được khi nào niềm tin vào người đó thực sự đạt đến một mức độ để bạn có thể tự chia sẻ với người khác. Có lần Tony cũng tự nói: “Thôi ráng chịu đựng, bà cụ đã 76. Cần gì phải tìm cách thay đổi nữa.”
Không ai nghĩ là có thể làm cha mẹ thay đổi ý kiến. Cha mẹ thì lúc nào cũng nghĩ đến việc cố gắng làm cho con cái thực hiện ý muốn của mình bởi vì họ không muốn con cháu phạm những lỗi lầm họ đã mắc phải. Thói quen đó thật khó thay đổi. Và nếu có thay đổi, chắc chắn phải cần thời gian và sự kiên nhẫn. Ngoài ra còn một yếu tố nữa đó là thay đổi một thói quen chỉ có thể thực hiện khi nào bản thân cha mẹ muốn thay đổi. Có nghĩa là bạn không thể làm cho mẹ bạn thay đổi. Chính cha mẹ phải tự thay đổi. Có điều con cái phải nhớ là có nhiều bậc cha mẹ luôn luôn muốn giấu kín những niềm hãnh diện và những điều hài lòng về con cái trong khi lại luôn luôn chỉ trích và phê bình. Nếu con cái hiểu được “tình yêu” thầm kín đó thì quan hệ mà con cái nghĩ là không được tốt đẹp với cha mẹ sẽ tìm được lối thoát (Lynn Osterkamp, sđd. Trang 35-47).
Trần Bá Nguyệt
Gởi anh Ng. để nhớ một kỉ niệm đẹp.
Cưới vợ cho con, sau khi gởi thiệp, bạn còn chu đáo gọi điện: “Rán đi nghe! Không mời nhiều đâu, toàn chỗ chí thiết. Sẽ khai mạc đúng giờ, không bắt bà con dài cổ chờ lâu cả tiếng như mấy đám khác.”
Bạn thật tâm lý. Quả tình anh rất ngại đi đám cưới. Thiệp mời ghi năm giờ mà thường bảy giờ mới thấy lễ cưới có vẻ rụt rịch chuyển động. Cho nên khi mỗi lần nghe nhà trai hay nhà gái xướng lớn cái mi-crô, rằng xin chân thành cảm tạ thân bằng quyến thuộc hai họ đã “ nhín chút thời gian vàng ngọc” đến chung vui, thì anh không khỏi nhăn mặt và nói với người ngồi cùng bàn: “Sai bét! Phải nói tốn quá nhiều thời giờ chứ!”
Đó là một đám cưới ấn tượng. đúng như lời bạn dặn dò qua điện thoại. Anh thích nhất việc bạn cương quyết dẹp luôn vụ đàn ca chát chúa, inh tai nhức óc.Thay thế bằng nhạc nhẹ, du dương dìu dặt, nghe văng vẳng như đưa về một chốn xa xăm Giải bày sự kiện quá khác thiên hạ này, trong phần nghi thức khai mạc, bạn nói rằng thân hữu vốn ít gặp nhau, chi bằng mượn tiệc cưới làm cơ hội hàn huyên, mà để nhạc ồn ào thì chẳng ai thích thú trò chuyện nữa, vì cứ phải lớn tiếng để át giọng mấy cái loa khuếch đại ầm ĩ.
Thế là rào rào tiếng vỗ tay tán thưởng. Hôm ấy, cơ hồ ai cũng vui sướng với nỗi khoan khoái nhẹ nhàng khi ngồi cạnh nhau rủ rì chuyện trò trong khung cảnh sang trọng, không khí ấm cúng, thức ăn đẹp và ngon, rượu bia tùy hỉ, và không phải cứ chốc chốc phải nghe ở một bàn nào đó có tiếng gào lên “dzô dzô” rất chướng.
Khi vợ chống bạn anh đưa con và dâu đến chào các bác các chú cho đúng thủ tục, một người bèn nói vui: “Ông nhà thơ này đúng là có bản sắc văn hóa hơn ai biết. Chưa bao giờ tụi này dự một đám cưới thú vị như vậy”. Cả bàn cười xòa, vỗ tay lốp bốp. Bạn cũng cười, đôi mắt dường như nhấp nháy sau hai tròng kính dày cộp: “Thiệt hả?” Vậy thì mấy ông hãy phát huy sáng kiến của tôi. Không giữ bản quyền.’’ Giơ ngón tay chỉ vào con trai nói tiếp: “ Ban đầu nó đâu chịu kiểu này. Nhưng tôi thương lương với nó, mày cưới vợ thì thân mày sướng lắm rồi, còn đám cưới thì phải cho mấy bác mấy chú mày sướng với tao chớ!”
Dũ Lan Lê Anh Dũng