TIN VUIFlowchart: Document: Số 
155
21/09/2008

  

 

 

 

 

 

 

 


 

NHƯ MỘT LỜI MỜI:

- Kính mời quý vị vào trang web www.tinvui.org để đọc các bài viết khác

- Mọi thư từ cộng tác góp ý và giúp đỡ xin quý vị gửi về địa chỉ E-mail :bantreconggiao@yahoo.com

- Ban biên tập Tin vui rất mong nhận được sự đón nhận của quý vị độc gỉa gần xa

- Xin Thiên Chúa ban muôn ơn lành và đồng hành với quý vị trong hành trình đời sống Kitô hữu

 

MỤC LỤC

 SỐNG LỜI CHÚA..

Chúa Nhật XXV Thường Niên A..

PHÚC ÂM: Mt 20, 1-16a.

TU ĐỨC..

HÀNH HƯƠNG LỘ ĐỨC TẠI NHÀ..

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI.

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ cho các bệnh nhân tại Lộ Đức.

Đức Thánh Cha chủ sự kinh chiều với các Linh Mục, tu sĩ Pháp.

BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊDICTÔ XVI TẠI QUẢNG TRƯỜNG INVALIDES (NGÀY 15-9-2008)

Lắng nghe tiếng Chúa trong những “vui mừng và hy vọng, đau khổ và lo âu” của mọi người.

PHỎNG VẤN ĐỨC TÂN GIÁM MỤC BẮC NINH COSMA HOÀNG VĂN ĐẠT.

Thánh lễ giỗ 6 năm tưởng nhớ ĐHY Phanxico Xavier Nguyễn Văn Thuận.

HỘI DÒNG KHIẾT TÂM ĐỨC MẸ NHA TRANG MỪNG KIM KHÁNH THÀNH LẬP DÒNG..

Hợp Xướng Suối Việt vui Trung Thu với Thiếu Nhi Họ Đạo Cái Rắn- Cà Mau.

TÂN LINH MỤC AUGUSTINÔ NGUYỄN THỨ LỄ DÂNG THÁNH LỄ TẠ ƠN TẠI GIÁO XỨ LẠC VIÊN, HẠT ĐƠN DƯƠNG, GIÁO PHẬN ĐÀLẠT.

Chính nhà nước đã làm sai luật pháp.

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO..

MẸ LA VANG, MẸ NGUỒN CẬY TRÔNG..

Tưởng nhớ vị Mục tử Việt Nam : Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận.

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO..

Sống đạo.

Maria, người mẹ yên ủi kẻ âu lo!

ƠN GỌI LINH MỤC – GIỐNG HỒNG ÂN NẢY MẦM…...

Vẫn còn những “công nhân giờ thứ 11”.

GIÁO DỤC KITÔ GIÁO XÂY DỰNG  GIÁO HỘI - MẦU NHIỆM - HIỆP THÔNG - SỨ VỤ..

Tài liệu Thường huấn Linh mục Giáo Phận Nha Trang, Năm Thánh Phaolô 2008.

Bài 7:

PHAOLÔ ĐỐI DIỆN VỚI CÁI CHẾT.

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH..

Trẻ quá hiếu động.

Bệnh viêm tai giữa ở trẻ.

ĐỌC SÁCH..

CHÚA NHÂN TỪ..

 

 

SỐNG LỜI CHÚA

Chúa Nhật XXV Thường Niên A


PHÚC ÂM: Mt 20, 1-16a

"Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Nước trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình. Khi đã thoả thuận với những người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông. Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, ông bảo họ rằng: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng". Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở ra và làm như vậy.

Đến khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng: "Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?" Họ thưa rằng: "Vì không có ai thuê chúng tôi". Ông bảo họ rằng: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta".

Đến chiều chủ vườn nho bảo người quản lý rằng: "Hãy gọi những kẻ làm thuê mà trả tiền công cho họ, từ người đến sau hết tới người đến trước hết." Vậy những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng.

Tới phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn, nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng. Đang khi lãnh liền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: "Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao"? Chủ nhà trả lời với một kẻ trong nhóm họ rằng: "Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao?" Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng? Như thế, kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết".

Đó là lời Chúa.

 

 

Con người thường suy nghĩ và có cái nhìn theo cách của con người, còn Chúa có cái nhìn và hành động hoàn toàn khác với loài người, với con người. Con người khác xa với Chúa không chỉ vì Chúa là Thiên Chúa, là Đấng tối cao, siêu việt, là Đấng thánh thiện vô song, còn con người chỉ là loại thụ tạo tầm thường. Con người khác xa Chúa đến mức độ ghen tỵ hay kêu trách Chúa là bất công khi thấy Chúa xử sự nhân lành với người khác.Những bài đọc Chúa nhật 25, năm A, đặc biệt bài Tin Mừng sẽ cho chúng ta thấy rõ sự nhân lành và công bằng của Chúa.

 

Thực tế, thuê công làm việc cho gia đình, cho một tập đoàn, một công ty là một việc làm rất đỗi bình thường. Trong bất cứ một xã hội nào, một nước nào. Tuy nhiên, trong dụ ngôn thánh Matthêu viết hôm nay quả thực việc thuê thợ làm vườn nho không bình thường chút nào cả: tại sao ông chủ lại trả tiền công đồng đều cho mọi người thợ làm trong ngày vào các giờ khác nhau ? Chúng ta xem cách trả đó có công bằng không vì người chỉ làm có đúng một giờ cũng được ông chủ trả ngang tiền với người làm việc từ sáng sớm ? Qua dụ ngôn này, chúng ta thấy cách cử xử của ông chủ rất đúng bởi vì ngay từ đầu thu thợ làm vườn nho ông chủ đã thỏa thuận với cách sòng phẳng: bất cứ người làm từ sáng sớm đến người làm từ buổi ban chiều, người làm chỉ một giờ rồi đến giờ ra về, ông chủ đều đã thỏa thuận trả đồng đều một đồng bạc, tất cả họ đã bằng lòng như thế. Do đó, ông chủ đã công bằng hết sức khi trả mỗi người một đồng bạc và đó là quyền của ông chủ. Dụ ngôn này nói lên hình ảnh tuyệt vời của Thiên Chúa vô cùng tốt lành, nhân hậu, hơn ông chủ vườn nho bình thường không sao so sánh. Ngài tốt lành, lòng thương xót, nhân hậu của Thiên Chúa vượt qua mọi sự trả công của con người thường đối xử với nhau trong cuộc đời này. Đối với Thiên Chúa, con người chỉ có thể khẩn nài Thiên Chúa nhờ lòng thương của Ngài, chứ không nào dùng công nghiệp của mình để đổi lấy ân huệ của Ngài được. Đức Giêsu mời gọi con người, mời gọi chúng ta nhìn sâu vào cõi lòng của Thiên Chúa. Người không chỉ là một Thiên Chúa công bình, ngay thẳng, công minh mà còn là một người cha đầy yêu thương. Dụ ngôn “ Người con hoang đàng “ “ Con chiên lạc “ “ Đồng bạc đánh mất “ nói lên tấm lòng đầy yêu thương của Người. Bở vì tất cả đều là ân huệ của Người. tất cả đều do lòng nhân hậu lòng tốt của Thiên Chúa.


Chính vì yêu thương mọi người, yêu thương nhân loại tội lỗi, Thiên Chúa đã sai của Người là Đức Kitô đến trần gian để mang ơn cứu độ cho nhân loại và để đem hạnh phúc cho muôn người, cho nhiều người. Chúa không phân biệt đối xử với người này người nọ. Chúa luôn luôn công minh, chính trực và tốt lành đối với mọi người. Chúng ta vẫn còn nhớ câu ông chủ vườn nho nói với người ghen tỵ: ”Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức ?” ( Mt 20, 15 ). Chúa tốt bụng với mọi người. Tốt bụng cả với người làm chỉ có một giờ vì Chúa đã trả anh ta sòng phẳng không thiếu một hào, một xu khi đã cùng anh cam kết khi bắt đầu làm việc.Biết bao hồng ân, biết bao phúc lộc chúng ta lãnh nhận nơi Thiên Chúa như thế chúng ta không còn lý do gì để ghen tỵ với người khác, với anh em của chúng ta. Bởi không nhận ra được tình thương của Thiên Chúa mà biết bao tội ác lan tràn trên trần gian, bao cuộc chiến tranh, bắt cóc, lộng hành, chiếm giết đã xẩy ra trên thế giới muôn thời. Cain đã giết Abel em của chính mình. Tháp Babel không thành vì con người ghen tương, không hiểu nhau, ai cũng muốn làm chủ, cũng muốn tự cao tự đại. Người anh cả ghen tỵ với đứa em thứ của mình vì không cảm nhận được tình thương cao vời của người cha và không biết tha thứ cho đứa em lầm lỡ.Người Pharisiêu kiêu ngạo đã ghen tỵ với người thu thuế được Chúa yêu thương và tha thứ, nhận lời. Thiên Chúa yêu thương mọi người miễn là con người biết mở lòng, biết sám hối quay trở về với Người để xin người ban ơn tha thứ.


Chúa muốn gửi cho con người cho loài người một sứ điệp: Nước trời là phần thưởng nhưng không Ngài ban cho con người. Thiên Chúa ban cho con người chỉ vì tình yêu, lòng thương xót của Người mà thôi, chứ hoàn toàn không phải công lao con người tạo được cho mình và bắt Chúa phải thưởng công. Trong cuộc sống đời thường, chúng ta hãy cảm tạ tri ân Chúa vì Ngài ban những hồng ân quí giá cho người này người kia. Đừng ghen tỵ với họ bởi vì làm như thế là chúng ta muốn giới hạn hành động yêu thương của Thiên Chúa. Chúa hành động theo ý của Người, bởi vì lòng của Chúa thì bao la và lòng của con người có giới hạn. Chúng ta hãy nhớ lại lời của Chúa: ” Những kẻ sau hết sẽ lên trước hết, còn những kẻ trước hết sẽ phải xuống hàng chót “( Mt 20, 16a)


 Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Mục lục

 

 

TU ĐỨC

 

HÀNH HƯƠNG LỘ ĐỨC TẠI NHÀ

Năm nay là kỷ niệm sự kiện Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức được 150 năm (1858-2008).

Tại chính Lộ Đức bên Pháp đang diễn ra nhiều sinh hoạt đạo đức. Có sinh hoạt được thực hiện mọi ngày, suốt năm. Có sinh hoạt được tổ chức khác thường vào một số thời điểm được lựa chọn rải rác trong năm.

Từ Việt Nam số người đi Pháp hành hương Lộ Đức cũng đáng kể. Nhưng hầu hết hành hương đều tại nhà. Lý do vì hoàn cảnh kinh tế, sức khoẻ và công việc không cho phép.

Tôi cũng vào số những người hành hương tại nhà. Hành hương tại nhà cũng sẽ đạt được mục đích hành hương, khi đón nhận và thực hiện những sứ điệp mà Đức Mẹ đã trao cho nhân loại. Tại Lộ Đức, Đức Mẹ trao sứ điệp cho một con người bé mọn.

Sứ điệp thứ nhất là cuộc sống nghèo hèn

Cuộc sống nghèo hèn, đó là bé gái Bernadette, sinh ngày 07/01/1844.

Bernadette thuộc một gia đình rất nghèo của giai cấp lao động.

Ông Soubirous, cha em, là người xay bột thuê. Bà Castérot, mẹ em, là người đi giặt mướn. Ông Soubirous, một lần đang khi xay bột, bị mảnh đá nhỏ bắn vào mắt, làm hư một mắt.

Bà Castérot, khi mới sinh Bernadette, một lần bị cháy ngực, phải đưa con đi bú nhờ.

Em Bernadette, sống trong cảnh đói rét, nên bị bệnh suyễn nặng.

Vì quá nghèo và bận kiếm sống, Bernadette không được đến trường. Để có thể được rước lễ lần đầu, em được các nữ tu nhận vào lớp miễn phí.

Bernadette vừa lớn lên đã phải đi ở đợ. Đầu tiên giúp việc cho một quán ăn. Sau đó được một gia đình quen nhận làm đầy tớ, vừa giúp việc nhà, vừa chăn heo chăn cừu và kiếm củi.

Sống nghèo, nhưng luôn lương thiện đạo đức.

Sống nghèo, nhưng luôn cần cù, xoay xở kiếm sống một cách trong sạch ngay thẳng theo lương tâm tốt lành. Sống nghèo, nhưng luôn phục vụ người khác bằng chính con người và cuộc sống bác ái của mình, dù cách phục vụ đó chỉ là làm thuê, làm đầy tớ.

Rồi một biến cố đã xảy ra.

Ngày 11/02/1858, Đức Mẹ đã hiện ra với Bernadette, khi em đang chăn cừu và kiếm củi giữa một thiên nhiên có núi hang và suối nước lạnh.

Đức Mẹ đã chọn một em bé nghèo, thuộc một gia đình nghèo, đang sống trong cảnh nghèo.

Đức Mẹ chọn kẻ nghèo và cuộc sống nghèo để đến với nhân loại, đó là một sự kiện đáng suy nghĩ. Sự kiện này gợi ý cho chúng ta nhớ lại sự kiện Con Thiên Chúa cũng đã chọn một gia đình nghèo ở xóm nghèo Nadarét để đến trần gian.

Tất cả cho phép chúng ta kết luận: Nghèo không phải là một tai hoạ. Nhưng nó sẽ là một dấu chỉ của sự Chúa đến, khi nó diễn tả sự lương thiện, khiêm tốn, cần cù và khát mong ơn cứu độ.

Sứ điệp thứ hai là sự cầu nguyện

Những lần được thấy Đức Mẹ hiện ra, Bernadette đều nhận được một cảm xúc khác thường. Cảm xúc đó xuất phát đột ngột bởi thái độ Đức Mẹ. Người luôn trong tư thế cầu nguyện. Đeo tràng hạt, tay chắp lại, mắt nhìn lên trời.

Thái độ cầu nguyện của Đức Mẹ thu hút Bernadette. Em tự nhiên mau lẹ bắt chước cầu nguyện. Khi vừa thấy "một Bà lạ" hiện ra, Bernadette phản ứng bằng việc rút trong túi ra một tràng hạt, đọc kinh và làm dấu thánh giá. Phản ứng đó chứng tỏ em có lòng đạo một cách hồn nhiên và bền vững. Cầu nguyện lúc đó căn bản là đáp lại một tình thương đến với mình, là lắng nghe, là yêu mến vâng phục.

Lúc đó, cầu nguyện cũng là một gặp gỡ với Chúa và Đức Mẹ. Một gặp gỡ rất sống động, rất tâm tình. Một gặp gỡ có sức biến đổi con người từ nội tâm sâu thẳm.

Những người xung quanh Bernadette cũng cảm thấy có một sức thiêng nào đó đang hiện diện một cách mãnh liệt. Họ trở nên thinh lặng, cũng tự nguyện cầu nguyện với tất cả tâm hồn mình.

Còn Bernadette, không lợi dụng những giây phút cầu nguyện, để cầu xin những ơn về vật chất, như sức khoẻ, của cải, cuộc sống thoải mái hơn. Nhưng em được đưa tâm hồn vượt trên những bận tâm đó, để chỉ tìm một hạnh phúc cao thiêng.

Lần hiện ra thứ ba, tức 18/02/1858, Đức Mẹ nói với Bernadette: "Ta không hứa ban cho con hạnh phúc của thế giới này, nhưng của thế giới khác". Lời đó đã đem lại cho Bernadette một niềm vui lớn lao. Em hiểu cầu nguyện là phải biết đón nhận hạnh phúc của thế giới ấy.

Lời Đức Mẹ nói đã mở ra cho Bernadette một chân trời mới về sự cầu nguyện.

Sứ điệp thứ ba là sám hối và cầu nguyện cho những tội nhân được trở về

Lần thứ 8 hiện ra, vào ngày 24/02/1858, Đức Mẹ dạy Bernadette:

"Hãy sám hối.

"Hãy cầu nguyện cho các kẻ có tội được trở lại".

Mấy trăm người đứng xung quanh Bernadette. Họ không thấy Đức Mẹ, nhưng thấy Bernadette nước mắt tràn trụa trên khuôn mặt rất buồn.

Khi thuật lại sứ điệp trên đây của Đức Mẹ, Bernadette cho biết tâm hồn mình cảm được phần nào nỗi đau của Chúa và Đức Mẹ vì tội lỗi con người.

Thêm vào đó, Bernadette xác tín: Để sám hối và để đưa kẻ có tội trở về đàng lành, thì phải có ơn Chúa. Vì thế, mà phải cầu nguyện. Kèm theo là những việc hãm mình, như làm những việc hèn hạ khổ chế.

Lần thứ 9 hiện ra, vào ngày 25/02/1858, Đức Mẹ đề nghị những việc hãm mình cụ thể, như hôn đất, đi bằng đầu gối, ăn cỏ. Nhờ những chỉ dẫn cụ thể trên, Bernadette hiểu hơn về sự hữu ích của những hãm mình bề ngoài và thể xác.

Sau này, cách sách tu đức về Lộ Đức đã cắt nghĩa về sự sám hối như một sự đổi mới. Đổi mới cái nhìn, đổi mới cách đánh giá, đổi mới nếp sống. Đổi mới một cách sâu xa. Chứ sám hối không phải là làm đôi nghi thức sám hối, đọc vài kinh sám hối là đã đủ.

Đang khi Lộ Đức bắt đầu trở thành nơi hành hương thu hút khắp nơi trên thế giới, Bernadette lại từ biệt Lộ Đức thân yêu để ẩn mình trong một tu viện các nữ tu Bác ái tại Nevers rất xa Lộ Đức. Chị âm thầm sống sứ điệp nơi thinh lặng đó, từ năm 1866 đến năm 1879. Lựa chọn trên đây được coi là một hy sinh hãm mình rất quý giá. Chị qua đời ngày 16/4/1879, thọ 35 tuổi.

Chị qua đi, nhưng sứ điệp vẫn còn, cả cho chúng ta nữa.

Hiện tình Hội Thánh có nhiều ánh sáng và cũng có nhiều bóng tối. Việc thực hiện những sứ điệp Đức Mẹ Lộ Đức là việc có thể thêm lên ánh sáng và bớt đi bóng tối, ngay trong chính bản thân ta.

Đức Mẹ đang đợi chờ mỗi người chúng ta.

ĐGM GB Bùi Tuần

Mục lục

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI

 

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ cho các bệnh nhân tại Lộ Đức

 

LỘ ĐỨC- Sáng 15-9-2008, ĐTC Biển Đức 16 đã cử hành thánh lễ cho 100 ngàn tín hữu, trong đó có đông đảo các bệnh nhân, tại quảng trường trước Vương cung thánh đường Đức Mẹ Mân Côi ở Lộ Đức.


Đây là thánh lễ lộ thiên thứ 3 và cũng là thánh lễ cuối cùng trong 4 ngày viếng thăm của ngài tại Pháp.


Dưới bầu trời nắng đẹp, các bệnh nhân và người tàn tật, phần lớn ngồi trên xe lăn, ở khu vực trước bàn thờ. Đồng tế với ĐTC còn có hàng trăm GM Pháp và nước ngoài.


Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC đã giải thích ý nghĩa ngày lễ Đức Mẹ sầu bi, mừng kính ngày 15-9-2009. Ngài nhận định rằng ”ngày nay, Mẹ Maria đang ở trong niềm vui và vinh quang Phục Sinh. Những giọt lệ của Mẹ dưới chân Thánh Giá đã biến thành một nụ cười mà không gì xóa bỏ được, trong khi lòng từ bi hiền mẫu của Mẹ đối với chúng ta vẫn nguyên vẹn.. Mẹ Maria yêu thương mỗi người con của Mẹ, Mẹ đặc biệt quan tâm đến những người, giống như Con của Mẹ trong giờ Khổ Nạn, đang phải chịu đau khổ; Mẹ yêu thương họ chỉ vì họ là con cái của Mẹ, theo ý muốn của Chúa Kitô trên Thánh Giá”.


ĐTC đặc biệt giải thích câu 13 của thánh vịnh 44 trong bài đáp ca của ngày lễ nói tiên tri về Mẹ Maria ”Những người giàu có nhất trong dân. .. sẽ tìm kiếm nụ cười của bà” (TV 44,13). Ngài nói: ”Nụ cười của Mẹ Maria là cho tất cả mọi người chúng ta, và đặc biệt cho những người đau khổ, để họ có thể tìm được qua đó sự an ủi và giảm bớt đau khổ. Tìm kiếm nụ cười của Mẹ Maria không phải là một điều sùng mộ theo tình cảm hoặc lỗi thời, nhưng đúng hơn đó là một sự diễn tả đúng đắn quan hệ sinh động và có đặc tính nhân bản sâu xa liên kết chúng ta với Đấng mà Chúa Kitô đặt làm Mẹ chúng ta”.


ĐTC cũng nhận xét rằng ”Mỗi lần đọc kinh Magnificat là chúng ta được trở thành chứng nhân về nụ cười của Mẹ Maria. Tại Lộ Đức này, trong cuộc hiện ra của Đức Mẹ ngày thứ tư, 3-3-1858, thánh nữ Bernadette đặc biệt chiêm ngắm nụ cười của Mẹ Maria. Nụ cười này là câu trả lời đầu tiên mà Bà Đẹp gửi tới Bernadette khi cô bé muốn hỏi danh tánh của Bà”.

Cũng trong bài giảng, ĐTC nói về sự trợ giúp của Mẹ Maria dành cho các bệnh nhân và những người đau khổ, và nói rằng:


”Có những cuộc chiến đấu mà con người không thể một mình đương đầu được, nếu không có ơn Chúa. Khi lời nói không tìm được những từ thích hợp, ta cần có một sự hiện diện yêu thương: khi ấy chúng ta tìm kiếm sự gần gũi không những của những người ruột thịt và bạn hữu, nhưng cử những người gần gũi chúng ta qua liên hệ đức tin. Ai có thể gần gũi thiêng liêng với chúng ta hơn là Chúa Kitô và Đức Mẹ Vô Nhiễm, Người Mẹ thánh thiện của Ngài? Hơn ai hết, các Ngài có thể hiểu chúng ta và thấy rõ cuộc chiến đấu cam go chống lại bất hạnh và đau khổ.. Ngoài ra, nơi Mẹ Maria chúng ta cũng được ơn thánh để chấp nhận rời bỏ trần thế này vào thời điểm Chúa muốn mà không chút sợ hãi hay cay đắng”.


Sau cùng, ĐTC giải thích về ý nghĩa bí tích xức dầu bệnh nhân và nói rằng: ”Ơn thánh riêng của bí tích này hệ tại đón nhận vào mình Chúa Kitô Y Sĩ. Nhưng Chúa Kitô không phải là y sĩ theo kiểu thế gian này. Để chữa lành chúng ta, Chúa không ở bên ngoài đau khổ người ta phải chịu; để thoa dịu đau khổ, Chúa đến ở trong tâm hồn người bị bệnh tật, để cùng chịu và sống đau khổ ấy với họ. Con người không còn chịu thử thách một mình, nhưng họ trở nên đồng hình dạng với Chúa Kitô Đấng tự hiến dâng cho Chúa Cha; trong tư cách là chi thể của Chúa Kitô chịu đau khổ, người bệnh tham gia vào việc sinh ra thụ tạo mới trong Chúa Kitô”.


”Nếu không có ơn phù trợ của Chúa, cái ách bệnh tật và đau khổ sẽ nặng nề kinh khủng. Khi lãnh nhận bí tích bệnh nhân, chúng ta không mong muốn mang ách nào khác ngoài ách của Chúa Kitô, trong niềm tin tưởng mạnh mẽ nơi lời hứa của Ngài cho chúng ta, theo đó ách của ngài dễ mang và gánh của ngài nhẹ nhàng (cf Mt 11,30). Tôi mời gọi tất cả những người sẽ lãnh nhận bí tích bệnh nhân trong thánh lễ này hãy tiến vào niềm hy vọng như vậy”.


Sau bài giảng, ĐTC đã cử hành nghi thức ban bí tích xức dầu cho 10 bệnh nhân thuộc mọi lứa tuổi, đứng đầu là một LM già yếu ngồi trên ghế lăn.. Ngài xức dầu trên trán và đôi tay của họ.


Sau thánh lễ, ĐTC đã ra sân vận động Antoine Béguère để từ đây đáp trực thăng tới phi trường Tarbes Lộ Đức. Tại đây vào lúc 12 giờ rưỡi đã diễn ra nghi thức tiễn biệt chính thức trong phòng khánh tiết của phi trường với sự hiện diện của thủ tướng Francois Fillon, các GM miền Midi Pyrénées, cùng các chức sắc đạo đời.


Chiếc Airbus 321 của hãng hàng không Pháp chở ĐTC, đoàn tùy tùng và các ký giả, đã cất cánh lúc 1 giờ 15 phút trưa và đã về đến phi trường Ciampino của thành Roma vào lúc gần 3 giờ chiều. Từ đây, ĐTC đã dùng xe về Castel Gandolfo, kết thúc tốt đẹp chuyến viếng thăm tại Pháp và cũng là cuộc viếng thăm thứ 10 của ngài tại hải ngoại.

 

Đức Thánh Cha chủ sự kinh chiều với các Linh Mục, tu sĩ Pháp

 

PARIS -. Chiều 12-9-2008, ĐTC Biển Đức 16 đã chủ sự buổi hát kinh chiều trọng tại Nhà thờ chính tòa Đức Bà Paris với 2.800 linh mục, phó tế, tu sĩ nam nữ và chủng sinh.


Thánh đường hùng vĩ này, dài 130 mét, cao 36 mét và rộng 48 mét, có thể chứa được 6500 người, và được xây cất hồi thế kỷ 12 trên phần đất trước kia là một vương cung thánh đường có từ thế kỷ thứ 6.

Dọc đường từ học viện Bernardins nơi ngài đã gặp gỡ 700 người thuộc giới văn hóa trước đó, ĐTC đã đi xe bọc kính để chào thăm rất đông tín hữu đứng hai bên đường để chào đón. Đặc biệt khi ngài đến Nhà thờ chính tòa, hàng ngàn bạn trẻ đã reo mừng đón tiếp ngài. Nhiều người vẫy cờ Tòa Thánh và cũng có nhóm giương cao biểu ngữ cám ơn ĐTC vì đã ban hành tự sắc cho phép cử hành thánh lễ bằng tiếng la tinh theo nghi thức tiền công đồng chung Vatican 2.


Hiện diện tại buổi hát kinh chiều cũng có đại diện của một số cộng đoàn Kitô khác. Kinh chiều về Ngày lễ Đức Mẹ. Sau lời chào mừng của ĐHY TGM Paris, là nghi thức đốt nến và đèn.


Trong bài giảng, sau bài đọc đoạn thư của thánh Phaolô, gửi tín hữu thành Galat (4,4-5), ĐTC đã đi từ vẻ huy hoàng và tầm quan trọng của Nhà thờ chính tòa Đức Bà Paris, và đề cao vai trò của nghệ thuật dẫn con người đến cùng Thiên Chúa. Thánh đường này là ”một dấu chỉ sống động về sự hiện diện của Thiên Chúa giữa chúng ta.. Vẻ đẹp của nhà thờ này đã giúp nhiều người tìm được ơn hoán cải”.


ĐTC cũng nhắc đến Lời Chúa được rao giảng trong Đền Thờ và vai trò của các thừa tác viên của Chúa trong việc rao giảng Lời Chúa: ”Thiên Chúa thật khiêm tốn khi ngài muốn dùng chúng ta để truyền bá lời Ngài. Chúng ta trở thành tiếng nói của Chúa sau khi lắng nghe từ miệng Chúa. Chúng ta đặt Lời Chúa trên môi chúng ta để trao ban cho thế giới..”


Từ những điều trên đây, ĐTC lần lượt nhắn nhủ các linh mục đừng sợ dành nhiều thời gian cho việc đọc, suy gẫn Kinh Thánh và cầu nguyện với kinh Thần Vụ. ”Lời Chúa được đọc và suy gẫm trong Giáo Hội tác động và biến đổi anh em mà hầu như nhiều khi anh em không cảm thấy”.


Với các chủng sinh, ĐTC cũng nhắn nhủ các thày hãy suy gẫm Lời Chúa hằng ngày để đi vào trong cuộc sống của chính Chúa Kitô, Đấng mà các thầy được kêu gọi phổ biến chung quanh mình.


Với các tu sĩ nam nữ, ĐTC nói: ”Việc tuyên khấn những lời khuyên Phúc Âm làm cho anh chị em được đồng hình dạng với Đâng trở nên thanh bần, vâng phục và khiết tịnh. Của cải phong phú duy nhất của anh chị em, của cải duy nhất có thể vượt qua các thời đại và cả bức bàn sự chết, chính là Lời Chúa. CHính Chúa đã nói: ”Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy sẽ không bao giờ qua đi” (Mt 24,35). Sự tuân phục của anh chị em, theo nguyên ngữ, là một sự lắng nghe, vì từ ”obéir” đến từ chữ la tinh ”abaudire”, có nghĩa là lắng tai nghe điều gì hoặc nghe ai. Khi vâng lời, anh chị em hướn gtâm hồn mình về Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống (Jn 14,6)... Sự tinh tuyền của lời Chúa chính là mẫu gương sự khiết tịnh của anh chị em.


Sau khi ban phép lành cuối kinh chiều, ĐTC đã tiến ra bên ngoài thánh đường để chào thăm hàng ngàn bạn trẻ tụ tập ở bên ngoài, chuẩn bị cuộc canh thức cầu nguyện chuẩn bị cho thánh lễ sáng thứ bẩy 13-9-2008 với ĐTC tại Quảng trường Viện Phế Binh. Họ reo hò chào đón ngài.


ĐTC nhắc nhở các bạn trẻ về 2 đề tài: Chúa Thánh Linh và Thánh Giá. Nhờ ơn Chúa Thánh Linh, người trẻ có thể trở thành những chứng nhân của Chúa Kitô trong đời sống thường nhật và không sợ rao giảng Chúa Kitô cho tha nhân. Ngài nói: ”Các con sống trong một thời đại có nhiều người rất quảng đại. Các con cần nói về Chúa Kitô cho mọi người quanh các con, cho gia đình và bạn hữu, tại nơi học hành, làm việc và giải trí của các con”.


Các bạn trẻ reo hò thật to khi ngài nói: ”Các con đừng sợ! Cha và toàn thể Giáo Hội tín nhiệm nơi các con”.

Nhìn các bạn trẻ đông đảo, ĐTC nói rằng ngài biết có nhiều người đang đeo giây Thánh Giá ở cổ. ”Đó không phải là một đồ trang sức hay là một nữ trang, nhưng là biểu tượng đức tin và ơn cứu độ. Thánh Giá cũng là một biểu tượng sự đau khổ của nhân loại, và việc tôn kính Thánh Giá nhiều khi bị người ta chế nhạo hoặc đưa tới sự bách hại.”


Ban đêm, các bạn đã rước nên qua các đường phố ở Paris sau đó, dọc theo bờ sông Seine và canh thức tại Quảng trường trước Viện Phế Binh.

Mục lục

 

BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊDICTÔ XVI TẠI QUẢNG TRƯỜNG INVALIDES (NGÀY 15-9-2008)



Quý Huynh Hồng Y Vingt-Trois,

Chư Huynh Hồng Y và Chư Huynh trong Hội Đồng Giám Mục


Cùng quý anh chị trong Chúa Kitô,


Chúa Giêsu Kitô tập hợp chúng ta trong địa điểm tráng lệ này, giữa lòng thủ đô Paris, vào ngày Giáo Hội hoàn vũ mừng kính thánh Jean Chrysostome, một trong những vị Thánh Tiến sĩ lớn của Giáo Hội, làm chứng qua cuộc sống và qua lời giảng dạy, đã chỉ một cách hiệu quả cho các tín hữu con đường phải theo. Tôi hân hoan chào mừng chính quyền đã tiếp đón tôi trong thành phố cao quý này, nhất là Đức Hồng Y André Vingt-Trois, tôi cám ơn ngài về những ngôn từ thân yêu. Tôi chào mừng toàn thế Hồng Y, Linh Mục, Phó Tế đã quây quần quanh tôi để cử hành hy lễ Chúa Kitô. Tôi cám ơn các nhân vật, cách riêng ông Thủ Tướng, đã hiện diện ở đây sáng nay; tôi bảo đảm với quý vị về lời khẩn nguyện của tôi giúp quý vị hoàn thành sứ mạng cao cả phục vụ đồng bào.


Thư thứ nhất của thánh Phaolô gửi các tín hữu Cô rin tô giúp ta tìm được trong năm thánh Phaolô (bắt đầu ngày 28 tháng 6 vừa qua) những lời khuyên của thánh Tông đồ vẫn còn là thời sự. ‘‘Hãy xa lánh việc thờ ngẫu tượng’’ (1 Co 10, 14). Ngài đã viết cho một cộng đoàn nổi tiếng về việc thờ đa thần, bị phân hóa giữa việc chấp nhận những điều mới mẻ của Tin Mừng và việc tuân giữ những hủ tục cha truyền con nối. Xa lánh ngẫu tượng là thôi không tôn thờ và dâng các thần linh Hy Lạp các nghi lễ hiến sinh đẫm máu. Xa lánh ngẫu tượng là bắt đầu học hỏi các nhà tiên tri trong Cựu Ước cáo giác khuynh hướng chỉ biết con người nên tạo ra những hình ảnh sai lạc về Thiên Chúa. Cũng như Thánh Vịnh 113 nói về các tượng tà thần làm bằng vàng bạc do bàn tay con người làm ra, các ngẫu tượng có miệng mà không nói, có mắt mà không xem thấy, có tai mà không nghe, có mũi mà không ngửi’’ (4-5). Không kể dân Do Thái được Thiên Chúa duy nhất mặc khải, thế giới cổ đại lệ thuộc vào việc thờ cúng ngẫu tượng. Thành phố Cô rin tô vốn có nhiều ngẫu tượng, các sai lầm về đa thần chắc hẳn đã được tố giác, bởi vì các ngẫu tượng tạo ra sự tha hóa mạnh mẽ, khiến con người xa lìa khỏi định mệnh của mình. Các ngẫu tượng ngăn cản con người nhận biết rằng Thiên Chúa Kitô là Đấng Cứu Chuộc có thật duy nhất. Chỉ có Ngài mới chỉ cho loài người con đường hướng về Thiên Chúa. Lời mời gọi xa lánh ngẫu tượng ngày nay vẫn còn thích đáng. Phải chăng thế giới hiện đại tự tạo cho mình các ngẫu tượng riêng ? Phải chăng thế giới vô tình bắt chước tín ngưỡng đa thần thời Cổ đại, khiến con người lìa khỏi cứu cách thực sự, lìa xa phúc thật được sống đời đời cùng Thiên Chúa ? Đó là vấn đề mà mọi người, trung thực với chính mính, tự đặt ra. Điều quan trọng nhất trong cuộc sống là gì ? Ta đặt điều gì lên hàng đầu ? Chữ ‘‘thần tượng’’ (idole) do tiếng Hy Lạp có nghĩa là ‘‘hình ảnh’’ (image), ‘‘khuôn mặt’’ (figure), ‘‘hình ảnh thể hiện’’ (représentation), nhưng còn là ‘‘bóng ma’’ (spectre), ‘‘ma quái’’ (fantôme), ‘‘bề ngoài phù phiếm’’ (vaine apparence). Thần tượng là một ảo ảnh (leurre, illusion), vì thần tượng khiến những kẻ tôi mọi (tôn sùng một cách mù quang) lìa khỏi thực tế để náu thân trong xứ sở bề ngoài phù phiếm. Phải chăng nỗi cám dỗ này là của riêng thời đại chúng ta, con người sa trước cơn cám dỗ này ? Sự cám dỗ tôn sùng một quá khứ không còn nữa, bằng cách quên đi những thiếu sót; sự cám dỗ tôn sùng một tương lai chưa có, bằng cách tin cậy vào sức mình, con người sẽ thực hiện được hạnh phúc vĩnh cửu trên thế gian này. Thánh Phaolô đã giải nghĩa cho tín hữu Cô lô xê rằng lòng tham tiền của không đáy là một hình thức tôn sùng thần tượng (Xem 3,5); thánh nhân còn nhắc nhở môn đệ Ti mô thê rằng lòng yêu tiền của là nguồn gốc mọi thói hư tật xấu. Để hiến thân vì đồng tiền, thánh nhân xác định, ‘‘một số người bị mất đức tin, phải chịu những day dứt không cùng’’ (1Tm 6, 10). Tiền bạc, ham muốn của cải, ham muốn quyền hành và hiểu biết phải chăng đã khiến con người xa lìa Cứu cánh thực sự, bị mất Chân lý của riêng mình ?


Anh chị em thân mến, câu hỏi mà phụng vụ hôm nay đặt ra cho chúng ta đã tìm được lời giải đáp trong cùng một phụng vụ, chúng ta đã thừa hưởng các bậc Giáo Phụ trong đức tin, đặc biệt là Thánh Phaolô. (Xem 1Co 11,23). Trong bài bình giải đoạn văn này, thánh Jean Chrysostome lưu ý rằng thánh Phaolô đã lên án nghiêm khắc việc tôn sùng thần tượng, bị coi là ‘‘lỗi nặng’’, là điều điếm nhục, một ‘‘bệnh dịch’’ thực sự. (Bài giảng 24 về Thư thứ nhất gửi tín hữu Cô rin tô). Lập tức, thánh nhân thêm rằng sự lên án triệt để về sự tôn sùng thần tượng mà không hề lên án người thờ thần tượng. Không bao giờ, trong phán đoán của chúng tôi, chúng tôi không lẫn lộn giữa tội vốn không thể chấp nhận được và kẻ có tội; ta không thể phán xét lương tâm của mỗi người, luôn luôn có thể cải tà quy chánh và có thể tha thứ. Thánh Phaolô nhắc lại điều đó cho lý trí của mỗi người: ‘‘Tôi nói với anh em như nói với những người khôn ngoan hiểu biết; anh em hãy tự mình suy xét những điều tôi nói’’ (1 Co 10, 15). Không bao giờ Thiên Chúa lại bắt con người phải từ bỏ lý trí và cũng không bao giờ lý trí mâu thuẫn với Đức Tin. Ba Ngôi Thiên Chúa duy nhất, Ngôi Cha, Ngôi Con và Thánh Thần đã tạo nên lý trí chúng ta và ban cho chúng ta đức tin, đồng thời đề nghị tự do để chấp nhận đức tin như một ân sủng quý giá. Chính sự tôn sùng thần tượng làm con người phải xa lìa viễn tượng này, từ đó lý trí có thể tạo ra thần tượng. Ta hãy xin Thiên Chúa là đấng thấy rõ ta và nghe tiếng ta kêu cầu giúp ta tẩy sạch mọi thần tượng, để đạt tới chân lý trong bản thể của riêng ta, đạt được chân lý trong bản thể vô biên !


Nhưng làm sao đến được cùng Thiên Chúa? Làm sao tìm được và tìm lại được Đấng mà con người tìm được tự đáy lòng, thường khi bằng cách quên đi bản thân ?. Thánh Phaolô mời gọi chúng ta không những dùng đến lý trí, nhưng trước hết là đức tin để tìm được Thiên Chúa. Đức tin nói với ta điều gì ? Bánh Thánh mà ta bẻ ra hiệp cùng với Mình Thánh Chúa; Chén rượu tạ ơn mà ta chúc tụng hiệp cùng Máu Thánh Chúa Kitô. Đó là sự mặc khải đặc biệt đến từ Chúa Kitô, do các Thánh Tông đồ và Giáo Hội truyền lại cho chúng ta từ hai ngàn năm. Chúa Kitô đã lập bí tích Thánh Thể vào tối Thứ Năm Tuần Thánh. Ngài mong rằng sự hy sinh của ngài phải được tái diễn một cách không đẫm máu, mỗi khi một linh mục đọc lại lời truyền phép trên bánh và rượu. Từ hai ngàn năm nay, hàng triệu triệu lần, từ nguyện đường xa xôi hẻo lánh nhất đến các thánh đường và vương cung thánh đường đồ sộ nguy nga, Thiên Chúa Phục sinh hiến mình cho dân Chúa, như vậy đã trở nên, như lời thánh Augustinô, ‘‘mật thiết vì chúng ta còn hơn cả chúng ta nữa (Xem Confessions III, 6,11).


Anh chị em thân mến, hãy năng tôn sùng bí tích Mình Máu Chúa, Thánh Thể Cực Trọng là sự hiện diện thực sự của Thiên Chúa trong Giáo Hội và cho toàn thể nhân loại. Đừng sao lãng bầy tỏ cùng Chúa lòng kính yêu. Hãy dâng lên Chúa dấu chỉ vinh dự lớn lao nhất. Bằng lời nói, bằng sự yên lặng và bằng cử chỉ, không bao giờ chấp nhận sự nhạt phai trong ta và quanh ta về đức tin trong Chúa Kitô phục sinh hiện diện trong phép Thánh Thể. Như thánh Jean Chrysostome đã nói: ‘‘Hãy kiểm tra kỹ càng những ơn huệ của Thiên Chúa không lời nào diễn tả được và mọi ơn phúc Chúa ban cho ta, khi ta dâng chén này, khi ta rước lễ để tạ ơn Chúa đã giải thoát loài người khỏi lỗi phạm, tạ ơn Chúa đã mang lại gần ngài những ai còn xa cách, đã khiến những ai thất vọng, những kẻ vô thần trong thế giới này trở thành một dân tộc huynh đệ, trở nên những kẻ đồng thừa tự của Ngôi Hai Thiên Chúa ‘’ (Bài giảng 24 về Thư thứ nhất gởi tín hữu Cô rin tô, 1). Vì chưng, thánh nhân tiếp lời, ‘‘máu thánh trong chén này chính là máu đã đổ ra bên cạnh sườn, chính máu này mà ta cùng dự phần’’ (sách đã dẫn). Thánh nhân còn nói thêm, không chỉ là sự tham dự và chia sẻ, mà còn là sự ‘‘hiệp nhất’’.


Lễ Misa là hy lễ tạ ơn ở mức cao nhất, cho phép chúng ta kết hiệp hy lễ tạ ơn với hy lễ của Đấng Cứu Chuộc, là Ngôi Con vĩnh cửu của Ngôi Cha. Thánh Lễ mời gọi chúng ta xa lánh việc thờ ngẫu tượng, vì như thánh Phaolô nhấn mạnh, ‘‘Anh em không thể vừa uống chén của Chúa, vừa uống chén của ma quỷ được’’ (1 Co 10, 21). Thánh Lễ mời gọi chúng ta phân định giữa việc vâng theo Thần khí Chúa hoặc nghe lời ác thần. Trong Thánh Lễ, ta mong mỏi chỉ thuộc về Chúa Kitô và lập lại với tâm tình biết ơn lời kêu xin của tác giả Thánh Vịnh: ‘‘Làm sao tôi đền đáp được Thiên Chúa về mọi ơn lành Chúa đã làm cho tôi ?’’(Tv 115, 12). Vâng, làm sao cảm tạ Chúa về cuộc sống Ngài đã ban cho ta ? Câu hỏi Thánh Vịnh cũng tìm được lời giải đáp cũng trong Thánh Vịnh, bởi vì Lời Chúa đáp lại đầy lòng khoan dung cho câu hỏi đặt ra. Làm sao đền đáp Chúa về mọi ơn lành ngài làm cho ta nếu không bằng cách tuân theo lời hằng sống:‘‘Ta sẽ nâng chén cứu chuộc, ta cầu khẩn Thánh Danh Chúa’’ (Tv 115, 13).


Nâng chén cứu chuộc và kêu cầu Thánh Danh Chúa, đó phải chăng là phương tiện tốt nhất để ‘‘xa lánh việc thờ ngẫu tượng’’, như Thánh Phaolô đã mời gọi chúng ta ? Mỗi lần cử hành Thánh Lễ là một lần Chúa Kitô hiện diện trong Hội Thánh nhờ phép bí tích có nghĩa là công trình cứu chuộc đã được thực hiện. Cử hành phép Thánh Thể có nghĩa là nhận biết rằng chỉ có Chúa là có thể ban cho ta hạnh phúc viên mãn, dạy ta các chân lý và giá trị đời đời không bao giờ phai tàn. Thiên Chúa hiện diện trên bàn thờ, nhưng cũng hiện diện trong đền thờ tâm khảm ta; một khi rước lễ, ta nhận được Bí tích Thánh Thể. Chỉ có ngài dạy ta phải xa lánh các ngẫu tượng, các ảo tưởng trong tâm trí.


Anh chị em thân mến, ai có thể nâng chén cứu chuộc và kêu cầu Thánh Danh Chúa nhân danh toàn thể cộng đồng dân Chúa nếu không phải là linh mục ? ngài được vị Giáo Mục truyền chức. Ở đây, các tín hữu thân mến ở Paris và vùng phụ cận cũng như trên khắp nước Pháp và các nước lân cận, cho phép tôi đưa ra lời kêu gọi tin cậy trong đức tin và nơi lòng rộng rãi của các bạn trẻ trăn trở về ơn gọi tu sĩ hoặc linh mục: các con đừng sợ. Các con đừng sợ khi tận hiến cho Chúa Kitô. Không gì có thể thay thế được sứ mệnh của các linh mục giữa lòng Giáo Hội Cũng không gì có thể thay thế một Thánh Lễ nhằm cứu chuộc thế giới. Các bạn trẻ và các bạn trung niên đang lắng nghe, các con đừng để lời mời gọi của Chúa Kitô không được trả lời. Thánh Jean Chrysostome, trong Chuyên luận về Tư tế đã cho thấy câu trả lời của con người tuy chậm đến, tuy nhiên đó là tấm gương sống động về tác động của Thiên Chúa trong sự tự do của con người được đào luyện bằng ân sủng.


Sau cùng, nếu chúng ta lấy lại Lời Chúa trong Phúc âm, ta sẽ thấy chính Chúa đã dạy việc xa lánh ngẫu tượng bằng cách mời gọi chúng ta xây nhà ‘‘trên đá’’ (Lc 6, 48). Tảng đá là ai, nếu không là chính ngài ? Các ý nghĩ, lời nói và hành động của chúng ta chỉ đạt được chiều kích thực sự nếu ta dựa vào thông điệp của Tin Mừng. ‘‘Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra ’’ (Lc 6, 45). Khi ta nói, liệu ta có tìm điều tốt đẹp nơi người đối thoại không ? Khi ta suy nghĩ, ta có tìm cách đem ý nghĩ của ta tương hợp với ý nghĩ của Thiên Chúa không ? Khi ta hành động, ta có tìm cách gieo rắc Tình Yêu ngài đã ban cho ta không ? Thánh Jean Chrysostome còn nói rằng: ‘‘Bây giờ, nếu ta chia cùng một tấm bánh, và nếu ta trở nên cùng một thực thể, tại sao ta lại không chứng tỏ có cùng một lòng bác ái ? Cũng vì lý do này, tại sao chúng ta lại không trở nên một toàn bộ duy nhất ? …người ơi, chính Chúa Kitô đã đến tìm con để cùng con kết hợp mà con vẫn còn quá xa cách Chúa, sao con lại không muốn kết hợp với anh chị em của con ?’’ (Bài giảng 24 về Thư thứ nhất gởi tín hữu Cô rin tô, 2).


Hy vọng vẫn luôn mạnh mẽ. Giáo Hội, xây trên đá Chúa Kitô, có lới hứa về cuộc sống đời đời..., không phải vì các thành viên thánh thiện hơn những người khác, nhưng vì Chúa Kitô đã hứa cùng Thánh Phêrô: ‘‘Con là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi (Matthêu, 16, 18).Trong niềm hy vọng bất diệt này về sự hiện hữu của Chúa trong mỗi tâm hồn, trong niềm vui biết rằng Chúa Kitô ở cùng chúng ta đến tận cùng thời gian, trong sức mạnh Chúa Thánh Linh ban cho mọi người biết chấp nhận để Chúa Thánh Thần nắm bắt, các tín hữu Paris và trên khắp nước Pháp thân mến, ta phó thác vào sự tác động mạnh mẽ và lân tuất của Thiên Chúa tình yêu đã chết vì ta trên Thập giá, và sống lại vinh quang vào sáng Phục Sinh. Đối với các tâm hồn thiện chí đang lắng nghe, ta lập lại câu nói của thánh Phaolô: Hãy xa lánh việc thờ ngẫu tượng, đừng nản lòng khi làm việc lành. Nguyện xin Thiên Chúa là Cha dẫn các con về với Ngài và thắp sáng các con bằng sự vinh quang huy hoàng. Nguyện xin Con Một Thiên Chúa, là Thầy và là Anh, mặc khải cho các con vẻ đẹp khuôn mặt Phục Sinh của Chúa. Nguyện xin Thánh Thần đổ tràn cho các con ân sủng và ban cho các con niềm vui nhận biết bình an và ánh sáng của Ba Ngôi cực thánh, bây giờ và đời đời chẳng cùng. Amen !


+ ĐGH Benedictô XVI

(Chuyển ngữ: Lê Đình Thông)

Mục lục

 

Lắng nghe tiếng Chúa trong những “vui mừng và hy vọng, đau khổ và lo âu” của mọi người.

PHỎNG VẤN ĐỨC TÂN GIÁM MỤC BẮC NINH COSMA HOÀNG VĂN ĐẠT

Như vậy là gần trọn hai năm (9.2006-8.2008), kể từ ngày Đức cố Giám mục Giuse Nguyễn Quang Tuyến qua đời, Giáo phận Bắc Ninh lại có một vị chủ chăn mới, vừa được Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI bổ nhiệm hôm 4.8.2008 : Đức Giám mục Cosma Hoàng Văn Đạt. Ngay sau sự kiện này, Đức Tân Giám mục đã dành cho Cg&Dt bài phỏng vấn đầu tiên, trong cương vị mới. Sau đây, chúng tôi xin phép đăng lại toàn bộ bài phỏng vấn này trên trang mạng Tin vui.

 

Hỏi : Xin chúc mừng Đức cha vừa được Toà Thánh bổ nhiệm làm Giám mục Chánh toà Giáo phận Bắc Ninh. Xin Đức cha chia sẻ tâm trạng của mình khi nhận được tin này ?

 

ĐGM.HVĐ :Tôi đã được Đức Tổng Giám mục Hà Nội cho biết từ mấy hôm trước là Tòa Thánh đã quyết định và sẽ công bố việc bổ nhiệm tôi làm Giám mục Bắc Ninh vào ngày 4.8.2008. Tôi đón nhận tin ấy với tâm tình tuân phục Đức Thánh Cha và tín thác vào tình yêu Thiên Chúa.

 

Hỏi : Nếu được, xin Đức cha cho độc giả biết qua ít nhiều về hành trình ơn gọi của mình ?

 

ĐGM.HVĐ : Ở tuổi thiếu niên, tôi ước nguyện dâng mình cho Chúa để đi truyền giáo. Tôi theo học tiểu học ở trường Long Thạnh Mỹ - Quận 9; học cấp 2 tại trường Đắc Lộ - Quận Tân Bình, học cấp 3 tại trường Chu Văn An- Quận 5, tất cả ở TP.HCM. Tôi xin vào Dòng Tên tại Sài Gòn năm 1967, theo học chương trình Chủng viện tại Giáo Hoàng Học viện Piô X Đà Lạt, thụ phong linh mục năm 1976. Năm 1978, tôi làm tập sư, đồng thời giúp giáo xứ Hiển Linh của Dòng Tên ở Thủ Đức. Năm 1986, tôi làm cha xứ Thiên Thần và cha xứ Thanh Bình ở Quận 2, TP.HCM. Từ năm 1993, tôi chỉ làm cha xứ Thanh Bình, một giáo xứ của người bệnh phong. Năm 2002, tôi du học tại Pháp. Năm 2005 tôi làm linh hướng Đại Chủng viện Hà Nội.

 

Hỏi : Là một người gốc Bắc Ninh nhưng xa quê từ tấm bé, bây giờ lại trở về  Băc Ninh ở vị trí chủ chăn giáo phận, cảm giác của Đức cha trong lần ‘ về quê”  này như thế nào ?

 

ĐGM.HVĐ: Tôi sinh năm 1948, tại làng Xuân Lai, xã Xuân Thu, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Về địa giới giáo phận, họ Xuân Lai thuộc xứ Nội Bài, giáo phận Bắc Ninh. Tôi theo gia đình vào Sài Gòn năm 1954. Như vậy là sau 54 năm, tôi đã trở lại với giáo phận mẹ. Sau ngày được bổ nhiệm, tôi được cha đại diện giáo phận đón về Bắc Ninh, tôi cảm động vì những nụ cười và những giọt nước mắt của chừng 20 người đón tôi hôm ấy ở nhà thờ Chính tòa. Tôi thấy vòng tay mẹ Băc Ninh dang tay ra đón, đồng thời cũng thấy rõ trách nhiệm của một người con trong cương vị mới.

 

Hỏi : Xin Đức cha vui lòng giới thiệu một vài nét về giáo phận Bắc Ninh hiện nay ?

 

ĐGM.HVĐ :Giáo phận Bắc Ninh được thành lập năm 1883, với khoảng 40 ngàn giáo dân. Năm 1954, giáo phận có 68 ngàn giáo dân và 120 linh mục. Hiện nay giáo phận có khoảng 120 ngàn giáo dân trong số 9 triệu dân cư thuộc 5 tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Vĩnh Phúc và một phần của tỉnh thành Tuyên Quang, Phú Thọ, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Nội… Hầu hết giáo dân là nông dân nghèo. Chiến tranh đã phá hủy một số nhà thờ, về sau có nhiều giáo dân từ các tỉnh miền biển lên lập nghiệp. Đến nay nhiều họ giáo vẫn chưa có nhà thờ. Giáo phận có 43 linh mục, hầu hết còn trẻ. Về các dòng tu, có Tu Hội Đức Mẹ Hiệp Nhất và một số dòng nữ khác.

 

Hỏi : Sau gần 2 năm trống tòa, có lẽ Giáo phận Bắc Ninh cũng sẽ có những khó khăn nhất định do việc không có Giám mục Chính tòa để lại. Dự định mục vụ đầu tiên của Đức cha khi về nhận giáo phận là gì ?

 

ĐGM. HVĐ : Tôi đang có những chuyến thăm tất cả các cha trong giáo phận, đồng thời chào chính quyền các tỉnh thành liên hệ. Tại nhiệm sở của các cha, tôi nghe các ngài bày tỏ tâm tư nguyện vọng. Sau khi hoàn tất công việc này, tôi sẽ đi tĩnh tâm 10 ngày để chuẩn bị lễ tấn phong. Kế đến, tôi sẽ họp chung với các cha để vừa cầu nguyện, vừa chia sẻ và thảo luận ngõ hầu đi đến đồng tâm nhất trí về dự định mục vụ của giáo phận.

 

Hỏi : Như vậy là, với những con số về nhân sự Đức cha vừa nêu, tỷ lệ linh mục và giáo dân ở Bắc Ninh vào khoảng 1/3000. Với đặc điểm địa lý là trải dài trên nhiều tỉnh miền núi, giáo dân sống rải rác…tỷ lệ rất thấp này có phải là một thách đố lớn của một mục tử vừa đến nhận Giáo phận là Đức cha ?

 

ĐGM: HVĐ : Chắc chắn đó là một thách đố lớn chẳng những đối với Giám mục mà đối với toàn thể giáo phận. Trong nội bộ các giáo xứ, có họ như Gấu Sốc cách nhà xứ đến 90 km, còn những họ cách nhà xứ 30 km là…chuyện nhỏ ! Cách đây mấy hôm, sau khi thăm cha xứ Đồng Chương ở Tuyên Quang, xe hơi của Tòa Giám mục được các thanh niên dùng dây thừng kéo mới qua được vũng lầy. Chúng ta hãy nghĩ đến những người phải đi lại con đường ấy hằng ngày. Tôi thực sự thấy mình là một nhà truyền giáo.

 

Hỏi : Là linh mục người Việt Nam đầu tiên thuộc Dòng Tên làm giám mục. Đức cha cảm nhận thế nào về vinh dự này ? Theo Đức cha một Giám mục xuất thân từ linh mục Dòng sẽ có những khó khăn và thuận lợi gì khi cai quản một giáo phận ?

 

ĐGM: HVĐ : Tôi thành thực không thấy vinh dự, chỉ thấy sứ mạng. Tôi chưa làm…Giám mục bao giờ nên chưa hình dung được những khó khăn hay thuận lợi. Tôi đáp lại tiếng gọi của Chúa và lên đường. Trên đường, tôi vừa đi vừa học, vừa học vừa đi. Là một Giêsu hữu, tôi là người trên đường, như thánh Phanxicô Xavier, như cha Đắc Lộ, để Chúa dẵn dắt mình qua các biến cố và sự kiện, từng bước ngắn trên đường dài. Thuận lợi cũng như khó khăn đều là lời mời gọi.

 

Hỏi :  Suốt mấy năm phục vụ Giáo hội trong thiên chức linh mục, chúng con được biết Đức cha là người quan tâm một cách đặc biệt đến các công tác xã hội, nhất là việc nâng đỡ những bệnh nhân phong, xin Đức cha vui lòng cho biết nguyên nhân ? Với cương vị mới, Đức cha sẽ làm gì để tiếp tục thực hiện những công việc đó ?

 

ĐGM: HVĐ : Tôi nghĩ Chúa Giêsu vừa giảng dạy, vừa chữa bệnh, trừ quỷ…nên giúp đỡ con người có đời sống tốt hơn và xứng đáng hơn với thiên chức con cái Thiên Chúa là một phần thiết yếu của Hội Thánh. Từ năm 1981, tôi bắt đầu gặp gỡ anh chị em bệnh phong. Đặc biệt trong suốt 16 năm đó, tôi đã phân nào chia sẻ đời sống với anh chị em bệnh phong ở quận 2. Khi ở Đại chủng viện Hà Nội, tôi lại được giao nhiệm vụ giúp các chủng sinh đến chia sẻ với người bệnh phong trong các kỳ hè. Tôi tin là Chúa dẫn tôi đến với người bệnh phong. Trong cương vị mới, tôi hy vọng sẽ là cánh tay đắc lực hơn của những tấm lòng nhân ái chẳng những đối với người bệnh phong mà cả vớí nhiều người chịu thiệt thòi khác.

 

Hỏi : Đâu là những ưu tiên hàng đầu và đâu là những trăn trở thường xuyên của Đức cha trong mục vụ ?

 

ĐGM: HVĐ : Tôi coi những chờ mong của giáo dân nói riêng và của mọi người nói chung, nhất là những người nghèo, là trăn trở của chính mình.Tôi không đặt ra những ưu tiên, nhưng sẽ cùng với các linh mục  trong giáo phận lắng nghe tiếng Chúa trong những “vui mừng và hy vọng, đau khổ và lo âu” của mọi người, để đáp ứng theo khả năng có đuợc.

 

Hỏi : Là giáo sư Đại Chủng viện Thánh Giuse Hà Nội trong thời gian dài, xin Đức cha cho một vài nhận xét về việc đào tạo linh mục hôm nay và theo Đức cha, những đòi hỏi lớn nhất của một linh mục trong thế kỷ 21 này khi làm mục vụ là gì ?

 

ĐGM: HVĐ : Tôi vẫn nghĩ chìa khóa giải quyết các vấn đề của Hội Thánh là các linh mục. Hễ các linh mục được đào tạo tốt thì mọi sự sẽ tốt. Vì thế, việc đào tạo linh mục hết sức quan trọng. Tôi không dám trả lời câu hỏi một linh mục phải thế nào trong thế kỷ 21. Chỉ biết rằng Hôị Thánh đã có những chỉ đạo khá bài bản trong sắc lệnh Optatam Totius của Công đồng Vaticanô II và trong tong huấn Pastores Dabo Vobis của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Ngoài ra, một điều giúp ích nhiều là linh mục phải là con người cầu nguyện để có thể nhạy bén trước tiếng Chúa mờì gọi trong những tình huống cụ thể của cuộc sống.

 

Hỏi : Đức cha có thể chia sẻ một ít kinh nghiệm về việc đào tạo các ứng sinh linh mục tại Đại Chủng viện Hà Nội ?

 

ĐGM. HVĐ : Trong những năm vừa qua, do được Đức Tổng Giám mục trực tiếp chỉ đạo, việc đào tạo linh mục ở Đại Chủng viện Hà Nội đã có một số thay đổi đáng kể. Trong giai đoạn khó khăn ngày trước, việc đào tạo ở đây vẫn theo đường hướng tiền công đồng, nay theo những chỉ thị của công đồng như nhấn mạnh về mục vụ, có năm tu đức, có năm thực tập, có sinh hoạt tông đồ. …Sau nữa là hội nhập ; theo sát những thích nghi của các chủng viện trên thế giới Chẳng hạn mỗi ngày cầu nguyện riêng một giờ, mỗi năm tĩnh tâm 1 tuần, mỗi chủng sinh gặp riêng cha linh hướng hàng tháng…Ngoài ra, mỗi chủng sinh còn có 2 kỳ hè, mỗi kỳ một tháng đến sống với người bệnh phong để tập chia sẻ và phục vụ những người thiếu may mắn

 

Hỏi : Đức cha có còn tiếp tục việc giảng dạy ở Đại Chủng viện Hà Nội sau khi lãnh sứ vụ mới ?

 

ĐGM HVĐ : Đức Tổng Giám mục Hà Nội đề nghị tôi tiếp tục giúp một môn, nên tôi sẽ cố gắng, môn tôi chọn là tông huấn Pastores Dabo Vobis về đào tạo linh mục, vì đã quen.

 

Hỏi : Khẩu hiệu và biểu tượng huy hiệu Giám mục của Đức cha là gì ? Xin Đức cha giải thích ý nghĩa của những chọn lựa này ?

 

ĐGM. HVĐ : Khẩu hiệu của tôi là “Tình thương và sự sống” trích trong sách Gióp 10, 12. “Ngài đã ban cho con tình thương và sự sống, quan tâm đến từng hơi thở của con”. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cổ vũ nền văn minh tình thương và sự sống ; trong kinh Đức Mẹ La Vang, Hội Thánh Việt Nam muốn cùng nhau xây đắp nền văn minh tình thương và sự sống. Tôi muốn hòa mình với làn sóng ấy. Huy hiệu của tôi là chữ IHS bằng tre vàng trên nền là chiếc nón quai thao của Bắc Ninh với ý nghĩa : Chúa Giêsu là tình thương và sự sống của Thiên Chúa, một Chúa Giêsu bằng tre vàng của Việt Nam, đến gặp văn hóa Quan họ Bắc Ninh.

 

Hỏi : Lễ tấn phong Giám mục sẽ diễn ra ở đâu và vào thời điểm nào, thưa Đức cha ?

 

ĐGM HVĐ : Lễ tấn phong sẽ được tổ chức tại Toà Giám mục Bắc Ninh ngày 7.10.2008, lễ Đức Mẹ Mân Côi, bảo trợ giáo phận Bắc Ninh, đồng thời là một ngày mùa thu mát mẻ.

 

Hỏi : Đức cha có muốn nhắn gởi gì với các linh mục, tu sĩ và bà con giáo dân xa gần ?

 

ĐGM HVĐ : Xin mọi người thương, cầu nguyện cho giáo phận Bắc Ninh và cách riêng cho tôi.

 

Xin hết lòng cám ơn Đức cha và kính chúc Đức cha gặt hái được nhiều kết quả tốt trong sứ vụ mới !

 

Lê Hữu Tuấn thực hiện

Mục lục

 

 

Thánh lễ giỗ 6 năm tưởng nhớ ĐHY Phanxico Xavier Nguyễn Văn Thuận

 

GIANG XÁ, Hà nội - Nhân dịp kỷ niệm 6 năm ngày Đức Hồng Y Phanxico Xavier Nguyễn Văn Thuận được Chúa gọi về, sáng ngày thứ ba, 16 tháng 9 năm 2008, tại thánh đường giáo xứ Giang Xá – giáo Phận Hà nội, Đức Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt – TGM Hà nội cùng đông đảo quý Cha đã cử hành Thánh lễ kính nhớ ĐHY và cầu nguyện với Ngài.


Trong Thánh Lễ hôm nay, mọi người cùng hiệp thông cảm tạ hồng ân Chúa đã ban cho giáo hội, cách riêng giáo hội Việt nam có một vị mục tử kiên trung theo gương Thầy Chí Thánh, đồng thời, tất cả cùng cầu nguyện với Ngài, và nhất là cầu nguyện để hồ sơ phong Chân Phước cho Ngài sớm được hoàn tất.


Sau khi bị biệt giam 9 năm, Đức Hồng Y Phanxico Xavier đã được đưa về giáo xứ Giang Xá và bị quản thúc trong một thời gian khá dài tại đây. Tấm gương đạo đức và lòng tín thác vào Chúa cùng với một sự giản dị, gần gũi của ngài đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng mỗi người giáo dân Giang Xá. Tại nhà xứ hiện nay vẫn còn lưu giữ gần như nguyên vẹn căn phòng đơn sơ với những vật dụng hết sức bình dân, nghèo nàn của Đức Hồng Y.


Trong những ngày bị lao từ ở Giang Xá, Đức Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận đã nhới lại chuỗi ngày và những kỉ niệm như sau


"Năm 1980, lúc bị đưa ra quản thúc ở Giang Xá, Bắc Việt, tôi đã tiếp tục viết mỗi đêm trong bí mật cuốn thứ hai, "Đường Hy Vọng Dưới Anh Sáng Lời Chúa và Công Đồng Vatican II", cuốn thứ ba, "Những Người Lữ Hành Trên Đường Hy Vọng"

 

Trần Tâm

Mục lục

 

HỘI DÒNG KHIẾT TÂM ĐỨC MẸ NHA TRANG MỪNG KIM KHÁNH THÀNH LẬP DÒNG


Ngày 15/09/2008, sinh nhật lần thứ 50, Hội Dòng Khiết Tâm Đức Mẹ Nha Trang hân hoan mừng hồng ân Kim Khánh thành lập trong hai ngày 15 và 16/09/2008, cũng như bế mạc Năm Thánh mà Hội Dòng đã được ân ban trong suốt năm qua.


Sáng sớm, chị em Khiết Tâm đã dàn quân vui mừng chào đón quý khách gần xa đến chung chia niềm vui và cùng cầu nguyện, tạ ơn với gia đình Hội Dòng.


Vào lúc 8 giờ ngày 15/09, sau nghi thức cắt băng khánh thành phòng truyền thống của Hội Dòng, Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hoà, quý Cha hạt trưởng Giáo phận Nha Trang, quý bề trên tỉnh Dòng Phaolô Đà Nẵng cùng Ban Phụ trách Dòng Khiết Tâm đã niệm hương tưởng niệm và tri ân Đấng Sáng Lập Dòng cùng các bậc tiền nhân.


Tiếp theo là chương trình diễn nguyện lược sử hành trình 50 Hội Dòng được khai sinh và phát triển từ Giáo phận mẹ Nha Trang. Thông qua các tiết mục ca múa, hợp xướng, hoạt diễn, ngâm thơ… kết hợp với ban nhạc ‘cây nhà lá vườn’, chị em diễn viên đã diễn tả sinh động Linh đạo và Sứ mạng Khiết Tâm của mình kinh qua những biến động thăng trầm của đất nước.


Thánh lễ đồng tế bế mạc Năm Thánh hưởng ơn toàn xá do Đức Cha Phaolô (15/09) và Đức Cha Giuse (16/09) cùng đông đảo quý Linh Mục trong và ngoài giáo phận long trọng cử hành lúc 10 giờ 30, với sự tham gia sốt sắng của quý phụ huynh, thân nhân, ân nhân và gia đình Hội Dòng.


Chúa thương chúc phúc, trong hai ngày lễ của Hội Dòng, bầu trời trong xanh dịu mát trong khi trước và sau đó đều có cơn mưa tầm tã làm không ít chị em phải ái ngại, lắng lo…


Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ

Vì mọi ơn lành Người đã ban cho (Tv116,12)


Nửa thế kỷ nay, hạt giống Khiết Tâm được gieo trên miền đất mẹ Nha Trang, đã nẩy lộc đâm chồi và triển nở giữa lòng Giáo Hội và xã hội quê hương. Nửa thế kỷ thấm nhuần hồng ân, dừng lại giây lát giữa dòng chảy cuộc đời, mỗi một chị em Khiết Tâm cảm nghiệm lắng sâu tình yêu nhiệm mầu của Thiên Chúa qua đôi tay từ ái Mẹ Khiết Tâm, để cùng Hội Dòng tri ân - cảm tạ tháng ngày ân phúc đã qua, để trung trinh dấn bước trong hiện tại, để hy vọng và tín thác ở tương lai…


Trong niềm vui mừng Kim Khánh thành lập Dòng, chị em Khiết Tâm cùng lật lại trang sử Hội Dòng để cảm tạ bàn tay quan phòng của Chúa Ba Ngôi, tri ân Mẹ Khiết Tâm luôn che chở độ trì, dẫn lối dìu đưa trên hành trình thánh hiến của mình. Từng thành viên Khiết Tâm xin được bày tỏ lòng hiếu kính, biết ơn sâu xa đối với Tổ phụ kính yêu, Giáo phận mẹ Nha Trang, quý Dì MTG Bình Cang, Tỉnh Dòng Phaolô Đà Nẵng, quý phụ huynh và thân nhân, quý ân nhân thân hữu gần xa... đã giúp chị em sống ơn gọi Khiết Tâm của mình giữa lòng Giáo hội và xã hội hôm nay.


SƠ LƯỢC DÒNG KHIẾT TÂM ĐỨC MẸ NHA TRANG


1. CỘI NGUỒN


Để đáp ứng nhu cầu mục vụ trong Giáo Phận Nha Trang vừa được thành lập (05/07/1957), và để đáp ứng nhu cầu ơn gọi của các thiếu nữ đang gia tăng, với lòng sùng kính mến yêu Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria, Đức Cha Raymond Marie Paul Marcel Piquet Lợi, thuộc Hội Thừa Sai Paris (MEP), Giám Mục tiên khởi Giáo Phận Nha Trang, đã quyết định thành lập một Hội Dòng Giáo Phận với tước hiệu “Trái Tim Vẹn Sạch Mẹ Maria”, được gọi là Hội Dòng Khiết Tâm Đức Mẹ.


Ngày 15/09/1958, cùng ngày khai mở Tiểu Chủng Viện Sao Biển Nha Trang cho Giáo Phận, Đức Cha Marcel Piquet Lợi thành lập Thanh Tuyển Viện Dòng Khiết Tâm Đức Mẹ và đặt trụ sở Hội Dòng trên cơ sở của Phước viện Mến Thánh Giá Bình Cang thuộc địa bàn giáo xứ Bình Cang, Giáo Phận Nha Trang.

2. CHÂN TÍNH


Bổn Mạng:


KHIẾT TÂM ĐỨC MẸ, được mừng kính vào ngày lễ Trái Tim Vẹn Sạch Đức Maria ( sau lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu).



Châm Ngôn Hội Dòng:


Chị Em Khiết Tâm sống châm ngôn của Đấng Sáng Lập: ”Để trong mọi sự, Thiên Chúa được hết lòng yêu mến” (Ut in omnibus maxime ametur Deus)



Căn Tính Khiết Tâm:


Hội Dòng Khiết Tâm Đức Mẹ Nha Trang là một Hội Dòng hoạt động tông đồ, trực thuộc đấng bản quyền Giáo Phận Nha Trang, có lời khấn đơn, tạm và vĩnh viễn.


Là một Hội Dòng Giáo Phận, Chị Em Khiết Tâm trân trọng nền tảng văn hóa dân tộc Việt Nam, lưu tồn và phát huy những truyền thống tốt đẹp trong đường hướng huấn luyện, trong tu phục và nếp sống dân gian.

Đoàn Sủng Khiết Tâm:


Theo tinh thần và ý hướng của Đấng Sáng Lập, và trong tâm tình kết hiệp với Chúa Ba Ngôi, Chị Em Khiết Tâm thực hiện chiều kích đoàn sủng trên môi trường và thời đại đang sống:


- Tôn sùng đặc biệt Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ;


- Sống hoạ ảnh Mẹ Khiết Tâm;


- Sống chứng tá và phụng sự Thiên Chúa, Giáo Hội và Dân Tộc Việt Nam, ưu tiên trong Giáo phận NhaTrang.

Linh Đạo Khiết Tâm:


Linh Đạo Khiết Tâm là con đường tình yêu từ Trái Tim Vẹn Sạch Đức Maria đến:


- Tấm lòng hiền phụ của Chúa Cha,


- Trái Tim Rất Thánh của Chúa Giêsu,


- Tình yêu huyền nhiệm của Chúa Thánh Thần,


- Và trái tim nhân loại.


Di chúc Thập Giá của Chúa Kitô (x. Ga 19,25-27) đã đưa Chị Em vào Linh Đạo Khiết Tâm. Chị Em ”rước Mẹ về nhà mình”, để Mẹ đồng hành với mỗi người trong hành trình thánh hiến, nhất là để Mẹï

phù hộ và là khuôn vàng thước ngọc cho mỗi người.


Sứ Mạng Thừa Sai Khiết Tâm:


Theo khuôn mẫu của Chúa Giêsu, Đấng đã được Chúa Cha thánh hiến và sai vào trần gian (x. Ga 10,36), đồng thời là người con được cưu mang và sinh ra từ “dòng máu thừa sai” của Đấng Sáng Lập, Chị Em Khiết Tâm sống sứ mạng thừa sai bằng đời sống chứng tá và loan báo Tin Mừng trong việc phục vụ Giáo Hội và xã hội như:


- Giáo dục văn hóa cho giới trẻ,


- Làm công việc bác ái xã hội,


- Thi hành công tác mục vụ được Đức Giám Mục Giáo Phận chấp thuận hoặc giao phó; giáo dục đức tin cho mọi người, đặc biệt các dự tòng và trẻ em.

 

3. LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN


Tình Yêu Quan Phòng kỳ diệu của Thiên Chúa luôn rợp bóng trên giáo phận Nha Trang, trên vị Giám mục tiên khởi để Thánh ý Chúa được thể hiện và Danh Chúa thêm cả sáng trong chương trình và hoạch định của vị mục tử cho giáo phận nhà…


Ngày 15/09/1958, lễ kính bảy sự Thương Khó Đức Maria, Đức Cha Marcel Piquet đã khai sinh Thanh Tuyển Viện Dòng Khiết Tâm nơi Nhà Phước Mến Thánh Giá Bình Cang, trên mảnh đất Bình Cang hiền hoà, còn lưu dấu Chị Anê Dần, một thỉnh sinh thuộc nhà phước Mến Thánh Giá Địa phận Đông ĐàngTrong, đã lãnh phúc tử đạo năm Canh Thân 1860, thời vua Tự Đức.


Một số đệ tử và dì phước trẻ thuộc MTG Bình Cang, MTG Dinh Thuỷ, MTG Quy Nhơn có quê nhà tại Nha Trang và Phan Rang, và thanh tuyển sinh Khiết Tâm mới gia nhập ngày 15/09/1958 làm thành những thế hệ đầu tiên của Hội Dòng Khiết Tâm Đức Mẹ Nha Trang.


Ngày 19/09/1961, Đức Cha Piquet ban Sắc Lệnh Thành Lập Dòng.


Ngày 12/05/1962, Ngài phê chuẩn và ban hành Quy Chế Tiên khởi cho Hội Dòng.


Giữa lòng Giáo Phận Mẹ Nha Trang, Hội Dòng Khiết Tâm Đức Mẹ được Đức Cha Piquet Lợi cưu mang, sinh hạ và tận tình yêu thương dưỡng dục trong giai đoạn tuổi thơ của Hội Dòng (1958 - 1966). Sau khi Đấng Sáng Lập về Nhà Cha, Chị Em Khiết Tâm được các vị kế nhiệm Ngài là Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận (1967- 1975) và Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa (1975 – nay…) tiếp tục yêu thương chăm sóc để Hội Dòng thêm trưởng thành và phát triển không ngừng giữa lòng Giáo hội và xã hội.


Theo thỉnh nguyện của Đấng Sáng Lập, Hội Dòng Khiết Tâm Đức Mẹ non trẻ được Tỉnh Dòng Thánh Phaolô thành Charles tại Đà Nẵng chăm sóc giáo dưỡng trong giai đoạn khởi đầu. Mẹ Ange de Saint Paul, Cố Giám Tỉnh Dòng Phaolô, đã gởi các Bà Phaolô đến Dòng Khiết Tâm Nha Trang để đảm trách vai trò điều hành và huấn luyện những thế hệ Khiết Tâm đầu tiên. Trong đó, 11 Lớp khấn Khiết Tâm đầu tiên đã thụ huấn chương trình của Thỉnh sinh và Tập kỳ cùng với chị em Phaolô tại Tập Viện Stella Maris - Đà Nẵng…


Từ sau 5 năm thành lập, Hội Dòng đã có những nữ tu Khiết Tâm trên các nẻo đường phục vụ: cộng tác sinh hoạt mục vụ với các xứ đạo; điều hành và dạy học tại nhiều trường sở của giáo xứ; tham gia công tác y tế tại Dân Y Viện Nha Trang và Phan Thiết; và hoạt động công tác bác ái xã hội như điều hành ký nhi viện, cô nhi viện, trung tâm huấn nghệ, trung tâm văn hoá Thượng – Chàm, cư xá sinh viên…


Từ năm 1972 - 1976, một số chị em Khiết Tâm thực tập vai trò điều hành Hội dòng, dưới quyền bề trên lúc này là Bà Marie Angéline, một nữ tu Phaolô. Biến cố thời cuộc 1975 làm thay đổi bộ mặt xã hội và dung mạo các dòng tu. Với sự khích lệ của Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hoà, ngày 15/05/1976, Hội Dòng Khiết Tâm chính thức có Ban Phụ Trách Dòng tự lập với chị Marie Ange là tổng phụ trách đầu tiên. Trong khúc quanh lịch sử của đất nước, những chị đầu đàn Khiết Tâm đã hướng dẫn con thuyền Hội Dòng trung kiên vượt qua những sóng gió thăng trầm của thời cuộc…


4. GIỮA LÒNG GIÁO HỘI VÀ XÃ HỘI HÔM NAY


NHÂN SỰ (2008)


• Bề Trên đương nhiệm: Nữ tu Imelda Thanh Bình


• Hội Dòng hiện có 270 nữ tu, 24 tập sinh, 18 tiền tập, và 130 thanh tuyển sinh. Hội Dòng có 46 Cộng Đoàn, hiện diện tại 5 Giáo Phận:

- GP. Nha Trang: 37 Cộng đoàn

- GP. Phan Thiết: 5 Cộng đoàn

- GP. Sài Gòn: 1 Cộng đoàn

- GP. Ban Mê Thuột: 2 Cộng đoàn

- GP. Naha (Nhật Bản): 1 Cộng đoàn


NHỮNG LOẠI HÌNH PHỤC VỤ


Giữa lòng Giáo hội và xã hội hôm nay, chị em Khiết Tâm nguyện mau mắn lên đường với Mẹ, để đem Chúa vào đời và đem đời về với Chúa bằng Sứ Mạng Thừa Sai Khiết Tâm của mình:


Sinh Hoạt Mục Vụ


- Giáo dục đức tin cho thanh thiếu niên và dự tòng;

- Phục vụ trong Ban Giáo lý Giáo phận Nha Trang;

- Điều hành ca đoàn, trợ tá các Hội Đoàn trong giáo xứ;

- Phục vụ Bàn Thánh, đem Mình Thánh Chúa cho bệnh nhân;

- Đảm nhận một số công tác nghệ thuật thánh


Công Tác Giáo Dục - Y Tế - Bác Ái Xã Hội


- Mở trường, lớp chăm sóc giáo dục trẻ mầm non – mẫu giáo; mở nhà nội trú giáo dục trẻ phổ thông cấp I, II, III

 

- Mở Trung tâm chăm sóc giáo dục trẻ khuyết tật (chậm phát triển và khiếm thính);

- Mở lớp học tình thương cho trẻ em nghèo thất học;

- Tham gia dạy học tại trường Khuyết tật và Tiểu học;

- Làm việc tại Phòng Khám Đa Khoa;

- Mở tủ thuốc bác ái cho người nghèo trong khu vực;

- Cộng tác chương trình y tế Giáo Phận để khám bệnh và phát thuốc miễn phí cho bệnh nhân phong tại Xóm Nhỏ – Núi Sạn, bệnh nhân nghèo tại giáo xứ Mỹ Hoán và Suối Hoà;

- Phục vụ văn phòng Bác Ái Xã Hội của Giáo Phận;

- Giúp học bổng cho học sinh nghèo tại một số giáo xứ;

- Tiếp cận và sinh hoạt hỗ trợ trẻ em đường phố;

- Tham gia công tác “Bảo vệ sự sống”: nâng đỡ thanh nữ lỡ lầm và chăm sóc cô nhi;

- Xây nhà tình thương cho người nghèo;

- Chia sẻ nhu yếu phẩm cho anh em dân tộc thiểu số;

- Thăm viếng và giúp đỡ người già cả neo đơn, bệnh nhân lương giáo.

Hoài Yên

Mục lục

 

 

Hợp Xướng Suối Việt vui Trung Thu với Thiếu Nhi Họ Đạo Cái Rắn- Cà Mau

 

CÀ MAU - Trong ngày Tết Trung Thu 2008, khoảng hơn 30 bạn trẻ trong Ban Hợp Xướng Suối Việt cùng với đại diện Nhóm Lasan-Exodus 97, Taberd 74 đã về thăm họ đạo Cái Rắn-Cà Mau thuộc giáo phận Cần Thơ để chia sẻ niềm vui Trung Thu với khoảng hơn 200 em thiếu nhi nghèo ở vùng sâu, vùng xa tận cùng đất nước này. Trong chuyến đi này, nhạc sĩ Nguyễn Bách đã phối hợp cùng linh mục-nhạc sĩ Tiến Lộc và 8 tập sinh thuộc dòng Chúa Cứu Thế, nghệ sĩ Kim Lệ để làm một chương trình văn nghệ thật vui tươi cho các em thưởng thức.


Lên đường rời Sài Gòn hoa lệ vào lúc 10 giờ đêm ngày thứ sáu 12.09.2008, xe chạy về miền lục tỉnh trong suốt đêm, trên xe lúc đầu còn rôm rả tiếng nói cười ca hát và tiếng harmonica rất điệu nghệ của linh mục Tiến Lộc, trời càng về khuya mọi người từ từ chìm vào giấc ngủ chập chờn trong khi chiếc xe ca dài thường thược chỡ gần 50 người cứ bo bon trên đường đêm hun húc. Về đến phà Cần Thơ hơn 1 giờ sáng, mọi người tỉnh ngủ xuống xe đi bộ để lên phà, qua con sông Hậu gió đêm mát rượi, dòng sông đen ngòm vì mưa nên không có ánh trăng!


Hơn 5 giờ sáng xe đến ngã 3 Ngọn Cạy thuộc xã Phú Hưng, huyện Cái Nước tỉnh Cà Mau đã thấy mấy chiếc võ lải (nơi khác còn gọi là tắc ráng) chờ sẵn để chuẩn bị chỡ mọi người vào đến nhà thờ Cái Rắn và vị linh mục coi sóc họ đạo này tuy già nhưng rất nổi tiếng qua những tác phẩm: Viết Cho Em, Nhật Ký Đức Giêsu, Dấu Chân Của Thầyv.v…linh mục-nhà văn Piô Ngô Phúc Hậu cũng đã ra tận nơi đón khách, bắt đầu từ đây mọi di chuyển sẽ toàn bằng võ lải…


Lần đầu tiên ngồi trên chiếc võ lải ( dân địa phương thường gọi tắt là đi võ) mọi người có hơi sợ một chút, cứ 6 người ngồi 1 vỏ chạy như bay trên mặt nước tạo thành hai luồng sóng trắng xoá bên mép vỏ thật thú vị! Nhưng hú hồn nếu có 1 người ngồi trên đó chỉ cần xoay qua, xoay lại một chút là sẽ lật ùm!


Thánh lễ lúc 4 giờ chiều thứ bảy dành cho thiếu nhi do linh mục Giuse Tiến Lộc đồng tế với cha sở và ca đoàn là các bạn trong ban Hợp Xướng Suối Việt hát lễ, cho dù gần nửa nhân số hiện diện là người ngoài Công Giáo nhưng các bạn trẻ Suối Việt dưới sự hướng dẫn của thầy Nguyễn Bách đã hát lễ rất tuyệt vời! Các em thiếu nhi ở đây cũng thật dễ thương, khao khát được vui chơi một đêm Trung Thu thật thoả thích nên đã đến rất sớm đứng trước các gian hàng hội chợ do các tập sinh dòng Chúa Cứu Thế phụ trách mà ngắm nghía xem sẽ được chơi trò gì? Những hộp sữa tươi, những chiếc bánh Trung Thu, những quyển vỡ, chiếc cặp, lồng đèn Trung Thu v.v… là những món quà mà các em nhận được trong mùa Trung Thu này cùng với một chương trình văn nghệ thật vui tươi với chú Cuội và chị Hằng đã làm cho bầu khí của một vùng quê hẽo lánh rộn rã hẵn lên. Các em ngạc nhiên sao mình chơi không được cũng được nhận một phần quà? Những đôi mắt ngây thơ cứ ánh lên mỗi khi được một món quà ở mỗi gian hàng dù mình không trả tiền mua vé để được vào chơi, thích nhất là gian tô màu trên tượng và tô hình trên giấy, các em được tặng những con thú hoặc búp bê bằng thạch cao màu trắng và màu nước, bút lông… thế là tha hồ tô lên những màu sắc mà các em thích để trang trí lên tượng và được tặng luôn để mang về nhà.


Đúng là một mùa Trung Thu thật ý nghĩa với cả những người “cho” và “nhận”!


Có một chi tiết mà tôi được cha Tám (cha Piô Ngô Phúc Hậu) cho biết: Địa phương này trước đây gia đình Ông Bà thân sinh Đức Hồng Y G.B Phạm Minh Mẫn đã từng sống mấy năm, Đức Hồng Y đã trãi qua thời thơ ấu nơi con sông này. Và ngôi trường tiểu học Phú Hưng B ngày nay đã được xây trên mảnh đất từng là ngôi nhà của gia đình Đức Hồng Y.

 

Lê Kim

Mục lục

 

TÂN LINH MỤC AUGUSTINÔ NGUYỄN THỨ LỄ DÂNG THÁNH LỄ TẠ ƠN TẠI GIÁO XỨ LẠC VIÊN, HẠT ĐƠN DƯƠNG, GIÁO PHẬN ĐÀLẠT

 

LÚC 5 GIỜ 00, THỨ TƯ, ngày 17 tháng 09 năm 2008. Phó tế Augustinô Nguyễn Thứ Lễ được Đức Cha Đaminh Nguyễn Chu Trinh, Giám mục giáo phận Xuân Lộc trao tác vụ linh mục ngày 08/09/2008 tại Nhà Thờ Chính Tòa Xuân Lộc cùng với 21 phó tế khác. Hôm nay, tân Linh mục trở về quê nội, nơi Ngài đã sống những ngày thơ ấu tại giáo xứ Lạc Viên, hạt Đơn Dương, địa phận Đà Lạt, để dâng thánh lễ tạ ơn cảm tạ tri ân Thiên Chúa vì hồng ân cao cả Thiên Chúa đã trao ban cho Ngài và để cám ơn các Linh mục tiền bối, các Đấng các Bậc đã sáng lập giáo xứ Lạc Viên, đã có thời dạy dỗ Ngài, đồng thời cám ơn giáo xứ Lạc Viên, nơi Ngài đã sống những ngày đầu đời làm con Chúa, làm con Hội Thánh và làm con của giáo xứ.

 

MỘT THÁNH LỄ CẢM ĐỘNG TRONG BẦU KHÍ ĐẠO ĐỨC THÁNH THIÊNG : Thánh lễ tạ ơn bắt đầu lúc 5 giờ 00 ngày 17/09/2008. Đoàn đồng tế gồm 07 Linh mục trong sắc phục mầu vàng cùng với thân nhân, gia đình và một số lễ sinh, các em thiếu nhi và Hội Kèn Đồng đã tiến vào nhà thờ trong bầu khí hân hoan, trang nghiêm, đạo đức. Mở đầu Cha Quản Hạt Phaolô Phạm Công Phương, chánh xứ Lạc Viên đã giới thiệu Cha Augustinô Nguyễn Thứ Lễ, người con của giáo xứ Lạc Viên từ xa  trở về quê nhà dâng thánh lễ tạ ơn cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho Ngài thánh chức linh mục. Cha Quản Hạt nói lên niềm vui của giáo xứ có thêm người con được cất nhắc vào hàng tư tế của Chúa. Cha mới cũng nói lên những tâm tình của một người mới được Thiên Chúa tuyển chọn dù mình không xứng đáng gì để trở nên Linh mục phục vụ Chúa, phục vụ Giáo Hội và công đoàn dân Chúa. Ngài cũng dâng thánh lễ tạ ơn này để cầu nguyện cho giáo xứ Lạc Viên những người đã khuất và những người đang còn sống. Trong bài giảng lễ, Cha Thành, người anh em linh tông với cha mới đã nhấn mệnh đến tiến trình của ơn gọi làm người, làm con Chúa và ơn gọi làm Linh mục, trở nên nghĩa thiết với Thiên Chúa.

 

MỘT VÀI CẢM NHẬN : Thánh lễ tạ ơn của cha mới sáng nay đã làm tôi suy nghĩ rất nhiều về ơn tuyển chọn của Thiên Chúa. Cha mới đã trải qua quá trình 18 năm theo Chúa với biết bao cố gắng bản thân, với biết bao công lao của các Cha Giám Đốc, các Cha Giáo, Cha Linh Hướng, với biết bao hy sinh của cha mẹ, anh em họ hàng và những động viên, khuyến khích giúp đỡ của các bạn hữu, ân nhân và đặc biệt nhờ lời cầu nguyện của biết bao nhiêu người, ngày nay Ngài mới được Thiên Chúa tuyển chọn và cất nhắc vào hàng tư tế. Thiên Chúa muốn tuyển chọn ai tùy ý của Ngài. Đây là hồng ân nhưng không của Thiên Chúa. Thánh chức linh mục quả thật cao cả. Con người sao hiểu thấu được hết ơn cao quí này. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viết:” Niềm ước nguyện của tôi là anh em linh mục sẽ sống ngày thánh thiện nhất này với một trái tim an bình, trong niềm hiệp thông sâu xa cùng với chính anh em linh mục với nhau, với giám mục của mình và với cộng đoàn của mình, vì “ thẻ khai sinh “ của chúng ta chính là linh mục”.

 

“ Bí tích truyền chức làm phát sinh nơi con người Linh mục một mối giây hữu thể đặc thù nối kết Linh mục với Đức Kitô là Linh mục tối cao và Đấng chăn chiên nhân lành “ ( PDV, 11 ).

 

Tôi vẫn suy nghĩ về ơn gọi nhưng không nhưng quá diệu huyền và mầu nhiệm của Thiên Chúa. Một con người với tất cả yếu đuối tội lỗi : một người như Phêrô, ba lần chối Chúa, như Matthêu người thu thuế, như Toma , như Anrê, Giacôbê vv…như Giuđa Iscariốt, kẻ phản bội, Chúa đều chọn và cho họ sự tự do. Thiên chức linh mục quả quá tuyệt vời:” một lời truyền phép, Chúa hiện diện và trở nên lương thực nuôi sống phần hồn, phần xác con người “. Ôi mầu nhiệm đức tin quá cao siêu. Tôi xác tín sâu xa tình thương vô biên Thiên Chúa tuyển chọn con người lên hàng tư tế của Người.

 

Tôi đọc” Chân Dung Linh Mục “ của Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống, Ngài viết :”…Hình ảnh Linh mục trong số cuối cùng Thư Thứ Năm Tuần thánh 2002 là hình ảnh của một người khiêm tốn “ ý thức thân phận mình yếu đuối mỏng dòn, nhưng tin vào sức mạnh chữa lành của ơn thánh “, để đón nhận những căng thẳng như Thánh Giá Chúa gửi đến. Hơn lúc nào hết, Linh mục ý thức mình bị đóng đinh giữa chiều cao của Thiên Chúa và vực thẳm của con người; nhưng cũng hơn lúc nào hết, Linh mục dâng lời cảm tạ vì bao ơn phúc mình đã nhận về, cúi đầu tạ tội vì những vấp ngã lìa xa, và cầu xin Thiên Chúa “ làm bừng sống lại nơi con tim về những lý tưởng tự hiến toàn vẹn cho Đức Giêsu, vì chính đó là nền tảng trong sứ vụ Linh mục “ ( số 11 ).

 

Thánh lễ tạ ơn của cha mới Augustinô Nguyễn Thứ Lễ đã được Cha Quản Hạt Đơn Dương và Giáo xứ Lạc Viên tổ chức rất tươm tất, và có thể nói được là hoành tráng nhưng cái hoành tráng có chiều sâu chứ không chỉ là cái rầm rộ bên ngoài có hình thức mà không có nội dung. Thánh lễ tạ ơn sáng nay của cha mới Augustinô đã để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng người về hình ảnh của một người Linh mục mỏng dòn nhưng luôn tin vào sức mạnh của Thiên Chúa và lời hứa của Người :” Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế “.

 

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT

Mục lục

 

 

Phỏng vấn Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt về diễn biến tại Tòa Khâm Sứ

Chính nhà nước đã làm sai luật pháp


Tối ngày ngày hôm 18/9/2008 qua lúc 10:30PM (giờ Los Angeles) tức là 1:30 trưa ngày 19/9/2008 (giờ Hà Nội), đang lúc diễn ra thảm cảnh công an, quân đội, cảnh sát đã phá đổ hàng rào trước Tòa Khâm Sứ Hà Nội và đưa xe ủi trong khu vực này. LM Trần Công Nghị đã gọi về Hà Nội để thăm hỏi và phỏng vấn Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt vè hiện tình. Sau đây là bài phỏng vấn:



LM Nghị: Kính thưa các vị thính giả và độc giả của chương trình VietVatholic, tôi là linh mục Trần Công Nghị và giờ đây tôi đang trực tiếp gọi điện thoại về để nói chuyện với đức Tổng Giám mục Tổng giáo phận Hà Nội. Ngày hôm nay, vào ban sáng thì cảnh sát rất là đông cũng như là công an đã kéo đến Tòa Khâm Sứ và đã đánh đổ cổng vào và đã đưa xe tới để mà định sang bằng tòa Khâm Sứ. Trước những hành vi như vậy thì chủng sinh đã ra cầu nguyện ngoài cổng.


Vậy xin thưa đức Tổng tình hình hiện nay như thế nào, đức Tổng có thể tả cho chúng con về biết cảnh tượng bây giờ như thế nào, thưa đức Tổng ?


ĐTGM Kiệt: Thưa cha, bây giờ bên trong Tòa Khâm Sứ thì các xe ủi đang làm việc. Ccác xe ủi đã …trước hết các xe ủi đã làm ủi đổ hết tường rào, tường sắt ở phía đằng trước Tòa Khâm Sứ và bây giờ đang ủi trong sân và đưa đất vào trong đó. Đằng trước sân Tòa Khâm Sứ cũng như bên trong thì dày đặt công an, đã làm hàng rào, dây kẽm gai để phong tỏa từ đầu đường lối vào tòa giám mục, cũng như là phong tỏa dòng Mến Thánh Giá. Trong các công an thì cũng có lực lượng phản ứng nhanh, cảnh sát 113, công an mặc sắc phục và công an mặc thường phục cùng với các máy quay phim chụp ảnh và có cả chó nghiệp vụ nữa.


Họ túc trực ở đó và lúc nào cũng khẩn trương để ngăn chận không cho giáo dân đi qua lại và kể cả các nữ tu ở bên tòa Giám mục muốn về nhà cũng về không được vì đã bị phong tỏa kín hết rồi.


Trong khi đó thì phía bên ngoài những khu vực phong tỏa và ngay trong sân tòa Tổng Giám Mục thì giáo dân đang càng ngày càng tập trung đến đông, các nữ tu cũng như các chủng sinh đang thay phiên nhau đọc kinh cầu nguyện trong sự canh chừng của các công an


Ngoài ra cũng có phóng viên các báo nước ngoài đã làm sao biết được đã đến quay phim và chụp hình. Có những phóng viên đến tác nghiệp thì bị đuổi vào trong sân tòa Giám mục nhưng được dân chúng bảo vệ nên thoát được, tuy nhiên cũng có phóng viên nước ngoài bị lấy máy ảnh hay là bị hành hung. Đó là một vài nét tả lại cảnh hiện nay đang diễn ra trước mắt chúng tôi.


Vâng, cám ơn đức Tổng. Kính thưa đức Tổng chúng con được biết tin rằng sau khi biết được tin họ đến phá cổng Tòa Khâm Sứ và đã tràn vào đó thì có rất nhiều các linh mục, tuy dù hàng rào đã bị chắn ở trước đường phố Nhà Chung để vào Tòa Khâm Sứ như vậy thì chúng con cũng nghe biết rằng có rất nhiều người như đức Tổng cũng vừa nói các linh mục cũng như giáo dân đã tụ tập về, bằng cách nào mà họ có thể vào đấy được thưa đức Tổng ?

ĐTGM Kiệt: Họ đi lối nhà thờ, rất may là phía nhà thờ chính tòa vẫn phải mở cửa để cho giáo dân vào đi lễ, cho nên những người giáo dân cũng như các linh mục lấy lí do vào đi lễ, thì từ phía nhà thờ chính tòa có thể đi sang tòa Tổng Giám Mục được.


Trước đây thì chính đức Tổng cũng như là Tòa thánh thì cũng đã đồng ý cái giải pháp là sẽ đối thoại để chính quyền đồng ý trả lại Tòa Khâm Sứ trong tinh thần hòa giải và tinh thần đối thoại. Nhưng mà trước hành động này thì sáng hôm nay báo Hà Nội Mới đã đưa một tin rằng "sẽ biến đổi khu vực Tòa Khâm Sứ thành một công viên”. Thế thì như vậy tức là họ đã đi đến một kết luận là không đối thoại nữa. Và như vậy họ chận đường, và tự ý họ làm và không cần ý kiến của tòa Giám mục cũng như là của đức Tổng nữa thì trước sự kiện này thì đức Tổng Giám mục cho chúng con biết nhận định như thế nào?


Về sự việc này, chúng tôi rất lấy làm buồn bởi vì theo văn thư của đức hồng y Quốc Vụ Khanh hồi đầu năm nay nói rằng sẽ phải đi vào việc đối thoại và ở đây tất cả mọi người từ giáo sĩ đến giáo dân đã tuân theo lệnh của Tòa thánh đi vào cuộc đối thoại, nhưng mà chúng ta thấy đấy cuộc đối thoại đó không phải chỉ có của Giám mục còn có giáo dân, giáo sĩ và cả Hội đồng Giám mục nữa. Thế nhưng mà cuộc đối thoại đang tiến hành nhưng Nhà nước lại có quyết định đơn phương như thế, nên chúng tôi thấy rằng nhà nước đã tự ý phá vỡ cuộc đối thoại này, không tôn trọng ý kiến của Hội đồng Giám mục cũng như là của Tòa thánh, và nhất là của giáo dân Hà Nội. Đó là điều rất là đáng buồn.


Trước khi họ đến phá cổng để vào Tòa Khâm Sứ bằng một quyết định là “lập một công viên” như báo Hà Nội Mới đã nói. Vậy đức Tổng Giám mục không được tham khảo ý kiến trong tuần này? Không bao giờ được ai tham khảo về công việc họ làm như thế này?


ĐTGM Kiệt: Vâng, chúng tôi không hề được tham khảo, chiều hôm qua vào lúc 3 giờ chiều thì chúng tôi mới nhận được cái văn thư của quận Hoàn Kiếm mời đến để nghe "công bố về dự án quy hoạch đất 42 Nhà Chung thành công viên cây xanh” thì chúng tôi đã không đến họp. Nghe nói cuộc họp đó có khoảng 10 người, họ đã tự động công bố thế rồi sáng nay họ quyết định làm ngay thành ra không có một ý kiến nào của tòa Giám mục.

 

Báo, Đài Truyền hình Hà Nội sáng nay cũng đưa tin là “đã có đại diện của tòa Tòa Giám mục đến tham dự và đã đồng ý” thì điều đó là hoàn toàn sai sự thật.


Thưa đức Tổng, trước hành động đơn phương của chính quyền đã cắt bỏ sự đối thoại, sự hợp tác của Tòa thánh cũng như của tòa Giám mục Hà Nội, cũng như Hội đồng Giám mục Việt Nam. Trước sự kiện này thì thưa đức Tổng phân tích cho chúng con biết về khía cạnh pháp luật để dự án quy hoạch và về quyền sở hữu của Tòa Khâm Sứ như thế nào, thưa đức Tổng ?


ĐTGM Kiệt: Có thể nói là chính nhà nước đã làm sai luật pháp.


Trước hết theo những quy định chung và hướng dẫn chung của nhà nước về vấn đề quy hoạch một khu dân cư hay một công trình công cộng. Theo quy định này, trước hết thì quy hoạch đó phải được niêm yết cho toàn dân xem và góp ý kiến rất nhiều tháng trước khi được thi hành và để xem nếu có sự đồng thuận của tất cả mọi người dân trong khu xóm đó thì mới có thể thi hành được.


Còn nếu người dân trong khu xóm, khu vực đó người ta không đồng ý thì phải thuyết minh, còn nếu không thuyết minh được thì phải bỏ dự án đó, và cái này chúng ta thấy xảy ra ở nhiều nơi.

 

Thế rồi nếu có muốn quy hoạch thành hình thì phải bồi thường cho những đất đai của những người chủ trên đó.


Thế thì chính nhà nước đã vi phạm những quy luật mà nhà nước đã đưa ra là không có niêm yết cái dự án quy hoạch trước và chúng tôi không hề biết cái dự án đó như thế nào, chỉ có chiều hôm qua mới thấy xuất hiện một cái bảng nhỏ nhỏ, sau khi họp người ta mới treo cái bảng nhỏ nhỏ trước Tòa Khâm Sứ và nói đây là dự án quy hoạch niêm yết cho dân chúng xem thì chỉ được vài tiếng đồng hồ, đó là khía cạnh thứ nhất.


Khía cạnh thứ hai, đó là quyền sở hữu, việc quy hoạch khuôn viên cây xanh ở trên đất số 42 Nhà Chung gọi là đất của tòa Khâm sứ thì nó cũng hoàn toàn là sai vì nó không tôn trọng quyền sở hữu hiện tại đó là thuộc về tòa Tòa Giám mục Hà Nội.


Quyền sở hữu này chúng ta biết rằng nó phải được chứng minh bằng giấy tờ hợp pháp chứ không phải cứ ai mạnh chiếm là được, tòa Tòa Giám mục có đầy đủ văn bản, có chứng khoán điền thổ những năm từ thời Pháp thuộc.


Còn phía nhà nước thì không biết ai quản lý đất này thì không biết, nhưng không có một cái văn bản nào cả.

Thế nên tôi xin nhắc lại lịch sử đó là Đức Khâm Sứ Dooley đã ở đó đến năm 1959 thì ngài bị trục xuất, rồi thì đến năm 1960 cha thư kí của ngài cũng bị trục xuất nhưng mà ông tài xế và một vài người làm công cho Tòa Khâm Sứ vẫn ở trong tòa nhà đó. Cho đến nhiều năm sau thì có nhân viên nhà nước đến đuổi hai người này ra và cũng không có theo một chính sách và cũng không có một cái văn bản nào cả.


Tuy nhiên hai nhà vẫn thông nhau, rồi đến một ngày kia nhà nước mời tất cả: Đức Cha Căn, rồi các cha trong tòa Giám mục và các nhân viên đi họp hết. Và khi họp trở về thì thấy bức tường đã được xây lên rồi. Cho nên có thể nói bức tường đó cũng được xây một cách lén lút không có minh bạch.


Thế rồi cũng không có một cái văn bản nào hiến tặng, cũng không có văn bản nào tịch thu, thế cho nên có thể nói Tòa Khâm Sứ đó vẫn thuộc về quyền sở hữu của tòa Tòa Giám mục.


Trong một nước văn minh thì chúng ta phải tuân theo luật pháp. Quyền sở hữu phải có giấy tờ hợp pháp, còn nếu căn cứ vào luật mạnh được yếu thua thì có lẽ điều đó không được văn minh lắm.


Dạ vâng, kính thưa đức Tổng, như vậy như đức Tổng đã nhấn mạnh hai lần là tính cách thi hành của chính quyền Việt Nam đối với Tòa Khâm Sứ thì có vẻ lén lút và không được công đạo, đồng thời có tính cách trấn áp, đang khi đó thì chính phủ luôn nói rằng phải thi hành luật lệ cho nghiêm chỉnh. Vậy thì trước sự kiện như thế này thì đức Tổng cho chúng con một lời nhận định về chính nghĩa công lý và đạo lý như thế nào, thưa đức Tổng?


ĐTGM Kiệt: Cái chính thể nó phải có chính nghĩa của nó, mà cái chính nghĩa đó tôi có thể nói là nó được đặt trước hết là trên sự công lý.


Chính nghĩa phải có công lý, công lý trước hết là sự công bằng, sự công bằng đơn sơ nhất là của ai trả lại cho người ấy và nhất là về mặt nhân quyền, về mặt pháp luật tự nhiên thì phải công nhận mọi công dân đều có được quyền bình đẳng trước pháp luật, để được như thế nhà nước phải có một sự công tâm, nhìn cái lợi ích chung của toàn thể chứ không có được nhìn lợi ích riêng của một cá nhân nào hay một cái tập thể nào một cách riêng biệt.


Thế thì trong việc Tòa Khâm Sứ này chúng ta đã thấy là vừa không công bằng vừa không có công tâm.


Chúng ta thấy Giáo hội, riêng Tổng giám mục Tổng giáo phận Hà Nội đã mất rất là nhiều cơ sở. Thế nhưng những cơ sở mà Nhà nước dùng vào lợi ích chung như là trường học, như là bệnh viện thì chúng tôi không bao giờ nói đến. Và ngay cả đến Tòa Khâm Sứ mấy mươi năm nhà nước lấy chúng tôi cũng không nói đến. Nhà nước bỏ không, không làm gì chúng tôi cũng không nói đến.


Tuy nhiên vào năm 2000 khi nó đã có dấu hiệu của những cái tham những, nó có những dấu hiệu là người ta biến thành đất tư, buôn bán như là mở vũ trường kinh doanh, mở quán phở, nhà băng, thì lúc bấy giờ Đức Hồng Y Tụng cùng các linh mục Hà Nội mới bắt đầu lên tiếng đòi lại. Thế nhưng mà nhà nước thì lại bênh vực những người đó, những người đó chắc chắn buôn bán đất đai tiền bạc rơi vào túi tư nhân chứ không vào công quỹ của nhà nước. Nhưng mà nhà nước lại bênh vực cái nhóm người đó mà chèn ép phía Giáo hội cho nên nó không có sự công bằng, thiếu sự công tâm.


Ý kiến thứ hai nói về việc chính nghĩa của một chính thể là phải có đạo lý, đạo lý này trước hết là phải dựa trên những sự thật.


Thế thì trong các vấn đề về đất đai thì chúng ta thấy có nhiều cái nó không được sự thật, trước hết là có những văn bản giả nói rằng như ở Thái Hà nói rằng cha già Bích đã hiến nhưng mà lại có tới 3, 4 văn bản khác nhau thì không biết là thế nào. Thế rồi trong tòa tổng Giám mục thì người ta cũng nói rằng đức cha Cương đã hiến nhưng mà đức cha Cương không bao giờ hiến cả, thế là trong những ngày vừa qua có những tin tức giả mà chúng ta đã thấy rồi đó, những lời hứa giả.


Thế thì cái sự nó không có thành thực, nó giả dối thì tự nó, nó đã thiếu chính nghĩa rồi.


Ta không tin vào mình, không tin vào chính nghĩa của mình thì cho nên có thể nói về công lý, về đạo lý thì nếu nó không có, thì nó không thể có chính nghĩa được.


Vâng, nhân tiện đức Tổng Giám mục nói về chính nghĩa, với vấn đề đạo lý thì cũng cái chuyện xảy ra mới đêm hôm qua, có chàng thanh niên đến chỗ bàn thờ của Thái Hà đổ nhớt, mắm tôm rồi đồng thời cũng đưa giấy vệ sinh sang đổ ở đó mà đang khi đó thì công an cảnh sát không có làm gì, ngồi đánh cờ như vậy thì trước vấn đề xúc phạm đến sự thánh thiêng của sự thờ phượng công giáo như vậy thì đức Tổng Giám mục nhận định như thế nào?


ĐTGM Kiệt: Đó thì chúng ta thấy đó, lại một bằng chứng nữa cho thấy công lý, công bằng không có và một số người xúc phạm đến người khác thì được bênh vực trong khi những người khác thì bị răn đe rồi thì bị bắt bớ, vân vân… chúng ta thấy công lý, đạo lý nó thật sự chưa có.


Chính quyền Việt nam luôn luôn rêu rao rằng một Xã hội chủ nghĩa tức là vì dân do dân và chính quyền chỉ là đầy tớ của dân. Vậy thì trước những hiện tượng như thế này thì đức Tổng Giám mục nhận định thế nào về chính trị, về thiên thời, địa lợi và nhân hòa đang khi mà chính quyền Việt nam đang bị đối diện với rất nhiều vấn đề mà lại gây một sự thù hằn căm tức như thế này đối với tập thể người Vông giáo -- phá đi hình ảnh cũng như biểu tượng hợp nhất của người công giáo Việt nam đối với Vatican -- thì đức Tổng nhận định như thế nào?


ĐTGM Kiệt: Chúng ta vẫn nghe người xưa nói là “một nền chính trị thành công đó là nền chính trị có thiên thời địa lợi và nhân hòa”. Tất nhiên xưa thì người ta tin vào cái mệnh Trời nhưng mà ngày nay chúng ta có thể nói thiên thời đó là những hoàn cảnh chung quanh, hoàn cảnh xã hội cũng như hoàn cảnh quốc tế.


Thì có thể nói về phương diện quốc tế, hiện nay Việt nam cũng không ở trong thiên thời lắm. Chúng ta thấy chúng ta đang bị một nước đàn anh bên cạnh là ông Trung quốc đang chèn ép rất là mạnh.


Thế rồi kinh tế trong nước cũng đang bị suy thoái, hiện nay có nhiều hãng đầu tư của nước ngoài đang xem xét lại việc đầu tư vào Việt nam.


Chúng ta thấy như vậy thì cái thiên thời cũng không có lắm. Trong khi đó cái nhân hòa cũng cũng rất là kém bởi vì nhìn qua vụ Tòa Khâm Sứ và đất ở Thái hà.


Chúng ta thiếu cái nhân hòa đó thì làm sao mà lòng người được hài hòa, lòng dân nó được thuận thảo? mọi người đồng tâm nhất trí với nhau?


Nếu có cái gì chưa nhất trí thì có thể đối thoại, có sức thuyết phục để tạo nên cái sự đồng cảm được.

Chúng ta thấy điển hình qua cái vụ Tòa Khâm Sứ này thôi, chính Hội đồng Giám mục đã nhiều lần làm đơn và nói rằng chúng tôi chưa có sẵn sàng nhận đất khác chúng tôi vẫn chỉ muốn nhận cái đất ở Tòa Khâm Sứ này thôi, giáo dân Hà nội thì lại càng tha thiết gắn bó với mảnh đất này nữa. Ngoài ra chúng ta nhìn rộng ra hơn nữa, hiện nay không biết là: Ở trong đất nước có hàng bao nhiêu ngàn người đang bị oan ức đang khiếu kiện mà chẳng được cứu xét gì cả.


Thế cho nên chúng ta thấy về cái nhân tâm nhân hòa rất là thiếu và theo ý tôi.


Một miếng đất nó chả đáng giá gì đâu, mất một miếng đất không có quan trọng bởi vì mất miếng đất này mình có thể mua được miếng đất khác hay tìm được miếng đất khác nhưng mất niềm tin rồi thì sẽ không bao giờ lấy lại được.


Và cái niềm tin thì không có tiền nào có thể mua được cái niềm tin đó cho nên nếu thiên thời đã không có thuận lợi và không để ý đến nhân tâm, nhân hòa nữa thì chúng tôi thấy cũng là một cái thiệt thòi lớn cho đất nước.


Kính thưa đức Tổng, theo những thư từ mà chúng con được nhận được từ lúc 7 giờ sáng cho đến bây giờ là 1 giờ trưa, thì rất nhiều người viết thư và email về cho chúng con nói rằng họ rất là phẫn uất trước hình ảnh mà chính quyền Việt nam đã phá Tòa Khâm Sứ, đến một hình ảnh mà làm cho rất nhiều người đau thương và tất cả các nơi thì đều muốn hiệp nhất với lại Tổng giáo phận Hà nội để mà bênh vực cho cái công lý đó. Trước tình trạng như vậy, thưa đức Tổng Giám mục, thì Đức cha Chủ tịch Hội đồng Giám mục chắc chắn kỳ này sẽ phải lên tiếng; bởi vì đây không những chỉ động đến vấn đề của Tòa Giám mục ở Hà nội nhưng mà còn động đến Hội đồng Giám mục Việt Nam và nhất là Đức cha Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam cũng có liên lạc với Tòa thánh và chính ngài cũng đã từng liên lạc với Chính quyền Việt Nam để mà giải quyết vụ này. Vậy thì trước cao trào mà người Công giáo khắp nơi cảm thấy bị khống chế, như vậy và họ cảm thấy phẫn uất trước những sự kiện như thế này, thì đức Tổng nhận định như thế nào, thưa đức Tổng ?


ĐTGM Kiệt: Xin cám ơn cha và tôi tin chắc rằng Đức cha chủ tịch cũng như là Hội đồng Giám mục cũng đều đồng với quan điểm của tất cả các giáo dân Hà Nội cũng như tất cả các Đức cha ở miền Bắc này đều hiệp thông là chúng ta phải làm sao lên tiếng cho công lý.


Đó chính là một cái bổn phận không phải là bổn phận riêng tư mà đó bổn phận của Tin Mừng, bổn phận của cái lý thuyết, về giáo lý về xã hội của giáo hội thì phải bênh vực lên tiếng vì công lý.


Thế thì một miếng đất nó cũng là một vấn đề nhỏ thôi nhưng mà vấn đề về công lý đó là một vấn đề lớn lao và nó phải như là Đức Thánh Cha Phaolô VI đã nói đó: “Phải có công lý thì mới có hòa bình được, nếu không có công lý thì không thể có hòa bình được”. Thế cho nên muốn có hòa bình, có nhân tâm nhân hòa phải tạo sự phát triển lâu dài thì cần phải có công lý và đó chính là điều mà mọi người trong GH đều có nhiệm vụ là phải bảo vệ.


Thế cho nên qua VietCatholic cũng xin nhắn quý cha, quý tu sĩ nam nữ và tất cả anh chị em trên khắp thế giới, chúng ta hãy tích cực làm chứng cho công lý, bênh vực bảo vệ công lý và chúng ta hãy hiệp thông và nhất là cầu nguyện thật tha thiết, chắc chắn với lời cầu nguyện tha thiết của chúng ta thì chúa sẽ ban sức mạnh và đồng thời Chúa sẽ ban cho chúng ta được điều mà chúng ta mong ước, đó là một nền công lý thật sự.


Vâng, khi đức Tổng nói về đức tin của người Công giáo thì sáng hôm nay khi mà hàng rào công an cả từng trăm người canh giữ như vậy cũng có một bà cụ già đã được lọt vào trong, và bà đã quỳ cầu nguyện suốt từ sáng cho đến 9 giờ rưỡi, bà cầu nguyện một cách âm thầm. Cuối cùng thì 9 giờ rưỡi công an cũng đã lôi bà đi. Thì đó là cái hình ảnh đức tin rất là trung kiên. Và cũng như các thầy, các linh mục ra cầu nguyện hát kinh rất là ôn hòa, đang khi đó thì cảnh sát đưa chó đến và vũ trang rất là mạnh mẽ như vậy thì khi đức Tòa Giám mục đứng ở trên của sổ của đức Tòa Giám mục nhìn xuống một bà cụ già rất là yếu ớt như vậy mà cái đức tin sắt son đến với đức mẹ không sợ bạo quyền, không sợ gì cả -- thì thưa đức Tổng, đức Tổng cảm nhận như thế nào hình ành một con người yếu thế, một con người không có tiếng nói, một con người mà không có một cái gì tự có thể bênh hộ mình được; thì đó cũng nhìn xa ra một Giáo hội Việt nam bây giờ cũng chỉ có công lý và niềm tin thôi, thế thì lấy cái gì để làm bênh đỡ trước cao trào mà chính quyền cộng sản đang đàn áp như thế này, thưa đức Tổng?


ĐTGM Kiệt: Thế trước hết đó là một cái niềm tin và chúng ta thấy mọi người trên thế giới cũng đều phải công nhận là Việt nam tuy là nghèo khổ, tuy đơn sơ, dù những cụ già ít học nhưng đức tin rất là vững mạnh, chính đức tin là điểm tựa vững chắc làm cho chúng ta không sợ hãi gì cả, thế thì chúng ta thấy biết bao nhiêu người bị bắt, bao nhiêu người bị hành hạ đánh đập nhưng không có ai sợ một chút nào hết.


Thật sự là ở đây chúng tôi đã hết sức kềm chế để cho giáo dân người ta bình tĩnh chứ còn người ta không sợ hãi gì hết, rất là tin tưởng. Cái đức tin rất là mạnh mẽ, cái đó là điều đáng cảm phục và làm cho mọi người phải noi theo.


Điểm thứ hai là cái điều tuy là người ta cầu nguyện một mình thế nhưng mà người ta biết rằng người ta không có một mình, có Chúa và có anh chị em luôn luôn ở bên cạnh. Tất cả mọi người, trong nước, ngoài nước đều hiệp thông. Cho nên không có ai sợ hãi gì cả, đó, đó chính là cái lí do làm cho người ta rất là vững mạnh.


Vâng, sáng nay cũng có một vài nhà báo (chúng con có video), người nhà báo ngoại quốc đã bị bắt, ức là họ đang muốn dẹp yên tiếng nói công chính của những người đang tranh đấu, đang cầu nguyện cho công lý và hòa bình, nhất là khi cái biểu tượng của người Công giáo, Tòa Khâm Sứ cái nơi để mà nối kết tình hiệp thông giữa Giáo hội Công giáo Việt Nam với Giáo hội hoàn vũ, nhất là tòa thánh Vatican thì khi mà người cộng sản định đè bẹp định phá vỡ cái đó, cũng là một cái làm cho mọi người Công giáo Việt Nam hiểu rằng đây là họ muốn trấn áp, muốn đè bẹp Công giáo. Thì cái tâm tình đó, Đức Tổng có nghĩ rằng trong tương lai sẽ có những biến cố mới xảy ra khi mà người Công giáo không kiềm chế dược nữa thì lúc bấy giờ, sự gì sẽ xảy ra?


ĐTGM Kiệt: Thì cái hình ảnh mà đàn áp người khác tức là báo giới là một hình ảnh rất tồi tệ thật sự đó là một cái điều sỉ nhục. Một cái điều xấu hổ khi mà người ta không có tôn trọng tự do ngôn luận lại dùng những biện pháp nó bạo lực như thế thì thật sự nó không xứng đáng với lại một cái đất nước văn minh.


Chúng tôi cũng mong muốn làm sao mọi người biết đối xử với nhau theo đúng cái lịch sự, cái văn minh, cái tôn trọng, tất cả những cái quyền tự do mà đất nước đã cam kết trong bản hiến chương Liên Hiệp Quốc.

Vâng, chúng con xin cám ơn đức Tổng rất nhiều đã dành cho chúng con cuộc phỏng vấn này để chúng con hiểu thêm về đường lối của Giáo hội cũng như diễn tiến đang xảy ra rất là khó khăn cho Tổng giáo phận Hà Nội cũng như đặc biệt cho Đức Tổng. Chúng con luôn luôn ở bên sát đức Tổng trong lời kinh, lời nguyện và nhất là mọi tín hữu ở khắp nơi luôn luôn hướng lòng về Hà nội nơi mà hiện nay đang có những biến cố đau thương và làm cho người Công giáo mất đi niềm tin tưởng vào chính quyền không có công bình, không có công lý đối xử với người Công giáo.


Chúng con cầu chúc rằng đức Tổng Giám mục luôn luôn vững tin và nhất là chúng con cầu nguyện để cho Giáo hội vẫn luôn được hợp nhất trong yêu thương và chúng con xin kính chúc đức Tổng được bình yên và cũng xin đức Tổng cũng nhớ đến chúng con trong lời cầu nguyện.


ĐTGM Kiệt: Vâng, xin cám ơn cha, chúng ta cùng hiệp thông trong lời cầu nguyện luôn luôn …

Theo VietCatholic News

Mục lục

 

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO

 

MẸ LA VANG, MẸ NGUỒN CẬY TRÔNG

 

Cuộc hành hương Đại hội Đức Mẹ Lavang lần thứ 28 nầy (13-15.8.2008) đối với  rất nhiều người là những kỷ niệm khó quên, những ơn lành Đức Mẹ ban cách ngọt ngào trìu mến... những cảm nếm cái nóng, cái khát của thời tiết Quảng trị oi bức nhưng lòng vẫn tràn ngập niềm vui trùng phùng hội ngộ trong tình Mẫu tử nhiệm mầu... Phần tôi, sự kiện ghi đậm dấu ấn nhất là giờ cầu nguyện và thánh lễ dành cho nhóm khuyết tật vào lúc 9giờ30, ngày 14.8, ngày thứ II trong chương trình 3 ngày đại hội, do Đức Cha (ĐC) Phêrô Nguyễn văn Đê Giám Mục Phó Giáo Phận Bùi Chu chủ sự. Tôi xem như  đã nếm được niềm vui sống bên Mẹ là tâm tình cầu nguyện, hiệp thông trong dịp hành hương 28 nầy, với con cái Mẹ khắp bốn phương tựu về, nhất là với những mãnh đời thiếu may mắn...

 

Đoàn khuyết tật đến từ Tổng Giáo Phận Hà Nội, gồm 225 người. Họ đến từ nhiều nơi trên các giáo xứ thuộc Miền Bắc: Vĩnh Phúc, Bắc Gíang, Quảng Ninh, Ninh Bình, Hà Giang, Hà Tây... có  các anh em thiện nguyện, các thầy Don Bosco, các nữ tu cùng đồng hành, và đặc biệt có  ĐC Phêrô Nguyễn văn Đệ làm linh hướng cho đoàn. Một chuyến hành hương về Đức Mẹ La-vang, gặp gỡ giao lưu, và tham quan một vài tháng cảnh... tất cả đã được lên chương trình chu đáo, từng ngày trong chuyến đi 7 ngày.  Được biết, qui tụ bên Mẹ Lavang hôm nay, cũng có hơn 30 anh chị em khuyết tật từ Saigòn, Huế; hầu hết những anh chị em này là người không công giáo... Thật cảm động, khi nhìn thấy các anh chị em khuyết tật đủ mọi lứa tuổi, dưới những hình hài không toàn vẹn, khập khểnh dìu nhau lên trước Linh đài Mẹ, nhưng trên khuôn mặt lại toả rạng ánh ngời của niềm vui, bình an sâu xa...

 

Trong lời mở đầu giờ diễn nguyện, ĐC chủ tế mời gọi : "Lúc nầy đây, tâm hồn chúng ta đang tìm về suối nguồn nguyên thuỷ và tươi mát, mà Đức Kitô đã đúc kết nơi tấm lòng Từ mẫu của Mẹ Maria... Bởi đó, bên Mẹ hôm nay, xin cọng đoàn cùng với chúng con nắm tay nhau, không phân biệt đẳng cấp, giàu hay nghèo, lành lạn hay tật nguyền... để cất lên niềm vui hội ngộ nầy."

 

 Giờ diễn nguyện do các em trong đoàn thực hiện đã đưa cộng đoàn về với những trang Phúc âm để chiêm ngắm dung mạo của Chúa Cứu Thế, Đấng không ngừng nghiêng xuống trên những mảnh đời bất hạnh: Chúa Giêsu chữa người phụ nữ bị loạn huyết, người mù, người bị bại liệt, người câm điếc...Với bài "Bàn tay Giêsu ": Bàn tay ấy ôm hôn cuộc đời, bàn tay ấy nâng cao phận người... xoá những tuyệt vọng đớn đau , dù con tim giá buốt, tha thiết yêu thương hào phóng cho hạnh phúc vào đời". Phần tĩnh nguyện kết thúc với thánh vũ Nữ Vương Hoà Bình đầy tính nghệ thuật, diễm lệ tuyệt vời ... Các em khuyết tật thì phụ diễn, rạng rỡ tay nâng cao băng-rôn: "Nữ Vương Hoà Bình", rất ư là dễ thương! Tất cả như bức tranh sinh động ca múa trước nhan Mẹ dấu yêu ... Chắc là Mẹ đang nhìn đoàn con mà mĩm cười sung sướng trong cái nắng chan hoà của khung trời Lavang!

 

Bên Mẹ hôm nay, lương hay giáo, qua những tâm sự và lời nguyện các em dâng lên Mẹ, chúng ta mới cảm nhận được đức tin của họ mãnh liệt biết bao!

 

Chúng ta hãy lắng nghe lời trần tình anh chị em thân thưa lên Mẹ Thiên Chúa: "Đoàn hành hương chúng con hôm nay, mỗi người một cảnh, người thì không cha, không mẹ, người thì cụt tay cụt chân, người khiếm thị, người câm điếc, người què quặt, người bại liệt, khó khăn biết bao chúng con mới có thể về được bên Mẹ. Chúng con dâng lên Mẹ tất cả những khó khăn vắt vả trong đời sống chúng con."

 

 Trong đau khổ, họ van nài tha thiết hơn: "Chúa ơi!, chúng con những người khuyết tật của Chúa, có người chưa một lần được nhìn thấy ánh sáng long lanh hay nghe một âm thanh diệu huyền nào, chưa một lần được cùng bạn bè chạy nhảy tự do, thoải mái, chưa một lần đưa tay hái những bông hoa tươi thắm để tặng mẹ cha, chưa được mở miệng một lần nào để nói lên hai tiếng cám ơn, cũng chưa hát được âm thanh nào để chúc tụng Chúa, đã không ít lần con bật khóc khi phải ngồi riết trên xe lăn, một mình, một mình đơn độc! Xin đừng bỏ con một mình, Lạy Chúa!"

           

 Gìờ cầu nguyện và thánh lễ được tổ chức rất sống động , đầy sáng tạo, khi Đức Cha nhắc đến nỗi đau của một nhóm khuyết tật nào đó, thì tiếp theo ca đòan cất lên tiếng hát, rất đặc trưng, diễn cảm, xoáy sâu tận lòng người : " Con không đuợc thấy mặt trời, con không được thấy mặt trăng. Con không nhìn thấy hàng cây cũng chưa được nhìn thấy những tầng mây... mà chỉ thấy một màn đêm u tối bao phủ quanh cuộc đời. Con không được đi đến trường học. Con không được cười nói tự nhiên nhưng trong lòng vẫn thấy bình yên. Con đã hiểu được những nỗi khổ đau khi con được sống trong cuộc đời này...(ĐK) Không phải lỗi tại con cũng không phải của cha hay của mẹ... con chẳng được may mắn như bao người, được sinh ra trong cuộc đời nhưng để làm rạng danh một Thiên Chúa trong nhân loại hôm nay".

           

 Nhiều người hiện diện cảm xúc trước những lời nguyện của các em dâng lên. Bạn Văn Học thổ lộ: " Tôi nghe tiếng sụt sùi của ai đó, tiếng nấc nghẹn nghào của một người phụ nữ ngồi cạnh tôi, chị lấy khăn lau mắt nhiều lần, hẳn là chị cảm động lắm! Vâng, làm sao mà không thể cảm đông được trước những con người sinh ra với một thân phận như định mệnh oan khiên bủa vây và che phủ cuộc đời một màu u ám".

 Tình gắn kết hiệp thông của hàng trăm con người kém may mắn tại linh đài Mẹ, và của đông đảo khách hành hương tạo nên một bầu khí linh thánh và sâu lắng... Trong phần chia sẻ Lời Chúa, ĐC nhắc  bảo cộng đoàn : " Nếu không có cái chết tức tưởi của Chúa Giêsu trên thập giá thì mọi lý giải đối với những "mảnh đời xấu số" này đều trở nên vô nghĩa, đều chỉ là âm thanh của não bạt phèng la mà thôi, vì tất cả đều là một bài toán hóc búa không tìm ra đáp số nếu chúng ta không tìm nơi Đức Giêsu Kitô. Và khi đó, thi ca và triết học... những học thuyết của chủ nghĩa xã hôị đầy ắp những khái niệm  siêu hình?... và cả tôn giáo và những kiến giải thâm huyền của nó. Tất cả chỉ là những lý luân phù phiếm và vô nghiã?" khi con người đối diện với bao cảnh đau thương trên cõi đời này mà đành khoanh tay đứng nhìn một cách bất lực."

 

 Như trọn tình yêu và chỉ có một thao thức duy nhất của Đức Cha Phêrô là dành để cho những anh chị em tật nguyền trước mặt Ngài, trong phần dâng lời nguyện cọng đồng. Ngài lại một lần nữa mời gọi Dân Chúa: "Chúng ta hãy dâng lên Chúa những lời cầu xin chân thành thiết tha để họ luôn vững tin vào lòng Chúa thương xót, để khi trở về lại môi trường sống hằng ngày, họ vững lòng cậy trông và không bao giờ thất vọng." ĐC chủ tế cũng mời gọi số anh chị em chưa dâng lời cầu nguyện có thể ghi vào giấy đưa lên, Ngài  đến từng người nhận những ý nguyện ấy đưa lên, đặt vào lư hương, đốt cháy, những lời nguyện thầm kín ấy quyện vào làn hương bay lên trời... Những ước mơ, những tâm tình, những khổ đau hoà tan trong lễ dâng hợp với của lễ Con Thiên Chúa, Đấng đã đến chia sẻ thân phận, đồng hoá và hiến thân cho con người, mang lấy cái đến chết và chết tủi nhục trên Thập  giá.

 

Bên Mẹ Lavang, tôi cảm nhận được tình yêu thương chan hoà của Mẹ Thiên Chúa đang tuôn đổ trên mỗi đưá con tật nguyền, trên mọi khách hành hương hiện diện, chắc không thiếu những đứa con xiêu lạc, nhiều năm xa tình Mẹ, xa ơn Cứu độ của Chúa, họ lau nước mắt, họ sốt sắng nguyện cầu, họ ngước mắt nhìn Mẹ Lavang đang bồng Giêsu thơ bé, tỏ tình Mẫu tử đối với con cái... Đạc biệt Mẹ cũng như đang bế ẳm những người con bé mọn, tật nguyền đây để tiếp tục yêu thương, che chở và phù hộ trên đường đời...

 

 Sau Thánh lễ đặc biệt nầy, tôi trở về trong thinh lặng, mặc dầu tôi phải chen chúc giữa dòng người hành hương mỗi lúc càng đông tại linh địa, lòng tràn dâng niềm biết ơn vì như đã có phúc tham dự vào mầu nhiệm đau khổ trong thân thể Mầu nhiệm của Mẹ Hội Thánh . Tôi nghe tim mình đang rung nhịp với các chi thể tật nguyền nầy...Nỗi đau bây giờ đã hoá thành tình được chia sẻ, được yêu thương, đồng cảm!  Mẹ Maria, Thánh Mẫu Lavang đang dâng họ lên Thiên Chúa, vì họ đang đóng góp phần mình cho hạnh phúc nhân loại, họ phải khiếm khuyết, để anh em mình được no đầy!

Ôi nhiệm mầu của cuộc sống  và niềm tin Kitô giáo! 

 

Xin MẸ MARIA NHÀ GIÁO DỤC ĐỨC TIN nâng đỡ đức tin còn yếu kém của chúng con.

 

Maria

 

Một khách hành hương

 

Mục lục

           

 

Tưởng nhớ vị Mục tử Việt Nam : Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận

Ngày 13.04.1967, Linh mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI trao sứ vụ Mục tử Giáo phận Nha Trang, thay thế Đức Cha Paul Raymond Piquet, MEP. Ngày 24.06.1967, nhân lễ Thánh Gioan Tẩy Giả, tại Nhà thờ Chính Tòa Huế, Cha đã được thụ phong Đức Cha trong Thánh lễ do Đức Cha Angelo Palmas, Khâm sứ Tòa Thánh tại Việt Nam, Lào và Campuchia, chủ tế. Đức Cha mới đã chọn khẩu hiệu ‘Vui Mừng và Hy Vọng’ (Gaudium et Spes), tên của Hiến chế Mục vụ của Công Đồng Vatican II.

Thi hành sứ nhiệm Giám mục, Đức Cha đã viết những Thư luân lưu có giá trị vượt thời gian và không gian cho mọi người công giáo Việt-Nam.

Ngày 19.03.1968, Lễ kính Thánh Giuse, Cha đã khẩn thiết kêu gọi qua Thư luân lưu đầu tiên ‘Tỉnh Thức và Cầu Nguyện’:

- Tỉnh thức để nhận định, để hành động với trí óc, với sức lực của chúng ta: ‘Là công dân của nước Trời, người công giáo không quên mình cũng là công dân của nước trần thế. Phải quan tâm về cộng đồng chánh trị. Thái độ thoái thác, ỷ lại, dửng dưng ích kỷ trong giai đoạn nầy là đắc tội với Chúa và Tổ Quốc. Bức thông cáo Hội Đồng Giám Mục trong dịp Tết dể nhắc anh chị em điều đó.’


- Cầu nguyện để có Ơn Chúa giúp ta tự cứu thoát.

Để tuyên bố năm 1969 là Năm Đức Tin của Giáo phận, Đức Cha đã cho phổ biến Thư luân lưu ‘Vững Mạnh Trong Đức Tin ? Tiến Lên Trong An Bình’, đó là đường lối xây dựng và củng cố, phát triển một nền Hòa bình chân chính, trường cửu theo quan niệm Công giáo. Đức Cha viết:

« … Tỉnh thức trong bổn phận công dân, vì lúc này hơn bao giờ cả, người Công giáo phải theo ánh sáng của Công Đồng Vatican II, phải bỏ quan niệm chia đôi đời sống xã hội mà Công Đồng cho là sự sai lầm tai hại nhất của thời đại ta.

Tôi đã kêu gọi anh em cầu nguyện, chính vì thiếu cầu nguyện mà Giáo sĩ, Tu sĩ, Giáo dân ngày nay gặp bao nhiêu khủng hoảng, bao nhiêu khó khăn. Thiếu cầu nguyện ta không biết chính bản thân ta nữa, ta sống ta phản ứng theo tinh thần thế tục…’

Đức Cha nhắc lại lời dạy của Đức Thánh Cha Phaolô VI: về Đức Tin là vấn đề tiên quyết, vấn đề tối hệ, và chúng ta các Giám mục, chúng ta phải nhìn vấn đề này với tất cả mối quan hệ khẩn cấp của nó. »

Đức Cha nhận định tiếp:

« … Chưa bao giờ Đức Tin gặp phải nguy hiểm như ngày nay. Hiểm nguy bên ngoài do vật chất, vô thần. Hiểm nguy bên trong do sự bất tuân phục Hội Thánh gây khủng hoảng trong nội bộ Dân Chúa.

Để anh chị em vững mạnh trong Đức Tin, đề phòng hai hiểm họa trên, tôi trình bày cho anh chị em hai điểm sau đây: Tin tưởng ở phẩm vị con người và Tin tưởng ở Hội Thánh. »

Trong phần ‘Tiến Lên Trong An Bình’, Đức Cha xác định:

« Người Công giáo yêu chuộng Hòa bình, nhưng người Công giáo không yêu chuộng Hòa Bình cách thơ ngây, quá lạc quan. Người Công giáo rất thận trọng. Hòa bình theo quan niệm Công giáo:

- Hòa bình không có nghĩa là không chiến tranh.

- Hòa bình không phải là thế quân bình giữa hai lực lượng đối lập.

- Hòa bình chân chính không phải là Hòa bình chiến lược.

- Hòa bình là con đường duy nhất đi đến tiến bộ nhân loại.

- Hòa bình phải được xây dựng trên nền tảng Chân lý, Công bằng, Tự do và Bác ái.

- Hòa bình phải được xây dựng trên tinh thần mới: Kích động đời sống cộng đồng các dân tộc.

- Hòa bình phải được xây dựng trên não trạng mới: Tôn trọng mối bang giao giữa các quốc gia, quí trọng tình huynh đệ giữa các dân tộc, cộng tác giữa các sắc tộc vì tiến bộ chung; nhìn nhận và tin tưởng các tổ chức Hòa bình quốc tế.

- Hòa bình phải được xây dựng trên sự tôn trọng và nhìn nhận những quyền lợi của con người và nền độc lập của mỗi quốc gia. Ừ

Phải chăng vì những giáo huấn vững chắc trong Đức Tin này, nên nhà nước tiếp thu Miền Nam Nước Việt ngày 30.04.1975 e ngại sự dũng cảm và lòng yêu nước của Đức Cha?

Do đó, trong phiên họp ngày 27.06.1975, tại Dinh Độc lập, kéo dài từ 15 đến 19 giờ, Đức Cha đã đối diện với ba Cán bộ cao cấp của Ủy Ban Quân Quản TP Hồ Chí Minh cùng các người Công giáo yêu nước. Đối với nhà cầm quyền Cộng sản, sự thuyên chuyển độ một tuần trước khi họ tiếp thu Sàigòn ngày 30.04.1975, là bằng cớ âm mưu giữa Vatican và các Đế quốc. Để trả lời sự cáo buộc đó, Đức Cha chỉ xác nhận sự vâng lời của Đức Cha đối với Bài Sai của Đức Thánh Cha.

Cách đây 33 năm, vào ngày 15.08.1975, Ủy Ban Quân Quản TP Hồ Chí Minh bắt giam Đức Cha. Đức Cha đã bị giam giữ nhiều nơi khác nhau, trong đó, có 9 năm bị biệt giam, cho đến ngày 21.11.1988, Đức Cha được rời nhà tù nhưng và bị quản chế tại Hà Nội. Trong thời gian 13 năm tù không bản án, bắt chước Thánh Phaolô, Đức Cha đã viết thư cho các giáo đoàn về kinh nghiệm sống Đức Tin, Mục vụ, Tu đức.

Thuật lại việc ra khỏi nhà tù của mình, Đức Cha đã viết trong ‘Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá’ như sau:

 

« Một hôm trời mưa, tôi đang thổi cơm trưa, tôi nghe điện thoại của chiến sĩ trực reo. ‘Biết đâu có tin gì cho tôi? Đúng rồi, bữa nay là lễ Đức Mẹ dâng mình vào đền thánh, 21 tháng 11 mà!’

Năm phút sau, anh chiến sĩ trực đến:

- Ông Thuận ơi, ông ăn chưa?

- Chưa ạ, tôi đang thổi cơm đây.

- Ăn xong, ăn mặc sạch sẽ, đi gặp lãnh đạo.

- Lãnh đạo là vị nào vậy?

- Tôi không biết, tôi chỉ được báo thế. Chúc ông may mắn.

Tôi đã được đưa đến nhà khách chính phủ, bên hồ Ha-le, và tôi đã gặp ông Mai Chí Thọ, Bộ trưởng Nội

vụ (Bộ công an). Sau lời chào hỏi xã giao, ông Bộ trưởng đã hỏi:

- Ông có nguyện vọng gì không?

- Thưa có, tôi muốn được tự do.

- Bao giờ?

- Hôm nay.

Ông Bộ trưởng có vẻ ngạc nhiên, thường tình phải có thời gian cho cơ quan nhà nước xếp đặt... Nhưng hôm nay là lễ Đức Mẹ nên tôi tin chắc và xin như vậy. Để đánh tan bầu khí lúng túng và ngạc nhiên ấy, tôi nói:

- Thưa ông Bộ trưởng, tôi ở tù lâu lắm, suốt ba đời Giáo hoàng: Phaolô VI, Gioan Phaolô I, và Gioan Phaolô II. Về phía xã hội chủ nghĩa thì tôi đã ở tù bốn đời Tổng Bí thư Liên Xô: Brezhnev, Andropov, Chernenko, và Gorbachev.ng Bộ trưởng bật cười và nói:

- Đúng! đúng!

Ông quay qua bảo người bí thư:

- Hãy liệu đáp ứng nguyện vọng của ông.

Trong lòng tôi vui mừng tạ ơn Đức Mẹ Maria, vì không những được tự do mà còn được cả dấu chỉ. Chắc Mẹ tha tội tôi cả gan thách đố Mẹ. »

Năm 1989, Đức Cha được phép qua Roma chữa bệnh và được mời làm thành viên Ủy Ban Quốc Tế về Di Trú và Di Dân. Nhà Nước Việt-Nam đã không cho Đức Cha trở lại Quê Hương, sau khi các chế độ cộng sản tại các quốc gia Đông Âu lần lượt tan rả.


Ngày 09.04.1994, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II bổ nhiệm Đức Cha làm Phó Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng Công Lý và Hòa Bình. Tiếp đến, ngày 24.06.1998, Đức Cha được bổ nhiệm làm Chủ tịch Hội đồng Giáo Hoàng về Công lý và Hòa bình, thay thế Đức Hồng Y Roger Etchegaray.

Trong Nhà Nguyện Mẹ Đấng Cứu Thế, từ chiều ngày 12 đến 18.03.2000, Đức Cha đã giảng tĩnh tâm cho Đức Giáo Hoàng và Giáo Triều Rôma và đã được Đức Giáo Hoàng cám ơn như sau: « …Tôi đã ước mong rằng trong năm Đại Toàn Xá nầy, cần có một chỗ đặc biệt được dành cho chứng tá của những người đã chịu ‘đau khổ vì đức tin, đã trả bằng máu sự gắn bó của họ đối với Chúa Kitô và Giáo Hội, hoặc can đảm chịu đựng những năm thật dài cảnh tù ngục và thiếu thốn đủ loại’ (Tông sắc ‘Mầu nhiệm nhập thể’, số 13). Hiền Đệ đã chia sẻ chứng tá đó một cách nồng nhiệt và đầy xúc động, chứng tỏ rằng, trong toàn thể cuộc sống con người, tình thương xót của Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi lý luận của loài người, tại những phần đất khác nhau trên thế giới, đang tiếp tục phải trả giá thật đắt cho chính niềm tin của mình nơi Chúa Kitô… ». Những bài giảng tĩnh tâm nầy đã được in thành sách ‘Chứng Nhân Hy Vọng’, phát hành bằng nhiều thứ tiếng.

Tại Vatican City, ngày 01.05.2000, Lễ kính Thánh Giuse Thợ, Đức Cha đã ký Lời Tựa ban hành ‘Sưu Tập những Bản Văn của Huấn Quyền về Học Thuyết Xã Hội Công Giáo’. Trong bản Sưu Tập nầy, Đức Cha đã thu nhặt từ các văn kiện đang có trong kho tàng Giáo huấn về xã hội và viết thành 11 chương về các đề tài: Bản chất Học Thuyết Xã hội Công giáo, Con Người, Gia Đình, Trật tự Xã hội, Kinh tế, Lao Động và Tiền Lương, Sự Nghèo đói và Đức Bác ái, Môi trường, Cộng Đồng Quốc tế và Chương Kết.

Ngày 21.01.2001, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II công bố tuyển chọn Cha vào Hồng Y Đoàn.

Đức Hồng Y tiếp tục viết ‘Tóm Lược Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo’.

Nhưng… Lúc 18 giờ, ngày 16.09.2002, Đức Hồng Y đã được Thiên Chúa gọi ra khỏi thế gian. Ngay khi hay tin Đức Hồng Y qua đời, Đức Cha Giampaolo Crepaldi, Tổng Thư Ký Hội đồng Giáo Hoàng Công Lý và Hòa Bình, đã tuyên bố với báo chí: "Một vị Thánh vừa qua đời".

Chiều ngày 20.09.2002, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã từ Castel Gandolfo trở về Vatican, để chủ sự Thánh Lễ An táng Đức Cố Hồng Y. Vị Hồng Y quá cố đã được Giáo Triều và 172 phái đoàn ngọai giao cạnh Tòa Thánh tiển biệt trong một Thánh Lễ trọng thể.

Nhân dịp nầy, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã ngỏ lời:

«Trong 13 năm ngục tù, Ngài (Đức Hồng Y Thuận) đã hiểu nền tảng của đời sống Kitô hữu là ‘chọn một mình Chúa mà thôi’ như các vị tữ đạo Việt-Nam đã làm trong những thế kỹ trước. Chúng ta được mời gọi rao giảng cho tất cả mọi người ‘Tin Mừng Hy Vọng’, và Đức Hồng Y giải thích rằng: chúng ta chỉ có thể chu toàn Ơn Gọi ấy với sự hy sinh quyết liệt, dù phải chịu những thử thách cam go nhất. Đức Hồng Y nói: ‘Hãy nêu cao giá trị của sự đau khổ như một trong muôn vàn khuôn mặt của Chúa Giêsu chịu đóng đanh và hiệp nhất đau khổ của mình với khổ đau của Chúa, có nghĩa là đi vào chính năng động khổ đau, yêu thương có nghĩa là tham dự vào ánh sáng, sức mạnh, an bình của Chúa; có nghĩa là tìm lại được nơi chính mình một sự hiện diện mới mẻ, sung mãn, của Thiên Chúa.

Đây không phải là sự anh hùng, nhưng là sự trung thành chín chắn, hướng cái nhìn về Chúa Giêsu là mẫu gương của mọi chứng nhân và mọi vị tử đạo. Một gia sản cần được đón nhận mọi ngày trong một cuộc sống đầy yêu thương và dịu hiền.

Con người Đức Hồng Y là một tấm gương sáng ngời về đời sống Kitô, phù hợp với Đức Tin, cho đến độ tử đạo. Đức Hồng Y nói về mình với sự đơn sơ thật đặc biệt: "Trong vực thẳm những đau khổ của tôi,. .. tôi không bao giờ ngừng yêu mến tất cả mọi người, tôi không hề loại trừ một ai khỏi tâm hồn tôi". Bí quyết của Đức Hồng Y là lòng tín thác kiên cường nơi Thiên Chúa, được nuôi dưỡng bằng kinh nghiệm và đau khổ được Đức Hồng Y chấp nhận với lòng yêu mến. Trong tù, mỗi ngày Đức Hồng Y đã cử hành Thánh Lễ với ba giọt rượu và một giọt nước trên lòng bàn tay. Đó là bàn thờ của Người, là Nhà thờ chính tòa của Người, Mình Thánh Chúa Kitô là ‘thuốc’ của Người, Đức Hồng Y cảm động kể lại: ‘Mỗi lần như thế tôi được dịp giang tay ra và chịu đóng đinh bản thân trên Thánh giá với Chúa Giêsu, được sống chén đắng với Chúa. Mỗi ngày khi đọc lời truyền phép, tôi hết lòng củng cố một giao ước mới, giao ước đời đời giữa tôi và Chúa Giêsu, nhờ máu của Chúa hòa lẫn với máu của tôi’.

Trung thành cho tới chết, Ngài giữ được sự bình thản và niềm vui cả trong lúc nằm lâu và phải đau đớn trong bệnh viện và, trong những ngày cuối, khi không còn nói được nữa, Ngài nhìn chăm chú vào ảnh Thánh giá, Ngài cầu nguyện trong thinh lặng, khi hy lễ tối cao của Ngài tới tuyệt đỉnh, hoàn thành cách vinh quang một cuộc đời đánh dấu bằng sự đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô trên Thánh giá.

Trong chúc thư tinh thần, sau khi xin lỗi, Đức Hồng Y cam đoan tiếp tục yêu mến tất cả mọi người. Đức Hồng Y quả quyết: ‘Tôi thanh thản ra đi, và tôi không giữ lòng oán hận nào đối với ai. Tôi dâng tất cả những đau khổ tôi đã trải qua cho Đức Mẹ Vô Nhiễm và Thánh Giuse’. Chúc thư tinh thần kết thúc với ba lời nhắn nhủ: ‘Hãy yêu mến Đức Mẹ, hãy tín thác nơi Thánh Giuse, hãy trung thành với Giáo hội, hãy đoàn kết và yêu thương tất cả mọi người’. Đây chính là tổng hợp trọn cuộc sống của Đức Hồng Y. »

và Đức Thánh Cha đã kết luận:

« Giờ đây, ước gì cùng với Thánh Giuse và Mẹ Maria, Đức Hồng Y được đón nhận vào trong niềm vui của Thiên Đàng, chiêm ngắm Tôn Nhan rạng ngời của Chúa Kitô, Đấng trên trần thế đã nhiệt thành tìm kiếm như niềm Hy vọng duy nhất của mình. Amen! »

Năm năm sau ngày Người về Nhà Cha, Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình đã tổ chức Thánh Lễ đồng tế do Đức Hồng Y Renato Raffael Martino, đương kim Chủ tịch và là người kế vị Đức Hồng Y Phanxicô Xavie, đã chủ sự lúc 11 giờ ngày chúa nhật 16.09.2007 tại Nhà thờ Đức Mẹ Cầu Thang (Santa Maria della Scala, nhà thờ dành cho Đức Hồng Y Thuận tại Rôma), để tưởng nhớ một chứng nhân hòa bình và hy vọng, đã chịu giam cầm 13 năm tại quê hương Người.

Tham gia sáng kiến mở án phong Chân Phước cho Đức Hồng Y, ngoài Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình còn có Quỹ Thánh Mathêu tưởng niệm Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, Hội Quan sát Quốc tế Văn Thuận về Đạo lý xã hội Công Giáo, thân nhân và bạn hữu của Đức Cố Hồng Y, cũng như cộng đoàn Công giáo Việt Nam ở Roma.

Đức Hồng Y Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình đã mời bà Luật sư Silvia Monica Correale, người Ý, làm Thỉnh nguyện viên Án phong Chân phước cho Đức Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận.

Nhân dịp này, một buổi triều yết đã diễn ra ngày thứ hai 17.09.2007 tại Dinh thự Giáo Hoàng ở Castel Gandolfo. Trong diễn văn, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã nói:

«Tôi vui mừng, nhân cơ hội này để, một lần nữa, nêu lên chứng tá Đức Tin sáng ngời mà vị Mục Tử anh dũng này đã để lại cho chúng ta. Giám Mục Phanxicô Xavie đã được vị tiền nhiệm Gioan Phaolô 2 đáng kính của tôi bổ nhiệm làm Chủ Tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa Bình. Nguời đã hoàn thành ‘Toát Yếu Giáo Huấn xã hội của Hội Thánh’. Làm sao quên được những nét nổi bật về sự đơn sơ và thân thiện ngay của Người?

Chúng ta tưởng nhớ Ngài với sự thán phục lớn lao, trong khi chúng ta nghĩ lại trong tâm trí chúng ta những dự phóng lớn lao và tràn đầy Hy vọng, đã làm cho Ngài luôn sống động và Ngài tìm cách thế để dễ dàng loan truyền ra và thuyết phục nhiều người; sự dấn thân đầy nhiệt huyết của Ngài để quảng bá học thuyết xã hội của Hội Thánh giữa những người nghèo trên thế giới, và lòng hăng say truyền bá Phúc âm trong lục địa Á Châu của Ngài, khả năng Ngài điều hợp các hoạt động bác ái và thăng tiến con người mà Ngài làm tăng thêm và nâng đỡ tại những nơi nặng nề nhất trên thế giới.

Đức Hồng Y Văn Thuận là một con người của Hy Vọng, Ngài sống bằng Hy Vọng, Ngài phổ biến Hy Vọng cho tất cả những ai Ngài gặp. Chính nhờ năng lực thiêng liêng này mà Ngài đã chống lại được tất cả những khó khăn thể lý và luân lý. Hy Vọng đã nâng đỡ Ngài khi là Giám mục bị cô lập trong vòng 13 năm trời, xa cách khỏi cộng đoàn Giáo phận của Ngài;

Hy Vọng giúp đỡ Ngài biết nhìn ra qua cái vô lý của các biến cố xẩy đến cho Ngài - không bao giờ được xét xử trong những năm tù ngục - một kế đồ của sự quan phòng của Thiên Chúa.

Tin về bệnh ung thư Ngài, căn bệnh đưa Ngài tới cái chết, tin này đã đến với Ngài cùng lúc với việc Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đặt Ngài làm Hồng Y, vị Giáo Hoàng này bày tỏ với Đức Hồng Y một sự trân trọng và tình cảm thật lớn lao.

Đức Hồng Y Văn Thuận thường nhắc lại rằng Kitô hữu là một con người của từng giờ, của lúc này, của giây phút hiện tại, cần được đón nhận và sống với tình yêu Chúa Kitô. Trong khả năng sống giây phút hiên tại này chiếu tỏa ra cái sâu thẳm của việc từ bỏ trong bàn tay Thiên Chúa và tính đơn sơ như trong Phúc âm dạy mà chúng ta tất cả đều kính phục Ngài. Và làm sao có thể xấy ra điều này - người ta tự hỏi - một người đặt tin tưởng vào Chúa Cha trên trời mà lại từ chối để mình được ôm ấp vào cánh tay của Chúa Cha sao? Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận là một người hy vọng, đã sống hy vọng và phổ biến hy vọng nơi tất cả những người Người gặp. Chính nhờ năng lực tinh thần ấy, Đức Hồng Y đã chống lại tất cả những khó khăn về thể lý và tinh thần. Niềm hy vọng ấy đã nâng đỡ Người như một Giám Mục bị cô lập trong 13 năm trời xa cách cộng đoàn giáo phận của Người; niềm hy vọng đã giúp Người nhận thấy, trong sự vô lý của các biến cố xảy ra cho Người, một kế hoạch của Chúa Quan Phòng - Đức Hồng Y không hề được xét xử trong thời gian lâu dài bị giam cầm ».

Và Đức Thánh Cha kết luận rằng:

« Anh chị em thân mến, tôi vui mừng sâu xa đón nhận tin về việc khởi sự án phong chân phước cho vị Ngôn Sứ đặc biệt này của niềm hy vọng Kitô, và trong khi chúng ta phó thác cho Chúa linh hồn ưu tuyển của Người, chúng ta hãy cầu nguyện để tấm gương của Đức Cố Hồng Y là giáo huấn hữu hiệu cho chúng ta. Với lời cầu chúc đó, tôi thành tâm ban phép lành cho tất cả anh chị em ».

Đức Hồng Y không những là một tấm gương sáng ngời về đời sống Kitô hữu mà còn là một công dân yêu nồng nàn Tổ Quốc Việt-Nam. Người đã căn dặn chúng ta:

Là người Công giáo Việt Nam

Con phải yêu Tổ quốc gấp bội.

Chúa dạy con, Hội thánh bảo con,

Cha mong giòng máu ái quốc,

Sôi trào trong huyết quản con…

Bên cạnh Thiên Chúa, xin Đức Hồng Y cầu bầu Ngài cho giáo sĩ cùng giáo dân Thái Hà những Ơn Thánh cần thiết và cho những người cầm quyền cộng sản biết tôn trọng Sự Thật và Công Lý.

Viết ngày 16.09.2008, sáu năm sau ngày Đức Hồng Y an nghỉ trong Đức Kitô.

Hà-Minh Thảo

Mục lục

 

 

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO

 

Sống đạo

 

Cách đây ít năm, trong lần thăm viếng Việt nam, Đức Hồng Y Sepe, Bộ Trưởng Truyền bá Tin mừng đã có những nhận xét rất tích cực về Giáo hội Việt Nam đại ý rằng : “ Đây là một Giáo hội nhiều năng động và đầy sức sống. Những năng động và sức sống đã không còn dễ dàng gặp được nơi các giáo hội, ngay tại Au Châu ngày nay…”.

 

Quả thật, nhận xét trên đã được nhiều người đồng tình khi biết rằng, những ngày Chúa nhật, trong các nhà thờ luôn đầy ắp người đi dự lễ. Tại các thành phố lớn, đặc biệt là tại Thành phố Hồ chí Minh, các nhà thờ đều như quá tải vì đông người, dù mỗi ngày Chúa nhật đều có 5 hoặc 6 thánh lễ.

 

Tuy nhiên, nhiều người khác lại thận trọng cho rằng, không nên quá lạc quan để có thể dẫn đến lơ là xem nhẹ, vì cung cách sống đạo của mỗi người luôn cần và phải được chăm sóc trong tỉnh thức qua từng ngày. Chính cung cách sống đạo bây giờ, sẽ quyết định vận mệnh cuộc sống ngay ở đời này và luôn cả đời sau của mỗi chúng ta.

 

 Từ của lễ trên bàn thờ đến thánh lễ trong cuộc đời:

 

 Điều cốt yếu để vào được Nước trời không chỉ là tin vào Đức Giêsu, nhưng còn là thể hiện niềm tin ấy bằng việc sống theo lời Ngài : “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương anh em ” (Ga 13,34). Nghĩa là chúng ta phải chứng tỏ được tình yêu Chúa và tha nhân. Mà tình yêu Chúa lại được thể hiện qua tình yêu đối với tha nhân, điều này được Chúa đã nói thật rõ ràng : “Nếu ai nói : “Tôi yêu mến Thiên Chúa”mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy , thì làm sao họ có thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không thấy ”(1Ga 4,20).

 

Yêu thương chính là cốt tuỷ của Kitô giáo. Yêu thương là giới răn cao trọng nhất vì yêu thương là chu toàn lề luật. Yêu thương cũng chính là sự thánh thiện tối hảo mà Thiên Chúa muốn chúng ta phải hướng đến.

 

Tuy nhiên, nhiều người đã có những quan niệm rất lệch lạc về đạo đức, về sự thánh thiện. Họ nghĩ đạo đức thánh thiện là siêng năng làm các “việc đạo đức ”. Đối với những người ấy, việc đạo đức chủ yếu là tham dự thánh lễ, xưng tội, rước lễ, đọc kinh ( chung hoặc riêng) lần chuỗi, bỏ tiền vào nhà thờ v.v… Và khi siêng năng làm các việc ấy, họ cảm thấy an tâm về phần rỗi của mình, vì nghĩ rằng mình đã là người đạo đức. Mặc dù họ thường cư xử thiếu tình nghĩa với những người xung quanh. Mặc dù  những việc đạo đức ấy chẳng ảnh hưởng bao nhiêu đến cách sống và những ứng xử của họ.

 

Quan niệm như thế quả khác xa với quan niệm của Tin mừng. Theo Tin mừng, người đạo đức là người luôn ý thức và cố gắng từ bỏ mình, biết coi nhẹ CÁI TÔI, vượt thắng bản năng ích kỷ để yêu Chúa và thương tha nhân một cách cụ thể, thiết thực. Người đạo đức thật sự là người sống công bình và bác ái với mọi người, những điều ấy được thể hiện qua đời sống hàng ngày.  Người biết từ bỏ mình cũng chính là người luôn biết thao thức trong việc tu tâm sửa tính để hoàn thiện và thăng tiến bản thân.

 

Các việc đạo đức như tham dự thánh lễ, lãnh nhận các bí tích …luôn vô cùng quan trọng và hết sức cần thiết, vì giúp ta lãnh nhận ơn Chúa và sức mạnh thần linh để giúp ta thật sự yêu Chúa và tha nhân bằng những việc làm cụ thể. Nhưng nếu ta không nhắm thực hiện sự yêu thương ấy như  điều cốt yếu và là mục đích cuối cùng của đạo đức, mà chỉ dừng lại và coi những việc đạo đức ấy là chính yếu, thì những việc đạo đức này sẽ trở nên phản tác dụng. Nếu chỉ dừng ở đây, các việc đạo đức kia có thể biến thành cái cớ để ta tự mãn và lên mặt với mọi người. Điều này thật nguy hiểm.

 

Sống đạo với những việc đạo đức như vậy, tất yếu sẽ chỉ còn là những hình thức, đóng khung sơ cứng với đầy tù túng và nhạt nhẽo buồn tẻ như “võng đưa ” mà có lần cụ  Giám mục Bùi Tuần đã viết :

 

một đời sống đạo võng đưa - sáng lễ chiều kinh - trong những bờ bao xứ đạo

 

Nói cách khác, dâng của lễ trên bàn thờ phải là khởi đầu của thánh lễ trong cuộc đời, vì cuộc sống chính là một thánh lễ lớn lao mà Chúa đã cho chúng ta vinh dự được phép tham dự hôm nay.  Nếu chỉ dừng khi mới khởi đầu, các việc đạo đức kia sẽ biến thành những hình thức của sự trình diễn  mang nhiều tệ hại, vì sẽ dẫn đến nguy cơ của nhiều thứ giả hình, những điều mà Chúa vẫn luôn nguyền rủa rất nạng lời.

 

Vào thời Chúa Giêsu, đạo Do Thái chỉ còn là cái vỏ bên ngoài, bên trong thì trống rỗng. Các tín hữu chỉ còn giữ đạo một cách hình thức. Họ đặt nặng việc tham dự những lễ nghi tôn giáo, những vẻ thấy được bên ngoài. Vì thế, lễ nghi thì ngày càng rườm rà, càng gia tăng vẻ long trọng, luật lệ càng ngày càng nhiều, càng phức tạp và gây lắm phiền hà, các cơ sở vật chất cũng gia tăng. Còn tinh thần bên trong tức kính sợ Thiên Chúa và yêu thương đồng loại ( Mt 22,35-40) là 2 điều chính yếu của lề luật thì bị coi nhẹ. Và công lý , tình thương và sự chân thật ( Mt 23,23) là yếu tố cốt tuỷ của tôn giáo thì bị xem thường, Đức Giêsu đã đau buồn cảnh báo : Dân này kính Ta ngoài môi miệng, còn lòng nó thì xa Ta. Và, ngay trong cả những việc mà ta thường nghĩ là đạo đức,  cũng rất nhiều khi, vẫn không thiếu những điều đáng lo lắng sợ hãi. Đức GM Bùi Tuần đã chỉ ra, rất rõ :

 

Đến nhà thờ mà không gặp Chúa, đọc kinh mà không phải là cầu nguyện, rước sách um xùm nhưng thiếu tinh thần Tin mừng .”

 

Ô i ! kinh khủng quá.

 

Tại sao đến nhà thờ mà không gặp Chúa ? Tại sao đọc kinh mà không phải là cầu nguyện ? Tại sao rước sách trọng thể và hoành tráng như thế mà lại thiếu tinh thần Tin mừng ư  ?! Con người chỉ nhìn thấy những gì bên ngoài, nhưng Chúa luôn nhìn rõ cả những thâm sâu trong cung lòng mỗi người. Đức GM Bùi Tuần không thể viết sai trong các bài thường huấn của Ngài, như vậy, chỉ cá nhân tôi rất cần phải xem lại cung cách sống đạo của chính  mình mà thôi.

 

Lịch sử của Giáo hội là lịch sử của nhiều cộng đoàn và cá nhân cộng lại, chúng luôn mang nhiều bài học bổ ích và những thông điệp đầy ý nghĩa với mỗi người giáo dân chúng ta .

 

 Thách đố lớn lao :

 

 Giáo hội ở đâu và lúc nào cũng nỗ lực truyền giáo, giáo hội đã bỏ ra biết bao nhân lực và tài lực cho công việc này. Tuy vậy hiện nay, dân số Kitô giáo trên thế giới có tăng theo đà tăng của dân số thế giới, nhưng tỷ lệ người Kitô hữu đang càng ngày càng giảm, nhất là tại Au Châu. Tại Au Châu, nơi trước đây số Kitô hữu đã lên tới hơn 70%, thì nay tỷ lệ người Kitô hữu thực hành đạo thật sư chỉ còn chưa tới 5%. Đặc biệt, riêng tại Châu Á, theo thống kê của Toà Thánh, tỷ lệ người Kitô hữu chưa tới 3%. Số Kitô hữu gia tăng chủ yếu là do trẻ con vừa lọt lòng mẹ thì đã thành Kitô hữu do được rửa tội sớm, và số người lớn trở lại Kitô giáo chủ yếu do việc kết hôn với người Kitô hữu đòi buộc. Còn số người do giác ngộ và tự nguyện theo thì rất ít.

Thực trạng này quả không có gì đáng để tự hào.

 

Những điều ấy buộc ta phải tự hỏi, ta đã và sẽ sống đạo thế nào để góp phần của mình vào việc truyền giáo, đang khi truyền giáo là một căn tính của mỗi người Kitô hữu ?

 

Một câu hỏi không khó trả lời, vì từ lâu các đấng bậc trách nhiệm đã chỉ rõ, chính lối sống đạo hình thức, nghĩa là chỉ biết đến nhà thờ với các bí tích mà bỏ quên điều cốt tuỷ là tinh thần yêu thương và bao nhiêu giá trị khác của Đức Kitô, chính những kiểu sống đạo như thế đang là những phản chứng và sẽ vô hiệu hoá mọi nỗ lực truyền giáo.

 

Ta hãy nghe Mahatma Gandhi, người đang được toàn thế giới mến yêu kính nể , người đã được dân An tôn sùng như một thánh nhân, nói về cách sống đạo của các Kitô hữu trong xã hội của ông. Ong đã lên tiếng, như một thách thức người Kitô hữu, cụ thể là những người Anh đang đô hộ nước ông :

 

 “Nếu những người Kitô hữu ở An độ thực sự sống đúng tinh thần của Đức Kitô, thì họ chẳng cần mất công rao giảng, toàn dân An độ sẽ trở thành Kitô hữu hết ”.

 

Lịch sử đã thuật lại rõ, tinh thần Tin mừng đã ảnh hưởng rất lớn lao trên cuộc đời ông, nhất là chi phối cách mạnh mẽ lên các quyết định mang tính sống còn của đất nước, đó là tinh thần bất bạo động. Cuốn Thánh kinh đã trở thành cuốn sách gối đầu giường của ông, nhưng dù vậy, ông vẫn không thể nào trở thành người Kitô hữu được. Tại sao lại có những mâu thuẫn khó hiểu như vậy. Hãy nghe ông giải thích thật ngắn gọn, nhưng rất đầy đủ ý nghĩa :

 

 Đọc Thánh kinh,

 tôi rất mến Đức Kitô.

Nhưng không ưa người Công giáo.

vì họ không giống Chúa Kitô chút nào.

 

 Trước mắt ông, những người Kitô hữu, cụ thể là người Anh đang đô hộ dân tộc ông, cũng tham lam và tàn bạo như bao kẻ xâm lăng khác. Ong rất say mê Đức Kitô, nhưng không thể trở thành Kitô hữu, vì những người đem Kitô giáo đến với dân tộc ông, lại chính là những người đang nô lệ hoá và đàn áp dân tộc ông một cách độc ác dã man. Ong không thể tin rằng dân tộc hiền lành của ông cứ phải gia nhập cái đạo của những kẻ đang quàng ách nô lệ lên dân tộc ông thì mới được cứu rỗi.

 

Còn biết bao người khác giống như Gandhi, cũng rất mến mộ và say mê tinh thần của Đức Giêsu, nhưng cứ nhìn thấy cách sống của những người Kitô hữu xung quanh, là họ cảm thấy chẳng cần phải vào Kitô giáo làm gì. Vì nói chung, những Kitô hữu ấy cũng không khá hơn họ chút nào : cũng ích kỷ, cũng ăn gian nói dối, cũng kèn cựa đố kỵ và sống với mọi người cũng chẳng có tình nghĩa bao nhiêu.

 

Những Kitô hữu như thế quả là những Kitô hữu đáng buồn, vì thực ra họ chỉ là những Kitô hữu giả, dù họ rất siêng năng sáng lễ chiều kinh nhưng vẫn không thể là công dân Nước trời. Chúa đã nói rất rõ về họ :

 

 “Không phải những kẻ luôn nói Lạy Chúa, Lạy Chúa là được vào Nước trời cả đâu, nhưng chỉ là những người thực hiện ý Cha trên trời ”.

 

Liệu những kẻ ấy có thể đang là Bạn hoặc lại là chính tôi ?

 

Nguyện xin điều vô phúc và kinh khủng ấy không bao giờ xảy ra.

 

Xuân Thái

Mục lục

 

 

Maria, người mẹ yên ủi kẻ âu lo!

Cha mẹ nào cũng , nhất là người mẹ, đều trông đợi và cảm thấy niềm vui mừng hạnh phúc thiên đàng, khi ai đó nói lời khen con em thơ bé mình, cùng nói lời chúc phúc may mắn cho cả con lẫn mẹ!

Nơi Đức Mẹ Maria chắc cũng thế. Nhưng sự việc lại xảy ra khác. Ngày đức mẹ bồng ẵm con mình, trẻ Giêsu vào đền thờ dâng cho Thiên Chúa, Ong Simeon hạnh phúc bồng em bé Giêsu trên tay ca ngợi cám ơn Thiên Chúa. Liền ngay sau đó Ông nói những lời cay đắng về đời trẻ Giêsu và đời đức mẹ Maria: Một lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua lòng bà!

Thử tượng ngày bồng ẵm con thơ bé mình đi đến nhà thờ, mà có ai người quen biết nói những lời chát chúa cay đắng về đời sống sau này của người mẹ, của con mình, thì cha mẹ em bé sẽ có cảm nhận buồn sầu như thế nào! Tâm hồn cha mẹ lúc đó sẽ lo lắng băn khoăn ra sao!

Trong đời sống xưa nay, sự cay đắng chát chúa lại là một thực tế xảy ra cho nhiều người mẹ, cho nhiều gia đình! Khi con còn nhỏ thơ bé, niềm vui mừng hạnh phúc có đó, nhưng nỗi lo âu về bệnh tật, về sức khoẻ cho con cái luôn là theo sát cạnh ngày đêm trong đời sống cha mẹ.

Khi con cái dần khôn lớn, mối băn khoăn lo âu càng nhiều thêm không chỉ nơi việc nuôi nấng ăn uống, quần áo, việc chăm lo sức khoẻ, nhưng nhất là việc giáo dục, việc học hành, nghề nghiệp, gia đình ra đời sinh sống của con cái.

Cha mẹ nào cũng có nỗi lo sợ khi con đau yếu bệnh tật,

Cha mẹ nào cũng lo âu, khi thấy con lớn đòi sống riêng tự lập,

Cha mẹ nào cũng hằng quan tâm tới việc đào tạo giáo dục con mình sống sao nên người tốt, có đức hạnh.

 

Cha mẹ nào cũng cố gắng cách giúp con mình việc học hành cho thành tài,

Cha mẹ nào cũng hoài nghi phân vân, khi thấy có điều gì bất ổn không tốt xảy đến cho con,

Cha mẹ nào cũng cảm thấy xao xuyến bất an, khi con đi xa vắng nhà,

Cha mẹ nào cũng đau khổ, khi thấy con mình gặp hoàn cảnh khó khăn đau khổ,

Cha mẹ nào cũng đau lòng, khi phải từ gĩa con ra đi,

Cha mẹ nào cũng ăn ngủ không yên, khi biết con mình gặp trắc trở về tình duyên, về bước đường sinh sống.

Và còn nhiều trường hợp khác nữa.

Một lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua lòng bà!

Khi nghe những lời cay đắng chát chúa của Ông Simeon, đức mẹ Maria đã đâu có thể tưởng tượng nổi ra cảnh con mình sau này bị kết án đóng đinh vào thập gía. Nhưng những mũi gươm nhỏ bé trong đời sống luôn theo sát cuộc đời đức mẹ.

Khi chấp nhận làm mẹ Chúa Giêsu như lời Thiên Thần truyền tin, đức mẹ đã nói lời ưng thuận chấp nhận sống chết, cùng chịu đau khổ với Chúa Giêsu con mình, cho dù thế nào đi chăng nữa.

Rồi trong suốt dọc đời sống, đức mẹ càng cảm nghiệm sống trải qua những đau khổ nhiều hơn nữa. Sau khi vừa hạ sinh Chúa Giêsu, đức mẹ đã phải cùng với gia đình bé con trốn sang Ai Cập đi tỵ nạn, đau khổ lo lắng tìm con mình đi lạc trong đền thờ, nuôi nấng giáo dục con, chấp nhận con mình ra đời sống tự lập theo con đường riêng của người trưởng thành và sau cùng thấy con mình bị hành hạ, đóng đinh chết túuc tưởi trên cây thập giá .

Như thế đức mẹ Maria là người đã trải qua chịu đựng đau khổ cùng biết thông cảm cho hoàn cảnh con người của chúng ta.

Một lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua lòng bà!

Người đời thường nói: ai có đứt tay, mới biết thế nào là đau! Ai đã trải qua phải chịu đựng, mới có kinh nghiệm bản thân thế nào đau khổ.Và từ đó mới dễ dàng thông cảm với người gặp hòan cảnh sống trong lo âu sầu khổ.

Đức Mẹ Maria đã trải qua trong đời sống mình những bước đường chịu đựng đau khổ
về cả thể xác lẫn tinh thần. Nên đức mẹ hiểu được tâm tư hoàn cảnh đời sống của con người. Hiểu cùng thông cảm với con người cũng gặp hoàn cảnh lo lắng sầu khổ, và đức mẹ bây giờ trên thiên đàng bên ngai Thiên Chúa là người bầu cử, chuyển lời cầu xin của con người tới Thiên Chúa.

Chính vì thế, chúng ta hằng ca ngợi cầu xin: Đức mẹ phù hộ các giáo hữu cùng an ủi kẻ âu lo!

Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long

Mục lục

 

ƠN GỌI LINH MỤC – GIỐNG HỒNG ÂN NẢY MẦM…

Is 6, 6-11 ; Ga 14, 1- 6

Tôi nhớ mãi hình ảnh một cậu bé tuổi 16 vào cuối những năm thập niên 80 của thế kỷ trước, lúc đó trong lý tưởng Huynh Đệ, tôi và cậu làm việc tông đồ cùng nhau. Những buổi trưa cậu đến nhà thờ cầu nguyện, khác với bao nhiêu cậu bé bằng tuổi, cậu đắm mình trong những giờ cầu nguyện trước Chúa Giêsu Thánh Thể, nơi cậu toát ra chút suy tư gì đó cho ý định cuộc đời…

Qua những gặp gỡ, chia sẻ với tình Huynh Đệ, tôi được biết cậu đang trăn trở cho bước đường tương lai, với cậu đó là tiếng gọi thổn thức trong tâm như lời mời gọi của Đức Giêsu với các tông đồ: “Hãy theo Thầy”, trong lời cầu nguyện, cậu đáp trả như tâm tình của ngôn sứ Isaia: “Này con đây xin hãy sai con” (Is 6, 8)

Vâng, tiếng gọi thổn thức như hạt giống ơn gọi tình yêu được Thiên Chúa gieo vào tâm hồn cậu, về phần cậu, cậu đã chuẩn bị đón nhận hạt giống hồng ân đó, cậu chăm sóc tâm hồn bằng những buổi cầu nguyện ban trưa cùng với anh em Huynh Đệ trong lý tưởng dâng hiến ơn gọi, với lời kinh tối hàng ngày tại ngôi thánh đường mà quý vị đang hiện diện: “Đêm tối xuống dần trên cõi thế, đoàn con chạy đến Chúa càn khôn…”, từng lời kinh, tiếng hát tôi cảm nhận cậu luôn mang tâm tình của ngôn sứ Samuel nghe tiếng Chúa và cầu khẩn: “Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe” (1Sm 3, 10). Cậu vun trồng đời ơn gọi khi tham dự lớp học tìm hiểu Emmanuel, cậu dấn thân trong đời sống đội trưởng, huynh trưởng, giáo lý viên và các hoạt động tông đồ của gia đình Huynh Đệ. Cậu luôn quả quyết nơi từng bước đi trong ơn gọi của cậu, ngay  lúc chính chúng tôi cảm nhận: “Chúa dập tắt tim đèn đang cháy”. Trong những thử thách, cậu vừa chia sẻ với anh em Huynh Đệ, vừa cất bước dũng cảm trên bước đường ơn gọi. Dù mọi hoàn cảnh, cậu vẫn thư thái, bình an bước đi vì cậu tin vào Thầy Giêsu mà cậu đặt chính mình trong Ngài khi xác quyết ngay từ đầu đời ơn gọi: “Thầy là Đường…” (Ga 14, 6a)

Với thời gian, được đào luyện, vun trồng tại chủng viện, qua sự vun trồng của Quý cha giáo, dấn thân trong công tác mục vụ tại các giáo xứ: Tân Mai, Bùi Hưng, Thạch Lâm và Định Quán, hạt giống ơn gọi lớn dần trong tâm hồn cậu và thành cây hồng ân, cây mà Chúa Giêsu nói đến: cây lớn từ hạt cải bé nhỏ mà chính chim trời có thể đến nương náu. Gần 20 năm sau, hôm nay, 12 tháng 9 năm 2008, trong ngôi thánh đường Tân Mai như chiếc nôi ru cậu vào đời, nơi mà cậu được nuôi dưỡng bằng Bí tích Thánh Thể, được học hỏi lời chân lý, được tưới gội bằng hồng ân Thiên Chúa mà cậu luôn đặt mình vào lòng Thầy, nơi được gieo hạt giống tình yêu đời dâng hiến, cậu bé 16 tuổi của gần 20 năm về trước đã thành Tân Linh mục Đaminh Nguyễn Minh Phương qua việc đặt tay truyền chức của Đức Giám mục Đaminh Nguyễn Chu Trinh vào ngày 8 tháng 9 năm 2008, Cha mới dâng Thánh lễ Tạ ơn trong ngôi thánh đường mà Cha đã được Thiên Chúa gọi, và cũng chính Ngài nuôi dưỡng đời ơn gọi của Cha.

Ngày hồng ân với Tân Linh mục nơi quê hương, tôi nhìn vào bước đường ơn gọi của Ngài 20 năm, ngẫm nghĩ đến mầu nhiệm ơn gọi để chia sẻ với cách riêng với Ngài trong tình anh em. Với anh em Linh mục, mà con là người em sát út, nếu so sánh với cha mới, ngài là em út, đó là những suy tư trăn trở lý tưởng của những người em trong bước đường Linh mục, xin các bậc đàn anh nâng đỡ cho chúng em, những lính mới trên chiến trường, và với cộng đoàn dân Chúa như tâm tình chia sẻ gia đình, để quý anh chị em cầu nguyện thêm cho đời Linh mục.

·         Ơn gọi Linh mục, hồng ân của Thiên Chúa được gieo, được trồng và lớn lên trong ân sủng với sự cộng tác của con người, Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Thiên chức Linh mục là một ân huệ đã được ban cho chúng ta”. Vâng, chính Thiên Chúa ban phát, Ngài như là người gieo giống luôn phân phát thật rộng rãi để hạt giống được phủ kín mảnh ruộng (x. Mt 13, 1-23). Vâng, đó là lòng tình yêu quảng đại của Thiên Chúa, Ngài làm tất cả, vì Ngài luôn mong đến viêc sinh hoa kết quả: cho nên Ngài luôn tưới gội, mưa nắng để cho đất, vốn được chuẩn bi, nhặt sỏi kỹ lưỡng do cộng tác của con người, tạo điều kiện cho hạt giống nảy mầm như Thánh Vịnh có nói: “Chúa đã viếng thăm ruộng đất và tưới giội: Ngài làm cho đất trở nên phong phú bội phần… Ngài làm cho đất mềm bởi thấm nước mưa; Ngài chúc phúc cho mầm cây trong đất” (Tv 64). Và như ngôn sứ Isaia đã cảm nhận: "Như mưa tuyết từ trời rơi xuống và không trở lên trời nữa, nhưng chúng thấm xuống đất, làm  cho đất phì nhiêu, cây cối sinh mầm” (Is 55, 10).

Vâng, Ngài làm tất cả để giống ơn gọi nảy mầm lớn lên cho trổ sinh hoa trái nơi tâm hồn Cha mới Đaminh nói riêng và của Quý Linh mục nói chung, tâm hồn mà Đức Giêsu muốn: một đời sống tràn đầy, phong phú như Thánh Matthêu đã ghi nhận rải rác trong Tin Mừng (Mt 3,10; 12,33; 13,23-26; 12,43).

Vâng, giống hồng ân Linh mục lớn lên, đơm hoa kết trái không phải là cho chính Linh mục nhưng cho các tín hữu được ẩn dụ dưới hình ảnh chim trời đến nương náu nơi cây cải hồng ân, vì thế Đức Gioan Phaolô II đã chia sẻ với các Linh mục: “Thiên chức Linh mục không phải là của chúng ta; chúng ta không lãnh nhận nó để biến nó thành những gì làm vừa lòng chúng ta… Thiên chức Linh mục là một ân huệ đã được ban cho chúng ta. Nhưng trong chúng ta và qua chúng ta đó là một ân huệ được thực hiện cho Giáo Hội” (Jean-Paul II ; “Address to the Scottish Priests and Men and Women religious in Edinburgh’s Catholic Cathedral”, 1 juin 1982, trong Origins, XII/4, 10 juin 1982)

Chính chức Linh mục là ân huệ của Thiên Chúa cho cộng đoàn, Linh mục có tư cách phục vụ làm cho dân thánh đón nhận hồng ân thánh đến từ Thiên Chúa mà thánh Phaolô đã nói trong lời khuyến khích cho Timôtê Linh mục: “con hãy làm sống lại ân huệ mà Thiên Chúa đã đặt để nơi con qua việc đặt tay” (2Tm 1, 6). Vâng, qua việc đặt tay của Đức Giám mục, các tân Linh mục bắt đầu làm sống lại ân huệ Thiên Chúa qua các bí tích thánh mà các Ngài ban phát trong đời Linh mục.

Là ân huệ cho dân thánh nên Thánh Phaolô tự giới thiệu chức vụ Tông đồ, mà các Linh mục sau này kế nhiệm như là “tôi tớ của Chúa Giêsu Kitô, được kêu gọi làm tông đồ và được dành riêng ra” (Rm 1, 1) dành riêng ra cho sứ mạng được Thiên Chúa ủy thác, sứ mạng đó được khởi đầu bằng dấu thánh hiến mà Thánh Tôma nói trong bộ Tổng Luận Thần Học: Presbyteri…consecrantur…ut veri sacerdotes Novi Testamenti, “các Linh mục…được xức dầu thánh hiến…những Linh mục đích thực của Tân Ước” (Sacerdotes consecrantur, “các Linh mục được xức dầu thánh hiến”, Somme Théologique III, 67, 2. ). Sự xức dầu thánh hiến được trao ban cho Linh mục do việc truyền chức trong ngày trao tác vụ Linh mục là trường tồn (như việc xức dầu thánh hiến của bí tích rửa tội) chúng ta chỉ rõ việc xức dầu thánh hiến này bằng thuật ngữ “dấu ấn không thể phai nhòa”.

Chính vì thế Linh mục mang nặng quyền vượt xa các tiềm năng của con người, và Ngài phải lãnh nhận năng quyền này từ trên, như khi các tông đồ được thánh hiến và được ủy thác dâng Thánh Thể cho đến ngày Ngài trở lại và Linh mục tiếp nối sứ vụ đó.

Với tất cả đặc tính thánh trên, vì thế Linh mục ở giữa anh em, được anh chị em tín hữu tín nhiệm kính trọng như một người cha hiền, người anh, người bạn thân chia sẻ từng bước đường trên nhân gian. Tuy nhiên, như Đức Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn chia sẻ: “Linh mục đâu chỉ có những ngày được "tung hô vạn tuế " như thế mãi…, mà Linh mục còn có những đêm Thứ Năm Tuần Thánh trong đời khi mọi người bỏ rơi, khi bị hiểu lầm về những công tác mục vụ, những chiều Thứ Sáu Tuần Thánh Linh mục chết giữa những đau buồn và tủi nhục. Linh mục là hình ảnh của một Chúa Giêsu vác thập hình trên đường đi Núi Sọ... đơn độc và lặng lẽ” .

Dù ơn gọi Linh mục là lời kêu gọi nên thánh, mang đặc tính linh thiêng từ trời, nhưng Linh mục cũng là phàm nhân, Linh mục sẽ không tránh được mọi khiếm khuyết. Vâng, chỉ có một người hoàn hảo, đó là Chúa Giêsu Kitô như Thánh Gioan chia sẻ: “Nếu chúng ta nói rằng chúng ta không có tội, thì chúng ta tự lừa dối chính mình và chân lý không ở nơi chúng ta” (1 Ga 1, 8). Sự mỏng giòn, bất toàn nơi các Linh mục không nên làm ngạc nhiên ai. Nước Trời thuộc về những người như thế, vì Chúa Kitô đã đến cho những con người này. Như cha Henri de Lubac sau này được vinh thăng Hồng y đã nhận xét trong cuốn Suy niệm về Giáo Hội: Giáo Hội là thánh thiện không phải vì bao gồm những con người không khiếm khuyết, nhưng vì Chúa trao ban cho Giáo Hội sự thánh thiện như là ân huệ hoàn toàn bất xứng (đối với con người). Chắc chắn, trong sự yếu đuối của mình, Linh mục lãnh nhận một sức mạnh hơn nữa của thừa tác vụ mà ngài thực thi đối với dân Thiên Chúa. Như Chúa hứa với Phaolô: “Ơn Ta đủ cho con vì chưng quyền năng trong yếu đuối mới viên thành” (2 Cr 12,9).

Vâng, thiên chức Linh mục trong người Linh mục tựa của quý đựng trong bình sành đẹp nhưng mỏng giòn, dễ vỡ, vì người Linh mục mang thiên chức trong thân phận bất toàn của kiếp nhân sinh. Cho nên, để chu toàn trách nhiệm, Ngài cần sự chia sẻ Huynh Đệ nơi Giám mục và Linh mục đoàn, những thế hệ đàn anh, Ngài cần sự tương trợ của anh chị em tín hữu, bằng lời cầu nguyện và nâng đỡ tinh thần.

Kính thưa cộng đoàn,

Mấy hôm nay, kể từ ngày 8 tháng 9, ngày cha mới Đaminh được truyền chức, Ngài luôn xuất hiện với vòng hoa trên cổ được trao tặng bởi anh em tín hữu, cha cao lớn nhưng trông cha thật nhỏ bé giữa đám đông anh em tín hữu, bè bạn vây chung quanh. Cha trở nên như điểm trung tâm của cộng đoàn. Những ánh đèn flash nháy lên liên hồi ..., ai cũng đều mong chụp với cha mới một tấm hình để làm kỷ niệm trong dịp trọng đại đời Cha, ai cũng muốn bắt lấy tay cha nói một lời chúc tụng... và Cha như bị sâu xé giữa những cánh tay lúc thì kéo về bên này lúc lại bị kéo về bên kia. Có một câu nói vui nghe thật thấm thía "Không có gì mau cũ cho bằng... cha mới". Lời nói vui này gợi nên hình ảnh khiến mọi người ai cũng lo rằng cha sẽ "cũ" khi chưa "mới" được bao lâu. Vâng, như lời của một cha cố trên 90 tuổi chia sẻ: “những ngày vinh quang sẽ qua đi, nhường bước cho công việc mục vụ, với thời gian, sẽ trở nên nhàm chán và đời Linh mục có thể đang trở nên nặng nề…” Cho nên Linh mục trong thời gian, Ngài có thể trở nên cũ kỹ trong sứ vụ, già nua về tinh thần dâng hiến…

Dù thế nào đi chăng nữa, tôi nghĩ rằng mọi người đều mong Cha mới Đaminh nói riêng, mọi Linh mục nói chung luôn luôn mới trong tình yêu Thiên Chúa, dù là vinh quang của thứ năm tuần thánh, hay bi ai thử thách của ngày thứ sáu tang thương, Ngài luôn làm mới mình và can đảm sống trong Thiên chức người Linh mục, Ngài là hình ảnh của một Giáo hội sống động, một Giáo hội Đức Giáo hoàng Benedicto XVI tuyên bố: “Giáo Hội Chúa Kitô luôn sống động và mãi trẻ trung”, Ngài làm mới mình khi trở về nguồn nơi Thầy Giêsu, đắm chìm trong lời mời gọi: “Hãy lưu lại trong Tình yêu của Thầy” (Ga 15, 9). Vâng, lưu lại trong tình yêu, người Linh mục luôn có sức sống như thánh Phaolô đã xác tín: “Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi” (2 Cr 5, 14), Ngài luôn làm mới thiên chức Linh mục với tâm tình của thánh Phêrô: “Thầy biết rằng con yêu mến Thầy” (Ga 21, 15.16.17), chính trong tình yêu đó, Thầy Giêsu luôn tín nhiệm trao phó cho người Linh mục: “Hãy chăn dắt các chiên của Thầy” (Ga 21, 17)

Vâng, trong tình yêu Kitô, xin cho người Linh mục luôn làm mới mình và mang tâm niệm: 

Là Linh mục anh hãy như nến sáng,

Đốt cháy đời,

Anh tự hủy tấm thân

Ẩn khuất mình

Anh soi rọi tối tăm

Nâng cao mình

Anh vui nhận chìm đắm…

Lm. Vinh Sơn

Mục lục

Vẫn còn những “công nhân giờ thứ 11”

            Sứ điệp phụng vụ của Chúa Nhật XXV thường niên hôm nay là một thúc nhắc  chúng ta hoán cải theo Lời Chúa dạy là lột bỏ mọi biểu hiện của tự cao, biệt phái, kiêu căng và hãy biết noi theo lòng nhân hậu của Thiên Chúa, mở rộng cõi lòng đón nhận lẫn nhau bằng thái độ nhân từ quảng đại, sẵn sàng bao dung đón tiếp mọi anh chị em cho dù họ yếu đuối bất toàn (mà ngôn ngữ dụ ngôn Tin Mừng hôm nay gọi họ là những “công nhân giờ thứ 11”), để cùng nhau xây dựng “Vườn Nho” Chúa mỗi ngày thêm đẹp thêm xinh 

            Ở giữa chợ đời hôm nay, những qui luật cạnh tranh sinh tồn không mấy thiện hảo như “Mạnh được yếu thua, may nhờ rủi chịu”, “cá lớn hiếp cá bé”...lại được áp dụng thật đúng mức .Nơi nào cũng đầy ắp cảnh “lính cũ trấn lột lính mới”, người có công vụ thâm niên, …thì đè đầu cởi cổ những kẻ mới tập tễnh vào nghề ; những bậc thầy thức giả uyên thâm, những cây cao bóng cả thì xem thường lũ học trò mới được dăm ba chữ, kẻ có quyền cao chức trọng thì trấn áp, bóc lột những người nhà quê chân lấm tay bùn, nhứng thế lực với quyền lực và vũ khí trong tay thì tàn ác bất nhân đối với những dám dân oan áo ôm khố rách, không công trạng cũng chẳng có ô dù điểm tựa đỡ nâng…

            Sự kiện “Thái Hà” và “Tòa Khâm Sứ” tại Tổng giáo phận Hà Nội là một điển hình cụ thể cho cái qui luật chợ đời quái quỉ trên : một bên là đám giáo dân hiền lành chơn chất, chỉ với lời cầu nguyện và tiếng kêu oan bằng lẻ phải, còn một bên là lực lượng công an với súng ống, chó dữ, dùi cui và lựu đạn cay…

            Và nào chỉ ở nơi chợ đời mới xảy ra cái qui luật “đáng ghét” nầy ! Ở ngay giữa lòng thế giới tôn giáo, dân Ít-ra-en, dân tộc ưu tuyển của Thiên Chúa, nơi mà lương tâm con người được uốn nắn kỹ càng ngay từ tấm bé để hướng thiện, thì vẫn tồn tại lâu dài đến nhức nhối cái tiêu cực đáng ghét nầy. Những người may mắn lọt vào hàng tư tế hay luật sĩ, những kẻ mệnh danh là “Biệt phái”…họ chỉ biết ăn trên ngồi trước, đối xừ tàn tệ với dân đen, kiêu căng hợm hĩnh với dân ngoại và những người bị họ xếp vào loại “công nhân giờ thứ 11”

Thế nhưng họ lại là những người thường xuyên tiếp cận và dạy dỗ những lời chân lý của sách Lêvi như : “phải thương yêu đồng loại như chính mình ngươi” (Lv 19,18) hay như Lời Chúa phán dạy qua sách Isaia chẳng hạn :

“Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế nầy sao : mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm ? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoãnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục” (Is 58,6-7).

             Vì thế, nếu cách đây 2000 năm, Đức Kitô đã phải nhiều lần "ngậm đắng nuốt cay" để chửi thẳng mặt vào cái “tính hư tật xấu nầy”; và hôm nay, ở giữa lòng ”Cộng đoàn Dân mới, Dân tư Tế, Dân Vương Đế, Dân Thánh của Thiên Chúa”, Lời Chúa lại một lần nữa vang lên để cảnh báo, để vạch trần những nhỏ nhen, biệt phái, những ích kỷ, đố kỵ, hẹp hòi…và dạy chúng ta bài học của khiêm nhường hiền hậu, chân lý của bác ái khoan dung mà dụ ngôn “công thợ vườn nho” hôm nay là một hoạt cảnh sống động.

Thật vậy, chẳng ở đâu xa. Ngay giữa cộng đoàn chúng ta đây : vẫn còn đó những con mắt lườm nguýt có đuôi, những cái nhép môi khinh thị, những cú nhíu mày nhăn trán bất bao dung, đố kỵ, những lời ong tiếng ve phê bình chỉ trích, những kết án, lọai trừ…thấp thoáng đâu đó giữa những hàng ghế trang nghiêm thánh thiện của thánh đường để ném về phía những người bị cho là “đến trễ”, bị gán là “công nhân giờ thứ 11”.

- Họ "là những người đến trễ, là công nhân giờ thứ 11" vì họ họ là dân dự tòng-tân tòng ; họ "là những người đến trễ" vì họ thuộc gia đình đang bị rối giây hôn phối.

- Họ "là những người đến trễ, là công nhân giờ thứ 11" vì họ bị mang tiếng có một quá khứ không tốt lành.

- Họ "là những người đến trễ, là công nhân giờ thứ 11” vì họ quá bần hàn rách nát, không giúp được gì cho giáo xứ, cho cộng đoàn.

- Họ "là những người đến trễ, là công nhân giờ thứ 11” vì họ là những người ít học hay khô khan nguội lạnh không thường xuyên tham gia sinh hoạt với cộng đoàn ;

- Họ “là những người đến trễ, là công nhân giờ thứ 11” vì họ không có được những hoàn cảnh vật chất và tinh thần thuận lợi như bao nhiêu anh chị em khác…

Thế nhưng, chúng ta dư biết rằng : trên công trường của Giáo Hội, trong Vườn Nho của Thiên Chúa hôm nay vần còn đầy dẫy những anh chị em “là những người đến trễ”, là “những công nhân giờ thứ 11” như thế. Để dạy cho người Do Thái khi xưa và để nới với cộng đoàn chúng ta hôm nay, dụ ngôn Tin Mừng đã trình bày cách ứng xử khác thường của Thiên Chúa : Mỗi người, sớm hay muộn, đúng giờ hay đến trễ, cũng đều lãnh được một đồng như nhau. Phải chăng, ngụ ý của dụ ngôn nầy đã quá rõ để chúng ta hiểu và gắng công thực hiện:

- Hãy ngước lên Thiên Chúa để học mãi bài học khoan dung, quảng đại, thứ tha và yêu thương anh em như chính mình.

- Hãy trông về anh em xung quanh mà biết sẻ chia, cảm thông, yêu thương và kính trọng.

- Hãy nhìn vào chính mình để luôn khiêm hạ và sẵn sàng nhận phần thiệt thòa cho riêng mình để mà quảng đại phục vụ anh chị em.

            Hội Thánh hôm nay quả thật đang cần những tín hữu như thế để gương mặt Hội Thánh luôn xuất hiện như một “Vườn Nho” tươi tốt xanh mơ, với đầy muôn kỳ hoa dị thảo, một “công trường luôn đầy ắp tiếng cười vui niềm nỡ của những người thợ thắm tình huynh đệ" chứ không phải là một “tháp Ba-ben” với muôn ngôn ngữ bất đồng của rẽ chia, hận thù, ghen ghét ; và để cho ai đó, dù có trở về trong thời điểm trễ tràng của “giờ thứ 11,12” thì vẫn được anh em nồng nàn đón tiếp và chia đều phần "lương bổng đậm nghĩa yêu thương."

            Và đó chính là điều được Thánh Phaolô hôm nay lại một lần nữa nhắc bảo cộng đoàn chúng ta : “Anh em phải ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng của Đức Kitô” (BĐ 2)

Lm. GiuseTrương Đình Hiền

Mục lục

Lời Chủ Chăn tháng 10 :

 

GIÁO DỤC KITÔ GIÁO XÂY DỰNG
GIÁO HỘI - MẦU NHIỆM - HIỆP THÔNG - SỨ VỤ


 

Anh chị em thành viên gia đình giáo phận thân mến,


1. Khi trao ban ơn bí tích Thánh Tẩy và ơn đức tin, Thiên Chúa yêu thương cứu độ mời gọi mọi kitô hữu, giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân, tham dự vào chức vị và chu toàn bổn phận làm con Cha trên trời, làm chi thể của Thân Mình huyền nhiệm Chúa Kitô, làm đền thờ của Chúa Thánh Thần. Từ đó, chức vị và bổn phận kitô hữu còn là tham dự vào đời sống hiệp thông trong gia đình Chúa, tham gia đời sống và sứ vụ của dân Chúa, của Giáo Hội do Chúa Kitô thiết lập.


2. Giáo dục kitô giáo là tạo điều kiện cho người kitô hữu ý thức đáp lại mời gọi của Cha trên trời. Đáp lại qua việc tự nguyện đảm nhận trách nhiệm xây dựng ba mối tương quan căn bản thuộc bổn phận tham gia đời sống và sứ vụ của Giáo Hội như sau:


(1) Xây dựng tương quan với Chúa: - luôn hiếu thảo tìm và thi hành ý định yêu thương cứu độ của Cha trên trời với lòng tín thác; - luôn mở rộng trí khôn, tâm hồn và cuộc đời đón nhận hồng ân cứu độ chính là Đức Giêsu Kitô và Chúa Thánh Thần cùng với Lời Chúa và các ân ban của Chúa; - biết dùng hồng ân cứu độ để giáo huấn và thánh hoá dân Chúa, mở đường cho con người mới mang quả tim mới được lớn lên theo hình ảnh Đức Giêsu Kitô là hiện thân tình yêu cứu độ của Cha trên trời.


Xây dựng mối tương quan đó sẽ góp phần làm tăng trưởng đời sống Giáo Hội-Mầu Nhiệm.


(2) Xây dựng tương quan đối nội: - tạo thuận lợi cho việc phát huy đời sống hiệp thông giữa các thành phần dân Chúa, giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân; - cùng tham gia thi hành chức năng hướng dẫn dân Chúa chung sức xây dựng tình bác ái liên đới và hiệp nhất, chia sẻ và tương thân tương trợ; - cùng nhau cộng tác với Chúa Kitô xây dựng cộng đồng dân Chúa thành men, muối và ánh sáng Tin Mừng cứu độ cho xã hội loài người.


Xây dựng mối tương quan đó sẽ góp phần làm tăng trưởng đời sống Giáo Hội-Hiệp Thông,

(3) Xây dựng tương quan đối ngoại: - cùng tham gia đời sống bác ái chia sẻ hồng ân cứu độ cho mọi người anh em đồng bào và đồng loại; - tham gia sứ vụ loan truyền Tin Mừng cứu độ và yêu thương phục vụ cho sự sống mới, sự sống toàn vẹn, sự sống dồi dào của cộng đồng dân tộc cũng như cộng đồng thế giới hôm nay; - cộng tác với Chúa Thánh Thần hình thành cộng đồng nhân loại mới tiến bước về Nước Chúa là Nước chân thật và công bằng, hiệp nhất và an bình, chan hoà yêu thương và hạnh phúc.


Xây dựng mối tương quan đó sẽ góp phần làm tăng trưởng đời sống Giáo Hội-Sứ Vụ.


3. Như thế, giáo dục kitô giáo còn là tạo điều kiện cho người kitô hữu phát huy khả năng nhận thức, tinh thần trách nhiệm liên đới, kỹ năng chung sức xây dựng ba mối tương quan căn bản thuộc bổn phận làm tăng trưởng con người mới và cộng đồng nhân loại mới.


Đó là trọng tâm của mọi sinh hoạt và hoạt động mục vụ, đồng thời là điểm đến của công tác huấn luyện và đào tạo nhân sự cho mọi lãnh vực mục vụ thuộc đời sống và sứ vụ của Giáo Hội.


4. Cùng với Giám mục tham dự vào đời sống Giáo Hội Mầu Nhiệm-Hiệp Thông-Sứ Vụ, linh mục, tu sĩ, giáo dân có nhiệm vụ góp ý với Giám mục đề ra phương hướng tổ chức và đường lối hướng dẫn mọi thành phần gia đình giáo phận tham gia đời sống và sứ vụ của Giáo Hội, chung sức xây dựng ba mối tương quan căn bản thuộc bổn phận kitô hữu. Phương hướng tổ chức và đường lối hướng dẫn cần phải trung thành với ý định yêu thương cứu độ của Cha trên trời, đồng thời phù hợp với hoàn cảnh và thực tế của giáo phận.


5. Mọi thành phần dân Chúa có nhiệm vụ cùng với Giám mục đối thoại và lắng nghe, suy tư và nghiên cứu tình hình và đời sống giáo phận, nhằm cùng với Giám mục xác lập phương hướng tổ chức, đường lối hoạt động và giải quyết các vấn đề nảy sinh trong tiến trình xây dựng ba mối tương quan căn bản thuộc bổn phận làm tăng trưởng con người mới và cộng đồng nhân loại mới.


+ Gioan B. Phạm Minh Mẫn

Hồng Y Tổng Giám Mục

Mục lục

 

 

Tài liệu Thường huấn Linh mục Giáo Phận Nha Trang, Năm Thánh Phaolô 2008

 

Bài 7:

PHAOLÔ ĐỐI DIỆN VỚI CÁI CHẾT

 

Những suy tư của thánh Phaolô về cái chết của Chuùa Giêsu, của chính ngài và của các Kitô hữu giúp chúng ta có một cái nhìn quân bình tích cực và biến cố chung kết cuộc đời này.

 

Lm. Giuse Hoàng Văn Khanh

 

Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu được mời gọi sẵn sàng từ bỏ mình, vác thập giá mà đi theo Chúa (x. Mt 16,24). Từ sau biến cố Ðamas, Phaolô đã thật sự ý thức mình được Chúa chọn gọi làm Tông đồ (Gl 1,11tt) và đã hoàn toàn đáp trả bằng cả cuộc đời loan Tin mừng, đạt cao điểm nơi chính sự chết theo gương Ðức Giêsu đã hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, và tột đỉnh của vâng phục là cái chết thập giá (x. Pl 2,6-8). Phaolô đã khẳng quyết: "Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Ðức Giêsu, để sự sống của Ðức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi” (2 Cr 4,10). "Tôi cùng chịu đóng đinh với Ðức Kitô vào Thập giá. Tôi sống nhưng không còn là tôi mà là Ðức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,19-20). Chọn Chúa làm lẽ sống, Phaolô là người môn đệ tuyệt vời của Ðức Giêsu, thể hiện cao điểm nơi ý thức và thái độ trước sự chết.

Trong bài này, xin phép được chia sẻ:

- Phaolô suy tư về cái chết thập giá của Ðức Kitô

- Phaolô trước cái chết của chính mình

- Kitô hữu trước sự chết.

 

I. PHAOLÔ SUY TƯ VỀ CÁI CHẾT THẬP GIÁ CỦA ÐỨC GIÊSU

 

Trước khi xảy ra biến cố Ðamas, Saolô, người Do thái thuộc chi tộc Bengiamin, tuân giữ Luật như một Pharisêu (Pl 3,5) đã nhìn Giêsu Nadareth bị treo trên cây gỗ là đồ bị Thiên Chúa nguyền rủa (Ðnl 21, 23; Gl 3,13). Lòng nhiệt thành bảo vệ Ðạo và Lề Luật khiến ông hết sức căm phẩm nên hùng hổ tìm bách hại những ai tôn vinh Giêsu là Con Thiên Chúa (Cv 8,3; 9,1-2; 22,3-5; 26,9-12; Pl 3,5; Gl 1,13 tt).

 

Cảm nghiệm gặp gỡ Ðấng Phục Sinh trong biến cố Ðamas đã biến đổi Phaolô cách tận căn (Gl 1,15tt; Pl 3,12). Ðiều này cũng diễn ra tương tự nơi các Tông đồ. Phaolô nhận thức rõ ràng Ðấng chịu đóng đinh Thập giá đã sống lại, đã tỏ mình (opthè) cho ngài cũng như cho các môn đệ (1 Cr 15,3-7) và khám phá ra ý nghĩa thâm sâu của cái chết thập giá. Tâm hồn tràn ngập niềm vui và an bình vì được giao hoà với Thiên Chúa (Pl 3,7-14). Từ dạo ấy, Ðức Kitô là lẽ sống của Ngài (Pl 3,8-14). Ngài quả quyết không còn muốn biết đến chuyện gì khác ngoài ÐGK chịu đóng đinh thập giá (1 Cr 2,2-5). Ngài phiền trách giáo đoàn Galát bị mê hoặc mà quên đi hình ảnh ÐGK chịu đóng đinh (Gl 3,1). Ngài thêm vào Truyền thống về Thánh Thể lời xác quyết: loan truyền Chúa chịu chết cho đến khi Ngài lại đến (1 Cr 11,26).

 

Trong thư 1 Cr (năm 56), Phaolô đã sử dụng "Lời thập giá" để diễn tả quyền năng siêu việt của Thiên Chúa. Ngôn từ này gây vấp phạm cho người đương thời; nên sau này không ai dùng lại, ngay cả thánh Ignatiô Antiôkia và Jean Chrysostome. Có lẽ Phaolô dùng ngôn từ này trong bối cảnh tranh luận với những người Do thái và phái ngộ đạo. Dựa trên kinh nghiệm cá nhân, Phaolô khẳng định người môn đệ phải trải qua cái chết để loan báo Tin mừng, phải mang thập giá và cái chết của Ðức Giêsu trên thân mình (2 Cr 4,10; 6,4-10; 12,9; Pl 3,4-11). Nói đến thập giá, Phaolô không đơn sơ nghĩ đến cái chết đau đớn và tủi nhục, nhưng nhắm đến sự cứu độ và vinh quang: Chính qua cái chết mà Ðức biểu lộ sự vinh quang. Và đó chính là ý nghĩa then chốt của "Lời Thập giá".

 

1. Cái chết cứu độ

 

a. Ðức Kitô đã chiến thắng Thần Chết

Câu chuyện đã xảy ra từ buổi đầu sáng tạo (St 3). Tội đã nhập vào thế gian và bởi tội mà có sự chết (Rm 5,12.17; 1 Cr 15,21). Từ đó tất cả mọi người đều phải chết nơi Ađam (1 Cr 15,22); do đó Thần Chết đã thống trị thế gian (Rm 5,14) và Vương quyền Satan được thiết lập (x. Ga 8,44). Chính tội là nọc độc của Thần Chết và đem lại sức mạnh cho quyền lực Thần Chết (1 Cr 15,56) và sự chết là hậu quả của tội (Rm 6,16.21.23). Thân xác được Thiên Chúa tạo thành nay trở thành thân xác phải chết (Rm 7,24).

 

Ðể giải thoát chúng ta khỏi quyền lực thần chết, Ðức Kitô đã nhận cho mình thân phận hay chết của con người và nhận cái chết (Gl 4,5). Sự chết đến với Người không phải cách ngẫu nhiên, Người đã từng loan báo trước cho các Tông đồ (Mc 8,31; 9,31; 10,34). Người đã run sợ trước cái chết (Ga 12,27), đã khóc trước mộ của bạn thân Ladarô (Ga 11,33.38), đã tha thiết nài van Chúa Cha cho mình khỏi chết (Dt 5,7; Lc 22,42). Ngài chấp nhận chén đắng (Mc 10,38) và sau cùng, để thực hiện trọn vẹn thánh ý của Chúa Cha, Người đã vâng lời đến chết (Pl 2,6-8). Cái chết của Ðức Kitô như hạt lúa mì mục nát trong lòng đất để trổ sinh bông hạt (Ga 12,24-32), trở thành hy tế xá tội (Dt 9) cho tất cả mọi người (2 Cr 5,14). Người cho chúng ta một dấu chứng tình yêu tuyệt vời, đó là: Người đã chết vì chúng ta đang khi chúng ta là tội nhân (Rm 5,6tt; 1Tx 5,10). Người không chết thay cho chúng ta nhưng vì lợi ích chúng ta: Người chết vì tội lỗi (1 Cr 15,3) để hoà giải chúng ta với Thiên Chúa (Rm 5,10). Người đã chiến thắng Thần Chết bằng sự phục sinh, như lời Thánh Kinh (1 Cr 15,4), và trở nên Trưởng tử giữa mọi vong nhân (Cl 1,18), Thần chết mất hết quyền lực trên Người (Rm 6,9). Người giải thoát con người khỏi Luật cũa tội và sự chết (Rm 8,2). Sau cùng, khi thời gian viên mãn, Người sẽ phục sinh tất cả để hoàn tất chiến thắng của Người. Lúc đó Thần chết sẽ bị tiêu diệt mãi mãi (1 Cr 15,26).

 

b. Thập giá đem lại ơn công chính hoá, sự cứu chuộc và giải thoát, sự giao hoà và thánh hoá


* Công chính hoá

 

Thánh Phaolô đã trình bày giáo thuyết này trong thư Galát (Gl 3), và sau đó triển khai sâu sắc trong thư Rôma (Rm 3,21-4,25)..

 

Trước hết, Phaolô quả quyết mọi người, Do thái và dân ngoại, đều là tội nhân, nghĩa là cắt đứt tương quan Giao ước (Rm 2,12) và bị thống trị bởi tội lỗi. Sự công chính của Thiên Chúa được tỏ lộ (3,21). Không ai được công chính hoá bởi việc tuân giữ Lề Luật nhưng chỉ nhờ tin vào Ðức Giêsu Kitô chết và sống lại (3,22). Ðó là ân huệ nhưng không của Thiên Chúa. Sự công chính tới với con người nhờ đức tin sống động, biến cải con người để trở nên người công chính của Thiên Chúa (2 Cr 5,21; 1 Cr 1,30-31). Nếu đức tin là một ân huệ của Thiên Chúa, thì sự công chính hoá cũng hoàn toàn lệ thuộc vào tác động cứu chuộc của Ðức Kitô. Tác động đó biến cải thân phận con người, phá hủy con người cũ, kiến tạo con người mới, giải thoát khỏi tội và làm ta nên con cái Thiên Chúa. Tin không chỉ là việc lý trí chấp nhận sứ điệp của Ðức Kitô (Rm 10,9-10), nhưng tiên vàn là sự tín nhiệm, tuân phục, dấn thân trọn vẹn cho Ðức Kitô.

 

Phaolô trình bày sự liên đới giữa mọi người với Ađam: "Vì một người duy nhất mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội. Cũng như vì người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người được Thiên Chúa làm cho nên công chính, tức là được sống. Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa mà muôn người thành tội nhân thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người sẽ thành người công chính” (Rm 5,18-19). Phaolô đối chiếu Ađam và Ðức Giêsu, tội của Ađam và hành vi cứu độ của Ðức Kitô (x. 1 Cr 15,20-22). Ta gặp thấy những cặp đối chiếu song song: Tội (12.13) - Ân sủng (15.16.17); Sự chết (12.13.14.17) - Sự sống (17.18.21); Sa ngã, phạm tội (15.16.17.18) - Công chính hoá (16.18); Sự bất tuân - Sự vâng phục

 

Mọi tín hữu được liên kết vào biến cố thập giá của Ðức Kitô. Bí tích Thánh tẩy biểu tượng cho sự chết và mai táng vơi Ðấng chịu đóng đinh, nhờ đó đạt tới sự sống mới nhờ sự Phục sinh của Ðức Kitô (Rm 6, 5-11).

 

* Cứu chuộc và giải thoát

 

Phaolô dùng từ cứu chuộc 7 lần trong các ngục thư (so với Tân ước 10 lần). Theo nghĩa thông thường, cứu chuộc là chuộc lại bằng một món tiền tương ứng người hoặc vật đã thuộc quyền sỡ hữu của chủ khác (goel, gaal: giải thoát). Kinh thánh gọi Thiên Chúa là goel, Ðấng cứu chuộc Israel. Ðức Kitô đã chuộc lại ta khỏi tình trạng nô lệ tội lỗi bằng giá máu của Ngài đổ ra trên thập giá. Thiên Chúa đã đặt Ngài làm nơi xá tội nhờ máu của Ngài (Dt 9,5). Trong Cựu ước, ngày Yôm Kippour, người ta tiến dâng con dê làm lễ tạ tội cho dân (Lv 16,11-16), thì nay Ðức Kitô tự hiến tế chính mình làm lễ đền tội cho ta để ta trở thành tôi tớ (doulos) của Ngài (1 Cr 6,20; 7,23). Ðức Kitô vừa là của lễ vừa là người dâng hiến (2 Cr 5,21). Ngài là Chiên Vượt qua đích thực (1 Cr 5,7), là Con Chiên sát tế (Kh).

 

Nhờ cái chết thập giá, Thiên Chúa giải thoát chúng ta khỏi sự thống trị của tội và ban cho ta đời sống mới (Rm 6,12-14), đời sống làm con Thiên Chúa, nên đồng hình đồng dạng với Con Thiên Chúa (Rm 8,29). Ðức Giêsu Kitô biến đổi chúng ta nên hình ảnh rạng ngời của Người nhờ tác động của Thần Khí (2 Cr 3,18) và làm cho thân xác yếu hèn của ta nên giống thân xác vinh hiển của Người (Pl 3,20-21).

 

* Giao hoà

 

Tội lỗi đặt con người trong tình trạng đối kháng với Thiên Chúa và với anh em. Ðức Giêsu đã dùng cái chết thập giá để tha thứ mọi tội lỗi và giao hoà ta với Thiên Chúa (2 Cr 5,18; 5,1-2.10). Thập giá nối chiều dọc và chiều ngang, là nơi gặp gỡ của hai chuyển động giao hoà: với Chúa và với anh em. Thánh Phaolo khẳng định sứ vụ của ngài là loan báo sự giao hoà (2 Cr 5,18-19), sự giao hoà trải dài trên toàn vũ trụ nhân loại (Cl 1,19-20).

 

2. Ðau khổ và hy vọng

 

Gặp gỡ Ðấng Phục sinh, Phaolô xác tín Thiên Chúa mạnh hơn sự chết và thập giá Ðức Kitô mang ý nghĩa cứu độ. Sự chết đã bị đánh bại, thế nhưng đau khổ với mọi chiều kích vẫn còn đó gây lo âu và bất hạnh cho con người. Làm sao giải thích ?


Kinh thánh đã không đưa ra câu giải thích về đau khổ. Gióp đã nghiêng mình trên mầu nhiệm bất khả thấu đạt này để chỉ biết đón nhận bằng niềm tin trần trụi; người Tôi trung của Giavê chấp nhận mang trên mình mọi khổ đau của dân để đền tội thay cho dân. Người Do thái tin rằng chỉ đến ngày cánh chung đau khổ mới chấm dứt. Ðức Giêsu, trong đời sứ vụ, đã từng sống nổi đau của nhân loại và dâng lên Thiên Chúa lời khẩn nguyện (Dt 5,7).

 

Chiêm ngắm Ðấng đã chết và sống lại, Phaolô đặt vấn nạn: nếu sự chết đã bị thập giá đánh bại, liệu đau khổ có biến mất khỏi thế gian ? Ngài xác định rằng niềm tin Ðức Giêsu chết và sống lại không loại bỏ đau khổ, nhưng giúp can đảm chiến đấu để loại trừ và làm giảm bớt đau khổ. Ðau khổ mang chiều kích cứu độ. Nhìn đau khổ trong tương quan với hy vọng.

 

a. Chúa Giêsu và niềm hy vọng của nhân loại

 

Chúa Giêsu đã được vinh thăng bên hữu Chúa Cha và sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Giai đoạn này, Thánh Thần hoạt động. Thánh Phaolô quả quyết Ðức Giêsu vẫn đang tiếp tục hiện diện và hoạt động cho đến ngày cùng tận. Trong 1 Cr 15,20-28 thánh Phaolô nhằm thuyết phục những ai nghi ngờ về sự sống lại cánh chung, đã đề cập đến ba điểm chính yếu: sự sống lại của Ðức Kitô là nền tảng, sự sống lại của mọi người và sự chiến thắng cuối cùng. Ðiều mà Phaolô muốn nhấn mạnh ở đây, đó là vai trò của Ðức Kitô vào thời cùng tận, trước khi trao vương quốc lại cho Chúa Cha, Người chiến đấu đến tận cùng để đánh bại kẻ thù cuối cùng là sự chết, và cùng với sự chết là đau khổ. Và như thế, Ðức Kitô luôn cùng với chúng ta và hướng dẫn chúng ta trong cuộc chiến này.

 

b. Ðức tin chiến thắng

 

Trong cuộc chiến liên lỉ, đức tin sẽ thắng. Ðó là điều mà Phaolô xác quyết dựa vào tấm gương của Abraham (Rm 4,17-21). Ðức tin dựa vào Chúa có sức giải thoát ta khỏi sự dữ. Dĩ nhiên, Phaolô không đưa ra lời giải thích về đau khổ, nhưng đề ra một thái độ phải có để chiến thắng đau khổ. Trong đau khổ, ta tràn trề niềm hy vọng về vinh quang chờ đợi ở cuối đời (Rm 5,1-2).

 

c. Sống hy vọng

 

Phaolô không có ý đưa ra lời giải thích về đau khổ. Ðiều đó hoàn toàn không thể, tốt nhất chấp nhận truyền thống về sự hiện diện của đau khổ: ngôn sứ phải chịu nhiều đau khổ, người công chính phải chịu bách hại, và đem lại cho nó một ý nghĩa. Theo Phaolô, tội lỗi là căn rễ của mọi sự dữ trong thế gian. Thập giá Ðức Giêsu đã đánh bại tội lỗi, mang lại cho đau khổ chiều kích cứu độ. Kitô hữu hướng tầm mắt về Ðức Giêsu là Ðấng vẫn chiến đấu sự dữ đến tận cùng, để sẵn sàng đón nhận đau khổ hầu thông phần với đau khổ của Ðức Giêsu và đặt đau khổ trong tương quan với vinh quang đang chờ đợi. Nhận thức đau khổ phát sinh từ tội không phải để chấp nhận định mệnh đau khổ nhưng để sống niềm hy vọng. Ðức Giêsu không hề chúc phúc cho đau khổ, nhưng mời gọi kitô hữu cộng tác để chiến đấu chống lại tội lỗi, và như thế chống mọi đau khổ với niềm tín thác vào Ðấng có thể giải thoát. Trong cuộc chiến này, tín hữu không đơn độc nhưng luôn hiệp thông với toàn thể vũ trụ đang rên xiết trong đau khổ, nhất là với Ðức Kitô, Ðấng vẫn chiến đấu đến thời cùng tận và luôn trợ lực và hướng dẫn ta. Thánh Thần soi sáng cho ta biết ý định của Thiên Chúa và hướng ta về vinh quang. Ðau khổ làm trào dâng niềm hy vọng và Chúa Thánh Thần làm cho niềm hy vọng này được phong phú. Hy vọng thôi thúc ta sống và hành động trong niềm tin và phó thác.

 

II. PHAOLÔ TRƯỚC SỰ CHẾT CỦA CHÍNH MÌNH

 

1. Dung mạo kép của sự chết

 

A. Sự chết đáng yêu (Pl)

 

Trong 1 Tx (50), Phaolô nói đến số phận những người đã chết để trấn an những người đang sống: "Nếu chúng ta tin rằng Ðức Giêsu đã chết và sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những ai đã an giấc trong Ðức Giêsu, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Ðức Giêsu. Dựa vào lời của Chúa, chúng tôi nói với anh em điều này, la 2chúng ta, những người đang sống, những người còn lại vào ngày Chúa quang lâm, chúng ta sẽ chẳng đi trước những người đã an giấc ngàn thu đâu. Vì khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, những người đã chết trong Ðức Kitô sẽ sống lại trước tiên, rồi đến chúng ta là những người đang sống, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây cùng với họ, để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế, chứng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi” (1Tx 4,14-17).

 

Trong thư Pl, Phaolô bộc bạch những tâm sự của mình - đang bị cầm tù, nóng lòng về việc loan Tin mừng mà ngài có trách nhiệm, và có những người loan báo Ðức Kitô vì ghen tương với ngài tưởng thế sẽ gây khổ sở cho ngài (Pl 1, 17). Thay vì xót xa, Phaolô hướng cái nhìn về Ðức Kitô, bày tỏ niềm vui và tạ ơn vì dù sao Tin mừng cũng được rao báo (Pl 1,18). Phaolô luôn vững tin vào Ðức Kitô và tâm sự: " Ðối với tôi, sống là Ðức Kitô và chết là một mối lợi vì được hoàn toàn ở với Ðức Kitô (Pl 1,22). Ðối với ngài, cái chết đáng yêu vì cho phép được ở với Ðức Kitô như lòng hằng mong mỏi. Phaolô giải thích thêm: "Nếu sống ở đời này mà công việc của tôi sinh hoa kết quả, thì tôi không biết phải chọn đàng nào. Vì tôi bị giằng co giữa hai đàng: ao ước của tôi ra đi để được ở với Ðức Kitô, điều này tột hơn bội phần: nhưng ở lại đời này thì cần thiết hơn vì anh em” (Pl 1,22-24).

 

1 Tx nói Ðức Kitô quang lâm ngự đến trên không trung, những kẻ đã chết sống lại và cùng với những người đang sống đi nghênh đón Ngài và được ở cùng Ngài mãi mãi (syn Christoi). Ở đây, chết là một biến đổi (x. Pl 3,20-21) để được ở với Ðức Kitô (en Christoi). Như thế, ta nhận thấy có một bước tiến trong tư tưởng của Phaolô so về sự chết.

  

B. Sự chết đáng sợ (2 Cr)

 

Lúc ấy, Phaolô đang gặp thất bại trước những người Do thái quá khích và buồn sầu trước sự sa sút của các tín hữu Côrintô. Ngài viết thư 2 Cr Tư tưởng của Phaolô về sự chết lúc này khá bi quan. Nếu trong Rm 6, Phaolô trình bày Mầu nhiệm Vượt qua: được thanh tẩy trong cái chết và sự Phục sinh của Ðức Kitô, tín hữu chết đi cho tội lỗi và sống sự sống mới của Chúa, thì trong 2 Cr, Phaolô không nói chết để được sống mà lại ngắm nhìn sự chết đến với tất cả những khổ đau nó đem đến: "Chúng tôi phải chịu đứng quá mức, quá sức chúng tôi, đến nỗi chúng tôi không còn hy vọng sống nổi".

 

a. Tin tưởng vào Ðức Kitô đang hành động

 

Trước những nổi đau ấy, Phaolô chỉ còn biết áp dụng cho chính mình những gì mà ngài đã từng nói về Abraham: như Abraham, phải "tin vào Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu, Chúa chúng ta, trổi dậy từ trong kẻ chết” (Rm 4,24): "Chúng tôi đã mang án tử nơi chính bản thân, để chúng tôi không còn tin tưởng vào chính mình mà vào Thiên Chúa, Ðấng làm cho kẻ chết sống lại” (2 Cr 1,9-10).

 

Trong 2 Cr 4,16 - 5,10, ta nhận ra thái độ của Phaolô trước sự chết đe doạ. Sau khi long trọng công bố ngài được vinh dự trao phó sứ vụ tông đồ, như một kho tàng vinh quang, ngài cũng ý thức mình chỉ là con người nghèo hèn yếu đuối: "Kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi” (2 Cr 4,7). Ngài khẳng định phải luôn tin tưởng Chúa luôn hiện diện và hoạt động qua các thừa tác của Người (x. 2 Cr1,21; 2,14; 3,18; 4,6). Ngài bộc lộ những khổ đau phải chịu vì Ðức Kitô, nhưng hoàn toàn đặt niềm tin tưởng nơi Ðức Kitô, Ðấng hành động nơi người tông đồ và thông ban cho ngài sức sống của Ngài. Vinh quang hành động ngang qua sự khiêm hèn hầu mang lại chiến thắng trên sự chết: "Ðấng làm cho ÐK sống lại cũng làm cho chúng tôi được sống lại với ÐG và đặt chúng tôi bên Ngài (2 Cr 4,13-15). Hãy lắng nghe những tâm sự sau đây của Phaolô: "Chúng tôi bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang, nhưng không tuyệt vọng; bị ngược đãi, nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt. Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Ðức Giêsu, để sự sống của Ðức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi. Thật vậy, tuy sống, chúng tôi hằng bị cái chết đe doạ vì Ðức Giêsu, để sự sống của Ðức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân xác phải chết của chúng tôi” (2 Cr 4,8-11). Chính do sự chết của người tông đồ mà phát sinh sự sống cho các tín hữu: "Sự chết hoạt động nơi chúng tôi, còn sự sống thì lại hoạt động nơi anh em" (2 Cr 4,12). Chính vì thế, người tông đồ luôn can đảm đối diện với sự chết và đặt trọn niềm tin tưởng vào Ðức Kitô, vì "khi mang trong mình cuộc thương khó của Ðức Kitô, để sự sống của Ðức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân xác của chúng tôi".

 

b. Hy vọng được ở với Ðức Kitô

 

Ðối diện với sự chết, Phaolô bày tỏ niềm hy vọng sâu sắc, đó là khi nhà trần gian bị hủy diệt là ta đi vào nhà trên trời. Ngài nói: "Ngôi nhà của chúng ta dưới đất là chiếc lều này bị phá hủy thì chúng ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, ngôi nhà vĩnh cửu trên trời không do tay người thế làm ra” (2 Cr 5,1-5). Ngôi nhà đó là gì ? Vinh phúc trên trời, thân thể vinh quang, Thiên đàng ? Cha A. Feuillet lưu ý: theo mạch văn, ngôi nhà này không do tay người làm ra - gợi lại lời Chúa Giêsu nói về Ðền thờ- có nghĩa là ngôi nhà này đến từ Thiên Chúa; và đó không là gì khác ngoài chính con người Ðức Giêsu. Thánh Phaolô không có ý nói chúng ta sẽ có một thân thể vinh quang, nhưng đang có bây giờ một ngôi nhà vĩnh cửu. Ðiều đó có nghĩa là thân thể vinh quang của Ðức Kitô đang hiện diện trên trời. Ðiều này gợi lại cho ta sự xác tín của Phaolô về hai Ađam trong 1 Cr 15,45-49. Cũng như có hai Ađam, một Ađam từ bụi đất mà ra và một từ trời mà đến. Vì thế, cũng như chúng ta đã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Ðấng từ trời mà đến. Và như thế, có hai chổ ở. Ðức Kitô vinh hiển là nơi cư ngụ trên trời của chúng ta.

 

Trong thư Pl, thánh Phaolô nói Thiên Chúa sẽ biến đổi thân xác hay chết của chúng ta nên giống thân thể sáng láng của Ðức Giêsu. Do đó, Khi chết cũng chính là lúc được ở với Ðức Kitô. Một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cả một khối vinh quang vô tận (2 Cr 4,16-18).

 

Tất cả những điều này nói lên niềm hy vọng sâu sa của thánh Phaolô đứng trước sự chết đáng sợ đang mời chào: Qua cái chết, chúng ta sẽ được ở bên Thiên Chúa, ở cùng Ðức Kitô vinh hiển; và như thế, niềm ước vọng sâu thẳm của chúng ta được thành tựu: "Vậy, chúng tôi luôn mạnh dạn vì biết rằng: ở lại trong thân xác này là lưu lạc xa Chúa,.và điều chúng tôi thích hơn, đó là lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa” (2 Cr 5,6-8; x. Pl 1,22).

 

2. Chịu đóng đinh với Ðức Kitô

 

Ðức Giêsu đã từng mời gọi các môn đệ: " Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy" (Mt 16,25). Thánh Phaolô đã thực hiện đến cùng lời mời gọi này. Ngài đưa vào thực tế đời mình lý thuyết "lời thập giá".

 

Mầu nhiệm Ðức Kitô chết và sống lại được diễn tả trong lời thập giá và trong việc thực hành thánh tẩy. Thập giá mang đến sự giao hoà với Thiên Chúa, bí tích Thánh tẩy đưa tín hữu vào mầu nhiệm vượt qua và làm nó nên tạo thành mới. Ðước chết trong Ðức Kitô và được sống lại, người tín hữu dấn thân vào tiến trình đời sống mới. Thánh Phaolô quả quyết: "Tôi cùng chịu đóng đinh với Ðức Kitô vào Thập giá. Tôi sống, nhưng không còn là tôi mà là Ðức Kitô sống trong tôi" (Gl 2,19-20". "Những ai thuộc về Ðức Kitô, thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê” (Gl 5,24).

 

3. Hoa trái Thần khí (Gl 5, 16-24)

 

Thánh Phaolô trình bày một đối kháng giữa thần khí và xác thịt. Xác thịt thì ước muốn điều trái ngược với Thần khí. Xác thịt làm phát sinh những hoa trái xác thịt; còn hoa quả của Thần khí là bác ái, hoan lạc, bình an, nhịn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ" (Gl 5,16-23). Theo Phaolô, xác thịt là thừa kế của tội, trong khi Thần khí mang lại tất cả những gì là tốt đẹp. Chiến đấu với xác thịt không là gì khác ngoài chống lại sự tội, tức chống lại sự chết là hậu quả của tội. Kitô hữu thực hiện cuộc chiến này, vì lẽ Ðức Kitô đã mang lấy xác thịt và biến thành tội lỗi vì chúng ta” (2 Cr 5,21), Người đã mang lấy thân phận tội lỗi (Pl 2,6; Rm 8,3) và Thiên Chúa đã lên án tội trong thân xác Con mình" (Rm 8,3) để ta được nên công chính trong Người (2 Cr 5,21; Rm 8,4). Tín hữu đóng đinh xác thịt vào Thập giá Ðức Kitô và được đảm bảo cuộc chiến thắng vào ngày Quang lâm (x. Cl 3,1-4).

 

4. Từ sự chết đến sự sống

 

Thái độ sống của Phaolô cho thấy mầu nhiệm sự sống triển nở ngang qua cái chết. Ngài viết: "Tôi coi tất cả, mọi sự là thiệt thòi so với mối lợi tuyệt vời là được biết Ðức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết và tôi coi tất cả như rác để được Ðức Kitô và được kết hợp với Người. Vấn đề là biết chính Ðức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3,8-10).

 


Phaolô coi cuộc đời như một thao dợt và học tập cách chết, vì nghĩ rằng ”một khi cùng chịu đau khổ với Người thì cũng sẽ được hưởng vinh quang với Người” (Rm 8,17). Cuộc sống của Phaolô vì thế luôn là một cảm nghiệm sống thường xuyên về đau khổ. Ngài tuyên bố tuy sống nhưng hằng bị cái chết đe doạ vì Ðức Giêsu (2 Cr 4,11). Con người được nhận lãnh những hồng ân phi thường vẫn phải chịu một cái dằm trong thân xác để khỏi tự cao tự đại (2 Cr 12,7). Ngài tâm sự: "Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Ðức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh" (2 Cr 12,10). Ta hãy lắng nghe lời tâm sự sau đây: "Thiên Chúa đã đặt chúng tôi làm tông đồ hạng chót như những kẻ bị án tử hình, bởi vì chúng tôi đã nên trò cười cho thế gian, cho thiên thần và loài người. Chúng tôi điên dại vì Ðức Kitô, chúng tôi yếu đuối, chúng tôi bị khinh khi. Cho đến giờ này, chúng tôi phải chịu đói khát, trần truồng, bị hành hạ và lang thang; chúng tôi phải vất vả làm lụng. Bị nguyền rủa… bị bắt bớ, chúng tôi nên như rác rưởi của thế gian, như đồ phế thải đối với mọi người" (1 Cr 4,9-13). Ngài sẵn sàng đón nhận tất cả vì nhận thức sâu sắc rằng trong mọi đau khổ phải chịu ấy, Ngài thật sự cộng tác vào sự cứu độ của Ðức Kitô.

 

Thánh Phaolô viết: "Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Ðức Giêsu để sự sống của Ðức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi” (2 Cr 4,10), như thể muốn nói Ðức Giêsu đã và nay vẫn tiếp tục chết ngang qua các môn đệ của Người. Sự chết vẫn đang hoạt động trong các tông đồ để sự sống được chuyển tới các tín hữu. Không phải là một thay thế, nhưng là một chuyển dời từ sự chết đến sự sống. Sự chết của Ðức Kitô vẫn đang hoạt động cách huyền nhiệm để đản sinh sự sống trong Giáo hội của Người. Ngài nói: "Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Ðức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội thánh” (Cl 1,24).

 

Gian nan thử thách (tribulations: thlipseis) gợi lại những thử thách mà Israel đã trải qua, đặc biệt nơi Ai cập (Xh 4,31) và thời lưu đày (Ðnl 4,29). Từ này được dùng để nói lên những gian nan thử thách, nhất là những bách hại do đức tin mà các Tông đồ phải chịu. Thánh Phaolô đồng hoá những đau khổ của ngài với những gian nan thử thách mà Ðức Kitô đã chịu trong suốt thời gian sứ vụ, đưa đến cái chết thập giá. Thánh Phaolô nói những gian truân của Ðức Kitô còn thiếu, ngài xin mang vào thân cho đủ mức (antanaplèroô: remplir, compléter, combler). J. Kremer giải thích: Ðức Kitô vẫn hoạt động mãi cho đến ngày cùng tận. Ðiều đó được thể hiện nơi hoạt động của các tông đồ. Ðức Kitô phục sinh và vinh hiển luôn hiển hiện trong lịch sử qua dòng thời gian. Ðiều này thiếu nơi Ðức Giêsu Nadarét trước khi chết, do bị giới hạn bởi thân xác và lệ thuộc vào các định luật không và thời gian. Thánh Phaolô cho rằng những đau khổ ngài chịu như một bổ khuyết vào điều còn thiếu nơi những gian truân thử thách của Ðức Giêsu. Từ nay Ðức Giêsu Nadarét tỏ mình ngang qua hoạt động và những gian truân của các môn đệ. Mọi đau khổ truân chiên được đón nhận vì và cho Hội thánh, cũng như Ðức Giêsu đã chịu mọi đau khổ để thiết lập và xây dựng Hội thánh là thân mình của Người.

 

Kết luận

 

1. Giá trị của sự chết

 

Trọn cuộc đời, Chúa Giêsu đã hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha và chu toàn sứ mệnh Cha đã trao phó. Ngài không hề tìm sự chết, nhưng một khi hoàn toàn trung thành và đi đến cùng sứ mệnh, tất nhiên sự chết đến với Ngài như hậu quả của lòng trung thành tuyệt đối đó. Trong dòng Cựu ước, các ngôn sứ và các bậc chính nhân cũng đã từng chịu bách hại và giết chết. Tuy nhiên, đứng trước cái chết, Ðức Giêsu hoàn toàn tín nhiệm và phó thác vào Chúa Cha. Ngài bị kết án chết thập giá vì đã hoàn toàn trung thành đến cùng với Chúa Cha. Do đó sự chết thập giá của Ngài trở thành hy tế cứu độ nhân loại và căn nguyên sự sống cho mọi người. Cả một đời, Ngài hoàn toàn sống cho (Chúa Cha và nhân loại (pro-existence), thì cái chết cũng là chết cho Cha và mọi người. Tội Ađam gây nên sự chết cho mọi người, và cái chết của Ðức Kitô đem lại sự cứu độ cho mọi người. Biến cố sự chết của Ðức Kitô chỉ thật sự hữu hiệu cho những ai từ nay biết sống phù hợp với đời sống mới. Ðó là điều mà Thánh Phaolô đã trình bày trong thư Roma, Ep. Cái chết của Ðức Kitô mang giá trị toàn vẹn vì đem đến sự sống của Thiên Chúa; cho nên sự chết của mọi kẻ tin đạt ý nghĩa theo mức độ liên kết với sự chết của Ðức Kitô.

 

Ðức Giêsu chỉ cho các môn đệ biết con đường sự sống là hoàn toàn từ bỏ. Ngài đòi hỏi những ai muốn theo Ngài phải triệt để bước theo Ngài, tức là ở với (avec) và ở trong (en) Ngài. Thánh Phaolô đã có kinh nghiệm này khi chiêm ngắm cái chết của Chúa Giêsu và khi đối diện với cái chết của chính mình. Chúa Giêsu, và sau đó thánh Phaolô, đều có chung một kinh nghiệm: nhìn sự chết với tất cả niềm tin tưởng và phó thác vào sự hiện diện sống động của Thiên Chúa.

 

2. Dung mạo kép của sự chết

 

Nói về sự chết, trước hết Ðức Giêsu cho thấy đó là thân phận của con người và trước viễn tượng sự chết đe doạ, Ngài nhắc nhở cần sẵn sàng tỉnh thức và hoán cải, đồng thời hướng mắt về với Ðấng đang đến. Trong đời sứ vụ, Ðức Giêsu đã từng đấu tranh chống sự chết và đau khổ, dù Ngài tuyệt đối trung thành với Cha và với sứ mệnh. Những phép lạ Ngài làm chữa lành bệnh tật, phục sinh kẻ chết, chứng tỏ cho thấy sự sống mạnh hơn sự chết và sự chết không phải là điểm cuối của sự sống. Ðức Giêsu tin vào sự sống lại sau hết và hơn nữa Ngài biết Ngài sẽ sống lại. Sự chết mang khuôn mặt kép. Trong vườn Giệtsêmani, Ðức Giêsu vừa run sợ trước cái chết gần kề, nhưng lại vừa sẵn sàng chấp nhận thánh ý Chúa Cha. Trên thập giá, Ngài vừa bộc lộ sự khắc khoải vừa bày tỏ sự trung thành trong tiếng kêu Chúa Cha là Thiên Chúa của con.

 

Thánh Phaolô cũng đã cảm nghiệm khuôn mặt kép đó của sự chết, vừa đáng yêu vì được ở với Ðức Kitô mà Ngài hằng khát khao, vừa đáng khiếp sợ mà chỉ có đức tin vào Ðức Kitô mới giúp thắng vượt.

 

3. Mầu nhiệm sự chết

 

Chết là một huyền nhiệm, không thể hiểu khi nhìn vào chính nó, nhưng tình yêu cho phép ta hiểu được nó, như thể nhờ ánh sáng mà hiểu được mặt trời. Chết không phải là hết, nhưng là một Vượt qua từ cuộc sống trần gian tạm bợ tiến vào sự sống vĩnh cửu, là một biến đổi từ thân xác yếu hèn nên giống thân thể vinh quang của Ðức Kitô. Chết là hậu quả của tội như một quyền lực đang hoạt động và dường như thể đang thắng thế. Chính tội đưa đến sự chết và sự chết biểu tượng cho Tội. Nơi Ðức Giêsu, chết và sống lại là hai mặt của một mầu nhiệm duy nhất. Không thể tách sự chết ra khỏi lòng trung thành đi trước để gán cho sự chết ý nghĩa cứu chuộc, giải thoát, xá tội. Sự chết chỉ được soi sáng nhờ vào mầu nhiệm sự trung thành phó thác. Ðức Giêsu không tìm cái chết như phương thế cứu độ. Ngài đón nhận sự chết vì hoàn toàn vâng phục và trung thành với sứ mệnh Cha trao phó. Phaolô quả quyết mầu nhiệm sự chết và sự sống (tử nạn và Phục sinh) của Ðức Kitô vẫn tiếp tục hoạt động trong thân xác. Kitô hữu không được mời gọi tiêu cực chấp nhận khổ đau nhưng đón nhận chịu đóng đinh để biểu lộ lòng trung thành đến cùng với Tin mừng.

 

Cuộc sống tăng trưởng khi bứt mình khỏi vỏ cứng để mở ra cho tha nhân, điều đó đem đến đau khổ. Ðàng khác, những đau khổ đều do tội. Sự chết chỉ đem lại ý nghĩa từ sự chết của Ðức Kitô, cũng thế đau khổ chỉ có nghĩa trong mức độ kết hiệp với đau khổ của Ðức Kitô. Bên kia đau khổ và sự chết, chính là sự sống sung mãn.

 

4. Kitô hữu và sự chết

 

Khi mặc lấy bản tính loài người, Ðức Giêsu nhận lấy cái chết của chúng ta để cùng liên đới với thân phận tội lỗi của chúng ta. Là thủ lãnh nhân loại mới, Ađam mới (1 Cr 15,45; Rm 5,14), Người mang tất cả chúng ta trong Người khi chết thập giá; do đó trong cái chết của Người, tất cả đều chết (2 Cr 5,14). Bí tích Thánh tẩy liên kết chúng ta nên một với Chúa Kitô trên thập giá, được tẩy rửa trong cái chết của Người, được mai táng với Người trong sự chết ((Rm 6,3; Pl 3,10), và sự sống mới của chúng ta hiện đang tiềm ẩn với Ðức Kitô nơi Thiên Chúa (Cl 3,3). Từ nay, chúng ta chết cho tội (Rm 6,11), cho con người cũ (Rm 6,6), cho xác thịt (Gl 5,24), cho luật (Gl 2,19), cho những gì thuộc thế gian (Cl 2,20), để sống con người mới (Cl 3,5tt; Ep 4,20tt), sống theo Thần Khí (Rm8)..

 

Nhờ Ðức Kitô, chúng ta là những người sống trở về từ cỏi chết (Rm 6,13), được giải thoát khỏi sự chết, "vì ai nghe lời Ta sẽ vượt qua cái chết mà được sống” (Ga 5,24) và " dầu chết, sẽ được sống" (Ga 11,25). Việc kết hợp cùng cùng cái chết của Ðức Kitô đã thực hiện trong Phép Thánh tẩy vẫn thể hiện mỗi ngày trong đời sống, đó là chết cho tội, cho tình xác thịt (Rm8,13), cho những gì thuộc hạ giới (Cl 3,5). Cái chết từng ngày này hiện tại hoá cái chết của Ðức Giêsu và kéo dài hiệu quả phong phú của mầu nhiệm tử nạn trong thân thể Người là Giáo hội.

Ðức Kitô chết và sống lại là nên tảng cho niềm hy vọng được sống lại của tín hữu. Sự kết hợp với cái chết của Ðức Kitô không những cho ta bây giờ được sống cuộc sống mới Rm 8,11), nhưng còn bảo đảm cho ta sự sống vĩnh cửu trong Trời mới Ðất mới (Kh 21,4).

 
------------------------------------------------------------

Thư mục:

 

- X. Léon- Dufour, Face à la mort, Jésus et Paul, Seuil, Paris, 1979

- J. Guillet, Jésus devant sa vie et devant sa mort, Aubier, 1971

- P. Grelot, Péché originel et Rédemption à partir de l’épitre aux Romains, Desclée, 1973

- Simon Légasse, Paul Apôtre, Fides, 1991

Mục lục

 

 

 

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH

 

Trẻ quá hiếu động

 

Trong lớp học hay trong gia đình, đôi khi chúng ta thấy có những đứa trẻ ngỗ nghịch quá mức, khiến chúng ta bực bội la mắng, đánh đập chúng. Nhưng cũng chỉ được một thời gian ngắn rồi chúng lại chứng nào tật nấy. Nhiều người buồn bã nghĩ rằng chúng bất trị ! Chúng thuộc loại trẻ như thế nào ? Có giải pháp nào để giáo dục chúng không ?

 

Trẻ ngỗ nghịch thật không ?

 

Theo chuyên gia tâm lý, bác sĩ Gordon Serfontein : những đứa trẻ biểu hiện ngỗ nghịch, quậy phá như thế không phải vì chúng xấu xa, lơ đãng, cứng đầu, mà lý do chúng mắc chứng Rối loạn vì thiếu khả năng chú ý. Trên thế giới có đến 5 – 20 % các em trai mắc chứng bệnh này.

 

Biểu hiện của loại trẻ này thường là : tâm lý xao lãng, chẳng tập trung vào cái gì, cả khi ăn uống vui chơi giải trí. Nhiều khi chúng như mơ màng những chuyện ở đâu đâu. Nhưng khi có chuyện gì xảy ra chúng liền bị cuốn hút vào đó ngay và có phản ứng tức thời. Chính do những phản ứng như thế mà chúng sinh ra hiếu động và nghịch ngợm. Chúng thường bồn chồn, chân tay táy máy, sờ cái này, vặn cái kia, phá cái nọ, chuyển từ hoạt động này sang hoạt động khác, không ngưng nghỉ, thường xà tới đồ vật, máy móc, đồ chơi và phá hỏng, bất kể nguy hiểm. Người coi trẻ khá mệt mỏi để giữ chúng.

 

Vì tâm tình xao lãng như thế, nên chúng chẳng chú tâm vào cái gì, cũng chẳng để ý đến lời răn dạy của cha mẹ, thầy cô. Chúng quên cả việc bổn phận, chậm trễ trong mọi sinh hoạt. Chúng thiếu kiên nhẫn, lúng túng khi phải đối diện với những thay đổi, cảm thấy khó khăn khi phải phối hợp các động tác tay, chân và mắt…Vì thế không ngạc nhiên khi chúng thường học kém, gặp khó khăn khi phải đánh vần, đọc và viết.

 

Nguyên nhân của chứng quá hiếu động

 

Theo các nhà khoa học, nguyên nhân của chứng Trẻ hiếu động quá mức là do thần kinh trong não bộ của trẻ không tiết ra đủ chất dẫn truyền (dopamin) cho các tế bào thần kinh do có sự cố trong cơ cấu tế bào như chậm phát triển, tế bào còn non. Vì thế việc chuyển tải các thông tin giữa các tế bào bị giảm sút và gây nên những biểu hiện như ta thấy. Bệnh xuất hiện khá sớm, nhưng đến 3 -4 tuổi mới phát ra mạnh. Bệnh tăng nhanh trong khoảng 6-11 tuổi và đến 14-15 tuổi thường có dấu hiệu khựng lại, khi não bộ phát triển tốt hơn. Tuy nhiên nếu không được giáo dục, chấn chỉnh, chúng sẽ mang bệnh cho tới tuổi trưởng thành và ảnh hưởng xấu sẽ kéo dài suốt cả đời. Bệnh này do di truyền và thường xuất hiện nơi các em bé trai nhiều hơn bé gái.

 

Cách giáo dục trẻ quá hiếu động

 

Nhiều cha mẹ đã chán nản  bỏ bê những đứa trẻ quá hiếu động, để mặc chúng muốn sao thì ra, không them nói tới nữa. Cách giải quyết này rất nguy hiểm vì khi trẻ không được gia đình quan tâm, dễ tham gia các băng nhóm, làm những điều dại dột, phạm pháp và cuộc đời sẽ hư hỏng. Ngược lại, có phụ huynh chọn hình thức giáo dục bằng đòn roi để trấn áp, khuất phục. Biện pháp này chỉ có kết quả trước mắt nhưng lại mang lại những tác hại là ghi sâu những vết hằn trong đời chúng. Theo bác sĩ Gordon Serfontein, chúng ta cần tìm ra giải pháp tích cực hơn. Ông đã đưa ra những phương thế sau :

 

Để giúp trẻ tập trung vào công việc, cha mẹ phải soạn cho con một thời khóa biểu sinh hoạt hằng ngày chi tiết, rõ rang, khả thi và bắt chúng theo sát thời biểu này cách đều đặn. Cha mẹ chỉ vẽ cặn kẽ cho con những gì càn phải giữ trong  cách ăn mặc, ngủ nghỉ, học hành, chơi, đạo đức, thiêng liêng. Cần thiết kiểm soát xem chúng giữ thế nào và giúp chúng  chấn chỉnh ngay khi có những sai sót.

 

Chúng ta không nên chửi mắng, đánh đập khi chúng có những biểu hiện khó chịu, nhưng hãy ấp ủ, yêu thương chúng. Ta không chiều chuộng cũng không khắc khe, nhưng kiên quyết trong việc chữa những sai phạm của con. Phương pháp sửa chữa lỗi lầm có hiệu quả là khen, thưởng khi chúng làm điều tốt, và phạt khi chúng làm điều sai trái bằng cách cho hay hủy bỏ những quyền lợi, phần thưởng mà chúng có thể có như cho đi chơi hay phải ở nhà học bài…  Cha mẹ nên giúp con mình nhận ra những sai trái và tự chấn chỉnh. Khi chúng nóng nảy, ta nên để cho chúng nguội đi, và sau sẽ nói chúng biết phải trái.

 

Ở nhà trường, loại trẻ này cần được thông cảm, tận tình săn sóc, yêu thương hơn các trẻ khác. Chúng nên được xếp vào lớp có ít học sinh hơn, vừa trình độ với chúng. Thầy cô sẽ giúp các em tuân giữ kỷ luật, tránh cho chúng gây hấn, ăn hiếp nhau. Trong các sinh hoạt nên có chương trình, chuẩn bị sẵn trước; không nên thay đổi những sinh hoạt mà trẻ đã quen. Trẻ thường học kém, thầy cô nên giảm bớt bài làm ở nhà. Trẻ cần được phát triển về trí não, ngôn ngữ, kỹ năng bằng học luyện, thực tập nói, viết, chơi và lao động trong gia đình. Tham gia các đoàn thể như Hướng đạo, Thiếu nhi Thánh Thể, lớp giáo lý…cũng là cách để chúng bớt mặc cảm, sống tự tin hơn.

 

Cuộc sống của những đứa trẻ quá hiếu động, cần những phương thế tốt nhất để giáo dục chúng.

 

Lm. Trần Hòa

Mục lục

 

Bệnh viêm tai giữa ở trẻ

Bệnh viêm tai cũng phổ biến như chứng cảm lạnh thường, song rất khó phát hiện. Theo ước tính, cứ bốn trẻ dưới 3 tuổi thì lại có ba em mắc bệnh. Để phát hiện và có cách điều trị hiệu quả, trước tiên cần hiểu cơ chế hoạt động của tổ chức tai.

 

Tổ chức tai


Hãy tưởng tượng bạn đang cảm nhận độ rung của loa khi nghe một CD yêu thích của bé hoặc thấy cổ họng rung lên khi nói. Chính âm thanh gồm các sóng năng lượng vô hình đã tạo ra các rung động này. Mỗi khi nghe thấy âm thanh, các cấu trúc trong tai sẽ hoạt đồng đồng thời để đảm bảo đưa thông tin tới não.
 

Tai có hai nhiệm vụ, lắng nghe và giữ thăng bằng. Nó gồm 3 phần: tai ngoài, tai giữa và tai trong. Hoạt động nghe sẽ bắt đầu từ lúc sóng âm thanh đi xuyên qua không khí tới tai ngoài, còn gọi là loa tai, phần có thể nhìn thấy. Sau đó, các sóng âm thanh đi từ loa tai qua ống tai và vào tai giữa - bao gồm màng nhĩ (một lớp mô mỏng) và 3 xương nhỏ. Khi màng nhĩ rung, các xương nhỏ sẽ khuếch đại các rung động và mang chúng tới tai trong.


Tai trong có nhiệm vụ "phiên dịch" các rung động thành tín hiệu điện và gửi chúng tới dây thần kinh thính giác nối với não bộ. Khi các xung thần kinh đến não, chúng được "diễn giải" thành âm thanh.
 

Để hoạt động bình thường, tai giữa phải có áp suất giống như môi trường bên ngoài. Điều này được duy trì bởi vòi Ot-tát, một ống nhỏ nối tai giữa với phần sau của cổ họng nằm ở sau mũi.


Để không khí tiếp xúc được với tai giữa, vòi Ot-tát sẽ làm cân bằng áp suất không khí trong tai giữa và bên ngoài. Khi ngáp hay nuốt thức ăn, bạn thường thấy trong tai có tiếng "pop", đó là lúc vòi Ot-tát điều chỉnh áp suất không khí trong tai giữa. Nó cũng cho phép dẫn lưu nước nhầy từ tai giữa vào cổ họng.


Đôi khi vòi Ot-tát có thể bị suy chức năng. Ví dụ, khi trẻ bị lạnh hoặc dị ứng gây ảnh hưởng tới đường mũi, vòi Ot-tát sẽ tắc nghẽn do lớp niêm mạc trong ống bị sung huyết hoặc đông nghịt lớp nhày. Sự tắc nghẽn này sẽ làm cho dịch tích tụ trong tai giữa. Vi khuẩn và virus thâm nhập vào tai giữa qua ống Ot-tát cũng có thể bị "nhốt" ở đây. Chúng có thể sinh sôi trong chất dịch đọng, và gây viêm tai.


Thế nào là bệnh viêm tai giữa?


Đó là bệnh liên quan đến tình trạng viêm ở vùng tai giữa. Có một số dạng viêm tai giữa khác nhau. Khi khám viêm tai, bác sĩ thường chú ý tới dạng viêm tai giữa cấp - hiện tượng có dịch, điển hình là mủ, tích tụ trong tai giữa, gây đau, đỏ màng nhĩ và sốt.


Những dạng viêm tai giữa khác là mạn tính tự nhiên hoặc có dịch trong tai giữa tạm thời và không nhiễm khuẩn.


 Lý do phân biệt các dạng viêm tai giữa khác nhau là vì nó liên quan đến việc lựa chọn cách điều trị. Không phải tất cả các dạng viêm tai giữa đều cần dùng kháng sinh.


Tại sao trẻ bị viêm tai giữa?


Trẻ thường bị viêm tai giữa trong 2-4 năm đầu tiên vì một số nguyên nhân sau:


- Vòi Ot-tát ở trẻ ngắn và nằm ngang so với người lớn, tạo điều kiện cho vi khuẩn và virus thâm nhập vào tai giữa dễ dàng. Vòi này của trẻ cũng hẹp và mềm hơn, do đó dễ bịt kín.


- Nấm V.A - những tổ chức hình tuyến nằm ở đằng sau của cổ họng trên và gần vòi Ot-tát - ở trẻ khá lớn và có thể gây cản trở sự đóng mở của vòi Ot-tát.


- Dưới 7 tuổi, hệ miễn dịch của trẻ chưa phát triển đầy đủ. Do đó, các em khó chống lại sự nhiễm trùng.


Ngoài ra, có một số yếu tố khác dẫn tới bệnh viêm tai giữa ở trẻ, phổ biến nhất là việc tiếp xúc với khói thuốc lá, bú bình và đi nhà trẻ.


Viêm tai giữa phổ biến ở bé trai hơn bé gái, đặc biệt là những em có tiền sử bệnh trong gia đình. Bệnh cũng thường xảy ra vào mùa đông - mùa của các bệnh viêm nhiễm đường hô hấp trên và cảm lạnh.


Dấu hiệu và triệu chứng của viêm tai giữa


Biểu hiện bệnh có thể đi từ nhẹ đến nặng:


- Dịch trong tai giữa đọng nhiều, thúc ép lên màng nhĩ gây đau tai. Do đó, trẻ lớn có thể kêu tai, còn trẻ nhỏ thì có thể kéo giật tai mạnh, hoặc có biểu hiện khó chịu và khóc nhiều hơn bình thường.


- Tư thế nằm, nhai và bú có thể gây ra những cơn đau do sự thay đổi áp suất trong tai giữa. Vì thế, trẻ có thể ăn ít hơn hoặc khó ngủ.


- Nếu áp suất từ dịch tích tụ quá nhiều, nó có thể làm thủng màng nhĩ, dẫn tới rò rỉ dịch trong tai. Hiện tượng này sẽ làm giảm áp suất dưới màng nhĩ, khi đó trẻ sẽ bớt đau hơn.


Ngoài ra, chất dịch đọng trong tai giữa có thể gây cản trở đường truyền âm thanh, dẫn tới tình trạng khó nghe tạm thời. Hãy để ý nếu trẻ:


- Không có phản ứng với âm thanh yếu


- Bật to TV hoặc radio


- Nói to hơn


- Có biểu hiện mất tập trung ở trường


 Một số triệu chứng khác của dạng viêm tai giữa cấp là sốt, buồn nôn, nôn, hoa mắt và chóng mặt.


Bệnh viêm tai liên quan chặt chẽ với các bệnh viêm đường hô hấp trên. Vì thế, nó cũng có thể kèm theo các triệu chứng như ho, sổ mũi hoặc nghẹt mũi.


Viêm tai giữa có lây?


Bệnh viêm tai không truyền nhiễm, song do có liên quan đến chứng cảm lạnh (rất dễ lây lan) nên nó cũng có thể phát tán.


Bệnh kéo dài trong bao lâu?


Viêm tai giữa thường tự biến mất trong 2-3 ngày, thậm chí không cần bất kỳ liệu pháp đặc trị nào. Nếu bác sĩ cho trẻ dùng kháng sinh thì liệu trình 10 ngày là tối đa. Đối với những trẻ từ 6 tuổi trở lên bị viêm nhẹ hoặc trung bình, chỉ nên dùng một liều kháng sinh từ 5-7 ngày.


 Tuy nhiên, kể cả sau khi đã điều trị bằng kháng sinh hết một đợt viêm, dịch vẫn có thể đọng lại trong vùng tai giữa trong vài tháng sau đó.


Làm thế nào để chẩn đoán và trị bệnh?


Nếu nghi ngờ viêm tai, hãy đưa trẻ đi khám ngay. Chỉ có bác sĩ chuyên môn mới có thể chẩn đoán đúng dựa vào triệu chứng lâm sàng và kiểm tra sức khỏe.


Khi khám, bác sĩ sẽ dùng ống soi tai - một dụng cụ nhỏ giúp nhìn rõ màng nhĩ. Cho đến nay, không có phương pháp duy nhất điều trị tất cả các loại viêm tai giữa. Do đó, để quyết định cách chữa, bác sĩ sẽ cân nhắc một số yếu tố sau:


- Dạng viêm tai và mức độ nghiêm trọng


- Số lần bị viêm tai


- Đợt viêm mới kéo dài bao lâu


- Trẻ bao nhiêu tuổi


 - Những yếu tố nguy cơ trẻ có thể gặp


- Liệu bệnh có ảnh hưởng tới thich giác của trẻ


Trong thực tế, do tính chất tự khỏi của bệnh nên một số chuyên gia cho rằng có thể dùng phương pháp “đợi và xem xét”. Theo đó, người ta sẽ cho trẻ thuốc giảm đau thay vì kháng sinh trong một vài ngày. Có một số lý do quan trọng để xem xét giải pháp này:


 Đối với kháng sinh:


+ Không hiệu quả đối với các bệnh lây nhiễm do virus


+ Không loại bỏ được dịch đọng trong tai giữa


+ Có thể gây phản ứng phụ


+ Không giảm đau trong 24 giờ đầu và có ảnh hưởng rất ít lên cơn đau sau đó


+ Việc sử dụng kháng sinh thường xuyên có thể làm cho khuẩn kháng thuốc, gây khó khăn hơn cho điều trị sau này.


Ngoài ra, giải pháp “đợi và xem” cũng không thể áp dụng cho trẻ bị dị tật sứt hàm ếch, bị hội chứng Down hoặc các bệnh tiềm ẩn như rối loạn miễn dịch, có tiền sử tái phát.


Tuy nhiên, một số trẻ lại cần dùng kháng sinh ngay như:


- Bị viêm tai nhiều lần


- Còn ít tuổi


- Bị bệnh nặng hơn


Việc có nên dùng kháng sinh hay không vẫn cần thời gian xem xét, trong khi đó, có thể giúp bé giảm đau và hạ sốt bằng acetaminophen, ibuprofen hoặc thuốc nhỏ tai giảm đau, miễn là màng nhĩ chưa bị thủng.


Biện pháp phẫu thuật ống tai cần được áp dụng cho một số trẻ bị mất thính giác liên tục. Trong một số trường hợp, bác sĩ tai mũi họng sẽ khuyên phẫu thuật đưa các vòi đặc biệt có tên là tympanostomy vào màng nhĩ. Nó cho phép dịch từ tai giữa chảy ra ngoài, giúp cân bằng áp suất trong tai khi mà vòi Ot-tát không thể đảm nhiệm việc này.


Có thể phòng bệnh viêm tai giữa?


Ngoài một số yếu tố không thể thay đổi như tiền sử gia đình hoặc thường xuyên bị viêm tai, có thể phòng ngừa bệnh cho trẻ bằng cách:


- Nuôi con bằng sữa mẹ tối thiểu 6 tháng. Việc này giúp ngăn ngừa sự phát triển các đợt viêm tai từ sớm. Nếu trẻ bú bình, hãy giữ cho trẻ ở một góc nghiêng vừa phải thay vì cho trẻ bú nằm.


- Tránh cho bé tiếp xúc với khói thuốc lá, nếu không nó sẽ làm tăng số lần và mức độ nghiêm trọng của bệnh
 

- Giảm tiếp xúc với nhiều trẻ khác, nhằm ngăn ngừa các bệnh viêm đường hô hấp trên - nguyên nhân gây viêm tai thường xuyên.


- Rửa tay sạch, cả trẻ và cha mẹ cần thực hiện việc này. Đây là một trong những cách quan trọng nhất giúp giảm nguy cơ truyền bệnh.


- Cho trẻ tiêm chủng đúng lịch, vì một số loại văcxin có thể giúp ngăn ngừa viêm tai


Chú ý là các thuốc cảm lạnh và dị ứng như nhóm kháng histamines và chống dị ứng không thể phòng bệnh viêm tai.


Khi nào cần gọi bác sĩ?


- Khi trẻ bị viêm tai không tự khỏi hoặc viêm tai tái phát nghiêm trọng, cần cho trẻ đi khám ngay vì chúng có thể dẫn tới biến chứng, gây viêm các tổ chức xương lân cận.


- Khi trẻ bị đau tai hoặc có cảm giác “đầy tai”, đặc biệt kèm theo sốt


- Một số nguyên nhân khác dẫn tới đau tai như đau răng, vật lạ trong tai hoặc ráy tai cứng. Bác sĩ có thể tìm ra nguyên nhân và đưa ra lời khuyên cụ thể.

 

Viêm tai giữa tiết dịch - bệnh hay gặp ở trẻ


Bệnh thường xuất hiện sau viêm nhiễm đường hô hấp trên, hay bị bỏ qua vì không có biểu hiện rõ, nhất là ở trẻ chưa biết nói. Viêm tai giữa tiết dịch nếu kéo dài sẽ gây giảm thính lực, giảm khả năng hình thành ngôn ngữ, giao tiếp và học tập.


Về mặt thời gian, có thể xếp thành 3 thể: thể cấp tính xảy ra trong thời gian 3 tuần trở lại; thể mạn tính khi bệnh kéo dài trên 3 tháng. Bệnh kéo dài trong khoảng thời gian từ 3 tuần đến 3 tháng được xếp vào thể bán cấp.


Cuộc khảo sát trên 3.300 trẻ từ 6 tháng đến 15 tuổi ở hai quận nội và ngoại thành TP HCM cho thấy tần suất viêm tai giữa tiết dịch là 7%, trong đó đỉnh cao nhất là 2 tuổi, chiếm 22%. Bệnh thường xảy ra trong những tháng mùa đông và liên quan đến nhiễm trùng đường hô hấp trên. Một số tác giả cho rằng bệnh thường xảy ra sau một đợt viêm tai giữa cấp.


Một nghiên cứu khác ở trẻ em 2-5 tuổi cho thấy, 53% trẻ trong năm đầu tiên và 61% trẻ trong năm thứ hai bị viêm tai giữa tiết dịch ở ít nhất một tai. Trong hai năm đầu tiên, bệnh thường xảy ra ở cả hai tai, có khuynh hướng xảy ra ở một tai ở trẻ lớn. Đa số các trường hợp tự khỏi trong vòng vài tháng không cần điều trị.


Nhiều bệnh nhi không có biểu hiện triệu chứng rõ ràng. Cha mẹ hoặc thầy cô giáo có thể nghi ngờ trẻ bị giảm thính lực khi thấy trẻ mất tập trung hay chậm nói. Có thể phát hiện nghe kém bằng khám sàng lọc định kỳ cho trẻ tại trường học, nhưng cũng có trường hợp không phát hiện ra, nhất là khi trẻ chỉ nghe kém một tai. Một số trẻ có những đợt đau tai thường vào ban đêm, loạng choạng, ù tai, sốt và bứt rứt.


Ngoài việc giảm thính lực và khả năng ngôn ngữ, giao tiếp, viêm tai giữa tiết dịch không điều trị còn gây một số di chứng như: để lại một lỗ thủng vĩnh viễn trên màng nhĩ, viêm tai giữa nung mủ mãn, xơ nhĩ, viêm tai giữa dính, hoại tử chuỗi xương con, các túi lõm trên màng nhĩ... Vì vậy, cha mẹ cần sớm phát hiện những bất thường ở tai trẻ để điều trị sớm.

 

 

Theo Vnexpress

Mục lục

 

 

ĐỌC SÁCH

CHÚA NHÂN TỪ

Một buổi sáng đi ngang qua con đường Euclid vùng Nam California, thấy đầy dẫy những người Mễ đứng dọc hai bên lề đường, tôi thắc mắc hỏi bác tài xế, và được biết là họ đang đứng chờ người thuê đi làm. Bác tài xế còn nói thêm: "Ở đây thuê Mễ rẻ lắm". Tôi hỏi tiếp: "Vậy rẻ là bao nhiêu vậy bác?" Bác trả lời: "Có người trả họ hai đồng một giờ, có người thuê ba đồng, có người bốn hoặc năm đồng. Nhưng mà bốn năm đồng thì hiếm lắm. Tụi nó... hả... trả bao nhiêu nó cũng làm hết".

Thấy cảnh tượng nhân công nhiều mà người thuê nhân công thì ít, tôi chợt nghĩ : Sẽ có người sẽ được thuê đi làm và được năm ba đồng nuôi sống gia đình, cũng có người sẽ đợi, đợi mãi rồi lủi thủi trở về nhà chờ sáng mai ra đứng đợi tiếp. Cuộc sống của họ thật bấp bênh. Nghĩ thật đáng thương!

Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giêsu diễn tả Nước Trời qua hình ảnh một gia chủ gọi các người thợ vào làm vườn nho cho ông. Nhưng khác với những người nhân công Mễ trong câu chuyện trên, những người thợ làm vườn nho trong bài Tin Mừng hôm nay đều được chủ vườn nho gọi đi làm và được trả công cân xứng: có người được gọi đi làm ngay từ tảng sáng, có người từ trưa, và có người mãi đến chiều; và tất cả đều được một đồng tiền lương.

Tương tự như vậy. Thiên Chúa mời gọi người ta gia nhập Hội Thánh vào nhiều thời điểm khác nhau : Có người ngay từ khi mới sinh, người khác ở tuổi mới lớn, có người ở tuổi trưởng thành, có người khi về già và thậm chí có người ngay trước khi chết nữa. Bất cứ ai, dù theo đạo từ khi mới sinh hay trước khi chết, nếu thành tâm tin yêu phụng sự Thiên Chúa, tuân giữ các giới răn mà Ngài đã truyền dạy, thì đều được Ngài cho hưởng ơn cứu độ. Đó là tình thương yêu, lòng nhân từ quảng đại của Thiên Chúa đối với con người, đặc biệt đối với những người gia nhập Hội Thánh sau này.

Mỗi người chúng ta, sau khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, hằng ngày đón nhận biết bao ơn phúc và tình thương của Chúa. Hôm nay là dịp để chúng ta cùng nhau nhìn lại ơn gọi cao quý mà Chúa đã kêu gọi mỗi người chúng ta vào làm vườn nho Chúa. Chúng ta tin rằng cho dầu chúng ta được nuôi dưỡng và lớn lên trong gia đình đạo hạnh ngay từ tấm bé, hay cho dầu suốt cả đời sống xa tình Chúa và nay được ơn nhận biết Chúa trong những ngày tháng cuối đời, chúng ta đều có quyền tin chắc rằng Chúa luôn yêu thương chúng ta, và Ơn Cứu Độ của Ngài luôn dành cho những ai lắng nghe và đáp trả lời mời gọi của Ngài

Lạy Chúa, chúng con cám ơn Chúa vì Chúa đã gọi, đã chọn, và đã trao cho chúng con mỗi người mỗi việc trong vườn nho Chúa. Xin Chúa ban cho chúng con được luôn rộng mở cõi lòng đón nhận ơn Chúa. Chúng con muôn đời cảm tạ ơn Chúa. Xin Chúa thương đến những người vẫn còn "vô công rỗi nghề đứng nơi đầu chợ", ban cho họ được nhận ra tiếng Chúa mời gọi và sẵn sàng quảng đại thưa tiếng Xin Vâng. Amen

Br. Minh Trân, CMC

Mục lục