NHƯ MỘT LỜI MỜI:
- Kính mời quý vị vào trang web www.tinvui.org để đọc các bài viết khác
- Mọi thư từ cộng tác góp ý và giúp đỡ xin quý vị gửi về địa chỉ E-mail :bantreconggiao@yahoo.com
- Ban biên tập Tin vui rất mong nhận được sự đón nhận của quý vị độc gỉa gần xa
- Xin Thiên Chúa ban muôn ơn lành và đồng hành với quý vị trong hành trình đời sống Kitô hữu
Đức Thánh Cha tiếp các Giám Mục Trung
Đức Thánh Cha kêu gọi giải quyết vấn đề tài sản Giáo Hội tại Tchèque
Khi tiền bạc thống trị con người
Hội nghị Thường niên lần II HĐGMVN năm 2008
Đại diện Hội Đồng Giám mục Việt Nam gặp Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng
Thư của HĐGMVN gởi Cộng đồng Dân Chúa tại Việt Nam
Lễ đặt viên đá đầu tiên xây thánh đường tại Dồng Đăng (Lạng Sơn) cho người sác tộc
Mừng 80 năm thành lập Dòng Phanxicô Việt Nam
Giáo phận Phan Thiết : Thư Chung Năm Thánh Đức Mẹ Tàpao
Những đoạn đường gian nan hình thành giáo xứ Fatima - GP Phan Thiết
Thư gởi Người Bạn Trẻ LẦN CHUỖI BẰNG TRÁI TIM
KINH MÂN CÔI – CHÌA KHÓA SỰ SỐNG
MỘT SUY NGHĨ VỀ QUAN ĐIỂM CỦA HĐGMVN
CHÂN PHƯỚC VỢ CHỒNG LUIGI VÀ MARIA BELTRAME QUATTROCCHI
TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH
Lc 1, 26-38
26 Bà Elisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáprien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, 27 gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc nhà Ðavít. Trinh nữ ấy tên là Maria.
28 Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Ðấng đầy ân sủng, Ðức Chúa ở cùng bà. 29 Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.
30 Sứ thần liền nói: "Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. 31 Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. 32 Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Ðức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Ðavít, tổ tiên Người. 33 Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận."
34 Ba Maria thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!" 35 Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Ðấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa.
36 Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy gìa rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. 37 Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.
38 Bấy giờ bà Maria nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói". Rồi sứ thần từ biệt ra đi.
Ngày lễ hôm nay, các bài đọc kinh thánh làm nổi bật vai trò của Đức Maria. Ở sách Công vụ Tông đồ trong các buổi cầu nguyện chuyên cần. Thư Galát nói về sự tự hạ của Con Thiên Chúa đến làm con của một người nữ, sinh dưới luật pháp để nhằm cứu chuộc con người và dạy cho mọi người biết Thiên Chúa là Cha. Còn bài Tin Mừng nói lên sự cao trọng làm mẹ của Đức Maria khi Mẹ vâng nghe lời dạy của sứ thần cộng tác vào chương trình của Thiên Chúa. Mẹ Maria là một thụ tạo được Thiên Chúa - Đấng sáng tạo yêu mến vì mẹ luôn tìm thánh ý Chúa trong cuộc sống.
Mẹ là trinh nữ lắng nghe và còn sâu xa hơn nữa là bằng thái độ lòng tin. Chính vì thế khi nghe sứ thần truyền, Mẹ cũng băn khoăn theo lẽ thường tình nhân loại nhưng dạt dào sự đối thoại trong khiêm tốn sẵn có của Mẹ và lời xin vâng đã được nói lên trong sự tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa. Mẹ có sự kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa không chỉ bằng lời kinh nguyện mà còn bằng cả con người nhỏ bé. Lời kinh Maganificat được vang lên để tán dương Thiên Chúa, nhưng cũng lá nhịp nối chuyển giao ơn cứu độ đến cho chúng nhân. Mẹ không nghĩ chiếm đoạt Thiên Chúa cho riêng mình mà sẵn sàng hiệp với con trên đồi Canvê. Mẹ Maria là như thế, không phải chỉ biết tối mặt vâng lời nhưng Mẹ đã giải mã được thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa và chỉ tìm cách chu toàn một cách say mê.
Lễ Mân Côi hôm nay cho chúng ta điều gì ? Có cần nữa hay không ? Ngày nay hơn bao giờ hết, lời kinh Mân Côi rất cần thiết, vì thật ra kinh Mân Côi lấy Chúa Kitô làm trọng tâm, nhất chứa chiều sâu tin mừng và cũng là phương thế dễ thực hành tuy đơn sơ nhưng sâu sắc. Dù ở thời đại nào, lời kinh này vẫn giữ nguyên ý nghĩa ấy vì chính qua lời kinh này ta học nơi Mẹ Maria và cùng Mẹ chiêm ngắm vẻ đẹp và tình yêu của Chúa Kitô.
Lễ Mân Côi hôm nay cho chúng ta thấy:
Giữa binh đạo của hận thù khủng bố, kinh Mân Côi đem đến hòa bình.
Giữa một thế giới đang đánh mất đi tâm linh của mình, kinh Mân côi là phương thế hữu hiệu để con người biết nên thánh .
Giữa những rạn nứt, đổ vỡ của bao gia đình, kinh Mân côi sẽ đem lại bình an.
Giữa một trào lưu chống đối Thiên Chúa, kinh Mân côi là phương thế hữu hiệu để chiêm ngắm các mầu nhiệm Chúa Kitô (xem tông thư Rosarium Virginis Mariae – kinh Mân Côi kính Đức Trinh nữ Maria của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II)
Và mừng lễ Mân Côi hôm nay, bạn hãy cầm lấy chuỗi Mân Côi với lòng tin tưởng, và chúng ta hãy làm theo lời dạy của thánh phụ Bênađô đã dạy cho các môn sinh của mình : “Hãy nhìn ngôi sao và kêu tên Mẹ Maria”. Vì xưa nay chẳng ai kêu cầu mà Mẹ ngoảnh mặt làm ngơ, điều mà chính bạn, chính tôi, gia đình bạn và cuộc sống chúng ta vẫn hằng mong Mẹ trông đến.
Lm. Nguyễn Đức Trung - Giáo phận Phú Cường
Nhân dịp lễ Đức Tổng lãnh thiên thần Micae (29/9), cũng là Bổn mạng Đức Cha Cố Nguy?n Khắc Ngữ, vị cha già trăm tuổi của giáo phận Long Xuyên, tôi xin chia sẻ đôi chút suy niệm của tôi về sức mạnh giải cứu lịch sử .
1. Từ xa xưa, lịch sử được mô tả như một cuộc chiến đấu giữa thiện và ác.
Theo sách Khải Huy?n, thì đứng đầu phía thiện là Đức Tổng Lãnh thiên thần Micae. Ngài chỉ huy một số thần lành. Còn đứng đầu phía ác là Luxiphe. Nó nắm giữ một số thần dữ.
Hai bên giao chiến ác liệt. Sau cùng, phía Đức Micae toàn thắng, phía Luxiphe thảm bại. Chúng bị xua đuổi xuống hoả ngục.
Sau này, cuộc chiến đó đã được trình bày bằng ảnh tượng, Đức Tổng Micae dùng gươm giáo đâm đầu Luxiphe, đạp nó dưới chân Ngài.
Hình ảnh đó đề cao sức mạnh của quyền lực . Như thể quyền lực là dấu chỉ của Thiên Chúa, Đấng giải cứu muôn dân.
Hình ảnh quyền lực đó đã một thời ám chỉ quyền lực của Hội Thánh.
2. Nhưng, trong Tân Ước, Chúa Giêsu đã phác hoạ hình ảnh lịch sử một cách khác.
Lịch sử vẫn là cuộc chiến đấu giữa thiện và ác. Nay đứng đầu phía thiện là Chúa Giêsu. Đứng đầu phía ác vẫn là ma quỷ.
Chúa Giêsu đã thắng ma quỷ, giải cứu con người bằng một khí cụ khác gươm giáo. Khí cụ đó là cây thánh giá .
Thánh giá của Chúa Giêsu là khiêm nhường, khó nghèo, yêu thương và hy sinh.
Từ đó, Hội Thánh ca ngợi thánh giá Đức Kitô bằng lời sau đây: "Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô. Nơi Người, ơn cứu độ của ta, sức sống của ta và là sự phục sinh của ta ".
3. Nhờ niềm tin vào sức mạnh của thánh giá Đức Kitô, Hội Thánh xây dựng sức mạnh tu đức, mục vụ và truyền giáo trên nền tảng khiêm nhường, khó nghèo, yêu thương và hy sinh từ bỏ mình.
Đường lối đó đã và đang được thực hiện ở khắp nơi. Nơi nào thực hiện tốt, thì kết quả tốt.
Tuy nhiên, thời nào cũng vậy, những người theo Chúa vẫn bị cám dỗ bỏ con đường thánh giá Chúa, hoặc nếu còn theo, thì lại kết hợp sức mạnh thánh giá với sức mạnh gươm giáo.
Thực tế cho thấy, nhiều người chúng ta coi nhẹ sức mạnh của nội tâm, để đặt nặng sức mạnh của quyền lực bên ngoài và những phương tiện trần thế.
Đó là một nguy hiểm lớn cho Hội Thánh. Nguy hiểm lớn nhất là sự suy sụp đời sống đức tin, như đang xảy ra tại một số nước chối từ thánh giá.
4. Khi bị cám dỗ coi thường sức mạnh của nội tâm nơi thánh giá cứu độ, tôi nhớ về Đức Cha Cố Micae Nguyễn Khắc Ngữ.
Đời Ngài là con đường thánh giá.
Con người của Ngài là khí cụ hoà bình của Chúa Giêsu.
Hình ảnh Ngài là can đảm của hy sinh, khiêm nhường, yêu thương, khó nghèo.
Sức mạnh thuyết phục của Ngài là đời sống nội tâm dạt dào đức ái.
Cái máng Ngài dùng để chuyển ơn cứu độ đến các linh hồn là thánh giá của Ngài kết hợp với thánh giá Đức Kitô.
Được ở bên Ngài, tôi thấy rõ điều này: Ngài biết buông ra những gì không cần thiết, và biết nắm vững những gì là cần phải nắm, nhất là trong những hoàn cảnh phức tạp khó khăn.
Ngài phân biệt rõ: Không phải đau khổ nào cũng là thánh giá Chúa.
Chúng ta cảm tạ Chúa đã ban cho Hội Thánh Việt Nam một vị mục tử tốt lành là Đức Cha Cố Micae.
Nguyện xin Chúa nhân lành ban cho chúng ta luôn được ơn khôn ngoan và can đảm, biết con đường nào là đúng con đường thánh ý Chúa, để làm chứng hữu hiệu cho Chúa trong thời điểm rất phức tạp mà Chúa đang sai chúng ta đi vào.
ĐGM GB Bùi Tuần
"Bị giam cầm" là điều chẳng ai muốn. Nó là một mất mát. Nó là một nguy hiểm.
Ở đây, chỉ xin nói vắn tắt đến một số hiện tường bị giam cầm xảy ra ở bên trong
con người. /
Sự giam cầm ở bên trong con người có thể xảy ra cả nơi những người coi như rất
tự do và nơi những người coi như rất đàng hoàng.
Sự kiện đó ảnh hưởng tai hại, không phải chỉ trong ít nhiều trường hợp, mà trong
cả cuộc sống, trên khắp những sự việc thường ngày.
Chúa Giêsu phán: "Cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con
người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người phát xuất những tư tường xấu: tà
dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng,
ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó là đều từ
bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế" (Mc 7,20-23).
Một trong những cắt nghĩa tại sao có những điều tội lỗi lại thường xuyên xảy ra
từ bên trong con người, đó là vì bên trong con người có những sức mạnh xấu hoạt
động một cách áp đảo, như khống chế, như giam cầm, xiềng xích sự tự do con
người.
Chúng ta thử tìm xem những sức mạnh nào thường hay giam cầm sự tự do của con
người.
1/ Bị giam cầm bởi sức mạnh Satan
Phúc Âm kể nhiều đến sức mạnh của Satan, khi nó nhập vào con người. Sức mạnh của
quỷ trong con người đôi khi rất ghê gớm. Chúa Giêsu phán: "Khi thần ô uế xuất
khỏi một người, thì nó đi rảo qua những nơi khô cháy, tìm chốn nghỉ ngơi. Mà vì
tìm không ra, nó nói: Ta sẽ trở về nhà, mà ta đã bỏ ra đi. Khi đến nơi, nó thấy
nhà được quét tước, dọn dẹp hẳn hoi. Nó liền đi kéo thêm bảy thần khác dữ hơn
nó, và chúng vào ở đó. Rốt cuộc tình trạng của người ấy trở nên tệ hơn trước"
(Lc 11,24-26).
Những lời Chúa phán trên đây thực đáng sợ. Người cho thấy sức mạnh của quỷ là
rất mạnh. Sức mạnh đó giam cầm con người, cai trị con người. Con người khó thoát
ra được. Có thể chúng ta đã có kinh nghiệm về điều đó. Chỉ có ơn Chúa mới cứu
được người bị quỷ dữ giam cầm. Chúng ta phải tỉnh thức, cầu nguy?n, hãm mình
theo lời Chúa dạy.
2/ Bị giam cầm bởi sức mạnh tiền của
Phúc Âm kể rằng: "Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống
trước mặt Người và hỏi: Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời
đời làm gia nghiệp? Đức Giêsu đáp:. .. Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết
người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ
kính cha mẹ. Anh ta nói: Thưa Thầy, tất cả những điều ấy tôi đã tuân giữ từ thuở
nhỏ. Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: Anh chỉ
thiếu có một điều là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được
một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi. Anh ta sa sầm nét mặt vì lời đó,
rồi bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải" (Mc 10,17-22).
Chuyện kể trên cho thấy: người thanh niên biết Chúa Giêsu yêu mến anh ta. Anh ta
cũng là con người giữ đạo tốt. Nhưng khi nghe đến việc bán của cải mà phát cho
kẻ nghèo, rồi theo Chúa, thì anh từ chối. Sự từ chối đó chứng tỏ anh bị giam cầm
bởi sức mạnh tiền của một cách trầm trọng.
Số người bị tiền của giam cầm hiện nay gồm đủ loại.
Những người không có tiền của càng không dễ thoát được cơn ham muốn tiền bạc.
Lỗi của họ là coi tiền như phương tiện duy nhất, như giá trị ưu tiên tuyệt đối.
Có người nợ nần chồng chất, cũng chỉ vì quá ham muốn tiền bạc. Họ đành làm đủ
chuyện bất chính, miễn sao có tiền, để đua đòi phô trương. Kinh nghiệm cho thấy:
Sự ham muốn tiền của đang là một thảm hoạ gây bất ổn đau đớn trong nhiều gia
đình, xã hội và tôn giáo. Đôi khi người ta coi đó là một thứ quỷ ám hung hãn
đang làm cho con người trở nên mù quáng và nô lệ.
3/ Bị giam cầm bởi sức mạnh dư luận
Sức mạnh dư luận được tỏ bày qua nhiều hình thức, như:
a) Sức mạnh dư luận truyền thống. Chúa phán: "Các ông dựa vào truyền thống các
ông mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa" (Mt 15,6). Họ bảo vệ truy?n thống cộng đoàn, mà
coi thường lời Chúa.
b) Sức mạnh dư luận đám đông bị khích động. "Họ cứ la to, nhất định phải đóng
đinh Chúa Giêsu. Tiếng la càng thêm dữ dội. Và ông Philatô chấp thuận điều họ
yêu cầu" (Lc 23,23-24). Nhiều khi dư luận chỉ là luận dư, không dựa vào chân lý,
chỉ hùa theo đám đông.
Quá dựa vào dư luận, quá sợ dư luận, bất chấp phải trái, đó là một hiện tượng
quen thuộc của áp lực bị giam cầm.
4/ Bị giam cầm bởi các thói đời
Thói đời quy tụ ít là bốn thứ sau đây:
a) Hình thức bề ngoài. / Chúa phán về các Pharisêu: "Họ làm mọi việc cốt để cho
thiên hạ thấy" (Mt 23,5). Họ an tâm với những hình thức mang màu sắc đạo đức.
b) Những bận tâm thế tục. Dụ ngôn tiệc cưới cho thấy những bận tâm thế tục đã
cản người ta đến dự tiệc cưới Nước Trời. Kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn,
họ quá quan tâm về lợi ích trước mắt (x. Mt 22).
c) Sự ghen tương, tự phụ. Chúa nói khá nhiều về ghen tương, tự phụ, như chuyện
mấy người thợ làm vườn nho. "Nào tôi không có quyền sử dụng của cải của tôi như
tôi muốn sao? Hoặc bởi anh ghen tương vì tôi tốt lành" (Mt 20,15). Kinh nghiệm
cho thấy: Ghen tương, tự phụ là một thứ tù ngục thường giam cầm con người một
cách tàn bạo.
d) Những tình cảm không kiểm soát nổi và thói quen tự tôn không chế ngự nổi.
Trên đây là thoáng nhìn về một số hình thức giam cầm con người. Thoáng nhìn đó
cho thấy: Xiềng xích không luôn ở phía xã hội, cơ chế, mà thường ở trong chính
bên trong mỗi người.
Nhận biết sự thực đó đòi ta phải có lòng khiêm nhường. Đừng cho mình là đạo đức, nhưng hãy nhận mình là yếu đuối, có thể đang bị giam cầm một cách thê thảm. Trong nhận thức khiêm nhường đó, ta cầu xin với Chúa bằng lời Chúa đã gợi ý xưa.
Lạy Chúa, Chúa đã phán: Không phải những người khoẻ mạnh cần đến thầy thuốc,
nhưng chính là những bệnh nhân. Chúa không đến kêu gọi người công chính, nhưng
người tội lỗi.
Con đây là kẻ bệnh tật và tội lỗi, xin Chúa thương đến cứu chữa con, xin giải
thoát con khỏi mọi xiềng xích vô hình đang giam cầm con, để con luôn được tự do
trong quyền năng của Chúa Thánh Thần.
ĐGM GB Bùi Tuần
VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 kêu gọi các vị chủ chăn của Giáo Hội Công Giáo tại 5 Cộng hòa Trung Á tiếp tục tín thác, và tìm kiếm các phương thức tông đồ mới mẻ và thích hợp.
Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 2-10-2008 dành cho 5
GM tại các cộng hòa Kazakhstan, Uzbekistan, Kyrgystan, và 2 LM Bề trên giáo miền
tự quản (missio sui juris) tại Turkmenistan và Tadjikistan. Ngoài ra có cha
Vasil Hovera, đại biểu của Bộ các Giáo Hội Công Giáo Đông phương đặc trách các
tín hữu Công Giáo thuộc nghi lễ này tại Kazakhstan và Trung Á. Các vị về Roma
viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh.
Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến, ĐTC dâng lời cảm tạ Thiên Chúa vì mặc dù những sức
ép mạnh mẽ trong những năm dưới chế độ vô thần cộng sản, ngọn lửa đức tin vẫn
còn cháy sáng trong tâm hồn các tín hữu, nhờ lòng tận tụy, xả kỷ của bao nhiêu
LM, tu sĩ và giáo dân nhiệt thành. Cộng đoàn Công Giáo có thể bị thu hẹp thành
một đoàn chiên nhỏ, nhưng ĐTC nói: ”Anh em thân mến, chúng ta không được nản
chí. Anh em hãy nhìn những cộng đoàn các môn đệ đầu tiên của Chúa, tuy bé nhỏ,
nhưng vẫn không co cụm vào mình, trái lại được tình yêu Chúa Kitô thúc đẩy, họ
không do dự mang đỡ gánh nặng của người nghèo, ra đi gặp gỡ các bệnh nhân, rao
giảng và vui mừng làm chứng về Tin Mừng cho mọi người.. Anh em hãy kiên nhẫn và
can đảm tìm kiếm những hình thức và phương pháp tông đồ mới mẻ, quan tâm thực
hiện các phương pháp đó theo những đòi hỏi của ngày nay, để ý đến ngôn ngữ và
văn hóa của các tín hữu được ủy thác cho anh em. Điều này đòi phải có một sự
hiệp nhất chặt chẽ hơn giữa anh em là các chủ chăn và hàng giáo sĩ”.
Cũng trong bài huấn dụ, ĐTC ám chỉ đến sự kiện một số nước Trung Á đã hoặc đang
ban hành các đạo luật hạn chế tự do tôn giáo để chống lại trào lưu cực đoan và
hoạt đông chiêu dụ tín đồ của một số giáo phái Tin Lành.. Ngài nói:
”Trong số các hiện tượng đáng lo âu trên thế giới, tôi đặc biệt đề cập đến tệ
nạn bạo lực và khủng bố, sự lan tràn trào lưu cực đoan và cuồng tín. Dĩ nhiên
cần chống lại các tai ương đó bằng các luật lệ. Nhưng không bao giờ được để cho
sức mạnh của luật pháp bị biến thành một sự gian ác bất công, và cũng không thể
hạn chế việc tự do hành đạo, vì tự do tuyên xưng niềm tin của mình chính là một
trong những quyền căn bản của con người và được nhìn nhận phổ quát”.
Về sự chiêu dụ tín đồ, ĐTC nhấn mạnh rằng cũng nên tái khẳng định điều này là:
Giáo Hội không áp đặt nhưng chỉ đề nghị đức tin Công Giáo một cách tự do, vì
Giáo Hội biết rõ sự hoán cải là thành quả nhiệm mầu hoạt động của Chúa Thánh
Linh. Đức tin là một hồng ân và là công trình của Thiên Chúa. Chính vì thế, mọi
hình thức chiêu dụ tín đồ, ép buộc hoặc dùng những xảo thuật bất chính để dụ dỗ
người khác theo đạo đó là điều bị cấm đoán (AG 13).
Cộng hòa Kazakhstan có 47% dân chúng theo Hồi giáo, 40% theo Chính Thống Nga,
1,3% là tín hữu Công Giáo. Tại hai cộng hòa Kyrgystan và Uzbekistan, số tín hữu
lên tới 75 và 90% và Công Giáo chỉ có 0,02%. Hai cộng hòa còn lại cũng có số tín hữu Công Giáo rất ít nên
chưa có giám mục coi sóc. (SD 2-10-2008)
CASTEL GANDOLFO. Sáng 27-9-2008, ĐTC đã tiếp kiến tân đại sứ Cộng Hòa Tchèque cạnh Tòa Thánh, ông Pavel Vosalík, và ngài cầu mong cho vấn đề trả lại tài sản cho Giáo Hội tại nước này sớm được giải quyết.
Tân đại sứ Vosalik của Tchèque năm nay 45 tuổi (1963) và đã từng làm đại sứ tại Nam Phi và Canada, cũng như làm thứ trưởng ngoại giao.
Trong diễn văn chào mừng ông tân đại sứ, ĐTC nhắc đến những lợi ích mà các xã hội được hưởng nếu Giáo Hội tại nước liên hệ được quyền quản lý các tài sản vật chất và tinh thần cần thiết cho sứ vụ của Giáo Hội. Ngài nói:
”Tại đất nước của ông Đại Sứ, đã có những dấu hiệu tiến bộ trong lãnh vực này, nhưng vẫn còn nhiều điều phải làm. Tôi tin tưởng rằng Ủy ban đặc nhiệm do chính phủ và quốc hội Tchèque thiết lập để giải quyết các vấn đề còn tồn đọng liên quan tới tại sản của Giáo Hội, sẽ tiến hành một cách lương thiện, ngay thẳng, và chân thành nhìn nhận khả năng của Giáo Hội trong việc đóng góp cho an sinh của đất nước. Đặc biệt tôi hy vọng những điều ấy cũng được để ý đến trong khi tìm kiếm một giải pháp liên quan đến tương lai của Nhà thờ chính tòa tại Praha”.
Từ 15 năm nay, Tòa TGM Praha đã yêu cầu chính quyền Tchèque trả lại cho Giáo Hội Công Giáo nhà thờ Chính tòa thánh Vito đã bị nhà nước cộng sản Tiệp Khắc trước kia tịch thu. Nhà thờ này tọa lạc trong khu vực hoàng cung, nay là phủ tổng thống. Nhiều phán quyết của tòa án các cấp đã được ban hành, nhưng tòa này hủy bỏ án lệnh của tòa kia và cho đến nay vấn đề vẫn chưa được giải quyết.
Ngoài ra, chính phủ Tchèque cũng đề ra dự luật để trả lại cho các Giáo Hội Kitô tài sản đã bị tịch thu, nhưng cho đến nay dự luật này vẫn chưa được quốc hội Tchèque thông qua.
Dự luật đó đã được Chính phủ Tchèque thỏa thuận với các Giáo Hội hồi đầu năm nay, theo đó Nhà Nước Tchèque sẽ trả lại trực tiếp 1/3 tài sản đã tịch thu của các Giáo Hội. 2 phần 3 còn lại, gồm các tài sản không thể hồi lại, một số đã bị bán đi sau khi chế độ cộng sản sụp đổ, và nhiều dinh thự hiện đang được các cộng đồng đỉa phương sử dụng, sẽ được Nhà Nước bồi hoàn bằng tiền bạc tương đương với 10 tỷ 300 triệu Euro trong vòng 60 năm. (SD 27-9-2008)
253 giám mục tham dự Thượng Hội đồng Giám Mục ở Roma, không có đại diện Trung Quốc
Vatican (AsiaNews) – Vào ngày Chúa Nhật 05/10, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI sẽ chủ sự Thánh lễ khai mạc Thượng Hội đồng Giám Mục Thế giới lần thứ 12 với chủ đề “Lời Chúa trong Đời sống và Sứ vụ của Giáo Hội”. Trong Thông các báo chí hôm 03/10, Cha Federico Lombardi, Giám Đốc Văn phòng Báo chí Toà Thánh Vatican cho hay Thượng Hội đồng quy tụ 253 giám mục từ các giáo hội trên khắp thế giới, ngoại trừ các giám mục từ nước cộng sản Trung Quốc: “Rõ ràng là không có thoả thuận [với Bắc Kinh] và họ [các giám mục Trung Quốc] sẽ không có mặt vì hoàn cảnh không cho phép”.
Đức Tổng Giám Mục Nikola Eterovic, Tổng thư ký của Thượng Hội đồng Giám mục cho
hay các giám mục sẽ tham gia vào các hoạt động theo nghị trình kéo dài đến 26
tháng Mười “để suy niệm về Lời Chúa, về vai trò trung tâm của Lời Chúa trong đời
sống của Giáo Hội, về động lực Lời Chúa khuyến khích các Kitô hữu trong sứ mạng
công bố Lời Chúa bằng lời nói và hành động và sự hiện diện của Chúa Giêsu Phục
Sinh giữa chúng tôi”.
Lần đầu tiên Thượng Hội đồng sẽ khai mạc ở Đền Thánh Phaolô Ngoại thành chứ
không phải ở Vatican, vì diễn ra trong năm Thánh Phaolô và đây không phải là lần
duy nhất vị Tông Đồ Dân Ngoại được đề cập đến.
Ngày 18 tháng Mười, tại Đại thính đường Thượng Hội đồng Giám Mục, Đức Thánh Cha
Bênêđictô XVI và Đức Thượng Phụ Đại kết Bartholomew I sẽ chủ sự buổi Kinh Chiều
đầu tiên. Sau đó, mỗi bên sẽ có diễn văn về chủ đề Lời Chúa, đặc biệt đề cập đến
Năm Thánh Phaolô. Đây sẽ là lần đầu tiên Đức Thượng phụ Đại kết phát biểu trước
các nghị phụ Thượng Hội đồng. Đức Tổng Giám Mục Eterovic cho hay: “Ngài sẽ mang
lời chào mừng của các Giáo Hội Chính Thống vốn được vị Tông Đồ Dân Ngoại thiết
lập trước khi đến Rôma nơi ngài chịu chết tử đạo”.
Thượng Hội đồng sẽ mang tầm quan trọng phổ quát vì các đoàn đại biểu anh em từ
mười giáo hội và cộng đoàn giáo hội đến tham dự. Các đại diện của Tòa Thượng phụ
Đại kết sẽ hiện diện cùng với các đại biểu khác từ Tòa Thượng phụ Mạc Tư Khoa,
Serbia và Rômania, từ Giáo Hội Chính Thống Hy Lạp và Giáo Hội Tông Đồ Armenia,
cũng như từ Hiệp Thông Anh Giáo, Liên Đoàn Luther Thế Giới, Giáo Hội các Môn Độ
của Chúa Kitô và Hội đồng các Giáo Hội Thế Giới.
Các nghị phụ sẽ đại diện cho 13 miền tự quản (sui iuris) Giáo Hội Công Giáo Đông
phương, 113 Hội đồng Giám Mục các nước, 25 cơ quan của giáo triều và Liên hiệp
Bề Trên Tổng Quyền.
Trong số 253 nghị phụ có 51 nghị phụ đến từ Phi Châu, 62 nghị phụ đến từ Mỹ
Châu, 41 nghị phụ đến từ Á Châu, 90 nghị phụ đến từ Âu Châu và 9 nghị phụ đến từ
Úc Châu. Trong số này có 173 nghị phụ được bầu chọn từ các Hội đồng Giám Mục
(72,3 phần trăm), 38 nghị phụ tham dự do thẩm quyền - ex officio (15 phần trăm),
32 nghị phụ được Đức Giáo Hoàng bổ nhiệm (12,6 phần trăm) và 10 nghị phụ được
Liên hiệp Bề Trên Tổng Quyền bầu chọn (4 phần trăm). 41 chuyên gia trong đó có 6
nữ từ 21 quốc gia và 37 dự thính viên trong đó có 19 nữ từ 26 quốc gia cũng sẽ
được tham dự vào Thượng Hội đồng.
Thượng Hội đồng cũng tiếp đón ba vị khách mời đặc biệt của Đức Thánh Cha. Vị thứ
nhất là Giáo Trưởng Shear Yashuv Cohen của Haifa, Israel, người sẽ phát biểu vào
ngày 6 tháng Mười về cách thức người Do thái đọc và giải thích Thánh Kinh như
thế nào. Như vậy, đây là lần đầu tiên một giáo sĩ Do Thái giáo, và là một người
không phải Kitô hữu phát biểu trước các nghị phụ. Vị khách đặc biệt thứ hai là
Mục sư Milloy Miller, Tổng Thư ký Liên hiệp Thánh Kinh Hội, và vị thứ ba là
Frère Alois, Bề trên của Cộng Đoàn Taizé.
Đoàn Việt Nam có 2 đại diện là Đức cha Giuse Nguyễn Chí Linh, Giám mục Thanh
Hoá, Phó Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, và Đức cha Giuse Võ Đức Minh, Giám
mục Phó Nha Trang, Phó Tổng Thư ký Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Ngoài ra còn có
cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản, Giáo phận Quy Nhơn, là Giáo sư Kinh Thánh tại Đại
chủng viện Sao Biển Nha Trang được chọn làm chuyên viên tham dự.
Phỏng vấn giáo sư Régis Debray về sự kiện tiền bạc khống chế con người và cuộc
sống xã hội
Từ mấy tuần qua cuồng phong tài chánh đã đẩy Hoa Kỳ vào một cuộc khủng hoảng
chưa từng thấy, khiến cho bốn nhà băng lớn của Mỹ là Freddie Marc, Fannie Mae,
Lehman Brothers và Aig đã phải phá sản. Cuộc khủng hoàng tài chánh này đã khiến
cho thị trường chứng khoán quốc tế rối loạn và thua lỗ hằng trăm tỷ mỹ kim. Theo
ước tính của Ngân Qũy Tiền Tệ Quốc Tế số tiền mất đi lến tới 1.300 tỷ mỹ kim.
Nhưng ông Strauss Kahn Tổng giám đốc của tổ chức này cho biết các thua lỗ sẽ còn
nghiêm trọng hơn nữa, và ông đã báo động giới tài chánh Âu châu là có thể lại
xảy ra một tình trạng khẩn trương mới cuốn hút cả thị trường tài chánh Âu châu
vào cơn cuồng phong ác nghiệt này. Để cứu vãn tình thế và tránh cho Hoa Kỳ khỏi
phải rơi vào một cuộc suy thoái kéo dài đau đớn cũng như đánh mất đi hàng triệu
công ăn việc làm, tổng thống Bush đã công khai thỉnh cầu Quốc Hội Mỹ thông qua
ngân khoản 700 tỷ mỹ kim, trong buổi nói chuyện với quốc dân trên đài truyền
hình. Nếu chương trình cứu vãn thị trường chứng khoán Wall Street thất bại, thì
các nhà băng toàn nước đều có nguy cơ phá sản, nạn thất nghiệp gia tăng, người
dân sẽ không thể vay vốn cho các kinh doanh của mình hay mua xe cộ và gửi con đi
học nữa. Nhưng dự án cứu cuộc khủng hoảng tài chánh này lại càng khiến cho số
tiền nợ của công qũy gia tăng qúa đáng, và nó không được đa số dân Mỹ ủng hộ.
Ngày 29-9-2008 vừa qua Quốc Hội Hoa Kỳ đã bỏ phiếu chống, đa số phiếu chống đến
từ đảng Cộng Hòa và cánh tả của đảng Dân Chủ. Thị trường chứng khoán Wall Street
lại choáng váng chao đảo như chưa từng thấy trong lịch sử tài chánh Hoa Kỳ.
Trong khi đó cảnh sát liên bang bắt đầu điều tra bốn nhà băng bị phá sản nói
trên, để xem họ có cung cấp các tin tức sai lạc, bịa đặt cho các cơ quan kiểm
soát nhằm mục đích lừa đảo, hầu có cớ mà khai phá sản và ăn cướp tiền của hàng
triệu khách hàng hay không. Để có tiền bạc người ta có thể làm tất cả mọi sự.
Ngày 13-9-2008 giảng trong thánh lễ cử hành cho 260 ngàn tín hữu tại bãi đất
trống trước Điện Les Invalides trong thủ đô Paris, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã
mời gọi mọi người xa lánh việc tôn thờ các thần giả và xây dựng đời mình trên Đá
Tảng là Chúa Giêsu Kitô. Lý do là vì các ngẫu tượng gây lạc hướng, khiến cho con
người xa rời đích điểm của mình là được sống hạnh phúc vĩnh cửu bên Thiên Chúa.
Ngày nay các thần giả đó là tiền của, quyền bính, và cả sự hiểu biết nữa. Chúng
khiến cho con người bị tha hóa và cản ngăn con người nhận biết Chúa Kitô là Đấng
cứu độ duy nhất.
Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận định của giáo sư
Régis Debray, chuyên viên kinh tế về tiền bạc, tay độc tài mới đang khống chế
con người trên thế giới ngày nay.
Hỏi: Thưa giáo sư Debray, có thật là chúng ta đang sống trong một xã hội bị
tiền bạc thống trị hay không?
Đáp: Cho tới thời gian gần đây, tiền bạc đã là một phương tiện. Nhưng hiện nay
nó là mục đích cho chính nó. Tên đầy tớ đã trở thành chủ nhân. Trước đây sự tiến
bộ và giàu có được xây dựng trên việc sản xuất các đồ vật để con người sử dụng.
Nhưng vì tài chánh thắng thế nên việc sản xuất đã bị tùy thuộc lợi nhuận kinh tế
và sự luân lưu của tiền bạc.
Hỏi: Nói cho cùng thì ông chủ tiền bạc không thiếu đầy tớ, có đúng thế không,
thưa giáo sư?
Đáp: Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nền văn minh của chúng ta, người mẫu
không phải là người vô vị lợi nữa. Nhà hiệp sĩ của thời Trung Cổ, nhà qúy tộc
của thế kỷ XIX, cha xứ của nhà văn Bernanos, hay người đấu tranh chính trị...
tất cả các mẫu người này đều là những người xa lánh tiền bạc. Trái lại, kể từ
khi các gương mặt và mẫu người này biến mất, danh tiếng của con người được đo
lường duy nhất bằng mức độ giầu sang. Con người gương mẫu bậc nhất thời nay là
dân làm ăn. Họ không phải nhà kinh tế, mà là người truyền thông làm tiền qua hệ
thống liên mạng. Thứ hạng lợi tức đã trở thành bậc thang các giá trị xã hội.
Hỏi: Như thế chúng ta lại không phải vui mừng vì đã chấm dứt một sự giả hình
nào đó hay sao thưa giáo sư?
Đáp: Nước Pháp già nua của chúng tôi thường bị chế nhạo vì khuynh hướng luân lý
dậy đời của nó trong lãnh vực này. Tuy nhiên nó cũng có được một công nghiệp:
tiền bạc đã không được coi như là một giá trị và nhà tài chánh chỉ phục vụ việc
quản trị tiền bạc mà thôi. Nhưng tiền bạc đã đánh mất đi liêm sỉ của nó, và nó
đã trở thành người chỉ huy các sự lịch lãm, tự do, và lợi ích xã hội. Tôi thấy
đây là một xã hội bước đi chân chổng chân lên trời, đầu ngược xuống đất. Tiền
bạc là chủ nhân ông chỉ có một luật lệ duy nhất: đó là lợi nhuận tối đa. Nó
không quan tâm gì tới luân lý. Chúng ta phải hướng dẫn con ngựa hoang này đang
phi trên tất cả mọi bảng quảng cáo, bằng cách đối chọi cái tốt lành hơn với sự
chiếm hữu nhiều hơn, đối chọi phẩm chất với số lượng.
Hỏi: Thưa giáo sư, sự kiện vương quốc tiền bạc là chủ nhân ông có nghĩa là
Kitô giáo đang suy đồi hay sao?
Đáp: Không cần phải tổng quát hóa điều này. Tại Hoa Kỳ có khuynh hướng tin mừng
của sự giầu có và các anh chị em tin lành cởi mở hơn đối với đề tài này, nhưng
họ cũng âu lo hơn, và như thế họ chờ đợi sự tuyển chọn từ trên cao. Đối với
người dân Mỹ, sự giầu có do công ăn việc làm tạo ra là do Thiên Chúa ban cho.
Bên Âu châu này thì người ta ít nhiều cho đó là của ăn cắp. Hoa Kỳ đã xây dựng
căn tính mỹ trên lợi lộc kinh tế cũng như trên một nền thần học của dân được
tuyển chọn. Khẩu hiệu viết trên đồng mỹ kim ”Chúng ta tin cậy nơi Chúa” diễn tả
một chiều kích cách chung được dùng như nền tảng cho khẩu hiệu ”Hãy làm giầu”.
Điều kinh khủng nhất của hiện tượng ”mỹ hóa Âu châu” đó là chúng ta du nhập đồng
tiền xanh - diễn tả việc tôn thờ sự tin tưởng - mà không có lòng tin nơi Thiên
Chúa, diễn tả chủ thuyết duy vật không có tinh thần. Như thế người ta đang chứng
kiến khoảng cách ngày càng lớn giữa người giầu và người nghèo và cuộc chiến đấu
của các giai tầng xã hội trong việc duy trì các đặc quyền đặc lợi của mình.
Chúng ta đang ở trong tình trạng, mà nhà xã hội Émile Durkheim đã gọi là tình
trạng vô luật lệ được tập thể chấp nhận, sự khước từ để cho các lợi nhuận cá
nhân tùy thuộc thiện ích chung.
Hỏi: Nhưng mà một xã hội có thể tự giải thoát khỏi luật lệ và quyền bính luân
lý không, thưa giáo sư?
Đáp: Nền văn minh đòi buộc phải có sự đàn áp bản năng một cách có tổ chức. Nền
văn minh là niềm hạnh phúc được chế ngự, được chỉ huy, được thăng hoa, là sự
khước từ phun ra các giao động bạo dâm, ích kỷ và hiếu chiến. Khi con người coi
hạnh phúc - được hiểu như là việc thỏa mãn tột độ cái tôi của mình - là lý
tưởng, thì người ta đi tới tình trạng rừng rú. Chúng ta sẽ lầm, nếu quên rằng
nền văn minh luôn luôn đòi buộc một sự giàn xếp hay một sự chuyển dời giữa sức
mạnh sinh động là các giao động của chúng ta và sức mạnh cấm đoán của luân lý.
Nền văn minh là nghệ thuật biến đổi một khổ đau thành sự thỏa mãn, biến đổi một
sự trừng phạt thành phần thưởng. Nền văn minh cộng hòa mang tính cách đời đã
thăng hoa các giao động thành tình yêu quê hương tổ quốc, thành việc tôn kính
lợi ích chung, thành giáo dục học đường. Nhưng tất cả những điều này không còn
nữa. Chúng ta đã bước vào một tiến trình triệt thoái nền văn minh.
Hỏi: Thưa giáo sư, có phải giáo sư cũng cho rằng các biến cố người trẻ nổi
loạn hồi tháng 5 năm 1968 cũng có một phần trách nhiệm trong cuộc cách mạng này,
có đúng thế không?
Đáp: Các người nổi loạn năm 1968 đã muốn có một xã hội không có luật lệ. Đó là điều không thể được. Thủ bản đầu tiên của cộng đoàn Qumran là luật cộng đoàn. Trong hướng tích cực của nó hiện tượng tháng 5 năm 1968 có nghĩa là sự thoát ly của nữ giới và của xã hội dân sự. Nhưng trong hướng tiêu cực nó đã đưa vào luật của kẻ mạnh hơn, và chiến tranh của mọi người chống lại mọi người. Không thể xây dựng nền văn minh trên việc cống hiến mọi sự cho cái tôi, trên ý tưởng về hạnh phúc như là thỏa mãn vô tận các ước muốn riêng tư của mình.
Hỏi: Một nền luân lý chung có thể thành lập cái gì thưa giáo sư?
Đáp: Đó là vấn nạn lớn của thế kỷ XXI, mà không thể trả lời một cách hời hợt nhẹ
dạ được. Thế kỷ mới bắt đầu sẽ là thế kỷ của sự bộ tộc hóa, thế kỷ của các nhóm
thiểu số, thế kỷ của các khuynh hướng tách rời. Như thế vấn đế sẽ là việc hiểu
biết cái gì sẽ có thể hiệp nhất các bộ lạc này, có thể biến chúng trở thành liên
bang. Việc bộ tộc hóa là giá cả chính trị văn hóa của sự toàn cầu hóa kinh tế.
Và hiện nay chúng ta đang chứng kiến một chuyển động ly tâm ngoại thường. Tất cả
các khuynh hướng lấy chủng tộc làm trung tâm, lấy cộng đoàn làm trung tâm, đang
chiếm đất. Chúng ta có thể đưa ra câu hỏi liệu chúng ta có trở về thời Trung Cổ
hay không? Một vài người tự trấn an bằng cách quay ra bỏ phiếu cho ”tôn giáo dân
sự”, cho các quyền con người, nhưng tôi không tin những điều đó. Hơn các tôn
giáo khác, thứ tôn giáo dân sự này có nhiều thừa sai hơn là người thực hành, có
nhiều nhà hùng biện hơn là các diễn viên. Nhưng mà vì không có gì hay đẹp hơn
nên nó đang trở thành tín điều chung của nền văn minh tây phương.
Hỏi: Như thế thì còn có thể hướng tới luật lệ Môshê như là khuôn mẫu của một
nền luân lý chung hay không, thưa giáo sư?
Đáp: Còn có thể chứ, nhưng với một điều kiện là đừng
biến nó thành một luật bộ tộc: dĩ nhiên giới răn là ”Chớ giết người”. Nhưng
trong nguồn gốc nó có nghĩa là ”Đừng giết người đồng đạo, đừng giết người anh em
cùng huyết thống”... Việc giải thích mười điều răn trong khynh hướng làm mềm
lòng và đại kết ban đầu đã là một loại ”y đạo học” nội tại, vẫn còn là một lý
tưởng tốt đẹp. Nhưng chúng ta cũng đừng quên là ngay sau giới răn ”Chớ giết
người” của chương 20 sách Xuất Hành, là hình phạt xử tử các tội phạm thánh và
tội ”sodomít” tức tội giao hợp đồng tính qua ngã hậu môn như thói quen dâm dật
của nam giới thành Sodoma. Châm ngôn đại đồng duy nhất từ thời Đức Khổng Tử cho
tới truyền thống do thái Kitô là luật ”Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân - Điều mình
không muốn thì cũng đừng làm cho người khác”.
Hội Đồng Giám mục Việt Nam đã tiến hành Hội nghị Thường niên lần II năm 2008 từ ngày 22 đến 26.9.2008 tại Tòa Giám mục giáo phận Xuân Lộc. Tham dự hội nghị thường niên có các giám mục, giám mục giám quản của 25 giáo phận trong cả nước, ngoại trừ Đức Giám mục giáo phận Thái Bình vắng mặt vì lý do sức khỏe.
Trong thời gian hội nghị, HĐGMVN đã nghe báo cáo công việc của các giáo phận, các UB/HĐGM. Các báo cáo đã nêu lên được những thành quả của các giáo phận trong việc triển khai đường hướng Giáo dục Kitô giáo của Thư chung 2007, bên cạnh là những khó khăn mà từng giáo phận đang gặp phải và sau cùng là những định hướng trong thời gian tới. HĐGMVN cũng đã chính thức tái lập tổ chức Caritas Việt Nam và Caritas giáo phận – Chủ tịch Caritas Việt Nam là ĐGM Đaminh Nguyễn Chu Trinh, cũng là Chủ tịch UBBAXH/HĐGMVN.
Nhân Hội nghị thường niên lần này diễn ra tại Giáo phận Xuân Lộc, HĐGMVN đã tham dự lễ khánh thành công trình xây dựng mới Tòa Giám mục Xuân Lộc và Đại Chủng Viện Thánh Giuse – Cơ sở II – trong khuôn viên Tòa Giám mục Xuân Lộc. Ðây là một Ðại chủng viện khang trang và rộng rãi nhằm đáp ứng nhu cầu huấn luyện và đào tạo chủng sinh trở thành linh mục cho các giáo phận miền Nam. Ðại chủng viện thánh Giuse II là phần nối dài của Ðại chủng viện Thánh Giuse I ở Saigòn. Sau bao nhiêu năm trời mong ước, nay giấc mơ này mới được thành tựu và đã phải trải qua biết bao nhiêu khó khăn về phép tắc và chờ đợi. Đại diện HĐGMVN cũng đã đến thăm chính quyền Đồng Nai.
Được biết Hội nghị lần này không có thư mục vụ gởi Cộng đồng Dân Chúa như thông lệ. Theo Thông tin từ ban Thư ký cua HĐGM Việt Nam, Thư chung về chủ đề giáo dục Gia đình sẽ được ban hành vào khoảng thời gian khởi đầu năm phụng vụ mới.
HĐGMVN trong hội nghị này đã có một văn thư số 10/ GHVN do Đức Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Chủ tịch HĐGMVN ký ngày 25-9-2008 , gởi cho UBND Thành phố Hà Nội để trả lời văn thư số 1437/UBND – NC ngày 23-9-2008 của ông Chủ tịch UBND /Tp Hà Nội và có kèm theo một bản “Quan điểm của Hội Đồng Giám mục Việt Nam về một số vấn đề trong hoàn cảnh hiện nay” hai văn bản này cũng được đồng kính gởi đến Văn phòng Thủ tướng, Văn phòng Chủ tịch nước, Ban Tôn giáo Chính phủ, Bộ Ngoại giao, Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam.Văn kiện "Quan điểm của Hội đồng Giám mục Việt Nam về một số vấn đề trong hoàn cảnh hiện nay" đã nhấn mạnh tới 3 điểm chính:
- Vấn đề đất đai và quyền sở hữu, đề nghị phương thế giải quyết tận gốc rễ;
- Phương tiện truyền thông phải là nhịp cầu liên kết, liên đới và cảm thông chứ không phải với mục đích là gieo rắc hoang mang và nghi kỵ;
- Không thể dùng bạo lực để giải quyết những xung đột, làm thế chỉ tạo thêm bất công.
Kết luận Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam nói lên ý hướng của mình là: "ước mong góp phần tích cực vào việc phát triển đất nước cách ổn định và vững bền, những suy nghĩ này mong được gửi đến tất cả anh chị em đồng đạo cũng như mọi người thành tâm thiện chí. Chúng tôi xác tín rằng khi tất cả chúng ta cùng nhau xây dựng đất nước trên nền tảng công bằng, sự thật và tình yêu, thì quê hương Việt Nam sẽ ngày càng giàu đẹp, mang lại hạnh phúc ấm no cho mọi người, và góp phần kiến tạo một thế giới tốt đẹp hơn.
HÀ NỘI - Trong vòng một tiếng rưỡi đồng hồ các vị Đại Diện của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã có cuộc gặp mặt và trao đổi quan điểm với các vị lãnh đạo cao cấp nhất của Chính quyền Việt Nam từ 17 giờ đến 18 h 30 ngày 01 tháng 10 năm 2008 tại dinh Thủ tướng. Cuộc trao đổi rất thẳng thắn và đi sâu vào các vấn đề mà cả hai bên quan tâm, nhất là quyền tư hữu của người dân, từ đó phát sinh những vấn đề khúc mắc mà dân oan cả nước đang than van, vấn đề truyền thông một chiều gây chia rẽ đại đoàn kết dân tộc, vấn đề chính phủ dùng bạo lực giải quyết những xung khác mà không có đối thoại chân thành để giải quyết các nỗi oan ức của dân chúng hay tổ chức giáo hội.
Đoàn của HĐGM gồm 4 vị đại diện: Đức cha Chủ tịch HĐGM Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Đức Hồng Y TGM Sài Gòn G.B Phạm Minh Mẫn, Đức TGM Huế Stêphanô Nguyễn Như Thể và Đức Giám mục Hưng Hoá Antôn Vũ Huy Chương.
Phía chính quyền, cùng ngồi với Thủ tướng Nguyễn tấn Dũng, ông Thượng tướng Công an Nguyễn Văn Hưởng, ông Trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ Lê Đăng Doanh, và ông Vụ trưởng Vụ Quan hệ Quốc tế của BTG Chính phủ Dương Ngọc Tấn.
Tin tức mà chúng tôi ghi nhận được cho biết có lẽ đây là lần đầu tiên cả hai bên
đều thẳng thắn đặt ra những vấn đề trọng yếu và quan tâm hàng đầu liên quan tới
những khúc mắc giữa Giáo hội và Nhà nước Việt nam. Đại diện HĐGMVN lên tiếng
bênh vực Đức TGM Ngô quang Kiệt của tổng giáo phận Hà nội và phản bác lại lập
luận của ông Thủ tướng và Thượng tướng Công an. Các vị giám mục lên tiếng rằng
vị Tổng giám mục Hà nội không làm bất một điều chi sai giáo luật cũng như không
có bất cứ hành vi phạm pháp nào. Lời kêu gọi cầu nguyện cho Công lý không những
là trách nhiệm của giám mục mà còn là bổn phận của bất cứ người công dân nào
muốn thăng tiến nếp sống bình đẳng và trân trọng những giá trị nhân bản của con
người, nhất là người Việt Nam.
Đức Cha chủ tịch HĐGMVN và các vị Giám mục không những chỉ trình bầy chi tiết về
Bản tuyên bố Quan Điểm và lập trường của Giáo hội CGVN (bản văn đã được công bố
sau Khóa họp tại Tòa Giám mục Xuân Lộc ngày 25/8/2008). Các ngài đặc biệt nhấn
mạnh đển vấn đề quyền tư hữu, vấn đề luật đất đai, vấn đề xây dựng đất nước dựa
trên công lý và sự thật, vấn đề truyền thông sai sự thật và hậu quả gây nên sự
chia rẽ và bất ổn định trong cộng đồng dân tộc và đất nước và yêu cầu giải quyết
các vụ tranh chấp liên quan đến đất đai tài sản trên lý và tình.
Riêng về các buổi cầu nguyện chung của người công giáo mà phía Nhà cầm quyền cho
rằng vi phạm luật lệ và làm mất an ninh trật từ, thì các Giám mục đưa quan điểm
của mình là việc cầu nguyện là quan trọng trong đời sống của Giáo hội. và nhấn
mạnh đến "sự tốt đẹp của việc cầu nguyện ở mọi nơi, mọi lúc và cho mọi người
trong đó có cả Thủ tướng!". Nên việc cầu nguyện phải được duy trì và tiếp
tục luôn mãi.
Thêm vào đó đức cha Chủ tịch và các giám mục còn đưa ra những nhận định khác về
những vấn đề giáo dục, xã hội, công việc bác ái, hoạt động tôn giáo, và những
vấn đề liên quan tới nếp sống của dân chúng có ảnh hưởng tới nếp sống tinh thần
linh thiêng của người dân, đặc biệt vai trò của Giáo hội trong xã hội và trong
đất nước Việt Nam hôm nay.
So sánh lập luận và cách nhìn vấn đề từ phía Nhà nước và phía Giáo hội thì hầu
như có nhiều xung khắc và đối chọi nhau không những về quan điểm pháp lý, cách
nhìn sự kiện, phương hướng giải quyết mà còn về sự cách kết cấu giải pháp: Nhà
nuớc muốn áp đặt giải pháp, đang khi phía Giáo hội muốn đối thoại dựa theo căn
bản pháp lý và chứng cớ hiển nhiên.
Trần Tâm tổng hợp tin tức
Kính gửi:
Anh em linh mục, anh chị em tu sĩ, giáo dân
trong cộng đồng Dân Chúa tại Việt Nam
Anh chị em thân mến,
1. Sau Hội nghị thường niên kỳ II vừa qua, được tổ chức tại Toà giám mục Xuân
Lộc, từ ngày 22-26.09.2008, HĐGM.VN đã cử một đoàn đại diện đến Hà Nội gặp gỡ và
trao đổi với Thủ tướng Chính phủ. Đoàn đại diện gồm có Đức cha Chủ tịch HĐGM và
ba giám mục đại diện ba giáo tỉnh Hà Nội, Huế, Tp. Hồ Chí Minh.
2. Trong cuộc gặp gỡ chiều ngày thứ Tư 1.10.2008, từ 17g00 đến 18g30, sau khi
nghe chúng tôi trình bày quan điểm của HĐGM.VN về một số vấn đề trong hoàn cảnh
hiện nay, Thủ tướng đã thông báo tình hình thực hiện chính sách tôn giáo nói
chung và đối với Công giáo nói riêng. Là người đứng đầu cơ quan hành pháp trong
Nhà Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Thủ tướng cũng nêu lên quan điểm
của Chính phủ đối với vụ việc Toà Khâm sứ cũ (số 42 Nhà Chung) và giáo xứ Thái
Hà (số 178 Nguyễn Lương Bằng, Hà Nội), cũng như đối với Đức Tổng giám mục Hà
Nội.
3. Nhờ lời cầu nguyện của anh chị em, cuộc gặp gỡ đã diễn ra trong tinh thần
lắng nghe và trao đổi thẳng thắn. Như thế, con đường đối thoại được khai mở lại
sau một thời gian tưởng như bế tắc. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn anh chị em
đã cầu nguyện cho chúng tôi. Thế nhưng con đường đối thoại tìm về chân lý, công
lý và lợi ích lâu dài của đất nước là con đường dài với nhiều khó khăn và trắc
trở, đòi hỏi khôn ngoan và kiên nhẫn. Vì thế, xin anh chị em tiếp tục hiệp ý cầu
nguyện, riêng cũng như chung, trong các cộng đoàn giáo xứ và dòng tu, với tinh
thần hiệp nhất, yêu thương và ôn hoà.
Chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa luôn đồng hành với Dân Người. Xin Chúa ban ơn
bình an và ơn soi sáng cho tất cả mọi người biết thành tâm tìm kiếm và gặp được
chân lý, công lý và lợi ích lâu dài của cả cộng đồng dân tộc. Khi tất cả mọi
người đều lấy chân lý, công lý và công ích làm ánh sáng soi đường và chuẩn mực
chọn lựa, thì chúng ta sẽ có thể vượt lên trên những khó khăn và trở ngại trong
tiến trình xây dựng quê hương và phát triển đất nước thân yêu của chúng ta.
Hà Nội, ngày 3.10.2008
Chủ tịch HĐGM.VN
+Gm. Phêrô Nguyễn Văn Nhơn
Đại diện Giáo tỉnh Hà Nội
+Gm. Antôn Vũ Huy Chương
Đại diện Giáo tỉnh Huế
+Têphanô Nguyễn Như Thể
Tổng Giám mục Huế
Đại diện Giáo tỉnh Sài Gòn
+Gioan B. Phạm Minh Mẫn
Hồng y Tổng Giám mục
Đúng vào ngày mừng kính Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giêsu ngày 1 tháng 10 năm 2008 quan thày của xứ đạo, bà con giáo dân thuộc bốn sắc tộc Choang, Tày, Nùng và Việt, những người con thiểu số của Giáo hội Việt Nam quy tụ quanh người cha chung của Giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng cùng toàn thể linh mục đoàn và các tu sỹ nam nữ của Giáo phận hiệp dâng Thánh Lễ đặt viên đá đầu tiên tại Giáo xứ Đồng Đăng. Một niềm vui lớn cho Giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng nói chung và cho bà con sắc tộc Giáo xứ Đồng Đăng nói riêng.
Giáo xứ Đồng Đăng là một trong mười một Giáo xứ của Giáo phận Lạng Sơn – Cao
Bằng, tọa lạc tại thị trấn Đồng Đăng, huyện Cao Lộc giáp ranh với Trung Quốc,
cách đường biện giới chỉ vỏn vẹn 2km. Linh mục quản sứ hiện tại Phao-lô Nguyễn
Văn Thảo cho biết: thật ra Giáo xứ Đồng Đăng được thành lập năm 1934 và cũng từ
lúc ấy nhà thờ cũng đã được xây dựng, chính tại ngôi Thánh đường ấy biết bao tâm
hồn của bà con lương dân được sưởi ấm nhờ đón nhận Tin Mừng. Công cuộc truyền
giáo và xây dựng Giáo hội địa phương đang hồi tiến triển thì bị chững lại do
chiến tranh loạn lạc, chống giặc ngoại sâm. Trong vòng ba mươi năm trong bầu khí
nhiễu nhương của thời cuộc như thế, không những công cuộc loan báo Tin Mừng gặp
bế tắc mà ngay cả đời sống đức tin của bà con giáo dân cũng bị mai một và gặp
nhiều thách đố do thiếu vắng mục tử và những người đồng hành thiêng liêng, một
đằng do bị trục xuất một đằng do cấm cách; ấy là chưa nói đến việc bà con phải
gánh chịu sự phận biệt đối sử giữa lương và giáo. Chưa hết, sau năm 1975 những
vùng khác của đất Việt đã đi vào ổn định và phát triển thì bà con vùng biên
cương cực Bắc phải quay lưng lại một lần nữa chống giặc Tàu và kết quả là năm
1979 “Ngôi nhà chung” của bà con giáo dân, nơi ghi dấu và diễn tả đức tin duy
nhất của bà con sắc tộc cũng bị bom đạn tàn phá chỉ còn trỏng trơ bốn bức tường.
Nào đã được yên, năm 1992 bốn bức tường kia cũng ngả xuống, ngay cả miếng đất
của nhà thờ cũng không còn nữa vì đã phải “nhường chỗ” cho sân ga xe lửa. Thế
đấy, nếu nói theo ngôn ngữ bình dân, Giáo xứ Đồng Đăng đã “nghèo lại còn gặp
eo!” cái nghèo và cái “eo” ấy không nói ai cũng biết.
Với tư cách là chủ chăn, các Giám Mục kể từ thời Đức Cha cố Phao lô Phạm Văn Dụ,
rồi Đức cha Giuse Ngô Quang Kiệt và hiện nay là Đức cha Giuse Đặng Đức Ngân,
không thể không khắc khoải trạnh lòng khi nhìn thấy chiên của mình tan tác không
nơi chú ngụ. Với tất cả nỗ lực và sự kiên trì trong tín thác, năm 2008 Chúa đã
ghé mắt nhìn đến Đồng Đăng ngang qua lời cầu nguyện của bà con, bàn tay vun đắp
của mọi thành phần trong Giáo phận và những con tim rộng mở của ân nhân xa gần.
Thế là, giáo dân sứ Đồng Đăng đã có được một khu đất mới cách “ngôn nhà” cũ 2km,
ít ra cũng có mảnh đất để những nông dân sắc tộc chân lấm tay bùn tề tựu cầu
nguyện, chia sẻ và nâng đỡ niềm tin của nhau sau những thời khắc vất vả nơi
nương rẫy trong ngôi nhà thờ mái lá. Hơn ai hết, chính cha quản sứ hiện tại đã
thấm thía được cái nghèo cái khổ và những thiệt thòi của bà con sắc tộc nơi đây
vì ngài được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Lạng Sơn này, chia sẻ dòng máu với
bà con Tày thân thương của mình của mình.
Với ngần ấy những thách đố của lịch sử và hoàn cảnh địa dư cộng với thời gian
kiên nhẫn đợi chờ cũng đủ để nói lên được niềm vui òa vỡ của toàn thể “gia đình
Giáo phận Lạng Sơn” trong ngày lễ đặt viên đá đầu tiên của Giáo xứ Đồng Đăng,
đánh dấu một khởi đầu mới, một chặng đường hy vọng mới trên hành trình sống và
loan báo Tin Mừng.
Niềm vui còn được nhân lên trong ngày lễ tạ ơn khi toàn thể bà con trong xứ đạo
lại có thêm những anh chị em tân tòng đón nhận Tin Mừng do chính cha quản xứ làm
phép rửa trước Thánh lễ, để rồi trong Thánh Lễ họ được chính bàn tay Đức Giám
Mục của mình sức dầu Thánh ban phép thêm sức và chúc lành. Cảm động hơn hết là
nghi thức hôn phối giành cho những cặp “uyên ương” tuổi xế chiều, hai ông bà
trước sự chứng kiến của con cháu và toàn thể Hội Thánh địa phương nắm tay nhau
ấp úng nửa tiếng kinh nửa tiếng dân tộc thề hứa sẽ chung thủy trọn phần đời còn
lại. Thế đấy, niềm vui đơn sơ trên cánh đồng truyền giáo, nó đơn sơ y như bà con
sắc tộc vậy.
Đúng vào ngày mừng kính thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, trong bài giảng, Đức Cha
Giuse đã say sưa chia sẻ tâm tình với con cái về “chị thánh thần tượng” của
mình: thần tượng về đời sống thánh thiện và một tình yêu đơn sơ nhỏ bé, thần
tượng về một trái tim với khát vọng truyền giáo muốn đến với muôn người và muốn
muôn người biết danh Giêsu; và thần tượng về một tình yêu trao hiến trọn vẹn để
âm thầm phục vụ Chúa và tha nhân có khi chỉ là những việc nhỏ nhưng với một tình
yêu lớn nhất. Khi chia sẻ những nỗi niềm của mình Ngài cũng muốn khuyên nhủ và
ước mong con cái hãy ngước nhìn và dõi theo bước đi của chị Thánh quan thày Giáo
xứ, mặc lấy cung cách hành sử của chị ôm ấp ước mơ của chị trong việc đắp xây
Hội thánh địa phương và chung tay đẩy mạnh công cuộc truyền giáo theo lệnh
truyền của Thày Chí Thánh. Mà thật ra những ước mơ và cung cách hành sử kia
Thánh nữTêrêsa cũng đón nhận từ Thày đấy thôi, Đấng là đường là sự thật và là sự
sống mà.
Mừng lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng ngôi Thánh đường bằng đá gạch hôm nay đã
khơi dậy nơi tâm thức của mỗi người con sứ Lạng hình ảnh “viên đá đức tin” được
đặt nơi “Thánh đường tâm hồn” của mỗi người ngay từ những ngày đầu đón nhận Tin
Mừng. Hôm nay với bốn kiểu dáng phẩm phục sắc tộc khác nhau bà con nâng niu lễ
vật với hoa cỏ đồng nội, rượu bánh, hương trầm gói trọn tâm tình và những ước mơ
của những người con sắc tộc vùng núi dâng lên Đấng Chí Tôn; hòa theo làn điệu
hát then, một làn điệu truyền thống của bà con dân tộc Tày, bà con diễn tả đức
tin bằng chính truyền thống văn hóa của dân tộc mình.
Nơi xứ đạo nhỏ bé Đồng Đăng hôm nay nhà nhà vui, người người vui khi viên đá đầu
tiên được thánh hóa và đặt nền cho một ngôi Thánh Đường chắc là cũng nhỏ bé và
đơn sơ như chính bà con sắc tộc vậy. Thế nhưng dù sao cũng chỉ là khởi đầu cho
một công trình trước mắt, còn đấy những bận tâm của vị chủ chăn, còn đấy những
công khó cần đến những bàn tay bé của những con chiên nghèo nơi xứ đạo và còn
đấy những ước mơ của bà con sắc tộc vùng sơn cước. Với niềm tín thác nơi tình
thương Thiên Chúa mà tình mến con người, thì những trăn trở kia cũng sẽ được soa
dịu, những công khó rồi cũng sẽ nở hoa và những ước mơ rồi đây cũng sẽ được chắp
cánh nhờ những tấm lòng quảng đại và những bàn tay đỡ nâng của bao người. Xin
thay lời cho bà con bốn sắc tộc Giáo xứ vùng núi chúng con xin chân thành tri ân
các vị chủ chăn, các linh mục và tu sỹ nam nữ trong ngoài Giáo phận cùng toàn
thể quý ân nhân xa gần đã và đang ôm ấp, nâng đỡ chúng con, xin quý vị tiếp tục
nhớ đến chúng con trong lời cầu nguyện để chúng con sống đúng tinh thần và ước
mơ của Thánh nữ bổn mạng, “trong lòng Hội Thánh chúng con nguyện sẽ là tình
yêu”.
Dominic Vũ
SAIGÒN - Vào lúc 9 giờ 30 ngày 4/10/2008, tại giáo xứ Phanxicô Đa Kao, Sài Gòn, thánh lễ đồng tế được cử hành trọng thể để khai mạc năm thánh mừng 800 năm thành lập dòng Anh Em Hèn Mọn (1209 – 2009) và 80 năm Tỉnh Dòng Phanxicô Việt Nam (1229 – 2009).
Mở đầu là lời chào thân thiện và công bố khai mạc năm thánh của cha bề trên giám
tỉnh FX Vũ Phan Long: “ Trong niềm hân hoan, chan hòa lòng biết ơn, chúng ta sẽ
cử hành “ân sủng nguồn cội”, giúp nhau nhớ lại truyền thống sống ơn gọi của Tỉnh
Dòng, xuất phát từ cha già Maurice Bertin, như một dòng sông nhỏ rẽ ra từ con
sông lớn là toàn thể Hội Dòng Anh Em Hèn Mọn, bắt nguồn từ cha thánh Phanxicô,
“trở về với những điều cốt yếu của kinh nghiệm sống ơn gọi; nuôi dưỡng thế giới
chúng ta bằng cách đề nghị lời có sức giải phóng của Tin Mừng…”
Cùng đồng tế, có cha bề trên giám tỉnh dòng Đa Minh, cha đại diện giáo phận Vinh
và các linh mục dòng Phanxicô. Hôm nay, về tham dự thánh lễ còn có quí sơ bề
trên các hội dòng bạn và khá đông anh chị em dòng ba Phan Sinh Tại Thế tạo nên
bầu khí ấm áp cho gia đình Phan Sinh tại Sài Gòn.
Với vị thánh nổi tiếng Phanxicô, trong ngày kính Ngài, chẳng cần phải kể lại
tiểu sử hay hành trình sống của Ngài thì nhiều người cũng đã cũng biết, nhưng
bài giảng của cha chủ tế có chiều sâu tri thức làm cho người dự vẫn muốn nghe
thêm:
“…Thiên Chúa là vầng sáng đã giúp Phanxicô tạo ra cách sống mới cho anh em:
cách sống quan hệ giữa loài người với nhau; một cách sống ôn hòa. Trong con một
của Người, Thiên Chúa đã muốn gần gũi, muốn tìm kiếm kẻ tội lỗi. Người soi sáng
để Phanxicô làm cho anh em thấm thía tinh thần Tin Mừng, có một cách sống nhân
bản trong cách đối xử, cách sống dấn thân, cách đi thi hành sứ mạng khó nghèo…"
Việc noi gương khó nghèo của “siêu mẫu Giêsu” lại chính là con đường mang đến tự
do, thanh thoát cao độ khi sống giữa anh em nghèo khổ.
Thời gian thuận lợi để sống tinh thần hoán cải của thế giới trong niềm hiệp
thông với mẹ Maria bằng:
- Một đức tin ngay thẳng trong mọi sự.
- Một đức cậy vững vàng hướng chúng ta đến một tương lai tuyệt đối là sự sống viên mãn.
- Một đức mến hoàn hảo làm cho chúng ta nên giống chúa Kitô hơn.
- Cùng
sự tinh tế và ơn hiểu biết làm cho chúng ta cảm nhận được niềm hạnh phúc mai
sau, một niềm hạnh phúc làm cho chúng ta không hãnh tiến về một thành công và
không lao đao vì một thất bại.”
Thánh lễ đơn sơ và trang trọng, của lễ được tiến dâng hôm nay không chỉ có bánh
rượu mà còn có cả tâm tình của những người giáo dân mặc áo nâu quyết tâm sống
tinh thần Phanxicô giữa đời thường.
Ca đoàn Quê Hương cất lên những lời ca rất sống động làm người ta dễ nhớ lại lời
ngợi khen Thiên Chúa trong “Bài Ca Tạo Vật”
Sau thánh lễ, mỗi người dự được tặng một cuốn tài liệu mừng năm thánh và một
hộp bánh đủ để những người ở xa no dạ trở về nhà.
Thánh Phanxicô đã thay đổi đời mình và có một nét độc đáo về tinh thần khó nghèo
mà mãi về sau, thế giới vẫn cần được đánh thức. Bởi vì tiền bạc, của cải có một
sức hút mãnh liệt làm cho nhiều người lao tới mà quên đi những giá trị có thể
làm con người được sống mãi; thậm chí người ta đánh đổi những điều thiêng liêng,
quí báu như tôn giáo, quan hệ huyết thống, thời gian, danh dự, sức khỏe để kiếm
tiền của. Mà tồi tệ nhất là tiền bạc lại là cái đích đến sau cùng được ẩn dấu
trong những việc làm tốt đẹp khác, một cách tinh vi của ma quỉ.
Mẫu gương của thánh Phanxicô khó khăn nhiều thế hệ mãi còn nhắc đến vì cuộc sống
hiện đại nhất, đầy đủ nhất vẫn chưa phải là thiên đàng bao lâu thế giới vẫn còn
chìm trong tranh giành và quyền lực.
Maria Vũ Loan
Tòa Giám Mục Phan Thiết
422 Trần Hưng Đạo
T.P. Phan Thiết
Phan Thiết ngày 3 tháng 10 năm 2008
THƯ CHUNG NĂM THÁNH ĐỨC MẸ TÀPAO
Kính gửi:
Quí Cha, Quý Tu sĩ, Chủng Sinh
và anh chị em thân mến
Trước hết, tôi xin gửi lời chào Bình an trong Chúa Kitô tới tất cả Cộng Đoàn Dân
Chúa của Giáo phận Phan Thiết thân yêu với lời tung hô Mẹ Maria Rất Thánh.
Anh chị em thân mến,
Nhân kỷ niệm năm mươi năm thánh hiến tượng đài Đức Mẹ Tàpao, với bức thư chung
này, tôi hoan hỷ loan báo cho anh chị em một tin mừng lớn cho Giáo phận chúng
ta: ngày 28 tháng 7 vừa qua, Tòa Ân Giải Tối Cao của Giáo hội Rôma đã ban sắc
lệnh cho phép Giáo phận Phan Thiết mở Năm Thánh ban Ơn Toàn Xá, với những điều
kiện thông thường (xưng tội, rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng), để
thêm lòng đạo đức cho các tín hữu và ơn cứu rỗi cho các linh hồn.
Năm Thánh bắt đầu khai mạc từ 8-12-2008 và bế mạc 8-12-2009.
Suốt năm toàn xá này, tại chính Trung Tâm Đức Mẹ Tàpao,
- trong những ngày 8-12-2008 và 2009 khi long trọng hành lễ khai mạc và bế mạc
Năm Toàn Xá
- trong các ngày 13 mỗi tháng
- trong mọi nghi thức phụng tự kính nhớ Đức Trinh Nữ Maria
Những ai tham dự việc cử hành năm toàn xá hoặc làm các việc đạo đức kính Đức
Trinh Nữ Maria Tàpao hoặc ít ra trong thời gian thích hợp, họ dục lòng đạo đức
mà đọc kinh Lạy Cha, Kinh Tin Kính, và cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng theo
công thức hợp pháp nào đó và khẩn cầu cùng Đức Mẹ Tàpao, đều nhận được ơn toàn
xá cho mình hoặc chỉ cho các linh hồn.
Ngoài trung tâm Đức Mẹ Tàpao, Tòa ân giải còn cho phép mở thêm năm địa điểm tại
năm Giáo hạt để thuận lợi cho việc tham dự các buổi cử hành phụng tự ban Ơn Toàn
Xá.
Năm địa điểm đó là:
Nhà thờ Thanh Xuân cho Hạt Hàm Tân
Nhà thờ Chính Tòa cho Hạt Phan Thiết
Nhà thờ Võ Đắt cho Hạt Đức Tánh
Nhà thờ Hiệp Đức cho Hạt Hàm Thuận Nam
Nhà thờ Long Hà cho Hạt Bắc Tuy.
Đối với những người già yếu, bệnh tật, những người có lý do quan trọng không ra
khỏi nhà được vẫn có thể lãnh ơn toàn xá này miễn là có lòng thống hối, quyết
tâm thực hiện trong thời gian sớm nhất ba điều kiện thông thường và hiệp thông
cách thiêng liêng vào các việc cử hành Năm Toàn Xá và vào các cuộc hành hương.
Trong khi dâng lời cầu nguyện và những nỗi khổ đau cho lòng nhân từ Chúa qua Mẹ
Maria.
Thưa anh chị em
Năm Thánh Toàn Xá này thật là một ân huệ đặc biệt cho Giáo phận do lòng thương
yêu của Chúa qua Mẹ Maria. Chính Đức Mẹ Tàpao đem ơn toàn xá đến cho chúng ta
sau bao năm ban những ơn lành hồn xác cho khách hành hương tứ phương qua lại.
Chúng ta hãy hết lòng tạ ơn Chúa và Mẹ Maria yêu quí. Chúng ta cũng ra sức thu
lượm thật nhiều hoa quả, ân huệ thiêng giữa ngày mùa thánh thiện này. Tôi đề
nghị quý cha giúp anh chị em thực hiện những việc sau đây một cách siêng năng và
nhiệt thành.
Trong Năm Toàn Xá, chúng ta siêng năng hơn, chu toàn hơn bổn phận thiêng liêng
hằng ngày như kinh hạt sớm tối, tham dự Thánh Lễ nhiều hơn, siêng năng xưng tội
rước lễ hơn, siêng năng lần hạt mân côi kính Đức Mẹ. Mặt khác, còn phải cải
thiện đời sống theo Tin Mừng như lời Mẹ dạy ở Fatima. Cố gắng thực hiện đức bác
ái và giao hòa hiệp nhất với nhau.
Ngoài ra các giới các đoàn thể hãy ra sức thi đua học tập linh đạo Đức Mẹ với ba
nhân đức Tin, Cậy, Mến mà Mẹ đã sống một cách tuyệt vời khi Mẹ đứng dưới chân
Thánh Giá Chúa, tham dự trọn vẹn cuộc hiến dâng cuối cùng, kết thúc cuộc đời của
con yêu quý của Mẹ.
Ba nhân đức này Mẹ đã sống suốt đời Mẹ, nhưng đây là giây phút rạng ngời nhất. Ở
đây tất cả tâm tình tin yêu phó thác của Mẹ đã hòa nhập trọn vẹn vào niềm tin
yêu phó thác tuyệt đối của Chúa Giêsu con Mẹ, khi Người hiến mạng sống mình cho
định mệnh kỳ diệu mà Chúa Cha đã sắp đặt an bài: “Con dâng mạng sống con trong
tay Cha” (Lc 23, 46).
Với lòng Tin Cậy Mến đó, Mẹ đã trở thành Mẹ và Thầy dạy chúng ta trong linh đạo
tình yêu cao vời. Mẹ sinh ra chúng ta dưới chân Thánh Giá. Khi Chúa nói với
Thánh Gioan: “Đây là Mẹ con” (Ga 19,27) và Chúa cũng ân cần trao chúng ta cho Mẹ
qua Thánh Gioan: “Đây là con Bà”. (Ga 17,26).
Tại Tàpao chúng ta được chứng kiến bao ân tình của Mẹ ban cho những ai đến đây
kêu cầu Mẹ trong tin yêu phó thác. Nếu chúng ta ra sức noi gương Mẹ, chắc chắn
cuộc đời chúng ta sẽ đầy hạnh phúc và bình an.
Vậy tôi kêu mời anh chị em hãy bắt tay vào công trình xây dựng đời sống thiêng
liêng cho mình và cho gia đình, không ngừng hướng về nguồn cậy trông nơi Mẹ.
Cầu chúc quý Cha, quý Tu Sĩ nam nữ, Chủng Sinh và anh chị em một Năm Thánh tràn
đầy Hồng ân Thiên Chúa và Mẹ Maria.
+ Phaolô Nguyễn Thanh Hoan
GM. Giáo Phận Phan Thiết
(ấn ký)
PHAN THIẾT - Ngày 13.10.2008 sắp tới, thay vì dâng lễ cho khách hành hương kính Đức Mẹ Tàpao như mỗi tháng tại Nhà thờ Đồng Kho, Đức Giám Phục Phan thiết, Phaolô Nguyễn Thanh Hoan sẽ dâng thánh lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng Nhà thờ Fatima, ngày bổn mạng của Giáo xứ.
Môt chặng đường dài 30 năm di dân đến vùng kinh tế mới và 15 năm từ đống đổ nát,
nay giáo xứ Fatima hồi sinh và khởi đầu một hành trình mới.
1-Hạt giống Tin mừng được gieo trên miền đất kinh tế mới:
Sông Dinh- Suối Kiết là khu “rừng thiêng nước độc” trải dài khoảng 18 cây số nằm
ở mạn nam tỉnh Bình Thuận theo tỉnh lộ 720. Đây là một phần của chiến khu D,
thuộc tỉnh Bình Tuy lúc bấy giờ, ít người qua lại. Sau biến cố lịch sử năm 1975
tuyến đường sắt bắc nam được nối lại, một số công nhân được đưa về để phục vụ
các ga Sông Dinh và Suối Kiết. Nhờ có tuyến đường sắt nên một số gia đình có
hoàn cảnh khó khăn đổ về tìm kế sinh nhai. Họ săn bắt thú rừng và làm nghề mây
tre lá. Trong số đó có một số gia đình Công Giáo thuộc các Giáo Xứ: Tân Châu,
Đông Hà, Bồ Câu Trắng.
Từ năm 1978-1982, với chính sách “kinh tế bắt buộc”, chính quyền đưa dân các
thành thị tập trung về các vùng kinh tế mới “khỉ ho cò gáy” khai khẩn điền địa.
Căn Cứ 6, Sông Dinh, Suối Kiết, Sùng Nhơn, Đakai là những trọng điểm của tỉnh
Thuận Hải lúc bấy giờ.
Di dân đến vùng kinh tế bắt buộc, có một số gia đình Công Giáo thuộc các Giáo
Xứ: Thanh Xuân, Vinh Tân, Vinh Thanh, Tân Lý, Cù Mi. Hạt giống tin mừng được
gieo vãi nơi vùng đất xa xôi hẻo lánh “chim kêu vượn hú” nhờ những gia đình đầu
tiên như: ông Minh, ông Huỳnh, ông Quế, ông Dong, ông Đức, ông Năm, ông Nghĩa,
cụ Vinh, thầy Lừng nay là cha Giuse Nguyễn Văn Lừng đang du học bên Pháp. Đường
xá toàn ổ voi, phương tiện quá thô sơ, thuốc men dùng toàn dựơc thảo, không
trường học, không điện đèn, không chợ búa, không nhà nguyện, dân chúng nơi đây
thiếu thốn mọi bề. Giáo dân đi bộ 40 km để dự lễ Chúa nhật và lãnh nhận các bí
tích.
2. Lớn lên trong gian khổ:
Để nuôi dưỡng đời sống đức tin cho con cháu, Cụ Stéphanô Nguyễn Đình Từ đã tổ
chức đọc kinh ngày Chúa Nhật hàng tuần trong gia đình. Chính quyền tìm mọi cách
ngăn cấm.
Thương đoàn con nơi miền xa xôi hẻo lánh trăm bề khổ cực, Đức Cha Nicolas Huỳnh
Văn Nghi đã phân công cha Stéphanô Lê Công Mỹ, chánh xứ Tân Châu, âm thầm đến để
ban bí tích hòa giải và trao Mình Thánh Chúa hàng tuần. Năm 1992 Đức Cha Nicolas
thành lập Giáo Họ và xây dựng Nhà Thờ với tước hiệu Mẹ Thiên Chúa, nuôi dưỡng
đức tin cộng đoàn giáo dân xã Tân Minh trong đó có Sông Dinh và Suối Kiết. Từ đó
nơi đây có hai Họ Đạo là Phaolô và Têrêxa. Các Ân nhân đã giúp bà con giáo dân
mua đất để xây nhà nguyện tại Đồn My, Sông Dinh.
Ngày 23/5/2003 Đức Cha Nicolas ghé thăm khu đất có ngôi nhà gỗ, ngài cho sửa
chữa lại căn nhà để bà con sớm tối kinh hạt.
Ngày 11/7/2003 nhà nguyện với khung sắt tiền chế được dựng lên, cha Stéphanô Lê
Công Mỹ, cha Phaolô Nguyễn Văn Linh và Thầy Micae Hoàng Minh Hùng điều hành công
việc.
Ngày 13/8/2003 chính quyền các cấp đã đến lập biên bản đình chỉ thi công. Ngày
14/10/2003 UBND huyện Hàm Tân ra quyết định xử phạt hành chánh là 1.198.000đ và
buộc phải tự tháo dỡ công trình. Ngày28/10/2003 trong thời gian hai Đức Cha
Nicolas và Phaolô tham dự Hội Đồng Giám Mục Á Châu, UBND huyện Hàm Tân tống đạt
quyết định cưỡng chế tháo dỡ ngôi nhà tiền chế. Ngày 4/11/2003,lúc 8 giờ sáng,
một lực lượng hùng hậu của Huyện Hàm tân,Xã Tân minh đã trấn áp,san bằng khu
đất,tháo dở nhà tiền chế. Thế là một nhà nguyện mơ ước với bao mồ hôi và nước
mắt của giáo dân Sông Dinh và Suối Kiết đã trở thành đống gạch vụn đổ nát.
Sau khi về lại Toà Giám Mục, hay tin ngôi nhà nguyện Sông Dinh đã bị chính quyền
tháo dỡ, Đức Cha Nicolas đã chuyển lời động viên, khích lệ đến cộng đoàn. Hạt
giống đức tin đâm chồi nẩy lộc giữa gai gốc sỏi đá. Cha xứ và cha phó tiếp tục
dùng ngôi nhà gỗ tạm để cử hành Thánh Lễ hằng tuần.
3. Khởi đầu cho niềm hy vọng.
Đức cha Nicolas quyết định thành lập giáo xứ Fatima trên miền đất lắm gian truân
này. Ngày 25/1/2004 bà con giáo dân làm đơn xin xây dựng nhà thờ. Ban hành giáo
cùng các hội đoàn Gia Trưởng, Bà Mẹ Công Giáo, Thiếu Nhi Thánh Thể, Lêgiô đựơc
thiết lập và bắt đầu sinh hoạt.
Đức Cha Phaolô Nguyễn Thanh Hoan kế vị Đức Cha Nicolas. Ngài tiếp tục công việc nơi miền đất mới. Ngài đến dâng lễ, thăm viếng khích lệ bà con giáo dân hãy tin tưởng vào sự quan phòng đầy tình thương của Thiên Chúa. Ngài lập cộng đoàn nữ tu thuộc Tu Đoàn Bác Ái Xã Hội để lo chăm lo sức khoẻ, chữa bệnh cho những người nghèo. Đức Cha nâng Giáo Họ Mẹ Thiên Chúa lên hàng Giáo Xứ và bổ nhiệm cha Giuse Nguyễn Văn Hiên về làm chánh xứ tiên khởi, đặc trách Fatima, chăm sóc mục vụ và tiếp tục thủ tục xin xây dựng nhà thờ.
Ngày 10/9/2007 Fatima chính thức có chủ trương “xây dựng Nhà Thờ” của UBND tỉnh
Bình Thuận.
Đức cha Phaolô gởi đến giáo xứ một linh mục trẻ trung để xây Nhà thờ mới. Ngày
30/9/2007, Ngài cử hành Thánh Lễ tạ ơn và giới thiệu cha Fx.Hồ Xuân Hùng, chánh
xứ tiên khởi Giáo Xứ Đức Mẹ Fatima.
4. Hướng về tương lai.
Sứ
thần Gabriel đã nói với Đức Mẹ “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm
được” (Lc 1,27).
Nhìn lại hành trình hơn 30 năm nơi vùng đất hoang vu để thấy đựoc sự quan phòng kỳ diệu.Từ một xóm đạo bé nhỏ thuộc vùng kinh tế mới nay đã hình thành một giáo xứ. Tuy hiện tại, giáo xứ với ngôi nhà nguyện xiêu vẹo, trống trước hở sau, đôi ba chục ghế đá của giáo dân và những khách hành hương về Thánh Địa Tà Pao dâng cúng, phòng mặc áo đựơc dùng làm nơi ăn chốn ở cho Cha xứ, đêm mùa hè thanh vắng, tỉnh mịch chỉ có tiếng muỗi vo ve, mùa mưa thì lầy lội ếch nhái kêu inh ỏi, nhưng tin tưởng và hy vọng về ngôi Thánh đường mới, một trang sử mới sẽ mở ra cho miền đất Sông dinh-Suối kiết.
Tạ ơn Chúa, tri ân Đức Mẹ Fatima. Xin mọi người thêm lời cầu nguyện và nâng đỡ
cho giáo xứ sớm có đựơc ngôi Thánh đường như lòng hằng mong ước.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Em thân mến,
Mùa hè đã qua với những cuộc du ngoạn lên núi xuống biển, trèo đèo vượt suối, hay những chuyến công tác ”Mùa hè Xanh” triền miên. Em nói với tôi đôi khi tâm hồn không có thời giờ lắng xuống để suy niệm về mầu nhiệm Đức Maria, Mẹ Đấng cứu chuộc.
Hôm nay, bước vào năm học mới, Giáo Hội cũng chuẩn bị bước vào tháng Mân Côi, em và tôi cùng xin Thần khí Đức Kitô cho chúng ta được nhìn vào Đức Maria, để thấy sự lạ lùng mà Thiên Chúa đã làm nơi người thiếu nữ đơn sơ của thành Nazaret, và đang làm nơi mỗi người chúng ta.
Em có thấy không, theo luật tạo hóa, thì tất cả vũ trụ bao la này đều phải chuyển động quy vào một tâm. Trong một xã hội thì mọi thành viên trong tập thể phải theo một cái đầu. Trong một gia đình, mọi người phải phục tùng người gia trưởng. Như vậy mới có an bình trật tự.
Nếu trái đất ta đang ở cứ xoay tự do, mà không chịu quy hướng về mặt trời, thì loài người sẽ chết hết. Nếu mỗi người trong gia đình cứ hành động theo ý của mình, thì gia đình ấy sẽ lộn xộn rồi đến tan hoang.
Tất cả đất trời đều theo ý của Thiên Chúa mà xoay vần theo đúng quy luật, nên mới có nắng mưa thuận hòa, lúa ngô khoai sắn mới sinh sản tốt tươi, cuộc sống mọi người mới được bảo đảm ấm no hạnh phúc.
Thế nhưng, thật buồn em ạ! Vì chỉ có con người là tạo vật linh thiêng nhất, được Thiên Chúa yêu thương nhất, sống trên trái đất này lại không theo ý Thiên Chúa. Họ thích sống theo ý mình. Ai cũng cho ý mình là nhất. Mà họ có biết đâu khi chỉ làm theo ý mình là họ đang làm nô lệ cho chính bản năng của mình. Con người mất bình an ngay tự trong tâm hồn mình, rồi từ đó nảy sinh mất bình an trong gia đình, trong giáo xứ, trong cộng đoàn. Người này trở nên mão gai, thánh giá cho người khác, chất thêm gánh nặng lên vai nhau.
Từ tổ ấm gia đình lan ra xã hội, không có một nước nào trên thế giới mà không phải có pháp luật, không phải có tòa án, không có trại giam. Nhưng trật tự xã hội vẫn thường xuyên bị vi phạm, và có lẽ cho đến tận thế, những hình thức luật pháp này vẫn còn phải duy trì. Em có biết tại sao không ?
Bởi vì mọi người đều bỏ Thiên Chúa, và tự làm theo ý của mình. Kinh Thánh nói : “Họ đã bỏ hỏng việc nhận (thánh ý) Thiên Chúa, thì Thiên Chúa cũng phó mặc cho họ trí não hư hỏng của họ, mà làm những điều chẳng xứng, đầy mọi thứ bất lương xấu xa, tham lam, độc ác, sát nhân, đố kỵ, cáo gian, bỏ vạ, kiêu căng, khoác lác, giá họa, bất hiếu, ngu muội, bội ước, vô tâm, bất nghĩa ...” (Rm 2,28-31). Từng ấy thứ đè nặng trên lòng mỗi người, thì làm sao mà có bình an được, phải không em?
Trước sự vô cùng bĩ cực ấy của người ta, Thiên Chúa đã sai Con Một của Người là Đức Giêsu Kitô đến trong thế gian. Đức Giêsu xuống trần không để làm một việc gì lớn lao, Ngài chỉ xuống làm có một việc duy nhất : “Này Con đến để làm theo ý Cha ” (Hr 10,7). Vì trong ý muốn của Cha thì có trật tự bình an. Chính trong ý muốn của Cha mà Đức Giêsu đã hy sinh đến chết trên thập giá và phục sinh. Tất cả mọi người chúng ta đã không làm theo ý Thiên Chúa, thì hôm nay có một con người đã làm, và làm trọn hảo. Con người đó là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
“Các con đừng xao xuyến, chớ nhát đảm, Ta ban bình an cho các con ” (Ga 14,27). “Bình an của Ta khác thế gian, thế gian không có thứ bình an này đâu ...” Chút kinh nghiệm non trẻ như em cũng có thể thấy bình an của thế gian dựa trên tiền của danh vọng, đó là thứ chứa đầy mầm xao xuyến lo âu. Bình an của Đức Giêsu là bình an chảy từ trái tim Ngài nơi thập giá và tràn đầy Thánh Thần trong sự phục sinh của Ngài.
Hôm nay, em có thấy các kẻ tin ở trong Hội Thánh, đã có ai hoàn toàn chịu đón nhận sự bình an Đức Giêsu Kitô hứa ban chưa ? Thực sự, con người vẫn chưa hoàn toàn để thánh ý Thiên Chúa hoạt động trong đời mình. Điều mà Thiên Chúa muốn và Đức Kitô tha thiết kêu mời là mọi kẻ tin vào Ngài, hãy luôn cầu khẩn van xin cho được : “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời ” (Mt 6,10). Thế mà hôm nay em thấy đó, Thiên Chúa chỉ gặp thấy ý người ta lan tràn trên mặt đất.
Nhưng tạ ơn Thiên Chúa em ạ! Ngoài Đức Giêsu Đấng duy nhất chu toàn thánh ý của Cha, chúng ta còn được Thiên Chúa ban cho một con người thứ hai. Em có biết người đó là ai không? Đó là Đức Trinh Nữ Maria, một thiếu nữ vô danh ở làng Nazaret. Mẹ đã sấp mình xuống đất dâng trọn trái tim của mình cho Thiên Chúa : “Xin cho thánh ý Ngài, được thành tựu nơi tôi ” (Lc 1,38). Em thấy lúc ấy trời mở ra, Thánh Thần Thiên Chúa bao phủ quyền năng Đấng tối cao trên Mẹ, và như lời kinh chúng ta thường đọc : “Chốc ấy Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người ”.
Em thân mến,
Công đồng Vatican II đã nói về Đức Maria trong chương 8 của Hiến chế Tín lý như sau : “Chính Đức Maria, nhờ vâng phục (thánh ý) Thiên Chúa, đã trở nên nguyên nhân cứu độ cho toàn thể nhân loại chúng ta. Nút dây đã bị thắt lại do sự bất tuân của Eva, nay đã được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Maria ” (C8, đoạn 56).
Em muốn có bình an hạnh phúc thật sự, thì phải nhìn Đức Maria như mẫu gương tuyệt vời. Em hãy mở hết tâm hồn ra, hết cuộc đời ra mà đón nhận Đức Kitô vào trong lòng mình, để nhờ Ngài đặt tất cả ý riêng mình vào ý Thiên Chúa như Mẹ Maria đã làm.
Trong suốt cuộc đời mình, Mẹ chỉ có một đích ngắm là Đức Giêsu Kitô, chỉ có một điều để suy niệm và giữ kỹ trong lòng là Giêsu Kitô, chỉ có một trái tim để yêu mến là trái tim Giêsu Kitô. Vì thế, khi gặp gỡ ai, Đức Maria chỉ mời gọi và làm cho người ta đón nhận Đức Giêsu Kitô con Mẹ.
Gioan Baotixita, qua Mẹ Maria đã được Đức Giêsu tha tội tổ tông ngay trong bụng mẹ là bà Elisabet. Đám cưới thành Cana, nhờ Đức Mẹ chỉ người ta đến gặp Đức Giêsu, thì nước lã được hóa thành rượu ngon.
Hôm nay Đức Maria cũng mời gọi tất cả tín hữu đi vào ý Thiên Chúa là đón nhận Con Mẹ bằng cách lần chuỗi Mân Côi. Đức Giêsu Kitô, chính Ngài là mầu nhiệm cứu chuộc, và mầu nhiệm cứu chuộc đã diễn ra trong suốt cuộc đời giáng sinh, chết thập giá và phục sinh của Ngài.
Đức Maria, Đấng mang Lời Thiên Chúa trong lòng mình, hằng theo dõi bước Con trên đường cứu chuộc, kết hợp mật thiết với Con như thể nên một cùng Con trong mầu nhiệm ấy. Một mũi giáo đâm thâu trái tim Giêsu, thì một lười gươm cũng thâu qua lòng Mẹ.
Em còn nhớ một trong 3 mệnh lệnh của Mẹ khi hiện ra ở Fatima năm 1917 là ”siêng năng lần hạt Mân Côi” chứ ? Mẹ kêu mời đọc kinh Mân Côi hằng ngày là Mẹ kêu mời đắm mình vào mầu nhiệm cứu chuộc của Đức Giêsu Kitô. Mẹ kêu mời con cái mình hãy ”Lần Hạt bằng Trái Tim” chứ không chỉ ”thờ kính ta bằng môi bằng miệng”! Vì thế khi em lần hạt Mân Côi không chỉ là đọc với số lượng cho thật nhiều, nhưng là đặt tất cả những đau khổ cực nhọc của đời mình vào cuộc tử nạn thập giá của Đức Giêsu Kitô, Đấng đã đau khổ cơ cực như chúng ta, và hôm nay Ngài vẫn giang hai tay, mở trái tim để nhận hết nỗi đau khổ cơ cực và tội lỗi của chúng ta nữa. Ở nơi Đức Giêsu, biển xót thương mênh mông sẽ xóa hết tội lỗi của anh, của em, của tất cả mọi người, và trao ban cho chúng ta tình yêu vô biên và sự giầu có vô phương dò thấu của Ngài (Ep 3,8-10). Khi em ”Lần Hạt bằng Trái Tim’ như thế, em được nên một với Đức Giêsu, được ở trong sự bình an của Thiên Chúa, không còn nỗi đau khổ, hay một phồn vinh của thế gian làm em lo âu xao xuyến nữa.
Nói thật cho em biết, việc kính mến Đức Mẹ dù huy hoàng bên ngoài thế nào, mà không gặp được Đức Giêsu trong tâm hồn mình, trong cuộc đời mình là việc sùng kính sai lạc.
Nếu em lần chuỗi Mân Côi suốt ngày, mà không liên kết được với Đức Giêsu, không để Đức Giêsu lo toan gánh vác cho em tất cả những khổ đau và những tội lỗi của mình, để em được sống bình an trong Thiên Chúa, thì việc lần hạt vẫn chưa theo đúng ý của Đức Mẹ, vẫn chưa phải là ”Lần Chuỗi bằng Trái Tim”, vì ý của Chúa Cha vẫn chưa được thể hiện dưới đất trong đời em.
Thay cho lời kết lá thư này, xin gởi đến em tâm tình của một người bạn trẻ thời @ đã cảm nghiệm thế nào là ”Lần Chuỗi bằng Trái Tim” :
”Mỗi tuần vào buổi chiều thứ năm lúc 13g30 tôi đều đến với giờ cầu nguyện Lòng Thương Xót Chúa tại nhà thờ Chí Hoà để cùng lần chuỗi, cùng tham dự thánh lễ và gặp gỡ những chứng nhân lên làm chứng cho Lòng Thương Xót Chúa. Lần hạt, quả là một việc khó đối với giới trẻ, chỉ nói đến phải đọc năm chục kinh là những người trẻ như chúng tôi thời @ đã thấy ngán lắm rồi. Nhất là vào lúc giữa trưa như thế này thì chắc hẳn là buồn ngủ và chán lắm. Nhận định ban đầu của tôi là như thế!
Thế nhưng không biết từ lúc nào tôi đã hiểu ”Lần Chuỗi Với Cả Trái Tim” là gì. Bây giờ tôi đã cảm thấy thích thú khi được cùng cộng đoàn lần chuỗi Mân Côi và chuỗi Lòng Chúa Thương Xót. Tôi thấy thú vị khi được nghe đủ các giọng đọc kinh của cả ba miền Nam Trung Bắc, được nghe từ giọng trẻ thơ, thanh niên đến người già. Tất cả hoà nhịp trầm bổng như một bản hợp xướng của một ca đoàn đặc biệt; “Ca đoàn của Lòng Thương Xót Chúa và Đức Mẹ”. Có những lúc trời đổ mưa khi cả cộng đoàn đang vang rền những lời kinh. Họ vẫn kiên trì quỳ đó với dù, nón và chuỗi tràng hạt trên tay. Những giọt nước mưa nhỏ xuống trên đôi môi mấy máy như những giọt lệ từ trời. Thường khi trời nắng chang chang, những giọt mồ hôi lăn trên trán, nhỏ xuống vai, thấm ướt đẫm lưng những kẻ tin vẫn kiên trì đội nắng cầu nguyện hấng giọt mồ hôi như giọt lệ từ trời. Tôi nghĩ đó là giọt lệ từ trời vì Chúa và Mẹ đang “chạnh lòng thương” khi nhìn thấy đoàn con cái mình dù lam lũ tất tưởi vẫn đồng thanh cất lời kinh vang lên với cả tâm tình của trái tim và lòng yêu mến.
Làm sao Chúa và Mẹ không “chạnh lòng thương” khi trước mắt tôi những ông bà cụ lụm khụm nhưng vẫn muốn cùng quỳ dưới đất với con cháu, những đôi vợ chồng trung niên, những cô thiếu nữ và cả những chàng thanh niên, cùng các em tuổi teen ham bay nhảy lại đang quỳ gối kính cẩn giang tay cầm xâu chuỗi lần hạt thật sốt sắng. Nhìn cảnh tượng đó, ai dám bảo họ không có chiều sâu nội tâm? Ai dám bảo họ không có lòng tin mà đến đây chỉ vì ham vui hay hiếu kỳ? Hầu như trái tim họ đã hoà nhập vào lời kinh đang cùng nhau vang lên lời tạ ơn Thiên Chúa, cảm ơn Mẹ. Chúng tôi cùng nhau suy gẫm từng Mầu Nhiệm của Kinh Mân Côi. Lời kinh được vang lên từ trái tim với tấm lòng yêu mến và tin tưởng. Mỗi mầu nhiệm là hình ảnh cuộc đời của Chúa Giêsu hiện ra trong chúng tôi, đi vào tâm trí và hiện diện trong đời sống. Bây giờ tôi mới thấy ích lợi của việc cầu nguyện lần hạt chung là như thế nào. Tôi có thể hoà nhập cùng mọi người chúc tụng Thiên Chúa và tôn vinh Mẹ trong niềm hân hoan. Niềm tin như được tuôn trào, niềm vui như được dâng cao. Lời kinh ấy không chỉ dừng lại trong ngôi thánh đường Chí Hòa chiều nay, nhưng sẽ theo suốt từng chặng đường đời chúng tôi, hướng dẫn cuộc sống chúng tôi, và giúp chúng tôi biết đặt ý mình trong ý Thiên Chúa như Mẹ Maria…”
Như thế là “Lần Chuỗi bằng Trái Tim” đó em ạ!
Hẹn gặp em trong những lá thư sau.
Người anh em trong Chúa Kitô
Lm. Giuse Trần Đình Long, sss
Vào thế kỷ 13, bè rối Albigensê phát triển và lôi kéo nhiều tín hữu làm tổn hại đến đến sự sống của Hội Thánh.
Bè rối đó cho rằng thế giới vật chất này là công trình của Satan, đối nghịch với thế giới thiêng liêng do Thiên Chúa dựng nên. Coi vật chất là xấu nên họ không tin mầu nhiệm nhập thể cũng như các bí tích, từ chối tính thánh thiêng của hôn nhân và việc sinh sản con cái, phân chia người ta thành hai loại thiện và ác, và phủ nhận mọi lời giảng dạy của Giáo hội.
Tín ngưỡng này tạo nên một nền văn minh sự chết rất nguy hiểm cho xã hội: Để trở nên tuyệt hảo hay tinh tuyền, người ta phải kiêng cữ ăn uống và việc tình dục, còn việc tự tử, nhất là nhịn đói cho đến chết, được coi là một hành động cao quí nhằm chấm dứt tình trạng thiện-ác lẫn lộn.
Thánh Đaminh rao giảng Phúc âm cho những người theo bè rối đó rất nhiều mà chẳng ai nghe dù ngài đã hãm mình ép xác thật nhiều để cầu nguyện cho họ. Vì thế, ngài hay đến Nhà Nguyện Nhỏ của Đức Mẹ mà than van khóc lóc về việc ấy.
Một hôm, năm 1208, Đức Mẹ đã hiện ra nói với ngài rằng: “Đừng phân vân về hoa trái ít ỏi mà con nhận được cho đến lúc này vì sự lao động khó nhọc của con: con đã cực nhọc làm việc trên mãnh đất khô cằn, đá sỏi, vẫn chưa được tưới bởi nước trường sinh. Khi Thiên Chúa tỏ ý canh tân bộ mặt trái đất, thì Ngài sẽ gởi xuống trên vùng đất đó với những cơn mưa phì nhiêu của Chúa Thánh Thần. Hãy rao giảng về Kinh Mân Côi, vốn được hình thành nên bởi 150 các Lời Chào của Thiên Sứ, và 15 Kinh Lạy Cha, và con sẽ nhận được một mùa gặt dồi dào."
Nhận được lời dạy của Đức Mẹ, thánh Đaminh bắt tay vào việc rao giảng kinh Mân Côi ở khắp mọi nơi, bắt đầu từ Toulouse. Theo lời kể lại của thánh Louis Monfort thì khi Đaminh đến nhà thờ chính toà, các thiên thần đã rung chuôn để qui tụ mọi người đến nghe giảng. Khi ngài giảng, Chúa cho đất Toulouse rung chuyển, mặt trời tối lại, sấm chớp loé lên. Hầu hết các giáo hữu ở Toulouse bỏ dị giáo mà trở lại với đạo thật.
Khi giảng kinh Mân côi, thánh Đaminh đề cập đến từng mầu nhiệm một trong cuộc đời của Chúa Kitô rồi sau đó mời gọi mọi người đọc kinh Lạy Cha và Kính Mừng, là những gì người theo bè rối vẫn còn giữ.
Để thắng bóng tối, hãy có ánh sáng. Kinh Mân Côi là một phương tiện bình dân và đơn giản mà lại có sức đưa tâm hồn người ta đến gần với các mầu nhiệm ơn cứu độ, gần với Đức Kitô, và làm được cái điều mà Đức Kitô đã nói với những môn đệ đầu tiên: “Hãy đến mà xem”.
Vâng, khi lần hạt Mân Côi, cuộc sống của Đức Kitô được trình bày với mọi người như kiểu mẫu của sự khôn ngoan thiên quốc. Ánh sáng trời cao không cao xa mà trở nên rất gần gũi với cuộc sống con người hầu có thể giúp mỗi người, qua các mầu nhiệm cuộc đời Chúa, thấy rõ con đường phải đi, công việc phải làm, với sự đồng hành là tấm lòng dịu hiền của Đức Maria mà Chúa đã trao cho mỗi người như một người mẹ.
Một nền văn minh sự chết cũng đang lớn dần trong thế giới hôm nay, không phải do bè rối Albigensê mà do vô thần, tục hoá và hưởng thụ. Các bản tin cho thấy thế giới hôm nay đang chết dần bởi thù ghét và gian trá, hai dấu hiệu đặc trưng của Satan mà Đức Kitô đã vạch mặt chỉ tên: “Cha các ông là ma quỷ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối.” (Ga 8,44)
Làm sao để phục hồi nền văn minh tình thương trong thế giới hôm nay nếu không chạy đến tận nguồn của sự sống là Thiên Chúa, sự thật và tình yêu, vì “Chúa công minh trong mọi đường lối Chúa, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm.” (Tv 145,17)
Năm 2002, khi viết tông thư về kinh Mân côi “Rosarum Virginis Mariae” ĐTC Gioan-Phaolô II đã nhắc đến Bartolo Longo, một luật sư người Ý, đã trải qua những phút giây căng thẳng bởi cuộc khủng hoảng đức tin. Khi tâm hồn hết sức chao đảo, ông đã chạy đến với Đức Mẹ, Đấng bầu chữa kẻ có tội, với hai dòng nước mắt đầm đìa. Sau khi vượt qua hiểm nguy và trở về được với sự bình an trong tâm hồn, ông đã dùng hết quãng đời còn lại quảng bá sức mạnh của kinh Mân Côi cho đến khi lìa đời, với cây thánh giá và tràng chuỗi Mân Côi trong tay.
Năm 1917, khi Thế Chiến I đang xảy ra, một tương lai buồn thảm và u ám nằm chắn trên dòng chảy của lịch sử nhân loại. Đức Mẹ đã hiện ra tại Fatima, dịu hiền nhắn nhủ “Hãy năng lần hạt Mân Côi”. Đó là sự khôn ngoan thiên quốc và tấm lòng của người mẹ cho nhân loại, cho tôi.
Với lòng yêu mến, hãy nắm chặt lấy chìa khóa sự sống Mẹ đã trao.
Lm. HK
Thời gian qua, chắc chắn rất nhiều người trong Giáo Hội và ngoài Giáo Hội, ở trong nước và ở nước ngoài nôn nóng chờ đợi một lập trường chính thức của các Giám mục Việt Nam về tình hình căng thẳng hiện nay liên quan đến vụ việc Toà Khâm sứ cũ (số 42 phố Nhà Chung) và giáo xứ Thái Hà (số 178, Nguyễn Lương Bằng) ở Hà Nội, nhất là khi biết Hội Đồng Giám Mục nhóm họp tại toà Giám mục Xuân Lộc từ 22 đến 26/9/2008. Thì đúng như chờ đợi, các Giám mục đã công bố bản “Quan điểm về một số vấn đề trong hoàn cảnh hiện nay”, đề ngày 25/9/2008.
Đó là những vấn đề nào? Trong phần I nói về Tình Hình, các Giám mục nêu lên ba vấn đề:
1. tình trạng khiếu kiện đất đai kéo dài và chưa được giải quyết thoả đáng, cũng như sự bất cập của luật về đất đai trước đà biến chuyển trong đời sống xã hội, dù đã được sửa đổi nhiều lần ;
2. sự thiếu tôn trọng sự thật của các phương tiện truyền thông khi đưa tin về những vụ tranh chấp đang trong tiến trình giải quyết, do đó gây ra hoang mang và nghi kỵ. Nhìn bao quát hơn, sự gian dối đang tràn lan trong nhiều lãnh vực, kể cả lãnh vực giáo dục;
3. một số người có khuynh hướng sử dụng bạo lực trong tiến trình giải quyết những xung đột nói trên và nhiều vụ việc khác, và như thế, tạo thêm bất công trong xãhội.
Trong phần II nhan đề Quan Điểm, các Giám mục đưa ra những đề nghị cụ thể liên quan tới ba vấn đề nêu trong phần I. Ở đây tôi chỉ xin đưa ra một nhận xét chung trước khi phân tích kỹ hơn đề nghị thứ 1 về đất đai.
Chắc Hội Đồng Giám Mục đã khởi đi từ vấn đề rất cụ thể và nóng bỏng liên quan trực tiếp tới mình là vụ việc đất đai ở Hà Nội. Nhưng thay vì tập trung vào đó, các Giám mục đã nhìn rộng ra, đặt vấn đề riêng vào tình hình chung, có thể nói là nâng vấn đề lên ở mức cao hơn, và do đó các giải pháp đề nghị sẽ mang tính nguyên tắc để có thể giải quyết các vấn đề một cách lâu dài và triệt để, thay vì đối phó hoặc chỉ giải quyết lẻ tẻ từng vụ việc. Khi làm như thế, các Giám mục mong muốn góp phần mình vào việc việc “phát triển đất nước cách ổn định và vững bền”. Đây quả thực là một “quan điểm” rất hay vì qua vụ đất đai ở Hà Nội, chắc đã có nhiều người phê bình Giáo Hội ta chỉ loay hoay lo cho mình, và chỉ tỏ ra “dấn thân” khi quyền lợi của mình bị đe doạ. Trong các đề nghị của mình, các Giám mục vận dụng tới giáo huấn xã hội của Giáo Hội Công giáo.
Vì thế riêng về vấn đề đất đai, các ngài không có “ý kiến” trực tiếp về “trường hợp Hà Nội” mà đặt trường hợp này vào “tình trạng khiếu kiện đất đai kéo dài và [vẫn] chưa được giải quyết thoả đáng” tại nhiều nơi. Đất đai của các tôn giáo nói chung và đất đai của Giáo Hội Công Giáo nói riêng, cụ thể là Toà Khâm sứ cũ và giáo xứ Thái Hà cũng nằm trong tình trạng chung đó. Không có hướng giải quyết căn cơ vấn đề đất đai nói chung thì dù có giải quyết được một số vụ việc riêng lẻ nào đó, vấn đề tranh chấp khiếu kiện sẽ lại cứ nảy sinh. Chỉ cách nay mươi ngày thôi, khi đi ngang qua trước dinh Thống Nhất (dinh Độc Lập cũ), tôi còn thấy một số nông dân miền Tây căng biểu ngữ ngồi đòi “công lý” cho họ về chuyện đất đai.
Nguyên tắc căn cơ để giải quyết, theo các Giám mục, là sửa đổi luật đất đai trong tinh thần quan tâm tới quyền tư hữu của mọi người. Rõ ràng đây là điểm then chốt. Trong vụ việc ở Hà Nội, ta thấy quan điểm của chính quyền là: "đất đai là sở hữu chung của toàn dân và do Nhà Nước quản lý”, còn Toà Tổng Giám mục và Dòng Chúa Cứu Thế lại quả quyết rằng những khu đất liên quan là thuộc quyền sở hữu của mình. Nhà Nước nói: anh cần, anh cứ làm đơn xin, tôi sẽ cứu xét, không có vấn đề đòi trả lại vì theo luật pháp, anh đâu có quyền sở hữu đất đai! Rõ ràng hai quan điểm hoàn toàn đối chọi nhau, không có cách nào hoà hợp, trừ ra khi cố gắng giải quyết kiểu “thông cảm”. Khi HĐGM đưa ra đề nghị trên, tôi nghĩ các ngài đã nhấn mạnh mấy điểm sau đây.
Về thực tế, đất đai là vấn đề gây ra khiếu kiện nhiều nhất, vấn đề bức xúc nhất đối với người dân, cũng là lãnh vực xem ra có nhiều tiêu cực nhất và có nhiều cán bộ vào tù nhất. Về thực tế, còn có tình hình là Nhà Nước xem ra rất lúng túng, mỗi lần sửa đổi thì có ít nhiều tiến bộ trong việc đáp ứng tức thời tình hình xã hội lúc đó, nhưng ít lâu sau lại tỏ ra bất cập, không theo kịp biến chuyển trong xã hội. Có lúc, người ta đã từng nói tới giải pháp sổ xanh, sổ hồng bên cạnh sổ đỏ… Về thực tế, các Giám mục còn gợi ý rằng việc sửa đổi luật đất đai theo hướng nhìn nhận quyền tư hữu là một nhu cầu khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn vào nhịp sống quốc tế, mà tuyệt đại đa số các nước đều nhìn nhận quyền này. Còn về nguyên tắc, quyền tư hữu đã được Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hiệp Quốc năm 1948, số 17, long trọng nhìn nhận là một quyền tự nhiên, một quyền của con người.
Dĩ nhiên vấn đề lớn nhất ở đây đối với Nhà Nước có lẽ là vấn đề nguyên tắc của riêng chế độ cộng sản: đất đai là của chung. Nhưng tôi xin mạo muội gợi ra vài ý để suy nghĩ.
Nói rằng nguyên tắc này thuộc về bản chất của chế độ nên không thể thay đổi, thì xin hỏi: tại sao có những nguyên tắc mà thời bao cấp, Đảng coi như “bất khả xâm phạm”, nhưng vào thời Đổi Mới vẫn được thay đổi để đáp ứng tình hình phát triển mới của đất nước. Một nguyên tắc rất căn bản của lý luận mác-xít là lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn đánh giá chân lý (sự đúng đắn) của lý thuyết. Những thay đổi gọi là “đổi mới” nói trên đã chứng tỏ là đúng vì được thực tiễn xác nhận. Như thế, lý thuyết được đề ra không phải vì lý thuyết nhưng để phục vụ lợi ích thực tế của nhân dân, của dân tộc. Theo tinh thần của Marx, thì không có gì bất di bất dịch, kể cả tư tưởng của ông. Một nguyên tắc mà khi áp dụng cứ liên miên gây ra bất công và bất mãn nơi người dân như nguyên tắc về đất đai, hỏi có phải là một nguyên tắc được thực tiễn xác nhận không?
Tôi thiển nghĩ có lẽ do lòng khiêm tốn mà các Giám mục đã gọi các suy nghĩ của mình là “quan điểm”, nhưng cũng có thể coi đó là những lập trường. Dù sao chăng nữa, mấy đề nghị của các ngài là chân thành, tích cực và xây dựng, nếu được chính quyền quan tâm đúng mức, chắc sẽ góp phần vào sự phát triển đất nước ta bền vững, ổn định và mau lẹ hơn nữa.
28.9.2008
Lm Nguyễn Hồng Giáo, dòng Phanxicô
Khởi đầu đời sống trên trần gian từ khi mở mát chào đời, cha mẹ luôn là người sát bên cạnh con cái mình trong suốt dọc đời sống. Họ cùng đồng hành với cùng lo cho đời sống phát triển thể xác lẫn tinh thần của con cái.
Rồi khi lớn lên đi vào đời, hai bạn nam nữ gặp gỡ làm quen nhau. Họ tìm thấy tình yêu của nhau, họ muốn cùng nhau xây dựng một mái ấm gia đình hạnh phúc cho nhau. Họ thề hứa với nhau: trung nhau với nhau mọi ngày trong đời sống, lúc còn trẻ, cũng như sau này khi tuổi đời cao dần; lúc khỏe mạnh cũng như khi đau yếu bệnh tật; lúc vui cũng như khi gặp hoàn cảnh đau buồn khó khăn; lúc no đủ cũng như nghèo túng, luôn hằng cùng đồng hành có nhau bên cạnh!
Còn đâu là bước đồng hành của Thiên Chúa, Đấng dựng nên công trình thiên nhiên, cho đời sống con người?
Con người chúng ta nhận hiểu ra tình yêu, sự lo lắng săn sóc nuôi dưỡng của cha mẹ cho con cháu, của vợ chồng với nhau qua những dấu chỉ cụ thể bên ngoài. Từ những dấu chỉ cụ thể đó là tín hiệu của tình yêu cha mẹ truyền tới con cháu, vợ chồng cho nhau.
Cong người cần lương thực cơm bánh, thịt, rau, hoa trái, nước uống cho đời sống. Đây là những căn bản cần thiết cho sự sống, không chỉ cho thân xác mà còn ảnh hưởng sâu rộng cho tinh thần trí khôn, được gìn giữ cùng phát triển.
Cây lúa ngoài đồng, cây táo, cây lê, cây khoai tây, cây cải, cây rau húng…mọc phát triển sinh hoa trái thơm ngon chín tốt, nhiều khi chúng ta nhìn đó là một qúa trình phát triển lớn lên tự nhiên, tất cả đều đồng dạng giống nhau.
Không phải là như thế đâu. Với người có đức tin vào Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên thiên nhiên như đất đai, sông nước, mưa gió, thời giờ ngày đêm,mặt trời… điều này không phải là tự nhiên. Nhưng có nguồn gốc từ nơi Thiên Chúa, Đấng làm cho cây cối hoa trái phát triển lớn lên. Đấng là nguồn mọi sự sống, mọi luân chuyển xoay vần trong trời đất.
Những hoa trái thực phẩm do Thiên Chúa cho phát triển lớn lên, làm lương thực nuôi sống con người no đủ, là dấu chỉ tình yêu sự lo lắng của Ngài cho con người. Cho dù tình yêu của Ngài ẩn kín, không hiện hình cụ thể hình ảnh cha mẽ lo lắng cho con mình, hình ảnh vợ chồng luôn có bên nhau.
Vì thế, vào thời gian cuối mùa màng thu hoạch gặt hái hàng năm, con người chúng ta nói lên lời tạ ơn Đấng đã luôn hằng cùng đồng hành bên cạnh đời sống mình, cùng lo cho có lương thực nuôi sống mình.
Lúc được mùa có thực phẩm no đủ, lúc đời sống hạnh phúc khoẻ mạnh, ta dễ nhận ra tình yêu bước đồng hành của Thiên Chúa. Nhưng khi mùa màng thất thu thì sao? Khi đời sống gặp khó khăn như bị mất người thân thích ruột thịt, như khi ly dị hay bị bỏ rơi phản bội, như bệnh tật, lúc đó ta tự họi, tình yêu Thiên Chúa, bước đồng hành của Ngài đâu rồi, sao để tôi cô đơn gặp khó khăn một mình?
Phải, khi gặp những hoàn cảnh khó khăn, tiêu cực đen tối như thế, đời sống lâm vào ngõ bí đường cùng, nên rất khó nhận ra bàn tay lo lắng bao che của Thiên Chúa cho mình.
Nhưng tình yêu và sự lo lắng luôn bao hàm: có nhau bên cạnh lúc đời sống lên cao, cũng như khi xuống thấp, lúc vui cũng như khi buồn gặp hoạn nạn trong mọi lúc. Như hai vợ chồng ngày thành hôn thề hứa vơi nhau: trung thành với nhau mọi ngày trong đời sống!
Cũng vậy, điều này cũng xảy ra với Thiên Chúa: Ngài luôn có mặt bên cạnh ta khi đời sống thịnh vượng, cũng như khi gặp khó khăn. Ngài ở bên cạnh con người lúc họ gặp khủng hoảng, lúc gặp thời gian khốn khó.
Trong cả hai hòan cảnh con người chúng ta thường dễ rơi vào tình huống không nhận ra dấu chỉ tình yêu cùng bước đồng hành của Thiên Chúa.
Lúc đường đời sống thành công, no đủ, ta cho đó là may mắn hạnh phúc của ta, hay là do công sức chịu khó làm việc của một mình ta làm xây dựng nên; hay có khi dựa vào thành tích trí khôn của mình, mà cho đó là điều tự nhiên phải xảy đến!
Khi gặp bước đường không may, không thành công, ta than trách: tại sao lại như thế, Thiên Chúa ở đâu rồi? Hay ta ném liệng đẩy lòng tin ra bên lề: Việc đâu có thể như thế được. Điều này rõ ràng chứng tỏ không có Chúa nào cả! Nếu thật sự có Ngài, sao Ngài chẳng lo lắng cho tôi, tôi đang gặp thời điểm xấu khủng hoảng đây!
Căn cứ vào mình, vào điều cụ thể bên ngoài ta hoài nghi về tình yêu cùng sự đồng hành Thiên Chúa với con người. Nhưng Ngài luôn có mặt đó.
Thiên Chúa không hiện diện bằng hình hài trong trời đất. Nhưng những dấu chỉ trong trình sang tạo sự sống của Ngài có khắp nơi vào mọi thời đại, mọi hoàn cảnh.
Những
dấu chỉ đó có hằng ngày trong đời sống như lương thực, thức ăn hằng ngày, như sự
tiêu hóa tuần hoàn của bộ máy thân thể con người vẫn chạy đều mà không cần phải
đổ xăng dầu hay thay ốc, dây kéo bao giờ, như khả năng suy tư của trí khôn con
người…như bông hoa mọc lớn lên, cây cối sông ngòi núi rừng, biển cả . Tất cả
những điều sáng tạo này luôn có đó dù đời sống ta thịnh vượng hạnh phúc, hay gặp
lúc vướng trở khó khăn. Chỉ cần một thoáng nhìn cũng đủ khám phá nhận ra nguồn
gốc từ đâu mà ra.
Có câu truyện thuật lại bước đồng hành của Thiên Chúa với con người:
„Có đêm tôi nằm mơ: thấy mình cùng Chúa đi dọc bờ biển. Những hình ảnh đời tôi hiện dần ra trước mắt, hình ảnh nào tôi cũng thấy có những dấu chân in trên cát. Thường thường tôi thấy rõ dấu chân của hai người, nhưng đôi lúc lại chỉ thấy dấu chân một người. Tôi phân vân, vì những lúc chỉ thấy dấu chân của một người như thế là những lúc đời tôi gặp thất bại, lo âu và phiền muộn. Vì thế tôi quay sang hỏi Chúa: „Lạy Cha, Cha đã hứa với con là nếu con theo Cha, Cha luôn ở bên con. Nhưng sao trong những lúc khó khăn nhất đời con, con chỉ thấy dấu chân một người. Những khi con cần Cha như vậy, sao Cha không ở bên con ?“ Chúa quay sang bảo tôi:“Con ơi! dấu chân của một người đó là dấu chân Cha, vì trong những lúc con gặp khó khăn, chịu đau khổ, Cha đâu có bỏ con một mình, nhưng Cha đã cõng con trên vai Cha!“ ( Truyện Dấu chân trên cát, Taizé).
Lời kinh „ thấy mà xem chẳng thấy“ mà ta đọc, phần nào cắt nghĩa thắc mắc của ta về sự quan phòng của Thiên Chúa cho đời sống con người.
Ngày lễ tạ ơn cầu mùa 05.10.2008
Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Đó là tiêu đề thánh vịnh 55. Thánh vịnh này rất thích hợp cho hoàn cảnh hiện nay
cũa các anh chị em đồng đạo với chúng ta tại Thái Hà và Tỏa Giám Mục Hà nội. Nội
dung thánh vịnh thật thấm thía, có thể dùng để cầu nguyện trong lúc này với
những câu như:
Tôi tin tưởng vào Thiên Chúa và không còn sợ hãi
Phàm nhân làm chi nổi được tôi ?”
Quả thế, phàm nhân đang làm nhiều chuyện lắm và toàn là những chuyện bi thương.
Thế mà anh chị em chúng ta đã chịu và còn đang phải chịu chưa biết đến bao giờ.
Đây không phải là một sự trơ gan thách thúc, mà chính là một thái đô của lòng
tin. Chỉ có lòng tin vào tình thương. sức mạnh và quyền năng của Thiên Chúa mới
có thể làm cho anh chị em của chúng ta kiên cường đến thế. Đúng là họ đã “đem
yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục” Thái độ của họ thật
cao cả vả hành vi của họ thật đáng ngợi khen. Càng ngày họ càng chứng tỏ mình là
con của Chúa, là những kẻ thấm nhuần lời dạy của Người. Chắc hẳn họ đã cầu xin
cùng Chúa bằng những lời giông giống như những lời trong thánh vịnh 55:
“Xin thương xót con cùng, lạy Thiên Chúa,
Vì người ta giày xéo thân con
Và tấn công chèn ép.
Địch thù con giày xéo suốt ngày,
Bè lũ tấn công con nhiều vô kể.
Ôi, lạy Đấng Tối Cao,
Trong ngày con sợ hãi
Con tin tưởng vào Ngài.
Lạy Chúa, suốt ngày chúng phá rối việc con làm
Và chỉ nghĩ đến chuyện hại con.Chúng tụ tập rình mò, theo dõi con từng bước
Để tìm hại mạng con.
Buớc đường con lận đận
Chính Ngài đã đếm rồi.
Xin lấy vò mà đựng nước mắt con,
Nào Ngài đã chẳng ghi vào sổ sách”.
Đúng vậy. Tình cảnh của anh chị em chúng ta nhìn theo con mắt trần gian thật là
tuyệt vọng. Nhưng nhìn theo con mắt đức tin thì không phải thế, bởi vì các anh
chị em của chúng ta đầy lòng tin tưởng vào Chúa và luôn ca tụng Người, Họ tin
tưởng như tác giả thánh vịnh 55, rằng:
“Địch thù phải tháo lui
Vào ngày tôi cầu cứu
Tôi biết rằng Thiên Chúa ở bên tôi.”
Các anh chị em của chúng ta đã không còn sợ hãi, bởi vì họ tin tưởng vào Thiên
Chúa.
LM An-rê Đỗ xuân Quế, o.p.
Đã hơn 4 giờ chiều rồi, nhưng vì bận công việc, nên mẹ của Thảo Nguyên vẫn chưa đến nhà trẻ đón bé như mọi ngày. Không có mẹ thì bác đi đón thay. Được về nhà cùng với bác, Thảo Nguyên cười rạng rỡ hồn nhiên, bé líu lo vui vẻ trên suốt quãng đường đi.
Hơn 2 tuổi, nhưng Thảo Nguyên vẫn chưa nói sõi, bé vẫn ngọng líu ngọng lô. Cái ngọng nghịu bi bô của các trẻ thơ lúc nào mà chẳng dễ thương, những thiên thần bé thơ .
Nhưng về đến nhà, không thấy mẹ, lập tức bé khóc oà nức nở rồi dãy dụa đòi mẹ : “… ẹ âu dồi, ẹ âu dồi. ẹ âu dồi …?”. Tiếng bé ngọng nghịu, đứt quãng.
Bé rất biếng ăn. Đã đi nhiều bác sĩ , cùng với chỉ bảo của các cô giáo nhà trẻ, cũng có cả những tư vấn của chuyên gia dinh dưỡng qua điện thoại, nhờ thế, chứng biếng ăn của bé đã đỡ nhiều, nhưng vẫn chưa dứt hẳn.
Khóc nhiều thì dễ bị ói, bé vẫn thường bị ói. Mỗi lần bé ói như thế, cả nhà ai cũng sót ruột. Người lớn khi bị ói còn mệt lả, huống chi em bé .
Thấy cháu khóc ngằn ngặt, bà ngoại liền vội vàng bế bé đi loanh quanh để dỗ cháu. Nhưng không ổn , bé vẫn khóc. Bà lại bế cháu đi dong, vẫn không xong, bé vẫn khóc. Rồi vừa bế cháu đi dong, bà lại mua bong bóng, mua cả bánh kẹo để dỗ cháu. Nhưng vẫn không xong, bé vẫn khóc ngằn ngặt đòi mẹ : “Mẹ đâu rồi, mẹ đâu rồi ?”.
Nhìn thấy vậy, người ông ngồi gần đó nóng ruột, đứng lên bế bé đến bàn
điện thoại rồi bảo : “ Nín đi, cháu nín khóc đi, để ông sẽ gọi mẹ về cho cháu ngay bây giờ” Chỉ khi nghe được tiếng nói của mẹ trong điện thoại, Thảo Nguyên mới bớt khóc.
Bà ngoại bế Thảo Nguyên đến trước bàn thờ Đức Mẹ rồi bảo : “ Nào, bà cháu mình cùng đi chào Đức bà nghe”. Thế là hai bà cháu cùng cúi đầu trước bàn thờ một cách vui vẻ, Thảo Nguyên Ạ một tiếng rất lớn. Tình hình có vẻ đã tạm ổn.
Quả thật, chỉ là tạm ổn vậy thôi, vì sau khi ngồi yên và chơi đùa được một lúc không lâu, Thảo Nguyên lại khóc ngằn ngặt và đòi mẹ : “ Mẹ đâu rồi, mẹ đâu rồi ?”.
Cả ông, cả bà và cả bác của Thảo Nguyên đều lúng túng khi thấy cháu khóc sưng cả mắt, khóc toát mồ hôi trán và đến xanh cả da mặt.
Nhưng thật may, đúng vào lúc cả nhà đang bối rối ấy thì mẹ của Thảo
Nguyên vừa về kịp.
Thấy mẹ về, bé liền vươn người về phía trước, hai tay vươn cao khỏi đầu. Ngay tức thì, từ lúc nhìn thấy mẹ, bé liền nín khóc. Sau khi gặp mẹ, được vuốt ve âu yếm, Thảo Nguyên lại hồn nhiên chơi đùa, rồi líu lo nói chuyện như không có chuyện gì xảy ra.
Bé biết sẽ được che chở, được nâng niu để hoàn toàn an lòng, từ một người không ai thay thế được, đó chính là Mẹ của mình.
****
Hôm nay, một ngày lễ trọng mừng kính Đức mẹ . Nhìn cảnh em bé khóc đòi mẹ, tôi lại liên tưởng đến Martin Luther, vị sáng lập của giáo phái Tin lành, người đã từ chối Mẹ Maria.
Những trang sử về vị này thuật lại rằng, về cuối đời, trong một buổi chiều ngồi hóng mát trước hiên nhà, bà vợ Luther đã nói với chồng : “ Kìa anh xem, bầu trời hôm nay đẹp đẽ biết bao”. Buồn bã, Luther trả lời vợ : “ Quả thật, cảnh luôn rất đẹp em ạ. Nhưng là để dành cho người khác, không phải dành cho chúng ta”.
Những ngày sau hết đời mình, ông đã ân hận rất nhiều về những việc đã làm. Phong trào Thệ phản do ông phát động đã vượt khỏi sự kiểm soát của ông và đã gây ra biết bao tai hoạ. Những tổn thất và cả những đổ vỡ vô phương hàn gắn với Giáo hội đã dằn vặt ông ngay cả lúc phong trào đang phát triển mạnh mẽ.
Đọc lịch sử giáo hội, mọi người đều biết từ khởi đầu, Luther, vị sáng lập Tin lành, là một linh mục rất thông minh và cả thánh thiện nữa. Nhưng sự thông minh ấy đã chẳng giúp ích gì, mà ngược lại chỉ gây hại cho ông và bao nhiêu thế hệ nữa sau ông. Từ đây, lại nhớ lời Chúa nói : “ …Lạy Cha, con xin cảm tạ Cha, vì Cha đã dấu kín những bậc khôn ngoan, thông thái, nhưng chỉ tỏ ra cho những kẻ bé mọn về mặc khải Nước trời, vì đó là ý muốn của Cha …”
Hôm nay, cũng đang có nhiều anh em Tin lành đã nói với tôi về Đức Maria. Họ nói nhiều lắm và cũng lý luận nhiều lắm, đại khái rằng, bà Maria chỉ là mẹ của Đức Giêsu, có đâu là mẹ Thiên Chúa được. Họ trưng dẫn Thánh kinh, cũng chi tiết lắm. Nhưng không hiểu sao, tôi chỉ nhớ lời Đức Giêsu đã nói với Phêrô, đại ý rằng : “ … Này Simon, con ông Giona, không phải nhờ máu thịt đã cho anh biết, nhưng chính là nhờ Thần khi đã mặc khải cho anh …”.
Đức tin là một ân ban. Đức tin không đến từ lý luận.
Nếu Đức tin nhờ lý luận mà có, thì sẽ đến lúc, cũng từ lý luận, niềm tin ấy sẽ không còn. Vì thiên lý, vạn lý đều là những sản phẩm và cố gắng từ con người, mà con người thì luôn bị hạn chế về nhiều mặt.
Khi còn đang sống ở trần gian, mọi người đều chỉ là những bào thai trong cung lòng người mẹ. Bào thai ấy có thể nhận biết, và cũng có thể không nhận biết mẹ mình. Nhưng dù biết hay không biết, các bào thai ấy vẫn nhận được đầy đủ những ân điển và dưỡng chất sự sống đủ để thành người.
Và như thế, sẽ thật bất hạnh và thiệt thòi biết bao, khi bị mù loà về chính người mẹ của mình.
Cũng giống như bé Thảo Nguyên, tôi cũng nhiều lần kêu khóc : Mẹ đâu rồi ?
Càng giống bé Thảo Nguyên hơn nữa, vì lần nào kêu khóc, thậm chí có nhiều lần chưa kịp kêu khóc, mẹ đã đón ý chiều lòng để đến ngay với tôi, vì mẹ luôn biết trước ý muốn, hoàn cảnh và mang đến những điều gì là tốt nhất cho con của mình.
Song cũng xin thú thật rằng, rất nhiều lần, tôi đã không được như bé Thảo Nguyên, nghĩa là không tín thác đủ, chưa liều lĩnh đủ cho niềm tin của mình.. Những lúc ấy, tôi như đi trong đêm đen của niềm tin.
Chúa thì như thinh lặng và vẫn mãi dang tay trên Thập giá như một kẻ vô tình. Mẹ cũng như đang ở một chỗ nào rất xa, nơi các Tín lý của Hội thánh hoặc trong Thánh Kinh và chẳng gần gũi với tôi chút nào. Tôi thấy mình tự mâu thuẫn và cũng có cả những chao đảo ngả nghiêng. Tôi thấy hành trình niềm tin là một chặng đường không luôn dễ với nhiều thảm nhung êm ái. Tôi giật mình khổ sở và lại thấy mình đang tự mâu thuẫn một cách bất lực tội nghiệp.
Và bất chợt, tôi nhận ra đó là phận người mà tôi phải mang, và đó mới là chính tôi, chứ không phải là ảo ảnh của một ai khác, mà tôi vẫn thường hay bám víu và nương nhờ hoặc núp bóng như trước đây.
Mỗi khi trở lại được với chính mình như vậy, tôi lại gặp được người mẹ của mình.
Nhưng cũng khác với bé Thảo Nguyên, vì mẹ của bé thì hữu hình cao thấp trắng đen, nhìn thấy được bằng mắt thường và đang đến với bé chiều nay và tại đây. Còn Maria, mẹ của tôi thì vô hình, không thể thấy bằng mắt thường, chỉ có thể thấy được bằng Tâm nhãn, nhưng vẫn luôn đến với tôi, có thể ở bất cứ đâu và tại bất cứ thời điểm nào. Song ân điển và phúc lộc mà Maria mang đến đều giống nhau như giữa tôi và bé Thảo Nguyên vậy.
Nghĩa là luôn luôn dịu dàng, mãi mãi bình an và vô cùng ấm áp, vì Maria là Mẹ của tất cả những người mẹ trần gian cộng lại.
Nhưng làm sao nói cho đủ về người mẹ của mình.
Dù vậy, vẫn không thể không nói, vì nói về mẹ của mình luôn là những khích lệ và cũng là một niềm vui lớn lao của mỗi người con. Niềm vui ấy không chỉ giới hạn trong một ngày lễ, vì ngày lễ nào, dù có trọng đại bao nhiêu song đều sẽ qua đi. Nhưng là niềm vui của mỗi phút giây trong đời sống nơi trần gian này.
Niềm vui ấy chỉ mất đi, khi tôi không cần hoặc không còn muốn nhớ .
Và vì như thế, làm sao không cảm ơn bé Thảo Nguyên cho được, khi cháu đã cho ông một cơ hội để nói về người Mẹ trên trời, song lại rất gần gũi của ông.
Buổi chiều hôm nay thật đẹp, bầu trời như trong hơn và cao hơn. Những đám mây đủ mầu đang rủ nhau trôi dần về cuối trời theo hành trình của nó. Và tôi, tôi cũng đang trôi dần về phía cuối trời với hành trình của tôi.
So với đám mây trên cao, những hành trình ấy có vẻ như rất gần gũi nhưng cũng thật xa lạ và khác nhau biết bao.
Cảm ơn cháu, bé Thảo Nguyên.
Trần Hồng Ân
Chúa Nhật 21-10-2001 - Ngày Thế Giới Truyền Giáo lần thứ 75 - Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II (1978-2005) long trọng nâng cặp vợ chồng người Ý lên hàng Á Thánh. Ông Luigi và Bà Maria Beltrame Quattrocchi. Lễ nghi tôn phong Chân Phước trùng với dịp kỷ niệm 20 năm ban hành tông huấn Familiaris Consortium về sứ mạng hôn nhân của Kitô hữu.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo, đôi vợ chồng được nâng lên hàng Chân Phước cùng một ngày. Hai vị nên thánh vì đã chu toàn tới mức độ anh hùng cuộc sống hôn nhân thường nhật. Ba trong số bốn người con của Ông Bà hiện diện trong Thánh Lễ tôn phong Á Thánh. Đó là Linh Mục Tarcisio - trưởng nam - 96 tuổi và Linh Mục Paolino dòng Trappist - con thứ ba - 93 tuổi, và người con gái út, bà Enrichetta, 88 tuổi. Chỉ thiếu người con thứ hai là nữ tu Maria Cecilia, qua đời năm 1993, hưởng thọ 85 tuổi.
I. Cuộc đời niên thiếu của Đôi Vợ Chồng Chân Phước.
1/ Chân Phước Luigi Beltrame Quattrocchi chào đời ngày 12-1-1880 tại Catania thủ phủ đảo Sicilia (Nam Ý). Luigi là con thứ ba trong số 4 người con của ông Carlo Beltrame và bà Francesca Vita.
Luigi có người Dì tên Stefania Vita - tức Fanny - lập
gia đình với ông Luigi Quattrocchi. Cả hai cùng son sẻ. Cuộc sống gia đình thiếu
vắng tiếng nói tiếng cười trẻ thơ. Vợ chồng Quattrocchi bày tỏ cùng anh chị
Beltrame ước muốn tiếp nhận Luigi làm con. Họ hứa với anh chị sẽ coi Luigi như
con ruột và chu toàn nghiêm chỉnh trách nhiệm làm cha làm mẹ. Họ cũng long trọng
hứa với anh chị:
- Bé Luigi vẫn giữ nguyên tâm tình thảo hiếu đối với cha mẹ ruột. Dì Dượng sẽ
không hề tước đoạt quyền lợi gì của cha mẹ ruột cả.
Và lời hứa được trung tín bảo toàn. Kể từ ngày về sống với Dì Dượng ở thủ đô Roma, cậu bé Luigi 8 tuổi - thông minh và hảo tâm - hết lòng yêu thương và vâng lời Dì Dượng như song thân, đồng thời vẫn giữ liên hệ con thảo với cha mẹ ruột và tình huynh đệ với anh chị em ở tận miền Nam nước Ý.
Luigi trở thành quí tử duy nhất và lớn lên trong khung cảnh đầm ấm của gia đình Dì Dượng. Người ta hiểu lý do tại sao Luigi mang hai tên họ Beltrame và Quattrocchi. Dượng Luigi giữ đúng nguyên tắc giáo dục: trìu mến nhưng không nuông chìu làm hư hỏng trẻ thơ. Dượng thường nói:
- Luigi phải học hành và vì có trí thông minh, Luigi
phải thành công trong việc học!
Bên cạnh lề lối giáo dục nghiêm khắc của Dượng, luôn có tấm lòng hiền mẫu bao la
của Dì Fanny. Bé Luigi hiểu rõ hoàn cảnh của mình và tình thương của Dì Dượng
nên cố gắng học hành. Năm 1898, mãn bậc trung học, thanh niên Luigi 18 tuổi ghi
tên vào phân khoa Luật của Đại Học Roma.
Cuộc đời sinh viên trí thức tiến triển bình thường, nhưng cuộc sống đạo đức của Luigi không có gì đặc biệt, trong thời gian này. Chỉ có điều đáng nhấn mạnh, đó là, sinh viên Luigi có bản lĩnh can cường. Anh sống ngay chính, tôn trọng tha nhân và tuyệt đối không bao giờ làm một hành động nào mang tính chất đê tiện. Không bao giờ. Sau 4 năm học Luật, Luigi ra trường và bắt đầu tập sự hành nghề Luật Sư.
2/ Nữ Chân Phước Maria Beltrame Quattrocchi nhũ danh Maria Corsini. Maria Corsini chào đời ngày 24-6-1884 tại Firenze (Bắc Ý). Maria là ái nữ duy nhất của ông Angiolo Corsini và bà Giulia Salvi. Trong dòng họ Corsini có thánh Andrea Corsini (1302-1374) và Đức Giáo Hoàng Lorenzo Corsini tức là Đức Clemente XII (1730-1740).
Năm 1893, gia đình ông bà Angiolo và Giulia Corsini dời về sống tại thủ đô Roma. Ban đầu, cô bé Maria 9 tuổi theo học nơi trường Pháp của các Nữ Tu thành Cluny. Sau đó ông Angiolo chuyển con gái sang trường công và trường Nữ Thương Mại và Kế Toán, chuyên về hai ngoại ngữ Anh và Pháp.
Với trí thông minh sắc sảo, trong khung cảnh gia đình lành mạnh và tinh tế, nơi thủ đô Roma tràn đầy nghệ thuật tôn giáo cổ kính, Maria tau luyện nhân cách và tạo cho mình bản lãnh với ba đức tính nổi bật: thẳng thắn, vui tươi và tin tưởng. Nhưng nhất là, Maria có tâm hồn nhiệt thành và trong trắng. Maria luôn chu toàn mọi việc thật nghiêm chỉnh và chú tâm cách riêng đến lãnh vực tinh thần cũng như tôn giáo.
Vừa khi tậu được căn nhà khang trang nơi thủ đô Roma, ông Angiolo Corsini và bà
Giulia Salvi tức khắc đưa ông bà ngoại của bé Maria về ở chung. Ông ngoại Cesare
Salvi tính tình cởi mở, hăng say và rất thích du hành đây đó. Trong khi bà ngoại
Enrichetta Bencini kín đáo, dịu hiền và chỉ chú tâm vào việc nội trợ. Đây là
khung cảnh một gia đình hết sức đặc thù. Maria gần như lớn lên trong mái ấm có
hai người cha và hai người mẹ. Mỗi người với bản lĩnh hoàn toàn khác nhau nhưng
luôn luôn tôn trọng và kính yêu tha nhân. Dầu vậy, không thể nào tránh khỏi va
chạm do cuộc sống chung gây nên.
Trong bầu khí gia đình ấy, cô bé Maria chăm chỉ học hành và vui sống. Tháng 9 năm 1897 - 13 tuổi - Maria vào tuần phòng nơi dòng Các Nữ Tu Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng để chuẩn bị xưng tội và rước lễ lần đầu. Đây là biến cố quan trọng, ghi dấu cuộc sống thiêng liêng sau này. Hơn thế nữa, có một trùng hợp đáng nói. Ngày 30-9-1897, bên trời Pháp, nơi đan viện Kín Cát-Minh ở Lisieux, nữ tu 24 tuổi - Teresa Hài Đồng GIÊSU - hấp hối và trút hơi thở cuối cùng. Trước đó, chị nữ tu hứa sẽ xin Chúa cho mưa hoa hồng - tức tuôn đổ ơn thánh - trên mọi tâm hồn thiện chí. Vào cùng ngày ấy, nơi thủ đô Roma, Maria Corsini rước Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể lần đầu tiê. Sau này, Maria trở thành một trong những người nhiệt tâm bước theo vết chân bé nhỏ thánh thiện của chị nữ tu Nhà Kín Teresa Hài Đồng GIÊSU.
Những năm ở bậc trung học, Maria Corsini rất thích theo đuổi thơ văn. Cô học hỏi, trau dồi và quan sát kỹ môi trường gia đình cũng như xã hội. Cô rút tỉa, kín múc những gì tích cực, quí báu nhất nơi cuộc sống để xây dựng bản lĩnh và tâm tình tôn giáo cho riêng mình. Xuất thân từ dòng họ thượng lưu khá giả, Maria mang dáng dấp một thiếu nữ vừa trí thức vừa ẩn đầy nét đẹp siêu nhiên. Chỉ mới 17 tuổi, nhưng Maria tỏ lộ rõ ràng những đức tính cao đẹp như: nhân bản, ái quốc và lòng đạo đức sâu xa của một tín hữu Công Giáo Ý.
Đây cũng là thời gian đôi bạn trẻ Maria Corsini và Luigi Beltrame Quattrocchi có nhiều cơ hội gặp gỡ và quen biết nhau, trong bối cảnh giới trẻ Roma. Maria là thiếu nữ duyên dáng nhanh nhẹn và tinh tế. Luigi là luật sư trẻ tuổi đứng đắn và hiền hòa. Thêm vào đó, hai gia đình Quattrocchi và Corsini cũng thường xuyên liên hệ thân tình với nhau. Tất cả điểm thuận lợi ấy đưa đẩy đôi bạn trẻ Maria và Luigi tiến đến chỗ hiểu và quí mến nhau, đặc biệt về phía Luigi. Chàng ngỡ ngàng và sung sướng khám phá ra mức độ hiểu biết cùng những đức tính cao quí của Maria. Hình ảnh Maria ”nhè nhẹ” đi vào cuộc đời chàng và trở thành nơi nương tựa, điểm tham chiếu cho chàng.
Thế rồi, Luigi lần lượt chịu tang Dì Dượng. Dượng Luigi Quattrocchi qua đời ngày 20-3-1902. Dì Stefania Vita qua đời ngày 26-7-1904. Luigi đương nhiên hưởng trọn gia tài Dì Dượng để lại. Sự kiện này gây ghen tương và dèm pha trong gia tộc của Dì Dượng. Lời ra tiếng vào ấy gây đau khổ vô cùng cho Luigi, vốn tính nhạy cảm và chính trực. Đầu năm 1905, chàng ngã bệnh nặng. Nặng đến độ các bác sĩ bó tay, tuyên bố vô phương chữa trị. Mạng sống chàng treo lơ lửng trên sợi dây.
Tin không lành đến tai gia đình Corsini, đặc biệt đến với Maria. Cô hiểu rõ tình trạng trầm trọng. Trầm trọng về phương diện thế trần. Chính lúc này Maria biểu lộ Đức Tin vững mạnh. Cô khẩn nài THIÊN CHÚA, qua lời cầu bầu của Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA, cứu sống Luigi. Rồi nàng gởi cho chàng bức ảnh Đức Mẹ Pompei, đàng sau có ghi mấy hàng bằng tiếng Anh:
- Đây là bức ảnh mà trước bức ảnh này, em khẩn thiết kêu cầu cho sức khoẻ của Anh. Xin Anh hôn bức ảnh vào mỗi tối và mỗi sáng và luôn giữ bức ảnh bên mình. Nguyện xin THIÊN CHÚA và Đức Mẹ MARIA chúc lành cho Anh cùng gia quyến.
Lời khẩn nguyện của Maria được chấp nhận. Đầu tháng 3 năm 1905, Luigi khỏi bệnh. Đôi bạn trẻ gặp gỡ, tìm hiểu thêm và ngày 31 tháng 3 cả hai chính thức đính hôn. Cuối năm ấy, ngày 25-11-1905, cả hai thề hứa trọn đời yêu nhau và lãnh bí tích Hôn Phối tại đền thờ Đức Bà Cả ở thủ đô Roma.
(Khi nâng Đôi Bạn lên hàng chân phước, Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II cũng quyết định chọn ngày 25-11 hàng năm là ngày kính Vợ Chồng Chân Phước Luigi và Maria Beltrame Quattrocchi).
II. Cuộc sống gia đình của Vợ Chồng Chân Phước
Sau lễ thành hôn, ông Luigi Beltrame Quattrocchi về sống nơi gia đình vợ, bà Maria Corsini. Nơi đây có cha mẹ vợ Angiolo Corsini và Giulia Salvi. Ngoài ra còn có ông bà ngoại Cesare Salvi và Enrichetta Bencini. Từ đây, nơi mái ấm gia đình này, bắt đầu cuộc sống chung giữa 3 đôi vợ chồng, thuộc 3 thế hệ, với tính tình thật khác biệt nhau. Nhưng cũng chính tại đây, diễn ra cuộc sống thường ngày với niềm vui nỗi khổ, thể hiện cách hoàn hảo nơi đôi bạn trẻ Luigi và Maria. Vốn tính tình cương trực và quảng đại, cộng với tình yêu vợ nồng nàn, ông Luigi chấp nhận tất cả va chạm và vượt qua hết. Về phía bà Maria cũng có cùng can đảm y như chồng.
Sau này, người con gái của Ông Bà là nữ tu Maria Cecilia, làm chứng về nhân đức anh hùng của thân mẫu như sau:
- Đời sống thiêng liêng của Má tự xây dựng nhờ sức tác động kín ẩn và dồi dào của ơn thánh. Đau khổ tinh thần không thiếu. Trong gia đình, mỗi người nổi bật một cá tính. Ngoại Angiolo - có lẽ do ảnh hưởng đời sống từng chỉ huy trong quân đội - thường dễ dàng tỏ ra độc tài. Linh hồn nhạy cảm của Má được tinh luyện bởi đau khổ diễn ra trong gia đình. Chẳng hạn, một vật để không đúng chỗ hoặc chén đĩa xếp lôi thôi, đều bị la rầy. Má tâm sự với tôi rằng: ngay từ nhỏ, Má luôn dấu dưới đĩa một cành ô-liu được làm phép, với lời khẩn nguyện xin THIÊN CHÚA ban ơn an bình trong gia đình. Một lần, Má không ngần ngại thưa thẳng với thân phụ rằng: ”Ba biết không, với tính tình khó chịu của Ba, hẳn con sẽ không chấp nhận lấy Ba như Mẹ đã làm đâu!”
Có thể nói được rằng, chính bà Maria dẫn đưa và lôi cuốn chồng - ông Luigi - đi vào con đường thánh thiện trong bậc sống hôn nhân. Một năm sau khi thành hôn, bà Maria sinh hạ con trai đầu lòng tên Filippo, sau đó trở thành Linh Mục Tarcisio (1906-2003). 3 năm sau, bà sinh đứa con gái thứ hai đặt tên Stefania, sau này trở thành nữ tu Biển Đức Maria Cecilia (1909-1993). Người con thứ ba tên Cesare, hiện vẫn còn sống và là Linh Mục Paolino thuộc dòng Trappist. Con gái út tên Enrichetta cũng còn sống. Cuộc sinh ra của Enrichetta là kết quả của lòng phó thác và tin tưởng vững chắc của cả hai ông bà Luigi và Maria nơi Tình Yêu THIÊN CHÚA Quan Phòng.
Thật thế, khi bà Maria mang thai được 4 tháng, bác sĩ Regnoli của nhà thương ”Nữ Hoàng Elena” ở Roma đã khám phá ra nơi bà một chứng bệnh hiểm nghèo. Nếu không chữa trị kịp thời, chứng bệnh sẽ đưa đến cái chết của cả hai mẹ con. Đối với bác sĩ, không có hy vọng cứu sống bào thai. Hoặc giả đứa bé sống sót thì sẽ bị tàn tật suốt đời. Chi bằng tốt nhất nên cứu sống người mẹ. Trong trường hợp này, bà Maria phải quyết định ngưng mang thai tức khắc.
Chính Linh Mục Paolino - người con thứ ba - gợi lại biến cố đau thương này.
Sau khi lặng lẽ nghe bác sĩ tuyên án, đôi mắt Má ngước nhìn Ba. Bốn con mắt giao nhau trong cùng ý tưởng. Rồi cả hai lặng lẽ hướng về cây Thánh Giá treo trên tường, như âm thầm kín múc sức mạnh để sẵn sàng nói: ”Không phá thai!” Khi biết rõ quyết định của Ba Má, bác sĩ kinh ngạc nói với Ba:
- Luật sư không biết rằng, rồi đây luật sư sẽ mất vợ và sẽ một mình dưỡng dục ba đứa con thơ sao?
Nhưng quyết định của Ba Má trước sau như một:
- Không giết chết bào thai trong dạ!
Sức mạnh duy nhất giúp Ba Má thắng vượt khó khăn trong lúc này chính là lòng tin tưởng tuyệt đối nơi sự trợ giúp của THIÊN CHÚA và Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA. Và THIÊN CHÚA đã thưởng công. Sau 8 tháng cưu mang, bác sĩ quyết định mổ và đưa đứa bé ra. Hôm ấy là ngày Thứ Hai Tuần Thánh 6-4-1914. Đó là bé Enrichetta. Đứa con đáng lý không được sinh ra đã tận hiến cho THIÊN CHÚA tại gia và phụng dưỡng Cha Mẹ suốt cuộc đời mình, cho đến khi Chúa lần lượt gọi Ba Má về với Ngài.
Về phần Enrichetta, bà làm chứng:
- Thời niên thiếu, tôi không bao giờ nghe Má nhắc đến thảm trạng của giai đoạn đau thương này. Khi trưởng thành, có lần nói chuyện với Má, tôi cố ý gợi lên. Nhưng Má chỉ nói phớt qua rồi nhấn mạnh: ”Biến cố ấy đã trở thành phúc lành cao cả cho toàn thể gia đình mình!”
Song song với cuộc sống gia đình, ông Luigi hành nghề luật sư. Rồi ông được mời giữ những chức vụ cao cấp trong chính phủ Ý thời bấy giờ. Ông cũng tham gia nhiều hoạt động tông đồ và xã hội. Ông tích cực phổ biến phong trào Hướng Đạo Công Giáo. Ngay từ năm 1918 ông đã ghi danh hai đứa con trai, Filippo 12 tuổi và Cesare 9 tuổi, vào Phong Trào.
Xin nhường lời cho Cha Tarcisio, trưởng nam, nói về phương cách giáo dục của Song Thân Luigi và Maria.
Thời điểm quan trọng đánh dấu công trình huấn luyện, chắc chắn phải nhắc đến chuyện Ba Má cho chúng tôi gia nhập phong trào Hướng Đạo Công Giáo. Phong Trào được Ông Robert Baden Powell (1857-1941) thành lập bên Anh Quốc vào năm 1899-1900. Ba Má chúng tôi chú ý ngay đến Phong Trào này. Thân Phụ tôi tức khắc tham gia Ủy Ban Điều Hành Phong Trào, vừa được các Linh Mục Dòng Tên đưa vào Ý năm 1916.
Trong vòng 9 năm - từ 1918 đến 1927 - Ba tôi hoạt động hăng say trong Hội Đồng Tổng Cố Vấn của Phong Trào. Về phần thân mẫu, người đặt mua ngay từ Anh Quốc cuốn sách của vị Sáng Lập Phong Trào, để nghiên cứu kỹ lưỡng mục đích của Phong Trào. Bởi lẽ, Ông Robert Baden Powell là tín hữu Anh Giáo. Sau khi cầm chắc quan điểm đúng đắn về tôn giáo, Má tôi theo khóa học hàm thụ về giá trị của Phong Trào Hướng Đạo.
Việc tham gia các sinh hoạt của Phong Trào Hướng Đạo Công Giáo giúp chúng tôi sử dụng đúng đắn thời gian rãnh rỗi ngoài giờ học cũng như ngoài gia đình. Nó cũng giúp tâm trí chúng tôi hướng về một lý tưởng cao đẹp. Nhờ tính nhạy cảm và nghệ thuật giáo dục tinh vi, Song Thân chúng tôi luôn đưa phương thức huấn luyện lên bình diện thiêng liêng và siêu nhiên. Tất cả đều nhắm tới Tình Yêu, Vinh Quang và Thánh Ý THIÊN CHÚA. Thêm vào đó, chúng tôi có Cha Linh Hướng. Chúng tôi thường xuyên lãnh các Bí Tích và lần hạt Mân Côi chung vào mỗi buổi tối. Ngoài ra Ba Má còn xin Tôn Vương Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU trong gia đình. Các sinh hoạt lành thánh đó góp phần rất lớn vào nền giáo dục nhân bản và thiêng liêng cho chúng tôi.
Kể từ sau lễ thành hôn và lần lượt cho ra chào đời 2 trai 2 gái, vợ chồng Luigi và Maria sống với cha mẹ vợ và Ông Bà Ngoại của vợ. Như thế, dưới cùng mái ấm gia đình, có đến 4 thế hệ cùng sống chung. Xin nhường lời cho hai người con gái - bà Enrichetta và nữ tu Maria Cecilia - gợi lại kỷ niệm của quãng thời gian này.
Bà Enrichetta. Thân mẫu chúng tôi nhắc lại quá khứ với tâm tình trìu mến. Người cũng nói về phương pháp giáo dục nghiêm khắc diễn ra trong gia đình. Liên hệ giữa Song Thân với Ông Bà Ngoại và Ông Bà Cố được chấp nhận trong kính trọng và thông cảm. Tình yêu sâu xa của thân phụ dành cho thân mẫu giúp người thắng vượt mọi khó khăn và khác biệt giữa các thế hệ. Về phần thân mẫu, người cũng chấp nhận dễ dàng mọi mệnh lệnh đến từ cha mẹ và ông bà ngoại, trong những vấn đề liên quan đến việc tổ chức. Thế nhưng, trong lãnh vực giáo dục con cái, thân mẫu chúng tôi cương quyết giữ vững trách nhiệm này. Tôi lên 8 tuổi khi ngoại Angiolo Corsini qua đời. Nhưng tôi nhớ như in nỗi đau đớn của thân phụ tôi biểu lộ trong biến cố đau thương ấy. Trong đại gia đình chúng tôi, luôn đề cao khuôn vàng thước ngọc: ”Chỉ duy nhất THIÊN CHÚA Nhân Lành là Chủ Tể mọi loài và mọi sự”.
Nữ tu Maria Cecilia. Tôi xác tín sâu xa rằng sự hiện diện của Ông Bà Ngoại và Ông Bà Cố gây ảnh hưởng sâu xa trong cuộc đời niên thiếu của cả 4 anh chị em chúng tôi. Trước tiên là tình âu yếm các ngài dành riêng cho từng người. Tiếp đến là chỗ đứng xứng hợp của các ngài trong gia đình. Tất cả mối dây liên hệ thân tình đó tôi chỉ có thể quí chuộng và thấu hiểu hơn sau này, khi tôi có dịp tiếp xúc với các học sinh. Cách thức chúng tôi - những đứa con cháu - kính trọng và chăm sóc các ngài, cũng như lề lối các ngài biểu lộ lòng trìu mến đối với chúng tôi, chiếm chỗ đứng quan trọng trong nền giáo dục của chúng tôi.
III. Vai trò đặc thù của các Linh Mục thánh thiện trong cuộc sống hôn nhân của Đôi Vợ Chồng Chân Phước Luigi và Maria Beltrame Quattrocchi.
Vị Linh Mục đầu tiên ảnh hưởng tới đường tu đức của ông Luigi và bà Maria là Cha Pellegrino Paoli, thuộc dòng Anh em Hèn Mọn Phanxicô. Cha Paoli quê làng Massarosa gần Viareggio thuộc tỉnh Lucca (Bắc Ý). Ông bà Luigi và Maria được diễm phúc quen biết Cha Paoli sau khi sinh hạ đứa con thứ hai vào năm 1908. Lúc ấy, Cha Paoli phụ trách môn Kinh Thánh tại Học Viện Giáo Hoàng Thánh Antôn ở thủ đô Roma. Trước đó, Cha từng sống lâu năm bên Thánh Địa. Ngoài môn Kinh Thánh, Cha Paoli còn giữ nhiệm vụ giảng thuyết Mùa Chay nơi các đền thờ Công Giáo nổi tiếng ở Roma. Cha trở thành điểm tham chiếu cho bà Maria và sau đó cho cả ông Luigi nữa.
Với bà Maria - người mẹ trẻ - một phụ nữ Công Giáo vừa trí thức vừa nhạy cảm, Cha Paoli giúp bà luôn biết tự chủ, đặc biệt trong việc chăm sóc các con thơ dại. Cha giúp bà không đi thái quá trong việc lo lắng cho con, nhưng đặt trọn niềm tin tưởng, phó thác mọi sự trong tay THIÊN CHÚA. Hơn thế nữa, Cha giúp bà thánh hóa tình mẫu tử bao la bà dành cho con cái. Ai ở trong tình yêu thì ở trong THIÊN CHÚA. Ai ở trong THIÊN CHÚA sẽ gặp gỡ anh chị em mình. Nhờ thế, con tim bà Maria rộng mở và tình mẫu tử không bị thu hẹp .. Rồi dưới sự hướng dẫn khôn ngoan của Cha Paoli, bà Maria từ từ tìm được mối liên hệ hòa nhịp và thắm thiết với chồng, để cả hai trở nên MỘT. Ông Luigi cũng được cuốn hút vào sự chỉ đạo thiêng liêng của Cha Paoli. Cùng với vợ, cả hai tìm cách ra khỏi ”cái tôi ích kỷ” và vứt bỏ mọi chướng ngại, cản trở sự hiệp nhất giữa đôi vợ chồng. Dĩ nhiên, trong tất cả tiến trình thiêng liêng này, bí tích Giải Tội và Thánh Thể là suối nguồn ơn thánh cho toàn gia đình Luigi và Maria.
Gần 10 năm sau, một Linh Mục thánh thiện khác đi vào cuộc đời Vợ Chồng Luigi và Maria. Đó là Cha Matteo Crawley-Boevey. Cha là một trong những vị tông đồ nhiệt thành cổ võ lòng sùng kính Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU. Cha cũng phổ biến rộng rãi phong trào Đền Tạ và Tôn Vương Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU trong các gia đình Công Giáo. Thân phụ Cha Matteo là người Anh và thân mẫu là người Pérou. Cha Matteo qua đời năm 1960 tại Valparaiso, một thành phố nằm về phía Tây Bắc thủ đô Santiago của nước Chilê ..
Cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa bà Maria và Cha Matteo diễn ra vào năm 1916, nơi cộng đoàn các Nữ Tu Đức MARIA Đền Tạ ở Roma. Hôm ấy Cha Matteo giảng cho một nhóm thuộc Hội Các Bà Chầu Mình Thánh Chúa, trong đó có bà Maria. Lời giảng vô cùng kích động. Sau bài giảng, các Bà kéo đến chào và hôn tay Cha. Đến phiên bà Maria, Cha Matteo nhìn thẳng bà và nói: ”Hãy trở thành tông đồ!” Câu nói như một lệnh truyền, xuyên thấu con tim nồng cháy và quảng đại của bà Maria. Đó là bước quyết liệt cho một định mệnh thánh thiện sau này.
Kể từ ấy, Cha Matteo thường xuyên viếng thăm gia đình Luigi và Maria. Bà Maria như bị thu hút bởi nhiệt tâm tông đồ của vị Linh Mục khả kính. Bà đặt trọn tin tưởng nơi Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU, Đấng vừa là Bạn Trung Tín vừa là Người Tình muôn thưở. Đại gia đình gồm Ông Bà Cố, Ông Bà Ngoại, Ba Má và Con Cái cùng nhau kín múc Suối Nguồn Ơn Phúc nơi Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU.
Những liên hệ chặt chẽ giữa Ông Bà Luigi Maria và Cha Matteo đưa đến việc tận hiến toàn gia đình cho Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU trong một nghi thức trọng thể Tôn Vương Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU diễn ra vào ngày 1-6-1920. Bức ảnh Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU được Cha Matteo đặt vào chỗ danh dự trong phòng ăn, nơi toàn gia đình qui tụ mỗi ngày. Bức ảnh đó vẫn còn cho đến ngày nay, gần 90 năm trôi qua. Chính Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU chủ sự và chúc lành cho các biến cố quan trọng xảy trong gia đình, cho mọi niềm vui nỗi sầu cũng như cho những chia ly và từ bỏ giữa các phần tử.
Nghi thức tận hiến và tôn vương Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU như một bàn đạp, đẩy cao toàn gia đình Luigi và Maria tiến đến bậc trọn lành và đưa 3 trong số 4 người con vào đời sống tu trì.
Ngày 22-2-1922, Filippo - trưởng nam - chính thức bày tỏ cùng thân mẫu quyết định gia nhập Chủng Viện. Vài tuần kế tiếp, đến phiên Cesare – con thứ ba - báo tin ước muốn trở thành tu sĩ Biển Đức. Hai năm sau, vào cùng ngày 6-11-1924, Filippo, 18 tuổi, gia nhập chủng viện của Học Viện Caprania và Cesare, 15 tuổi, gia nhập Đan Viện Biển Đức Thánh Phaolo ngoại thành Roma. Đến ngày 5-6-1927, Ông Bà Luigi và Maria đưa đứa con gái Stefania, 19 tuổi, vào Đan Viện Kín của các Nữ Tu Biển Đức ở Milano (Bắc Ý).
Xin nhường lời cho Linh Mục Paolino (tức Cesare) kể lại biến cố đáng ghi nhớ này.
-Tôi xin nhấn mạnh đến bầu khí gia đình, đặc biệt ngày hôm trước khi anh Filippo và tôi giã biệt mái ấm. Sáng ngày 5-11-1924, Đức Thánh Cha Pio XI (1922-1939) tiếp kiến riêng toàn gia đình chúng tôi. Ngài khuyến khích và chúc lành cho từng người. Ban chiều cùng ngày, sau bữa ăn tối - bữa ăn cuối cùng gia đình tôi họp mặt đầy đủ - mọi người, từ lớn tới nhỏ, đều quì gối trước bức ảnh Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU. Bằng giọng cảm động nhưng rắn chắc, thân mẫu chúng tôi lập lại lời dâng hiến toàn thể gia đình cho Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU. Sau đó thân phụ chúng tôi cất Kinh Cầu Thánh Tâm. Buổi cầu nguyện kết thúc với Kinh Lạy Cha và Kinh Magnificat. Sáng sớm hôm sau, 6-11, Thứ Sáu Đầu Tháng, toàn gia đình đưa anh Filippo đến Học Viện Caprania. Đức Ông Carinci, Viện Trưởng, cử hành Thánh Lễ. Sau phần Rước Lễ, Cha Viện Trưởng tròng áo chùng thâm vào người anh Filippo, khởi đầu bước tiến dẫn đến thiên chức Linh Mục. Thánh Lễ kết thúc, chúng tôi trở về nhà, thiếu đi một người con. Vào ban chiều, toàn gia đình lại lên xe đưa tôi vào Đan Viện Biển Đức Thánh Phaolo. Nơi đây Viện Phụ Alfredo Ildefonso Schuster (1880-1954) tiếp đón tôi cùng với Cha Tập Sư Ildebrando Vannucci. Kể từ buổi tối hôm ấy, mái ấm vắng bóng hai người con trai.
Nữ tu Maria Cecilia (tức Stefania hay Fanny) - người con thứ hai - kể lại ơn gọi tu dòng.
Cuộc ra đi của hai con trai để lại một chỗ trống rộng lớn trong gia đình. Người đau khổ nhất là thân phụ chúng tôi. Thân mẫu chúng tôi cũng đau khổ không kém. Nhưng trong đau khổ, phụ nữ đứng vững hơn, bởi vì, người nữ có nhiệm vụ nâng đỡ người nam. Do đó, thân mẫu chúng tôi dấu kín nỗi buồn để không đè nặng thêm trên nỗi sầu của thân phụ. Chưa hết. Thân mẫu tôi tìm cách nâng đỡ và huấn luyện tôi, giúp tôi tìm đúng con đường ơn gọi. Tận thâm tâm tôi hiểu rằng, ngày nào tôi ra đi theo tiếng Chúa gọi, ngày đó sẽ trở thành lưỡi đòng thứ ba đâm thấu con tim của Má tôi. Tôi thầm nghĩ trong số ba người con xa lìa gia đình, tôi là người con gây đau khổ nhiều nhất cho thân mẫu tôi, về phương diện tình cảm. Đời Tu Kín đòi buộc từ bỏ toàn diện so với các mẫu tu trì khác. Đó là quãng thời gian THIÊN CHÚA Nhân Lành đòi nơi cả Ba lẫn Má một hy sinh lớn lao. Bù lại, Ngài ban cho Ba Má ngay ở đời này một vài an ủi tự nhiên và siêu nhiên. Ngày nay Ba Má tôi tận hưởng Niềm Vui vô biên trên Thiên Quốc, niềm vui chiếm hữu nhờ những hy sinh vui lòng chấp nhận ở đời này.
Cha Paolino (Linh Mục Trappist) nói tiếp về niềm vui nỗi sầu của Ông Bà Luigi và
Maria trong việc dâng hiến 3 người con cho Thánh Ý THIÊN CHÚA.
Ba ơn gọi của chúng tôi được thông báo chỉ cách nhau vài tháng, đúng là ”trái bom” nổ tung vào năm 1922. Dĩ nhiên, thân mẫu là người đầu tiên tiếp nhận ”tâm sự” của chúng tôi. Người giữ kín ”ba hạt giống ơn gọi trong lòng”, đồng thời gia tăng niềm trìu mến đối với chúng tôi. Người cũng khiêm tốn dâng lên THIÊN CHÚA lời cảm tạ sâu xa. Kinh ngạc, hân hoan, đau khổ và tri ân: những tâm tình thánh thiện gói trọn trong hai chữ FIAT - XIN VÂNG.
Trong thời gian này, Ba Má bàn hỏi hai vị Linh Mục Linh Hướng của gia đình là Cha Pellegrino Paoli và Cha Matteo Crawley-Boevey. Ba Má cũng hội ý Đức Ông Angelo Roncalli, sau này là Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII (1958-1963). Lúc ấy Đức Ông Roncalli là Cha Giải Tội của ”Trung Tâm Giới Trẻ Thánh Tâm”, nằm cạnh nhà thờ Thánh Carlino ở Quattro Fontane nơi thủ đô Roma.
IV. Đồng hành với con cái trong ơn gọi Linh Mục và tu trì
Ngày 25-11-1930, Ông Bà Luigi và Maria cử hành Ngân Khánh Hôn Phối. Bao đoạn đường trải qua trong phần tư thế kỷ. Bao gặp gỡ quan phòng cũng như bao hy sinh từ bỏ! Bao biến đổi nội tâm cá nhân cũng như toàn gia đình. Và nhất là, bao ân phúc tuôn đổ trên mọi người. Và THIÊN CHÚA Nhân Lành dành riêng món quà quí giá nhất cho dịp kỷ niệm này. Chỉ vài ngày sau đó, Filippo - trưởng nam 24 tuổi - lãnh nhận thiên chức Linh Mục với tên dòng là Cha Tarcisio. Chính vị tân Linh Mục cử hành Thánh Lễ đầu tay để chúc lành Lễ Bạc Hôn Phối cho Song Thân. Thánh Lễ diễn ra nơi nhà nguyện riêng của Đan Viện Biển Đức ở thành phố Parma, Bắc Ý.
Ông Bà Luigi và Maria luôn luôn duy trì mối giây hiệp thông với ba người con tận hiến cho Chúa, đang sống xa gia đình. Liên hệ thân tình bằng những cuộc viếng thăm ngắn ngủi hoặc đặc biệt, qua thư từ. Những tờ thư diễn đạt tình hiệp nhất trong kinh nguyện, tư tưởng, tâm tình và cả đến văn chương .. Ngày 6-4-1932, bà Maria viết cho Linh Mục Tarcisio:
- Con không thể tưởng tượng Mẹ sung sướng biết bao khi biết con đang đọc cuốn ”Dẫn nhập vào đời sống đạo đức”. Sau ”Phúc Âm” và sách ”Gương Phúc”, đó là cuốn sách thiêng liêng giúp ích rất nhiều cho các linh hồn thuộc đủ mọi giai tầng khác nhau.
Ngày 15-10-1932, nhân dịp sinh nhật thứ 26 của Linh Mục Tarcisio, bà Maria viết cho con:
Một lời nói gói trọn tâm hồn trong ngày hồng phúc, ngày mà lần đầu tiên Mẹ âu yếm gọi hai tiếng ”con ơi!” Gởi đến con lời chúc mừng nồng nhiệt của riêng Mẹ và của mọi người thân yêu trong gia đình. Chúc con thánh thiện và tiếp tục tiến bước trong Tình Yêu THIÊN CHÚA. Tình Yêu dần dần tỏ lộ theo mức độ chúng ta từ bỏ ”cái tôi” và cố gắng trở nên giống Ngài hơn. Nguyện xin cho cuộc đồng hình đồng dạng thánh thiêng tăng trưởng mãi với Thánh Lễ con cử hành mỗi ngày.
Một tháng sau, nhận tin người con trai thứ hai, Cesare, 24 tuổi, sẽ được thụ phong Linh Mục vào ngày 7-1-1933, với tên gọi là Cha Paolino, bà Maria viết cho con:
- Tâm hồn mọi người hướng về ánh sáng mới chói chang mà THIÊN CHÚA chiếu dọi trên toàn gia đình, qua trung gian của con. Con có thể tưởng tượng với tâm tình trìu mến nào Mẹ dành cho con, mỗi khi Mẹ khẩn cầu THIÊN CHÚA gìn giữ con! Con an tâm, Mẹ sẽ xin dâng thêm nhiều Thánh Lễ khác để cầu theo các ý chỉ của con. Nguyện xin lòng Nhân Hậu Bao La của Đức Chúa GIÊSU dẫn dắt con, trên bước đường con tiến lên Bàn Thánh. Xin Ngài mặc cho con chính Ngài, để con trở thành một Đức Chúa KITÔ khác. Con hãy tin tưởng phó thác trọn vẹn cho Thánh Tâm Ngài. Chính nơi Thánh Tâm Ngài mà mọi thiếu sót của con sẽ được Tình Yêu Thánh Thiện Ngài thiêu hủy, cũng như những chiến đấu của con - được thiện chí hỗ trợ - sẽ được biến đổi thành chiến thắng của Tình Yêu.
Ngày 17-4-1933 nơi cộng đoàn các Nữ Tu Đền Tạ ở Roma, diễn ra cuộc họp mặt các Bà Mẹ có con làm Linh Mục. Dĩ nhiên Bà Maria cũng có mặt. Sau đó, bà viết cho hai con là Cha Tarcisio và Cha Paolino:
- Mẹ không thể nào bày tỏ cùng con mọi tâm tình Mẹ cảm nghiệm khi bước vào nhà nguyện bé nhỏ này, nơi các con thường lui tới khi còn niên thiếu, cũng như nơi Mẹ hằng ấp ủ mọi kỷ niệm trong lòng. Mẹ cảm thấy vô cùng hãnh diện được có mặt vào dịp đó, với cùng một mục đích, giữa bao Bà Mẹ khác, những người mẹ được THIÊN CHÚA chiều đãi cách riêng, giống như Mẹ vậy. Không, đây không phải cái gì thuộc về trần thế, cũng không phải niềm hãnh diện bèo bọt, nhưng là ý thức sự khốn hèn của mình được lòng Nhân Lành THIÊN CHÚA nâng cao, khi Ngài thực hiện những kỳ công vĩ đại nơi các con, những người con dấu yêu của Mẹ.
Về phần ông Luigi, kể sao cho hết ưu ái Ông dành cho ba người con tận hiến cho Chúa, đang sống nơi các Đan Viện ở xa. Con trưởng nam Filippo - Cha Tarcisio - sống tại Noci, thuộc tỉnh Bari, Nam Ý. Con gái Fanny - nữ tu Maria Cecilia - ở Milano, Bắc Ý. Con trai Cesare - Cha Paolino - sống ở Parma, Bắc Ý. Trong hàng mấy năm trời, mỗi tháng, Ông Luigi dành ra tất cả 6 đêm ngủ trên xe lửa để đi thăm ba người con sống nơi ba Đan Viện khác nhau. Chẳng hạn, để đi thăm Linh Mục Tarcisio, Ông Luigi lên xe lửa tối thứ bảy và tối Chúa Nhật ông lại lấy xe lửa trở về Roma để sáng thứ hai đi làm việc như thường. Cùng lộ trình y như thế khi ông đi thăm Linh Mục Paolino và nữ tu Maria Cecilia.
Ông Luigi là mẫu gương một người Cha, một tín hữu Công Giáo nhiệt thành và là một công dân yêu nước. Ngoài xã hội, ông dấn thân trong các công tác chính trị và bác ái. Nơi gia đình, ông chu toàn bổn phận làm chồng làm Cha. Con người vừa chính trị vừa trí thức ấy, luôn luôn bắt đầu một ngày với Thánh Lễ và bữa ăn với việc toàn gia đình đứng nghiêm trang đọc Kinh Truyền Tin. Vào buổi tối, khi một ngày chấm dứt, toàn gia đình lại qui tụ để lần hạt Mân Côi chung trước khi lên giường ngủ.
Ngày 23-6-1933, lễ trọng kính Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU, Ông Luigi viết cho Linh Mục Tarcisio:
- Mối hiệp nhất tâm trí chúng ta trong kinh nguyện hàng ngày, dĩ nhiên, trao ban cho chúng ta không biết bao nhiêu sức mạnh và trợ giúp thiêng liêng. Bổn phận chúng ta là phải kiên trì cũng như phải hy vọng THIÊN CHÚA không bao giờ quên trợ giúp cho thiện chí chúng ta.
Cuối thư, bà Maria viết thêm:
- Hôm nay, khi lập lại lời tận hiến toàn gia đình cho Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU, tất cả các con ở xa đều hiện diện trong nghi thức này.
Mối hiệp thông giữa Ông Bà Luigi và Maria với 3 con sống đời Linh Mục và tu trì, vô cùng chặt chẽ và thắm thiết. Chỉ có con gái út Enrichetta ở nhà phụng dưỡng Cha Mẹ. Một hôm, bà Maria tâm sự với người bạn gái tuổi thơ, nữ tu Maria Addolorata Astuto rằng:
- Nếu ngày kia, Enrichetta cũng được Chúa gọi đi tu, thì Luigi và em, cả Hai Vợ Chồng em sẽ vào dòng!
Một biến cố liên quan đến lời khấn của bà Maria dành cho các con vào ngày 13-8-1940 tại đền thánh Đức Mẹ Divino Amore - Tình Yêu THIÊN CHÚA.
Đền thánh nằm ngoài vòng đai thủ đô, cách Roma khoảng 15 cây số. Đền thánh là nơi toàn dân Ý - cách riêng thành Roma - biểu lộ lòng tin tưởng, sùng mộ đối với Mẹ THIÊN CHÚA. Ông Bà Luigi và Maria thường xuyên hành hương Đền Thánh này. Vì lý do đó, từ ngày 28-10-2001, đúng một tuần sau lễ tôn phong Chân Phước, di hài Ông Bà được chuyển về đây. Hiện nay Ông Bà yên nghỉ trong cùng phần mộ, dưới hầm Đền Thánh Đức Mẹ.
Năm 1939, thế chiến thứ hai bùng nổ. Ngày 10-6-1940, nước Ý nhảy vào vòng chiến. Mọi đàn ông con trai phải lên đường nhập ngũ. Lúc ấy, hai người con của Ông Bà Luigi và Maria là Cha Tarcisio và Cha Paolino chưa được lệnh tòng quân. Nhưng với tình mẫu tử, Bà Maria linh tính rồi đây thế nào hai con cũng phải thi hành nghĩa vụ ”trai thời loạn”, trong tư cách là ”Linh Mục tuyên úy quân đội”.
Đoán trước nguy hiểm đang chờ đợi cũng như nghĩ đến tất
cả các Bà Mẹ có con là lính, Bà Maria sốt sắng đi hành hương đền thánh Đức Mẹ
Tình Yêu THIÊN CHÚA. Hôm ấy là ngày thứ bảy 13-8-1940. Nơi đền thánh, Bà đặc
biệt phó thác 4 người con của Ông Bà trong vòng tay bảo bọc bao la của Mẹ THIÊN
CHÚA. Trước khi rời đền thánh, bà gởi cho mỗi người con tấm thiệp với hàng chữ:
- Má đã cầu nguyện cho các con. Đức Mẹ sẽ che chở các con!
Đầu năm sau 1941, hai Cha Tarcisio và Paolino được chỉ định làm Linh Mục tuyên úy quân đội. Và chuyện lạ đã xảy ra. Vào ngày 13-8-1942, Cha Tarcisio thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, khi chiếc tàu ”Dandolo” bị trúng thủy lôi. Năm sau, vào cùng ngày 13-8-1943, đến lượt Cha Paolino và nữ tu Maria Cecilia thoát chết cách lạ lùng. Cha Paolino, trong nháy mắt, tránh khỏi một viên đạn bắn. Còn nữ tu Maria Cecilia thì rời bỏ Đan Viện Kín Biển Đức ở Milano, vài giờ trước khi Đan Viện bị dội bom phá hủy tan tành.
V. Vợ Chồng Chân Phước Luigi và Maria Beltrame Quattrocchi, qua lời chứng của 4 người con.
1/ Filippo (Linh Mục Tarcisio) - trưởng nam - nói về bầu khí gia đình.
Có thể nói rằng, khía cạnh đặc thù nếp sống gia đình chúng tôi chính là bầu khí bình thường. Cha Mẹ chúng tôi luôn tìm cách khơi động sự tìm kiếm các giá trị siêu nhiên, trong mọi khía cạnh và trong mọi thời điểm của cuộc sống gia đình. Bất cứ vấn đề nào - dù nhỏ dù lớn - trong đời sống hàng ngày, đều được nhìn dưới cái nhìn tuyệt đối siêu nhiên. Mỗi biến cố đều được chấp nhận vì Vinh Quang THIÊN CHÚA và vì Thánh Ý Ngài. Bởi thế, làm hoặc không làm một điều gì, hay phải chọn một cung cách hành xử nào, nhất nhất đều hết sức tự nhiên, không gò bó, không ép buộc, miễn sao phù hợp với Thánh Ý THIÊN CHÚA. Trong liên hệ giữa Cha Mẹ và con cái, nổi bật tâm tình trìu mến và tinh thần đối thoại, tin tưởng.
Ba Má chúng tôi luôn để ý đến mối liên hệ của chúng tôi với bạn bè. Các ngài ước mong chúng tôi mời bạn hữu về nhà hơn là đến nhà bạn hữu. Đây cũng là dịp chứng tỏ lòng hiếu khách của các ngài. Gia đình chúng tôi luôn mở rộng cửa tiếp đón mọi người, thuộc đủ mọi giai tầng xã hội, không trừ ai.
2/ Stefania tức nữ tu Maria Cecilia. Chị qua đời 1993, hưởng thọ 85 tuổi, sau 19 năm làm Bề Trên Nữ Đan Viện Kín Biển Đức ở Milano, Bắc Ý. Lúc sinh thời, Chị nói về con đường tu đức của thân mẫu:***
Đời sống thiêng liêng sâu xa của Má có thể diễn tả như là phối hợp toàn vẹn trong trọn cuộc đời Má. Ngay từ thơ ấu, Má hấp thụ một nền giáo dục nhân bản đứng đắn và thâm sâu, đặt nền móng vững chắc cho đời sống siêu nhiên sau này. Thật vậy, thói quen luôn chu toàn bổn phận cũng như luôn tập làm chủ chính mình, là phương thức tốt nhất chuẩn bị lãnh nhận hạt giống Lời Chúa. Và hạt giống rơi nhằm thửa đất tốt đã trổ sinh hoa trái dồi dào. Biến cố ghi dấu tiến trình thiêng liêng của Má là dịp Má chuẩn bị xưng tội rước lễ lần đầu năm lên 13 tuổi. Tôi nhớ có lần được đọc tờ thư ngắn Má viết cho Ông Bà Ngoại trong kỳ cấm phòng này. Má nói về Cuộc Khổ Nạn của Đức Chúa GIÊSU do tội lỗi chúng ta gây nên. Má cũng nói về bổn phận phải kính mến Chúa và không được xúc phạm đến Ngài. Tôi nghĩ rằng, không ai trong gia đình đo lường được ơn thánh Má lãnh nhận vào dịp hồng phúc ấy. Hạt giống đi vào cõi thâm sâu và dấu ẩn nơi đó. Nhiều lần Má tâm sự với tôi là không ai nói với Má về đời sống tu trì. Sau này, lúc đã đính hôn, có lần Má trình bày với Cha Ardanza, Linh Mục giải tội nơi Đền Thờ Đức Bà Cả, về ước nguyện thâm sâu của mình, Cha liền trả lời: ”Ơn gọi của con là lập gia đình!”
3/ Cesare (Linh Mục Paolino, tu sĩ Trappist) nói về nền giáo dục tôn giáo Ông Bà Luigi và Maria dành cho con cái.
Tôi được xưng tội và rước lễ lần đầu năm lên 6 tuổi rưỡi. Từ năm 13-14 tuổi, tôi được tham dự Thánh Lễ và rước lễ hàng ngày. Cứ mỗi chiều thứ bảy, Ba đưa chúng tôi đi xưng tội nơi nhà thờ Thánh Antôn của các Cha dòng Phanxicô. Chúa Nhật sau Thánh Lễ, nếu chúng tôi không có các sinh hoạt Hướng Đạo, Ba đưa các con đi viếng các đền đài lịch sử hoặc các cảnh đẹp trong thành phố Roma .. Nếu chẳng may đôi lần anh em chúng tôi có thiếu sót điều gì, Ba Má liền khéo léo nhắc lại lời chúng tôi long trọng tuyên thệ với tư cách là Hướng Đạo Sinh Công Giáo! Làm như thế, phương pháp huấn luyện của các ngài mang nét toàn thể và hòa điệu, trong một lề lối vừa dấu ái vừa tự nhiên. Chính mối liên hệ thân tình giữa Cha Mẹ và con cái là bí quyết thành công cho nền giáo dục của các ngài.
Thân phụ chúng tôi chia sẻ hoàn toàn với thân mẫu chúng tôi mọi niềm vui, mọi nỗi âu lo trong việc giáo dục con cái. Mỗi khi đưa chúng tôi đến trường, Ba Má thường dẫn chúng tôi ghé vào nhà thờ gần nhất để chào kính Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể đang ngự trong Nhà Tạm.
Linh Mục Paolino làm chứng tiếp về cuộc sống “bình thường” của cặp vợ chồng ”khác thường” Luigi và Maria.
Cuộc sống lứa đôi của Song Thân chúng tôi bắt đầu ngay từ thời gian đính hôn. Cả hai cùng sánh bước trên con đường Đức Tin và trong mối hiệp thông sâu xa của ơn thánh. Đề tài đức trinh khiết trong đời sống vợ chồng được Ba Má đặc biệt lưu ý và thể hiện. Tất cả các tác phẩm của thân mẫu chúng tôi minh chứng điều đó. Người nhấn mạnh quan điểm của Kitô Giáo về gia đình và tầm quan trọng của việc giáo dục con cái liên quan đến đức trong sạch. Toàn thể các nhân đức anh hùng của Song Thân chúng tôi xuất phát từ mối hiệp thông siêu nhiên trong đời sống vợ chồng cũng như việc kín múc sức mạnh ơn thánh từ các Bí Tích.
4/ Enrichetta - người con út - làm chứng về lòng thương người và tinh thần hiếu khách của Ông Bà Luigi và Maria.
Giữa nhiều thời điểm khác nhau, làm tỏ lộ tình liên đới và lòng bác ái của Ba Má đối với tha nhân, tôi chỉ xin trưng dẫn một trường hợp. Đầu năm 1919, trận dịch cúm ”Tây Ban Nha” gây nên hàng triệu nạn nhân trong toàn cõi Âu Châu. Nước Ý cũng không thoát khỏi tai ương này. Trong số các nạn nhân, có gia đình bạn thân của Ba Má chúng tôi. Chỉ vỏn vẹn cách nhau vài ngày, người Cha và người Mẹ lần lượt ra đi, bỏ lại ba đứa con thơ. Chắc chắn cả ba đứa trẻ đều đã nhiễm vi trùng dịch cúm của Ba Má chúng. Trước thảm họa, Song Thân chúng tôi không do dự tính toán một giây. Đặt trọn niềm tin tưởng phó thác nơi Chúa Quan Phòng và nơi sự che chở đặc biệt của Đức Nữ Trinh Rất Thánh MARIA, Ba Má chúng tôi tức khắc đưa cả ba đứa trẻ mồ côi về nhà. Trong khoảng thời gian hiểm nguy và tế nhị này, Ba Má chúng tôi hoàn toàn tỏ ra thái độ điềm tĩnh và ân cần săn sóc.
Ngày 5-11-1951, gia đình Luigi và Maria Beltrame Quattrocchi họp mặt đông đủ lần cuối. Đó là điều chưa hề xảy ra trong vòng 27 năm, kể từ năm 1924, khi hai người con trai gia nhập Chủng Viện. Hôm đó nữ tu Maria Cecilia tháp tùng Mẹ Bề Trên từ Milano về Roma. Ông Luigi lợi dụng dịp may hiếm có, liền bày tỏ ước muốn cho hai con trai Linh Mục Tarcisio và Paolino cũng có mặt tại gia đình, ít là chỉ trong vài tiếng đồng hồ. Không ai ngờ rằng đó là niềm vui sau cùng Ông Luigi được hưởng nơi trần gian. Bởi vì 4 hôm sau, ngày 9-11-1951, Ông êm ái trút hơi thở cuối cùng, vì bệnh tim, hưởng thọ 71 tuổi.
Tin Ông Luigi từ trần loan đi thật nhanh. Căn nhà của gia đình tràn ngập người người đến kính viếng. Họ gồm đủ hạng người: từ các giới chức cao cấp chính trị, kinh tế và tôn giáo cho đến các bạn hữu. Nhưng nhất là, nổi bật các khuôn mặt nghèo nàn khiêm tốn: các cụ ông, cụ bà, những bà mẹ bồng con và đông đảo giới trẻ. Mọi người rưng rưng dòng lệ, bày tỏ lòng thương mến chân thành đối với người quá cố. Họ biểu lộ niềm tri ân sâu xa về tất cả những gì Ông Luigi đã làm, mà chỉ mình THIÊN CHÚA biết. Ai ai cũng thầm thì: ”Đây là một vị thánh!”
14 năm sau, một quang cảnh tương tự tái diễn sau cái chết của Bà Maria. Bà qua đời ngày 25-8-1965, hưởng thọ 84 tuổi. Ngay ngày hôm ấy, hàng ngũ đông đảo người, gồm đủ giai tầng xã hội - như một cuộc hành hương - tuốn đến kính viếng thi hài, quàng tại nhà riêng nơi làng Serravalle, thuộc tỉnh Arezzo, Trung Bắc nước Ý. Tham dự Thánh Lễ an táng có toàn thể dân làng, không kể bạn hữu và gia quyến đến từ Roma.
Ngày 27-8, thi hài Bà Maria được đưa về Roma và an táng nơi nghĩa trang Verano, bên cạnh Ông Luigi. Chủ sự lễ an táng là Đức Cha Aurelio Signora (Linh Hướng của Bà Maria) đến từ Pompei (Nam Ý). Hiện diện trong Thánh Lễ an táng, ngoài thân bằng quyến thuộc, còn có không biết bao khuôn mặt không tên không tuổi của những người đơn sơ khiêm tốn từng thụ ơn Ông Luigi và Bà Maria Beltrame Quattrocchi.
(Giorgio Papàsogli, ”Questi Borghesi ... I Beati Luigi e Maria Beltrame Quattrocchi”, Cantagalli, 2001 // Luciano Moia, ”Beati Genitori”, Ancora, 2001).
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
(Radio Vatican)
Nhiều cặp vợ chồng rơi vào tình trạng “trống đánh xuôi kèn thổi ngược”, thậm chí vợ nói, chồng không nghe... Làm sao để giải tỏa vấn đề này trong đời sống lứa đôi quả là không đơn giản
Nhiều người cho rằng chuyện nhà mình ngày nào mà chẳng nói, thậm chí nói đến phát chán. Tệ hơn, nhiều gia đình rơi vào cảnh vợ chồng không nghe nhau, con cái cãi lời bố mẹ. Nhưng nếu thành viên nào đó trong gia đình bỗng nhiên im lặng thì lại nghĩ rằng trong nhà đang có “vấn đề”.
Độc thoại trong nhà
Chị Th. Ng, một nữ doanh nhân khá thành đạt, tìm đến trung tâm tư vấn bộc bạch: “Tôi có trong tay gần cả ngàn CB-CNV, triển khai việc gì mọi người đều răm rắp. Vậy mà về nhà, mở miệng nói câu nào là ông xã phản đối câu đó. Thậm chí, nhiều đêm nói chuyện với chồng không nghe trả lời, quay sang ông xã đã ngủ từ bao giờ”. Lúc đầu chị Th.Ng cho rằng do vợ chồng khắc khẩu nhưng càng thành đạt, chị lại càng nghi ngờ ông xã đã hết tình cảm với mình và có nơi chốn nào khác.
Không riêng chị Th.Ng, nhiều phụ nữ khi lập gia đình cũng rơi vào cảnh phải “độc thoại” như thế. Chị Y.V ở Hoàng Hoa Thám, P.13, Q.Tân Bình-TPHCM, nhiều phen hét toáng lên với chồng: “Sao tôi nói với ông mà như nước đổ đầu vịt vậy?!” đến cả hàng xóm còn nghe thấy. Đi họp tổ dân phố, trò chuyện cùng tôi, chị thanh minh: “Về đến nhà là ổng im như thóc, hết coi báo lại xem tivi. Tôi nhờ việc gì thì gật rồi... để đấy”. Lý do chị Y.V lớn tiếng là: “Bực quá thì nói cho bõ tức rồi việc mình mình làm”...
Của phải tội, không ít chị em mắc phải chứng muốn gì nói nấy. Thậm chí nhiều người tìm cách gây chuyện trong chính bữa cơm sum họp gia đình. Chị Ng.C sụt sùi khi kể với chuyên gia tư vấn sau 2 tháng vợ chồng xung đột đến mức không nhìn mặt nhau: “Vợ chồng đi cả ngày, đến bữa cơm em vừa ăn vừa đem chuyện trong nhà ra bàn. Không ngờ ảnh dằn chén giận dữ: “Không để cho tôi nuốt trôi chén cơm à?”. Hai đứa con của họ co rúm vì sợ hãi. Từ đó, chị tuyên bố không thèm nói chuyện với anh, anh lại được nước: “Im lặng thế cho tôi nhờ”.
Tham gia lớp học kỹ năng mềm cho tổ ấm tại hội quán Đến với nhau (105/6 Bình Quới, Q. Bình Thạnh - TPHCM), nhiều người thừa nhận thực tế “rà sai sóng” giữa các thành viên trong gia đình. Nhiều gia đình rơi vào mâu thuẫn từ lý do rất nhỏ, lãng xẹt mà không thể giải thích nổi.
Vợ chồng cũng nên “uốn lưỡi”
“Người trong một nhà, cần gì giữ kẽ, cần gì đắn đo. Đấy là nguyên nhân dẫn đến tình trạng “trống đánh xuôi kèn thổi ngược”- thạc sĩ Nguyễn Thị Oanh mở màn buổi học. Bà đưa ra ví dụ thật sinh động: Người chồng đang rất vội vì có một cuộc hẹn quan trọng nhưng vợ lại đủng đỉnh và muốn chồng phải hôn tạm biệt. Người chồng không thực hiện, vợ cảm thấy buồn, mặt mày không vui (có phần nặng thêm) khi chồng trở về. Chồng mệt vì căng thẳng, vợ lại cho rằng không quan tâm đến mình.
Tệ hơn là trong lúc người bạn đời của mình mệt mỏi, căng thẳng, khi trở về nhà đáng lẽ phải được nghỉ ngơi hoặc cùng trò chuyện vui vẻ để được sẻ chia thì không ít người xem các cuộc gặp gỡ là dịp để ca thán những phiền toái của mình hay những chuyện không vui của gia đình, người thân.
Theo bà Oanh, tránh đẩy cuộc tâm tình của vợ chồng vào xung đột thì ít nhất trước khi nói phải “uốn lưỡi một lần”. Cần xác định thời gian hợp lý cho chủ đề và mục đích của cuộc trao đổi. Tùy theo nội dung của câu chuyện mà lựa chọn thời điểm và không gian thích hợp cũng như tránh những tranh luận kiểu hơn-thua. Những vấn đề trọng đại, đặc biệt những chuyện không vui, người trong cuộc cần cân nhắc và lựa chọn thời điểm thích hợp. Bên cạnh đó, các cặp vợ chồng cần tạo thói quen biết lắng nghe và khuyến khích bạn đời thể hiện ý kiến. Nếu tất cả phương cách ấy đã được áp dụng nhưng vấn đề mà vợ chồng đưa ra vẫn chưa được giải quyết thỏa đáng thì nên dừng cuộc nói chuyện lại và hẹn một thời điểm khác. Điều này sẽ giúp vợ chồng có thêm thời gian để cân nhắc, bình tĩnh hơn trong việc giải quyết mâu thuẫn...
Tránh thuyết giảng với con Vấn đề thời sự trong đời sống gia đình hiện nay là cách cha mẹ trao đổi với con cái cũng được các chuyên gia mổ xẻ sát sao. Vì sao con cái không tìm được tiếng nói chung và sự đồng cảm với bố mẹ? Theo các chuyên gia, đó là vì cha mẹ luôn áp đặt, coi con cái là trẻ ranh và luôn muốn thuyết giảng. Để làm bạn với con không có gì khó, chỉ cần một số “kỹ xảo” như lắng nghe và khuyến khích con tự tin trình bày vấn đề mà con gặp phải thì sự trao đổi thông tin giữa con cái và cha mẹ trở nên dễ dàng hơn. |
Theo www.nld.com.vn
Mầu nhiệm thứ nhất : Chúa Giêsu sống lại
Chúa tắt thở vào lúc ba giờ chiều thứ sáu. Chỉ còn ba tiếng đồng hồ nữa thì bắt đầu giữ luật ngày Sabát : tuyệt đối không lao động kể cả nấu cơm và trị bệnh ! Không đi bộ quá 900 mét (nếu đi rồi về)
Chỉ còn ba tiếng đồng hồ, hai ông Giuse và Nicôđêmô phải vắt giò lên cổ để chu toàn những việc sau đây :
- Đến dinh Tổng trấn Philatô để khai tử và xin làm lễ an táng cho Chúa. Làm xong công tác này, nếu không gặp trục trặc, thì cũng phải mất ít nhất là một giờ.
- Hạ xác Chúa xuống, tắm rửa, lau chùi, tẩm liệm theo đúng tục lệ rồi an táng Chúa trong ngôi mộ gần đó. Chỉ có hai ông già làm mọi động tác từ A đến Z. Ngươi đàn ông thứ ba là Gioan thì phải túc trực bên Đức Mẹ. Phụ nữ thì đông lắm nhưng họ chỉ còn đủ sức để khóc và than thôi. Nếu họ có làm được gì, thì chỉ là làm cho lễ nghi an táng chậm lại mà thôi.
Vì vậy lễ an táng không thể nhanh hơn một tiếng đồng hồ.
- Thời giờ còn lại thì ai nấy phải tranh thủ để có mặt ở nhà trước khi mặt trời lặn.
Màn đêm buông xuống. Khu mộ vắng tanh. Một nỗi buồn khủng khiếp bao trùm cả ngôi mộ lẫn mọi cõi lòng. Chẳng còn ai muốn nói với ai. Chẳng ai buồn ngủ. Chẳng ai muốn tin. Y như những cái xác không hồn…
Đêm thứ sáu, ngày thứ bảy, đêm thứ bảy lặng lẽ trôi qua. Chẳng có gì xảy ra, ngoài những nét mặt u buồn và những tiếng khóc bất chợt.
Đùng một cái, vào hừng đông Chúa Nhật, cả thủ đô Giêrusalem bùng vỡ thông tin.
- Lính gác mộ hớt hải báo tin Thượng tế biết rằng Chúa đã sống lại thật. Thượng tế cho họ thật nhiều tiền để họ xuyên tạc nguồn tin. Nhưng tin động trời ngàn năm chưa có một lần, thì phải bùng vỡ.
- Các bà phụ nữ ra viếng mộ, thấy mộ trống thì bỏ về. Về chưa tới nhà thì gặp Chúa hiện ra.
- Bà Mácđala gặp Chúa hiện ra tại ngôi mộ và được lệnh về báo tin cho anh chị em.
- Ông Clơpas và một ông bạn buồn quá bỏ thủ đô đi về làng Emmaus. Chúa hiện ra với họ và cho họ nhận ra Người vào buổi tối hôm ấy.
Tình hình chung vẫn là buồn rầu và xao xuyến. Chẳng ai biết tương lai sẽ ra sao…
Mẹ yêu dấu. Chúng con thấy Mẹ đứng bên cạnh Chúa khi Người hấp hối. Rồi chờ mãi đến 43 ngày sau chúng con mới được gặp Mẹ đang sốt sắng cầu nguyện bên mười một Tông đồ và nhóm phụ nữ. Đó là ngày Chúa về trời, chúng con còn được thấy Mẹ một lần nữa, lần cuối cùng. Đó là ngày lễ Ngũ Tuần. Vậy thì Mẹ ở đâu và làm gì suốt 43 ngày đó. Mẹ có ra thăm mộ của Chúa không ? Chúa có hiện ra với Mẹ không ? Trong lúc mọi người buồn rũ rượi ra thì Mẹ nói gì với họ ? Thánh Kinh im lặng một cách đáng tiếc. Nhưng chúng con tin rằng Mẹ vẫn có mặt ở Giêrusalem, Mẹ là linh hồn của Giáo hội sơ khai. Mẹ vẫn ĐỨNG để không ai ngã đổ.
Mầu nhiệm thứ hai : Chúa Giêsu lên trời
Từ ngày Phục sinh, Chúa vẫn hiện ra lai rai, khi thì với tập thể, khi thì với cá nhân, khi thì ở thủ đô, khi thì ở Emmaus hoặc ở biển hồ Galilê.
Bốn mươi ngày cứ trôi qua như thế. Hồi hộp chờ đợi. Gặp Chúa thì vui khôn xiết. Chúa biến đi thì tiếc hùi hụi. Mọi người chẳng biết làm gì, chẳng muốn làm gì, chỉ mong gặp Chúa thôi.
Thế rồi, một hôm, Chúa hiện ra với họ : an ủi và dặn dò. Dặn rằng :
- Đừng rời khỏi Giêrusalem
- Hãy cầu nguyện.
- Hãy chờ đợi Chúa Thánh Thần đến.
Rồi sẽ đi đến tận cùng trái đất để loan báo và làm chứng tá cho mọi điều đã được nghe, đã được thấy.
Rồi Thầy đi trước, trò lẽo đẽo theo sau. Đi tối đâu và để làm gì thì chẳng ai biết. Bỗng Thầy dừng chân ở núi Cây Dầu, gần Bêtania. Trò tụ lại quanh Thầy. Thầy giơ tay chúc lành. Chưa kịp hỏi Thầy, thì bỗng Thầy bốc lên, lên mãi cho tới khi không thấy Thầy nữa. Trò ngẩn ngơ như mất hồn.
Bỗng có hai người lạ xuất hiện. Tưởng là Thầy, mừng quá. Té ra là sứ thần của Thấy sai đến. Sứ thần khuyên các ông trở về. Các ông lục đục kéo nhau về nhà bà Maria mẹ của Máccô, leo lên lầu, cầu nguyện liên tục cùng với Đức Mẹ và các phụ nữ thừa sai.
Được cầu nguyện bên cạnh Đức Mẹ, được cầu nguyện với Đức Mẹ. Sung sướng và sốt sắng quá chừng.
Chúa về trời mất rồi, biết đến bao giờ Người mới trở lại. Một mất mát to lớn quá chừng. Nhưng… dường như cũng chẳng sao, vì vẫn còn Đức Mẹ ở đó.
Ba năm trời anh em Tông đồ nghe Chúa giảng về Nước Trời. Bây giờ được nghe Đức Mẹ kể chuyện về 33 năm cuộc đời của Chúa. Mọi kỷ niệm về cuộc đời của Chúa. Mẹ đều ghi khắc trong lòng, suy đi nghĩ lại mãi, nên chẳng quên một tí nào. Một hồi ức phong phú vô cùng vô tận.
Anh em Tông đồ rất sợ cây khổ giá, họ chỉ ham quyền và lợi. Chúa nói về cây khổ giá, họ điếc không thèm nghe. Họ chẳng muốn nghe. Cái chức thủ tướng đeo đẳng họ suốt ba năm trời. Ngay trong phòng Tiệc Ly cận kề bên cuộc thọ nạn, họ vẫn còn giành nhau chức thủ tướng ấy( Lc 22, 24).
Bây giờ họ được Đức Mẹ tâm sự về cuộc đời cay đắng của Người. Đức Mẹ sẽ giải thích để họ hiểu rằng theo Chúa thì phải khổ lắm. Đó là sự đóng góp quý giá vào công trình cứu độ của Chúa. Đức Mẹ nói bằng lời, bằng cảm xúc và bằng chính cuộc đời của ngài. Có lẽ bây giờ các Tông đồ mới hiểu được lời, ý và tâm của Thầy mà trong ba năm qua, họ cứ ngơ ngơ chẳng hiểu gì.
Mẹ yêu dấu. Các Tông đồ được sống bên Mẹ ít nhất là mười ngày. Sung sướng vô cùng. Ước gì chúng con cũng được sống với Mẹ, cầu nguyện với Mẹ như thế.
Mầu nhiệm thứ ba : Chúa Thánh Thần hiện xuống
Tòa nhà lầu của bà Maria, mẹ của Máccô: cửa đóng im ỉm, cổng cài chốt kỹ càng. Ở đó có Đức Mẹ, mười một Tông đồ cùng với Mathia người tân cử, các bà phụ nữ thừa sai và vô số người khác. Hằng trăm người ở đó, nghỉ ở đó, cầu nguyện ở đó.
Một nỗi sợ bao trùm. Chúa thì về trời rồi chẳng còn ai đứng mũi chịu sào. Phêrô, vị thủ trưởng thì chẳng có một tí uy tín nào để lãnh đạo anh em. Qua cuộc thọ nạn của Thầy, chẳng anh nào mà không có khuyết điểm. Anh nào cũng mặc cảm tội lỗi đầy mình. Giới lãnh đạo thì đang chĩa mũi dùi trả thù về phía các Tông đồ. Tin Chúa Phục sinh càng làm cho tình thế an sinh của các Tông đồ trở nên căng thẳng hơn.
Vẫn cầu nguyện đấy. Vẫn có Đức Mẹ ở đấy. Nhưng vẫn sợ quá chừng. Sợ bị bắt. Sợ bị tra tấn. Cái tín đồn “đệ tử ăn trộm xác ông Giêsu đem cất giấu để phao tin ông ấy sống lại” đang là một nỗi lo lớn lao bao phủ trên toàn bộ đoàn “ Mười Hai”.
Sợ quá. Chẳng biết làm gì để đổi phó. Đành phó mặc cho số phận. Hằng trăm người đang nơm nớp sợ hãi, đang tha thiết cầu nguyện thì…
- Căn nhà lầu rung lên như có động đất. Hết hồn hết vía.
- Cuồng phong nổi lên, giật sút chốt cửa, thổi ào ào vào căn phòng rộng rinh làm đảo lộn đồ đạc trong nhà. Không còn hồn vía để sợ nữa. Mặt người nào cũng tái xanh tái xám.
- Một khối lửa to như cái thúng, quay quay như cối xay bằng lửa. Lửa bay tung tóe, đáp xuống trên đầu người ta. Thế là ai nấy đều lột xác. Nhát sợ biến thành can đảm. Mừng quá thể. Cứ ôm lấy nhau mà nhảy múa. Hứng quá chừng. Mọi người ào ào xuống sân, mở tung cổng để ra phố, chạy vù vù lên đền thờ, thi nhau kể chuyện Đức Giêsu Phục sinh. Kể cho dân ngoài phố nghe. Kể cho ông Thượng tế nghe. Kể như điên như khùng. Ba ngàn người nghe cứ thấy nhói trong tim. Ba ngàn người ấy tin vào Đức Giêsu.
Thế là Giáo hội chính thức ra mắt với thế giới. Từ ba ngàn người mà lớn lên thành năm ngàn người. Cứ thế mà lớn lên mãi, bất chấp tù đày, bất chấp chết chóc.
Người ta bảo rằng ngày hôm ấy là ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống. Chúa Thánh Thần là sức mạnh bất khuất, là niềm an ủi vỗ về, là sự khôn ngoan tuyệt đối, là hạnh phúc vô cùng cho muôn người và muôn đời.
Mẹ kính mến. Mẹ có mặt bên các Tông đồ suốt mười ngày cầu nguyện và chờ mong Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Mẹ và trên các Tông đồ. Sau đó các Tông đồ lên đường loan báo Tin Mừng. Thánh Kinh chẳng nói gì về Mẹ nữa. Nhưng chắc chắn là Mẹ cũng lên đường truyền giáo, vì đó là lời trăng trối của Chúa trước khi về trời. Xin Mẹ cũng dìu dắt chúng con lên đường truyền giáo như Giáo hội hôm ấy, với bầu nhiệt huyết như thế.
Lm. Piô Ngô Phúc Hậu