NHƯ MỘT LỜI MỜI:
- Kính mời quý vị vào trang web www.tinvui.org hoặc www.tinvui.info để đọc các bài viết khác
- Mọi thư từ cộng tác góp ý và giúp đỡ xin quý vị gửi về địa chỉ E-mail :bantreconggiao@yahoo.com
- Ban biên tập Tin vui rất mong nhận được sự đón nhận của quý vị độc gỉa gần xa
- Xin Thiên Chúa ban muôn ơn lành và đồng hành với quý vị trong hành trình đời sống Kitô hữu
TOC \o "1-3" \h \z \u SỐNG LỜI CHÚA
Đức Thánh Cha đề cao vai trò của giáo dân
Thực tại cuộc sống thánh hiến tại Italia
Đức Thánh Cha tiếp kiến Hội nghị quốc tế về mục vụ bệnh nhân nhi đồng
Các giám mục Hoa kỳ tuyên bố về cuộc khủng hoảng kinh tế
Bão lửa Nam California tuần qua: mọi thứ biến thành tro, trừ tượng Đức Mẹ Ban Ơn vẫn còn nguyên đó
Giám Mục Hoa Kỳ quan ngại đến chính sách phá thai của Tổng Thống tân cử Obama
Thánh lễ phong chức Linh mục và Phó tế tại Dòng Tên Việt Nam
Ngày Yao Phu tại Plei Rơhai giáo phận Kontum
Thư Đức Giám mục Kontum nhân Ngày Nhà Giáo Việt Nam
Cộng đoàn Mến Thánh Giá Vinh mừng Hồng Ân Thánh Hiến
Nhóm Ve Chai Nhân Ái Hải Phòng cầu nguyện cho những người HIV- AIDS đã qua đời
Vai trò giáo dục của bà mẹ dòng ba Phanxicô Huế được đề cao trong thánh lễ
Bán hoa gây quỹ - một việc làm độc đáo của sinh viên Công giáo Vinh tại Đà Nẵng
Đan Viện XiTô Thánh Mẫu Tâm Mỹ Ca Kỷ Niệm 3 năm Cung Hiến Nguyện Đường Kính Trái Tim Đức Mẹ
Lễ khánh thành và cung hiến thánh đường giáo xứ Tân Phú Hòa
BẾN ĐÁ - BẾN ĐỖ CỦA TÌNH THƯƠNG
Những danh xưng và các xưng hô gây hại
Học sinh « khó» , Thầy cô gặp « khó khăn »
TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH
"Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người, và sẽ phân chia họ ra".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái.
"Bấy giờ Vua sẽ phán với những người bên hữu rằng: 'Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta'.
"Khi ấy người lành đáp lại rằng: 'Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng Chúa đâu?' Vua đáp lại: 'Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta'.
"Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng: 'Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!'
"Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng: 'Lạy Chúa có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?' Khi ấy Người đáp lại: "Ta bảo thật cho các ngươi biết: những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta'. Những kẻ ấy sẽ phải tống vào chốn cực hình muôn thuở, còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu".
Đó là lời Chúa.
Trên thế giới ngày nay, chỉ còn một số nước có vua, nhưng vua thực ra chỉ để cho có vị và hình thức, chứ thực quyền nằm ở tay tổng thống hoặc thủ tướng mà thôi. Do đó, danh từ vua thực sự không gây được ấn tượng cho chúng ta được bao nhiêu. Bởi vì xưa thời phong kiến đã có những vị vua tàn bạo, làm khổ dân lành. Chính vì thế, lễ Chúa Giêsu Vua thoạt nghĩ, xem ra khó gây cảm hứng và ấn tượng khi chúng ta nghĩ tới những vị vua chúa đã có một thời làm mưa làm gió trên nhiều đất nước. Tuy nhiên, Chúa Giêsu Vua lại hoàn toàn khác, bởi vì Vương Quyền của Ngài không thuộc trần gian này. Chúa là Vua vì Ngài là Thiên Chúa và Ngài là Tình yêu.
CHÚA GIÊSU LÀ VUA, VÌ NGÀI LÀ THIÊN CHÚA :
Chúng ta vẫn còn nhớ rất kỹ trong vụ án của Chúa Giêsu. Philatô sau khi trao đổi với người Do Thái ngoài phủ đường. Ông vào trong và cho truyền điệu Đức Giêsu Kitô đến. Ông hỏi Chúa Giêsu :” Ông mà lại là Vua dân Do Thái ? “. Câu hỏi này của Philatô minh chứng Ông đã biết trước điều mà người Do Thái cáo tội Chúa Giêsu. Đối với Philatô cũng như trong bản cáo trạng của người Do Thái đã tố Chúa Giêsu, thì tước hiệu “ Vua Do Thái “ mang ý nghĩa chính trị. Đáp lại lời của Philatô, Chúa Giêsu đặt câu hỏi :” Tự mình ông, ông nói thế, hay có ai khác đã nói với ông về Tôi ? “. Chúa Giêsu muốn phân biệt từ Vua về tôn giáo và từ Vua có nghĩa chính trị. Nếu Philatô hiểu theo nghĩa chính trị, Chúa Giêsu sẽ phủ nhận, còn nếu Philatô hiểu theo nghĩa tôn giáo, tức là Vua Mêsia của dân Do Thái, thì Ngài sẽ nhận. Chúa Giêsu nói rõ cho Philatô biết Ngài có một Nước, nhưng nước Ngài không thuộc thế gian này.Nước của Chúa Giêsu không mang sắc thái chính trị như Philatô và người Do Thái nghĩ.” Nếu Nước Tôi thuộc về thế gian này, thì bộ hạ của Tôi đã cố chiến đấu không để Tôi bị nộp cho người Do Thái “. Philatô hỏi tiếp:”Vậy thì ông là Vua sao ? “. “ Ông nói đó : Tôi là Vua !”. Đây là lời khẳng định hết sức long trọng và quan trong của Chúa Giêsu vì Ngài xác nhận :” Tôi là Vua “.Chúa Giêsu cứ từ từ giải thích cho Philatô ý nghĩa Vương quyền của Ngài :” Chính vì lẽ này mà Tôi đã sinh ra, và chính vì lẽ này mà Tôi đã đến trong thế gian : Ấy là để làm chứng cho sự thật. Phàm ai thuộc về sự thật, thì nghe được tiếng Tôi “( Ga 18,37 ). Đức Giêsu là Thiên Chúa bởi vì chính Thiên Chúa đã sai Ngài đến thế gian:” Quả vì Thiên Chúa đã yêu mến thế gian như thế ( đó ) đến nỗi đã thí ban Người Con Một, ngõ hầu phàm ai tin vào Ngài thì khỏi phải hư đi, nhưng được có sự sống đời đời” ( Ga 3, 16 ). Đức Giêsu là Thiên Chúa độc nhất, vô cùng thánh thiện, vô cùng công minh, Ngài luôn chạnh thương và giầu lòng thương xót.
CHÚA GIÊSU LÀ VUA, VÌ NGÀI LÀ THIÊN CHÚA TÌNH YÊU :
Thánh Gioan đã nói “ Thiên Chúa là Tình Yêu “. Chúa Giêsu là Vua, nhưng là Vua khiêm nhượng, hiền từ, Ngài ngồi trên lưng lừa để vào Giêrusalem. Ngài tạo lập một Vương Quốc toàn Kitô hữu sống tình yêu. Ngài là Vua Tình Yêu, Vua phục vụ, không ai trên thế gian này yêu thương như Ngài. Bởi vì yêu thương nhân loại tội lỗi, Đức Giêsu đã gánh hết tội cho thế gian, chết cho thế gian để nhân loại được giải thoát, được ơn cứu độ :” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu” (Ga 15, 13 ). Chúa Giêsu yêu thương như người cha đón nhận người con hoang đàng, phung phá trở về ( Lc 15, 11-13 ). Chúa hy sinh cho đàn chiên, bảo vệ đàn chiên ( Ga 10, 11 ). Ngài đến cho chiên được sống và sống dồi dào ( Ga 10, 10 ). Ngài yêu thương tha thứ cả người tội lỗi bị con người kết án tử hình ( Ga 8, 1-11 ).Chúa Giêsu yêu thương cả kẻ thù ( Mt 5, 43-48 ). Chúa Giêsu quảng đại tha thứ và tha thứ không giới hạn, tha thứ không ngừng. “ Tôi đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ mọi người “ ( Mc 10, 42-45 ). Chúa Giêsu là Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa duy nhất như trong mười giới răn, Ngài dạy nhân loại :” Thờ phượng một Thiên Chúa và kính mến Người trên hết mọi sự “ ( Giới luật thứ I ). Tuy là Thiên Chúa tối cao, nhưng Ngài đã hủy mình ra không, nhận kiếp người phàm, ngọai trừ tội lỗi ( Philip 2, 6-8 ). Chúa Giêsu chính là Tình Yêu vì Ngài luôn vâng lời Thiên Chúa Cha, tự nguyện phục vụ nhân loại, rửa chân cho các môn đệ. Chúa là Tình Yêu nhưng Ngài luôn muốn mọi người đáp trả lại Tình Yêu của Ngài.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ :
Vương Quốc của Chúa Giêsu là Vương Quốc của sự thật, công lý. Do đó, mỗi Kitô hữu được mời gọi để trở nên một bí tích tình yêu cho Vương Quốc của Chúa Giêsu, trở nên một dấu chỉ cho thế giới về những gì mà Vương Quốc sự thật của Thiên Chúa làm trong trần gian này.Vương Quốc của Chúa Giêsu thuộc về mỗi Kitô hữu, và chính Vương Quốc của Chúa Giêsu sẽ mang lại cho con người, cho mỗi Kitô hữu, cho Giáo Hội sự sống mới, sự sống hoàn hảo khi Chúa Kitô đến lần sau hết trong vinh quang của Ngài. Do đó, Chúa nhật Chúa Kitô Vua mời gọi mọi Kitô hữu, mời gọi Hội Thánh trung thành với Đức Kitô.
Lạy Chúa Kitô Vua, xin cho chúng con được trung thành với Ngài.
Xin cho chúng con nhận biết Vương Quốc của Ngài là Vương Quốc Tình Yêu, Sự Thật và Ân Sủng.
Xin cho chúng con càng lúc càng nhận ra Vương Quốc của Ngài là Vương Quốc của Sự Thánh Thiện và Vương Quốc của Sự Sống, Vương Quốc của Bình An, Công Bình và Chân Lý. Amen.
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT
Loại người được trân trọng bậc nhất bây giờ là loại người “sống cho kẻ khác”.
Tất nhiên, để “sống cho kẻ khác” đáng được mến yêu thực sự, chúng ta quy chiếu vào mẫu gương Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã sống cho kẻ khác thế nào, thì những ai tin theo Người cũng sẽ sống như vậy.
Suy gẫm của tôi sẽ vắn tắt. Chỉ nêu lên vài gợi ý quan trọng.
1/ Những hình ảnh về sống cho kẻ khác
Sống cho kẻ khác là một lý tưởng. Lý tưởng này được thể hiện qua nếp sống. Nếp sống ấy là những liên đới với người khác. Những liên đới ấy là cho đi, là phục vụ.
Nơi Đức Kitô, phục vụ yêu thương, được diễn tả qua mấy hình ảnh dễ hiểu này :
a/ Con chiên hiền lành trên bàn sát tế.
Tiên tri Isaia, ngày xa xưa, đã nói về Chúa Giêsu như một con chiên chịu khổ đau, để đền tội cho nhân loại.(x.Is 53,7).
Lời tiên tri đó đã được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đúng là con chiên bị sát tế, và còn hơn là con chiên được hiến tế. Vì Người tự hiến tế với tất cả ý thức và tự do của mình. Người biết Người chịu khổ hình để cứu chính những kẻ làm hại Người. Hy sinh đến cùng do yêu thương vô cùng.
Sống cho kẻ khác là như thế đó.
b/ Hạt lúa mì gieo vào lòng đất và để mình thối đi.
Chính Chúa Giêsu đã tự ví mình như hạt lúa mì rơi vào lòng đất và bị thối đi, để sinh ra nhiều hạt khác.(x Ga, 12,24). Chúa cắt nghĩa ngay liền đó. Bị thối đi là hy sinh mạng sống mình. Hy sinh mạng sống chính mình, để kẻ khác được sự sống đời đời. Hy sinh hết mình vì yêu thương đến cùng. (x.Ga 12, 25).
Sống cho kẻ khác là như thế đó.
c/ Tấm bánh nuôi người khác.
Chúa Giêsu ví mình như tấm bánh, tấm bánh trường sinh.(x Ga 6, 35). Tấm bánh này là của ăn ban tặng. Tấm bánh ban tặng này là chính bản thân Đức Kitô suốt đời sống theo thánh ý Chúa Cha. Sống theo ý Chúa Cha là một phấn đấu đòi nhiều hy sinh. Hy sinh vì mến Chúa Cha trọn vẹn và yêu nhân loại tuyệt đối.
Sống cho kẻ khác là như thế đó.
2/ Kinh nghiệm về cuộc sống cho kẻ khác
Sống cho kẻ khác theo ba hình ảnh nêu trên là một hướng đi cho đời sống của người môn đệ Đức Kitô.
Khi đã sống theo ý hướng đó, họ sẽ có một số kinh nghiệm nội tâm. Dưới đây chỉ là vài kinh nghiệm quen thuộc.
a/ Có một cái gì phải từ bỏ trong họ.
Điều họ phải từ bỏ hơn cả lá cái tôi. Lời Chúa rất rõ ràng dứt khoát : “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” ( Lc 9, 23). Từ bỏ mình nhất là bằng sám hối và chu toàn bổn phận.
Từ bỏ mình là điều phải rất tỉnh thức và khiêm nhường. Nếu không thì “sống cho kẻ khác” sẽ dễ trở thành một môi trường đạo đức giả, để cái tôi ngấm ngầm hoạt động và phát triển trong đó.
Thánh nữ Têrêsa thành Lisieux đưa ra một hình ảnh dễ hiểu. Ngài biết, trước mặt Chúa, có những bàn ăn dành riêng cho những kẻ tội lỗi. Thánh nữ xin được ngồi chung với họ, để đồng cảm những khổ đau, tăm tốí, cô đơn dành cho họ. Ngài từ bỏ niềm vui được ngồi chung bàn với những người đạo đức. Từ bỏ đó là vì hy sinh để cầu cho người tội lỗi.
b/ Có một cái gì mới được sinh vào lòng họ.
Họ khám phá ra những bước đi mới của Chúa. Chúa đến với họ từ những cái như nghịch với Chúa.
Từ nơi tội lỗi, họ gặp Chúa xót thương đến.
Từ cõi thất vọng, họ gặp Chúa hy vọng đến.
Từ chốn khổ đau, họ gặp Chúa vinh quang đến.
Từ cảnh thất bại, họ gặp Chúa thành công đến.
Từ vùng nô lệ, họ gặp Chúa tự do đến.
Từ đời bất ổn, họ gặp Chúa bình an đến.
Thực sự, khi người môn đệ Đức Kitô sống cho kẻ khác theo gương Đức Kitô, thì Đức Kitô sẽ dẫn họ vào một thế giới chỗ nào cũng có bóng tối. Họ sẽ cứu người khác bằng cách đi cùng với Đức Kitô và những bóng tối đó để dẫn họ về với Chúa Cha. Hành trình đó là hành trình phục sinh. Nghĩa là sống lại từ cõi chết, từ đau khổ. Hành trình phục sinh đó là từ những thực tại xung quanh họ.
c/ Có một cái gì phải đi xa hơn các liên đới người với người.
Cái gì phải đi xa hơn, đó là ơn Chúa. Chúa Giêus quả quyết : “Không có Thầy, chúng con chẳng làm gì được” (Ga 15, 5). Lời đó được ứng nghiệm nơi những ai theo gương Đức Kitô sống cho kẻ khác.
Họ sẽ khám phá ra dần dần sự thực này : Mỗi khi họ yêu thương phục vụ đến hy sinh cho người khác, thì chính trong việc đó, họ cảm thấy có Chúa bên họ, có Chúa hành động với họ. Họ sẽ cảm thấy có một sự hiện diện nhiệm mầu trong họ. Họ sống cho kẻ khác. Kẻ khác là người khác, kẻ khác cũng là chính Chúa. Sự cảm nghiệm đó giúp họ có một cuộc sống như mọi người, nhưng cũng khác mọi ngươì.
Đến đây tôi nghĩ đã kể lại đôi chút về những gì Chúa đã làm nơi những người sống cho kẻ khác theo gương Đức Kitô.
Họ đúng là những chứng nhân của Tin Mừng.
Họ đang được Chúa dùng để mở Nước Chúa tại quê hương Việt Nam hôm nay.
Xin hết lòng cảm tạ Chúa giàu lòng thương xót.
ĐGM GB. Bùi Tuần
VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 đề cao vai trò của giáo dân trong Giáo Hội và kêu gọi tăng cường huấn luyện cho giáo dân, nhất là người trẻ.
Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiếp sáng ngày 15-11-2008, dành cho 60 tham dự viên gồm các HY, GM, LM và 35 giáo dân tại Đại hội toàn thể của Hội đồng Tòa Thánh về giáo dân, nhóm tại Roma từ 13 đến 15-11-2008 về về chủ đề ”Tông huấn 'Người tín hữu giáo dân': ký ức, phát triển, các thách đố mới và nghĩa vụ”. Văn kiện này do Đức Gioan Phaolô 2 ban hành cách đây 20 năm, đúc kết thành quả Thượng HĐGM thế giới kỳ 7 năm 1987.
ĐTC nhắc đến bao nhiêu giáo dân đang dấn thân làm môn đệ và chứng nhân của Chúa trong những hoàn cảnh rất khác nhau và ngài khẳng định rằng: ”Hoàn cảnh văn hóa và xã hội ngày nay càng làm cho hoạt động tông đồ ấy trở nên cấp thiết, để chia sẻ trọn vẹn kho tàng ân phúc và sự thánh thiện, bác ái, đạo lý, văn hóa và các hoạt động họp thành truyền thống Công Giáo. Các thế hệ trẻ, không những là đối tượng ưu tiên của sự thông truyền và chia sẻ như thế, nhưng họ còn là chủ thể đang chờ đợi những đề nghị về chân lý và hạnh phúc trong tâm hồn để có thể làm chứng tá theo tinh thần Kitô”.
Trong bối cảnh đó, ĐTC khích lệ Hội đồng Tòa Thánh về giáo dân tiếp tục việc tổ chức Ngày Quốc Tế giới trẻ và nỗ lực thăng tiến một nền giáo dục và mục vụ cho người trẻ tại khắp nơi.
Ngài nói thêm rằng: ”Tôi tái khẳng định nhu cầu và sự cấp thiết cần huấn luyện theo tinh thần Tin Mừng và tháp tùng mục vụ cho thế hệ mới các tín hữu Công Giáo dấn thân trong chính trị, để họ sống phù hợp với niềm tin tuyên xưng, đó đời sống luân lý nghiêm túc, có khả năng phán đoán về văn hóa, khả năng chuyên nghiệp và hăng say phục vụ để mưu công ích”.
ĐTC không quên đề cao sự đóng góp vô giá của phụ nữ vào sứ mạng của Giáo Hội và nói rằng không bao giờ người ta có thể nói lên cho đủ lòng biết ơn, sự quí chuộc và đề cao của Giáo Hội đối với sự tham gia của phụ nữ vào sứ mạng của Hội THánh trong việc truyền giảng Tin Mừng”.
Phỏng vấn Linh Mục Alberto Lorenzelli, Chủ tịch Hiệp hội các bề trên cấp cao dòng nam Italia, về thực tại cuộc sống thánh hiến tại Italia
Trong các ngày đầu tháng 11 vừa qua, 180 bề trên cấp cao các dòng nam toàn nước Italia đã nhóm đại hội thường niên lần thứ 48 tại Napoli, nam Italia. Thánh lễ khai mạc đại hội đã do Đức Hồng Y Franc Rodé, Tổng trưởng Bộ các Dòng tu và Tu Đoàn tông đồ chủ sự.
Đại hội về đề tài ”Sự phục vụ của quyền bính và đức vâng lời” đã kết thúc ngày 7-11-2008. Theo thống kê năm 2007 hiện nay Italia có tất cả 21.295 nam tu sĩ, trong đó có 18.526 vị sống tại Italia và 1.310 vị làm việc tại nước ngoài trong một cộng đoàn có liên hệ với tỉnh dòng Italia. Bên cạnh đó có 1.445 tu sĩ gốc Ý nhưng gia nhập các tỉnh dòng nước ngoài.
Vẫn theo thống kê của Hiệp hội các Bề trên cấp cao dòng nam Italia, giữa các năm 2003-2007 số ơn gọi tu sĩ giảm 12,8%; số các tập sinh giảm 31,6%: năm 2007 chỉ có 199 tập sinh; số sinh viên triết học và thần học giảm 29,6%: năm 2007 chỉ có 924 sinh viên. Tuy nhiên các sinh hoạt do các tu sĩ đảm trách vẫn sinh động. Các tu sĩ điều khiển 189 trường học với 50 ngàn học sinh, 99 trung tâm huấn nghệ, 122 trung tâm văn hóa, 53 nhà in, 58 học viện cho người tàn tật, 50 trung tâm trợ giúp các người nghiện ma túy và bệnh nhân Sida, 94 trung tâm cung cấp bữa ăn nóng cho người nghèo, 32 trung tâm tiếp đón người di cư. Số các giáo xứ do tu sĩ các dòng nam Italia điều khiển là 1.230 giáo xứ, cộng thêm 234 giáo xứ được giao đích danh cho một tu sĩ trông coi.
Phát biểu trong đại hội Linh Mục Sabatino Maiorano, Giám Tỉnh dòng Chúa Cứu Thế Italia, giáo sư Đại Học Alfonsianum, nêu bật sự vâng lời đối tác không xung khắc với các bề trên, và việc thi hành quyền bính như là công tác phục vụ.
Đó cũng là ý kiến của Linh Mục Josè Ornelas Carvalho, thuộc dòng Dehoniani. Cha ghi nhận rằng: ”Trong đời sống thánh hiến, việc thi hành quyền bính đã luôn luôn được quan niệm như là sự phục vụ. Tuy nhiên trong thực tế không phải lúc nào người ta cũng tránh được sự tiêm nhiễm của các mô thức văn hóa trái nghịch. Điều định đoạt đó là sống tương quan giữa quyền bính và đức vâng lời, không phải trong viễn tượng xung đột, nhưng trong sự đối tác, vì cuộc sống huynh đệ là sự lắng nghe biết ơn và tuân phục Chúa Thánh Thần, là Đấng triệu vời các tu sĩ bước theo Chúa Kitô để rao truyền Nước Chúa. Do đó cần phải đánh giá cao ”chiều kích liên hệ” để tái trao ban lòng hăng say và sự tin tưởng cho các tương quan, rất thường khi đã trở thành mỏng manh và đầy nghi ngờ. Một cách nòng cốt, việc phục vụ của quyền bính phải được nhận thức như là việc vâng theo chương trình của Thiên Chúa. Trong qúa khứ, năng động này được tóm gọn trong việc tôn trọng những gì được viết trong các điều luật. Ngày nay cần phát triển nó như là sự trung thành sáng tạo: vâng lời là tìm kiếm, là sẵn sàng nhổ lều đời mình để cắm ở các nơi khác, là liên lỉ xuất hành, trên bình diện cá nhân cũng như trên bình diện cộng đoàn.
Dĩ nhiên, ai thi hành việc phục vụ này không được lơ là các bổn phận của mình. Đặc biệt các Bề trên không được miễn trừ cho mình bổn phận phải lấy các quyết định mà các vị có nhiệm vụ phải làm, bởi vì nếu không tất cả mọi thành phần cộng đoàn phải đau khổ vì tình trạng vô trật tự xẩy ra. Vì thế đối tượng việc quản trị của các Bề trên phải là việc bảo đảm cho nhà Chúa lớn lên và phát triển theo ý Chúa muốn, và lo lắng cho từng thành viên trong gia đình của Chúa. Chúa đòi hỏi các bề trên phải quản trị các thiện ích của Chúa. Các bề trên không phải là chủ nhân của ai, và không được sử dụng các tài nguyên chung để phục vụ chính mình. Các vị không được bắt chước hàng lãnh đạo của của thế gian này, mà phải noi gương Chúa Giêsu, là Đấng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình. Sau cùng các Bề trên phải tạo ra bầu khí làm sao để mọi thành viên của gia đình dòng tu đều góp phần vào việc xây dựng cộng đoàn.
Sau đây chúng tôi xin gửi đến qúy vị và các bạn một số nhận định của Linh Mục Alberto Lorenzelli, Chủ tịch Hiệp hội các bề trên cấp cao dòng nam Italia, về thực tại cuộc sống thánh hiến tại Italia.
Hỏi: Thưa cha Lorenzelli, thống kể của Hiệp hội Bề trên cấp cao các dòng nam Italia cho thấy sự sút giảm nhân lực trong các dòng tu. Nhưng đọc các thống kê ấy trong cái nhìn bi quan có là điều sai lầm hay không thưa cha?
Đáp: Chúng ta phải biết nhìn tình hình vượt xa hơn các con số thống kê. Vì thế, cho dù con số có giảm sút và có hiện tượng nhân lực già nua, tôi có thể nói rằng các nam tu sĩ vẫn có sức lôi cuốn người trẻ và toàn dân Chúa. Khi nêu bật quyền tối thượng, chỗ đứng cao nhất của Thiên Chúa, cuộc sống nội tâm và nền tu đức, đặc biệt trong một thế giới duy vật như thế giới ngày nay, các tu sĩ là câu trả lời sống động cho việc kiếm tìm ý nghĩa cuộc sống của biết bao nhiêu người trẻ.
Hỏi: Tuy số nhân lực giảm sút, nhưng như cha vừa nói trên đây, các dòng nam Italia vẫn còn sức sinh động. Vậy thì đâu là dấu chỉ của sức sinh động này thưa cha?
Đáp: Một trong các nét sinh động đó là cuộc sống thánh hiến vẫn tiếp tục hấp dẫn người trẻ. Ba lời khấn khiết tịnh, vâng lời - là đề tài đại hội năm nay của chúng tôi - và khó nghèo là một dấu chỉ mạnh mẽ trong một bầu không khí văn hóa mệt mỏi vì kỹ thuật, vì trào lưu tục hóa và các ý thức hệ trống rỗng. Con người của ngàn năm thứ ba, một cách ít nhiều ý thức đều nuối tiếc sự siêu việt, và trong nhiều trường hợp họ thật sự ước mong sự siêu việt. Sự siêu việt mà các tu sĩ là dấu chỉ qua ba lời khấn của họ. Trong số các bằng chứng cho sức sinh động của đời thánh hiến, còn có sự hiệp thông nữa. Cả trong trường hợp này người sống đời thánh hiến cũng đi ngược dòng đối với thế giới ghi đậm dấu vết của khuynh hướng cá nhân chủ nghĩa, nhưng luôn luôn có nhiều người, đặc biệt là giới trẻ, tìm kiếm một cuộc sống của các liên hệ đích thật, dựa trên tình yêu thương và sự trợ giúp huynh đệ.
Hỏi: Nghĩa là tình hình đời thánh hiến tại Italia không đến nỗi báo động như một vài con số thống kê có thể khiến cho người ta tin như thế?
Đáp: Dĩ nhiên không phải chúng tôi thiếu niềm hy vọng đâu. Trái lại, trong các năm qua chúng tôi đã tìm cách phản ứng lại cuộc khủng hoảng ơn gọi tu sĩ và hiện tượng già nua - là hiện tượng không chỉ liên quan tới các dòng tu, nhưng liên quan tới toàn xã hội Italia - bằng hai nỗi đam mê: đam mê đối với Chúa Kitô và đam mê đối với nhân loại. Như vậy, một đàng chúng tôi củng cố việc thường huấn tinh thần và văn hóa, để giúp các tu sĩ biết đọc ra các dấu chỉ thời đại và đồng hành với toàn thể Giáo Hội, đàng khác chúng tôi phát huy sự hiện diện của các tu sĩ trên các vùng biên giới của công tác bác ái, để sống cạnh nhân loại khổ đau.
Ở đây tôi chỉ xin đơn cử hai thí dụ: với các nhà xuất bản của mình chúng tôi đã góp phần định đoạt vào tiến trình cập nhất hóa thời hậu công đồng. Mặt khác, với nhiều cơ cấu bác ái xã hội và an sinh mà các dòng tu thường thành lập rất sớm và đi tiên phong trước đà tiến triển của xã hội, chúng tôi trợ giúp các anh chị em cần được trợ giúp một cách hữu hiệu như: đi tiên phong trong việc tiếp đón và săn sóc các bệnh nhân liệt kháng, hay tiếp đón và trợ giúp các người di cư tị nạn.
Hỏi: Thưa cha, có người cho rằng trong qúa khứ đã có các va chạm giữa hoạt động của các giáo phận với hoạt động của các dòng tu. Cha nghĩ gì về vấn đề này?
Đáp: Chúng tôi không phải là một Giáo Hội song song và chúng tôi muốn góp phần vào việc truyền giáo mới bằng cách sát nhập vào hoạt động mục vụ của các Giáo Hội địa phương và cộng tác với các Giám Mục. Trong các năm qua đã có nhiều tiến triển trong chiều hướng này. Và tôi xác tín rằng có tất cả các tiền đề giúp cải tiến sự cộng tác này hơn nữa. Cả Hiệp hội các Bề trên cấp cao dòng nam, như là tổ chức phục vụ các Bề trên cấp cao, cũng di chuyển theo hướng này.
Hỏi: Thưa cha, trong các ngày đại hội đầu tháng 11 vừa qua, các Bề trên cấp cao có thảo luận về sự vâng lời hay không. Tại sao năm nay đại hội lại chọn đề tài vâng lời? Có phải vì lời khấn vâng lời ngày nay đang gặp khủng hoảng hay không?
Đáp: Không. Không có khủng hoảng về đức vâng lời và cũng không có khủng hoảng quyền bính trong các cộng đoàn dòng tu của chúng tôi. Nhưng tài liệu của Bộ Tu Sĩ được đại hội chọn làm đề tài, cho thấy đây là lúc thuận tiện để nhấn mạnh rằng sự vâng lời là một cử chỉ của lòng tin và quyền bính cũng được thi hành qua việc khuyến khích các tu sĩ lãnh lấy trách nhiệm của mình bằng cách tôn trọng chúng, bằng cách đương đầu với sự khác biệt trong tinh thần của sự hiệp thông, với ý thức công bằng và bằng cách duy trì thế quân bình giữa các chiều kích khác nhau của đời sống thánh hiến.
VATICAN. Sáng 15-11-2008, ĐTC Biển Đức 16 đã tiếp kiến hơn 600 tham dự viên Hội nghị quốc tế lần thứ 23 do Hội đồng Tòa Thánh mục vụ y tế tổ chức tại Vatican về việc ”mục vụ trong việc chăm sóc các bệnh nhân nhi đồng”.
Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nhắc đến sự kiện sự tiến bộ y khoa trong 50 năm gần đây đã giảm bớt rất nhiều số trẻ em chết yểu, nhưng vẫn còn rất nhiều điều phải làm. Chỉ cần nhớ rằng mỗi năm hiện có 4 triệu trẻ sơ sinh chết lúc chưa đầy 26 ngày sau khi chào đời.
ĐTC nhắc nhở rằng: ”ở trung tâm mọi hoạt động y tế phải luôn luôn có sự theo đuổi thiện ích chân thực của trẻ em, vốn được quí trọng trong phẩm giá của em như một con người có đầy đủ quyền lợi. Vì thế, bao giờ cũng phải chăm sóc các em bệnh nhân trong tình thương yêu, giúp em đương đầu với đau khổ và bệnh tật, kể cả trước khi sinh ra, trong mức độ thích hợp với hoàn cảnh của em”.
ĐTC cũng nhận xét rằng: ”Bệnh nhân, nhất là trẻ em, đặc biệt hiểu ngôn ngữ của sự dịu dàng và thương mến, được biểu lộ qua sự ân cần chăm sóc, kiên nhẫn và quảng đại, và nơi các tín hữu Kitô, thái độ này được thúc đẩy do ý muốn biểu lộ chính sự thương yêu ưu tiên mà Chúa Giêsu dành cho các trẻ em”.
ĐTC cho biết ngài đặc biệt nghĩ đến các trẻ em mồ côi hoặc bị bỏ rơi vì lầm than hoặc vì gia đình phân rẽ; các trẻ em nạn nhân vô tội của bệnh Aids hoặc của chiến tranh và bao nhiêu cuộc xung đột võ trang đang diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới; các trẻ em chết vì lầm than, nạn hạn hán và đói khổ. Giáo Hội không quên những người con bé bỏng này của mình, một đàng Giáo Hội ca ngợi các sáng kiến của các nước giàu có hơn trong việc cải tiến điều kiện phát triển các trẻ em, đàng khác, Giáo Hội mạnh mẽ ý thức nghĩa vụ mời gọi mọi người quan tâm hơn đến các trẻ em đau khổ, để nhờ tình liên đới chung, các em có thể nhìn cuộc sống với niềm tín thác và hy vọng”
Washington (ICN) - Trong cuộc họp vào mùa thu năm nay tại Baltimore, các giám mục Hoa kỳ đã đưa ra một bản tuyên bố nhắc nhở dân chúng rằng “chúng tôi là người chăm sóc anh chị em. Chúng ta tất cả đều đoàn kết với nhau.”
Đức Hồng y Francis E George, giáo phận Chicago, chủ tịch Hội đồng giám mục Hoa kỳ cho biết: “Những thời điểm khó khăn có thể cô lập chúng ta, hoặc có thể đem chúng ta xích lại gần nhau.”
Ngài nói: “Là mục tử và giám mục, chúng tôi nhận ra nhiều hệ lụy về nhân bản và luân lý cuộc khủng hoảng này gây ra. Mặc dầu hậu quả của cuộc khủng hoảng có thể lớn lao hơn ở một số vùng trong nước, nhưng các gia đình khắp nơi đang mất nhà cửa, công nhân mất công ăn việc làm và bảo hiểm sức khỏe, tiền tiết kiệm để hồi hưu bị đe dọa, và người ta đang mất đi cảm thức hy vọng và an toàn. Điều đó còn đang tiếp diễn.
“Nhưng giáo hội sẽ tiếp tục “vươn tay tới những ai túng quẫn, đứng bên những người đau khổ, và hoạt động cho những chính sách đem lại từ ái nhiều hơn, đem lại trách nhiệm và công bằng trong cuộc sống kinh tế.
Giám mục Leonard P. Blair, giáo phận Toledo, bang Ohio, người đề xướng bản tuyên bố, nói rằng nguyên nhân thúc đẩy các giám mục lên tiếng là do “mối quan tâm rất căn bản của chúng tôi trong cương vị người mục tử” mong muốn cho tình hình kinh tế đạt được sự hiểu biết, lòng nhân ái và một ý thức đồng cảm với người lân cận.”
Ngài nói: Những buổi quyên tiền tại các giáo xứ, lời kêu gọi đóng góp cho quỹ từ thiện của giáo phận hàng năm, hoạt động của Hội Thánh Vicentê Phaolô và các kho quyên góp thực phẩm tại địa phương, là những hình thức người ta đã hào hiệp yểm trợ để giúp đỡ người khác trong quá khứ, và đó cũng là điều các giám mục hy vọng khuyến khích khi đưa ra bản tuyên bố này.
Bản tuyên bố cho biết: Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI trong thông điệp Ngày Hòa bình Thế giới năm 2008 nói rằng các gia đình đều cần có “một mái nhà, có công ăn việc làm, có sự công nhận đứng đắn sinh hoạt trong nhà của cha mẹ, khả năng gửi con đến trường học và sự chăm sóc sức khỏe căn bản cho mọi người.” Đức giáo hoàng “cũng nhấn mạnh rằng xã hội và chính sách công cộng phải cam kết giúp đỡ các gia đình trong những lãnh vực đó.”
Để kết luận, các giám mục dâng lời cầu nguyện cho các gia đình và những cá nhân, “những người anh chị em của chúng tôi, đang bị thương tổn, lo âu hoặc thất vọng vào thời điểm khó khăn này. Chúng tôi cũng hứa dâng lời cầu nguyện cho đất nước đang mang thương tích và cho thế giới đang chịu khổ đau. Chúng tôi nguyện ước rằng, cùng nhau hoạt động, chúng ta có thể tìm ra lòng can đảm, sự khôn ngoan và đường lối để xây dựng một nền kinh tế phú cường và công bằng hơn cho mọi người.”
LOS ANGELES- Tuần vừa qua tại Miền Nam California trong trận gió lửa hung ác vào hai ngày cuối tuần đã làm bao nhiêu gia đình mất nhà cửa và hàng mấy chục ngàn người phải di tản lánh nạn.
Ba trận hỏa hoạn thảm khốc đã phá hủy gần 1,000 ngôi nhà và gian nhà, tiêu hủy hầu hết 42,000 mẫu rừng cây vì thời tiết nóng bức và gió nóng Santa Ana gây nên.
Ðám cháy bắt đầu từ vùng Montecito của hạt Santa Barbara, khoảng hơn 100 dặm phía Tây Bắc của Los Angeles. Trận hỏa hoạn nầy hủy hoại hết 210 ngôi nhà, đa số là những biệt thự có tầm nhìn bao quát vùng bờ biển Tây Thái Bình Dương.
Tiếp đến là trận hỏa hoạn tại Sylmar trong khu Oakridge Mobile Home Park. Có tới gần 500 căn nhà bị thiêu rụi ở khu gia cư chật chội đông người này. Gió hoang và lửa ngập trời thiêu rụi khu nầy với tốc độ nhanh khủng khiếp làm nhân viên cứu hỏa không kịp trở tay, phải bỏ hết ống nước lại mà chạy đi. Nhưng nhân viên cứu hỏa cũng cứu được khảng 120 căn nhà.
Sau đó lửa cũng phát hiện tại 4 quận: Orange, Riverside, San Bernardino và Los Angeles. Trong vùng này, gọn lửa đã thiêu rụi gần hết 29,000 mẫu đất rừng, tàn phá hơn 250 căn nhà và khu nhà ở. Tại Yorba Linda và hạt Orange, nơi có hơn 150 căn nhà bị cháy rụi.
Riêng tại Sylmar vào ngày thứ Ba hôm qua, 500 cư dân của khu Oakridge Mobile Home đã được phép trở về "nhà", nhưng họ khó có thể tìm được gì còn lại. Họ đã chứng kiến tận mắt sự tàn phá khủng khiếp trong khu chung cư nầy, sau khi nhà chức tránh đã quả quyết rằng không có ai bị thiệt mạng trong những đống tro tàn đen thui đã nguội đi. Bà Joan Costa cư dân ở đây đã nói lên cảm tưởng rằng: “Ðây là một thảm họa. Trông cứ như là ở Hiroshima.”
Tuy nhiên trong khu Oakridge Mobile Home Park có 500 căn nhà bị cháy rụi, không còn gì hết, trừ ra có tượng Đức Mẹ Maria Ban Ơn vẫn còn nguyên vẹn. Nhiều người coi đây như một phép lạ... vì tất cả mọi thứ đều đã biên thành than, ngay như những trụ sắt và xa ngang bằng các khối sắt to cũng đạ bị cháy mền ra hoặc quăn queo, hay như các khối xi măng cũng bị vỡ tan, thế mà chĩ duy có tượng Đức Mẹ là còn nguyên vẹn, vẫn đứng đó giang tay ban ơn và đón đoàn con trở về.
WASHINGTON Nhiều vị Giám Mục Hoa Kỳ đã ghi nhận đến tính cách lịch sử khi Tổng Thống tân cử Barack Obama là người Mỹ gốc Phi Châu đầu tiên đã thắng cử vào Nhà Trắng, có vị bày tỏ đó như là “một biến chuyển quan trọng và cảm động”, trong khi có vị bày tỏ đến niềm hy vọng mở ra “một kỷ nguyên cho sự hài hòa chủng tộc”
Thế nhưng, các vị giám mục cũng đưa ra lời cảnh cáo, báo hiệu rằng tân cử tổng
thống có thể đưa đến sự chia rẻ đối với dân tộc nếu ông ủng hộ luật pháp mà nó
có thể thay đổi luật lệ trên việc phá thai.
Qua những thông tư và những cột báo được phát hành trên các tờ báo tại các giáo
phận vào trung tuần tháng 11 vừa qua, nhiều vị giám chức đã lập về sứ điệp sau
cuộc bầu cử đã được ấn hành vào ngày 12/11 trong Hội Nghị Mùa Thu của Hội Đồng
Giám Mục Hoa Kỳ.
Trong sứ điệp đó, các giám mục đã nhấn mạnh sự quan ngại của các ngài đến con
đường khả thi về Sắc Luật Tự Do Chọn Lựa trong chính quyền Obama, và đã nói việc
thi hành luật của Sắc Luật này là “một luật gian ác nó sẽ chia rẽ quốc gia chúng
ta hơn nữa” và thêm rằng giáo hội “sẽ kiên quyến chống đối đến điều gian ác”
Qua những thông điệp riêng, các giám mục cũng nhấn mạnh một lần nữa mối quan
ngại đến chiều kích này.
Những bản thảo về Sắc Luật Tự Do Lựa Chọn đã được đệ trình trong Quốc Hội từ đầu
thập niên 90. Và bản sắc luật mới nhất được đưa ra và tháng 4/2007, qua đó sẽ
thiết lập một sự bảo vệ phá thai trên toàn liên bang, được coi như ra “quyền căn
bản” trong suốt thời gian 9 tháng mang thai, không đếm xỉa gì tới những luật lệ
giới hạn đến nó. Trong thông tư vào đầu tháng Giêng 2008, Obama đã nói rằng ông
sẽ ủng hộ đến việc ban hành sắc luật này.
Đức Tổng Giám Mục Edwin F. O'Brien tại Tổng Giáo Phận Baltimore đã nói việc ủng
hộ của Obama đến Sắc Luật Tự Do Lựa Chọn là “một quan ngại đặc thù đối với Công
Giáo và đối với những người kiếm tìm cổ võ đến một văn hóa sự sống”. Trong cột
báo của tờ “The Catholic Review” là tờ báo của Tổng Giáo Phận Baltimore, Đức
Tổng đã nói thật là một sự quan trọng nguy cập đối gióng lên tiếng nói “quan tâm
nghiêm trọng của họ’ để tuyển chọn những viên chức “không nhượng bộ cho thi hành
luật” này.
Giám Mục Paul S. Coakey tại Salina, Kan., nói ngài hy vọng tổng thống tân cử “sẽ
nhận thức đến việc ban hành luật tồi tệ này, sẽ lập tức làm cho hàng triệu người
Mỹ tránh xa là những người cam kết với lòng trắc ẩn để bảo vệ mạng sống con
người từ lúc thụ thai cho đến lúc chết tự nhiên”
Đức Giám Mục Coakley đã nói thêm trong bản thông tư trong tờ báo của Giáo Phận Salina, tờ “The Register” rằng “ký những luật như thế sẽ làm hại đến lời hứa (của Obama) và khả năng thống nhất đất nước đã bị chia rẽ của chúng ta”.
Cũng tương tự như thế, Đức Tổng Giám Mục Alfred C. Hughes tại New Orleans đã chỉ
trích vào ngày 15/11 đến lời húa của Obama sẽ ký bản Sắc Luật Tự Do Lựa Chọn.
Đức Tổng nói việc cho thi hành luật sẽ đe dọa đến phẩm giá của “những anh chị em
chưa được sinh ra của chúng ta”.
Đức Tổng cũng hy vọng tổng thống tân cữ sẽ “nhìn thấy sự khôn ngoan thống nhất
đất nước trong việc ủng hộ đến sự sống trong mọi giai đoạn và kể cả những thai
nhi chưa được sinh ra trong số những người mà quốc gia chúng ta tôn trọng và bảo
vệ”.
Ít nhất đã có 2 bị giám mục Hoa Kỳ đã suy tư đến việc người Công Giáo đã đi bầu
thế nào trong cuộc bầu cử tổng thống. Đức Giám Mục Samnuel J. Aquila tại Fargo,
N.D., đã ghi nhận trong suốt cuộc tranh cử tổng thống, Ngài đã “ngạn nhiên và lo
buồn vì đã có ít người Công Giáo biết đến và chấp nhận huấn giáo của Giáo Hội
đến vấn đề phá thai”.
Đức Cha đã nhận nhiều thư từ của những người Công Giáo đã than phiền là ngài “đã
nói chưa đủ mạnh” để chống lại lập trường phá thai của ứng viên tổng thống,
trong khi những người khác thì tự cho mình là “Công Giáo và phò - chọn lựa “ mà
các giám mục đã bày tỏ coi như là họ “không xứng đáng”.
Trong cột báo của tờ báo Giáo Phận Fargo, tờ New Earth, Giám Mục Aquila nói thật
là một “sự hiểu lầm nơi một số người Công Giáo cho rằng phá thai chỉ là một vấn
đề trong số nhiều vấn đề khác”.
Ngài nói tín hữu Công Giáo nên quan tâm đến nền kinh tế, sự nhập cư, cuộc chiến
tại Iraq và chăm sóc sức khỏe, thế nhưng phải ghi nhận rằng “quyền sống, từ lục
thụ thai đến lúc chết tự nhiên phải là ưu tiên trong số những quyền lợi khác”.
Đức Giám Mục Nicholas Dimarzio tại Brookln, N.Y. đã đưa vấn đề khi so sánh “lá
phiếu người Công Giáo”, ngài ghi nhận đến những kiểu mẫu chọn lựa giữa những
người Công Giáo đi lễ đều đặn và toàn dân số Công Giáo. Đức Cha cho biết 58%
người Công Giáo đã bầu cho Obama, thế nhưng 49% những người Công Giáo đi lễ hàng
tuần đã bầu cho Obama.
Trong tờ báo “The Tablet” của Giáo Phận Brooklyn, Đức Cha đã nhấn mạnh đến mặc
dầu các Giám Mục và các Linh Mục có thế giúp đỡ về nố lương tâm, các ngài không
thể đưa ra lập tường ủng hộ các ứng cử viên hay là “nói cho họ người nào sẽ phải
nên bầu, mặc dầu chúng tôi có thể vạch ra những vấn đề luân lý và lập trường của
các ứng cử viên”.
Khi suy tư đến tính cách lịch sử trong cuộc tuyển cử năm 2008, nhiều vị giám mục
nói các ngài hy vọng một vị người Mỹ gốc Phi Châu đầu tiên được làm tổng thống
sẽ hàn gắn những chia rẽ chủng tộc trong đất nước.
Đức Giám Mục Dimarzio nói cuộc tổng tuyển cử có thể là một tín hiệu mà chúng ta
“đang vượt qua sự gian ác của việc kỳ thị chủng tộc và Giám Mục W. Francis
Malooly tại Wilmington, Del., đã nói trong thông từ ngày 13/11 là ngài hy vọng
triều tổng thống của Obama sẽ “giúp khởi xướng lên một tiến trình hòa giải chủng
tộc sâu xa chưa từng xảy ra trong đất nước chúng ta, lịch sử đã làm kinh hãi vì
tình trạng nô lệ, sự phân ly và kỳ thị chủng tộc.
Giám Mục Coakly nói sự tuyển chọn Obama đã chạm phải một dây cung trong lương
tâm của dân tộc chúng ta một cách sâu xa”. Trong thông tư, Đức Cha cũng đã ghi
nhận đến những người đã bầu cho Obama không biết họ có nghĩ rằng “ông ta rồi sẽ
trở thành tổng thống chúng ta”.
“Chúng ta hàm ơn đến ông ta qua lòng kính trọng, sự ủng hộ và lời cầu nguyện của
chúng ta” vì những công việc trước mắt thật kinh khủng.
Các vị giám mục khác cũng nói lên điều tương tư đến những thách đố cực độ mà
tổng thống phải đối diện và cần đến sự hổ trợ và lời cầu nguyện đi đôi với tinh
thần hợp tác làm việc.
Đức Tổng Giám Mục Thomas J. Rodi tại Mobile, Ala., nói tân thổng thống “sẽ thừa
kế những thử thách gay go” như sự đe dọa của chiến tranh, sự tăng nhanh đến vũ
khí hạt nhân có thể xảy ra, nạn đói, đau yếu, nghèo túng và những khó khăn kinh
tế.
“Giải quyết những thử thách này không phải dễ dàng, chúng ta cần cầu ngưyện cho
tổng thống chúng ta”.
Viết trong tờ báo “The Catholic Week” của Tổng Giáo Phận vào ngày 21/11, Tổng
Giám Mục Rodi thêm rằng “phúc lợi tương lai của đất nước chúng ta kêu gọi chúng
ta hãy cùng nhau làm việc”. Đức Tổng cũng tin rằng đất nước sẽ đoàn kết hơn dưới
sự lãnh đạo của Obama không phải chỉ chủ yếu nhắm vào các vấn đề kinh tế.
“Trái lại nếu ông ta đeo đuổi một chương trình nghị sự nhằm hại đến truyền thống
hôn nhân và tôn trọng sự sống, như nhiều người ủng hộ ông đã mạnh mẽ mong muốn,
ông ta sẽ làm cho hành triệu người Mỹ tránh xa khỏi chính quyền ông và làm trầm
trọng hơn sự chia rẽ trong đất nước”.
Thủ Đức (14/11/2008) – Tại giáo xứ Hiển Linh, Đức Cha Cosma Hoàng Văn Đạt, S.J đã dâng Thánh Lễ Tạ Ơn nhân dịp về thăm lại Nhà Dòng sau khi được Đức Thánh Cha bổ nhiệm làm giám mục Giáo Phận Bắc Ninh. Đức Cha Cosma là linh mục Dòng Tên Việt Nam đầu tiên được Tỏa Thánh bổ nhiệm làm giám mục. Đặc biệt, trong Thánh Lễ Tạ Ơn này còn có sự hiện diện của Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh, Phó chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Giám mục Giáo Phận Thanh Hóa và Giám quản Giáo Phận Phát Diệm, quý cha Giáo Phận Bắc Ninh, quý bề trên, quý cha, quý tu sĩ nam nữ, quý thân hữu của anh em Dòng Tên.
Nhân dịp này, Đức Cha Cosma cũng trao thừa tác vụ linh mục cho hai thầy Phó tế Anrê Phạm Hòa Lạc, S.J. và Đaminh Phạm Minh Thắng, S.J. cùng tác vụ Phó tế cho thầy Phêrô Đỗ Quang Dũng, S.J.
Trong tâm tình ngỏ với các tân chức, Đức Cha Cosma đã nhắn nhủ các tân chức về tinh thần phục vụ trong khiêm hạ với việc Ngài dùng hình ảnh con lừa Đức Giêsu cưỡi vào thành Giêrusalem để nhấn mạnh rằng các tân chức hôm nay cũng chính là những con lừa cho Đức Kitô.
Cuối Thánh Lễ, cha Tôma Vũ Quang Trung, S.J. Bề trên Giám tỉnh thay mặt anh em Dòng Tên nói lên lời tri ân chân thành đến Đức Cha Cosma, Đức Cha Giuse, quý cha, quý bề trên, quý tu sĩ nam nữ, quý ân nhân, quý thân nhân gia đình các tân chức và cộng đoàn Dân Chúa.
Sau đó, cha Đaminh Nguyễn Văn Kinh đại diện Giáo Phận Bắc Ninh nói lên tâm tình tạ ơn Thiên Chúa và tri ân Cha Giám Tỉnh và anh em Dòng Tên Việt Nam vì đã “tặng” cho Giáo Phận Bắc Ninh một người con ưu tú là Đức Cha Cosma.
Trong lời đáp từ, Đức Cha Cosma Hoàng Văn Đạt, S.J. ngỏ lời cám ơn Đức Cha Giuse, quý bề trên, quý cha, quý tu sĩ nam nữ, quý thân hữu và đặc biệt là anh em Dòng Tên đã đón tiếp trong tinh thần huynh đệ yêu thương.
KONTUM - Ngày thứ I (12.11.2008): Vào những ngày trung tuần tháng 11 khí trời Cao Nguyên, cách riêng vùng Tây Nguyên Gialai – Kontum được coi là thời điểm đẹp nhất: cái lạnh đầu Đông nhẹ nhàng đến, bầu trời thanh thoát như ôm trọn lấy bao tâm tình muốn được sớt chia, cây cối nhẹ rung như mời goị và báo hiệu cho mọi người hãy chuẩn bị đón lấy sức sống mới. Đây cũng là những ngày tuyệt đẹp của Giáo Phận Kontum, những ngày Kết Thúc Năm Thánh Yao Phu với những niềm vui, rạo rực cho hành trình truyền giáo trong những tháng ngày tiếp nối.
Dù không dõi theo từng bước trong Năm Thánh, nhưng ai đến với Giáo Phận trong những ngày này, hẳn cũng cảm nghiệm phần nào niềm vui của toàn Giáo Phận: những chú Yao Phu từ khắp nơi đổ về, các Linh mục, Tu sĩ chạy đây, chạy kia. Ngay từ sáng sớm ngày 12.11, khi mặt trời vừa ló rạng, hằng ngàn Yao Phu lần lượt tuôn về nhà thờ Plei Rơhai, Kontum, điểm đến đầu tiên trong những ngày Kỷ Niệm đáng nhớ này. Sau khi đến đây, các chú Yao phu làm thủ tục nhận thẻ, học nội quy cho ngày sinh hoạt. Đến trưa, theo ban tổ chức cho biết con số các chú Yao Phu đã về dự là 1.471 người. Cùng đi với các chú Yao Phu là sự đồng hành của những người thân, tính ra phải đến hơn 2.000 người có mặt tại nhà thờ Plei Rơhai.
Chiều ngày 12.11, các chú Yao phu lần lượt lên chia sẻ cho đồng đạo về những chứng từ Chúa đã làm cho mình tại những nơi mình sống. Họ đã chia sẻ, chứ không phải giảng cho nhau. Họ nói lên nỗi lòng của mình khi được gặp Chúa qua những sự kiện, những biến cố tại các thôn làng của mình. Cái tựu trung ở đây, họ cùng gặp nhau ở một điểm là Chúa đã làm nơi họ bao điều kỳ diệu, cái thần chung chung trong không gian văn hoá của họ nay là Thiên Chúa độc nhất vô nhị, một Thiên Chúa nghiêm minh nhưng rất nhân từ; Và họ nhận ra Vị Thiên Chúa này là có thật, Vị Thiên Chúa làm chủ đời họ, làm chủ lịch sử. Qua những chia sẻ, ai nấy cảm thấy như gần nhau hơn trong việc sống niềm tin nhiều thách thức, nhưng là một kinh nghiệm gặp gỡ nhau, gặp gỡ Chúa để tiếp sức cho sức sống mới, hành trình niềm tin nối tiếp niềm tin.
Tối ngày 12.11, các Chú Yao Phu mỗi vùng, từ Krông Pa điểm cuối của tỉnh Gialai đến Đăk Glei, huyện đầu của tỉnh Kontum, cách xa nhau hàng trăm km lên trình bày văn hoá cồng chiêng của mình cho anh chị em đồng đạo, người xem có thể nhìn thấy nơi đây một không gian văn hoá đa dạng, nhưng hài hoà trong cách diễn đạt niềm tin của mình vào một Thiên Chúa duy nhất. Mỗi sắc dân: Bahnar hay Jarai, Sêđang hay Rơngao, Jé hay Stiêng… đều có những âm trầm, âm bổng khác nhau, khi nghe, nếu không phân biệt tưởng chừng chỉ là một loại ching chiêng, nhưng biết nhận thức về âm nhạc Tây Nguyên, người xem đọc được nơi đó hồn thiêng văn hoá cồng chiêng đậm nét bản sắc này đa dạng và phong phú. Cái hồn thiêng văn hoá đa dạng phi vật thể của vùng rừng núi Tây Nguyên giờ đây như đã được thanh tẩy và hoà tan, hoà nhập tinh thần kitô giáo; cái hoang sơ nhưng đầy nét nhân ái trong cung cách làm người, làm con Chúa thể hiện trong từng tiếng cồng, tiếng chiêng… Đêm càng về khuya tiếng ching chiêng lại vang xa hơn, cao hơn, cao mãi như đã đụng đến hồn thiêng sông núi của Thiên Chúa tối cao. Nhưng cuộc vui nào cũng tàn, gần giữa đêm, các Chú Yao Phu “gác kiếm” nghỉ ngơi, chuẩn bị cho ngày hôm sau có một ngày sống mãnh liệt hơn, tình thân hơn. Kết thúc một ngày gặp gỡ giao lưu văn hoá đầy ý nghĩa, đậm sắc Tây Nguyên và tình thân ái đồng đạo Kitô.
Ngày thứ II (13.11.2008): NGÀY YAO PHU tại PLEI RƠHAI
Sáng hôm nay, các Yao Phu bắt đầu ngày mới với những sinh hoạt nhóm, tập hát và cầu nguyện chung với nhau.
Vào lúc 10g00, Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh, Giám mục Giáo phận đã chủ sự thánh lễ, cùng đồng tế có đông đảo linh mục và tu sĩ tham dự. Thánh lễ cầu nguyện cách đặc biệt cho các Yao phu đã qua đời.
Khởi đầu thánh lễ, Đức Cha Micae nói: “Anh chị em Yao Phu thân mến, Hôm nay chúng ta gặp nhau ở đây để chuẩn bị cho ngày đại lễ bế mạc Năm Thánh Yao Phu ngày mai. Tạ ơn Chúa, suốt năm qua, anh chị em đã có dịp nhìn lại cuộc đời sống phục vụ của mình và chuẩn bị cho những ngày phục vụ sắp tới. Tất cả chúng ta đều thấy quyền năng Chúa đã thể hiện nơi con người mỏng dòn của chúng ta. Xin Chúa thương ban cho chúng ta sự khôn ngoan, lòng cản đảm và tinh thần phục vụ hết tình cho cộng đoàn, cho cộng việc truyền bá Tin Mừng khắp mọi nơi.”
Sau bài Tin Mừng, Đức Cha Micae đã chia sẻ (*) Lời Chúa dựa trên đoạn Tin Mừng Mt 10,28, Đức Cha Micae giải thích từ ngữ “Đừng Sợ”, đừng sợ thế gian, thế lực ma quỷ, thế lực đen tối…. Nó vừa mang ý nghĩa “đừng sợ” về tinh thần lẫn thể xác, những đau đớn chóng qua ở thế gian này chẳng là gì… mà là sợ mất phần rỗi đời đời. Có sợ là kính sợ Thiên Chúa. Chỉ có kính sợ Thiên Chúa mới đem lại bình an và phần rỗi cho con người. Kế đến, Đức Cha mời gọi các Yao Phu hãy sống tinh thần của các kitô hữu tiên khởi, một cuộc sống hài hoà giữa đời sống vật chất và tinh thần, đặc biệt là chuyên cần lắng nghe Lời Chúa, hiệp thông cầu nguyện và siêng năng bẻ bánh. Điểm cuối cùng, Đức Cha nói về cái cụ thể nhất mà người Yao Phu luôn thao thức và sống là Loan báo Tin Mừng; cho dù khó khăn thử thách, nhưng đó phải là “ưu tiên tuyệt đối”, ưu tiên số một. Và ngài mời gọi các Yao Phu hãy chú tâm giáo dục đào tạo ơn gọi linh mục, tu sĩ trong cộng đoàn địa phương của mình.
Sau thánh lễ, các Yao phu nghỉ ngơi và ăn trưa. Buổi chiều, anh chị em hành hương về nhà thờ chính toà, chặng đường từ nhà thờ Plei Rơhai sang nhà thờ chính toà hơn 5 km, là dịp anh em vừa đi vừa lần chuỗi lòng thương xót, vừa đi lại chặng đường Thánh Giá mà Thầy Giêsu Chí Thánh đã đi; vừa đi vừa nhìn lại hành trình đức tin theo Chúa của mình, là dịp để tạ ơn Chúa và biết ơn Cha Anh đã đi trước, để lại một kho tàng vô giá về lòng tin, về giá trị đạo đức hôm nay và cũng là dịp để nhìn lại chặng đường lịch sử đã đi qua, với nhiều khó khăn, nhiều mất mát. Nhưng cái được là lòng tin, là sự rèn luyện trong đức tin và Chúa vẫn là Thiên Chúa tốt lành, Thiên Chúa tình thương vẫn hiện diện trong lòng mỗi người và lòng Giáo Hội.
Sau khi đến nhà thờ chính toà, anh em Yao Phu chầu Thánh Thể và nhận phép lành đại xá.
Sau cơm chiều và nghỉ ngơi, anh em Yao Phu bước vào chương trình diễn nguyện thánh ca đậm nét văn hoá Tây Nguyên. Chương trình diễn nguyện theo diễn tiến lịch sử việc hình thành Giáo phận, những tiết mục văn nghệ hát múa, kịch… như lồng vào lịch sử hình thành Giáo phận hơn gần 160 năm qua, từ lời sai đi của Đức Cha Cuenot Thể, đến những thừa sai đã hy sinh tại mảnh đất này… như dệt lên một bản anh hùng ca Tử Đạo Tây Nguyên. Những sắc áo thổ cẩm, những mặt nạ quỷ thần rừng rú, những lời thần chú bi ai đã nhường lại cho bộ mặt nhân từ của Thầy Giêsu chí thánh, với những tấm lòng nhân ái đến với con người tại xứ sở này. Phải nói đến nét chính của đêm diễn nguyện này là đã làm nổi bật nét văn hoá cồng chiêng phi vật thể đa dạng và phong phú của các sắc dân Tây Nguyên; hiếm khi có một lễ hội diễn tả được như thế, nó không đơn lẻ, đơn điệu, nhưng đã hoà nhập vào nhau trong tinh thần Kitô giáo; một tinh thần hiệp nhất, hiệp thông và chia sẻ.
Đêm diễn nguyện khép lại trong ân thánh. Đức Cha Micae, Cha Tổng Đại Diện, Các Cha hạt trưởng, các Cha Bề Trên, các Nữ Tu Bề Trên, nam nữ tu sĩ linh mục và hàng ngàn người xem đọng lại trong lòng nhiều ký ức và ấn tượng về miền rừng núi Tây Nguyên này.
Dòng người đến giờ này vẫn còn quy tụ về Nhà thờ Chính Toà càng đông, cho dù phải ngủ ngoài trời, họ vẫn vui vẻ, thời tiết hôm qua thì se se lạnh, hôm nay ấm hơn. Hình như lòng trời lại ấm hơn khi thấy lòng người hiệp nhất, đông đảo tuôn về trung tâm thờ tự của mình.
Tòa Giám Mục Kontum
56 Trần Hưng Đạo – Kontum
Việtnam - abrahamvn@yahoo.ca
Số 116/VT-MV/’08/Tgmkt
Mến gửi: Các Học sinh Sinh viên Công Giáo
Giáo Phận Kontum.
Các con rất yêu quý,
Trong bầu khí hân hoan mừng ngày nhà giáo, Cha xin chia sẻ niềm vui với các con. Cha muốn qua các con gửi tới từng thầy cô giáo những tâm tình quý mến và biết ơn. Cha hiểu rõ những hy sinh, vất vả và tâm sức của thầy cô giáo dành cho các con trong thời điểm nhiều khó khăn chồng chất hôm nay. Cha muốn góp phần chia sẻ gánh nặng, trọng trách cao cả này bằng lời cầu nguyện, bằng cách giúp các con trở thành những học sinh chăm ngoan. Với tinh thần chăm học, các con sẽ trở thành niềm vui cho thầy cô. Cha tự hỏi làm sao để ngày biết ơn thầy cô trở thành ngày có ích lợi nhất cho các con cũng như cho thầy cô và cho mọi người?
Biết ơn là đỉnh cao của đời sống yêu thương, là con đường đưa người học trò trở thành người hơn, là động lực thôi thúc người học trò chăm ngoan hơn, học giỏi hơn và góp phần làm cho môi trường giáo dục tốt đẹp hơn. Các con chính là phần thưởng to lớn của cuộc đời thầy cô. Sau cha mẹ, các thầy cô là những người đi sát các con trên quãng đường dài làm người.
Làm người khó lắm các con ạ! Đòi hỏi cả một thời gian dài đào tạo rèn luyện. Một thời gian dài khổ công đào tạo các con nên những con người phát triển toàn diện, hài hòa và đồng đều giữa cái đầu, con tim và đôi tay, nếu không sẽ trở thành quái thai hoặc khuyết tật. Sợ nhất là chỉ phát triển cái đầu với đôi tay. Lịch sử đã phải gánh chịu bao tang thương và đổ nát do những con người như Hitler, như Pôlpôt... Các con biết ít lâu nay đã thấy xuất hiện khẩu hiệu “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai” tại nhiều nơi. Muốn là những người trưởng thành của “thế giới ngày mai”, các con hãy kính yêu thầy cô và chăm ngoan từ hôm nay.
Ngành giáo dục là một trong các ngành cao quý, nhưng cũng lắm thiệt thòi so với các ngành nghề khác. Cuộc sống khó khăn hoặc một nguyên do nào đó đã làm phát sinh hình thức dạy kèm, dạy thêm tràn lan. Đây có thể nói đang là một hình thức tra tấn, khủng bố đời học tập của các con và dày vò tâm hồn những ai thiết tha tới nền giáo dục của đất nước! Nó tác động lớn tới đời sống của chính các con cũng như gia đình và xã hội. Việc học thêm học kèm đã cướp hết thời gian dành cho bản thân, cho gia đình, cho giáo hội, cho xã hội. Nhưng trong bất cứ hoàn cảnh nào, các con đừng quên lời Chúa Giêsu dạy: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5,20). Chăm lo học tập và chuẩn bị thi cử cho tốt là cách sống công chính. Đây cũng là cách hữu hiệu để dẹp bỏ được những hình thức dạy thêm, dạy kèm. Cha cũng cầu mong các thầy cô Công Giáo ý thức và có thể tự nguyện từ chối dạy kèm dạy thêm, để môi trường giáo dục trong sạch hơn.
Các con thân mến,
Trong khi chuẩn bị mừng ngày nhà giáo, học sinh sinh viên Công Giáo lại đang xôn xao về chương trình thi học kỳ I năm nay trùng vào chính ngày đại lễ Mừng Chúa Giáng Sinh. Nhiều người muốn cha lên tiếng. Cha cần suy nghĩ thêm. Còn ở đây cha có chút tâm tình với các con.
Việc thi cử đúng vào lễ Chúa Giáng Sinh hằng năm là vấn đề nhức nhối cho học sinh Công Giáo tại Việt Nam từ 1975 đến nay. Khắp nơi trên thế giới, ngày lễ Chúa Giáng Sinh (Noël) là ngày nghỉ quốc tế, nhà nhà người người được nghỉ ngơi để mừng lễ. Ngày đó, không chỉ dành cho những người có đạo, mà trở thành ngày truyền thống, trừ một vài nước chưa được nghỉ ngày đó, trong đó có Việt Nam chúng ta. Ngay cả Nước Cuba cũng đã công nhận ngày lễ Giáng Sinh là ngày lễ nghỉ. Cha và nhiều vị lãnh đạo trong Giáo Hội Kitô đã nhiều lần góp ý với Chính Quyền các cấp về vấn đề này trong hơn 30 năm qua. Có lẽ các nhà phụ trách chương trình giáo dục đào tạo tại Việt Nam chưa nghe rõ cũng như chưa cảm nhận được cái quyền sống đạo của người trẻ có đạo? Cách tốt nhất các con có thể làm lúc này là bình tĩnh chuẩn bị cho ngày thi thật tốt đẹp. Đừng có ai trong các con thốt lên những lời nói xúc phạm hay có thái độ bực dọc trước chủ trương tổ chức thi vào chính ngày lễ Giáng Sinh. Có người nghĩ bắt thi vào chính ngày lễ Giáng Sinh là một việc làm báng bổ Đạo Chúa, có người lại coi đây là một hình thức phân biệt kỳ thị. Cũng có người còn nghĩ đây là một hình thức bách đạo tế vi. Cha chưa dám nghĩ như thế, nhưng cha nhớ ngay tới tâm sự Nhà văn Voltaire - một người đã báng bổ Đạo Chúa – đã thổ lộ trước giờ chết: “Tôi chỉ vô thần trên bàn giấy. Còn trước cái chết chẳng ai vô thần được nữa”.
Phần các con, nếu ngày thi “vẫn còn bị giữ” đúng vào ngày đại lễ mừng Chúa Giáng Sinh, các con hãy “hân hoan vui sướng như các thánh tông đồ xưa” (x. Cv 5,34-41) và biến trường lớp các con thành hang đá Belem sống động. So với hang đá đầu tiên là chuồng bò lừa, hôi tanh, vắng vẻ, thì trường lớp của các con là những hang đá sạch đẹp hơn nhiều. Hãy bước tới trường thi như các mục đồng xưa rủ nhau tới chiêm bái Chúa Hài Nhi bằng tâm tình cầu nguyện, cảm tạ tôn vinh Chúa, bằng cách chuẩn bị thi và thi thật tốt. Chính thái độ sống quảng đại như thế là lời loan báo tin vui giáng sinh cho mọi người! Hãy là những nhà truyền giáo bé nhỏ cho các thầy cô và bạn bè qua các bài thi thật tốt của các con. Các con sẽ được thấy những Phaolô mới xuất hiện trong cuộc đời mình như Tiến sĩ Phan Như Ngọc, như Bác sĩ Nguyễn Văn Ngoạn.... Tất cả đã vượt qua những đêm tối dò dẫm để tìm đến ánh sáng của chân lý, của tình yêu, của sự sống. Cha mong các con có dịp đọc lại cuộc đời của các vị này.
Cha cầu mong các con có nhiều niềm vui khi mừng ngày nhớ ơn Thầy cô. Cầu mong các con có nhiều quyết tâm mới cho mai ngày tươi sáng. Xin Thần Khí Thiên Chúa ở cùng các con.
Thương mến chào các con,
Kontum, 16 tháng 11 năm 2008
Giám mục Giáo phận Kontum
+ GM Micae Hoàng Đức Oanh
Giữa dòng chảy ồn ào huyên náo của lối sống thực dụng hôm nay có những người chọn cho mình một cuộc sống đơn sơ khó nghèo; giữa những lời mời gọi ngọt ngào đường mật của bao niềm vui thú nơi người trẻ phơi phới tuổi xuân thì trong một nhịp sống gấp gáp vội vàng và đong đưa quyến rũ của dòng đời hối hả tất bật tìm hưởng thụ, có những người chấp nhận khước từ tất cả để lội ngược dòng đời dấn thân trọn vẹn hơn cho Chúa và tha nhân. Đó là 29 nụ hồng chúm chím "khoe sắc" trong vườn hoa tận hiến của Cộng đoàn Dòng Mến Thánh Giá Vinh và đó là 26 bông hồng tươi nở dưới ánh nắng bình minh của một ban mai truyền giáo đang vẫy gọi: Hãy lên đường để "phổ biến khắp nơi Tình Yêu thực tiễn đối với Thánh Giá Con Thiên Chúa" (Bts III, 4) bằng cả cuộc sống dấn thân theo chân Thầy Chí Thánh Giêsu giữa thế giời vắng bóng tình yêu, sự hy sinh, lòng vị tha, nhường chỗ cho "nền văn hóa sự chết" đang ở thế thắng.
Hội Dòng Mến Thánh Giá Vinh có chung một nguồn gốc với các Hội Dòng Mến Thánh Giá Việt Nam, là do Đức Cha Phêrô Maria Lambert de la Motte sáng lập năm 1670 tại Kiên lao Đàng Ngoài, Nam Định - miền Bắc Việt Nam. Đây là dòng nữ đầu tiên mang bản sắc Á Đông, vừa chiêm niệm vừa hoạt động, có lời khấn công khai, sống thành cộng đoàn, theo một bản luật trực thuộc Đấng Bản Quyền sở tại và hướng về việc truyền giáo cho lương dân. Theo sử liệu thì trước khi Giáo Phận Vinh được khai sinh thì đã có 220 chị Nhà Phước Mến Thánh Giá sống tập trung tại 8 cơ sở thuộc 3 tỉnh: Nghệ-Tĩnh-Bình. Ngày 11/02/1936, Đức Giám Mục giáo phận Andre Giuse Bắc chính thức công nhận Dòng Mến Thánh Giá trực thuộc giáo phận. Năm 1952, Đức Cha Gioan Baotixita Trần Hữu Đức đã có ý kiến với Đức Cha giáo phận Thanh Hóa cho 3 bà: bà Agnes Trần Thị Đóa, bà Agnes Trần Thị Diệm và bà Agnes Trần Thị Duyên thuộc Dòng Mến Thánh Giá Thanh Hóa vào để giúp chị em Mến Thánh Giá Vinh cải tổ: Quy tụ các Cộng đoàn Dòng Mến Thánh Giá trong giáo phận thành một tổ chức duy nhất, có một Ban điều hành chung, được huấn luyện để trở thành những nữ tu thực thụ. Bấy giờ do hoàn cảnh chiến tranh, an ninh chính trị không đảm bảo, sinh hoạt tôn giáo cũng như đời sống kinh tế gặp nhiều khó khăn nên cơ sở huấn luyện của chị em chưa thể đặt ở Xã Đoài, vì thế Đức Cha Gioan Baotixita Trần Hữu Đức cho tạm đặt nơi huấn luyện ở cộng đoàn Vạn Lộc. Ngày 17/03/1953 được sự nâng đỡ của Đức Cha Gioan Baotixita cùng với sự cộng tác trự tiếp đắc lực của Cha Phaolô Trần Đình Khanh, ba bà đã bắt đầu tổ chức nội vi Nhà Tập theo đúng Giáo Luật. Bấy giờ, thời gian đào tạo Nhà Tập là một năm thử và một năm tập chẵn, nhưng lớp thử tập đầu tiên này là số chị em tu lâu năm trong Nhà Phước, vừa là lớp được chọn nên Bề trên chuẩn giảm về thời gian huấn luyện.
Vào ngày lễ Dâng Mình 21/11/1953, lễ Khấn Dòng đầu tiên được tổ chức tại Vạn Lộc
cho 17 Tân Khấn Sinh - được xem là 17 bông hoa đầu mùa của Hội Dòng Mến Thánh
Giá giáo phận Vinh. Ngày 29/09/1955, được sự quan tâm ưu ái của Bề trên giáo
phận, chị em được chuyển từ Vạn Lộc về Xã Đoài. Bắt đầu mở ra một giai đoạn mới
"phiêu lưu theo muôn nẻo đường tình ái của Đức Kitô". Và ngày 21/11 hằng năm đã
trở thành ngày truyền thống của Cộng đoàn Dòng Mến Thánh Giá Vinh - ngày Mẹ
Maria dâng mình vào Đền Thánh - một quyết định, một biến cố vô cùng quan trọng
đánh dấu sự khởi đầu hoàn toàn dâng mình cho Chúa và các linh hồn. Nhiều cộng
đoàn Dòng tu trên thế giới đã lấy ngày này là ngày khấn dòng cho các tu sĩ hay
ngày lập lại lời khấn hứa. Cộng đoàn Dòng Mến Thánh Vinh cũng mau mắn đáp lại
lời mời gọi của Chúa mà theo vết chân Mẹ Maria lấy ngày 21/11 này làm ngày
truyền thống và quảng đại cất lên lời tuyên khấn của chị em trong Cộng đoàn,
nguyện một đời dâng hiến cho Chúa với một tâm hồn trong sạch, đơn sơ, nghèo khó.
“Thà ẩn náu nơi Giavê thì hơn là tin cậy phàm nhân. Thà ẩn náu nơi Giavê thì hơn
là tin cậy người quyền quí” (Tv 118: 8-9). Hơn mọi người phàm, sự trinh trong
của một tâm hồn khiết tịnh nơi Mẹ Maria đã được đón nhận ơn Khôn Ngoan của Thiên
Chúa và niềm hạnh tuyệt vời là sự tìm: "ẩn náu nơi Giavê thì hơn là tin cậy
người quyền quí”. Trong tác phẩm “Thần Đô Huyền Nhiệm Thiên Chúa” đã ghi chép,
do chính Đức Mẹ mặc khải cho, về việc Mẹ Maria dâng mình cho Thiên Chúa: “Thánh
Gioakim và thánh nữ Anna từ Nazareth đưa Mẹ lên Đền Thờ Giêrusalem với mấy người
thân thuộc đơn sơ. Đoàn người khiêm hạ lẻ loi, đi âm thầm thinh lặng nguyện cầu,
không trống kèn nghinh đón… Trên quãng đường dài từ Nazareth đến Giêrusalem, hai
thánh Gioakim và Anna được hưởng một nguồn an ủi thiêng liêng tràn ngập. Khi tới
Đền Thờ, ông bà cầm tay Người Con đáng kính của mình dẫn vào nội điện. Cả ba
cùng sốt sắng cầu nguyện, rồi ông bà dâng hiến Mẹ cho Thiên Chúa. Mẹ cũng tự
hiến dâng trọn vẹn trót mình dứt khoát cho Ngài. Trong ánh sáng huy hoàng tràn
ngập Đền Thánh bấy giờ, Mẹ nghe thấy rõ rệt tiếng Thiên Chúa ưng nhận lễ vật là
chính toàn thân Mẹ. Sau khi cầu nguyện, thánh Gioakim và Anna dẫn Mẹ ra giới
thiệu với vị tư tế. Vị này chúc lành cho Mẹ…” Liên hệ đến quý chị hôm nay mừng
Hồng ân thánh hiến, chúng ta cũng thấy được thấp thoáng một nét đẹp nguyên tuyền
khiết trinh, thoảng trong bầu khí linh thiêng ngập tràn hôm nay là hương vị khôi
nguyên tinh tuyền của đời tận hiến. Bỏ lại hết phía sau hành trình cuộc đời để
một lòng hiến dâng mình cho Chúa, để phục vụ tha nhân một cách hữu hiệu hơn.
Sáng hôm nay, đúng 7 giờ Lễ Khấn Dòng của Cộng đoàn Mến Thánh Giá Vinh được bắt đầu. Chủ sự Thánh Lễ và các Nghi Thức tuyên khấn sáng nay là Đức Cha Phaolô Maria Cao Đình Thuyên, cùng 123 linh mục trong và ngoài giáo phận và rất đông cộng đoàn dân Chúa từ các giáo xứ trong giáo phận về hiệp dâng lời cầu nguyện cho quý chị lĩnh nhận Hồng Ân Thánh Hiến. Một bầu khí hân hoan ngập tràn Nguyện đường Tu viện Mến Thánh Giá Xã Đoài, một niềm vui vô bờ bến dâng trào trong con tim của muôn người hiện diện trong Thánh Lễ hôm nay. Có 26 chị khấn trọn đời, 29 chị khấn lần đầu và 4 chị đã khấn được 50 năm nhắc lại lời khấn hứa. Thánh lễ diễn ra trong bầu khí trang nghiêm sốt sáng và đầy cảm động. Cảm động nhất là hình ảnh từng chị đại diện cho cộng đoàn Nhà Dòng đến chúc mừng ôm lấy các tân vĩnh khấn trong tiếng khóc nghẹn ngào vì vui sướng, vì được san sẻ tình chị em cho nhau và cả vì một viễn ảnh mai ngày với nhiều chông gai thử thách đang chờ đón người nữ tu sĩ. Giảng trong Thánh Lễ, Đức Cha Phaolô viện dẫn sách Luận Ngữ của Khổng Phu Tử nêu lên bốn cái ưu tư của ông "thời bình sinh": "Ngày nay, con người đang cần chứng tá của người tu sĩ, bởi đó, người tu sĩ cũng luôn phải ôm ấp bốn cái lo mà Đức Khổng Tử xưa đã có để giúp chúng ta tiến bước, đó là: 1/ Đức chi bất tu - đức hạnh không lo tu dưỡng; 2/ Học chi bất giảng - có học vấn mà không lo truyền thụ cho người khác; 3/ Văn nghĩa bất năng đồ - nhìn thấy việc nghĩa mà không lo làm; 4/ Bất thiện bất năng cải - thấy sai lầm mà không chịu sửa đổi cải hóa, thì ngô ưu dã - những điều ấy là nỗi lo của ta vậy. Ước gì đó cũng là nỗi lo của người tu sĩ"; Ngài nói: "Chúng ta hãy cầu xin Mẹ, nữ vương các tu sĩ, giúp chúng ta trung thành với lý tưởng hiến dâng của mình" - điều kiện cốt yếu nhất để người tu sĩ hoàn thành tốt trọng trách của mình giữa trần thế hôm nay như sứ mệnh và mục đích của Dòng đòi buộc: Lấy đời sống chiêm niệm làm căn bản, "chuyển cầu nơi nguyện đường" bằng đời sống cầu nguyện để đạt tới sự hiểu biết, yêu mến và hiến thân trọn vẹn cho Chúa Giêsu Kitô bằng việc chuyên chú suy niệm, tưởng nhớ và noi theo cuộc đời lữ thứ hy sinh của Người và tất yếu dẫn tới sự dấn thân tông đồ truyền giáo.
Ước gì người tu sỹ chúng ta cũng mang nỗi ưu tư của Khổng Tử xưa mà chuyên tâm
hơn cho đời sống trong bậc tu trì của mình được nên trọn lành, và ước gì niềm
xác tín của người tu sỹ chúng ta cũng mãnh liệt như văn hào Montalembert, khi có
người con gái dâng mình làm nữ tu, ông đã viết: Người tình ấy là ai? Chết treo
trên cây giá mà có lực hút lạ lùng như vậy? Người tình ấy là ai mà có một sức
hấp dẫn không thể cưỡng lại được như một con chim tìm mồi sà xuống và cuốn đi.
Phải chăng đó là một con người? Không, đó là một Thiên Chúa - một Thiên Chúa
Tình Yêu. Đó là bí ẩn, đó là chìa khóa đưa vào cõi thâm sâu. Chỉ có Thiên Chúa
mới có được thành công và mới đòi hỏi được một cuộc hi sinh như thế.
Giuse Văn Học
HẢI PHÒNG - Tháng 11 đã về, mỗi người người Công Giáo đều hướng cuội nguồn của mình là các bậc Tổ tiên, ông ba, cha mẹ anh chị em và những người thân yêu của mình đã qua đời. Có những thánh lễ cầu hồn được tổ chức tại nhà thờ hay nghĩa trang đều nói lên nghĩa cử và tâm tình của những người đang sống cầu nguyện cho những người đã qua đời.
Hôm nay, ngày 15-11- 2008 tại giáo xứ Lãm Hà, Cha Gioan Baotixita Vũ Văn Kiện
đặc trách Nhóm Ve Chai Nhân Ai Hải Phòng đã cùng các thành viên trong Nhóm đã
dâng Thánh Lễ và cầu nguyện cho những anh chị em đã qua đời vì căn bệnh thế kỷ
HIV- AIDS
Bước vào Thánh Lễ, Cha Kiện cùng các thành viên trong Nhóm với nghi thức hương
để tưởng nhớ tới những anh chị em đã ra đi vì căn bệnh HIV-AIDS, làn khói hương
bay nghi ngút lên cao như những lời cầu nguyện làm cho không khí của buổi lễ
thật linh thiêng và trang trọng.
Sau bài giảng của Cha đặc trách, là lời cầu nguyện của những bệnh nhân nhiễm H,
cũng như lời cầu nguyện của các thành viên trong Nhóm Ve Chai cầu nguyện cho
những anh chị em bị nhiễm H đã qua đời, tất cả những lời cầu nguyện thật đơn sơ,
chân thành, nhưng diễn tả tình hiệp thông với những người đã khuất, những người
đã ra đi mang trong mình căn bênh của thế kỷ. Chị Kh… một thành viên của nhóm,
cũng bị nhiễm H đã dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện của mình cho những anh chị
em bị nhiễm H đã ra đi trước Chị, lời cầu nguyện của chị xuất phát từ tận sâu
trong tâm hồn vì chị là người đã từng sống, trải qua, cảm nghiệm, từng bị hiểu
lầm và bị xa lánh, nhưng chị đã vươn lên với niềm tin của mình nơi Thiên Chuá,
chính Ngài giúp Chị vượt qua được những khó khăn để vươn lên, để sống giúp ích
cho cuộc đời. Lời cầu nguyện của Chị đã làm nhiều người trong nhà thờ phải nghẹn
ngào và rơi lệ.
Cuối Thánh lễ Cha đặc trách, các thành viên trong Nhóm Ve Chai Nhân Ai và toàn
thể cộng đoàn, mỗi người thắp một ngọn nến, với một phút mặc niệm và hát lời
kinh Hoà bình để cùng tưởng nhớ, cùng hiệp thông và cùng cầu nguyện cho những
anh chị em đã không còn nữa, những ngọn nến ấy cũng nhắc nhớ mỗi người hãy sống
hoàn thiện hơn nữa, hãy chiếu ánh sáng, hơi ấm và sự yêu thương tới những anh
chị em đang đau khổ, đang phải đối đầu với căn bệnh nan y, đang đối đầu với sụ
kỳ thị và cái chết. Sau đó từng người cầm ngọn trên tay xếp lên phía gần bàn thờ
kết thành hình trái tim lớn và nổi bật là cây Thánh Giá ở giữa Anh sáng của
những ngọn nến thật thiêng liêng và kỳ diệu hợp với lời cầu nguyện, chắc Chúa sẽ
nhận lời, tha thứ và đón nhận những con cái xấu số của Chúa sớm hưởng tôn nhan
Chúa. Anh nến vẫn sáng, lời hát vẫn vang lên “Chính lúc chết đi là khi vui sống
muôn đời”.
Thanh Hát
Huế, Việt Nam (20-11-2008)-- Vai trò giáo dục của các bà mẹ thuộc Hội dòng ba Phan sinh Tại thế -Huế được đề cao nhân ngày bổn mạng của hội dòng.
Bà Têrêxa Dương thị Minh Nguỵêt, phó ban điều hành hội cho biết, ngoài việc thăm
viếng, giúp đỡ kẻ nghèo, các bà mẹ thuộc hội dòng ba Phan Sinh, còn chú trọng
đến giá trị giáo dục con cái trong đời sống đạo đức Kitô giáo’’.
Mở đầu buổi lễ mừng bổn mạng Thánh nữ Ê-li-sa-bét Hung-ga-ri, hôm 17-11-2008, là
những bài nói chuyện của các linh mục, nhằm đề cao giá trị và thiên chức của
người phụ nữ được ơn gọi theo chân thánh Phanxicô Assisi
Trong bài chia sẻ của linh mục Phaolô Trần Thắng Thế, ngài nói rằng các mẹ hội
viên Phan Sinh, phải là người biết thưa vâng với Thiên Chúa và nói không với sự
dữ. Cha Thế, trợ uý miền Huế, khuyên hội viên đừng bao giờ thoả hiệp với những
người dối gian và xảo trá, phải cầu nguyện để giúp họ nhận ra chính giá trị của
bản thân mình.
Chương trình ngày tĩnh tâm tại nguyện đường dòng Thánh Tâm Huế. gồm đọc kinh phụng vụ, nghe thuyết giãng, Thánh lễ, và giao lưu. Có 160 hội viên tuổi từ 50 đến 90, đến từ 9 giáo xứ trong giáo phận Huế về tham dự.
Khi được hỏi về kinh nghiệm trong việc giáo dục đức tin cho con cái, cụ bà Lucia
Nguyễn Thị Chúc, 93 tuổi, giáo xứ Dương Sơn mẹ của một nữ tu dòng Mến Thánh Giá
Huế nói:’’ khi bị người đời bêu xấu, ngược đãi vì danh Chúa, chúng ta cứ nhìn
lên Thánh Giá như thánh Phanxicô mà nói con cảm tạ Chúa’’.
Sau thánh lễ, 9 hội đoàn, diễn tả lại công việc tông đồ bằng đóng các tiểu phẩm,
nói về lòng trung thành, sự dấn thân của những bà mẹ Công giáo trong việc đào
tạo con cái sống có ích cho xã hội và trung thành giữ luật Chúa.
Vở kịch gây xúc động nhất, được ban giám khảo chấm giải cao trong cuộc thi sống
theo Tin Mừng, thuộc về các bà giáo xứ Lăng Cô, hạt Hải Vân, các bà nhập vai
cách trung thực về chuyện một bà mẹ trong Kinh thánh thời vua Antiochus, giáo
dục 7 ngưòi con sẵn sàng hy sinh phần xác, không chối bỏ Đức Tin hơn là mất linh
hồn vì tội chối Chúa.
Phêrô Nguyễn Ngọc Giáo
Sáng ngày 15.11.2008 tại giáo xứ Thánh Tâm, nhà thờ Chính Tòa Ban mê Thuột, 60 đôi kỷ niệm hôn phối từ 15 – 24 năm đã cầm tay nhau đọc lại lời tuyên hứa lúc cử hành bí tích hôn phối, trong thánh lễ tạ ơn kỷ niệm ngày cưới của mình.
Trước thánh lễ, 60 đôi hôn phối đã làm thành một đoàn rước trọng thể từ tiền đường vào bên trong nhà thờ và xếp thành một hàng rào với hoa và nến để cùng đoàn đồng tế bước lên bàn thờ dâng thánh lễ tạ ơn. Sau đó, với hoa và nến, các đôi kỷ niệm hôn phối đã từng cặp bước lên cung thánh dâng nến và hoa rồi tất cả cùng nhau tạo thành những trái tim yêu thương hạnh phúc, lung linh ánh nến và rực rỡ của một lẵng hoa.
Nói lên ý nghĩa của thánh lễ tạ ơn này, Cha quản xứ Đaminh Hà Duy Khâm đã chia
sẻ về sứ vụ đời sống gia đình của các Kitô hữu, đặc biệt là 60 đôi kỷ niệm hôn
phối. Hôm nay, các anh chị cùng nhau đến nhà thờ để đúc kết lại khoảng thời gian
các anh chị đã cùng nhau tuyên hứa chung sống trọn đời và cùng dâng tất cả lên
để tạ ơn Thiên Chúa.
Trong bài giảng lễ, Cha G.B Trần Thượng Uyển đã chia sẻ về hình ảnh Adam và Eva
trong ngày tạo dựng vũ trụ. “Adam đã nhận ra Eva là một món quà, là một báu vật
mà Thiên Chúa đã ban cho mình. Hôm nay, tất cả các anh chị tham dự thánh lễ tạ
ơn kỷ niệm hôn phối của mình, các anh chị có nhận ra món quà Thiên Chúa đã ban
tặng cho tất cả chúng ta. Anh chị có nhận thấy anh chị là món quà của nhau, để
từ đó, cùng nhau trân trọng và nuôi nấng mái ấm gia đình của mình. Trong suốt
thời gian chung sống với nhau, cuộc sống có bao nhiêu vui buồn, sướng khổ, đau
đớn, hạnh phúc… tất cả các anh chị hôm nay đến dâng lễ tạ ơn Thiên Chúa đã ban
tặng cho mình có được hạnh phúc gia đình. Điều quí giá là anh chị nhận ra người
đời của mình là hồng ân Chúa ban, thì các anh chị cũng phải sống để anh chị
chính là hồng ân mà Chúa bạn tặng cho người bạn đời.”
Sau bài giảng, trước sự chứng kiến của cha Quản xứ Đaminh Hà Duy Khâm cùng các
linh mục G.B Trần Thượng Uyển, phó xứ, Đặc trách các hội đoàn, Cha Irênê Nguyễn
Bình Tĩnh, Cha Phaolô Maria Lê Văn Quyền (CSsR), Cha Phêrô Đinh Quốc Thái Bình
(CSsR) và các cha khách mời cùng với đông đảo giáo dân là thân nhân, 60 đôi kỷ
niệm hôn phối từ 15 – 24 năm đã cầm tay nhau đọc lại lời tuyên hứa lúc cử hành
bí tích hôn phối, như một lời nhắc nhở và hiệp thông trong sứ mạng chọn lựa bậc
sống gia đình của mình.
Sau khi ban phép lành cuối lễ, Cha Quản xứ đã trao tặng những kỷ niệm chương cho
các đôi kỷ niệm hôn phối và có bữa tiệc mừng chia sẻ niềm vui với các đôi bạn
trong ngày kỷ niệm ngày cưới của mình.
Được biết, ngày 16.9 vừa qua, giáo xứ cũng đã tổ chức thánh lễ tạ ơn cho 40 đôi
kỷ niệm từ 10 – 14 năm hôn phối.
Hoàng Nguyên
Sinh viên Công giáo Vinh tại Thành phố Đà Nẵng là một trong số những nhóm sinh viên Công giáo năng động của đại gia đình sinh viên Giáo phận. Trong nhiều năm qua, nhóm sinh viên này thường tổ chức các hoạt động giao lưu học hỏi, sinh hoạt, nhân đạo từ thiện giúp đỡ những thân phận chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống. Ngoài số tiền huy động từ sự giúp đỡ của các ân nhân, số tiền các bạn tự nguyện đóng góp để chi dùng cho các hoạt động trên thì có một khoản lớn được trích từ việc bán hoa các dịp lễ Tết.
Mỗi năm cứ đến dịp 20/11, với truyền thống tôn sư trọng đạo tốt đẹp; học sinh, sinh viên Việt Nam thường đến chúc mừng các thầy cô giáo của mình với những đóa hoa tươi thắm, đượm tình thầy trò. Đó chính là một lời tri ân sâu sắc: “Không thầy đố mày làm nên” hay là “Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy”… Không chỉ có các bạn trẻ mà số lượng cha mẹ các em đến mua cũng rất nhiều.
Dịp kỷ niệm ngày nhà giáo Việt Nam 20.11.2008 năm nay cũng là cơ hội để các bạn
trong nhóm có được nguồn thu đáng kể. Mặc cho những cơn mưa to nhỏ nhưng với
tinh thần hy sinh để làm việc từ thiện, anh chị em trong nhóm đã không ngại vất
vả ra ngoại thành mua hoa về. Chỉ cần một chiếc dù, một chiếc bàn trước cổng
trường là đã có một chỗ bán hoa lý tưởng.
Công việc bán hàng xem ra có vẻ thuận lợi hơn nhiều năm trước và số tiền thu vào cũng được kha khá hứa hẹn giúp ích tối đa cho việc hoạt động sinh hoạt trong những tháng tới và công việc từ thiện.
Được tham gia công việc của nhóm, tuy hơi vất vả các bạn sinh viên đều rất vui và hạnh phúc khi được chung tay góp phần xây dựng những hoạt động của sinh viên công giáo tại Đà Nẵng thêm tốt đẹp. Nguyễn Thị Lan, sinh viên năm thứ hai trường ĐHSP Đà Nẵng cho biết: “Mình rất vui khi được đi bán hoa với các bạn trong nhóm vì biết đây là một việc làm tốt, khung cảnh bán hoa trong mưa của nhóm sinh viên tụi mình thật là lãng mạn”.
Việc làm tuy nhỏ bé nhưng mục đích chứa đựng trong đó thật lớn lao và cao quí, như một bạn tâm sự đó chính là “Hoa tình yêu” mà các bạn sinh viên tại đây muốn dâng lên Chúa Giê Su chính là vị Thầy giáo dục đức tin, giáo dục lối sống, là vị Thầy vĩ đại đầu tiên của các bạn trong ngày 20.11 này.
Phaolô Viết Thiên
Lúc 06g30 ngày 08/11/2008 tại Đan Viện Xitô
Thánh Mẫu Tâm Mỹ Ca Đức Cha Chính Phaolô Nguyễn Văn Hòa đã làm phép thánh hiến
118 tượng các Thánh Tử Đạo Việt Nam, và sau đó Ngài dâng Thánh Lễ Đồng Tế Tạ Ơn
Chúa nhân dịp kỷ niệm 3 năm ngày Cung Hiến Nguyện Đường Kính Trái Tim Đức Mẹ.
Suốt mấy ngày liền mưa dầm, nhưng hôm nay trời
không mưa vả lại có nắng đẹp như là phép lạ mà trong lời cảm ơn Bề trên Đan Viện
Xitô Bảo Tịnh Trần Văn Bảo đã nói:" Suốt cả tuần qua trời cao đổ mưa chan hòa.
Ai cũng sợ mưa sẽ tắm gội Đức Cha và quan khách, chúng con đã nghĩ đến việc dựng
lều... nhưng tin rằng Chúa sẽ cho một bầu trời quang tạnh như những lần trước.
Và quả là được như thế. Chúng con chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa. Các Thánh
Tử Đạo đã chuyển cầu đắc lực cho chúng con."
Với sự đóng góp rộng rãi và quí báu của các ân nhân xa gần và do nghệ nhân điêu khắc gia kiêm nhà đắp tượng Xuân Quang thực hiện, Đan viện đã hoàn tất công trình ĐƯỜNG TỬ ĐẠO (gồm tượng đài Nữ Vương các Thánh Tử Đạo và 118 vị Tử Đạo của Giáo Hội việt Nam)
Đường Tử Đạo là con rồng ôm lấy hình thể Việt
Nam gồm 26 Giáo phận (được phân chia bằng màu cây kiểng). Tượng các vị tử đạo
được đặt trên thân rồng từ Nam ra Bắc và tại vị trí nhìn trực tiếp vào nơi các
ngài đã tuẫn giáo. Do đấy các tượng có phần thưa thớt ở miền Nam và miền Trung.
Ngoài ra trong khuôn viên còn có Đường Thánh Giá
(thánh hiến ngày 24.03.2007 do Đan Phụ hội Trưởng Vladimir Gaudrat) gồm 20 chặng
được chọn theo Tin Mừng và do gợi ý của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II: từ
ngày Chúa vào thành Giêrusalem, rửa chân cho các tông đồ, bị bắt trong vườn Cây
Dầu, tại toà các thượng tế, tại dinh Philatô, Phêrô chối thầy, Chúa bị đánh đòn,
đường khổ nạn v.v.... cho tới biến cố Phục Sinh.
Nghĩa trang của Đan viện toạ lạc trước mộ Chúa
và tượng đài chúa Phục Sinh
Gia Nhân
Sáng ngày 16.11.2008 tại giáo xứ Tân Phú Hòa thuộc giáo hạt Phú Thọ, Giáo phận TP.HCM đã diễn ra thánh lễ tạ ơn cung hiến thánh đường mới. Đức Hồng y GB. Phạm Minh Mẫn đã chủ sự thánh lễ đồng tế và nghi thức cung hiến thánh đường. Cùng đồng tế với Đức Hồng y có quý cha Giuse Vũ Minh Nghiệp, đại diện Giám mục, đặc trách linh mục, cha Giuse Phạm Bá Lãm, hạt trưởng Hạt Phú Thọ, cha Giuse Nguyễn Văn Trọng, chính xứ Tân Phú Hòa, và khoảng gần 20 quý cha trong và ngoài giáo hạt, quý cha liên hệ thân thuộc, quý cha thuộc cộng đoàn giáo xứ Tân Phú Hoà
Trước khi bước vào thánh lễ, khi đoàn đồng tế tiến vào bên trong nhà thờ, tại bậc tam cấp ở cửa chính nhà thờ, Đức Hồng y đã cắt băng khánh thành nhà thờ, làm phép bộ 9 qủa chuông mới. Tiếp theo sau đó, một vị đại diện giáo dân đã ngỏ lời chào mừng Đức Hồng y, quý cha và quý khách.Vị đại diện giáo dân xem công trình thánh đường giáo xứ Tân Phú Hoà là của lễ làm nên từ những đồng tiền mồ hôi và nước mắt suốt tám năm tiết kiệm và hai năm thi công của đoàn chiên giáo xứ, những người con xa xứ, những ân nhân xa gần, và có cả một số người ngoại giáo. Chúa đã ban cho cộng đoàn dân Chúa hơn cả điều dám xin, nghĩa là trong khi chưa kip hoàn thánh nhà thờ, Chúa lại ban thêm cho nhà giáo lý mới. Và Đức Hồng y hôm nay đã về “nghiệm thu” công trình và cung hiến ngôi thánh đường mới để xin Thiên Chúa chúc lành.
Trong phần bài giảng, Đức Hồng y đã có những lời nhắn nhủ đến cộng đoàn giáo xứ : Thiên Chúa luôn ở giữa dân Người. Có một nơi xứng đáng cho Chúa ngự để cử hành phụng vụ, dâng lời chúc tụng, cảm tạ và ngợi khen Chúa là cần thiết. Nhưng quan trong nhất, chúng ta phải giữ cho đời sống đức tin của mình, của cộng đoàn, của gia đình là thửa đất tốt. Chúng ta phải học kinh nghiệm của nhà nông để biết cách phòng và diệt trừ sâu rầy trên cánh đồng. Sâu rầy đó là một thứ văn minh sự chết như phá thai, ly dị, tệ nạn xã hội v. v…tràn lan.
Sau bài giảng, Đức Hống y đã chủ sự phần quan trong nhất trong thánh lễ là nghi thức cung hiến xức dầu bàn thờ, nhà thờ. Diễn tiến tuần tự như sau : Kinh cầu các thánh, đặt hài cốt các thánh tử đạo, lời nguyện cung hiến, xức dầu bàn thờ và nhà thờ, xông hương bàn thờ, phủ khăn và thắp sáng bàn thờ. Bàn thờ giáo xứ Tân Phú Hòa đón nhận hài cốt của năm vị thánh tử đạo Việt Nam : Thánh Simon Phan Đắc Hòa, Thánh Matthêu Lê Văn Gẫm, Thánh Philipphê Phan Văn Minh, Thánh Anrê Nguyễn Kim Thông, Thánh Phaolô Lê Văn Lộc
Giáo xứ Tân Phú Hòa nằm trên địa bàn phường Phú Trung, quận Tân Phú, thành phố TP.Hồ Chí Minh, được hình thành vào năm 1960 do cha Phanxicô Xaviê Hoàng Ngọc Quán sáng lập. Vị chính xứ thứ hai là cha Gioan Baotixita Trần Văn Cừ (1974-1998), và hiện nay vị linh mục chánh xứ đang coi sóc giáo xứ là cha Giuse Nguyễn Văn Trọng (nhậm xứ từ năm 1998). Thánh đường giáo xứ Tân Phú Hoà được cung hiến hôm nay đã được Đức Hồng y đặt viên đá đầu tiên cách đây 2 năm vào ngày 24.9.2006, do hai Kỹ sư trẻ Nguyễn Phúc Lộc và Hoàng Gia Bảo thi công xây dựng và công ty Tân Đại Phát bảo lãnh về pháp lý.
Martin Lê Hoàng Vũ
Những cuộc bách hại không làm cho giáo hội bị suy giảm, nhưng lại làm giáo hội được phát triển” -- Thánh Leô Giáo Hoàng"
Cây đa là cây rất quen thuộc ở vùng chúng tôi. Hồi tôi còn nhỏ, tôi cũng thấy ở đầu làng tôi (làng Bối Xuyên, xứ Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định) có trồng hai cây đa trên một gò đất lớn ngay lối đi ra cánh đồng trồng lúa. Hai cây đa này được gọi là “Cây Đa Đầu Làng” hoặc “Cây Đa Điền”. Các cụ làng tôi, thuở xa xưa, đã trồng hai cây này để lấy bóng mát cho những người làm ruộng, hoặc các khách bộ hành, đến nghỉ mát vào những buổi trưa mùa hè nóng bức. Sở dĩ các cụ trồng cây đa vì cây đa sống lâu, cành lá rất xum xuê. Hai cây đa đầu làng tôi nghe nói, bây giờ vẫn còn, dù đã già cỗi, sau cả một thế kỷ đứng đó để che bóng mát cho không biết bao nhiêu người, và chứng kiến bao nhiêu những thăng trầm biến đổi của lịch sử làng tôi cũng như của đất nước.
Nói đến cây đa, tôi lại nhớ đến chuyện hồi tôi còn nhỏ, khi đi xuống xứ Đồng Đội (cách làng tôi chừng 2 cây số) để dự Thánh Lễ hoặc thăm bà con, ba má tôi thường nói đến “Cây Đa Tử Đạo” ở đầu làng Đồng Đội, và nói cho tôi biết là vào thời kỳ các Vua Chúa cấm đạo, có nhiều người Công Giáo ở các nơi bị bắt và dẫn đến chỗ cây đa đó để chịu thiêu sống, tiếng la hét rất thảm thiết; từ đó cây đa được gọi là "Cây Đa Tử Đạo".
Khi đã khôn lớn, tôi lại được nghe nói đến “Khu Bẩy Mẫu” cũng là nơi nhiều vị tử đạo đã bị xử tại đó. “Khu Bẩy Mẫu” nằm bên phải con đường từ Nam Định đi Hà Nội, chỉ cách thị xã Nam Định chừng vài cây số.
Trong Huyện Vụ Bản, Nam Định, có nhiều giáo dân đã bị giết tại Cây Đa Tử Đạo, hoặc “Khu Bẩy Mẫu”; đa số những người bị thiêu sống tại "Cây Đa Tử Đạo" đã chết âm thầm, không xét xử, không ai ghi lại tên tuổi, và thường do nhóm Văn Thân chủ trương. Đặc biệt xứ Xuân Bảng (thường gọi là Kẻ Báng, cách làng tôi chừng 8 cây số) đã có hơn 100 người tử đạo, trong đó có hai vị đã được phong thánh: Thánh Gioan Baotixita Cỏn và Thánh Martinô Thọ.
Tại họ đạo Bối Xuyên (thuộc xứ Đồng Đội) nơi tôi sinh trưởng, thì kính đặc biệt Cha Cố Hương như Thánh Bổn Mạng. Theo như sổ sách và những lời kể của ba tôi, Cha Cố Hương tên thật là Gioan Louis Bonnard, tên Việt Nam thường gọi là Cha Cố Hương. Vào ngày 21 tháng 3 năm 1852, Cha Cố Hương âm thầm đến họ Bối Xuyên để giúp tĩnh tâm Mùa Chay và ban phép Bí Tích ngay tại nhà Ông Nội của Ba Tôi, tức là chính ngay ngôi nhà tôi được sinh ra. Nhà ở ngay bìa làng, đằng trước có một cái ao nuôi cá và trồng rau muống, rau súng. Làng tôi là một làng nhỏ, vào "mùa nước" thì nước ngập chung quanh. Sở dĩ Cha Cố Hương dâng Thanh Lễ và cử hành các phép Bí Tích ở nhà Ông Cố Nội tôi là vì lúc đó làng tôi chưa có Nhà Thờ, và Ông Cố Nội tôi lúc đó làm trùm họ đạo và cũng tham gia vào ban hành chánh trong làng.
Hồi đó, quan Tổng Đốc Nam Định là Trịnh Quang Khanh rất hăng say đi truy lùng và bắt đạo. Quan cho các binh lính đi tìm và bắt các "đạo trưởng" ẩn núp ở các nơi. Theo như sử sách và lời các cụ trong làng biết chuyện kể lại: hôm đó, khi Cha Cố Hương vừa dâng Thánh Lễ và ban các phép Bí Tích xong, thì nghe tin các quân lính đang bao vây làng. Khi thấy nguy cơ không thể thoát được, Cha Cố Hương đã bảo mọi người cứ giữ mọi sinh hoạt như bình thường, còn Cố một mình đi ra bờ tre và lội nước ra ngoài cánh đồng để quan quân bắt; chủ đích là không để gia đình Ông Cố Nội tôi bị liên lụy vì tội chứa chấp "đạo trưởng". Tuy nhiên, Ông Cố Nội tôi cũng bị bắt đi theo. Cha Cố Hương bị xử trảm tại Khu Bẩy Mẫu, Nam Định vào ngày mùng 1 tháng 5 năm 1852. Ông Cố Nội tôi thì bị chết rũ tù ở Nam Định. Khi tôi còn nhỏ, ba tôi thường kể cho tôi nghe những điều này, và tên tuổi các vị liên hệ đều có ghi trong Gia Phả; tuy nhiên sau này, trong chiến tranh, nhà tôi đã bị ‘lính tây về làng’ đốt phá. Mọi tài sản và các tài liệu của gia đình đều bị thiêu hủy. Rồi gia đình tôi và dân làng phải ly tán, một số di cư vào miền Nam trong cuộc di cư năm 1954.
Nhìn lại lịch sử cuộc bách hại đạo Công giáo ở Việt Nam, chúng ta thấy đã kéo dài bốn thế kỷ. Theo sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, thì ngay từ năm Nguyên Hòa (1533) dưới thời Vua Lê Trang Tôn đã có chỉ dụ "cấm đạo Gia Tô". Như vậy, đạo Thánh Chúa đã được rao giảng tại Việt Nam từ lâu trước đó và số giáo dân đã khá phát triển, nên gây ra những sự kỳ thị tôn giáo đưa đến việc triều vua Lê Trang Tôn ra chỉ dụ cấm đạo.
Cuộc bách hại như vậy ở khắp ba miền đất nước, và đã kéo dài từ thời vua Lê Trang Tôn qua đến thời các Chúa Trịnh (miền Bắc) và Chúa Nguyễn (miền Nam), qua thời Tây Sơn, đến các triều đại nhà Nguyễn, có lúc thật hung bạo, có lúc giảm bớt, tùy theo các biến cố thời cuộc lúc đó. Trong triều đại vua Minh Mạng (1820-1841) và Tự Đức (1847 – 1883) thì mạnh mẽ, cùng với phong trào Văn Thân muốn tiêu diệt hẳn đạo Công Giáo tại Việt Nam. Các "đạo trưởng" bị lên án và xử tội. Giáo dân bị khắc hai chữ "tả đạo" trên trán, bị bắt buộc phải bỏ đạo bằng cách phải bước qua Thánh Giá gọi là “quá khóa”. Ai không chịu thì bị bắt và bị xử án. Ngoài ra, các làng Công Giáo bị giải tán, người Công Giáo phải bỏ nhà cửa và mọi tài sản để đi sống trong các làng khác để dễ dàng mất tinh thần đức tin. Chiến thuật đó gọi là "Gia Tô phân sát" (chia ra và sát nhập vào các nơi khác).
Trong cuộc bách hại kéo dài như vậy, con số bị sát hại thường được ghi là 130 ngàn người; tuy nhiên, con số thực sự thì lớn hơn, vì nhiều người đã bị giết một cách âm thầm, không đưa ra xử án, thường do nhóm Văn Thân thi hành, không thể ghi lại tên tuổi, như những người bị thiêu sống tại Cây Đa Tử Đạo ở xứ Đồng Đội.
Các vị đã bị đưa ra tòa để xử và kết án thì bị chết nhiều cách khác nhau như chết rũ tù (như thánh Guise Nguyễn Văn Lựu, Thánh Nữ Anê Lê Thị Thành); bị xử trảm (như Thánh Nguyễn Văn Hương, Lê Văn Phụng) ; bị xử giảo (như Thánh Nguyễn Văn Mỹ, Nguyễn Hữu Quỳnh); bị lăng trì (như Thánh Phan Viết Huy, Thánh Bùi Đức Thể) ; bị thiêu sống như Thánh Phêrô Đinh Văn Dũng, Vinh Sơn Dương); bị tra tấn đến chết (như Thánh Đaminh Vũ Đình Tước).
Những vị bị tử đạo thuộc nhiều thành phần khác nhau trong xã hội, làm nhiều nghề nghiệp khác nhau , nam có, nữ có. Có vị đã cao niên, có vị tuổi còn trẻ. Riêng trong 117 vị đã được Tuyên Thánh, ngoài các vị thừa sai ngoại quốc, thuộc Hội Thừa Sai Paris, hoặc Dòng Đaminh, thì các vị người Việt Nam gồm có những vị làm nghề nông (như Thánh Nguyễn Duy Khang, Nguyễn Văn Vinh), làm thợ mộc (như Thánh Phêrô Đa), buôn bán (như Thánh Lê Văn Gẫm), nghề đánh cá (như thánh Đinh Văn Thuận, Thánh Đaminh Toại), làm y sĩ (như Thánh Hoàng Lương Cảnh), quân nhân (như Thánh Đaminh Đinh Đạt, Bùi Đức Thể), hạ sĩ quan (như Thánh Trần Văn Trung, Lê Đăng Thi), làm quan trong triều đình (như Thánh Hồ Đình Hy, Phạm Viết Khảm, Tống Viết Bường), lý trưởng (như Thánh Nguyễn Huy Mỹ, Gioan Baotixita Cỏn), chánh tổng (như Thánh Vinh Sơn Tường, Phạm Trọng Thìn), trùm họ (như Thánh Nguyễn Văn Lựu, Nguyễn Văn Đắc, Mathêu Nguyễn Văn Phượng), chánh trương (như Thánh Đaminh Nguyên), Thày dạy giáo lý (như Thánh Đoàn Văn Vạn, Nguyễn Văn Mỹ), chủng sinh (như Thánh Tôma Trần Văn Thiện), và nhiều Linh mục thuộc các giáo phận khác nhau. Có những vị đã cao niên (như Thánh Tạ Đức Thịnh, 80 tuổi, sinh năm 1760 tại Thanh Trì, Hà Nội, chịu tử đạo ngày 8-11-1840), có những vị còn là thanh niên (như Thánh Giuse Túc, 19 tuổi, sinh năm 1843 tại Hưng Yên, tử đạo ngày 1-6-1862; Thánh Tôma Trần Văn Thiện, sinh năm 1820 tại Quảng Bình, tử đạo ngày 21-9-1838). Mỗi vị đều có ngày kính riêng vào chính ngày các Ngài chịu tử đạo. Tất cả được kính chung trong toàn thể Giáo Hội vào ngày 24 tháng 11 hàng năm.
Nhìn lại cuộc bách hại đạo Công Giáo tại Việt Nam, cũng như nhớ lại cuộc đời của những vị tử đạo, không phải để chúng ta đem lòng oán hận, kết án; vì chính các vị tử đạo cũng noi gương Chúa Giêsu trên Thánh giá đã xin ơn tha thứ cho những kẻ đã giết Ngài vì lầm lỗi (Luca 23:34). Nhìn lại cuộc sống của các Thánh Tử Đạo để chúng ta tạ ơn Chúa cho các Ngài đã được ơn Chúa ban để đủ can đảm chịu từ bỏ mọi địa vị, mọi của cải, và chịu mọi cực hình để tuyên xưng Đức Tin nơi Chúa.
Xin các Ngài cầu cùng Chúa cho chúng ta luôn được Đức Tin mạnh mẽ để sống xứng đáng con cái Chúa và dòng dõi các Thánh tử Đạo Việt Nam, can đảm chịu mọi thử thách khó khăn trong đời sống đức tin hằng ngày.
Xin cho đất nước Việt Nam sớm đến ngày được bình an, hạnh phúc, nhân quyền được tôn trọng, tự do thật sự, nhất là tự do tôn giáo; mọi người sống hòa hợp yêu thương để chung tay xây dựng Quê Hương Việt Nam yêu dấu.
Có nhiều con đường trong đời sống: đường đi bộ, đường xe chạy, đường thủy trên dòng sông nước, đường học hành, đường nghề nghiệp làm ăn sinh sống, đường công danh sự nghiệp, đường thành công đi lên và những con đường đi xuống, con đường thất vọng, con đường thất bại…
Đời sống con người cũng chia làm nhiều đoạn đường: đoạn đường tuổi thơ bé, đoạn đường tuổi thanh thiếu niên, đoạn đường tuổi trung niên, đoạn đường tuổi gìa cao niên.
Ngoài ra trong đời sống còn có con đường đời sống tâm linh nữa. Tùy theo ảnh hưởng nền giáo dục đào tạo, cũng như thói quen đã ăn nếp trong gia đình xã hội chung quanh, cùng theo sự phát triển của văn hóa thời đại, mà có nhiều con đường tâm linh khác nhau.
Người ta thường nói với nhau „Đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành. Đạo nào cũng khuyên bảo sống theo điều tốt lành!“. Hay „đường nào rồi cũng dẫn về Rôma!“
Điều này nói lên về số lượng: có những con đường đạo giáo tâm linh khác nhau, nhưng về chất lượng tuy vậy cũng là một thôi.
Có thật như thế không? Nào ai có thể qủa quyết được một trăm phần trăm là như thế.
Tuy vậy có một con đường sống làm người và cũng là con đường tâm linh chung: Con đường bác ái.
Chúa Giêsu xuống trần gian làm người, đi rao giảng con đường sống bác ái làm con Thiên Chúa và làm người với nhau trong tám Mối Phúc thật: Phúc cho ai có lòng thương người, cho người xây dựng hòa bình, cho người sống công minh chính trực…( Mt 5,1-12)
Thánh Phaolo đã vẽ lên hình ảnh đời sống đức tin của con người Kitô giáo quy tụ trên nền tảng ba đức tính căn bản: Tin, cậy và mến. Nhưng sau cùng chỉ tồn tại đức bác ái lòng yêu mến thôi. (1 cor 13,13)
Chúa Giêsu được xưng tụng là vua. Đời sống cùng giới luật của vua Giêsu là bác ái.
Ngày sau cùng đời sống, mỗi người ra trước Thiên Chúa trả lời về những việc khi xưa đã sống đã làm như thế nào. Vị thẩm phán tối cao, Thiên Chúa, căn cứ vào cung cách sống bác ái tình người mà phán xét về đời sống mỗi người : Những gì anh em làm cho một người bé nhỏ nhất, là làm cho chính Ta“ ( Mt 25, 40).
Bài hát có nhiều phiên khúc của nhà Dòng Biển Đức Münsterschwarzach có những suy tư về con đường bác ái:
„1.Thiên Chúa sẽ không hỏi: Con đã gom góp để dành cái gì? Nhưn g Ngài sẽ hỏi: Con đ4 trao tặng cho đi điều gì, người nào đã qúi trọng yêu mến?
2.Thiên Chúa sẽ không hỏi: Điều gì con đã làm thống trị chủ được? Nhưng Ngài sẽ hỏi: Người nào con đã hầu hạ phục vụ; ai con đã mở rộng vòng tay nâng đỡ đón chào?
3.Thiên Chúa sẽ không hỏi: Điều gì sáng chói vinh quang con có được? Nhưng Ngài sẽ hỏi: Điều gì con đã mang đến cho người khác được no ấm?
4.Thiên Chúa sẽ không hỏi: Con đã đạt được điều gì; điều gì là phần thưởng lớn nhất cho con? Nhưng Ngài sẽ hỏi: Con có nhận ra Ta không?
Ta là người anh em con đây! „
Lễ Chúa Kitô Vua 23.11.2008
Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
VŨNG TẦU - Điểm tâm sáng xong, về phòng làm chút việc cần cho ngày mới bỗng
nhiên bên tai tôi nghe tiếng ngân nga của nhóm trẻ: “Công cha như núi Thái
Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra …”. Được biết là xung quanh nhà
thờ Bến Đá thì không có trường Tiểu học nào cả, vậy sao có tiếng bọn trẻ như thế
này? Muốn tìm tiếng ấy phát ra tự đâu, tôi lần theo hướng ngân nga ấy.
Bước theo con đường ra nhà thờ, tiếng ngân nga ngày càng rõ hơn. Hoá ra tiếng
ngân nga ấy phát ra từ phòng Sinh hoạt của giáo xứ. Hỏi thăm thầy giáo đang đứng
lớp thì được biết đây là lớp học tình thương do Giáo xứ thành lập.
Thầy Hưng cho biết thêm: “Lớp học tình thương Bến Đá này có lúc được 100 em.
Nhưng đến mùa cá thì cha mẹ chúng phải chuyển chỗ ở để có công ăn việc làm theo
mùa cá ấy. Hiện tại, hiện diện trong lớp khoảng hơn sáu chục em. Độ tuổi của các
em chêng lệch khá cao nên phải chia các em thành 3 lớp khác nhau. Các em tuy độ
tuổi khác nhau, trình độ khác nhau nhưng có một điểm chung là nghèo và con cái
của những gia đình thuộc diện di dân”.
Ra thăm lớp một chút tôi về phòng làm việc. Các em để lại trong tôi ấn tượng sâu
sắc nhất đó là tính kỷ luật. Phải nói là lớp tình thương Bến Đá này kỷ luật tốt
nhất trong các lớp tình thương mà tôi đã có dịp tiếp xúc. Các em rất ngoan, lễ
phép và nhất là giữ sự im lặng trong lớp. Sự im lặng trong những lớp học tưởng
chừng như khó giữ ở những lớp học bình thường nhưng trong lớp học khác thường
Bến Đá này lại là sự thật. Có được như vậy ta không thể nào phủ nhận được công
khó của thầy giáo Hùng.
Thầy Hùng là con chiên trong xứ Bến Đá. Buổi tối Thầy phụ trách lớp Hoa Ngữ ở
vài trung tâm Sinh Ngữ của thành phố Vũng Tàu. Còn ban ngày thì Thầy gắn bó với
các em hầu như gần hết các ngày trong tuần.
Chắc có lẽ, Thầy Hùng, nhưng công khó trước hết là của Cha xứ và Ban Hành Giáo
mới có lớp học tình thương này. Mỗi người một chút để tạo điều kiện cho các em
di dân có một cơ hội biết được vài con chữ để bước vào đời.\
Khi thăm hỏi Thầy, tôi nhìn các em và thầm nói với Thầy: “Đây là sản phẩm của
đất nước phát triển, giàu mạnh, công bằng và văn minh đây!”. Tại sao người ta
chỉ tô son trát phấn cho vài thành quả cỏn con, còn hậu quả bi thương của một
đất nước nghèo như thế này lại chẳng thấy ai lên tiếng!?!?!
Lớp học tình thương Bến Đá mà tôi được biết đây không phải là cá biệt. Ở nhiều
giáo xứ, ở nhiều cộng đoàn vẫn cố gắng hết sức mình để cưu mang những tâm hồn
thơ trẻ này. Nếu như không đầu tư, không dạy dỗ, không chăm sóc hàng trăm đứa
trẻ cơ nhỡ điển hình của Bến Đá này sẽ đi về đâu?
Nhìn Bến Đá tôi lại nghĩ đến không biết bao nhiêu trăm, bao nhiêu ngàn con trẻ
đang trong độ tuổi cắp sách đến trường phải lao đao với cuộc sống đầy đau
thương.
Nói vậy thôi chứ nhìn các em lòng tôi quặn đau. Chắc có lẽ cha mẹ chúng cũng
không muốn phải rơi vào hoàn cảnh bi thương này, và chúng cũng không muốn chúng
phải chịu khó thích nghi với cái lớp khá đặc biệt như thế này. Nghĩ đi nghĩ lại
thì chúng cũng còn có được sự may mắn nhờ tình thương của Cha xứ cũng như những
vị cộng tác với Cha xứ Bến Đá.
Nếu như Cha xứ cũng như các vị cộng tác với Ngài không bày tỏ tình thương, không
cưu mang chúng thì không biết cuộc đời của chúng sẽ đi về đâu?
Nhìn các em cơ nhỡ như thế này, tôi thấy đau quá! Chẳng biết trách ai? Trách đời
hay trách người? Có trách đi chăng nữa thì ta không thể nào phủ nhận được đây là
những hoàn cảnh đặc biệt, những hoàn cảnh đáng thương hơn là đáng lên án!
Trong lớp, hầu như em nào cũng nghèo, cũng đáng thương hết nhưng có 2 chị em kia
phải nói là cần được sự ưu ái hơn cả. Vì lẽ 2 chị em mồ côi cả cha lẫn mẹ. Cha
mẹ chúng đã ra đi bởi căn bệnh thế kỷ sida. Hiện giờ bà ngoại của hai cháu lây
lất qua ngày đắp đổi cưu mang. Ban đầu chúng bị áp lực rất lớn từ chúng bạn bởi
sự khinh miệt kỳ thị do cho mẹ chúng bị bệnh sida. Thế nhưng, dần dà nhờ tình
thương của Cha xứ, của thầy phụ trách, sự mặc cảm, sự miệt thị đã được thay thế
bằng tình Chúa – tình người. Đến nay, hai cháu đã bình an hội nhập với các bạn
đồng lứa tuổi.
Thế đấy! Dù bận bịu với biết bao nhiêu công việc mục vụ của giáo xứ nhưng Cha xứ
nỡ lòng nào bỏ rơi được những mảnh đời cơ nhỡ như thế này! Tạ ơn Chúa vì qua bàn
tay nối dài của các vị chủ chăn, tình yêu của Chúa được lan rộng khắp nơi, không
phân biệt hoàn cảnh, không phân biệt giàu nghèo trong giáo xứ.
Bến Đá! Tiếng gọi thân thương gợi lên cho ta hình ảnh vững chắc của viên đá tảng
vùng biển Vũng Tàu.
Bến Đá! Tiếng gọi thân thương cho ta thấy tình thương chan hoà đến với những
người nghèo, những gia đình di dân đang trú ngụ trong địa sở của mình.
Bến Đá! Bến đỗ của tình thương, bến đỗ của những di dân nghèo cần một chút tình
Chúa, tình người.
Anmai, CSsR
“Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các người đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 23, 40)
Hôm nay, khi suy gẫm lời nói đầy ắp yêu thương trên đây của Chúa Giêsu vào cuối hành trình rao giảng của Người, tôi cảm thấy ngập tràn hạnh phúc, bởi trái tim của Người đã dành cho tôi quá nồng nàn và quá đỗi hiện thực, dù cho tôi đã và mãi chỉ là một kẻ tội lỗi, đầy bất toàn như thánh Phaolô đã thú nhận: “Đức Giêsu đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi”. (1Tm 1, 15)
Người đã không để tôi mãi phải đói, vừa vật chất và vừa tâm linh, khi tôi chẳng cón làm được gì và cũng chẳng có điều kiện để vươn lên trong cuộc sống muôn vàn khó khăn này. Người cũng chẳng để tôi phải lang thang bất định và tiều tụy, mà đã tạo cho tôi một nơi chốn nghỉ ngơi, một mái ấm để che nắng mưa từ năm 2005 cho đến nay, bằng vào sự nâng đỡ của anh em bạn học từ thời niên thiếu.
Rồi trong khỏang một tháng trở lại đây, khi 2 chân của tôi phù sưng đã nhiều tháng trôi qua, tôi được một bác sĩ chưa hề quen biết đến thăm bệnh tại nhà, do một người anh em khác mới quen giới thiệu. Vị bác sĩ này đã chăm sóc sức khỏe cho tôi và đã tự nguyện đài thọ thuốc men khi chẩn đóan ngoải chứng suy thận, tôi còn mang vác thêm chứng suy tim nữa. Sau hai tuần dùng thuốc, hai chân tôi đã giảm sưng và rồi hết hẳn sưng sau đó. Chưa dừng lại ở đây, chỉ vài ngày sau khi dùng hềt thuốc suy tim, tôi lại được một vị ân nhân khác, cũng chưa một lần gặp mặt, nhưng anh đã hỏi thăm tôi số nhà, số điện thoại qua địa chỉ thư, để rồi nhờ đó, anh gửi đến cho tôi một lô thuốc nam như artisô, như ích mẫu và cả thuốc bắc dạng hòan (loại viên nhỏ) dùng chữa bệnh suy yếu thận lâu năm của tôi.
Từ những lo toan vượt ra khỏi khả năng cũng như lo lắng của mình, và khi nhìn lại những biến có xẩy đến với dấu chỉ của nhân ái tràn trề, tôi tin rằng Chúa đã quan phòng kỳ diệu cho tôi qua những nghĩa cử yêu thương của những người đã lắng nghe được Chúa mời gọi trong bài giảng về “Cuộc Phán Xét chung” tuyệt vời mà hôm nay Mẹ Giáo Hội mong muốn con cái của mình nhìn lại cũng như tỉnh thức trong những ngày cuối Năm Phụng Vụ.
Những ân nhân đã quan tâm đến hòan cảnh sống của tôi, và đã hành động bằng sức mạnh từ trái tim yêu của Chúa và họ cũng đã cảm nghiệm được những sứ vụ phải thực hiện như Chúa Giêsu trước khi rao giảng Tin Mừng, Người đã mặc khải:
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi,
để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.
Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha,
cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức,
công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4, 18-19)
Qua đó, trong suốt cuộc hành trình rao giảng về Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu chắc chắn đã trải nghiệm được rằng: nơi con người, cái đói thể lý, cái đói của thân xác khi nó lên tới đỉnh điểm, thì nó sẽ xâm nhập toàn bộ lương tri con người và bị cái đói vật chất chế ngự hòan toàn. Cái đói cơm bánh này sẽ làm tắc nghẽn mọi tình cảm và xóa mờ đi cái đói của tinh thần, của tâm linh bời: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4, 4).
Cái đói, cái khát, tình trạng rách rưới khổ cực, sự tù tội và tật bệnh đã làm cho Chúa cảm thấy tất cả những nhu cầu thiết yếu và thực dụng đó nơi chính bản thân Người, và làm Chúa đói thay, khát thay, đau đớn và hấp hối thay và cũng làm cho Chúa bị lột trần trong cái trần trụi của con người và rồi cũng làm cho Chúa bị tù đày với tất cả những ai đang bị giam cầm. Bởi đó mà khi sắp sửa từ giã loài người qua thân xác nhập thể, Chúa Giêsu đã dùng văn thể khải huyền để nói lên trái tim huyền nhiệm cao cả của Người rằng: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các người đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 23, 40)
Mầu nhiệm đồng hóa hay mầu nhiệm hiệp nhất trong Vương Quốc Tình Yêu này của Chúa Giêsu đã được thánh Phaolô để lại lời giáo huấn cũng rất hiện thực, khi ngài nói với cộng đoàn Ephêsô: “Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Anh em hãy duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau” (Ep 4, 2-3).
Cùng một tâm tình như thánh Phaolô, mới đây tôi nhận được lá thư “Chén Cơm Giáng Sinh 2008” của Đức Ông Giuse Hòang Minh Thắng, từ Rôma gửi đến quí anh em bạn bè và quí ân nhân thân hữu lời mong mỏi sẻ chia. Trong đó, ngài viết:
“Từ nhiều năm qua cuộc khủng hoảng kinh tế và mới đây trận cuồng phong tài chánh đã gây ra nhiều khổ đau, lo âu và thua lỗ mất mát cho nhiều người, nhưng trong hoàn cảnh đó các anh chị em sắc tộc lại càng đáng thương hơn. Tuy nhiên chính trong bầu khí khủng hoảng bấp bênh này có lẽ không có cách chuẩn bị nào tốt đẹp hơn là một cử chỉ bác ái yêu thương liên đới chia sẻ với các anh chị em nghèo túng nhất như người phong cùi, trẻ mồ côi và các anh chị em sắc tộc nghèo của vùng cao nguyên, từ xưa tới nay vốn vẫn bị thiệt thòi trên mọi bình diện.
Vì thế với lòng tin tưởng nơi sự hưởng ứng của mọi người chúng tôi lại mạnh dạn phát động chiến dịch quyên góp cho ”Chén Cơm Giáng Sinh 2008”. Trong tinh thần ”lá lành đùm lá rách” và ”góp gió thành bão” kính xin các bạn, qúy ân nhân và thân hữu gần xa mở rộng tâm lòng và đôi tay đối với các anh chị em kém may mắn hơn chúng ta.” (x. Chiến dịch Chén Cơm Giáng Sinh 2008 trong file đính kèm cùng với bài chia sẻ này).
Lạy Chúa Giêsu Kitô Vua,
Con vô cùng cảm tạ và ngợi khen tình yêu mà Chúa đã dành cho con, dù con yếu đuối, dù con tù túng trong đam mê tội lỗi và cả trong tật bệnh nữa. Nhưng Chúa vẫn yêu thương con bằng một tình yêu nồng ấm mà duy chỉ có Chúa mới đích thực là Nguồn Sống Vĩnh Cửu, là Vua Các Vua.
Xin Chúa ban cho chúng con cùng rung động theo nhịp đập trái tim chạnh lòng thương của Chúa để mọi người cùng yêu như Chúa đã yêu thương chúng con và cùng được ở trong Vương Quốc Tình Yêu của Người. Amen.
Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua, 23/11/2008
Phêrô Vũ văn Quí
Cách đây khá lâu, đã có một cuộc “bút chiến” trên mạng Internet , ( xin tạm gọi như thế ) khá thú vị về danh xưng “Cha và CON ”, liên quan đến một câu Thánh kinh tại địa chỉ Mt 23,9 : “Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là Rabbi, vì anh em chỉ có một Thày ; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một cha trên trời là cha của anh em” (Mt 23,9).
Cuộc tranh luận giữa 2 phía, một bên là vị Linh mục có sự hiểu biết rộng rãi cùng một vài giáo dân, mà trong đó, đáng chú ý là có một giáo dân cao niên cho biết rằng, đã từng có 70 năm sống đạo, vẫn thường xưng hô CHA - CON một cách tự nhiên mà chẳng thấy có gì lấn cấn. Bên này thì quyết bảo vệ quan điểm cho rằng, danh xưng CHA – THÀY là chính đáng và phù hợp. Một cách rất công phu, vị Linh mục đầy nhiệt tâm đã dùng cả từ nguyên ngôn ngữ học để định nghĩa nhiều danh xưng, và trích dẫn nhiều Kinh Thánh để minh chứng rằng, danh xưng CHA – THÀY là hoàn toàn phù hợp với Thần học và truyền thống .
Bên còn lại, gồm những người không cùng cách hiểu như trên. Họ cũng trích dẫn rất nhiều câu Kinh Thánh và minh chứng danh xưng CHA – CON đã tạo ra nhiều hệ lụy khó xử và đáng tiếc. Những lập luận và chứng lý của họ cũng đầy thuyết phục, không kém chút nào so với phía bên kia, nếu không muốn nói là tính thuyết phục đã vượt cao hơn hẳn .
Một ý kiến khác nữa, có tính dung hòa giữa hai quan điểm có vẻ trái ngược nhau thì cho rằng, sẽ tùy hoàn cảnh và tùy tuổi tác để xưng hô, sao đó cho phù hợp là ổn.
( Trên đây chỉ là vài nét minh họa. Xin vào Google, gõ chữ Ngô tôn Huấn, sẽ đọc rõ chi tiết về những tranh luận đã nói )
Thực ra, danh xưng CHA – CON vẫn luôn, và sẽ mãi còn là một vấn đề thời sự của những kẻ tin, vì thế, nhiều người Công giáo đã in và truyền tay nhau những bài viết liên quan đến vấn đề này. Một vấn đề đầy tính nhạy cảm và nhiều gai góc dễ bị chảy máu và tổn thương, vì thế, ít người muốn nói đến, và cũng chẳng mấy người muốn hào hứng lắng nghe, dù trong lòng vẫn tràn đầy những băn khoăn, ray rứt.
Văn hóa xưng hô và Hội nhập văn hóa
Giáo hội đã có rất nhiều thay đổi sâu sắc, từ sau cuộc ly giáo khổng lồ được khởi xướng từ Linh mục Martin Luther. Đỉnh cao nhất những đổi thay của Giáo hội được thể hiện trên giấy trắng mực đen, đó là những Văn kiện của Công đồng VAT II. Trong đó, vai trò của người giáo dân được nâng cao một cách đặc biệt, đến nỗi rằng, đã có hẳn một chương riêng biệt để nói về họ. Nhiều lắm, nhiều lắm những thay đổi của Giáo hội, đến nỗi, không ít người đã coi đây là một cuộc cách mạng chưa từng xảy ra trong lịch sử Dân Chúa.
Qua và sau Công đồng này, Giáo hội đã khẩn thiết kêu gọi phải xây dựng các nền thần học địa phương và coi hội nhập văn hóa như một nhu cầu cấp bách. Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa, trong một văn kiện được công bố ngày 23/5/1999, có đoạn viết :
“Đức tin mà không trở thành văn hóa là đức tin chưa được chấp nhận hoàn toàn, chưa được suy cho thấu và chưa được sống tới cùng”. Xa hơn một chút, văn kiện trên còn trích dẫn lời Đức Phaolô VI nói rằng : “Không nghi ngờ gì nữa : sự đoạn tuyệt giữa Tin mừng và văn hóa là một thảm kịch của thời đại hôm nay, như đã từng xảy ra như thế trong các thời đại trước”
Xây dựng một nền thần học địa phương là chuyện lớn, hội nhập văn hóa lại là một chuyện lớn khác, nhưng thiết nghĩ, văn hóa xưng hô giữa người và người, giữa giáo dân và chủ chăn, chính là và phải là bước khởi đầu quan trọng của hội nhập văn hóa và thần học địa phương. Liệu đây có phải là một giấc mơ xa vời hoặc quá đáng ?
Về các danh xưng CHA, ĐỨC CHA ….liên quan đến câu Mt 23,9, ký giả Victorio đã hỏi Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II về vấn đề này và được Ngài giải thích như sau :
“Đó là lối xưng hô đã bắt rễ từ lâu đời, nghĩa là dùng riết rồi quen, dù là nghịch ý của Đấng tối cao” (Đối thoại với Giáo hoàng, trang 250).
Đây là lời giải thích không ai có thể thẩm quyền hơn, vì Ngài là người tín hữu số 1, là vị tối cao thủ lãnh của Giáo hội. Rất rõ ràng, dù suy nghĩ với góc độ nào đi nữa, cũng không thể hiểu lầm lời Ngài giải thích.
Quả thật, theo giải thích của Đức Giáo hoàng JP II, những danh xưng như Cha, Đức Cha, Đức Thánh Cha….đúng là nghịch ý của Đấng tối cao, vì : “Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ mọi vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế ”( Pl 2, 6-7 ). Đức Giêsu đã “kenosis”, đã hủy mình ra không, khi đến trần gian chia sẻ phận người. Có một điều gì đó rất giống với tinh thần “vô ngã” của Đức Phật ở đây.
Tinh thần vô ngã ấy còn rõ hơn qua lời dậy của Đức Giêsu : “Ai muốn theo tôi, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mỗi ngày, mà theo tôi”.
Sự gắn bó, gần gũi và chan hòa của Đức Giêsu đã lên đến tột đỉnh khi Ngài nói với những kẻ theo mình : “ Kể từ nay, Ta không coi các con là tôi tớ, nhưng là bạn hữu thân tình, vì tôi tớ thì không biết việc của chủ làm, nhưng các việc của Ta đã được tỏ hết cho các con ”.
Xem như thế, với Đức Giêsu, chúng ta có thể gọi Ngài bằng thật nhiều danh xưng với đủ mọi cung bậc cảm xúc, tùy theo tâm tình của mỗi người và tùy lúc, tùy nơi : Lúc có thể là Cha, lúc khác lại là Chúa. Khi khác nữa, lại có thể thân thưa với Ngài như một người Anh Cả, một người bạn.
Và như thế, qua cách xưng hô CHA, Đức CHA…. với linh mục và các vị chủ chăn, quả thật, gần Cha mà xa Chúa biết bao. Vì Chúa đã hủy mình ra không, đã kenosis, và đã dậy từ bỏ mình, có đâu ta lại làm ngược lại, bằng cách gắn các danh xưng không phù hợp cho những kẻ theo Ngài ?
Những gây hại từ các danh xưng :
Sau một thời gian học hỏi, rèn luyện, và khi được xét là đủ tiêu chuẩn và đáp ứng được nhu cầu, người tu sĩ sẽ được gọi là CHA theo thói quen truyền thống trong một Thánh lễ với một vài nghi thức. Như thế, có gì là quá lời chăng, khi nói : sau một đêm ngủ dậy, thấy mình được ( bị ) gọi là Cha ? Vì, những xưng hô kiểu này phần nhiều chỉ gây hại và (ít nhiều) sẽ tạo thêm khó khăn cho người tu sĩ có tâm hồn hướng thượng một cách đúng đắn, vì các lẽ giản dị sau đây :
* - Gọi người tu sĩ là CHA, là trực tiếp góp phần vun bồi cái TÔI mỗi ngày một thêm phình to và kềnh càng hơn. Ai cũng có một cái TÔI riêng, nhưng cái TÔI nào cũng đáng ghét như lời ngạn ngữ đã nói. Thật vậy, từ sáng sớm lúc vừa mở mắt cho tới đêm khuya trước khi đi ngủ, xung quanh ai cũng gọi mình là CHA với hết lòng cung kính. Từ năm này qua tháng nọ cứ tiếp diễn như thế không ngừng, một cách dần dần và tiệm tiến, người tu sĩ như bị bao vây giữa các loại hào quang, cả thật và ảo, do mọi người tạo ra khởi đi từ cách xưng hô. Từ môi trường như vậy, một nhân cách mới sẽ dần hình thành như một điều không muốn, nhân cách CHA. Tu là sửa, nhưng người tu sĩ lúc này lại dễ thấy mình là CHA, hơn là một kẻ cần phải sửa mình như bất cứ ai. Điều này, không chỉ gây hại, nhưng sẽ là cực kỳ nguy hiểm trên đường tu thân, vì ngay từ trong tiềm thức, họ đang bị vong thân, đang tự đánh mất mình mà không nhận ra.
*- Gọi người tu sĩ là CHA, sẽ góp phần tạo ra các ảo tưởng về sự thánh thiện của bản thân : Trong thư gởi cộng đoàn Êphêsô đoạn 4, 11, Thánh Phaolô khẳng định, mọi tín hữu ( giáo dân và giáo sĩ ) đều có ân tứ linh mục, và giáo hội thưở ban đầu (sơ khai) là giáo hội không đẳng cấp, ai muốn lãnh đạo thì phải phục vụ. Tiếp nối và triển khai tinh thần của Thánh Phaolô, Công đồng VAT II đã nói đến Linh mục thừa tác ( giáo sĩ ) và Linh mục cộng đồng ( giáo dân ). Cách thế thực hiện của 2 loại linh mục tuy khác nhau, nhưng sẽ là hỗ trợ và bổ xung cho nhau.
Trên lý thuyết thì rất xuông sẻ và đầy vẻ tốt đẹp là thế, tuy nhiên qua thực tế, khi gọi Linh mục là CHA, tính hòa đồng không đẳng cấp thuở ban đầu kia sẽ bị thương tổn nghiêm trọng. Ngay cả sự kêu mời mọi tín hữu hãy trở nên một Kitô khác ( Alter Chrishtus ), cũng dễ bị lạm dụng và hiểu sai như đã và đang xảy ra. Thực vậy, đối với hầu hết giáo dân, cái danh phận Linh mục cộng đồng là một điều gì đó hết sức mơ hồ và rất xa lạ, có vẻ chẳng liên quan đến đời sống thực tiễn của người giáo dân. Họ chỉ biết có CHA, đang là vị Linh mục chủ chăn của họ, và CHA cũng chính là Alter Christus đang ở giữa họ. Nếu có nghe đâu đó và loáng thoáng về chức danh Linh mục cộng đồng của mình, thì họ vẫn thấy mình chỉ là Linh mục CON, khác hẳn Linh Mục CHA quen thuộc. Họ bị lấn cấn.
Và cũng như trên, cùng với cái TÔI phình to và kềnh càng, khi được ( hay bị ) gọi là CHA lâu ngày chày tháng, người được (bị) gọi dễ thấy mình là một Alter Christus, nhưng theo một chiều hướng khác hẳn và ngược lại, nghĩa là thấy mình như một kẻ độc quyền ban phát chân lý, còn mọi người xung quanh và dưới quyền chỉ là những kẻ ăn mày chân lý. Chính vì thế, tình trạng các CHA ít muốn hoặc không thực lòng lắng nghe đang rất phổ biến từ lâu nay là chuyện thật dễ hiểu. Nhiều lắm những minh họa về điều này. Chỉ xin kể một chuyện nhỏ đã được ghi lại trên giấy trắng mực đen. Thời Đức Tổng Giám mục Nguyễn văn Bình, khi có nhiều than phiền và những cáo giác không hay về các Linh mục của mình, Ngài đã ngậm ngùi nói đại ý rằng : “Khi còn là Thày thì còn nói được, nhưng nay họ đã là CHA thì khó nói lắm ”.
Tất nhiên, không phải tất cả Linh mục đều muốn được gọi là CHA.
Và cũng tất nhiên, không phải CHA nào cũng ít muốn hoặc không thực lòng mong được lắng nghe một cách đáng tiếc như thế. Vì vẫn luôn còn đó rất nhiều các vị chủ chăn thánh thiện, luôn âm thầm xả thân quên mình vì đoàn chiên, với các Ngài, các danh xưng và cả mọi kiểu xưng hô, đều chỉ là những chuyện ngoại thân và họ đủ siêu thoát để vượt lên tất cả. Các vị ấy, đều đang nhận được sức mạnh thực sự từ Chúa Giêsu, Đấng đã được Thánh Phêrô tuyên xưng là Con Thiên Chúa hằng sống, nhưng đồng thời, Ngài cũng bị nhiều người gọi bằng những cái tên chẳng danh giá chút nào như : bạn của phường thu thuế và tội lỗi, kẻ mê ăn uống, hoặc tệ hại hơn nữa : là đầu lĩnh của quỷ Benzebun …Sức mạnh của Thiên Chúa và sức mạnh từ con người, nhiều khi rất khó nhận ra và vì thế, đã gây ra nhiều ngộ nhận .
Những cách xưng hô có thể gây nhiều tai hại như thế, nên đừng để ai gọi mình, đã trở thành những nhắc bảo hết sức ân cần và thật thiết tha của Chúa qua ngọn bút Thánh sử Mathêu .( 23,9).
Từ những chuyện kém vui :
Ai cũng biết, mọi cách xưng hô đều luôn ít nhiều biểu lộ vị thế, tương quan hoặc quyền bính. Anh và em, con với cha, bạn và tôi….Từ quyền bính đến quyền lực và quyền lợi chỉ cách nhau một bước ngắn, rất ngắn. Quyền bính và quyền lực, đôi khi, có vẻ như trừu tượng khó nhận ra, nhưng quyền lợi lại thường thể hiện qua vật chất và hiện ra ở ngay trước mặt ( ở đây không nói đến quyền lợi tinh thần ).
Từ chuyện nặng quyền bính, đến mê quyền lực và cuối cùng, để sở hữu và hưởng thụ nhiều quyền lợi vật chất, tuy nói là cách nhau một bước ngắn, nhưng thực ra, luôn là những quan hệ hữu cơ không thể tách rời.
Cách đây vài thập niên, tại Đại hội Giám mục Châu Á họp tại Philipine, các Ngài đã thẳng thắn thừa nhận trong một văn kiện : “Chúng tôi đã biến Giáo hội thành một hải đảo trù phú, giữa một đai dương nghèo đói khốn khổ”. Cụm từ “giáo hội trù phú” ở đây, ai cũng ngầm hiểu đó là 1% giáo sĩ, và 99% còn lại là các giáo dân.
Trong một dịp được vinh hạnh đến viếng thăm Tòa Thánh năm 1491, Linh mục Savonarôla thật ngỡ ngàng trước cảnh giầu sang lộng lẫy của Giáo đô La Mã và đã được Đức Giáo hoàng Alexandrô giải thích : “Ngày nay Giáo hội không thể nói như Thánh Phêrô với người ăn xin ở cửa Đẹp ngày xưa - Tiền bạc Ta không có chi…” Nhưng lập tức, vị Linh mục này liền thưa lại rằng : “Cũng vì thế, Giáo hội không thể nói tiếp : Nhân danh Đức Kitô, anh hãy bước đi ””( Sử ký Hội Thánh Olsen, trang 446 ).
Sau khi đọc vài mẫu chuyện kém vui ở trên, có thể, nhiều người sẽ nhăn mặt cho rằng, những mẫu chuyện kia chẳng có liên hệ đến chuyện xưng hô CHA – CON, mà xưa nay, vốn đã là những chuyện nhỏ nhặt, không đáng kể. Toàn là những suy luận tào lao, bới bèo ra bọ và thổi phồng sự việc để quan trọng hóa vấn đề.
Suy luận trên cũng rất có lý, vì chuyện giầu hay nghèo của cả một giáo hội là chuyện rất lớn, và nếu so với cách xưng hô CHA – CON thì tưởng như quá nhỏ bé, quá vặt vãnh, và cũng tưởng như chẳng có liên quan gì. Nhưng vấn đề muốn nói ở đây chỉ là chuyện quyền bính, quyền lực và quyền lợi. Mà cách xưng hô CHA – CON chính là khởi đầu biểu lộ quyền bính vậy.
Ngày 12/3/2000, tại Rôma, Đức Giáo hoàng JP II đã long trọng cử hành nghi lễ Sám hối. Ngài đã thành khẩn xin lỗi thế giới cùng nhiều dân tộc về 7 nhóm tội : 1/ Dùng bạo lực để phục vụ Chân lý. 2/ Gây chia rẽ trong Giáo hội. 3/ Chống lại tình yêu thương, hòa bình và các nền văn hóa khác. 4/ Bất công đối với những người nghèo khổ……
Toàn là những tội nặng ký khó bề giảm khinh, những tội từ bản chất đều liên quan đến quyền bính, quyền lực và quyền lợi. Chẳng ai khảo mà lại xưng. Đúng là một kiểu vạch áo cho người xem lưng. Thật khó lòng chấp nhận. Ban đầu, sau khi Đức Giáo hoàng xin lỗi, đã có rất nhiều những suy nghĩ kiểu như thế, cũng đã có không ít những lo lắng và cả sợ hãi nơi nhiều người. Nhưng thời gian qua đi, thế giới đã nhìn rõ dung mạo của một vị anh hùng kiệt xuất, mà một trong các hành động ấy là đã dũng cảm công nhận những thiếu sót, cả nhiều vấp phạm của cộng đồng mình. Một sự dũng cảm đến mức anh hùng, dù hơn 2000 năm đã qua, nhưng đến nay lần đầu tiên mới có dịp bộc lộ và tỏ rõ. Chính nhờ như thế, toàn thể nhân loại mỗi khi có dịp nói về người Công Giáo, mọi người đã thêm nhiều mến yêu cùng biết bao nể phục.
đến các vị chủ chăn không muốn được gọi là Linh Mục …..:
Do những tồn tại khách quan của lịch sử, từ thế kỷ thứ IV, các triều đại Vua Chúa La mã đã can thiệp quá sâu vào các mặt sinh hoạt của Giáo hội, vì thế, những ảnh hưởng của các thế lực ấy là không thể tránh khỏi. Thậm chí, các ảnh hưởng ấy còn kéo dài và tồn tại đến mãi ngày nay. Thực vậy, Giáo hội của chúng ta, về mặt hình thức vẫn là một thể chế mang nhiều tính quân chủ, với một triều đình thực sự, cùng với nhiều ngôn từ phong kiến như Monseigneur ( Đức ông ), Princes de l’Eglise ( Hoàng tử, Hoàng Thân của Giáo hội …cùng những cách xưng hô như Excelleence, Eminence, Révérendissime ….và các phẩm phục của các triều đại xa xưa thuộc La Mã cổ thời.
Đọc Lịch sử Giáo hội, bên cạnh những trang sáng lạn huy hoàng, ta thấy có nhiều trang rất u ám, và ở nhiều trang khác, Giáo hội lại thể hiện là một xã hội bất bình đẳng từ bản chất. (1) ( xin đọc Người giáo dân VN, sau 40 năm CĐ. GS Trần duy Nhiên). Không ai có thể phủ nhận những thực tế khách quan ấy, nhưng ai cũng muốn tin rằng, lịch sử vốn luôn sống động và đang tiến về phía trước cùng với nhiều thay đổi, nên cái bất bình đẳng kia chỉ là những kỷ niệm của một quá khứ kém vui mà thôi.
Và cái điều muốn tin về một giáo hội bình đẳng miên viễn ấy luôn có cơ sở vững chắc. Cơ sở trước hết để dựa vào chính là Đức Giêsu, vì Ngài vừa là Chúa, vừa là Cha và là Thầy, nhưng Ngài cũng luôn muốn là Bạn, là Trưởng tử, là người anh Cả của các đàn em ở mọi thời. Cơ sở vững chắc tiếp theo để dựa vào, chính vì đang có không ít chủ chăn chẳng muốn bị ai gọi mình là CHA.
Đã có linh mục, dù là không còn trẻ, nhưng ngay trong bài giảng đầu tiên khi về nhận xứ, Ngài đã xin với mọi người rằng, hãy coi mình như một người thân thực sự của gia đình, xin gọi Ngài là Anh, là em, là cháu, là cậu tùy theo tuổi tác. Cùng lắm, thì cứ gọi là Linh mục, nhưng xin đừng bao giờ là CHA. Bài giảng và thái độ của Ngài, ngay lập tức đã gây không ít ngạc nhiên đến ngỡ ngàng trong mọi thành phần giáo dân.
Tiếng lành đồn xa, có nhiều người hiếu kỳ đã đến thăm hỏi và tìm hiểu, Ngài luôn trả lời rất ân cần và lịch sự nhưng cũng vừa đủ, đại ý rằng : “Gọi là CHA không có gì sai, nhưng chỉ là ở đấy, thời bầy giờ là phù hợp, còn ở đây, và bây giờ thì không.. ”
Cũng đã có Linh mục, dù tuổi đã cao, nhưng Ngài vẫn tích cực viết lách, và viết rất hấp dẫn. Không chỉ thế, Ngài còn là tư vấn hôn nhân và nhà xứ của Ngài, đã trở thành một địa chỉ hết mực tin cậy của rất nhiều gia đình thuộc đủ mọi giới, cả lương lẫn giáo. Khi người ta hỏi, phải xưng hô như thế nào cho phù hợp, thì Ngài chỉ cười khà khà và nói rằng : Xin cứ gọi tôi là Anh Tư, nếu trong nhà còn anh Ba. Hoặc, xin được gọi là chú Năm, nếu trong nhà có chú Tư…..Rất nhẹ nhàng và hồn nhiên, cứ như thế, ai cũng có một cách xưng hô phù hợp tùy theo mình, và cũng cứ như thế, Ngài luôn là người thân của mọi người, mọi nhà, gần gũi như hơi thở, tự nhiên như khí trời.
Đã có vị Giám Mục, nổi tiếng viết lách và là lò đào tạo các Giám mục, mỗi khi gọi điện thoại đến Ngài, thì ở đầu giây bên kia luôn được nghe : “Ơ ! mình đây ”. Ngài rất ngại cái từ : “Đức Cha”, và cũng ngại luôn cả cái từ “Giám mục” lúc riêng tư, dù người nói chuyện với Ngài thuộc hàng em cháu về tuổi tác và chỉ đáng là học trò về mọi mặt.. ..
Cũng có vị Giám mục, dù đang phụ trách một Giáo phận lớn, nhưng có lần, Ngài đã trở thành một kẻ chạy bàn ăn cho người giáo dân rất hồn nhiên vui vẻ, lúc thì lấy thêm chút nước mắm, lúc lại mang thêm chai nước và thường nói chuyện tếu thật vui ( Ngài đã ăn cơm trước đó rồi ). Những trường hợp tương tự như thế, mọi danh xưng và các kiểu xưng hô, dù có gọi hoặc được gọi là gì đi nữa, cũng chẳng ai muốn đặt ra hoặc nghĩ đến, vì tất cả đều trở thành thừa thãi.
Tuy nhiên, vẫn không ít vị mục tử lại dị ứng với từ linh mục, khi người giáo dân : “Thưa Linh mục và xưng Tôi,” thì các Ngài như bị xốc nhẹ, vẻ không hài lòng tuy là thật kín đáo, nhưng cũng rất đủ để mọi người nhận ra. Tất nhiên, với một quan hệ khởi đầu không mấy xuông xẻ như thế, ai cũng hiểu mọi chuyện tiếp theo (nếu còn tiếp tục) với những vị này sẽ chẳng mấy thuận lợi. Nếu cứ như sự thường như mọi người mà : “Thưa Cha, và xưng Con ….” thì sẽ chẳng có điều gì xảy ra.
Một vị mục tử khác, rất hài lòng về một giáo dân nọ, vì biết những việc tốt đẹp mà người giáo dân này đã làm, từ đó, Ngài muốn mời cộng tác. Nhưng khi tiếp xúc gặp gỡ, người giáo dân kia đã : Thưa Giám Mục và xưng Tôi. Mọi quan hệ từ đó bỗng nhiên trở nên xấu hẳn, tất nhiên, cũng từ đó, sự cộng tác đã dự định ban đầu kia không ai muốn đặt ra nữa. Vì từ cả 2 phía, chẳng ai muốn tiếp tục một quan hệ khập khiễng và kém vui ngay từ đầu như vậy. Nếu người giáo dân này biết xưng hô giống mọi người, nghĩa là : Thưa Đức Cha và xưng là Con. Rất có thể, mọi chuyện sẽ đổi khác. Điều cần nói thêm, tuổi tác của họ chỉ sấp sỉ ngang nhau.
***
Trở lại với phần đầu bài viết, vì đã nhắc đến một giáo dân có 70 năm sống đạo với kiểu xưng hô CHA - CON mà không chút nào lấn cấn. Điều tự hào của vị giáo dân này là hoàn toàn chính đáng và hiểu được. Vào cái thời mà người giáo dân thường : “Con xin phép Lạy Cha ”. Phải xin phép trước, rồi mới được lạy sau, thì chuyện xưng hô CHA – CON là rất bình thường và tự nhiên..
Ở đấy, bấy giờ thì rất phù hợp. Nhưng ở đây, bây giờ mà còn như thế, thì rất cần phải xem lại, về nhiều mặt.
Nhưng xem lại như thế nào và phải bắt đầu từ đâu là chuyện chẳng dễ dàng gì, vì đây đã là não trạng, đã là nếp nghĩ ( cách nói của Giám mục tân cử Nguyễn văn Khảm thường dùng). Mà não trạng thường chỉ được hình thành từ rất lâu đời, như Đức Giáo hoàng JP II đã giải thích ở những giòng trên.
Song le, ai cũng biết rằng, để có thể sống không trái ý của Đấng Tối Cao, rất nhiều khi cần phải lội ngược giòng, mà điều này lại hoàn toàn tùy thuộc vào sự dũng cảm nơi mỗi người và mỗi giới của cộng đồng Dân Chúa.
Có thể, ước mơ vẫn mãi chỉ là ước mơ, vì những vấn đề đã nêu ở trên chẳng có gì mới lạ và cũng là điều ai cũng đã biết, mà còn biết rất rõ.
Nhưng cũng rất có thể, ước mơ trên sẽ thành hiện thực sau 1000 năm, hoặc có thể sớm hơn, chỉ khoảng 100 năm nữa thôi. Dù như vậy, cũng không thể ngừng, để tự ngăn cấm mình đừng mơ ước, vì đã lỡ được làm người, mà đã làm người ai tránh khỏi ước mơ.
Xuân Thái.
(1) B. Trong quá trình lịch sử.
Nhưng Giáo Hội cũng là một tổ chức nên phải có sự phân công. Và cách phân công ấy mặc lấy cái tôn ti trật tự của xã hội mà con người đang sống. Sau ba thế kỷ sống trong tình trạng ‘chui’, và các nghi lễ phụng vụ được cử hành trong những nhà tư nhân hoặc dưới hang toại đạo, Giáo Hội được tự do tuyên xưng đức tin mình kể từ năm 313, qua Sắc chỉ Milan, dưới triều đại của Hoàng Đế Constantin. Kể từ đó cho đến Vatican II, dựa vào mẫu cai trị của Đế Quốc La Mã, tiếp theo là của các triều đại vua chúa, giáo dân trở thành thần dân của các vị lãnh chúa giáo sĩ! Tinh thần này ăn sâu vào nếp suy nghĩ của Giáo Hội đến độ suốt quá trình lịch sử, không ai đặt vấn đề trở về với khái niệm Dân Thiên Chúa của thời Giáo Hội sơ khai. Lịch sử Giáo Hội đã trải qua 22 Công Đồng chung, và ngoài Vatican II ra, 21 Công Đồng trước không bao giờ nhắc tới Dân Chúa, hay Giáo Dân cả. Vatican I chỉ có hai văn kiện, mà một văn kiện là để xác định quyền bất khả ngộ cho vị giáo sĩ đứng đầu Giáo Hội: Đức Giáo Hoàng. Lục lại văn kiện Giáo Hoàng thì bản văn xưa nhất có nói đến ‘laicus’ là Sắc thư Clericis laicos (1296) của Đức Giáo Hoàng Bonifaciô VIII. Trong thư này, Đức Bonifaciô VIII cấm các giáo sĩ đóng thuế thập phân (décime) cho nhà Vua Philippe le Bel của Pháp, là một quyền lực ‘laicus’, nghĩa là một quyền lực ‘đời’ (= không phải là giáo sĩ). Và trong văn kiện cuối cùng trước Vatican II, thông điệp Vehementer nos của Đức Giáo Hoàng Piô X gửi nhân dân Pháp, ngày 11-02-1906, thì tư cách thứ dân đó được nói lên một cách minh nhiên: giáo dân được gọi là ‘đàn chiên’ và ‘quần chúng tín hữu’ trong một Giáo Hội ‘tự bản chất là bất bình đẳng’:
“Kinh Thánh dạy chúng ta, và truyền thống Giáo Phụ khẳng định, rằng Giáo Hội là Thân Thể Mầu Nhiệm của Chúa Kitô, một Thân Thể được điều hành bởi các mục tử và thầy dạy (Ephs. IV,11), vì vậy, ấy là một xã hội con người trong đó các thủ lãnh có đầy đủ và trọn vẹn quyền cai trị, giảng dạy và xét xử (Matt XXVIII, 18-20; XVI, 18-19; XVIII, 17; Tit II, 15; II Cor X,6: XIII, 10, v.v.)
Do đó, Giáo Hội này tự bản chất là một xã hội bất bình đẳng, nghĩa là một xã hội bao gồm hai hạng người: chủ chăn và đàn chiên, những người giữ một địa vị ở các cấp bậc trong phẩm trật và quần chúng tín hữu; và hai hạng này khác biệt với nhau đến độ mà, chỉ ở trong hàng ngũ chủ chăn thôi thì mới có quyền hạn và thẩm quyền cần thiết để thăng tiến và lãnh đạo tất cả mọi thành viên đến cứu cánh của xã hội! Về phần quần chúng, họ không có bổn phận nào khác hơn là để cho chủ chăn dẫn dắt và, với tư cách là đàn chiên ngoan ngoãn, đi theo các chủ chăn của mình”[1] (Người viết nhấn mạnh. TDN)
Khổng tử có nói : « Vì lợi ích 10 năm trồng cây, vì lợi ích 100 năm, giáo dục con người ». Ngày nay, với kỹ thuật tân tiến, người ta có thể thu hoạch chừng vài năm sau khi trồng cây ăn trái. Nhưng quả thật đối với việc giáo dục con người thì phải qua nhiều thế hệ để có thể đánh giá đúng giáo dục, để có thể thay đổi quan niệm và lối sống của một con người.
Nước Việt-Nam chúng ta trải qua một thời gian dài chiến tranh. Mất mát chắc chắn phải có. Qua báo chí tường thuật trong nhiều năm liên tiếp về giáo dục, chúng ta có thể rút ra một suy nghĩ sự mất mát lớn nhất chính là sự thiếu sót quan tâm đến giáo dục những đức tính nhân bản của con người. Thư chung của HĐGM VN đề cập đến điều đáng lo ngại cho nước Việt : « Hình như người ta chỉ quan tâm đến việc phát triển kinh tế mà coi nhẹ chiều kích phẩm giá con người » (câu 15). Là người Việt-Nam, ai ai trong chúng ta cũng cảm thấy đau lòng khi đọc một bài báo có nhan đề « Bệnh gian dối » được đăng trên báo Tuổi trẻ Chủ Nhật, số 32, tháng 8/2001.
Ngày nay một bệnh khác cũng đang lan tràn nơi học đường : Trò đánh thầy và thầy đánh trò. Xin nêu lên vài sự kiện tiêu biểu :
- Đã đi học chậm giờ, lại không thèm vào lớp làm bài kiểm tra và bỏ ra ngoài. Khi bị thầy Cường ghi vào sổ đầu bài thì Quảng đã gọi bạn đến và « thượng cẳng, hạ cẳng tay » với thầy giáo. Lúc Thầy Cường đang giảng bài thì học sinh Hoàng Đại Khánh (Lớp 12C5) cầm một cây gậy gỗ xong vào đánh vào đầu vai thầy. Cùng lúc, Quảng xông vào đấm đá thầy Cường túi bụi…Tòa án Nhân Dân Tỉnh Quảng Ninh vừa xử lưu động, tuyên phạt Hoàng Đại Khánh 6 tháng tù treo, Hồ Công Quản 6 tháng tù treo về tội phá rối trật tự cộng cộng. (Theo VnExpress ngày 26/08/2008)
- Thông tin từ Công an thị trấn Vĩnh Hưng (huyện Vĩnh Hưng) ngày 28/05/08 cho biết, thầy giáo Nguyễn văn Hải – giáo viên trường THPT Vĩnh Hưng bị một học sinh đánh trọng thương đang nằm điều trị tại bệnh viện đa khoa huyện. (Lao Động số 120 ngày 29/05/2008).
- Ngày 31/3, giáo viên Bùi Văn Ham ở trường THPT Nguyễn Văn Tiếp (xã Tân Hòa Thành, Tân Phước, Tiền Giang) ra quán giải khát gần trường để uống nước. Cùng lúc, Lê Văn Sang 19 tuổi và Nguyễn Nhật Trường 18 tuổi cùng ở xã Tân Hòa vào quán. Khi gặp thầy cũ trong quán nước, hai thanh niên mỗi người cầm một chai nước ngọt đánh vào đầu thầy, vừa đánh vừa hỏi : « Thầy còn nhớ em không ? Khi em còn đi học Thầy đã gây khó khăn ».. Theo http://www.suctrevietnam.com/, ngày 03/04/2008
- Ngày 7/7, TAND thành phố Buôn Ma Thuột, Đăk Lăk xử sơ thẩm, tuyên phạt Vũ Hoàng Hiếu 2 năm tù treo về tội cố ý gây thương tích. Hiếu là học sinh lớp 11 đã ném đá, dùng một đoạn gậy có đóng đinh vụt liên tiếp vào đầu thấy giáo dạy môn toán. (Theo báo Pháp Luật TPHCM)
Hiện trạng Trò đánh Thầy xảy ra ngày càng nhiều. Đồng thời hiện tượng « Thầy đánh trò » cũng song hành :
- Đình chỉ công tác giáo viên Trương Trần Quang Sơn, người đã dùng roi mây đánh em Nguyễn hoàng Long (học sinh lớp 9A4 trường THPT Đống Đa, TP Đà Lạt) khiến em phải nhập viện. (Theo vnExpress.net ngày 17/04/2008).
- Thầy Giang dạy toán em Đoàn Hoài Thanh trường THCS Xuân Diệu (TP Mỹ Tho) đã đánh 3 học sinh ngay tại lớp 8/11. Trong đó có một học sinh bị đánh gãy xương… (theo VietNamNet.vn ngày 13/05/2008).
Rồi đến những tin tức có tựa đề « ngựa chứng sân trường » thông tin những tin tức đại loại như : « Chốn học đường thường được xem là môi trường an toàn, nhưng giờ đây đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi tình trạng học sinh hành xử nhau theo kiểu xã hội đen » ; « có một nhóm học sinh trong trường tổ chức trò chơi « bốc thăm » đánh nhau. Nếu học sinh nào có mã số trùng với lá thăm sẽ bị … đánh » ; « Em H. một học sinh từng bị đe dọa « bị đánh bất kỳ lúc nào » ; « sáng ngày 19/11, chúng tôi gặp H, HS một trường THCS ở Tân Bình, đang mếu máo đứng bên hông trường. Em cho biết vừa bị mấy anh lớp trên lấy cặp nên không dám về » có HS tham gia (chủ yếu HS cấp II, cấp III) cũng đang là vấn đề nhức nhối hiện nay » ; « theo tìm hiểu, phần lớn HS bị hà hiếp, bắt nạt không dám báo thầy cô vì sợ bị trả thù »…. ; nhiều « hiện tượng trấn lột, cưỡng đoạt tài sản…..
Tại sao ngày hôm nay người ta nói đến những tiêu cực nơi học đường đến thế?
Nhìn sơ qua lịch sử sẽ cho ta hiểu hơn về cơn khủng hoảng hiện nay của nhà trường nơi mà các thầy cô hằng ngày đối đầu với những học sinh mà họ coi là "khó tính".
Một sứ mệnh cần được xác định
Ngày nay, nhiều khi người giáo viên không biết một cách rõ ràng sứ mệnh nào họ phải thực hiện nơi nhà trường của mình: những cuộc khủng hoảng, những cải cách của hệ thống giáo dục liên tục và những nhu cầu của người trẻ thay đổi quá nhanh và không ngừng, theo đà tiến của xã hội làm người thầy bị dao động, nghi ngờ chính lợi ích của công việc của mình.
Những sự dao động nầy, những sự bất an nếu không chuẩn bị trước, và về lâu về dài, đã và sẽ dẫn đến những sự rất khó chịu nơi các thầy cô và học sinh.
Ngày nay một số các thầy cô thường khi có cảm giác là bị mất đi căn tính của mình. Họ đau lòng vì phải đặt lại vấn đề về quy chế xã hội của họ, về chức năng của họ, về những phương pháp của họ và về vai trò của họ nơi nhà trường. NHIỀU THẦY CÔ CẢM THẤY XA LẠ ĐỐI VỚI VĂN HOÁ VÀ CÁCH CƯ XỬ CỦA NHỮNG NGƯỜI TRẺ, NHẤT LÀ NHỮNG NGƯỜI TRẺ XUẤT THÂN TỪ NHỮNG MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI KÉM MAY MẮN hoặc cả những người trẻ có cơ hội tiếp xúc với những nền văn minh khác . Họ còn ở trong một lý tưởng của nền văn hóa phổ cập, với một sự lưu luyến nào đó cái thời vàng son, với những đòi hỏi, những nguyên tắc, và những giá trị mà ngày nay những cái đó không còn thấy hay thậm chí bị đảo lộn trong cuộc sống ngoài nhà trường hoặc ngay trong nhà trường, và đối với một số học sinh, tất cả những điều đó dường như lạ lẫm đối với cuộc sống hằng ngày.
Về phía các học sinh ngày nay, nhiều khi chúng không thể tiếp thu nội dung học tập hoặc phương pháp giảng dạy mà thầy cô hay gia đình hoặc xã hội cung cấp cho chúng. Điều nầy đúng khi nói rằng ngày xưa « hệ thống giáo dục và gia đình truyền đạt đến cho con nít rồi đến thanh niên những giá trị mà không ít thì nhiều những người nghe đều đồng thuận » [1]. Nhưng cũng đúng khi nói rằng ngày nay « gia đình cũng như nhà trường không có nơi nào truyền đạt đúng mức những giá trị » [2] . Cũng đúng khi nói rằng ngày xưa người ta hài lòng rồi khi « áp dụng những nguyên tắc tiếp thu được nơi gia đình và học đường » [3]. Và cũng đúng khi nói rằng ngày hôm nay « vì lý do xã hội thay đổi quá nhanh, mỗi cá nhân phải khám phá ra những giá trị tức thời, và không thể chỉ hài lòng sử dụng những điều mà người ta đã dạy cho họ khi còn bé » [4]. Cho nên người trẻ khi vào đời chưa được trang bị về lối sống trong xã hội lẫn nghề nghiệp, vì vậy mà họ bắt buộc phải thích nghi với mỗi hoàn cảnh xã hội mà họ sống.
Văn hóa nơi học đường đó quá xa vời với cách sống, với những nhu cầu và những nguyện vọng của nhiều bạn trẻ, cho nên coi như nó kết án các bạn trẻ trong sự thất bại với cảm tưởng là việc học hành nơi nhà trường không cần thiết nữa, bởi vì số phận nơi học đường và ngoài xã hội của chúng đã được vạch sẵn.
Tùy theo lứa tuổi của chúng, tùy theo đời sống nơi học đường của chúng trước đó và những khó khăn gia đình hay xã hội của chúng, những người trẻ nầy sẽ chấp nhận theo những cách cư xử loại trừ, từ chối làm việc nơi nhà trường, thấy bất lực và có cảm tưởng là vô tích sự.
Nhiều thầy cô sống trong môi trường bất an, đôi khi sợ sệt : sự thinh lặng mà mỗi người khư khư giữ lấy đối với những khó khăn của mình, sự thinh lặng đó được liên kết với một cảm giác tội lỗi, bất lực, nó sẽ dẫn đến sự mệt mỏi và căng thẳng thần kinh ghê gớm.
Vì vậy, đối diện với những học sinh được coi là "khó", tất cả những thầy cô, một ngày nào đó, có thể thấy mình gặp khó khăn khi chưa được sáng tỏ và chưa xác tín sứ mạng của mình trong vai trò giáo dục.
1-Người học sinh “khó”, tại sao?
a) Một bối cảnh kinh tế và xã hội không ổn định
Nhiều người trẻ ngày hôm nay phải đối diện với một môi trường xã hội bị khủng hoảng : khủng hoảng về công ăn việc làm, khủng hoảng trong gia đình và khủng hoảng đối với « những giá trị ».
- khủng hoảng về công ăn việc làm : nó đồng hành với sự nghi ngờ về tính hiệu năng của nhà trường, về ích lợi của việc học, vì thấy có người học hành không bao nhiêu mà vẫn kiếm tiền dễ dàng.
- khủng hoảng gia đình : mối quan hệ gia đình bị dao động, sự buông lỏng vai trò giáo dục của cha mẹ vì công ăn việc làm, không còn thời gian dành cho con cái. Vì vậy mà không thể đảm trách việc giáo dục con cái hay theo dõi việc học của chúng. Hoặc ngược lại, họ có khuynh hướng đồng hóa với người trẻ, đối xử như ngang hàng với chúng trong khi chúng lại cần những người lớn để quy chiếu, để giúp chúng xây dựng con người của mình .
- khủng hoảng về các giá trị : những giá trị truyền thống (việc làm, cố gắng, nhân bản) không còn được coi trọng, tất cả được đặt trên cùng một mặt phẳng, bị soi mòn, và đôi khi, thậm chí bị đảo lộn vì chúng không còn được nhìn nhận ở ngoài nhà trường. Làm sao người trẻ còn nhạy cảm đối với những lời chỉ giáo về những đức tính nhân bản trong một xã hội mà những giá trị nầy bị đặt lại vấn đề và bị người ta coi thường ?
Chính là ý nghĩa của nhà trường, và cách tổng quát hơn, ý nghĩa của cuộc sống được đặt lại vấn đề. Vì vậy chúng ta suy nghĩ thấy rằng phải chăng người trẻ thay đổi hay người trưởng thành đã hiệu chỉnh nội dung tâm lý của quan hệ giáo dục : không phải người trẻ muốn đồng hóa với người thầy nữa, nhưng ngược lại người thầy lại muốn đồng hóa với người trẻ, muốn cho giống chúng.
Boris Cyrulnik, nhà tâm thần học và nhà chuyên khảo về tập tục tỏ ra lo ngại mà rằng : "Chúng ta đang ở trong một xã hội mà ý nghĩa bị đập tan. Thời giờ, công việc, gia đình được đặt lại vấn đề...Gia tốc của thời gian không còn cho phép khả năng thấm nhuần vào bản thân, vào những hành động, vào những đối tượng lịch sử và cuộc sống...Nếu chúng ta không thể cho lại thế giới một ý nghĩa, thì chúng ta sẽ phải phục tùng những sự vật và những xung năng của chúng ta."
b) Khủng hoảng tuổi thanh niên
Tuổi thanh niên là một thời kỳ chuyển đổi, bắt đầu từ tuổi dậy thì và chấm dứt khi cá nhân có khả năng sống độc lập, tự túc, nghĩa là có khả năng khẳng định những tiêu chuẩn riêng của mình.
Theo Dolto, một bạn trẻ ra khỏi tuổi thanh niên khi anh ta có khả năng thoát ra khỏi ảnh hưởng của cha mẹ và khi sự lo âu của cha mẹ nó không còn phát sinh nơi nó hiệu lực bị ức chế.
Tuổi thanh niên được diễn giải bằng những biến đổi sâu đậm trên bình diện thể lý, trí tuệ, tâm lý và xã hội : biến đổi thể xác, giã từ tuổi thơ, hay mơ mộng, dễ cảm xúc, hay lo buồn nhưng không biết « vì sao tôi buồn »…Trong quan hệ đối với cha mẹ cũng đổi khác : cần sự độc lập, vừa cảm thấy cần tình thương của cha mẹ, nhưng vừa lại muốn ở xa xa, muốn tách biệt.
Đối với các thầy cô : đây là lúc người thiếu niên thì đi tìm những mẫu gương khác ngoài cha mẹ : những minh tinh, những thần tượng, những bạn bè lớn tuổi hơn, nhưng cũng ở nơi người trưởng thành chung quanh và cách riêng ở nơi thầy cô hay các nhà giáo dục mà nó sống bên cạnh. Nó có thể đi đến việc chọn họ như người thay thế cha mẹ chúng với một yêu cầu tình cảm rất mạnh. Và nó muốn đồng hóa với kẻ mà nó coi là thần tượng. Có khi người thiếu niên coi người thầy như là một phản chiếu của cha nó chẳng hạn và như vậy nó sẽ phản ứng lại với ông thầy như là nó phản ứng với cha nó. Có thể đó là một phản ứng hiếu chiến, không thể giảng nghĩa, và rất khó hiểu đối với thầy giáo.
Sự biến đổi nầy rất có ảnh hưởng đến người thanh niên. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy có những học sinh rất ngoan khi học lớp sáu, lớp bảy. Nhưng đùng một cái nó trở thành « ngựa chứng » khi bước vào lớp tám ! Vì vậy, nhà giáo dục cần học hỏi những biến đổi nầy để đồng hành tốt với các em. Sự so sánh nầy của Ông Dolto giúp chúng ta hiểu rõ thêm về sự yếu đuối của người trẻ, như một con tôm hùm mất vỏ khi lột xác mà rằng :" Để hiểu rõ sự cùng quẫn, sự yếu kém của tuổi thiếu niên là cái gì, chúng ta hãy mượn hình ảnh của những con tôm hùm khi chúng mất vỏ cứng bên ngoài : chúng núp dưới những hòn đá lúc đó, trong thời gian tạo nên một lớp vỏ mới để chống đỡ được. Nhưng, nếu trong lúc chúng dễ bị tổn thương, mà chúng lãnh những cú đánh, chúng sẽ mang thương tích suốt đời, vỏ bọc sẽ che những vết sẹo nhưng sẽ không xoá chúng đi."
2- Một đời sống nơi học đường không được thỏa mãn
Những « sự cố » xảy ra trong nhà trường mà chúng ta được biết qua kinh nghiệm hay qua báo chí, điều đó minh chứng rằng : « trong các nhà trường, tất cả không được tốt đẹp như có thể ». Thật vậy, các học sinh có cảm tưởng là không có quyền phát biểu hoặc không được các thầy cô giáo tôn trọng, quý mến thật sự hoặc phải chịu đựng việc giảng dạy áp đặt cho chúng một cách quá tải.
Một sự giảng dạy không được thích nghi
Nhiều học sinh tốt nghiệp đại học, muốn đi làm phải được đào tạo thêm. Chúng cảm thấy có một sự chênh lệch giữa những việc học quá sách vở, trừu tượng "vô ích" và những ưu tư trực tiếp của chúng. Chúng coi rằng nhà trường không mở đủ ra thế giới bên ngoài, nhà trường ở quá xa những tiến hoá kỹ thuật và của thế giới những xí nghiệp: nhà trường không giúp đỡ một cách thực tế để đối mặt với tương lai.
Cuộc hành trình học của học sinh thường khi có những nét giống với một cuộc chạy qua các chướng ngại vật rải rắc những thất bại và những sự từ bỏ.
Nhiều học sinh - và cả cha mẹ - sống trong sự ám ảnh về điểm, về việc lưu ban có thể, về một định hướng sớm. Sự chọn lựa đầu tiên là trường mẫu giáo, rồi đến trường cấp 1. Sau lớp 5 thì chọn Trung học cơ sở. Những gia đình khá giả có thể chọn trường tốt hơn. Cha mẹ ở tỉnh có thể đưa con vào thành phố lớn để tiếp tục việc học. Sau lớp 9 thì việc định hướng và chọn trường dường như gắt gao hơn, tùy theo số điểm tốt nghiệp hay phải thi vào lớp 10 và theo nguyện vọng. Một số phải bỏ học và chuyển sang học nghề.
Các học sinh có chọn lựa chăng ? Người ta có cảm tưởng, qua những lời chứng của chúng, rằng trong suốt cuộc đời học sinh, chúng thường khi được bị ép buộc hơn là chọn lựa. Chúng phải đến một trường hay đi đến nơi mà chúng không chọn lựa vì không đủ điểm hoặc do cha mẹ sắp xếp, thậm chí phải học trường mà chúng không thích.
Học sinh không được đánh giá cao
Trong lớp học, khoảng không gian đóng kín và nhỏ hẹp, thường khi người học sinh bị ép buộc ngồi yên, thường là im lặng, nghe các giáo sư. Thường khi lời nói của học sinh được thầy cho phép là chính lời nói được thầy gợi lên. Vì vậy, người trẻ, thinh lặng, tùng phục, không có cảm giác được nhìn nhận như là một cá nhân. Một anh học sinh cấp 3 nói : "tôi không có cảm giác mình là những con người mà là những đồ vật".
Các học sinh sống như chẳng có quyền gì cả. Chúng không có gì để nói về cái có liên quan đến việc học của chúng, đến những mục tiêu, đến việc giảng dạy được phân phát cho chúng, đến những phương pháp làm việc. Tóm lại, các học sinh bị loại trừ khỏi tất cả mọi sự tham gia vào các quyết định có liên quan đến chúng.
Những người trẻ nầy tự coi như càng bị khinh miệt hơn nhất là khi chúng đối chiếu với sự thất bại. Vài em tin là mình "ngốc", vài em khác nghĩ rằng chúng sẽ không bao giờ đi đến đâu hết. Thật vậy, cha mẹ và các giáo viên có thể sử dụng một áp lực như thế trên người trẻ - vì sợ thất bại và sự tuyển lựa - vì khi cậu thất bại, thì cậu có một hình ảnh rất tiêu cực về mình, cảm thấy có tội và từ sự việc đó, nhận về mình tất cả trách nhiệm của sự thất bại. Nhiều học sinh, từ khi các kết quả giảm xuống, đau khổ vì bị các sự xét đoán tiêu cực qua lời phê của các thầy cô, bởi vì những sự xét đoán nầy củng cố thêm cảm tính nghi ngờ của chúng, sự chán nản, ngay cả tuyệt vọng nữa, khi chúng không thành công trong lớp.
Hội chứng thất bại học hành
Luôn bị ám ảnh vì thất bại, khinh bỉ mình, sự xấu hổ, sự nhục nhã và buồn phiền, sẽ dẫn đến những di hại tâm lý sâu đậm và có thể kéo dài, được diễn tả bằng một số cách cư xử tạo nên nhân cách của người thiếu niên. Đó là cái mà người ta gọi là "hội chứng thất bại trong việc học hành".
Ba hiện tượng làm rõ nét sự hình thành hội chứng thất bại trong việc học hành là : thời gian kéo dài, cứ thất bại hoài và bị đối xử như con người thất bại. Một người học sinh thất bại thường tự nhủ: "Tôi không bao giờ đi đến nơi được". Họ chấp nhận sự thất bại như là một định mệnh và vì vậy cho nên quyết định không đầu tư vào việc học nữa.
Nguyên do của hội chứng nầy ở nơi đâu? G. Wiel khẳng định: “Không phải những lúc bị khủng hoảng, những giờ phút dao động nhất là những giờ phút tồi tệ nhất và mạnh nhất để sinh ra hội chứng thất bại trong việc học . Nhưng tôi nghĩ rằng chính ở trong tình trạng ngày nầy qua ngày khác và vô vị mà mỗi người thấy mình chỉ có một mình, như bị bỏ rơi, mà cảm tính thất bại làm sống dậy một nỗi đau trộn lẫn với sự không hiểu nhau, cảm tưởng bị khi dễ, sự nổi dậy bên trong … và cứ như vậy, ngày nầy qua ngày khác, giờ nầy sang giờ khác…Bài vở phải làm thì nhiều, nhưng không thể chu toàn được, biết là phải nộp giấy trắng và sự dày vò tinh thần nầy kéo dài hàng tháng trời, trong âu lo… chính đây là nguyên do phát sinh hội chứng nầy.
Hội chứng nầy là một bệnh lý của ước muốn và hành động : người học sinh ao ước thành công, nhưng bị xâm chiếm bởi sự sợ hải không biết làm, bởi âu lo sợ thất bại. Hậu quả của hội chứng nầy là:
- không giao tiếp, không tham gia vấn đáp, có khi đi đến chỗ mà người ta gọi là "bức tường thinh lặng", không lắng nghe bởi vì lắng nghe đó là đã đáp lại một cách tích cực vào sự đòi hỏi của nhà trường.
- thái độ lệ thuộc tình cảm đối với thầy dạy vì thiếu tin tưởng nơi mình. Song le, do kinh nghiệm thấy rằng nếu người học sinh thực sự có tâm trạng làm gì cũng thất bại, thì nó lại cũng sẽ không xin trợ giúp nữa.
- làm việc không có phương pháp: các học sinh làm việc bằng cách mò mẫn, may rủi.
- thiếu dự tính cá nhân. Theo ông Wiel : "Không có dự tính, sống trong nhiều năm như thế mà không có dự tính cá nhân và nghề nghiệp, chính là một trong những hệ quả nguy hại nhất của hội chứng thất bại học hành. Làm sao ta có thể và dám thực sự lên kế hoạch và cho mình một dự tính khi cứ khinh chê mình, khi mà ta có quá nhiều khó khăn để lấy một quyết định và chủ động được?
3- Các học sinh có phản ứng đối với nhà trường
Một môi trường xã hội không ổn, những nhu cầu cơ bản không được thoả mãn, những mong chờ bị thất vọng đối với nhà trường và đối với các thầy cô, làm cho chúng ta có thể hiểu được, thậm chí thấy trước được, một vài phản ứng của những người trẻ đối với nhà trường.
Ông Maslow, nhà tâm lý người Mỹ đã sắp xếp theo bậc thang những nhu cầu cơ bản của mọi cá nhân theo cấp bậc mà ta có thể biểu hiện bằng một kim tự tháp (thu gọn của một hiện thực phức tạp hơn nhiều).
Xếp theo hình Kim tự tháp, có mặt đáy lớn mang số 1.
|
|
6. nhu cầu thực hiện
5. nhu cầu quý mến mình
4. nhu cầu quý mến của các người khác
3. những nhu cầu thuộc về
2. những nhu cầu an toàn
1. những nhu cầu sinh lý
Bắt đầu từ dưới đi lên của kim tự tháp, những nhu cầu chồng chéo lên nhau
- những nhu cầu sinh lý (đói, ngủ, sự tiếp xúc thể xác...)
- những nhu cầu an toàn (sự che chở, sự ổn định...)
- những nhu cầu thuộc về (gia đình, bạn bè, nhóm,...)
- nhu cầu quý mến của các người khác (sự nhìn nhận, sự thành công...)
- nhu cầu quý mến mình (tin tưởng nơi mình)
- những nhu cầu thực hiện (sáng tạo, phát triển cá nhân, tự lực cánh sinh.
Theo ông Maslow, người ta chỉ tìm thoả mãn một nhu cầu cấp trên khi những nhu cầu cấp dưới được thoả mãn.
Ví dụ, nếu những nhu cầu sinh lý chưa được lắp đầy, thì người ta sẵn sàng đánh liều sự an toàn của mình để tìm cái ăn.
Vì vậy, một học sinh sẽ chỉ có thể thoả mãn đầy đủ nhu cầu thực hiện của nó (học hành, sáng tạo) nếu nó cảm thấy an toàn trong lớp, nếu nó cảm thấy thuộc về một nhóm, được kẻ khác nhìn nhận và tin tưởng vào mình.
Những cuộc nghiên cứu của Laborit cho chúng ta thấy rằng có 3 phản ứng sinh học có thể có đối với một hoàn cảnh sống : sự trốn chạy, sự khiêu chiến hay sự phục tùng.
Sư trốn chạy biểu lộ dưới nhiều cách :
- bởi lời nói bép xép ở cuối lớp học,
- bởi việc không tham gia vào bài dạy.
- bởi những thái độ thụ động, vô tình cảm, biểu hiện của một sự thờ ơ trước việc học được đề nghị.
- bởi sự trốn thoát ảo tưởng: nghĩ rằng chỉ cần ước muốn thành công là điều đó thành hiện thực. Ví dụ : "Tôi sẽ có bằng tú tài vì tôi đang ở lớp 12."
- bởi sự trốn chạy cái thực tế được biểu lộ bằng sự thinh lặng, bằng những khó khăn phải nối kết lại những mối liên hệ, bằng sự khó chịu, bằng một cảnh tuyệt vọng dẫn đưa vài người trẻ dấn thân vào những tiến trình vô ý thức tự hủy hoại mình, được liên kết với cảm giác thất bại.
- sau hết, bởi sự trốn chạy hữu hiệu dưới dạng một sự vắng mặt theo thời cơ hay đều đặn, một hiện tượng mới được phát triển mạnh, một gánh nặng mà các thầy cô thấy bất lực thực sự.
Thái độ nầy có thể được giảng nghĩa bởi thấy học khó quá, giờ giảng bài thì các bạn trẻ thấy là vô ích và không hấp dẫn.
Thái độ nầy cũng có thể suy ra vì sự thiếu động cơ để học, phát sinh do sự thất bại trong việc học : các người trẻ không luôn luôn cho phút hiện tại một ý nghĩa thì không thể lên dự tính cho tương lai được.
Nếu một vài học sinh chọn lựa sự thụ động, thì một số em khác lại tranh chấp, khiêu chiến và có thể có những cách cư xử thô bạo.
Theo ông Debarbieux : "Sự hung bạo của học sinh có thể là một phản ứng để duy trì sự toàn vẹn của con người nó trong một tình trạng gây bệnh.
Những cách cư xử chống đối có thể có nhiều lý do :
- chúng thường xảy đến do một sự chèn ép bên ngoài hoặc có cảm giác bất công;
- luôn luôn có cái nhìn và xét đoán tiêu cực, cảm thấy bị khinh miệt, những cảm giác đó có thể dẫn đến sự tin là mình chẳng có giá trị gì, nó sẽ có thể được diễn tả ra bằng những hành động hung bạo, gây chú ý.
Sự tùng phục vào luật lệ
Một vài học sinh, thay vì chống đối, thì ngược lại hoàn toàn phục tùng lề luật của hệ thống học đường .
Thái độ tùng phục nầy có thể do một vài thầy giáo - hay cha mẹ - độc tài gợi lên sẽ làm phát triển nơi các học sinh một sự lệ thuộc quá đáng: người học sinh chỉ làm việc khi bởi vì nó bị ép buộc hay bị ở trong một sự đe doạ tình cảm, trong cả hai trường hợp đều đặt đứa nhỏ trong một mối "quan hệ mất tự do”. Đây là trường hợp vài học sinh chuyên làm “vui lòng” những thầy giáo. Thầy giáo nên cảnh giác mà biết rằng trong một vài trường hợp, những khó khăn cá nhân quan trọng có thể được che giấu đàng sau thái độ ngoan ngoản, chăm chỉ quá đáng trong công việc.
Trong những trường hợp đi quá xa, nhà trường thay vì là một nơi hoà nhập xã hội, có thể ngược lại trở thành nơi tạo cơ hội loại trừ cho những đứa trẻ nầy.
4- Thầy giáo đứng trước người học sinh "khó"
Đừng nghĩ rằng mối liên hệ của một người thầy với các học sinh của mình là trung lập. Hình ảnh mà người thầy có đối với một học sinh cũng ảnh hưởng đến nó rất nhiều. Vì từ cái nhìn dẫn đến cách đối xử, do đó không chỉ ảnh hưởng đến cách ăn ở của nó mà thôi mà còn đến những hiệu năng của họ nữa.
Những điều cần quan tâm : định kiến của người thầy
Phải hết sức tránh “xem mặt mà bắt hình dong” (Hc 11) cho khỏi việc kết luận rằng những học sinh giỏi và những học sinh kém là do được các thầy cô tạo nên, do thầy cô “thấy trước”, nhưng rõ ràng là cái cách mà một người giáo viên "nhìn" những học sinh của mình là có tính cách quyết định và có một ảnh hưởng trực tiếp đến người học sinh. Điều nầy nhấn mạnh đến những nguy hiểm của việc xếp loại người khác : người thầy có thể chờ đợi nơi người học sinh sự xác định về “cái nhìn của mình” và có nguy cơ từ chối một cách vô ý thức cho nó vươn đến một tình trạng khác hơn là tình trạng đang chôn vùi nó. Ví dụ, việc sưu tra một hồ sơ nơi học đường vào đầu năm học, hay sự xét đoán của một bạn đồng nghiệp vì đã biết "lý lịch" học sinh đó năm vừa rồi, có thể có lợi để đồng hành cho chính xác, nhưng cũng có bất lợi, nếu người thầy không coi chừng vì có thành kiến đối với người học sinh nầy. Về phía người học sinh đó, do những lượng giá về nó, nó như tự vạch định ranh giới điều mà thầy cô, cha mẹ và ngay cả bạn bè của nó “nhìn” nó. Tuy nhiên, chúng ta phải xác tín rằng, tất cả mọi trẻ đều có thể thành công nếu chúng ta trao cho nó phương tiện: “Người hèn mọn mà khôn ngoan vẫn có thể ngẩng đầu, và được ngồi giữa những người làm lớn” (Hc 11, 1).
Sự đồng hóa và hình chiếu nơi người thầy
Như người học sinh đồng hóa mình với thầy giáo, thầy giáo cũng có thể đồng hóa mình với một học sinh : "Nó giống như tôi, khi tôi ở lứa tuổi của nó : hay là "tôi ao ước giống như ngài". Thầy giáo rất thường khi đồng hóa mình với những học sinh thành công, coi đó như là công lao của mình. Tuy nhiên, khi khoảng cách giữa thầy và trò quá lớn, sự đồng hóa gặp khó khăn, và điều đó có thể dẫn đến những phản ứng không hiểu nhau, thậm chí loại trừ nữa.
Nếu ngược lại, một thầy giáo đã sống lúc còn là học sinh, một thời khó khăn, thất bại và thậm chí bị từ chối nơi học đường, thầy sẽ hiểu hơn, qua sự đồng hóa, những phản ứng của những học sinh gặp khó khăn.
Vả lại, mối liên hệ mà một thầy giáo duy trì với một học sinh có thể khơi dậy chính tuổi thơ của mình và những xung đột thuở bé mà người thầy đã gặp đối với cha mẹ hay đối với các nhà giáo dục của mình. Và trong cả hai trường hợp, nếu không để ý, người thầy rơi vào tình trạng biểu lộ bằng một phản ứng tình cảm thái quá trước một cách ăn ở của người học sinh nào đó mà đối với người khác lại không có gì quan trọng.
Những ao ước vô ý thức của người thầy
Rất nhiều ao ước được hiện diện trong mối liên hệ giáo dục.
Theo ông Kaes, Anzieu và Thomas, là những người đã nghiên cứu về ảo ảnh giáo dục, thì ao ước thứ nhất của nhà giáo dục là ao ước thực thi một quyền hành.
Thế nhưng, cái ao ước nầy có thể xung đột với ao ước giảng dạy.
Thật vậy, vai trò của người thầy là truyền đạt những kiến thức, là giúp học sinh tự lực cánh sinh, nhưng ước muốn - vô ý thức - của ông ta có thể nghiêng nó về việc duy trì các học sinh lệ thuộc vào ông ta để chúng còn cần đến ông ta. Một cách vô ý thức, người thầy có thể rất sợ sự "lớn lên" của học sinh, cũng như vài cha mẹ chấp nhận một cách khó khăn là con cái họ "lớn lên".
Ước muốn thứ hai trong mối liên hệ thầy-trò cũng có thể sinh ra từ một ước muốn rất mạnh của người thầy để được nhìn nhận, được chấp nhận, được yêu thương bởi các học sinh của mình mà thầy từ chối thực thi chức năng quyền hành của mình vì sợ làm phật lòng chúng.
Ngài không thể chịu được khi bị chúng nó đặt vấn đề, bị chúng chỉ trích và sẽ cố thử dùng sự mua chuộc, doạ dẫm về mặt tình cảm hay để cho chúng muốn làm gì thì làm.
Ước muốn thứ ba, theo ông Kaes, và ông Anzieu, đó là ước muốn hy sinh hết mình và là một người mẹ nuôi. Giáo dục qui về ảo tưởng hy sinh mạng sống mình, "linh động" hiểu theo nghĩa đen, rập khuôn , tạo nên một con người theo “cái nhìn” của mình về thế giới. Cũng thế, ước muốn “mẫu hệ”, lo nuôi dưỡng con cái một cách dồi dào, lo tất cả, cũng hiện diện nữa. Đó chính là những thầy cô hy sinh hết mình, cư xử như cha mẹ, làm thoả lòng, phân phát một cách rộng rãi kiến thức của mình, sự trợ giúp của mình, thời giờ của mình mà có cảm tưởng là không bao giờ làm đủ cả.
Đôi khi người Thầy giáo phải nhận ra và sống với những mâu thuẩn của mình. Chối bỏ điều đó sẽ nguy hiểm. Nhìn nhận chúng như là thành phần của tất cả mọi hành động giáo dục có thể cho phép hội nhập chúng tốt hơn.
5- Mối lo âu của thầy cô trước những tình huống khó khăn
Điều làm rõ nét những tình huống khó khăn nầy, đó là chúng cứ lặp đi lặp lại. Thầy cô đã thử nhiều cách khác nhau để làm chủ tình huống nầy (ví dụ như dùng hình phạt) và thừa nhận rằng những phương thế nầy vô hiệu lực. Như vậy thì thầy cô thấy mình hành động không hiệu quả. Họ bị một cảm tính bất lực và mối lo sợ xâm chiếm.
Ø Để bảo vệ mình chống lại cùng mối lo sợ đó, họ có thể từ chối không thấy vấn đề, thu mình trong một nhân vật hay chỉ làm vừa đủ trách nhiệm, hoặc chuyển trách nhiệm cho học sinh, cảm thấy bất ổn trong công việc của mình vì cảm thấy nghề làm thầy giáo bị giảm giá trị, hoặc nghi ngờ về giá trị của nhà trường, vai trò của người thầy bị thay đổi, sự chênh lệch giữa hình ảnh được lý tưởng hóa của việc giảng dạy và cái thực tế của nghề nghiệp. Điều đó dẫn đến sự trốn chạy hoàn cảnh làm việc của mình bằng sự giảm bớt đầu tư hay ước muốn thay đổi nghề nghiệp.
6- Những hướng để thành công
Giáo dục học sinh “khó” là rất khó! Không có phương pháp nào chắc chắn mang lại hiệu quả 100%. Vài kinh nghiệm có thể mang lại hiệu quả đối với các học sinh "khó" :
· Có cái nhìn tích cực đối với học sinh “khó”: người học sinh “khó” nầy như là những kẻ yếu đuối, mỏng dòn cần người trưởng thành có một cái nhìn tích cực và tin tưởng. Điều đó có thể khôi phục lại cách mà nó nhận thấy, và từ đó hy vọng có cái gì đó thay đổi;
· tiếp nhận và kính trọng người học sinh, đồng thời đặt mình đối diện với nó như là một con người: đón nhận – kính trọng – tâm trạng sẵn sàng lắng nghe – cách cư xử như con người với con người – giữ bình tĩnh - đôi khi cũng phải giữ khoảng cách nào đó;
· đặt một khuôn khổ, thiết lập những luật lệ trong lớp: cùng lập nội qui, những giới hạn trong lớp, mà tất cả mọi người có thể giữ; để tạo sự an toàn trong lớp, tập cho chúng sống tập thể, quan tâm và kính trọng lẫn nhau, loại trừ sự hung bạo;
· thực hành một sư phạm của sự thành công. Phải biết rằng giúp cho học sinh có được động cơ thúc đẩy đó là chính mình được thú đẩy: đặt mình trong trình độ của học sinh – quan tâm đến những khó khăn của từng em – thay đổi những phương pháp giảng dạy (sáng tạo) – tạo thuận lợi để học sinh chỉ vẽ lẫn nhau – trao cho chúng trách nhiệm – khởi đi từ những nhu cầu của chúng – để học sinh đóng vai chính trong việc đào tạo của chúng – tạo thuận lợi để chúng luôn ở trạng thái thành công - “sản xuất” một cái gì đó có ích cho tập thể - tạo dịp đi dạo chung - ý muốn lắng nghe và làm cho các học sinh phát biểu;
· tạo thuận lợi cho cá nhân phát biểu ngoài lớp học và sự phát biểu tập thể trong lớp được dễ dàng;
· khắc phục những xung đột: trong tất cả mọi giao tiếp, xung đột không thể tránh vì mỗi người mỗi khác. Rất có nhiều hướng giải quyết một xung đột. Trường hợp không tự giải quyết được, nên nhờ một trung gian;
· làm việc theo nhóm sư phạm và với những người trưởng thành khác trong hay ngoài nhà trường: cho phép thoát khỏi sự cô độc và với người khác có thể tìm ra được những lời đáp cho những khó khăn mình gặp đối với học sinh.
Thánh Gioan La San được Giáo Hội tôn phong làm quan thầy các nhà giáo dục, đã để lại 33 trang sách nói về những điều cần phải làm để sửa dạy những học sinh “khó”, cũng như những điều cần phải tránh khi sửa phạt đối với: trẻ cứng đầu, mất dạy, nói chung là trẻ “hư”. Đối với Ngài, cách để thực hiện công cuộc giáo dục đối với những trẻ nầy là đặt nền tảng trên sự kính trọng, yêu thương và trìu mến. Chính trong thái độ nhân hậu-dịu dàng-trìu mến trong công tác đồng hành mà nhà giáo dục “đánh động lòng đứa trẻ” và cho phép nhà giáo dục gặp được đứa trẻ nơi thâm sâu nhất của tâm hồn chúng.
7- Những đề nghị để sống tốt hơn
với những người học sinh "khó"
Học sinh "khó" cần người lớn có một cái nhìn tích cực và tin tưởng đối với nó. Thật vậy, người học sinh "khó" cần có trước mặt nó những nhà giáo không coi trọng quá về sự hiếu chiến mà chúng biểu lộ ra, họ không cảm thấy bị tấn công do cách cư xử của chúng.
Nhờ cái nhìn tích cực của họ, người thầy khích lệ học sinh trong tiến trình tiến hoá của nó, vừa làm cho có giá trị những cố gắng của nó nhưng không chờ đợi những kết quả nhản tiền. Một người trẻ có nhu cầu cơ bản về sự qúi mến có thể thay đổi cách ăn ở và những kết quả của nó nếu thầy cô giáo có một cái nhìn tích cực đối với nó.
Mỗi ngày, những học sinh "bị tổn thương" nầy, qua cách cư xử của chúng, tìm cách làm cho ông thầy tin là họ lầm khi họ quan tâm đến chúng, khi họ tin tưởng vào chúng. Thế nhưng, chính cái nhìn tích cực luôn kiên trì nầy sẽ mang lại kết quả của nó không sớm thì muộn.
Đối với thầy, điều đó có nghĩa là thầy đã tin tưởng vào những khả năng phải phát triển của học sinh mình. Động cơ nầy sẽ cho phép học sinh khôi phục lại cách mà nó nhận thấy về mình, khôi phục lại điều có thể liên kết lại một tiến trình thay đổi.
Còn đối với những học sinh khiêu chiến, những con ngựa chứng thì sao? Đáp lại tính khiêu khích bằng sự khiêu khích (mắt đền mắt, răng đền răng) và làm cho các học sinh thất vọng hay là chấp nhận cái nguy cơ thường xuyên tin vào sự có thể giáo dục tất cả học sinh, cái nào có giá trị hơn và cái nào đáng cho chúng ta phải mệt nhoài ngày nầy sang ngày khác?
8- Sự huấn luyện cá nhân là một công cụ quí báu để tấn tới trong công việc của mình.
Mục tiêu của một sự huấn luyện được đặt trọng tâm trên thầy cô và các học sinh "khó", là để có thể :
- hiểu rõ hơn những cách cư xử của các học sinh nầy;
- để ý thức hơn những phản ứng đối với chúng;
- để cải tiến sự giao tiếp đối với chúng;
Giữa những phương thế khác, việc đạt đến những mục tiêu nầy cần nghiên cứu từng trường hợp, cần đặt mình trong hoàn cảnh đó, cần những luyện tập về giao tiếp.
Ngoài những việc huấn luyện đúng lúc, làm việc đối với mình và sự tham gia vào các nhóm phân tích công việc, có thể cho phép lùi khỏi hiện trường cần thiết để sống tốt hơn nghề dạy học của mình.
Phải, nhưng nhất là những "người trẻ gặp khó khăn". Qua sự nổi loạn của chúng, nó cho chúng ta thấy là chúng khác nhau. Những thái độ và những hành động của chúng đôi khi thô bạo bởi vì chúng không có cách nào khác để diễn tả, không có từ để nói.
Nhưng phải chăng những học sinh gặp khó khăn nhiều nhất là những đứa chịu đựng một cách thụ động một hệ thống mà chúng sống như là bị ức hiếp mà không thể chống đối lại đó sao?
Phải, nhưng chúng ta hãy tưởng tượng rằng một người thầy không gặp khó khăn nào thì sao: thì họ sẽ có thể ít được thúc đẩy, ít có động lực để thay đổi, sáng tạo. Thường khi chính trong những nhà trường nổi tiếng là khó mới có những nhóm lên những dự án canh tân.
Chính nhờ các học sinh "khó" mà các thầy cô mới tự chất vấn mình về cách làm, về những giá trị của mình.
Chính với chúng mà họ sống những giờ phút tuyệt diệu, khi họ thành công tạo nên mối quan hệ, nối lại một sợi chỉ bị cắt đứt, khi họ thành công khơi dậy ước muốn học hành, khi họ đạt đến việc huy động cái năng lực tuyệt vời sống động hiện diện nơi mỗi người học sinh. Đó chính là lúc mà nghề giáo dục mang hết ý nghĩa của nó.
Một trong những bổn phận của nhà giáo dục là phải làm gương. Có nhiều người cảm thấy không thoải mái khi nghe nói đến phải “làm gương”. Nhưng khi nhà giáo dục không chu toàn bổn phận nầy, họ sẽ trở nên ù lì trong công tác của họ. Không ai trong chúng ta hoàn hảo, nhưng nhà giáo dục phải biết nhìn nhận những sai sót của mình, những vấp ngã trên đường đi và những cố gắng đứng lên sau mỗi lần vấp ngã. Người trẻ có đủ thông minh để hiểu và thấy tất cả những việc đó và ý thức sự yếu đuối của con người. Nhưng nhà giáo dục không bao giờ nên là người chế tạo “những cục tuyết để giao cho người khác ném” (Terente McLaughlin, fsc).
Loren Eiseley ví nhà giáo dục như một người thợ điêu khắc. Có những nhác búa, xéo bên nầy, có những nhác búa, xéo bên kia, có những nhác búa đi thẳng, nhưng không có nhác búa nào vô tích sự. Cũng vậy, mỗi ngày nhà giáo dục có những nhác búa đúng hay sai để đào tạo người học sinh của mình.
Nhật Nhật Tân, fsc.
[1] BOUDON Raymond, Déclin de la morale ?, PRESSES UNIVERSITAIRES DE FRANCE, 2e édition, 2003, p.10.
[2] Idem.
[3] Idem., p. 11.
[4] Idem., p.12.
Trong đời sống mỗi ngươì chúng ta, không ai có thể chu toàn lòng kính mến đối với những bậc ông bà cha mẹ, hoặc vuông tròn sự yêu thương hòa đồng giữa anh chị em ruột thịt trong nhà, và bà con thân thuộc lối xóm được. Cho dù nếu có, thì trong tháng các linh hồn này, Hội Thánh cũng nhắc nhở chúng ta làm mới lại những yêu thương ấy đối với những người đã khuất, để từ đó làm mới lại mối dây liên lạc yêu thương, tương kính với những người đang sống. Những người mà chúng ta gặp gỡ hằng ngày.
Nếu đạo hiếu của người sống đối với người chết chỉ là để viếng nghĩa trang, ,chỉ là tu sửa lại những nấm mồ cao thấp chỉ là tổ chức đám tang đông người đi đưa, nhiều cha đồng tế, những đám giỗ linh đình náo nhiệt thì thực sự những cái đó, nó mong manh hời hợt biết bao ! Vì sau những buổi lễ lạc linh đình đó, hoặc ngay cả lúc những nghi thức ấy đang diễn ra, thì những xác người chết vô tri cứng lạnh nằm trong áo quan, hay tăm tối trong những nấm mồ sâu dưới lòng đất, những người ấy có nhận được gì không ? Còn linh hồn của những vị ấy, nếu vui thỏa được bằng những nghi thức nghèo nàn trần tục kia, thì thử hỏi cõi thiên đàng cao sang, hoặc chốn thẳm sâu địa ngục, còn có nghĩa gì đối với chúng ta, những kẻ tin vào Chúa Kitô hôm nay ?
Khi người chết nằm xuống rồi, thì linh hồn người ấy đi vào một cõi khác, một cõi vô cùng bí nhiệm, một cõi mà không một ai ở trần gian này biết được nó ở đâu ? Không biết nó sinh hoạt thế nào? Việc đi viếng nghĩa trang, việc sửa sang phần mộ là việc tốt. Không phải tốt cho người đã chết, mà là tốt cho người đang sống là chúng ta. Để từ cái nghĩa trang mà chúng ta thấy đó, từ cái nấm mồ mà chúng ta đang sửa sang tô quét, từ những hũ đựng hài cốt mà chúng ta ngắm nhìn đó, chúng ta thấy được cái kiếp sống vắn vỏi của con người. Và để cho chúng ta, những người đang nhởn nhơ vui sống, thấy rằng cái đích điểm mà tất cả mọi người ở trần gian này sẽ phải đến gặp nhau là chỗ này đây : ba tấc đấy sâu, và một nấm mộ cô đơn lạnh lẽo. Để trong tháng các linh hồn, mỗi con người dù là Đức Giáo Hoàng hay vua chúa, linh mục hay giáo dân, dù giàu sang của chìm của nổi hay nghèo nàn mạt rệp, dù danh vọng chức tước đạo đời đầy mình hay chỉ là tên vô danh tiểu tốt… tất cả cùng có dịp hồi tâm lại. Những nấm mồ, những hũ đựng hài cốt nhắc nhở ta đừng bám víu, bám chặt lấy những cái bồng bềnh trôi nổi nay còn mai mất của thế gian như tiền của, danh vọng, chức quyền. Mỗi người hãy coi sự sống vĩnh cửu vô cùng vô tận mới là cùng đích của cuộc sống. Cuộc sống mà dù muốn hay không, mọi người đều phải đi vào cõ đó, “một cõi đi về”! Cuộc sống thật ấy chỉ bắt đầu từ cõi đó, với hai bàn tay trắng và một thân xác trần truồng ai cũng như ai. Thánh Phaolô quả quyết “Quả vây, chúng ta đã không mang gì vào trần gian, thì cũng chẳng mang gì ra được. Vậy nếu có cơm ăn, áo mặc, ta hãy lấy thế làm đủ. Còn những kẻ muốn làm giàu, thì sa chước cám dỗ, sa vào cạm bẫy và nhiều ước muốn ngu xuẩn độc hại : đó là những thứ làm cho con người đắm chìm trong cảnh hủy diệt tiêu vong. Thật thế, cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé’ ( 1Tm 6,7-10).
Sống và chết là hai ngả vô cùng cách biệt. Người sống không thể liên lạc với người chết bằng bát cơm quả trứng, hay bằng nén nhang khói tỏa nghi ngút, hoặc ngay cả bằng những bài kinh nỉ non thảm thiết dài lê thê, mà người đọc cứ lập đi lập lại trong giờ kinh giỗ buồn chán.
Chúng ta những người đang sống chỉ liên lạc được với những người hôm nay đang ở cõi đời đời, nơi một con người thôi. Con người ấy đang nắm trong tay tất cả thờì gian, không gian, tất cả vận mạng kẻ sống cũng như người chết. Con người ấy đó là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, Đấng Phục Sinh. Chỉ nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng cằm chìa khóa sự chết, mọi người mới hiểu được ý nghĩa của cuộc sống tạm bợ mau qua hôm nay, và bí nhiệm của cuộc sống vĩnh cửu ngày mai. Chỉ nơi thập giá cứu chuộc của Chúa chúng ta, nơi trái tim yêu thương của Thiên Chúa mở ra, mọi người có mặt ở trần gian từ Ađam cho đến người cuối cùng trên trái đất này, mới thấy được rằng : sự chết từng là cái án khủng khiếp cho hết mọi người, thì hôm nay lại là nguồn an ủi vô biên cho những kẻ tin vào Đức Giêsu Kitô, vì xác tín rằng : nấm mồ không phải là chung cuộc cho tất cả những ai tin vào Người.
Vì Đức Giêsu Kitô đã phục sinh, Người đã đặt sự chết dưới bệ chân của Người, thì những ai đang sống trong sự sống của Đức Giêsu hôm nay là những kẻ sẽ không phải chết bao giờ nữa “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại trong ngày sau hết” ,chính Đức Giêsu Kitô đã bảo đảm với những kẻ yêu mến Người như vậy.
Chỉ những gì liên kết trong một thân mình thì mới thông hiệp được với nhau. Bàn tay phải muốn cảm thông nỗi đau của bàn tay trái thì hai bàn tay đó cần phải dình liền vào trong một thân thể. Cũng vậy, người tín hữu còn muốn sống hiệp thông với người tín hữu đã chết, thì cả hai đều phải là chi thể của một thân mình – thân mình Đức Giêsu Kitô. Khi Người thương xót những người đang sống ở trần gian bị lao đao dằn vặt bởi tội lỗi và muôn ngàn thứ đua khổ, thì cùng một lòng thương xót ấy lan ra khắp thân mình Người, thấm vào kẻ sống thì cũng thấm vào người chết đang là chi thể của Người. Lúc ấy hai người ở hai thế giới cách biệt muôn ngàn trùng mới hiệp thông được với nhau, mới biết thương nhau, và khi thương nhau thì ngày đêm mới tha thiết nhớ cầu nguyện cho những người đã nằm xuống.
Những người dù là có đạo, mà trong cuộc sống hôm nay, sống ngoài Đức Giêsu như kẻ vô đạo, thì đừng hòng nói là thương xót các linh hồn nơi luyện tội, vì nơi bản thân họ không có lòng trắc ẩn với những người đau khổ đang sống quanh họ, thì làm sao họ có được khả năng hiệp thông với kẻ đã chết, hiện đang ở cõi thiêng liêng vô hình !
Bởi thế trong ngày lễ cầu cho các linh hồn, Hội Thánh đòi buộc những ai muốn lãnh ơn đại xá, phải xưng tội rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức Giáo hoàng, nghĩa là người đó phải ở trong Đức Giêsu Kitô và ở trong Hội Thánh của Người. Có đủ điều kiện ấy, thì người đó đã trở thành chi thể trong thân mình mầu nhiệm của Đức Giêsu Kitô và lời cầu nguyện của họ cho những người đã khuất mới có giá trị.
Chúng ta là những Kitô hữu, và hơn nữa chúng ta còn là những người bạn thân thiết của trái tim Đức Giêsu Kitô, nên chúng ta không được nghĩ rằng : tôi cứ lo kiếm sao cho có nhiều tiền rồi ngày giỗ ngày tết, tôi rải tiền ra xin lễ cho nhiều để ông bà cha mẹ anh em tôi mau được lên Thiên Đàng. Ngoài ra tôi muốn sống sao thì sống, tôi không quan tâm gì đến ai. Nếu nghĩ và làm như vậy là xúc phạm đến lòng thương xót của Chúa, bởi vì coi rẻ tình thương của Đức Giêsu Kitô. Nếu như ta không có khả năng xin lễ, hay có ai bỏ quên ông bà cha mẹ, thì chính Chúa sẽ bù đắp tất cả bằng lòng thương vô biên của Người, Đấng Phục Sinh.
Trong tháng các linh hồn, mỗi người hãy tha thiết nài xin Đức Giêsu làm cho tâm hồn chúng ta được say mê yêu mến trái tim Người. Xin Người làm cho trái tim chúng ta trở nên mềm dịu để mở ra đón nhận tình yêu lạ lùng ấy. Lúc đó con người chúng ta sẽ đổi mới không phải hời hợt bên ngoài như thay một màu áo, đổi một đôi giày, mà thay đổi từ sâu thẳm bên trong tâm hồn bằng sức mạnh của Thánh Thần. Lúc ấy, một sinh khí mới của lòng mến sẽ bùng lên, chúng ta sẽ luôn sống hiệp thông được với những người đã khuất và liên kết trong tình huynh đệ với những người đang sống, bởi vì chúng ta đầy Thần Khí Đức Giêsu Kitô.
Lạy Đức Giêsu Kitô, xin cho chúng con nhận biết mình là những tạo vật có cuộc sống mong manh nay còn mai mất để chúng con biết luôn luôn cậy nhờ vào sức mạnh của tình yêu nơi trái tim Chúa trong đời sống hằng ngày của chúng con. Xin cho chúng con được hiệp thông với những người đã qua đi bằng cách biết yêu thương nhưng người đang sống với chúng con trong đời sống hôm nay, và chính nhờ tình yêu Chúa trong chúng con mà biết yêu mến những người đã ra đi trước. Chúng con yêu mến các linh hồn ấy bằng lời cầu nguyện, bằng Thánh lễ và bằng mọi việc yêu thương bác ái hằng ngày trong sự kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô chứ không phải trong bản chất yếu đuối của chúng con. Amen.
Lm. Giuse Trần Đình Long, SSS
Giáo dục con cái :
Kho tàng dân gian nào cũng khuyên con người “Ăn để sống chứ không phải sống để ăn”
Ông B. có thói quen sáng nào cũng làm một bữa “khai nhật” thịnh soạn. Khi ông thức dậy, vơ con đã dọn sẵn cho ông một mân đồ ăn sáng, bánh mì, thịt xào hay chiên, có khi thì trứng hay phở và một chai bia ướp lạnh. Ông ngồi khề khà mặc kệ vợ con tất bật dọn hàng và hối nhau đi học hay đi làm. Ăn sáng xong, ông lên xe đi “ ngoại giao”, có nghĩa là đi gặp những viên chức cần phải giao tế để cho cửa hàng của ông làm ăn trôi chảy.Họ là những người cấp giấy cho cửa hàng của ông, những nhân vật cần xin xỏ, điếu đóm. Và những cuộc gặp gỡ đó ít nhiều đều kéo theo mục ăn uống, hoặc hẹn hò chầu nhậu khuya nay. Khi con gái ông lấy chồng, anh chồng làm nghề lái xe tải. Thế là ông có thêm bạn đồng hành. Sáng sáng hai cha con, bố vợ con rể, khề khà để rồi chuẩn bị cho chuyện làm ăn trong ngày, cần liên lạc với ai, cần chạy chọt chỗ nào. Chuyện cứ thế. Ăn là cái thú tiêu khiển và cái cách thức để ngoại giao của ông.
Anh C. thì khác. Ăn đối với anh là vô cùng quan trọng. Chỗ nào có mời đi ăn là anh không thể vắng mặt. Anh ăn uống tận tình, không khách sáo. Có nghĩa là cái gì ngon trên bàn là anh xơi trước, kể cả trên bàn ăn với gia đình, con cái. “Mẹ con nó hả! có nhiệm vụ gặm xương”. Còn anh cứ cái gì ngon là anh xơi trước. Khẩu hiệu của anh là : ăn trước, ăn hết, ăn cái gì ngon trước. Bởi vậy mới tí tuổi đầu mà bụng anh đã như người phụ nữ mang thai bốn, năm tháng.
Trong thời buổi gạo châu củi quế này, kiếm được miếng ăn đã khó mà kiếm được đủ ăn lại càng khó hơn. Bởi vậy ăn uống là chuyện cần, nhưng cũng là chuyện mang lại nhiều điều hỉ nộ ái ố. Một bữa nọ, trong một bữa tiệc tiếp đón mấy người trong phái đoàn xã hội ngoại quốc. Nhà bếp bưng lên, một món, hai món, ba món. Tới đây những người khách nước ngoài đã no đủ. Món thứ tư, thứ năm được mang lên và đến món thứ sáu là một cái “ lẩu” khổng lồ với thịt cá tôm rau cỏ đủ thứ. Người ngoại quốc hỏi làm sao ăn hết. Chúng tôi ăn ba món là no rồi. Vậy chứ mấy thứ không ăn hết này để làm gì ? Sao không làm vửa đủ thôi? Họ không thể hiểu nổi sự phí phạm lương thực trên bàn ăn của người mình trong khi bên ngoài bao nhiêu người không đủ ăn, bao nhiêu trẻ em suy dinh dưỡng, bao nhiêu gia đình nheo nhóc bữa đói bữa no.
Anh TT.,bạn chúng tôi là một người ăn chay trường. Câu chuyện ăn chay trường của anh cũng khác thường. Hồi sau 75, vì thiếu ăn nên vợ chồng anh phải nhường thức ăn gồm có một chút thịt tiêu chuẩn, một tí trứng “ hợp tác xã”, một con cá cong queo khẩu phần đi dạy học của anh… nói chung là những thứ mà lương thày giáo có mua cũng vừa đủ cho hai người con còn nhỏ. Riết rồi anh và chị không ăn được thịt cá, trứng…nữa. Anh nói cái mùi của nó khó ngửi làm sao. Thế là anh chị trở thành người ăn chay trường. Anh chay trường nhưng chẳng bao giờ anh “đi chùa” hay cúng kiến chi cả. Ai cũng tưởng anh chị là người tu hành chân chỉ. Anh gọi cái vụ ăn chay trường của anh chị là “ ăn chay thời cuộc”. Con cái anh bây giờ làm ăn khấm khá nhưng anh chị vẫn vậy, ăn chay vì không quen ăn “ mặn”. Đơn giản thế thôi.
Nhiều cha mẹ quá thiên về chuyện ăn uống mà sinh ra gương xấu cho con. Thời buổi làm ăn khó khăn phải chạy chọt này nọ đã sinh ra một Anh B. chuyên viên ăn nhậu. Không phải đói, nhưng vì thích ăn uống nên anh C. cho việc ăn uống là vô cùng quan trọng: “ Mất ăn một miếng lộn gan lên đầu”. Ăn cả phần của con cái. Có con cái thấy ông bà còn ăn được thì mừng. Có con cái thấy ông bà ăn nhiều thì chỉ mong ông bà “ nấu cơm riêng mà ăn” để khỏi phiền con cái phụng dưỡng ông bà, sợ ông bà ăn hết phần con cháu.
Chừng nào chúng ta mới biết khai thác khía cạnh cao đẹp của ăn uống để nói như người Việt chúng ta “ Ăn lấy thơm lấy tho, chứ không ăn lấy no, lấy béo”.
Trần Bá Nguyệt
Sức khỏe gia đình :
Thuốc nhỏ mũi bao gồm 4 nhóm chính: thuốc kháng sinh (nemydexan), thuốc kháng viêm steroid (rhinocort, flixonas... ), thuốc co mạch (xylomethazolin, oxymethazolin, naftazolin 0,05-0,1%), và thuốc săn khô niêm mạc mũi (acgyrol 1-3%).
|
Nhóm thuốc nhỏ mũi trong thành phần chứa kháng sinh thường được chỉ định sử dụng ở những trường hợp viêm mũi xoang do vi khuẩn, nấm hoặc viêm mũi xoang dị ứng có tình trạng bội nhiễm, biểu hiện trên lâm sàng bằng triệu chứng chảy nước mũi vàng xanh. Thuốc nhỏ mũi ít khi được pha chế là kháng sinh đơn thuần mà thường phải phối hợp thêm với một số thành phần chống viêm, giảm phù nề, giảm xung huyết mới có hiệu quả. Kháng sinh nhóm aminosid thường được sử dụng để bào chế làm thành phần của thuốc nhỏ mũi. Lý do chính là qua nghiên cứu người ta nhận thấy khả năng thấm qua mạch máu của nhóm aminoglucosid thấp dưới 2%, đồng thời thuốc lại không bị hấp thu qua đường tiêu hóa nên khá an toàn khi sử dụng. Trong đó loại kháng sinh nhỏ mũi thường được lựa chọn sử dụng là neomycin sulfate. Neomycin là một kháng sinh diệt khuẩn có tác dụng tại chỗ (thuộc nhóm aminosid), có tác động trên các cầu khuẩn cũng như các trực khuẩn Gr + và Gr -. Các công trình nghiên cứu đều chưa khẳng định được tính vô hại của neomycine sulfate khi dùng trong thời kỳ mang thai (do nhóm thuốc này có thể có độc tính trên ốc tai - tiền đình của bào thai, gây điếc câm cho trẻ sau khi ra đời). Việc thuốc thấm qua niêm mạc mũi vào máu là có thể xảy ra tuy với nồng độ rất thấp < 1%. Aminosid cũng bài tiết qua sữa mẹ nên thật cân nhắc khi sử dụng, chỉ dùng thuốc khi lợi ích mang lại cho mẹ cao hơn hẳn tác dụng phụ của thuốc cho con. Với trẻ chưa biết nói (thường dưới 2 tuổi) cũng nên thận trọng khi sử dụng thuốc nhóm này vì đối với những trẻ có cơ địa nhạy cảm thuốc thì chỉ cần một lượng nhỏ thuốc cũng có khả năng gây ngộ độc ốc tai - tiền đình gây điếc nặng và không hồi phục.
Ngoài ra nhóm thuốc nhỏ mũi chứa kháng sinh còn được bào chế từ moxifloxacine hydrochloride. Đây là một kháng sinh thuộc nhóm fluoroquinolone có chứa nhóm methoxy ở C8 dùng cho các bệnh lý của niêm mạc và kết mạc. Bên cạnh đó còn có tobramycin cũng là kháng sinh được lựa chọn trong một số thuốc nhỏ mũi.
Khi dùng kéo dài thuốc nhỏ mũi chứa kháng sinh thì khả năng tạo ra các chủng vi khuẩn kháng thuốc, bao gồm cả nấm có thể xảy ra. Nếu bội nhiễm xuất hiện phải ngưng thuốc và chuyển sang phương pháp điều trị thích hợp khác.
Các thuốc kháng sinh này có thể hấp thu toàn thân qua đường máu và đường tiêu hoá với nồng độ thấp nhưng lại an toàn hơn so với nhóm aminoglucoside.
Thuốc nhỏ mũi chứa kháng sinh cũng như các kháng sinh đường uống hay tiêm truyền đều có khả năng gây các phản ứng dị ứng: tại chỗ như cảm giác ngứa mũi, sưng mũi, đỏ cánh mũi, đau nhức dọc theo sống mũi...
Một số bệnh nhân gặp phản ứng hoặc không dung nạp thuốc. Tại niêm mạc hốc mũi biểu hiện có cảm giác như kim châm, hiếm gặp phản ứng dị ứng toàn thân như phù da, niêm mạc vùng mặt, ngoại lệ có thể gây phù Quincke. Trong trường hợp này phải ngưng dùng thuốc ngay và trao đổi trực tiếp với bác sĩ điều trị để có điều chỉnh hợp lý.
ThS. Phạm Bích Đào
Theo web site http://www.suckhoedoisong.vn
Trên những nấm mộ giờ này, có cắm lên vô vàn những ngọn nến cháy.
Cắm lên mộ người thân những ngọn nến lung linh, phải chăng đang muốn cắm lên đó Ngọn Lửa Tình Yêu đang rực cháy trong trái tim mình.
Có thể là ngọn lửa tình xưa nhung nhớ. Một nỗi nhớ khôn nguôi, không sao dập tắt.
Có thể là ngọn lửa của tình tiếc thương, hiếu thảo của con cháu.
Có thể là ngọn lửa của tình sầu hối hận, bởi thái độ tệ bạc đáng trách của mình, đã dành cho người quá cố lúc còn sống.
Nhưng có một điều rất chung, rất đặc biệt, không hẹn mà gặp là khi cắm những ngọn nến sáng lên những nấm mộ, ai cũng muốn coi đó như là những lời kinh huyền diệu tỏ ra từ tận cõi lòng, mong sao bay lên tới cõi thiên đường nhiệm mầu, để cầu cho những người thân yêu đã khuất.
Và rất đổi linh thiêng, nhìn sâu vào ngọn lửa đang cháy bập bùng, ai đó có thể nhìn thấy khuôn mặt của mẹ, của cha, của chồng, của vợ, của con, của cháu đang hiện ra phất phơ trong đó, và qua cái linh thiêng của ánh lửa, có thể bắt gặp những đôi mắt u uẩn, sầu buồn, bởi tiếc thương cho một đời đã sống vô nghĩa, không làm được gì cho người khác, cho gia nghiệp đời sau của mình. U uẩn, vì khi còn sống, vì quá lo lắng cho đời sống vật chất của gia đình, mà xao lãng chễnh mảng công việc thờ phượng Chúa, để rồi bây giờ phải bối rối khi trả lẽ trước mặt Ngài.
Có khi vì quá thương vợ, thương con, muốn cho gia đình dồi dào của cải vật chất, mà mình lại thành những kẻ gian dối, lừa đảo, tham nhũng, để rồi ra trước tòa Chúa. Sự công bằng vô cùng của Ngài bắt phải đền bù. Cả nhà cũng hưởng, mà giờ này, chỉ một mình, phải ôm lấy nợ đời. Thật cay đắng xót xa.
Có khi vì quá nuông chiều con cái. Chỉ lo lắng chăm chút cho con về đời phần xác, chẳng quan tâm đủ đến phần hồn cho con. Để con cái thành những kẻ ngông cuồng. Bóp nát đức tin, đút lương tâm vào túi quần, để làm những chuyện suy đồi. Bây giờ Chúa hỏi về trách nhiệm, biết trả lời ra sao?
U uẩn bởi những thiếu sót trong bổn phận làm cha mẹ. Để lại cho con những gương xấu. Những lời nói tục tĩu, những thói quên rượu chè, bài bạc… những sự khô khan trong đời sống đức tin, để rồi bây giờ, tất cả đã hằn sâu trong tâm trí con cái, khíến chúng còn rất trẻ, đã sớm học được những tệ nạn, khó bề biến đổi. Những đôi mắt u uẩn, bởi trong luyện tội, giờ đã hết cơ hội để lập công. Bởi hối hận vì đã không nghe lời Chúa dặn: “Có làm gì, thì hãy làm lúc trời còn sáng, kẻo tối đến thì đã muộn rồi”.
Những đôi mắt ấy u uẩn hắt hiu, ẩn chứa nhiều điều tâm sự muốn nói, mà không sao nói lên thành lời. Phải chăng các ngài muốn nhắc về những sự thật phũ phàng:
Chẳng ai sống mãi được đâu.
Cái chết sẽ đến bất ngờ, không hề báo trước.
Bởi vậy, muốn làm gì đó thì làm.
Muốn xoay xở xuôi ngược ngược xuôi tùy thích. Nhưng điều hệ trọng, là đừng bao giờ bỏ quên phần linh hồn.
Tiếc xót bao nhiêu bây giờ cũng đã trễ.
Những nấm mộ trắng xóa cạnh ta bây giờ là một dấu chứng. Rồi có một ngày, trên tấm bia nấm mộ sẽ có tên ta. Cũng là một nấm mộ ốp lát gạch trắng như bao mộ khác.
Nhưng điều ấy chẳng hề quan trọng. Quan trọng chăng là liệu linh hồn ta có được tinh tuyền, để có thể nhẹ nhàng thanh thoát hưởng hạnh phúc đời đời.
Giữa nghĩa địa thênh thang nhưng ấm áp tình nghĩa giờ này, hình như có sự hiện diện của vong hồn những người đã khuất.
Tình thương yêu được nối kết mặn mà. Để thương nhau nhiều hơn. Nhưng thương nhau không chỉ bằng lý thuyết, mà giá trị ở hành động. Hãy làm gì đó cho những người thân yêu, và xin đừng quên, những lời nhắc nhở của các ngài từ bên kia thế giới vọng về./.
Lm. Đaminh Đỗ Văn Thiêm