Tuần san                                                                              

TIN VUIwww.tinvui.org
bantreconggiao@yahoo.comFlowchart: Document: Số 
167
14/12/2008

                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                             

 

NHƯ MỘT LỜI MỜI:

- Kính mời quý vị vào trang web www.tinvui.org hoặc www.tinvui.info để đọc các bài viết khác

- Mọi thư từ cộng tác góp ý và giúp đỡ xin quý vị gửi về địa chỉ E-mail :bantreconggiao@yahoo.com

- Ban biên tập Tin vui rất mong nhận được sự đón nhận của quý vị độc gỉa gần xa

- Xin Thiên Chúa ban muôn ơn lành và đồng hành với quý vị trong hành trình đời sống Kitô hữu

 

 

Mục lục

 TOC \o "1-3" \h \z \u SỐNG LỜI CHÚA.. PAGEREF _Toc217002236 \h 2

Chúa Nhật III Mùa Vọng B.. PAGEREF _Toc217002237 \h 2

TÔI LÀ …. PAGEREF _Toc217002238 \h 2

TU ĐỨC.. PAGEREF _Toc217002239 \h 4

DÂNG THÁNH LỄ.. PAGEREF _Toc217002240 \h 4

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI. PAGEREF _Toc217002241 \h 6

Tòa thánh công bố thông điệp Ngày Hòa bình Thế giới năm 2009. PAGEREF _Toc217002242 \h 6

Tòa Thánh Vatican mừng kỷ niệm Bản Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền. PAGEREF _Toc217002243 \h 8

BẢN TUYÊN NGÔN QUỐC TẾ NHÂN QUYỀN.. PAGEREF _Toc217002244 \h 9

Dòng Phú Xuân Huế tôn vinh Đức Mẹ Vô Nhiễm.. PAGEREF _Toc217002245 \h 14

Giáo xứ Tam Tòa: Trong đống tro tàn, hòn than vẫn âm thầm cháy. PAGEREF _Toc217002246 \h 14

Dấu ấn sau 50 năm hình thành và phát triển. PAGEREF _Toc217002247 \h 15

GIÁO XỨ CHÍNH NGHĨA –GP BANMÊTHUỘT ĐÓN MỪNG CHA TÂN QUẢN XỨ.. PAGEREF _Toc217002248 \h 17

PHÁI ĐOÀN HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VN CỨU TRỢ LŨ LỤT TẠI HAI GIÁO PHẬN VINH – THANH   PAGEREF _Toc217002249 \h 19

Thánh Lễ Mừng Kính Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội Bổn Mạng Giáo Phận Nha Trang. PAGEREF _Toc217002250 \h 19

LỄ KHÁNH THÀNH-LÀM PHÉP TƯỢNG ĐÀI THÁNH GIUSE MỚI TẠI GIÁO XỨ TUY HÒA   PAGEREF _Toc217002251 \h 20

Ngày Thánh Nhạc GP Phan Thiết 2008. PAGEREF _Toc217002252 \h 21

Lễ khai mạc Năm Thánh Đức Mẹ TàPao giáo phận Phan Thiết PAGEREF _Toc217002253 \h 25

SẮC LỆNH.. PAGEREF _Toc217002254 \h 25

Lễ Khánh Thành Nhà Thờ Tân Phước GP Bà Rịa. PAGEREF _Toc217002255 \h 29

HỒ SƠ THÁI HÀ.. PAGEREF _Toc217002256 \h 29

CÓ MỘT PHIÊN TOÀ XỬ NGƯỢC ĐÃ TUYÊN ÁN.. PAGEREF _Toc217002257 \h 30

Luận Cứ Bào Chữa Cho Giáo Dân Thái Hà. PAGEREF _Toc217002258 \h 36

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO.. PAGEREF _Toc217002259 \h 46

Bài Chia sẻ trong thánh lễ Tạ Ơn Đức Tân Giám Mục Phụ Tá Hà Nội PAGEREF _Toc217002260 \h 46

Gioan Tiền Hô, giáo lý viên mẫu mực. PAGEREF _Toc217002261 \h 49

Cuộc Trắc Nghiệm Tư Cách “Tiền Hô”. PAGEREF _Toc217002262 \h 50

Đồng hành với dân tộc?. PAGEREF _Toc217002263 \h 52

Thư Ngỏ của Hội Đồng Gíam Mục Việt Nam, năm 2002. PAGEREF _Toc217002264 \h 55

Gaudete! Anh em hãy vui mừng lên! PAGEREF _Toc217002265 \h 57

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH.. PAGEREF _Toc217002266 \h 58

Đặt tên cho con. PAGEREF _Toc217002267 \h 58

ĐỌC SÁCH.. PAGEREF _Toc217002268 \h 59

NGƯỜI MÔN ĐỆ “EM BÉ”. PAGEREF _Toc217002269 \h 59

 

SỐNG LỜI CHÚA

Chúa Nhật III Mùa Vọng B

PHÚC ÂM: Ga 1, 6-8. 19-28

"Giữa các ngươi có một Đấng mà các ngươi không biết".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Có người đã được Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến như chứng nhân để làm chứng về sự sáng, hầu mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là sự sáng, nhưng ông chỉ làm chứng về sự sáng. Và đây là chứng của Gioan, khi những người Do-thái từ Giêrusalem sai các vị tư tế và các thầy Lêvi đến hỏi ông: "Ông là ai?" Ông liền tuyên xưng, ông không chối, ông tuyên xưng rằng: "Tôi không phải là Đấng Kitô". Họ liền hỏi: "Thế là gì? Ông có phải là Elia chăng?" Gioan trả lời: "Tôi không phải là Elia". - "Hay ông là một đấng tiên tri?" Gioan đáp: "Không phải".

Họ liền bảo: "Vậy ông là ai, để chúng tôi trả lời cho những người sai chúng tôi. Ông tự xưng là ai?" Gioan đáp: "Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi, như tiên tri Isaia đã loan báo".

Và có những người thuộc nhóm biệt phái cũng được sai đến. Họ hỏi Gioan rằng: "Nếu ông không phải là Đức Kitô, cũng không phải là Elia hay một tiên tri, vậy tại sao ông làm phép rửa?" Gioan trả lời: "Tôi làm phép rửa trong nước; nhưng giữa các ngươi, có Đấng mà các ngươi không biết. Đấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Đấng ấy đã có trước tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người". Việc này xảy ra tại Bêtania, bên kia sống Giođan, nơi Gioan làm phép rửa.

Đó là lời Chúa

 

TÔI LÀ ….

Viện Phụ Gioan Côlôbos nói với người anh em : “ Tôi muốn sống ổn định như các Thiên Thần, không làm việc và được phục vụ Chúa không ngừng ”. Từ bỏ những gì mình có, Ngài đi vào sa mạc ở với mong ước tu đắc đạo trở nên Thiên Thần. Một tuần sau, Ngài đi trở lại thăm người anh em. Ngài gõ cửa, người anh em hỏi : “ Ai đó? ” ,  “ Tôi là Gioan ”. Người anh em trả lời : “ Gioan đã trở thành Thiên Thần, Gioan đâu còn ở chung với loài người ”.

Nhưng Gioan tiếp tục gõ cửa và nói : “ Chính tôi . Người anh em vẫn từ chối để Ngài vào và để Ngài chờ đợi. Cuối cùng người anh em vừa mở cửa vừa nói : “ Nếu anh là một người thà anh bắt đầu làm việc lại để sống. Nhưng nếu anh có Thiên Thần sao anh trở lại …  Nghe vậy, Gioan nhận biết ra mình đã sai lầm và kêu lên : “ Xin tha thứ cho tôi vì tôi là kẻ có tội ”.

Dù thánh thiện, tu trọn đời trọn kiếp, chúng ta vẫn là con người. Gioan Tẩy giả đi vào trong hoang địa để tu tâm trước khi bước vào sứ mạng Tiền hô. Lãnh hội được Lời thiêng, Ngài bước ra rao giảng lời sám hối, lời rao giảng khiến cho lòng người thức tỉnh. Người Biệt Phái muốn biết tư cách rao giảng của Ngài nên sai người đến chất vấn : “ Ông có phải là Êlia chăng? " ; " Hay ông là một đấng tiên tri? "( Êlia là ngôn sứ tiêu biểu cho các ngôn sứ  trong  thời Cựu Ước ). Đấng Tiên tri ( hay Ngôn sứ ) là đại diện nói lời Chúa cho nhân gian. Nhưng Gioan chỉ nhìn nhận : " Tôi là tiếng kêu trong hoang địa …  , một người sống hoang địa,  được lắng nghe Lời và rao giảng sám hối. Có thời, dân chúng suy tôn tung hô ông như là Đấng Cứu thế, ông đã không “ mượn gió bẻ măng  lên ngôi theo sự tôn sùng của quần chúng, nhưng ông đã minh xác : “ Tôi không phải là Ðấng Cứu Thế, sẽ có một người đến sau tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giày Người ” ( Lc 3, 16 ). Còn hơn nữa, Gio-an xác nhận vai trò của ông trong tương quan với Đấng Cứu thế : ” Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại ” ( Ga 3,30 ). Ông là Tiền hô và là chứng nhân cho Thiên Chúa như Tin Mừng thứ tư xác định : “ Có một người được Thiên Chúa sai đến, người đó tên là Gioan, ông đến để làm chứng cho ánh sáng ” ( Ga 1, 6 ).

Được sinh ra trong diệu kỳ, và nuôi dưỡng bằng ân sủng “ Cậu bé càng lớn lên, thì tinh thần càng vững mạnh ” ( Lc 1, 80 ) để trở nên Tiền Hô Đấng Cứu Thế luôn trung tín và loan báo những gì mà Thiên Chúa muốn ông nói và làm.

Gio-an, vị tiền hô Đấng Cứu Thế rao giảng sám hối cho dân chúng, sống rất giản đơn : “ Mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da ” ( Mc 1,6 ), khác hẳn với cách ăn mặc của các kinh sư cùng là những  người rao giảng lời Chúa : “ Đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài ” ( Mt 23,5 ) hay “ Ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng ” ( Mc 12,38 ). Gio-an khó nghèo, thanh đạm, “ Ăn châu chấu và mật ong rừng ”, còn các kinh sư thì giàu sang  nhờ ” Nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ ” ( Mt 23,14 ).

Thi hành nhiệm vụ Tiền hô cho Đấng Cứu Thế, ông thanh tẩy những kẻ tội lỗi bằng phép rửa tại sông Giođan, chính Gioan đã nhận ra Đức Giêsu là Đấng Thiên sai và ông đã khiêm tốn : “ Tôi cần được thanh tẩy bởi Ngài ” ( Mt 3, 14b ).  Nhưng Ðức Giêsu đã đề nghị ông tiếp tục làm phép rửa cho Ngài như chứng nhận vai trò Tiền hô và Ngôn sứ của ông : “ Hãy tiếp tục thi hành, vì như vậy chúng ta mới giữ trọn đức công chính ” ( Mt 3, 15b ). Chứng nhân đức công chính nơi con người Gioan.

Gioan có nhiều đồ đệ nhưng ý thức được sứ mạng của Thiên Chúa nơi Đấng Cứu Thế, cần các cộng tác viên, ông giới thiệu cho các môn đệ mình về Đức Kitô, Đấng là đường, là sự thật và là chân lý để các môn đệ đi theo: “ Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian ”( Ga 1, 36 ).

Công minh chính trực, ông lên án những quyền lực tôn giáo sống không đúng với chức danh  ( Mt 3, 7 ) ; ông phê phán, đương đâu trực diện cả vương quyền bất nghĩa khi ngăn cản vua Hêrôđê đã cướp vợ của anh trai, chính vì thế mà ông bị tống ngục và Hêrôđia - người tình của vua -đã tìm cách ám hại ông ( Mt 6, 17-29 ).

Gioan sống với lời mời gọi được thúc đẩy bởi Lời thiêng. Chính cách sống chứng minh cho ánh sáng : “ Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin ” ( Ga 1,7 ).

Gioan sống trong an bình, dân chúng cảm nghiệm được bình an của “ Tiếng kêu gọi hoang địa ”,  tuôn đến với Ngài để xin chịu phép rửa ( x.Ga 3,26 ).

“ Tiếng kêu trong hoang địa ” đã để lại mẫu gương sống động của mùa vọng. “ Tôi là ai? ” đó là lời mời gọi chúng ta chất vấn chính mình. Dù là ai đi chăng nữa, hãy như Gioan Tẩy giả mang bình an, hy vọng vào Đấng Cứu Thế, mỗi người chúng ta sống với tất cả con tim, sống chứng nhân của sự sáng.

Gioon -“ Tiếng kêu trong hoang địa ” rao giảng sám hối, sống công bình chính trực gợi cho chúng ta nỗ lực xây dựng Nước Trời trong một xã hội công bình và huynh đệ. Một nước, một xã hội như  Ngôn sứ Isaia loan báo trước: Thiên Chúa sẽ khoác cho dân Ngài một áo choàng công chính và cứu độ ( x. Is 61,10 ), và như  Phaolô xác tín : mọi thành phần đều được Thần Khí thánh hóa và quy tụ quanh Ðức Giê-su Ki-tô, để cùng tuyên xưng Thiên Chúa là Cha ( Gal 3,16; Rm 8,14-17 ). Chính vì lẽ đó, Phaolô luôn nguyện cầu cho mọi tín hữu : " Xin Thiên Chúa bình an thánh hóa anh em " ( 1Th 5,23 ).

Chúng ta đang bước đến đỉnh của Mùa Vọng với Chúa Nhật thứ III, được gọi là          “ Chúa Nhật của mừng vui ”. Màu sắc Phụng vụ hôm nay là màu hồng, màu biểu tượng cho sự vui tươi, và hy vọng : vì Thiên Chúa đã gần đến rồi ! Ngài đòi tôi va ban phải lột bỏ mọi vẻ mặt sầu bi, thiểu não, phải đuổi xa mọi tâm tư thất vọng và buồn nản, phải giải tỏa mọi nỗi lòng đau khổ và tội lỗi. Đó là tất cả những gì mà “ mình là ” trong lúc bước đến đỉnh mùa vọng.

“ Tôi là ai? ”. Dù là ai đi chăng nữa, trong mùa vọng, cùng với tâm tình sám hối bình an mà Gio-an phác họa, tôi luôn sống tinh thần mà Phao-lô kêu gọi : " Hãy vui lên, hỡi anh em, hãy vui lên! Hãy cảm tạ Thiên Chúa trong mọi sự, vì đó là thánh ý Người về tất cả anh em trong Ðức Kitô. Anh em đừng dập tắt tác động của Thánh Thần " ( 1Th 5,16-17 ). Đừng dập tắt lửa Thánh Thần, như Gioan, luôn để Thánh Thần thúc đẩy để thực thi sứ vụ dù chỉ là “ Tiếng nói hoang địa ”.

Vâng, gương mặt thanh bần, chính trực, luôn xây dựng nước Chúa của “ Tiếng kêu hoang địa -Gioan” luôn là mô phạm cho chúng ta sống trong mùa Vọng; đặc biệt là gần kề đến lễ Giáng sinh để mong cho ta được luôn bình an trong tâm hồn.

“ Tôi là ai ? ”. Tôi sẽ là tôi của sám hối như “ Tiếng gọi trong hoang địa ”, sự sám hối chân thành trong niềm vui và hy vọng vào Chúa đến.

“ Vui lên anh em, sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi, Chúa đã gần đến ” (Pl 4,5)

                                 Lm. Vinhsơn

Mục lục

 

TU ĐỨC

DÂNG THÁNH LỄ

Trước khi đi lễ, mỗi người chúng ta đều thực hiện một vài chuẩn bị. Chuẩn bị bên ngoài, để phong cách của ta được lịch sự. Chuẩn bị bên trong, để tâm hồn ta được tốt đẹp. Những chuẩn bị như thế được đánh giá là tốt, là hữu ích, là cần thiết. Thánh lễ mang lại ơn phúc cho ta, nhiều hay ít, một phần cũng tuỳ thuộc vào những chuẩn bị của ta trước lễ.

Có một chuẩn bị sẽ ảnh hưởng nhiều đến sự đón nhận ơn phúc qua thánh lễ. Chuẩn bị đó là ước muốn gặp gỡ Chúa và lắng nghe ý Chúa.

Vì thái độ này là rất quan trọng, và vì chắc chắn ai trong chúng ta cũng muốn có thái độ quan trọng đó, nên tôi xin được nhắc nhớ vài điều căn bản sau đây:

Gặp gỡ Chúa.

Trước hết, để gặp gỡ Chúa, chúng ta phải khát khao và tỉnh thức.

Bởi vì Chúa đến với ta là một ân huệ. Ta phải phần nào tỏ ra xứng đáng với ân huệ đó. Chúa phán: "Này Ta đứng ngoài cửa và gõ. Nếu ai nghe tiếng Ta và mở cửa, Ta sẽ vào nhà nó và sẽ dùng bữa với nó. Ta ở bên nó và nó ở bên Ta" (Kh 3, 20).

Lời Chúa phán trên đây cho thấy Chúa muốn đến với ta một cách nhẹ nhàng và thân mật. Ngài gõ nhẹ lòng ta. Ngài đợi cửa lòng ta mở ra đón Ngài. Ngài không xô cửa mà vào. Ngài không áp đặt sự thăm viếng của Ngài.

Trong thánh lễ, Chúa gõ cửa lòng ta qua các Lời Chúa, các lời cầu nguyện, các lời giảng dạy, các lễ nghi, nhất là Mình Thánh.

Ta nghe, ta xem, ta tham dự, ta thờ lạy. Nhưng ta không dừng lại ở những việc đó. Ta coi đó chỉ là tiếng gõ cửa lòng ta. Ðiều ta tha thiết ước mong không phải là nghe được tiếng gõ cửa, mà là gặp được chính Chúa, đón được chính Chúa vào tâm hồn ta.

Ðược Chúa ngự vào lòng ta, và ở lại trong ta, ta được hạnh phúc bình an. Ơn phúc sẽ đến với đời ta dồi dào.

Bằng cách này hay cách khác, Chúa sẽ đem đến cho ta những thứ thuốc, có sức chữa lành những bệnh tật và vết thương đời ta, như xưa Chúa đã sai tổng lãnh thiên thần Raphael đem thuốc đến cho ông Tôbia.

Bằng cách này hay cách khác, Chúa sẽ gởi tin cho ta, để ta cảm được tình Chúa, như xưa Chúa đã sai tổng lãnh thiên thần Gabriel truyền tin cho Ðức Mẹ.

Bằng cách này hay cách khác, Chúa sẽ ban cho ta sức mạnh, để ta chiến thắng quỉ dữ, bảo vệ Nước Chúa, như xưa Chúa đã dùng tổng lãnh thiên thần Micae để đánh đuổi Lucifer và các tà thần muốn ngang hàng với Chúa.

Cùng với các ơn trên đây sẽ còn vô vàn ơn khác nữa. Ðiều kiện ta phải có, để đón nhận thêm mãi các ơn Chúa, là không những phải tỉnh thức và khát khao gặp Chúa, mà còn phải sẵn sàng lắng nghe ý Chúa.

Ðón nhận ý Chúa.

Tha thiết lắng nghe ý Chúa đòi một thái độ rất khiêm nhường, sẵn sàng từ bỏ ý riêng, nhất quyết vâng phục ý Chúa.

Bởi vì ý Chúa không luôn giống ý riêng ta. Ý Chúa bao giờ cũng tốt hơn ý riêng ta. Chúa quả quyết: "Tư tưởng Ta không phải tư tưởng của các ngươi. Ðường lối các ngươi không phải đường lối của Ta. Như trời cao hơn đất thế nào, thì đường lối của Ta vượt trên đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta vượt trên tư tưởng các ngươi thế ấy" (Is 55, 8-9).

Lời Chúa trên đây là một sự thực cứu độ. Khi nhận thức sự thực đó, chúng ta sẽ tránh khỏi những sai lầm có hại cho Tin Mừng, cho đạo ta và cho chính chúng ta.

Xin nhìn lại vài thí dụ. Phúc Âm cho thấy: Nhiều người có đạo thời ấy đã tự phụ cho mình là đạo đức, và khinh chê những người không như họ. Thế nhưng, theo Phúc Âm kể, thì chính những người tự nhận là đạo đức đó lại bị Chúa kết án, còn những người bị họ khinh chê lại được Chúa khen ngợi và được nêu lên như gương sáng về một số nhân đức.

Rồi Phúc Âm cũng cho thấy: Chính các tông đồ, thậm chí cả thánh Phêrô là người đứng đầu các tông đồ, cũng ước mong Chúa Giêsu sẽ ra tay cứu đời, cứu nước, bằng con đường quyền lực vinh quang. Thế nhưng, theo Phúc Âm thuật lại, thì Chúa Giêsu đã chọn con đường khác. Ðó là con đường sống khiêm tốn, sống hy sinh, sống trong số phận kẻ bị loại trừ, để qua con đường đó, Ngài giới thiệu tình yêu Thiên Chúa và cách thắng tội lỗi, bằng sự vâng phục thánh ý Chúa Cha.

Chỉ một vài chi tiết trên đây cũng đủ nhắc nhủ ta, khi gặp Chúa, hãy biết khiêm nhường lắng nghe ý Chúa. Lắng nghe ý Chúa là lắng nghe lòng Chúa. Bởi vì lòng Chúa đầy tràn tình yêu thương xót. Lòng Chúa như thế có những con đường và những ý tưởng rất khác chúng ta.

Ở đây, có một điều chúng ta nên để ý. Ðó là, trong khi nhiều người rất gần Chúa, mà lại không hiểu ý Ngài, thì một số người khác gặp gỡ Chúa đã đón nhận được ý Ngài. Lý do là vì những người này có "những giác quan thiêng liêng" rất tinh.

Họ phần nào giống như thánh Gioan tông đồ dám nói: "Ðiều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, điều chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống... Ðiều chúng tôi đã thấy và đã nghe, thì chúng tôi báo cho cả anh em nữa" (1 Ga 1, 3)

Ðã nghe, đã xem thấy, đã chiêm ngưỡng, đã chạm tới, đó là cách diễn tả rất sống động sự gặp Chúa và sự hiểu được ý Chúa với tâm tình đơn sơ xác tín.

Trong thánh lễ, chúng ta khiêm tốn xin Chúa ban cho chúng ta được phần nào như vậy.

Mong gặp gỡ Chúa và lắng nghe ý Chúa, đó là thái độ ta có thể thực hiện được, trong mọi nơi mọi lúc, nhất là khi dâng thánh lễ.

Lạy Chúa, con trông cậy vào Chúa. Có lẽ ban đầu chỉ nói với Chúa một cách đơn sơ thế thôi, chúng ta sẽ từng bước tới được chỗ gặp Chúa và lắng nghe ý Chúa ở chiều sâu nội tâm của mình. Nhờ vậy, thánh lễ ta tham dự sẽ là nguồn an ủi quí giá vô vàn cho chúng ta. Chính bản thân ta, chính cuộc đời ta sẽ dần dần được trở thành của lễ sống động trong thánh lễ của Chúa Giêsu.

ĐGM  GB Bùi Tuần

Mục lục

 

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI

 

Tòa thánh công bố thông điệp Ngày Hòa bình Thế giới năm 2009

Vatican (CWNews.com) – Trong thông điệp Ngày Hòa bình Thế giới hàng năm, Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI nhấn mạnh đến mối liên hệ giữa hòa bình thế giới và sự phát triển kinh tế; ngài lập luận rằng trong nền kinh tế toàn cầu, việc theo đuổi tìm kiếm lợi nhuận một cách thiển cận phải nhường chỗ cho một hệ thống được tình cảm thông liên đới hướng dẫn.

Thông điệp dài 17 trang của Đức giáo hoàng nhan đề “Chống Nghèo đói để Xây dựng Hòa bình” được Tòa thánh Vatican công bố hôm 11 tháng 12 trong một cuộc họp báo tại Roma dưới quyền chủ tọa của Hồng y Renato Martino, chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình. Thông điệp sẽ chính thức được trao cho các thành viên trong ngoại giao đoàn bên cạnh Tòa thánh vào ngày 1 tháng giêng năm 2009, được Giáo hội chỉ định là Ngày Thế giới Cầu nguyện cho Hòa bình.

Đức Hồng y Martino phát biểu với báo chí: Theo gương Đức Gioan Phaolô II đặt ra năm 1993, khi đức cố giáo hoàng dành thông điệp hàng năm của ngài để thảo luận về vấn đề nghèo đói, Đức giáo hoàng Bênêđictô “chỉ cho chúng ta biết giữa hòa bình và cuộc chiến chống nghèo đói liên hệ với nhau như thế nào”. Trong thông điệp, Đức thánh cha đưa ra nhận xét là nghèo đói có thể vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của chiến tranh. Ngài viết: “Nghèo đói thường là nhân tố góp phần hoặc là yếu tố thành phẩm trong các cuộc xung đột, kể cả những cuộc xung đột võ trang. Đến lượt mình, những cuộc xung đột này lại gây ra những hoàn cảnh đói nghèo bi thảm hơn.”

Khi phân tích sự bất ổn hiện nay trong các thị trường tài chánh trên thế giới, Đức giáo hoàng viết rằng nền kinh tế toàn cầu “đang trải qua những ảnh hưởng tiêu cực của một hệ thống những thực hiện tài chánh – cả trên bình diện quốc gia lẫn toàn cầu – đặt căn bản trên lối suy nghĩ rất ngắn hạn, chỉ nhằm gia tăng giá trị các hoạt động tài chính và tập trung vào cách điều hành kỹ thuật dưới nhiều hình thức rủi ro”. Ngài lập luận rằng nhiều cơ cấu trong thế giới tài chánh đã “hoàn toàn đặt căn bản trên chính nó, thiếu mục đích tìm kiếm ích lợi chung dài hạn.” Tiến trình đó, theo ngài nói, “trở thành nguy hiểm cho mọi người, kể cả cho những ai được hưởng lợi khi thị trường tiến triển tốt đẹp.”

Để hướng dẫn một nền kinh tế lành mạnh trong thời đại toàn cầu hóa, Đức giáo hoàng nói rằng các nhà lãnh đạo trên thế giới nên chấp nhận sự khôn ngoan để đề cao và bảo vệ lợi ích chung. Một tiến trình như thế, ngài viết, sẽ có thể đòi hỏi mối quan tâm đích thực vào những nhu cầu của người nghèo.

Đức giáo hoàng lập luận rằng các nhu cầu vật chất không phải chỉ là nhân tố duy nhất gây ra nghèo đói – mà quả thực không phải lúc nào cũng là yếu tố quan trọng nhất. Những bất quân bình trong việc phân phối tài nguyên, những chướng ngại ngăn chận các thị trường, và các chính sách của chính quyền bị hướng dẫn sai lạc, đã làm cho khó khăn thêm trầm trọng. Khi các nguồn tài nguyên thích hợp được đưa ra để giải quyết vấn đề, thì những giải pháp chính yếu có thể được thực hiện một cách mau chóng để làm nhẹ bớt gánh nặng những nhu cầu của con người.

Để minh họa cho lập luận của mình, ngài chỉ rõ rằng vấn đề nghèo đói “không phải phần lớn là do thiếu thốn thực phẩm, bằng do khó khăn để có được thực phẩm, và do nhiều hình thức đầu cơ trục lợi khác nhau.” Ngài nói rằng những chính sách không màng tới hoặc đặt người nghèo đói ra ngoài lề, phải được thay đổi, và kêu gọi một nỗ lực toàn cầu để đạt được mục tiêu đó. Ngài viết: “Các phương tiện hữu hiệu để sửa sai cảnh dùng tiến độ toàn cầu hóa để đặt người nghèo đói trên thế giới ra ngoài lề, chỉ có thể tìm thấy được nếu con người khắp nơi tự cá nhân mình cảm thấy tức tối bởi những nạn bất công trên thế giới và bởi những vi phạm nhân quyền kèm theo.”

Đức giáo hoàng minh xác rằng khi viết về vấn đề nghèo đói, ngài không chỉ quan ngại đến sự thiếu thốn về vật chất, nhưng còn về những chỉ dấu khác của sự nghèo khổ. Ngài nhận thấy rằng “trong các xã hội giàu và tiến bộ, có bằng chứng rõ rệt về việc phân lề, cũng như sự nghèo nàn về tinh thần, luân lý đạo đức và tình cảm, thấy được nơi những con người mà cuộc sống nội tâm bị mất hướng, những người trải qua nhiều hình thức chán chường mặc dầu họ có được sự phồn vinh về kinh tế.” Ngài cho rằng sự “siêu phát triển” về kinh tế đã làm gia tăng những hiểm họa “kém phát triển về luân lý”.

Đức giáo hoàng tố cáo thái độ đã đưa một số các nhà lãnh đạo quốc tế đến chỗ đề ra những chính sách hung hãn nhằm giảm thiểu dân số, mang giả tưởng lầm lẫn rằng chính con người là nguyên nhân gây ra cảnh nghèo đói. Kết quả là việc xuất hiện ồ ạt các chính sách đề cao những biện pháp hung hăng nhằm kế hoạch hóa gia đình, kể cả phá thai. “Sự tiêu diệt hàng triệu em bé chưa sinh, nhân danh là để chống nghèo đói, thực ra góp phần vào việc hủy hoại những kẻ khốn khổ nhất trong nhân loại.”

Tương tự như thế, theo Đức giáo hoàng nhận xét, “các dịch bệnh như sốt rét, lao và AIDS” cần có ngay một sự đáp ứng khẩn thiết khắp toàn cầu. Nhưng một số quốc gia nghèo, trong cuộc chiến chống các bệnh tật đó “khi cố gắng đưa ra để giải quyết, lại thấy mình như bị giữ làm con tin, bởi những người đặt điều kiện giúp đỡ về kinh tế bằng việc thực thi những chính sách phản lại sự sống.”

Toàn văn bản dịch Anh ngữ bức thông điệp của Đức giáo hoàng có thể đọc tại:

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/messages/peace/documents/hf_ben-xvi_mes_20081208_xlii-world-day-peace_en.html.

Mục lục

 

Tòa Thánh Vatican mừng kỷ niệm Bản Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền

 

Vatican (Fides) – Hôm nay 10.12.2008,, Hội đồng giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, hợp tác với Phủ Giáo hoàng, tổ chức một số nghi lễ để kỷ niệm năm thứ 60 ngày bản Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền ra đời.


Đức Hồng y Renato Martino, Chủ tịch Hội đồng giáo hoàng về Công lý và Hòa bình phát biểu: “Giáo hội tin rằng nhân quyền biểu hiện phẩm giá siêu việt của con người, là sinh vật thụ tạo duy nhất mà Thiên Chúa đã muốn, đối với chính Ngài, là một cùng đích chứ không bao giờ là phương tiện, và giáo hội tin rằng bảnTuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền được công bố năm 1948 là thời điểm quan trọng căn bản trong việc phát triển của toàn bộ nhân loại, của một lương tâm luân lý phù hợp với phẩm giá con người.”

Ngài nói rằng trong Bản Toát yếu Học thuyết Xã hội của Giáo hội, mục số 152 khẳng định rằng: “Huấn quyền của Giáo hội đã không quên chú ý đến giá trị tích cực của bản Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền, được Liên hiệp quốc chấp thuận ngày 10 tháng 12 năm 1948, và được Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II xác định như là “một dấu mốc đích thực trên con đường tiến bộ về luân lý của nhân loại.”

Buổi lễ sẽ bắt đầu lúc 4 giờ chiều tại Thính đường Phaolô VI, với các hoạt động tưởng niệm dành cho suy tư và nghiên cứu, có sự tham dự của các vị lãnh đạo thuộc giáo triều Roma và thành viên ngoại giao đoàn cạnh Tòa thánh. Các diễn từ đề cập đến tầm quan trọng và ý nghĩa hiện nay của bản Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền sẽ được trình bày do: Hồng y quốc vụ khanh Tòa thánh Tarcisio Bertone; Tiến sĩ Juan Somavia, Tổng giám đốc Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO); Tiến sĩ Jacques Diouf, Tổng giám đốc Tổ chức Lương Nông Liên hiệp quốc (FAO). Đức Hồng y Martino sẽ mở lời khai mạc và kết thúc buổi họp.


Phần thứ hai của chương trình kỷ niệm sẽ đánh dấu bằng sự hiện diện của Đức giáo hoàng Bênêđictô, bắt đầu lúc 6 giờ chiều, với buổi trình tấu âm nhạc cổ điển của dàn nhạc Brandenburrgisches Staatsorchester đến từ Frankfurt (Đức) do nhạc trưởng Inma Shara điều khiển.


Trước buổi hòa tấu, Tổ chức Thánh Matthêu sẽ phát các giải thưởng năm 2008 dành để tưởng niệm Đức cố hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Các giải thưởng năm nay được trao cho những cá nhân và tổ chức sau đây:


Tiến sĩ Cornelio Sommaruga, cựu Chủ tịch Ủy ban Hồng thập tự Quốc tế;


Lm Pedro Opeka, người phát khởi dự án AKAMASOA nhằm xây dựng nhà cửa cho người vô gia cư tại Tananarivo (Madagascar);


Cha José Raúl Matte, là bác sĩ và linh mục dòng Camêlô đang hoạt động giúp người phong cùi tại vùng Amazon trong bệnh viện "São Camilo y São Luis";


GULUNAP, trường y khoa tại Gulu, trường này liên kết với Đại học "Federico II" ở Naples (Italy);

Dự án "Gruppo Ercolini-Villaggio degli Ercolini", hoạt động nhằm hội nhập về văn hoá và xã hội cho nhóm thanh thiếu niên gypsy qua việc cải tiến một số khu vực ở Roma.

Mục lục

 

BẢN TUYÊN NGÔN QUỐC TẾ NHÂN QUYỀN

Xét rằng: Sự thừa nhận nhân cách của tất cả con người trong đại gia đình nhân loại và những quyền bình đẳng không thể tước đoạt của họ là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới.


Xét rằng: Hành vi xem thường và chà đạp nhân quyền đã dẫn đến những hành động man rợ, xúc phạm đến lương tâm nhân loại. Sự kêu gọi thiết lập một thế giới trong đó tất cả mọi người phải được hưởng quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, quyền được giải thoát khỏi sự sợ hãi và nghèo khó, phải được tuyên xưng như là ước vọng cao nhất của con người.


Xét rằng: Nhân Quyền cần phải được triệt để bảo vệ bằng luật pháp, để con người không bị bắt buộc phải sử dụng biện pháp cuối cùng là vùng dậy chống lại độc tài và áp bức.


Xét rằng: Mối quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia cần được khuyến khích và mở rộng.


Xét rằng: Trong Hiến Chương, các dân tộc của cộng đồng Liên Hiệp Quốc đã lại một lần nữa xác định niềm tin vào những quyền căn bản của con người, vào nhân phẩm và giá trị nhân vị, vào quyền bình đẳng nam nữ và cũng đã quyết định cổ vũ cho các tiến bộ xã hội và cải tiến mức nhân sinh trong bối cảnh ngày càng tự do hơn.


Xét rằng: Các quốc gia hội viên đã cam kết hợp tác với Liên Hiệp Quốc, nhằm cổ vũ việc tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do căn bản.


Xét rằng: Một khuôn mẫu chung về nhân quyền và tự do là điều tối quan trọng để có thể thực hiện đầy đủ sự cam kết trên.


Do đó, Ðại Hội Ðồng Liên Hiệp Quốc long trọng công bố Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền này như là một khuôn mẫu chung cần đạt tới của mọi dân tộc và quốc gia, nhằm giúp cho mọi cá nhân và thành phần của xã hội luôn luôn theo sát tinh thần của Bản Tuyên Ngôn, dùng sự truyền đạt và giáo dục, để nỗ lực phát huy sự tôn trọng các quyền tự do này.


Mặt khác, bằng những phương thức tiến bộ trong phạm vi quốc gia cũng như quốc tế, phải bảo đảm sự thừa nhận và tuân hành Bản Tuyên Ngôn một cách có hiệu lực, không những giữa các dân tộc của các nước hội viên với nhau, nhưng còn giữa những dân tộc sống trên các phần đất thuộc thẩm quyền họ cai quản.


Ðiều 1:


Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm, cũng như quyền lợi.


Mọi người đều được phú bẩm về lý trí và lương tâm. Sự đối xử giữa con người với nhau phải được trên tinh thần bác ái.


Ðiều 2:


Mọi người đều được hưởng tất cả những quyền và tự do công bố trong Bản Tuyên Ngôn này và không có một sự phân biệt nào, như chủng tộc, màu da, phái tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hay tất cả quan điểm khác, quốc tịch hay nguồn gốc xã hội, tài sản, nơi sinh, hay tất cả những hoàn cảnh khác. Hơn nữa, cũng không được có sự phân biệt nào đối với con người sống trên một quốc gia hay trên một lãnh thổ, căn cứ trên cơ chế chính trị, nền tảng luật pháp hay quy chế quốc tế của quốc gia hay lãnh thổ đó. Cho dù quốc gia hay lãnh thổ này độc lập hay dưới sự bảo hộ, không được tự trị hay ở trong tình trạng bị hạn chế về chủ quyền.


Ðiều 3:


Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an ninh thân thể.


Ðiều 4:


Không ai bị cưỡng bức làm nô lệ hay tôi đòi. Chế độ nô lệ và buôn bán nô lệ dưới mọi hình thức đều bị nghiêm cấm.


Ðiều 5:


Không một người nào phải chịu cực hình, tra tấn, hay bất kỳ hình thức đối xử, hoặc trừng phạt bất nhân, hay có tính cách lăng nhục.


Ðiều 6:

 

Ở bất cứ nơi nào, mỗi người đều có quyền được công nhận tư cách của mình trước pháp luật.

Ðiều 7:


Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, và phải được bảo vệ một cách bình đẳng, không kỳ thị phân biệt. Tất cả đều được quyền bảo vệ ngang nhau, chống lại mọi kỳ thị vi phạm Bản Tuyên Ngôn này, cũng như chống lại mọi khiêu khích dẫn đến kỳ thị như vậy.


Ðiều 8:


Mọi người đều có quyền được kháng tố trước các cơ quan tư pháp quốc gia có thẩm quyền về các hành vi vi phạm các quyền căn bản, do Hiến Pháp và Luật Pháp quy định.


Ðiều 9:


Không một ai bị bắt bớ, cầm tù hay lưu đày một cách độc đoán.


Ðiều 10:


Mọi người đều có ngang nhau quyền được phân xử công khai và công bằng, trước một tòa án độc lập và vô tư, để được phán quyết về các quyền lợi và nhiệm vụ của mình, hay về những tội phạm mà mình bị cáo buộc.


Ðiều 11:


(1) khi truy tố trước pháp luật, mọi người được xem là vô tội, cho đến khi pháp luật chứng minh là có tội, trong một phiên tòa công khai và tòa án này phải cung ứng tất cả mọi bảo đảm cần thiết cho quyền biện hộ của đương sự.


(2) Không ai có thể bị kết án khi có những hành động hay sơ suất xảy ra vào lúc mà luật pháp của quốc gia hay quốc tế không qui định đó là một hành vi phạm pháp.


Tương tự như vậy, không được áp đặt một hình phạt nào nặng hơn hình phạt được ấn định vào lúc hành vi phạm pháp xảy ra.


Ðiều 12:


Không một ai bị xâm phạm một cách độc đoán về đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, hay thư tín, cũng như bị xúc phạm danh dự hay tiếng tăm của mình. Mọi người đều có quyền được luật pháp bảo vệ, trước những xâm phạm và xúc phạm như vậy.


Ðiều 13:


(1) Mọi người có quyền tự do di chuyển và cư trú, trong phạm vi biên giới của quốc gia.


(2) Mọi người đều có quyền rời bỏ lãnh thổ bất kỳ nước nào, kể cả nước của mình, và quyền trở về xứ sở


Ðiều 14:


(1) Trước sự ngược đãi, mọi người đều có quyền tị nạn và tìm sự dung thân tại các quốc gia khác.
(2) Quyền này không được kể đến, trong trường hợp bị truy nã thật sự vì các tội phạm ngoài lý do chính trị, hay do những hành vi trái với những mục tiêu và nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc.


Ðiều 15:


(1) Mọi người đều có quyền có quốc tịch.


(2) Không một ai bị tước bỏ quốc tịch, hay bị từ chối quyền thay đổi quốc tịch, một cách độc đoán.

Ðiều 16:


(1) Nam và nữ trong tuổi trưởng thành có quyền kết hôn và lập gia đình, mà không bị hạn chế về lý do chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo. Nam nữ đều có quyền bình đẳng lúc kết hôn, trong đời sống vợ chồng và lúc ly hôn.


(2) Hôn nhân chỉ có thể tiến hành khi cả hai vợ chồng tương lai đều được tự do quyết định và đồng ý thật sự.


(3) Gia đình phải được xem là một đơn vị tự nhiên và căn bản của xã hội, và được quyền bảo vệ của xã hội và quốc gia.


Ðiều 17:


(1) Mọi người đều có quyền sở hữu tài sản cá nhân cũng như tập thể.

(2) Không ai có thể bị tước đoạt tài sản của mình một cách độc đoán.


Ðiều 18:


Mọi người đều có quyền về tự do tư tưởng, nhận thức và tôn giáo. Quyền này bao gồm cả quyền tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng, cũng như quyền tự do biểu lộ tôn giáo hay tín ngưỡng của mình, với tư cách cá nhân hay tập thể, ở nơi công cộng hay trong chỗ tư nhân, bằng sự truyền dạy, thực hành, thờ phượng và áp dụng các nghi thức đạo giáo.


Ðiều 19:


Mọi người đều có quyền tự do tư duy và ngôn luận. Quyền này bao gồm quyền không bị gây khó khăn vì quan điểm của mình và quyền được tìm kiếm, thu nhận và quảng bá tin tức và ý kiến qua mọi phương tiện truyền thông và qua mọi biên giới.


Ðiều 20:


(1) Mọi người đều có quyền tự do hội họp và lập hội, một cách hòa bình.

(2) Không một ai có thể bị cưỡng bách gia nhập vào một đoàn thể.


Ðiều 21:


(1) Mọi người đều có quyền tham gia vào việc điều hành xứ sở của mình, một cách trực tiếp hay qua các đại biểu được tuyển chọn một cách hoàn toàn tự do.


(2) Mọi người đều có ngang nhau quyền nhận lãnh những trách nhiệm chung của quốc gia của họ.


(3) Ý muốn của nhân dân phải là nền tảng của quyền lực chính quyền. Ý muốn này phải được thể hiện qua các cuộc bầu cử định kỳ và nghiêm chỉnh, bằng phiếu kín, qua phương thức phổ thông và bình đẳng đầu phiếu, hay các phương thức tương đương bảo đảm tự do bầu cử.


Ðiều 22:


Vì là thành viên của xã hội, mỗi người đều có quyền an ninh xã hội, qua các cố gắng của quốc gia và hợp tác quốc tế, dựa theo phương cách tổ chức và tài nguyên của mỗi nước. Quyền này được đặt trên căn bản của sự thụ hưởng những quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa, cần thiết cho nhân phẩm và sự phát triển tự do của mỗi cá nhân.


Ðiều 23:


(1) Mọi người đều có quyền làm việc, quyền tự do chọn việc làm, quyền được hưởng các điều kiện làm việc chính đáng và thuận lợi đối với công việc, và quyền được bảo vệ chống thất nghiệp.


(2) Mọi người, không vì lý do kỳ thị nào, đều có quyền được hưởng lương bổng như nhau, nếu cùng làm một công việc như nhau.


(3) Mọi người làm việc đều được quyền hưởng thù lao một cách công bằng và thích hợp, khả dĩ bảo đảm cho bản thân và gia đình mình một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm, cũng như được trợ giúp nếu cần, qua các phương thức bảo vệ xã hội khác.


(4) Mọi người đều có quyền thành lập và tham gia vào các nghiệp đoàn, để bảo vệ quyền lợi của mình.

Ðiều 24:


Mọi người đều có quyền nghỉ ngơi và giải trí, nhất là sự giới hạn số giờ làm việc một cách hợp lý, và các ngày nghỉ định kỳ có trả lương.


Ðiều 25:


(1) Mọi người đều có quyền được hưởng một mức sống phù hợp với sức khỏe và sự no ấm cho bản thân và gia đình bao gồm: thực phẩm, quần áo, nhà ở, y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết, quyền an sinh trong lúc thất nghiệp, đau ốm, tình trạng bất khiển dụng, góa bụa, tuổi già hay các tình huống thiếu thốn khác do các hoàn cảnh ngoài khả năng kiểm soát của mình.


(2) Sinh sản và trẻ con có quyền được chăm sóc và trợ giúp đặc biệt. Tất cả mọi trẻ con, sinh có hôn thú hay không, đều được xã hội bảo vệ một cách bình đẳng như nhau.


Ðiều 26:


(1) Mọi người đều có quyền được giáo dục. Giáo dục phải được miễn phí, ít nhất là trong trường hợp cưỡng bách giáo dục ở bậc tiểu học. Giáo dục kỹ thuật và chuyên nghiệp phải được mở rộng và giáo dục đại học phải được mở rộng bình đẳng chomọi người, trên căn bản tài năng xứng đáng.
(2) Giáo dục phải được điều hướng để phát triển đầy đủ nhân cách, và củng cố sự tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do căn bản. Giáo dục phải nhằm cổ vũ sự cảm thông, lòng khoan dung, và tình hữu nghị giữa mọi quốc gia, mọi nhóm chủng tộc hoặc tôn giáo, và hỗ trợ việc phát triển các sinh hoạt của Liên Hiệp Quốc nhằm duy trì hòa bình.


(3) Cha mẹ có quyền ưu tiên chọn lựa phương cách giáo dục dành cho con cái mình.



Ðiều 27:


(1) Mọi người đều có quyền tự do tham gia sinh hoạt văn hóa cộng đồng, thưởng thức các bộ môn nghệ thuật, và cùng chia xẻ các tiến bộ khoa học cũng như các lợi ích của khoa học.

 

(2) Mọi người đều có quyền được bảo vệ về tác quyền, trên bình diện tinh thần cũng như quyền lợi vật chất, đối với các tác phẩm khoa học, văn chương, hay nghệ thuật.



Ðiều 28:


Mọi người đều có quyền đòi hỏi được sống trong một trật tự xã hội và trật tự quốc tế, trong đó các quyền và các tự do được đề cập trong Bản Tuyên Ngôn này có thể được thể hiện đầy đủ.



Ðiều 29:


(1) Mọi người đều có nhiệm vụ đối với cộng đồng nào mà chỉ trong đó mới thực hiện được việc phát triển toàn vẹn và tự do nhân cách của mình.


(2) Trong việc hành xử nhân quyền và thụ hưởng tự do, mọi người chỉ phải chịu những hạn chế do luật định, và những hạn chế này chỉ nhằm mục tiêu bảo đảm sự thừa nhận
và tôn trọng nhân quyền, và quyền tự do của những người khác, cũng như nhằm thỏa mãn những đòi hỏi chính đáng về luân lý, trật tự công cộng, và nền an sinh chung trong một xã hội dân chủ.


(3) Trong bất cứ trường hợp nào, nhân quyền và những quyền tự do này cũng không được hành xử trái với những mục tiêu và nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc.


Ðiều 30:


Không một điều nào trong Bản Tuyên Ngôn này cho phép một nước, một nhóm hay một cá nhân nào được quyền viện dẫn bất cứ lý do gì để có những việc làm hay hành động nhằm hủy diệt nhân quyền và tự do được thừa nhận trong bản Tuyên Ngôn này.


Liên Hiệp Quốc,


Ngày 10 tháng 12 năm 1948

Liên Hiệp Quốc

Mục lục

Dòng Phú Xuân Huế tôn vinh Đức Mẹ Vô Nhiễm

Huế, Việt Nam ( 08-12-2008)- Không khí lạnh, mưa phùn, nhạc Thánh ca mùa đông vang lên từ các quầy bán thiệp Giáng Sinh, báo tin vui mùa Noel đang về. Dòng Phú Xuân Huế đang chào đón lễ hội Giáng Sinh bằng Thánh lễ tôn vinh Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội.

 

Các phụ huynh, thân nhân, bạn bè và ân nhân của các nữ tu dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm Huế, đến từ các vùng khác nhau của giáo phận Huế, để dự ngày lễ lớn trong năm của hội dòng, được mừng vào hôm thứ bảy 6-12-2008 nhân lễ Đức Maria Vô Nhiễm nguyên tội, bổn mạng của hội dòng.

Đức Tổng giám mục Huế đã phát biểu tại buổi lễ. Ngài chào đón hơn 700 tham dự viên, ngài giải thích ý nghĩa mầu nhiệm Đức Trinh Nữ Maria, được Thiên Chúa giữ gìn khỏi tội Nguyên Tổ và mọi tội lỗi khác, để chu toàn sứ vụ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Đức cha nhắc lời thánh kinh (Luca 1,28): ”Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Trinh Nữ”.

Mở đầu Thánh lễ bằng nghi thức tuyên khấn của 9 hội viên giáo dân gồm 3 nam, 6 nữ. Họ là phụ huynh, ân nhân của các nữ tu, thuộc hiệp hội con Đức Mẹ Vô nhiễm Tại thế. Trong tay mỗi người cầm nến cháy sáng, họ được một chỗ danh dự trước cung thánh để đọc lời tuyên khấn trước mặt nữ tu bề trên Ma-ri-a Con-so-la-ta Bùi Thị Bông.

Ông Giuse Nguyễn Đình Sung, 72 tuổi, một hội viên đến từ giáo xứ Tây Linh nói:’’ chúng tôi tham gia hiệp hội này với mục đích tôn vinh Đức Mẹ, truyền rao Tình yêu Chúa Kitô và cùng Mẹ tự nguyện bước theo Đức Kitô trên đường Thập Giá ‘’.

Trong bài giảng, đức cha Têphanô Nguyễn Như Thể, đề cao giá trị ân sủng của hội dòng Đức cha nói rằng Ân sủng, không chỉ dành riêng cho các nữ tu, nhưng cho mọi người khi họ tham gia vào các công việc phục vụ quên mình cho Đức Mẹ Maria, từ trong gia đình, thôn xóm và giáo xứ.

Hội Dòng Phú Xuân Huế, hiện nay (năm 2008), có 44 cộng đoàn với 353 thành viên trong 3 Giáo tỉnh Hà Nội, Huế, Sài Gòn.

Được biết, ngoài công tác giáo dục giới trẻ về đức tin và văn hoá như dạy giáo lý, giúp hộc bổng cho học sinh và sinh viên, mở trường mầm non. Ngoài ra, hội dòng còn tham gia công tác xã hội như bảo trợ trẻ mồ côi - khuyết tật, mở phòng khám từ thiện Đông và Tây y,để khám chữa bệnh miễn phí cho bệnh nhân nghèo, đến từ hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Đặc biệt các nữ tu còn chăm sóc tư vấn cho người nhiễm HIV tại cộng đồng địa phương.

Phêrô Nguyễn Ngọc Giáo

Mục lục

Giáo xứ Tam Tòa: Trong đống tro tàn, hòn than vẫn âm thầm cháy

Sáng ngày 9/11/2008, tại nhà một giáo dân ở thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, giáo xứ Tam Tòa đã hân hoan mừng lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, bổn mạng của giáo xứ. Cha Fx. Võ Thanh Tâm, Tổng Đại diện giáo phận, chủ tế. Đồng tế với ngài có cha GB. Nguyễn Khắc Bá, Bề trên Đại chủng viện Vinh -Thanh, và 15 cha trong, ngoài giáo hạt. Ngoài ra, còn có sự hiện diện của các vị đại diện chính quyền thành phố Đồng Hới, phường Đồng Mỹ; Quý nam nữ tu sĩ, Quý ân nhân, và hơn 1.500 tín hữu trong, ngoài giáo xứ.

Lời dẫn đầu thánh lễ thể hiện niềm vui và hạnh phúc của cộng đoàn trước sự kiện trọng đại này: “Gần một thế kỷ qua, giáo xứ Tam Tòa tưởng như đã bị xóa tên. Thế nhưng huyền nhiệm tình yêu Thiên Chúa đã làm cho giáo xứ chúng ta được hồi sinh, được sống lại truyền thống của giáo xứ trong niềm vui mừng lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội hôm nay… Niềm tin của người Công giáo ở giáo xứ Tam Tòa có thể ví như hòn than đỏ bị vùi lấp trong đống tro tàn bao năm nay. Mặc cho giông tố, bão bùng, hòn than đó vẫn âm thầm cháy, để hôm nay được khơi ra và tỏa sáng”.

Mở đầu bài giảng, cha FX. Võ Thanh Tâm nói lên ấn tượng của ngài khi được tham dự một thánh lễ “đặc biệt” mà trên thế giới này, trong thời đại văn minh hôm nay, có lẽ “không nơi nào có được”: thánh lễ bên hè phố! Ngài nhấn mạnh: “Chẳng ai khổ cho bằng học sinh mà không có trường học, nguời ốm đau mà không có bệnh viện, người có Đạo mà không có nhà thờ”. Đi vào nội dung chính của bài giảng, vị Tổng Đại diện giáo phận đã trình bày lại đôi nét lịch sử cùng khía cạnh thần học của tín điều Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, được Đức Giáo hoàng Piô IX long trọng công bố vào ngày 8.12.1954. Cuối cùng, ngài không quên nhắc nhở cộng đoàn phải noi gương và cầu xin Đức Mẹ giữ gìn tâm hồn mình trong sạch như đóa hoa sen: “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.

Kết thúc thánh lễ, đại diện giáo xứ đã tỏ lòng cảm ơn Qúy cha, Qúy đại diện Chính quyền, Qúy nam nữ tu sĩ, Qúy ân nhân, Qúy khách, đã rộng lòng đóng góp tinh thần, vật chất, hiện diện và chia sẻ niềm vui với toàn thể giáo xứ trong ngày đáng nhớ này. Đồng thời ông cũng thay lời hơn 1.000 giáo dân trong giáo xứ bày tỏ những ước nguyện tha thiết: “Chúng tôi rất mong Quý lãnh đạo Chính quyền các cấp tạo điều kiện thuận lợi cho việc sinh hoạt tôn giáo của chúng tôi, nhất là việc triển khai xây dựng ngôi thánh đường giáo xứ Tam Tòa của chúng tôi sớm được thực hiện”.

Sau thánh lễ, các linh mục cùng các thành phần dân Chúa sắp thành đoàn rước trật tự, nghiêm trang tiến về nền nhà thờ đổ nát để viếng đất thánh. Trước những gì nhìn thấy, ít ai có thể kìm được nỗi đau lòng và lo lắng: đau lòng vì mảnh đất linh thiêng đang bị cỏ cây chen mọc, trở thành nơi xả rác và thải đủ thứ chất cặn bã của con người lẫn súc vật; lo lắng vì sự xuống cấp nhanh chóng của “chứng tích”: bờ rào bị phá nát, những bức tường và các cột chẳng còn lại là bao. Vì thế, trong tin tưởng và phó thác, mọi người đã sốt sắng cầu nguyện cho công lý, hòa bình, cho đất thánh và tương lai của giáo xứ.

 

Theo Tin Giáo phận Vinh

 

Giáo họ Cừa thuộc giáo xứ Quy Hậu, hạt Bảo Nham, Giáo phận Vinh:

Dấu ấn sau 50 năm hình thành và phát triển

Giáo họ Cừa thuộc giáo xứ Quy Hậu, hạt Bảo Nham, sau hơn 50 năm hình thành và phát triển, hôm nay mới thực sự được mang tên một giáo họ với đầy đủ những tính chất và tư cách của một giáo sở có quyền lợi và nghĩa vụ như hàng trăm giáo họ khác trong giáo phận.

Ngược dòng thời gian trở về với những ngày đầu phôi thai, chúng ta mới thấy được cả một quá trình từ việc gầy dựng ban đầu đến những thăng trầm trôi nổi theo dòng thế sự và hôm nay là thành quả vẻ vang của một họ đạo. Ai đó đã nói rằng: Chiến đấu không gian lao thì chiến thắng chẳng vinh quang. Và khi mừng vui đón nhận một thành quả người ta cũng ghi nhận quá trình dẫn đến vinh quang đó là chủ yếu.

Hôm nay chúng ta cũng cùng ngắm lại vóc hình của giáo họ Cừa qua chặng thời gian từ khi ra đời cho đến ngày trưởng thành. Theo sử liệu của cha Phaolô Nguyễn Đức Vĩnh ghi lại trong Bản Lược Sử Giáo Họ Cừa thì từ năm 1954 đã có một nhóm tín hữu nhỏ bé với 4 người từ miền xuôi lên định cư lập nghiệp tại đây, đó là gia đình ông Phaolô Lê Văn Ba, ông Phêrô Nguyễn Thái Quý, ông Phêrô Tạ Bửu Quang và bà Anna Nguyễn Thị Lý. Các gia đình làm ăn ổn định và phát triển dần, chẳng mấy chốc Cừa đã trở nên máu thịt quê hương của họ. Họ quyết tâm giữ đạo, không để mất đức tin trong một bối cảnh xã hội nhiều thử thách và với một điều kiện khó khăn cách trở để đến được với Chúa nơi nguyện đường. Hằng tuần nếu đi lễ phải đi bộ, lội qua sông Con về nhà thờ xứ cách khoảng 12km.

Đến năm 1960 một số bà con Việt kiều từ Thái Lan về như gia đình ông Phêrô Sin, ông Phêrô Hân và ông Phêrô Vinh, các gia đình này tuy sống trên nước bạn, tha phương cầu thực gặp phải những khác lạ về phong tục tập quán và ngôn ngữ, nhưng vẫn giữ vững lập trường đạo Chúa và cốt cách của con người Việt Nam, nên khi về định cư tại đây cũng thể hiện đúng trách nhiệm con dân của Chúa, lúc này cha Phaolô Cao Đình Thuyên quản xứ, nay là Giám mục giáo phận.

Năm 1968 có thêm hai hộ từ xứ Đông Tháp lên lập nghiệp, là gia đình bà Anna Nguyễn Thị Hoa, ông Phêrô Nguyễn Văn Quyền. Đến năm 1975 có gia đình ông Phêrô Bường, ông Đaminh Thiện từ xứ Báo Đáp, Nam Định vào sinh sống ở đây, lúc này cuộc sống còn vất vả, phải mưu sinh bằng đủ mọi nghề như buôn bán, chăn nuôi, nhuộm quần áo v.v…

Năm 1986, cha Gioan Nguyễn Văn Tuệ quản xứ, ngài chọn Thánh Phanxicô Xaviê làm quan thầy cho giáo họ Cừa. Hàng năm lễ quan thầy được tổ chức tại nhà thờ xứ. Đến năm 1989, lần đầu tiên mừng lễ bổn mạng tại mảnh đất Cừa này. Lúc bấy giờ gia đình ông Quang cho mượn đất và xây một ngôi nhà nguyện với diện tích khoảng 25m2.

Suốt một chuỗi ngày dài đầy vất vả nhưng cũng là chặng thời gian đong đầy hồng ân, năm 2000 Bề trên giáo phận đã sai cha Phaolô Nguyễn Đức Vĩnh về với giáo xứ Quy Hậu. Ngài bắt đầu canh tân trên toàn xứ, ngài đã lưu tâm đặc biệt đến họ Cừa. Cứ hai tuần cha Phaolô dâng lễ Chúa Nhật một lần, từ đó mọi người trong vùng Cừa xưng tội rước lễ được đều đặn, bà con lương giáo đoàn kết bên nhau. Đến nay giáo họ Cừa đã có gần 60 hộ gia đình với 300 nhân khẩu. Hiện nay các mặt sinh hoạt đạo đời đã được hội nhập. Đây là thành quả của những nỗ lực trong việc mục vụ không biết mệt mỏi của cha Phaolô Nguyễn Đức Vĩnh. Và năm 2008, cha Phaolô làm tờ trình lên Đức Cha và được Bề trên giáo phận chấp thuận, được sự ủng hộ của chính quyền các cấp, cấp Quyết định thành lập giáo họ.

Hôm nay quả là một ngày đáng khắc cốt ghi tâm nơi 300 con người của giáo họ Cừa. Đã hơn 8 giờ sáng nhưng nơi miền sơn cước này vẫn còn chìm trong sương mù. Lần đầu đến thị tứ Cừa với những ngỡ ngàng xa lạ của một người từ miền xuôi lên, tôi nhận thấy nơi đây có một nhịp độ phát triển khác xa với trí tưởng tượng của mình. Đã từng biết đến ngói Cừa nhưng chưa một lần đặt chân đến xóm Cừa. Nằm cạnh con đường 545 nối từ thị trấn Lạt, huyện Tân Kỳ lên thị xã Thái Hòa, huyện Nghĩa Đàn, giáo họ Cừa thuộc địa bàn xã Nghĩa Hoàn trải dài trên cả ba xóm: xóm Thắm, xóm Cừa và xóm Việt Tiến.

Từ 8 giờ 30’, Thánh lễ thành lập giáo họ Cừa bắt đầu, cha Phaolô Nguyễn Đức Vĩnh khai mạc bằng lời giới thiệu thành phần tham dự buổi lễ, lý do buổi lễ và long trọng giới thiệu giáo họ có thêm 4 thành viên mới gia nhập gia đình Giáo Hội qua Bí tích Rửa Tội và Thêm Sức cùng được cử hành trong Thánh Lễ hôm nay. Cùng với sự đặc biệt của buổi lễ khai sinh giáo họ hôm nay, sự kiện giáo họ có thêm 4 người con được gia nhập vào Hội Thánh Chúa là một hồng ân quý báu và có thể nói Thánh Phanxicô Xavie, vị Thánh được coi là người đứng hàng đầu trong công cuộc truyền giáo, đã bầu cử đắc lực cho công cuộc cao cả, phản ảnh đặc tính cốt yếu của Giáo Hội nơi giáo họ Cừa. Tiếp theo đó, ông Phêrô Nguyễn Hồng Sơn đọc Lược Sử Giáo Họ Cừa.

Thánh lễ do Đức Cha Phaolo Maria Cao Đình Thuyên chủ sự, 9 linh mục trong và ngoài hạt Bảo Nham đồng tế và khoảng gần 1000 người cả giáo dân và lương dân cùng tham dự.

Đã bao nhiêu năm trôi qua, rất nhiều khó khăn gian khổ nhưng cũng rất nhiều ân huệ, nhiều an ủi của Thiên Chúa nhân lành tuôn đổ xuống trên chúng ta. Nhìn lại quá khứ chúng ta thấy rằng, Thiên Chúa làm nên mọi sự đều sinh ích cho những kẻ Người yêu thương. Rất có thể quá khứ thương đau đã làm hao mòn sinh lực và cạn kiệt niềm tin nơi chúng ta đối với Thiên Chúa Tình Yêu, nhưng nếu bình thản nhìn lại và công bằng khách quan mà đánh giá, thì chúng ta không thể phủ nhận tình thương của Chúa. Giáo họ Cừa cũng đã, đang sống với những tâm trạng đó. Dòng thời gian mà cộng đoàn tín hữu nơi đây đã trải qua là một thể nghiệm sống động cho niềm tin son sắt vào một Thiên Chúa nhân lành.


Khởi đi từ tính hiệp nhất nên một của Giáo Hội trong cùng nhiệm thể Chúa Kitô, Đức Cha Phaolô đã kêu gọi mọi thành viên trong giáo họ phải biết lo dồn sức đồng tâm hiệp lực để xây dựng, để bảo vệ, để củng cố và tăng triển sự hiệp nhất trong giáo họ “sau ngày sinh chững chạc”. Vì là cộng đoàn thánh thiện được mời gọi để nên Thánh, nên mọi thành viên trong giáo họ cần có quyết tâm đi theo chí hướng nên trọn lành như Lời Chúa đã kêu mời: Anh em hãy nên trọn lành như Cha anh em trên Trời là Đấng trọn lành”. Công đồng Vatican II cũng đã dạy: Mọi Kitô hữu dù ở địa vị nào cũng đều được Chúa kêu gọi đạt để tới sự trọn lành. Và đây là ý nghĩa “tiền định” căn bản nhất mà Thánh Phaolô muốn nói tới chứ không phải hiểu như Tiền định thuyết của Thệ phản giáo đã cắt nghĩa.


Từ nay Cừa không chỉ là địa danh được biết đến chỉ có gạch ngói mà còn có sự xuất hiện của một cộng đồng giáo dân với một giáo họ tọa lạc nơi đây, như lời của ông Chủ tịch HĐMV giáo họ phát biểu lời cám ơn sau Thánh lễ. Cừa của một địa danh sản xuất gạch ngói đã làm thay đổi rất nhiều bộ mặt dân cư nơi đây: “Có nhiều hộ làm ăn giỏi, có lò ngói riêng, có ô-tô… và con cái học hành tấn tới đỗ đạt…”. Nay Cừa còn được nói đến là một họ đạo với nhiều hứa hẹn mở ra những triển vọng phát triển về mọi mặt cả về đời sống đạo và đời sống vật chất nơi địa bàn miền núi cách xa trung tâm giáo phận.

 

Theo Tin Giáo phận Vinh

Mục lục

GIÁO XỨ CHÍNH NGHĨA –GP BANMÊTHUỘT ĐÓN MỪNG CHA TÂN QUẢN XỨ


Giáo xứ Chính Nghĩa được gọi là giáo xứ ven đô. Nhưng theo tôi giáo xứ Chính nghĩa được nằm trong lòng Mẹ Giáo phận Banmêthuột , vì được bao quanh bởi giáo xứ Chính tòa Thánh Tâm, giáo xứ Thánh Linh, Giáo xứ Mẫu Tâm.

Xin được điểm vài nét về giáo xứ Chính nghĩa.

Thưở ban đầu, vào khoảng năm 1956, một số giáo dân di cư từ Gp. Bùi chu, Gp.Thái Bình vào Cao nguyên Banmêthuột và lập cư ở đây. Mảnh đất nơi này là giáo họ của giáo xứ Thánh Tâm. Lúc bấy giờ Banmêthuột thuộc giáo phận Kontum.

Năm 1967, Giáo phận Banmêthuột được thành lập.

Ngày 03.6.1968, giáo họ nơi đây được nâng lên thành Giáo xứ và đặt tên là giáo xứ Chính Nghĩa.

Các linh mục quản xứ từ năm 1968 đến nay:

1968-1973 : Cha Giuse Đào Xuân Thanh.

1973-4985 : Cha Dom Phạm bá Tòng.

1985-1993 : Cha Stêphanô Nguyễn Văn Đậu.

1993-1995 : Cha Giuse Phạm Minh Công ( Quản nhiệm)

13.9.1995 : Cha Augustinô Nguyễn Văn Tra

30.9.2008 : Cha Già Augustinô về hưu tai TGM.

Được biết giáo xứ Chính Nghĩa là giáo xứ nhỏ có 1338 giáo dân chính gốc, nhưng nơi đây công việc mục vụ của quý cha rất vất vả, vì là vùng ven đô nên có số lượng lớn giáo dân nhập cư đi làm, trọ học để đi học các trường Đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp của tỉnh Đaklak rất đông nên khó quản lý về nhân sự.

Một vùng đất tuy nhỏ bé nhưng đầy mật ong, vì nơi đây đã sản sinh cho Giáo Phận 07 Linh Mục và 11 nữ tu. Nơi đây đã từng nuôi nấng nhiều Linh mục theo học trong thời kỳ khó khăn.
Chính trong đời sống đạo đức của giáo xứ Chính nghĩa nên vắng chủ chăn họ rất khát khao Mục tử như sống trong mùa vọng.

Sau hơn hai tháng thiếu chủ chăn, Ngày 12.12.2008, Giáo xứ Chính nghĩa trong tâm trạng sống trong Chúa nhật II mùa vọng : Thánh Gioan Tiền hô bảo "Hãy dọn đường Chúa cho ngay thẳng".
- Con đường là một phương tiện giao thông liên lạc, nối kết hai người ở hai nơi xa cách nhau để hai người, hai nơi đó có thể đến được với nhau. Nếu không có con đường thì không đến được với nhau, hoặc nếu có con đường nhưng đường đó đã hư hỏng thì cũng không đến với nhau được. Do đó muốn đến với nhau một cách thuận lợi hơn chúng ta phải dọn những con đường.

Đây là con đường tinh thần, những con đường trong lòng người, mà giáo dân giáo xứ Chính Nghĩa đã chuẩn bị dầu đèn để đón vị Mục tử.

Nét mặt hân hoan trên từng khuôn măt người giáo dân giáo xứ Chính Nghĩa. Nơi đây tôi thấy cờ hoa, biểu ngữ, từng hội đoàn đồng phục để đón chào Tân Linh mục quản xứ Giuse Phạm Tấn Hùng.

 

Cha Giuse Phạm Tấn Hùng là Linh mục trẻ năng động đầy nhiệt huyết.

Ngày 17.7.2007, Ngài chịu chức Linh mục.

Ngày 14.8.2007, Ngài nhận bài sai làm Cha phó giáo xứ Kim Châu.

Ngày 12.12.2008, Ngài nhận bài sai làm Linh mục quản xứ GX. Chính Nghĩa.

09h00: Cha Giuse trình văn thư bổ nhiệm của Đức cha Giám quản lên cha Quản Hạt Đaklak II: Cha An tôn Vũ Thanh Lịch. Sau đó là nghi thức nhận trách nhiệm tân quản xứ long trong.
Trước măt đông đảo Quý Cha quản xứ,phó xứ như Kim Châu, Vinh Hoà, Chi Lăng, Kim phát, Đông Sơn, Thọ Thành, Vinh trung trong Giáo hạt Đaklak II:, cha trưởng ban loan báo tin mừng Giáo phận.

Đặc biệt có các cha là con cái của Giáo xứ, các Hội dòng nằm trong địa bàn giáo xứ và đông đảo giáo dân Chính Nghĩa và Kim châu.

Sau nghi thức nhận giáo xứ , toàn thể mọi người Chầu Mình Thánh để tạ ơn Thiên Chúa và cầu nguyện cùng Thánh cả Giuse, bổn mạng giáo xứ.

Ad Gentes - Đến Với Muôn dân !

Xin chúc cha mãi là người của muôn dân – Đến với muôn dân!

Như khẩu hiêu mà cha đã chọn ngày lãnh nhận Thiên Chức Linh Mục.

Nguyễn Vinh Sơn

Mục lục

 

PHÁI ĐOÀN HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VN CỨU TRỢ LŨ LỤT TẠI HAI GIÁO PHẬN VINH – THANH


Thật là đẹp và phù hợp biết bao, khi vào ngày “quốc tế về quyền con người” (10.12.2008), phái đoàn Hội Đồng Giám Mục Việt Nam gồm: Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh – Phó Chủ Tịch HĐGMVN, Đức Tổng Giuse Ngô Quang Kiệt – Tổng Giám Mục Giáo tỉnh miền Bắc, Đức Cha Giuse Nguyễn Văn Yến – Đặc trách UBBAXH/HĐGMVN phía Bắc; cùng với phái đoàn của GP Hà Nội và GP Thanh Hóa đã đến thăm và tặng quà cho các nạn nhân tại giáo xứ Thuận Nghĩa thuộc Giáo phận Vinh; hai giáo xứ Kiến An và Thái Yên thuộc Giáo phận Thanh Hóa.


Sáng ngày 10.11.2008, phái đoàn đã dâng Thánh lễ tại nhà thờ giáo xứ Thuận Nghĩa (Gp. Vinh) với sự tham dự trên dưới 10.000 giáo dân. Quí Đức Cha đã phát quà cho những người nghèo gồm: chăn màn, gạo và một số tiền mặt. Khoảng 12g30, phái đoàn đã có mặt tại giáo xứ Kiến An (Thanh Hóa).


Gần 300 giáo dân đã đến khuôn viên nhà thờ giáo xứ để tiếp đón phái đoàn. Từ những người già chống gậy đi từng bước, cho đến các em bé chạy nhảy nô đùa. Cha Hạt Trưởng và các cha trong hạt Ba Làng đã có mặt từ sáng sớm. Rõ ràng nơi làng quê nghèo khổ này đang rộn lên một niềm vui, bên cạnh những tà áo dài nhiều nếp nhăn là những khuôn mặt tươi cười…


Hai họ Kén và An cư thuộc giáo xứ Kiến An là những vùng thường xuyên sống chung với lũ. Hầu như mỗi năm, “thần nước” đến thăm họ 3 kỳ. Nghề chính của họ là trồng cói và lúa, thế nhưng mỗi lần đến vụ mùa thì họ lại thấp thỏm lo âu vì sợ “mất cả chì lẫn chài” do lũ. Trên đường vào giáo xứ, quang cảnh thật tiêu điều với những mái nhà tranh và ruộng lúa còn trơ gốc rạ, ngập nước…


Cha Phaolô Trần Văn Hiền - Quản xứ Thái yên - chia sẻ với chúng tôi hoàn cảnh của những con người đáng thương, quanh năm đặt hết hy vọng vào đất đai, mùa màng. Thế nhưng cơn lũ đã cướp đi niềm vui đơn sơ của họ. Đầu tháng 11 vừa qua, có gần 80% hoa màu của người dân hư hại, với gần 70ha bị ngập úng. Trong tinh thần “lá rách đùm lá rách hơn”, ruộng của những nông dân không ngập nước đã được chia đều hoa màu cho những nhà kém may mắn hơn. Tấm lòng chia sẻ trong lúc “miếng khi đói bằng gói khi no” thật đáng cảm phục.


Sau lời giới thiệu, chào thăm của phái đoàn. Đức Tổng và 2 Đức Cha đã phát quà cho các nạn nhân gồm: gạo, chăn màn, cá khô và nước mắm.


Sự hiện diện của phái đoàn HĐGMVN đã mang đến nơi những “vùng lũ” của hai Giáo phận Vinh – Thanh, tia nắng ấm của tình Mục tử dành cho đoàn chiên nghèo khổ. Dù rằng những điệu ca còn lạc giọng, những đóa hoa đồng nội đơn sơ, những lời nói ấp úng trình bày hoàn cảnh khó khăn….Nhưng tất cả đã diễn tả được nỗi vui lớn và tấm lòng tri ân sâu xa trước sự viếng thăm của phái đoàn HĐGMVN, đây là niềm khích lệ lớn lao để những con người nghèo khổ được tiếp tục nổ lực vươn lên trong những khó khăn, để bằng một sự phi thường của niềm tin, họ “sống dồi dào” ngay giữa kiếp nghèo….



Hoài Thanh

Thánh Lễ Mừng Kính Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội Bổn Mạng Giáo Phận Nha Trang

 

Hòa cùng không khí hoan hỉ vui tươi, mừng kim khánh Linh Mục của Đức Cha Cha  Phaolô  Nguyễn Văn Hoà, Giáo phận Nha Trang đã long trọng mừng kính lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, quan thầy soi sáng, che chở cho Giáo Phận trong suốt chặng đường hơn 50 năm đầy chông gai và không ít sóng gió.


Vào lúc 17h00 ngày 8/12/2008, chiếc xe chở Đức Cha đáng kính dần dần tiến lên, cha sở và ông chủ tịch HĐGX Chánh Tòa đã ra đón Đức Cha và có lời chào mừng và cảm tạ đáng kính đến Đức Cha.


“Đức cố Macelo Piquet Lợi với lòng sùng kính đối với Đức Mẹ, Ngài đã tin Mẹ Vô Nhiễm, làm quan thầy, bổn mạng cho giáo phận, Ngài dâng giáo phận Nha Trang cho Mẹ Vô Nhiêm Nguyên Tội, để trong đời sống lữ hành trên trần thế này, Mẹ luôn luôn chăm sóc giữ gìn, cầu bầu cùng Chúa cho cả giáo phận, từ các vị chủ chăn cho đến các tu sĩ, giáo dân, trải qua dòng lịch sử thăng trầm luôn luôn vững vàng trong đời sống đức tin, đức cậy, đức mến …” đó là lời Đức Cha Phó Giuse Đức Cha Phó
Giuse Võ Đức Minh đã tâm sự đầu thánh lễ ‘”Ánh mắt yêu thương của Mẹ Vô Nhiễm luôn luôn đoái nhìn và dõi theo con cái Ngài ở trần gian” .


Cha Quyền Tổng Đại Diện thay mặt cho Đức Cha Chính và Phó có một vài tâm tình trong ngày trọng đại này, Ngài nêu đến những nhân đức của Đức Mẹ và cũng như những ân sủng mà Đức Mẹ trao ban cho giáo phận cách riêng và giáo hội nói chung. “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã trao phó chính Con Một của Ngài, để ai tin vào Ngài thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16), đó là sự thật và đó là giải quyết tất cả mọi chuyện, tin vào Con của Người…

 

“Từng bước con đi trên cõi đời dương thế

Ánh mắt Mẹ dõi từng bước đời con

Mẹ âu yếm đoái trông nhìn

Lặng lẽ ân tình

Một tiếng

Yêu”


Sau đó thánh lễ vẫn tiếp tục trong vòng tay yêu thương chở che của Mẹ Vô Nhiễm, ban xuống trên mọi giáo dân tham dự Thánh Lễ muôn hồng ân và ân phúc trong đời sống cũng như tinh thần.


Kết thúc thánh lễ, Đức Cha ban phép lành Tòa Thánh với ơn Toàn Xá trong dịp lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.


Xin cảm tạ Mẹ đã ban muôn ơn lành cả phần hồn và phần xác xuống trên mỗi chúng con, xin Mẹ cũng ban xuống trên chúng con tâm tình ăn năn sám hối để dọn lòng chờ mong ơn cứu độ, là Con yêu dấu của Mẹ giáng trần

 

Theo Tin Giáo phận Nha Trang

Mục lục

 

LỄ KHÁNH THÀNH-LÀM PHÉP TƯỢNG ĐÀI THÁNH GIUSE MỚI TẠI GIÁO XỨ TUY HÒA


Chiều ngày 10.12.2008, cộng đoàn dân Chúa giáo xứ Tuy Hòa hân hoan cử hành lễ Khánh thành và làm phép Tượng đài Giuse mới. Hiện diện trong buổi lễ chiều hôm nay có quý cha chánh xứ Đồng Tre, Đông Mỹ, Hoa Châu, quý cha thuộc cộng đoàn Đồng Công, đã cùng với cha chánh xứ Giuse Trương Đình Hiền và phó xứ Phêrô Nguyễn Xuân Hòa, sốt sắng tham dự nghi lễ Khánh thành-Làm phép và đồng tế thánh lễ tạ ơn kính Thánh Giuse, Bổn mạng của nhà thờ và giáo xứ Tuy Hòa.


Tượng Thánh Giuse mới được điêu khắc bằng đá cẩm thạch trắng do nhóm nghệ nhân thuộc doanh nghiệp điêu khắc, chế tác đá PHAN CHI LĂNG tại Non Nước Đà Nẵng. Tượng thánh Giuse cao 2m80 với trọng lượng hơn 3.000 kg, với dung mạo và đường nét truyền thống: Thánh Giuse bồng Chúa Giêsu và tay cầm cành hoa huệ. Được biết, doanh nghiệp điêu khắc đá Phan Chi Lăng đã lấy đá từ Nghệ An và đã thi công điêu khắc trong thời gian 2 tháng. Riêng công trình lễ đài và bệ đặt tượng đã được linh mục chánh xứ Giuse Trương Đình Hiền trùng tu và thiết kế ngay trên công trình cũ đã xuống cấp, mang dáng vẻ thanh thoát và trang nghiêm với hai gam màu xám-trắng, phù hợp với phong cách thánh thiện của Thánh Cả Giuse, Người Công Chính hiền lành, khiêm nhu và thinh lặng. Nghi thức Khánh thành-Làm phép được mở đầu bằng diễn từ khai mạc của ông chủ tịch Hội đồng giáo xứ Micae Trần Kim Đạt, mà nội dung đã toát lên ý nghĩa sâu sắc của tượng đài Giuse trong mối tương quan sống đạo và trong chiều dài lịch sử thăng trầm của cộng đoàn giáo xứ. Sau phần nghi thức làm phép tượng mới, các gia trưởng và hiền mẫu trong trang phục áo dài Việt nam cùng với những nén hương thấm đẫm tinh thần hiếu thảo kính yêu, đã dâng lên Thánh Cả tất cả vui buồn, đắng cay và hy vọng của cộng đoàn dân Chúa. Rồi với những cành lá vạn tuế biểu tượng của cuộc sống chứng nhân anh hùng, những đóa huệ trắng tiêu biểu của con tim thanh khiết, cộng đoàn giáo xứ Tuy Hòa cương quyết bước đi trên các hướng chỉ của Tin Mừng mà Thánh Cả Giuse luôn như là mẫu gương và chứng ta tuyệt vời của cuộc sống công chính và thực thi thánh ý Chúa Cha. Cuối cùng, kết thúc nghi thức là hàng trăm chiếc bong bóng bay đã được các thiếu nhi hân hoan thả bay lên trời trong ánh mắt tươi vui và nụ cười hạnh phúc của những người con đang tin thác vào sự bảo trợ yêu thương và đầy hiệu quả của Cha thánh Giuse đang ngự trên cõi trời vinh hiển. Sau phần nghi thức Khánh thành-Làm phép là thánh lễ đồng tế trang trọng kính nhớ Thánh Giuse, quan thầy của nhà thờ-giáo xứ Tuy Hòa và cũng là bổn mạng của nhiều anh em trong cộng đồng dân Chúa. Quả thật buổi lễ chiều hôm nay đã để lại trong tâm khảm mọi người một dấu ấn đong đầy niềm vui và hạnh phúc về sự hiện diện thân thương và đầy quyền thế của Thánh Cả Giuse, Người Công Chính thầm lặng đã sống hết mình cho thánh ý Thiên Chúa

 

Tin từ Gx Tuy Hòa

Mục lục

 

Ngày Thánh Nhạc GP Phan Thiết 2008

Đức Giám Mục Giáo Phận đã ưu ái cho phép, và được ban Tổ Chức Năm Thánh Đức Mẹ Tà Pao chấp thuận, Ban Thánh Nhạc Giáo Phận đã tổ chức Ngày Thánh Nhạc GP Phan Thiết 2008 vào ngày 7-12-2008, áp ngày Khai Mạc Năm Thánh Đức Mẹ Tà-pao, 8-12-2008, (thay cho ngày 22-11 hằng năm) là để kết hợp với việc Hành Hương Năm Thánh Đức Mẹ Tà-pao của các Ca đoàn trong Giáo phận.

Đồng thời, BTN được giao trách nhiệm tổ chức Đêm Diễn Nguyện Mừng Năm Thánh và Ca đoàn Giáo Phận đảm trách việc hát lễ Thánh Lễ Khai mạc Năm Thánh.

 

Từ sáng sớm 7-12, đoàn xe của các Ca đoàn từ khắp các Giáo Hạt đã về đến Nhà thờ Đồng Kho, và đến 7g30, con số tham dự viên ngày thánh nhạc đã lên đến 800 ca trưởng và ca viên. Sân nhà thờ Đồng Kho bỗng rộn ràng những nụ cười hân hoan, những cái bắt tay thân thiện của các ca trưởng, ca viên, các giáo xứ-những người cùng chung một lý tưởng phục vụ. Thật cảm kích khi nhìn thấy trong số các ca trưởng, ca viên, có không ít người đã quá tuổi lục tuần, và nhiều người qua tuổi “ngũ thập tri thiên mệnh” cùng với vài chục năm sinh hoạt ca đoàn.

Và thật vui mừng, vì Cha Fr. Nguyễn Ngọc Hảo, chính xứ Đồng Kho, đã giúp đỡ thật nhiều cho Ban Thánh Nhạc: Ngài chuẩn bị cho Ngày Thánh Nhạc thật chu đáo - từ những nhà vòm quanh khuôn viên nhà thờ, âm thanh, ban trật tự, ban ẩm thực, nước uống, nước vệ sinh... đến cả chổ nghỉ ngơi bằng những tấm chiếu giáo dân Giáo xứ Đồng kho góp lại.

8g15 Đức Ông GB. Lê Xuân Hoa, Tổng Đại Diện, Lm. NS Mi Trầm, NS. Bạch Quỳnh và Ban Thánh Nhạc Nha Trang, Ns. Ngọc Linh Gp Sài Gòn cùng đến trong tiếng vỗ tay reo mừng của gần 1000 tham dự viên Ngày Thánh Nhạc.

Giờ khai mạc Ngày Thánh Nhạc mở đầu bằng Kinh Đức Chúa Thánh Thần. Sau đó, Đức Ông Tổng Đại Diện thay mặt Đức Giám Mục gửi lời chào đến tham dự viên. Cả nhà thờ rộn tiếng vỗ tay tri ân cảm tạ tấm lòng ưu ái của Đức Cha, vị Cha chung và của Đức Ông. Đức Ông chia sẻ tâm tình quí mến của GP và chính Đức Ông dành cho “các ca sĩ của Chúa”, cùng với những niềm quan tâm ưu ái cách đặc biệt mà truyền thống Giáo Hội vẫn dành cho những người phục vụ Thiên Chúa qua cung đàn tiếng hát nơi Đền thờ Thiên Chúa. Ngài cầu chúc các ca sĩ của Chúa trung thành với ơn gọi thánh nhạc, yêu thương, khiêm tốn phục vụ, cầu chúc Ngày Thánh Nhạc đem lại nhiều lợi ích thiêng liêng và tuyên bố khai mạc Ngày Thánh Nhạc.

Tiếp chương trình, Lm. Ns Mi Trầm, Chủ Nhiệm Câu Lạc Bộ Những Người Viết Thánh Ca, Ban Thánh Nhạc VN, cũng là Trưởng Ban Thánh Nhạc Nha Trang, đã trình bày đề tài Phụng Vụ Thánh Nhạc thật sôi động, nhờ những huấn thị, những minh họa thực tế trong dòng chảy Thánh Nhạc Việt Nam từ trước đến nay. Những hướng dẫn cụ thể về mục đích Thánh Nhạc là Tôn Vinh Thiên Chúa, đến đời sống các ca trưởng, ca viên được thánh hóa, cũng được Cha ân cần nhắc đến, để lại nơi các tham dự viên những ấn tượng tuyệt đẹp về một Linh Mục Nhạc Sĩ đã gắn liền với Thánh Nhạc từ những năm 1971 qua các bài Thánh ca đơn sơ mà để đời như Bài ca Phục Vụ, Đẹp Thay, Xin Vâng và cả trăm bài thánh ca cộng đồng khác.

Sau giờ giải lao, tham dự viên, có thể nói là lần đầu tiên, được diện kiến Nhạc sĩ Ngọc Linh, Gp Sài Gòn, một Ca Trưởng, một Thầy dạy Ca Trưởng tại Trung Tâm Mục Vụ GP Sài gòn, tác giả một kho những bài Thánh Ca thể loại Hợp xướng, từ vừa đến lớn, mà các ca đoàn đã sử dụng như: Tình Yêu Của Chúa, Lời Ru Đêm Thánh, Đêm Mầu Nhiệm, Mừng Con Chúa Giáng Sinh….trong những dịp hội diễn thánh ca. Ns Ngọc Linh được BTN mời để chia sẻ kinh nghiệm ca trưởng cho các ca trưởng và ca viên Gp. Và quả thật, giọng nói tuy thâm trầm nhẹ nhàng nhưng cuốn hút tham dự viên vì những sẻ chia đời ca trưởng phục vụ trong tinh thần đạo đức khiêm tốn, tinh thần học hỏi cầu tiến và nhất là đi đúng với những hướng dẫn của Giáo Hội. Những minh họa về kinh nghiệm chọn bài hát, kinh nghiệm tập hát, kinh nghiệm tổ chức ca đoàn cũng như kinh nghiệm kỷ thuật ca trưởng khi dùng đôi tay đánh nhịp mà lại điều khiển hợp xướng bằng con tim chân thành yêu mến.

Vừa dứt tiếng vỗ tay cảm ơn Ns. Ngọc Linh, các tham dự viên lại vui mừng chào đón Lm Quản lý Tòa Giám Mục – có người ở Nha trang gọi Cha là “người nội trợ đảm đang của Phan Thiết” đến thăm Ngày Thánh Nhạc. Thay lời muốn nói cùng các tham dự viên, Ngài hát tặng bài “Mẹ Ta pao” thật hay, làm các tham dự viên vỗ tay đến mấy lần với lời mừng “người nội trợ hát tốt”.

Ngày Thánh Nhạc lại tiếp tục ngay với giờ tập hát cho Thánh Lễ Khai Mạc Năm Thánh, ngày mai. Sau hai bài thuyết trình giá trị, gần 1000 ca viên đang ý thức rất cao về trách nhiệm hát Tôn Vinh Chúa. Vì thế, khi Ns Mai Tam vào giờ tập hát, các tham dự viên đã sốt sắng lắng nghe, chú ý từng lời dặn dò, và hát với hết tâm tình yêu mến.

Bữa ăn trưa đúng 12g00. 13g30 các tham dự viên trở lại nhà thờ tiếp tục tập hát. Một số các ca viên ưu tú được gọi tập các câu hát riêng trước phòng Cha xứ. Một số ca trưởng được gọi để trao đổi về việc phân nhóm cho giờ giao lưu tiếp theo.

14g30, các tham dự viên được chia thành 7 nhóm để thảo luận về đề tài “Ý hướng ngay lành trong sinh hoạt thánh nhạc” với một số câu hỏi được đặt ra để thảo luận:

Con đường dẫn bạn vào sinh hoạt Thánh nhạc?

Động lực thôi thúc bạn nhiệt thành và tiếp tục?

Đời sống chứng nhân của một ca trưởng, ca viên?

Bạn có những yêu cầu?

Làm thế nào để sinh hoạt thánh nhạc trở nên con đường nên thánh của bạn?

Ngày thánh nhạc đem lại điều gì ích lợi cho bạn?

Các nhóm đã thảo luận sôi nổi và gửi bản đúc kết về cho BTN. Có thể tóm tắt như sau: Sinh hoạt thánh nhạc là một ơn gọi đặc biệt của Thiên Chúa. Đức Tin Cậy Mến là động lực thôi thúc các ca trưởng, ca viên luôn nhiệt thành với ơn gọi và tiếp tục chu toàn cho đến khi không còn khả năng nữa. Vì thế, đời sống các ca trưởng, ca viên sẽ trở nên một chứng nhân đích thực khi hết mình phục vụ cộng đoàn trong việc giúp cộng đoàn hướng đến Thiên Chúa, ca tụng, tôn vinh, cầu xin và tri ân Ngài. Các tham dự viên cũng tha thiết yêu cầu mọi người nhìn nhận sứ vụ đặc biệt của các ca trưởng, ca viên với lòng yêu mến, được các Linh Mục quản xứ quan tâm tạo điều kiện tốt cho việc tập hát và hát lễ như phòng tập, nhạc cụ, lịch tập hát, sách hát, đào tạo tại GX lực lượng ca viên kế thừa. Họ cũng mong mỏi Ban Thánh Nhạc Giáo Phận thành lập các BTN Giáo hạt, tổ chức các khóa huấn luyện Thánh Nhạc, các buổi tĩnh huấn, giao lưu tại các hạt, tại Giáo Phận, để củng cố, bồi dưỡng đời sống tâm linh, để trau dồi các khả năng chuyên môn, để có thêm những ơn gọi ca đoàn mới, thay cho lớp tiền bối đã quá tuổi. Nhưng để sinh hoạt thánh nhạc trở nên con đường nên thánh cho mỗi người, tất cả các nhóm đều đồng tình phải phục vụ hết mình vì Vinh Danh Chúa, phải loại bỏ tính kiêu căng tự phụ, hơn thua, ganh tỵ, phải nhìn nhận các khả năng của mình và của người khác là của Chúa ban và cuối cùng phải yêu thương nhau để cùng nhau làm việc. Ngày Thánh Nhạc năm nay, đã thực sự đem lại nhiều lợi ích thiêng liêng cho các tham dự viên, không chỉ được gặp gỡ trao đổi, được học hỏi, được nói lên tiếng nói của mình mà còn đặc biệt hơn cả là được hành hương Năm Thánh Đức Mẹ Tà Pao với Ơn Toàn Xá.

Sau giờ thảo luận sôi nổi và đúc kết, 15g45, các tham dự viên sốt sắng tham dự Thánh Lễ CN II mùa vọng, do Đức Giám Mục Giáo phận nhà chủ tế, cùng với Đức Ông Tổng Đại diện, các Lm trong BTN, một số Linh mục thuộc hạt Đức Tánh. Bài giảng của Đức Giám Mục trong thánh lễ dành riêng cho các ca trưởng ca viên trong giáo phận, cũng chính là những lời tâm tình của vị Cha chung nhắc nhở mỗi người luôn biết lắng nghe lời Chúa, lời Giáo Hội mời gọi sám hối, canh tân và phải tha thiết với ơn gọi nên thánh-nên thánh trong ơn gọi ca tụng Chúa, ơn gọi ca đoàn. Tiếng nói của Đức Cha bỗng chậm và trầm lại, khi nói đến lòng ưu ái của Giáo Hội đối với với Thánh Nhạc nói chung và các ca đoàn nói riêng. Thánh Lễ thật sốt sắng. Tâm hồn Đức Cha thật sốt sắng làm cho các tham dự viên ngập tràn niềm vui thánh thiện.

Sau thánh lễ, các tham dự viên dùng cơm tối vội vàng cho kịp di chuyển hơn 1 cây số, từ nhà thờ Đồng Kho đến Lễ đài Khai Mạc Năm Thánh để chuẩn bị cho Đêm Diễn Nguyện. Gần 1000 ca trưởng ca viên di chuyển trên con đường mòn trong hân hoan phấn khởi. Họ đã đến Lễ đài. Lễ đài nằm cao trên lưng đồi, tràn ngập ánh sáng. Gần 19g00 Đức Giám Mục Giáo phận cùng quí Cha quí khách tham dự Diễn Nguyện đã đến trong tiếng kèn, tiếng trống, tiếng nhạc, tiếng vỗ tay mừng đón.

Đúng 19g00, trên lễ đài, Ca Đoàn Giáo Xứ Ma Lâm và Tầm Hưng đã xếp đội hình hợp xướng, Đội trống chào mừng đã vào vị trí, và sau lời giới thiệu dẫn nhập Đêm Diễn Nguyện của hai MC: Lm Giacôbê Nguyễn Minh Luận và Nữ Tu Thiên Phúc, tiếng trống chào mừng vang lên khắp núi rừng. Sau bài trống chào của Hội Dòng Khiết Tâm Nha Trang, Cha Giuse Bùi Ngọc Báu, Trưởng Ban Năm Thánh Đức Mẹ Tà Pao tiến lên tuyên bố lý do. Dứt tiếng vỗ tay, Đức Giám Mục Phaolô Nguyễn Thanh hoan, GM Giáo phận ban huấn từ. Giọng nói Ngài âm vang khắp núi rừng Tà pao như lời hiệu triệu đoàn dân Chúa muôn phương về Tà Pao Tôn Vinh Mẹ, về Tà Pao với Mẹ Tà pao, và nhờ Mẹ Tà Pao, về với Thiên Chúa. Ngài khởi tiếng trống khai mạc Đêm Diễn Nguyện.

Tiếng vỗ tay của hơn 10.000 khách hành hương đến sớm hòa theo hồi trống của Ngài như đáp lại lời mời gọi và tấm lòng của Vị Cha Chung Giáo phận. Ca đoàn Giáo Xứ Ma Lâm và Tầm Hưng tiếp niềm vui dân Chúa bằng bài hợp xướng “Về Đây Tôn Vinh Mẹ” của Lm Ns. Kim Long thật du dương, vi vút, qua sự điều khiển của Lm. Ns. Ca Trưởng Phaolô Hoàng Kim Tốt.

Những bài Thánh ca Tôn Vinh Mẹ, những Vũ khúc mừng Mẹ, hoạt cảnh Năm Sự Vui của các ca đoàn và các Hội Dòng MTG Phan Thiết, Nha trang, Khiết Tâm Nha Trang cùng hợp diễn, xen trong phần “Sám hối” của Lm Phaolô Hoàng Kim Tốt, phần Suy Niệm “Mẹ Maria, kiểu mẫu của đức Tin Cậy Mến” của Lm. Aug. Nguyễn Đức Lợi, cùng với những kinh nguyện cộng đoàn, làm thành một Đêm Diễn Nguyện Khai Mạc Năm Thánh Mẹ Tà Pao thật thánh thiện và mang lại nhiều lợi ích thiêng liêng cho con cái Mẹ. Đức Ông GB Lê Xuân Hoa, nhà thơ Xuân Ly Băng, người đã viết biết bao vần thơ ca tụng Mẹ, chia sẻ với cộng đoàn dân Chúa niềm vui, niềm tin yêu nơi Mẹ. và để kết thúc đêm diễn nguyện, Đức Cha Phaolô đã ban phép lành cho đoàn hành hương, và cùng đoàn hành hương thắp nến Tôn Vinh Mẹ. Nghìn ngọn nến rực sáng giữa núi rừng Tà Pao cùng với lời ca “Chúng con xin tạ ơn Chúa uy quyền toàn năng….” vang vang lên trong lòng khách hành hương như rộn ràng niềm hân hoan tràn đầy ân phúc qua Mẹ Tà Pao Linh Hiển.

Chương trình Diễn Nguyện khép lại với nhiều cảm nhận thánh thiện. Chương trình “Hát mừng Mẹ Tà pao” lại mở ra ngay sau đó. Các linh mục, các nữ tu, các ca viên ưu tú của các ca đoàn, cùng với một số nghệ sĩ, ca sĩ từ Sài gòn về hành hương kính Mẹ đã làm thành một chương trình “Hát Mừng Mẹ Tà Pao” nhiều ấn tượng thiêng liêng đáng nhớ. Các ca khúc Tôn Vinh Mẹ của các Nhạc sĩ ĐGM Thông Vi Vu, Nhà thơ Xuân Ly Băng, Lm Nguyễn Duy, Lm. Hoàng Kim Tốt, Lm. Giuse Nguyễn Hữu An, Thầy Jos. Hùng, Ns. Pm Cao Huy Hoàng, Nhà thơ Lê Đình Bảng, Ns. Linh Huyền Dung, Ns. Hạ My, Ns. Trịnh Xuân Khánh, Ns. Nguyễn Hữu Đồng, Ns. Phan Thiết, đã được các ca sĩ: Lm Anre Lương Vĩnh Phú, ca viên Quốc Thái, Thanh Trúc, Thu Hương, Thu Thủy, ca sĩ Lưu Thi, Ngọc Hằng, Triệu Lộc, cẩm Tú, Thanh Tùng, Tam Ca Áo Trắng trình bày với lòng yêu mến Mẹ cùng với nhóm múa phụ họa của các nữ tu thật sinh động. Chương trình có lúc trầm lắng thiết tha với giọng ngâm của Nghệ sĩ Ngâm Thơ ưu tú Kim Lệ, ngâm kính Mẹ bài thơ “Dâng Mẹ Tà Pao” của Đức Ông Xuân Ly Băng, như nói hết nỗi niềm yêu kính Mẹ của tác giả.

22g30 chương trình Hát Mừng Mẹ khép lại. Các ca trưởng và ca viên trở về nhà thờ Đồng Kho để nghỉ đêm

05g00 sáng 8-12-2008, các tham dự viên ngày ca trưởng tập trung vào nhà thờ Viếng Thánh Thể. Lm Phêrô Nguyễn Văn Quang, Trưởng Ban Thánh Nhạc Gp hướng dẫn tâm tình với Thánh Thể, và hướng dẫn dọn mình xưng tội. Sau đó, Ngài nói chuyện thân mật với các ca truỏng và ca viên trong tư cách là Truỏng Ban Thánh Nhạc Giáo Phận. Ngài tỏ lòng biết ơn Đức Giám Mục Giáo phận, Đức Ông Tổng Đại Diện, Cha Quản lý, Cha chính xứ Đồng Kho, Cha Nhạc Sĩ Mi Trầm, Quí Cha, quí Nhạc sĩ, quí nữ tu, và những người đã đóng góp phần mình cho Ngày Thánh Nhạc và Đêm Diễn Nguyện. Ngài kính gửi lời cảm ơn đến các Cha chính xứ đã cho phép và tạo điều kiện cho ca đoàn của mình đến tham dự Ngày Thánh Nhạc và Hành Hương Năm Thánh.

Sau bữa ăn sáng, các tham dự viên quần áo chĩnh tề, đồng phục trắng tiến về Lễ đài đễ hát lễ và tham dự thánh lễ Khai Mạc Năm Thánh Đức Mẹ Tàpao, cùng với đông đảo khách hành hương trong và ngoài Giáo Phận.

Ngày Thánh Nhạc Giáo Phận năm 2008 đã kết thúc sau khi các tham dự viên sốt sắng lãnh nhận Phép Lành Với ơn Toàn Xá từ tay Đức Giám Mục Giáo Phận.

Các ca trưởng, ca viên cùng đoàn hành hương ra về, trong lòng tràn dâng niềm vui khôn tả.

Pm. Cao Huy Hoàng

Mục lục

Lễ khai mạc Năm Thánh Đức Mẹ TàPao giáo phận Phan Thiết

Ngày 08.12.2008, Giáo hội kính trọng thể Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Tại Trung tâm hành hương Đức Mẹ TàPao, Giáo Phận Phan thiết tổ chức đại lễ khai mạc Năm Thánh Đức Mẹ TàPao. ĐGM Phaolô Nguyễn Thanh Hoan cùng đồng tế với 80 linh trong và ngoài giáo phận. Đông đảo tu sĩ chủng sinh và khoảng 30 ngàn khách hành hương cùng hiệp thông thánh lễ và chung lời tôn vinh Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm Nguyên Tội.

Thánh tượng Đức Mẹ TàPao là một trong năm thánh tượng Đức Mẹ được đặt rải rác từ miền Trung vào miền Nam và cao nguyên trung phần vào năm 1959. Ngày 8.12.1958 Đức Cha Marcello Piquet, Giám Mục Giáo phận Nha trang đã cử hành lễ Cung hiến và Khánh thành tượng đài Đức Mẹ TàPao, với sự hiện của đông đảo linh mục, tu sĩ và hàng chục ngàn tín hữu. Từ đó TàPao đã là một trung tâm hành hương kính Đức Mẹ. Do chiến tranh nên từ năm 1964 ít ai dám lui tới, TàPao dường như bị lãng quên. Sau 40 năm, khách hành hương từ mọi miền đất nước và những kiều bào trở lại kính viếng Mẹ TàPao. Mười năm trở lại đây Tà Pao thay da đổi thịt từng ngày và đã trở nên trung tâm hành hương.

Từ một địa danh trước đây chẳng mấy ai biết tới, nay Tượng đài Đức Mẹ TàPao, như mong ước của hai Đức Giám Mục Nicolas và Phaolô cùng toàn thể Giáo phận Phan thiết cũng như hàng triệu khách hành hương trong và ngoài nước, trong tương lai gần nhất có thể hội đủ điều kiện và yếu tố để trở thành một trong những Trung Tâm Thánh Mẫu ở Việt Nam.

Trong tiết trời se lạnh cuối thu sang đông, chan hoà dưới ánh nắng ấm áp ban mai của núi rừng TàPao, đoàn đồng tế tiến lên lễ đài trên núi cao. Đoạn đường dài chừng cây số băng qua khu ruộng mới gặt đi lên triền núi có 1.200 gia trưởng và 500 huynh trưởng cùng khách hành hương đứng hai bên đón chào. Đội kèn giáo họ Vũ Hoà đi trước tấu vang những giai điệu ngợi khen tán tụng. Ca đoàn tổng hợp với 1.000 ca viên tuyển chọn từ các ca đoàn trong giáo phận cùng cộng đoàn Dân Chúa hoà vang bài ca nhập lễ tôn vinh Đức Mẹ “Cung chúc Trinh Vương không hề nhiễm tội truyền”. Lễ đài mới xây trên trên núi, mọi người ngước nhìn lên trời cao xanh để thấy hồn mình cũng thênh thang theo, nâng cao lên với Đức Mẹ.

Mở đầu thánh lễ, cha Giuse Bùi Ngọc Báu, trưởng ban tổ chức công bố “Sắc Lệnh của Toà Ân Giải Tối Cao”.

TOÀ ÂN GIẢI TỐI CAO

Prot.N.523/08/I

SẮC LỆNH

Toà Ân Giải Tối Cao, để thêm lòng đạo đức cho các tín hữu và ơn cứu rỗi cho các linh hồn, do quyền hạn đã được ban một cách rất đặc biệt trong Chúa Kitô là Cha và là Chúa chúng ta, cho Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, do sự quan phòng của Thiên Chúa, qua thỉnh nguyện mới đệ đạt của Đức Giám Mục đáng kính Phaolô Nguyễn Thanh Hoan, Giám Mục Giáo Phận Phan Thiết, nay quyết định mở kho tàng Giáo Hội trên trời mà sẵn lòng ban Ơn Toàn Xá, với những điều kiện thông thường ( xưng tội, rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng ) theo như lễ nghi đã chỉ định cho các tín hữu thật lòng thống hối tại chính Trung Tâm Thánh Mẫu TàPao, Ơn Toàn Xá này cũng có thể chỉ cho các linh hồn nơi luyện ngục, nếu họ sốt sắng tham dự việc cử hành Năm Toàn Xá này hoặc làm các việc đạo đức kính Đức Trinh Nữ Maria TàPao hoặc ít ra trong thời gian thích hợp, họ dục lòng đạo dức mà đọc Kinh lạy Cha, kinh Tin Kính theo công thức hợp pháp nào đó và khẩn cầu cùng Đức Mẹ TàPao:

-Trong những ngày 8/12/2008 và 2009 khi long trọng cử hành lễ Khai mạc và Bế mạc Năm Toàn Xá;
-Trong các ngày 13 mỗi tháng;

-Trong mọi nghi thức phụng tự kính nhớ Đức Trinh Nữ Maria.

Các người già, các bệnh nhân và mọi người có lý do quan trọng không thể ra khỏi nhà được vẫn có thể lãnh Ơn Toàn Xá này miễn là có lòng thống hối tội lỗi và quyết tâm thi hành trong thời gian sớm nhất ba điều kiện thông thường, nếu họ hiệp thông một cách thiêng liêng vào các việc cử hành Năm Toàn Xá và vào các cuộc hành hương, trong khi dâng lời nguyện và những nỗi khổ đau, những sự khó khăn trong cuộc sống riêng của họ cho lòng nhân từ của Thiên Chúa qua Mẹ Maria.
Sắc lệnh này chỉ có hiệu lực một lần. Triệt tiêu hoàn toàn mọi cản trở.

Ban hành tại Rôma do Toà Ân Giải Tối Cao ngày 28 tháng 7 năm 2008.

JACOBUS FRANCISCUS S.R.E. Hồng Y STAFFORD,

Paenitentiarius Maior.

Joannes Franciscus Girotti, O.F.M. Conv.

Ep. Tit. Metensis, Regens.

(Ấn ký)


(bản dịch của LM Phêrô Nguyễn Hữu Đăng).

Cả biển người vỗ tay không ngớt bày tỏ tấm lòng biết ơn Đức Thánh Cha và Toà Ân Giải qua Sắc lệnh vừa đựơc công bố.

Đức cha Phaolô gợi lên những tâm tình trong ngày lễ trọng đại của Giáo phận, tạ ơn Chúa, tri ân Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, hiệp ý cầu nguyện cho công lý và hoà bình trên quê hương Việt Nam thân yêu.

Trong bài giảng lễ, ngài đã suy niệm về con đường mới của đức tin theo mẫu gương Mẹ Maria.

Lời “xin vâng” là một quyết định từ niềm tin sâu xa của Đức Mẹ. Từ đó cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn gắn bó với cuộc đời Đức Giêsu, con Mẹ. Chính con Mẹ sẽ dẫn Mẹ đi vào con đường mới của Đức Tin: Con đường yêu thương cho đến cùng, con đường vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập tự, con đường cứu độ, đem cả nhân loại đi vào thế giới mới.

Đây là con đường vĩ đại, con đường phải trả bằng giá máu. Con đường ấy có nhiều gian truân thách đố có thể làm cho Đức tin chao đảo lung lay. Đức Mẹ cùng con song hành trong suốt cuộc đời, và Mẹ mãi còn hành trình với Giáo Hội trong suốt dòng lịch sử cho đến ngày tận thế trên đường mới của Đức Tin.

Đức Tin thì không mới, nhưng con đường biểu lộ Đức Tin đó thì hoàn toàn mới. Đức Mẹ là tinh hoa của truyền thống niềm tin của Cựu ước. Đó là niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa quyền năng như ta thường thấy diễn tả trong các thánh vịnh, một niềm tin với tâm hồn khiêm tốn, khó nghèo, trân trọng tuyệt đối vào lòng thương và thánh ý của Thiên Chúa. Niềm tin này chính Chúa Giêsu đã chia sẽ khi ta nghe Ngài đọc thánh vịnh 22 trên thập giá: “Chúa ơi, Chúa ơi sao Người bỏ con”. Cận kề cái chết khổ nhục, Ngài vẫn tin Thiên Chúa Cha không bỏ rơi mình.

Trong những năm tháng rao giảng, Chúa Giêsu chỉ mong làm cho niềm tin đó thành niềm xác tín sâu xa nơi các môn đệ Ngài. Và Ngài đã tạo ra con đường mới, con đường của Tin Mừng tin yêu. Thánh Phaolô chiêm nghiệm con đường của Thầy để rồi xác quyết: “không có gì có thể tách rời chúng ta ra khỏi tình yêu Chúa Kitô”. Chúa đến với nhân loại trong thân phận con người con người và với trái tim Thiên Chúa. Vì thế Ngài đã yêu đến cùng.

Cần phải đọc hết các sách Tin Mừng thì mới nhận ra con đường mới của đức tin. Nhưng ở đây xin suy niệm một ít nét Đức Tin mà Đức Mẹ đã từng chia sẽ với Chúa Giêsu con Mẹ.

Khi truyền tin, sứ thần Gabriel đã nói với Mẹ “Con Mẹ là con Đấng Tối Cao, Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu của Đavit, triều đại người sẽ vô tận”. Vậy mà Con Thiên Chúa Tối Cao lại là một con người với thân phận nghèo hèn, yếu đuối, làm con của một trinh nữ nhà quê thiếu thốn. Thiên Chúa quyền năng cao cả, Đấng sáng tạo đất trời sông biển núi non, Con của Người lại thành đứa bé sinh ra nơi chuồng bò lừa tồi tàn, đứa bé sống nhờ từng giọt sữa mẹ, nhờ tình yêu vỗ về của mẹ cho đến ngày khôn lớn.

Trong lòng bàn tay Mẹ, một vì Thiên Chúa để cho con Ngài bị tước đoạt uy danh khả tôn, khả úy, trở nên bé nhỏ mong manh. Mẹ dâng con vào đền thờ với lễ vật tạ ơn là cặp chim gáy, lễ vật của người dân quê nghèo nàn. Con Thiên Chúa có hơn chi ai.

Mẹ có nhận ra thần tính nơi em bé Giêsu được không? Khó mà trả lời, nhưng Mẹ luôn sẳn sàng đón nhận những mâu thuẩn đó để suy đi nghĩ lại trong lòng. Điều này thánh Luca ghi chú đến hai lần: Khi các mục đồng đến thờ lạy Chúa Hài Nhi (Lc 2,18) và khi Mẹ tìm gặp con trong đền thánh (Lc 2,51).

Một điều mâu thuẫn là lời tiên tri của Simêon khi bồng em bé Giêsu trong tay, ông không ngừng chúc tụng tạ ơn Thiên Chúa và ca tụng em bé Giêsu là Hồng Ân cứu độ, là Ánh Sáng muôn dân, là vinh quang của Israen. Nhưng liền đó, ông lại nói đến tương lai quá bi đát: “Trẻ này đuợc đặt lên khiến cho nhiều người trong Israen phải sụp đổ hay đuợc đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối”.(Lc 2,34).Trong tâm trí Mẹ, Giêsu là con Đấng Tối Cao, là Đấng Thánh. Nhưng lời tiên tri cho Mẹ thấy những tình huống đau thương sẽ xảy đến cho con mình. Đó quả là một mầu nhiệm, một thách đố của niềm tin.

Cuộc đời Mẹ ra sao? Ai lại không mong một cuộc sống bình an vô sự. Ai không mong tuổi già của mình sẽ được nương nhờ con cái. Vậy mà lời tiên tri như sét đánh bên tai Mẹ: “Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà…”(Lc 2,35).

Mẹ đã nhận lấy lưỡi gươm đâm thâu trái tim mình theo thánh ý Thiên Chúa. Lời tiên tri đã ứng nghiệm khi lưỡi gươm đâm sâu vào trái tim Chúa Giêsu. Mẹ đứng đó dưới chân thập giá chứng kiến cái chết nhục hình của người con yêu quý. Mẹ đứng đó, Mẹ không khóc, không than, không ngất xỉu. Mẹ chia sẽ mọi nổi oan khiến nhục nhã của người con chí thánh. Dung mạo của Mẹ dưới chân thập giá tuyệt đẹp. Đó là hình ảnh của một đạo binh oai hùng xếp hàng vào trận. Đó là con đường mới của Đức Tin. Tước hiệu Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo là vậy đó.

Mẹ nhìn lên Chúa trên thập giá. Con Mẹ trải qua những giờ phút đau thương nhất, nhưng thật an bình, thật quảng đại, thật vững tâm, thật phó thác, vì Chúa Giêsu hoàn toàn tin tưởng vào Chúa Cha. Mẹ hiểu được mầu nhiệm phục sinh gắn liền với mầu nhiệm tử nạn. Mẹ cùng chia sẻ niềm tin đó với con mình. Chết là đi vào cõi sống đời đời. Đó là con đường mới của Đức tin.

Cuộc chiến trên thập giá giữa Thiên Chúa và con người. Hình như con người đã thắng khi đóng đinh Đấng Cứu Thế. Thế nhưng, Thiên Chúa lại chọn thập giá để biểu lộ tình yêu chiến thắng. Con đường của Thiên Chúa là con đuờng tình yêu. Tình yêu chiến thắng sự chết. Mẹ đã thông phần cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Mẹ dâng hiến con mình trong hy lễ cứu độ với niềm tin phục sinh. Vì thế, Mẹ là Nữ Vương Thiên Đàng.

Mẹ cũng là Mẹ Giáo Hội. Mẹ là thầy dạy đức tin. Mẹ thật tuyệt vời. Mẹ yêu thương chăm sóc đoàn con cái đang bước đi trong gian nan thử thách giữa dòng đời. Giáo Hội đi vào con đường thập giá Chúa đã đi. Giáo hội cùng có Mẹ đồng hành mỗi ngày như Thầy dạy đức tin.

Mẹ đang dừng lại nơi núi rừng Tà Pao này, Mẹ không mong gì hơn là chúng ta bắt chước Mẹ đi vào con đường đức tin mà Mẹ đã đi với Chúa giêsu, con Mẹ.

Mẹ đang vận dụng quyền năng Chúa ban để Mẹ đem đến cho chúng ta bao ơn lành phần hồn phần xác. Cuộc sống chúng ta đang bị đe dọa tứ bề. Mẹ bảo chúng ta đừng bị lung lay chao đảo trước một thế giới bất an đầy khủng hoảng.

Thiên Chúa dựng nên con người để con người đựoc sống và sống dồi dào. Câu chuyện cuộc đời Ông Giop cho thấy, tai ương đau khổ là từ ma quỹ mà đến. Thiên Chúa dựng nên chúng ta là để được hạnh phúc. Ngoài Thiên Chúa không còn đâu là điểm hẹn của hạnh phúc thật. Và vì nhân loại đang muốn gạt Thiên Chúa đi để tự mình làm Chúa lấy mình cho nên đã gặp phải một mặt đất đắng cay càng lâu càng cay đắng. Cũng như Ađam Evà xưa, cố đạt giấc mơ làm Chúa nên phải rơi vào đau khổ của sự chết. Sức lực, tài năng con người không vượt quá số phận mỏng manh vắn vỏi của mình.

Chúa mời gọi nhân loại hãy đi về trời mới đất mới của Ngài. Mẹ Maria là người đầu tiên sống niềm tin đó. Niềm tin phải đi trên con đường hẹp, con đường dẫn đến hạnh phúc vô biên trong Thiên Chúa.

Hôm nay chúng ta tạ ơn Chúa đã cho chúng ta người Mẹ thánh thiện vinh quang đầy quyền năng để dìu dắt chở che cuộc đời gian truân của chúng ta. Chúng ta tạ ơn Mẹ đã hiện diện ngày đêm nơi núi rừng hiền hòa, đơn sơ này để chờ, đề nghe từng nổi niềm đau khổ, từng tấm lòng sám hối ăn năn, từng nổi lòng yêu mến khao khát được làm con Mẹ. Mẹ nhận lấy tất cả không từ chối ai. Chỉ cần chúng ta có lòng tin, có sự khiêm tốn, có tình yêu thương bác ái trong cuộc sống. “Ai cho sẽ được cho lại” đó là nguyên tắc Chúa đã đặt ra khi chúng ta muốn cầu xin một ơn nào đó.

Trong Năm Thánh Đức Mẹ TàPao, Cầu chúc anh chị em biết học và sống niềm tin của Đức Mẹ.

Thánh lễ kết thúc lúc 9g30. Nắng rộn rã nhưng không gay gắt. Rừng xanh như tấm thảm hút nắng mặt trời lọc đi sức nóng rồi điều hoà khí trời trong mát dịu êm. Mọi người tiếp tục lên thánh tượng Đức Mẹ TàPao để cầu nguyện khấn xin.

Việc Chúa làm thật kỳ diệu. TàPao là vùng đất kính tế mới xa xôi, “khỉ ho cò gáy, đèo heo hút gió”. Ba mươi năm trước, dân tứ xứ đi kinh tế mới đến đây khai phá rừng làm nương rẫy. Bây giờ là trung tâm hành hương kính Đức Mẹ. Nhà cửa, quán xá xây dựng ngày càng nhiều làm thay đổi bộ mặt miền quê nghèo êm ả.

Giáo phận Phan Thiết tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo phận một trung tâm hành hương thánh thiêng tuyệt vời. TàPao là nơi Đức Mẹ chọn để mọi người từ muôn phương đến được Mẹ bồi dưỡng bằng ơn lành hồn xác. Một khi đã đón nhận những ân ban, ai ai cũng được Mẹ mời gọi cải thiện đời sống, sống theo Tin mừng.

Cho xứng với lòng biết ơn đối với Đức Mẹ TàPao, Giáo phận đã tổ chức đêm 7.12, diễn nguyện và hát ca tôn vinh Mẹ. ĐGM giáo phận, Đức Ông Tổng đại diện, các linh mục tu sĩ chủng sinh và hơn 10.000 khách hành hương chung niềm vui ngợi khen Đức Mẹ TàPao. Với sự góp phần của 1.000 ca viên, hội dòng MTG Phan thiết, hội dòng MTG Nha trang, hội dòng Khiết tâm Đức Mẹ Nha trang, các ca sĩ, nghệ sĩ đến từ Sài gòn, đêm canh thức đã ghi nhiều dấu ấn thiêng liêng vào tâm hồn mọi người, gia tăng thêm lòng yêu mến Đức Mẹ. Nhiều đoàn hành hương tiếp tục leo núi lên với Mẹ để đọc kinh lần hạt cầu nguyện. Đêm rừng núi TàPao không còn âm u tăm tối nhưng rực sáng niềm tin, ấm áp tình yêu giữa Mẹ hiền và đoàn con cái.

Giáo hội đang ở giữa chặng đường Mùa Vọng, ở giữa thời gian chuẩn bị đón mừng mầu nhiệm Con Thiên Chúa đến trần gian. Vui mừng biết bao trong “màu tím đợi chờ và hy vọng” bừng lên “sắc trắng, sắc vàng của hoan vui ngày lễ Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm”, ngày lễ mà ý nghĩa phụng vụ đã gắn liền với thời điểm quan trọng của lịch sử cứu độ, liên quan đến số phận ngàn đời của nhân loại và như cánh cửa thiêng liêng mở ra để Dân Chúa đỉnh đạc bước tới cử hành mầu nhiệm Nhập Thể. Trong hai thế kỷ sau cùng của thiên niên kỷ thứ hai, có hai chân lý về Đức Maria đã đựơc Giáo hội định tín: tín điều “Vô Nhiễm Nguyên Tội” (8.12.1854) liên quan tới cuộc khai mở cuộc đời của Đức Mẹ; và tín điều “Đức Maria Hồn Xác Lên Trời” (1,11,1960) liên quan đến giây phút kết thúc cuộc sống trần gian trong vinh quang phục sinh của Đức Mẹ. Hai tín điều đó khái quát về toàn bộ chương trình cứu độ của Thiên Chúa ở hai mút cùng lịch sử: một khởi đầu sáng tạo với vẻ đẹp “Vô Nhiễm tuyệt vời” và một kết thúc với công trình Nhập Thể Cứu Độ của Chúa Con, toàn thể nhân loại đựơc nâng lên trong ánh quang phục sinh vĩnh hằng.

Đến với Đức Mẹ TàPao, sống Năm thánh Đức Mẹ TàPao, chúng ta hãy tin tưởng và noi gương Mẹ, sống vững tin và yêu thương như Mẹ.

Đến với Đức Mẹ TàPao, hãy siêng năng lần hạt như Mẹ dạy, mọi người sẽ được đầy hồng ân, hạnh phúc. Đức Mẹ TàPao cũng là Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Mục lục

Lễ Khánh Thành Nhà Thờ Tân Phước GP Bà Rịa.

Bà Rịa: Sáng ngày 10.12.2008 tại giáo xứ Tân Phước (Phước Tỉnh) thuộc giáo phận Bà Rịa. Đức giám Mục Tô ma Nguyễn Văn Trâm đã đến chủ sự thánh lễ đồng tế cùng một số linh mục trong và ngoài giáo phận nhân dịp cung hiến thánh đường sau hơn một năm rưõi kể từ ngày đặt viên đá đầu tiên xây dựng thánh đường 31.05.2007 cho đến nay. Ngôi thánh đường trước do cơn bão Durian làm thiệt hại nặng nề vào ngày 05.12.2006 đã đưa tin tức và hình ảnh ngôi nhà thờ bị sập ngay sau đó ít ngày).

Giáo xứ Tân Phước được thành lập từ 16.08.1955 tọa lạc tại xã Phước Tỉnh, Long Hải, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu giáo dân khoảng hơn 3.000 phần đông thuộc gốc Bùi Chu và Thái Bình. Hiện nay do linh mục chính xứ Giuse Trịnh Quang Cảnh và linh mục phó xứ Đaminh Trần Thế Huy coi sóc.

Giáo xứ có rất nhiều hội đoàn sinh hoạt như: Thiếu Nhi, Giới Trẻ, Giới Gia Trưởng, Giới Hiền Mẫu, Giới Cao Niên… Rất nhiều công trình tượng đài to lớn được xây dựng như: Tượng Đài Đức Mẹ Ban Ơn, Tượng đài Thánh Cả Giuse, Đài Đức Mẹ Sầu Bi… hằng tuần đều có những giờ cầu nguyện trọng thể có rất nhiều giáo dân trong xứ tham dự do cha chính xứ chủ sự tại những nơi nầy. Sau bao công sức vất vả và nhờ vào lòng quảng đại của rất nhiều người trong đó có những giáo dân gốc Tân Phước đang sống rải rác nhiều nơi tại Úc Đại Lợi cùng nhiều Tiểu bang tại Hoa Kỳ.


Sau thánh lễ cung hiến thánh đường và bàn thờ là phần tiệc mừng và tặng bằng ghi công cho các ân nhân đã góp công, góp của cho giáo xứ có được ngôi thánh đường đẹp đẽ và uy nghi như hiện nay. Một số nghệ sĩ, ca sĩ Công Giáo như Kim Lệ, Tam Ca Áo Trắng, Khánh Duy, Thanh Sử, Đông Nghi từ Sài Gòn cũng ra giúp vui cho buổi lễ.

 

Lê Kim

Mục lục

 

HỒ SƠ THÁI HÀ

CÓ MỘT PHIÊN TOÀ XỬ NGƯỢC ĐÃ TUYÊN ÁN

Vậy là nạn nhân vụ Thái Hà đã được đoàn tụ gia đình nhưng bản án sơ thẩm, dù nặng hay nhẹ, không được tâm phục, khẩu phục của người bị nạn, của giáo dân nói riêng và nhân dân nói chung, thì còn nhiều vấn đề phải nói đến. Những diễn biến thực tế cho thấy đã có một phiên toà ngược.

Vụ án bất minh trong chuỗi việc bất minh – nguyên nhân

Theo dõi toàn bộ vụ việc Thái Hà mấy tháng nay, người ta thấy rất rõ, vụ án này là một vụ bất minh trong hàng loạt vụ việc bất minh đối với Giáo xứ Thái Hà.

Bất minh ở chỗ, quá trình đòi lại đất đai, tài sản của mình bị chiếm đoạt là việc hết sức bình thường trong xã hội, nhất là ở Việt Nam, khi mà đất đai là vấn đề gây nhức nhối nhất của quá trình khiếu kiện nở rộ khắp nơi. Ngoài những bất cập về luật pháp, hệ thống các cơ quan công quyền và công chức tham nhũng đã tạo nên nạn này. Những vụ việc đó thường phải được giải quyết ở toà án dân sự.

Ở Thái Hà, Giáo xứ đòi lại tài sản của mình bị chiếm đoạt bất hợp pháp (xét theo pháp luật Việt Nam đã ban hành) đã mười hai năm không có sự hồi âm. Đến khi hồi âm lại bằng cách làm coi thường nhân dân, coi thường một tổ chức tôn giáo. Khi giải quyết không dựa trên các cơ sở pháp luật, lại bằng cách áp đặt cho những nạn nhân những điều không thể chấp nhận được bằng những chứng cứ không có giá trị pháp lý.

Ở đây, còn một điều quan trọng là nạn phân biệt tôn giáo, đối xử với tôn giáo bằng một lăng kính kỳ thị theo một thói quen cổ truyền mà những nhà nước độc tài cộng sản thường có.

Vì vậy, người ta không lạ khi với vụ việc ở Thái Hà và Toà Khâm sứ, nhà nước đã dành cho một sự “quan tâm và cách giải quyết đặc biệt”.

Sự “quan tâm đặc biệt” đó đã tạo nên chuỗi việc làm bất minh khi giải quyết vụ việc này. Sự bất minh càng ngày làm cho tình hình càng thêm rối và khó giải quyết hậu quả. Liên tục những chuỗi việc làm của chính quyền các cấp đã phạm những sai lầm nghiêm trọng, sai lầm sau dẫm lên sai lầm trước và cứ thế thành hệ thống.

Tưởng cũng cần nhắc lại vài điều về nguồn gốc lịch sử những sự việc đó do đâu.

Trong những năm sắt máu nhất của đỉnh cao chủ nghĩa cộng sản trên thế giới thời chiến tranh lạnh, Việt Nam như một khu vực bí hiểm. Bí hiểm bởi cuộc chiến tranh “chống Mỹ, cứu nước” đã bị bức màn sắt trùm lên trên mọi lĩnh vực của đất nước và có nhiều thực tế mà cả thế giới không thể hiểu nổi.

Thời kỳ đó, đất nước được đặt trong một sự kiểm soát gắt gao và khốc liệt. Khi đó nhà nước muốn bắt ai thì bắt, muốn bỏ tù ai thì cứ việc tuỳ thích. Biết bao con người đã đi tù hàng chục năm trời không án, không lệnh… mà đố có ai dám nửa lời kêu van. Họ như những con mồi đặt trước bàn nhậu của các quan chức nhà nước lắm tiền bây giờ, con nào muốn xẻo thịt, con nào muốn cắt tai, con nào chọc tiết… tà tuỳ ý thích cán bộ nhà nước và của đảng trong cơn hứng chí.

Hầu như mỗi người dân là một công an, họ theo dõi nhau, tố cáo nhau và triệt tiêu nhau nhiều khi chỉ vì để thể hiện niềm tin yêu vào “lý tưởng cộng sản”.

Trong bối cảnh đó, những người công giáo là nạn nhân và là đối tượng chắc chỉ sau Mỹ và chính quyền Sài Gòn, cần cảnh giác và phân biệt.

Việc đối xử với với những tài sản và tính mạng người Công giáo, cũng tuỳ thích cán bộ nhà nước có thể lấy bất cứ thứ gì, từ nhà đất, trường học, dòng tu, bệnh viện mà không cần bất cứ một lý do pháp luật nào. Ai dám chống đối nếu không muốn mọt gông trong tù hay biến mất không lý do?

Biết bao nhiêu tác phẩm xuyên tạc về Công giáo, về các chức sắc tôn giáo đã được nhà nước dùng ngân sách in ấn, phát hành và thậm chí đưa vào sách giáo khoa để đầu độc những tâm hồn thơ trẻ thói kỳ thị tôn giáo, nhất là Công giáo. Việc học hành, công tác, việc cơ cấu cán bộ, đảng viên, vào lực lượng vũ trang… được phân biệt triệt để.

Một lớp “con người mới xã hội chủ nghĩa” đã được hình thành trong bối cảnh đó và đã trưởng thành trong giai đoạn này. Ở họ, mang đầy đủ những nhận thức sai lầm về tôn giáo, mang đầy đủ những định kiến vô lý về Công giáo, nhằm chỉ độc tôn món vô thần “Mác-Lênin”.

Với não trạng đó, lớp cán bộ hôm nay đã có quá nhiều điều đi ngược lại quy luật của sự phát triển là đoàn kết, hoà bình và hợp tác. Cụ thể nhất là cách xử sự với hai vụ Toà Khâm sứ và Giáo xứ Thái Hà hôm nay.

Vụ việc Thái Hà và Toà Khâm sứ, nếu không phải là của những người Công giáo mà là của một quan chức nào đó, chắc không phải chờ đợi tới 12 năm khiếu nại mà không có hồi âm. Khi những giáo dân hết kiên nhẫn đã phải dùng đến biện pháp cuối cùng là cầu nguyện ôn hoà, vẫn là cách giải quyết cửa quyền: Tao là bố mày, làm hay không, cho hay không là quyền tao. Những đoàn thanh tra, những chứng cứ quyết định… vẫn chỉ là trò con trẻ, họ không nghĩ rằng người dân bây giờ đã khôn lớn, không như đám dân đen đứng lên theo đảng làm cách mạng năm xưa.

Nhưng trước tinh thần kiên vững của những giáo dân hôm nay, khi họ vượt qua nỗi sợ hãi cố hữu, vì chính nhà nước đã hô hào một nhà nước pháp quyền. Họ quyết thực hiện nhà nước pháp quyền thật sự chứ không như mớ bánh vẽ họ đã được chén bao chục năm nay. Họ đã yêu cầu nhà nước thực hiện đúng khẩu hiệu “Sống, làm việc theo hiến pháp và pháp luật”. Những hành động của giáo dân đã đi theo đúng đường lối xây dựng nhà nước dân chủ, pháp quyền mà nhà nước đã tuyên bố trước bàn dân thiên hạ. Người dân đòi được quyền cất tiếng nói của mình, được sử dụng những quyền mà nhà nước đã thâu tóm vào tay mình để thỉnh thoảng nhỏ giọt lấy ơn huệ theo cơ chế XIN – CHO.

Đến đây, nhà nước lâm vào thế bí.

Lẽ ra, trước những yêu cầu chính đáng của người dân, nhà cầm quyền cần biết phải làm gì, nếu họ nghĩ đến sự tồn vong của nhà nước, của chế độ lâu dài, thì phải nghĩ đến lòng dân. Nhưng ngược lại điều đó, họ đã hành động và càng hành động càng thể hiện những não trạng lạc hậu và ấu trĩ: lòng dân không bằng nòng súng.

Một hệ thống các ban ngành từ cấp địa phương đến trung ương, từ mặt trận, đoàn thể, ban tôn giáo, Uỷ ban Đoàn kết Công giáo… do nhà nước dựng lên vô cùng tốn kém được nuôi bằng tiền dân. Nhưng tất cả đã không có một tác dụng nào để hiểu “đối tượng” của mình. Họ đã không hề làm cho nhà nước hiểu được thế nào là người Công giáo.

Thật ra, họ chỉ là những con rối, đám bù nhìn dưới sự giật dây lãnh đạo “tuyệt đối” của đảng cộng sản trong một nhà nước “đảng trị”.

Họ không hiểu được rằng, những cành thiên tuế người công giáo cầm trên tay khi ra pháp trường với ánh mắt hồ hởi, là những lời nguyện thiết tha cho họ được ơn phúc tử đạo noi gương các Thánh tử đạo Việt Nam. Những người công giáo đó sẵn sàng xả thân, hi sinh mạng sống cho công lý.

Chính vì vậy mà đã xảy ra những điều hết sức hài hước khi họ hành xử và phát ngôn về Công giáo trong thời gian qua dẫn đến kết quả ngày hôm nay.

Một phiên toà xử ngược – những bản cáo trạng không đóng dấu quốc huy

Vụ 8 giáo dân vừa mới kết thúc phiên sơ thẩm, nhưng từ khi khởi tố vụ án này đã có một phiên toà xử ngược trong thực tế.

Trước hết, việc truy tố giáo dân cầu nguyện, đập vỡ mấy cục gạch để vào khu đất được họ coi là tài sản của họ mà không chịu giải quyết thấu đáo tận gốc vấn đề đất đai tài sản này là của ai, đã làm dấy lên trong dư luận xã hội, trong lòng dân câu hỏi: Tại sao không chịu căn cứ vào những chứng cứ nhà nước đã đưa ra để xem xét việc sử dụng đất đai và tài sản đã là của Dòng Chúa Cứu thế - Giáo xứ Thái Hà?

Phải chăng nếu đem ra xem xét, thì chính quyền chỉ có nước… thua. Tại sao có những giáo dân can đảm đến thế, Khi họ thừa hiểu sự tàn bạo của cái gọi là “chuyên chính vô sản như” thế nào qua mấy chục năm sống chung ?

Điều đó đã hình thành nên một bản cáo trạng đối với việc xử sự với tài sản, quyền tư hữu và việc thi hành luật pháp ở Việt Nam. Đó là nạn quan chức nhà nước thích sao xử vậy, không cần luật pháp và bỏ qua nguyện vọng của người dân.

Những vụ bắt bớ khẩn cấp mấy giáo dân không chậm trễ bằng cả hệ thống quân lực hùng hậu, đã nói lên sự nghiêm trọng của vấn đề và thu hút dư luận. Việc ra và sửa chữa cáo trạng, lấy chứng cớ, thu hồi vội vã khu đất… nhất là việc dùng nhóm côn đồ hung hãn đến quấy phá nơi tu hành ban đêm, hô hào đòi giết người như cơn cuồng nộ của quỷ sa tăng đã nói lên tiếng nói tự bản thân họ: Họ đang không tự tin và sợ hãi.

Tiếp theo là việc làm bằng được vườn hoa trên khu đất với cách làm được quan chức Hà Nội giải thích là “đặc cách” càng khẳng định điều đó là sự thật. Câu hỏi: “Tại sao hàng loạt các dự án thiết thực đến quốc kế, dân sinh, cái nào cũng hết sức cần thiết như nước sạch, vệ sinh an toàn thực phẩm, nạn ngập lụt đã đe doạ và cướp đi hàng chục tính mạng người dân đã không được “đặc cách” để phát huy hiệu quả? Phải chăng chỉ có những việc liên quan đến người Công giáo mới nhận được sự ưu ái này?

Đây là bản cáo trạng về sự phân biệt đối xử, sự tù mù về chính sách và cách đối xử bất công với một cộng đồng tôn giáo chiếm 1/10 dân số.

Từ thời Lê Khả Phiêu, đảng đã hò hét, hô hào chống tham nhũng để bảo vệ đảng, bảo vệ đất nước. Vậy là tham nhũng từ “vấn nạn” đã trở thành “quốc nạn”. Các quan chức đứng đầu nhà nước không ngại lớn tiếng kêu gọi, hô hào… bằng những từ ngữ đao to búa lớn.

Nhưng tham nhũng đâu chỉ có hô là xong. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã long trọng cam kết rằng nếu không đẩy lùi được tham nhũng, sẽ từ chức… Nhưng đã quá dài thời gian để ông kiểm tra lại kết quả chống tham nhũng của mình. Điển hình là vụ PMU 18, những quan chức bị bắt với vô số dữ liệu về tài sản bất minh, về những hiện tượng ăn chơi truỵ lạc, trác táng… đã được nêu lên, tưởng rằng chuyến này tham nhũng sẽ thi nhau vào khám. Nhưng kết quả xử lý đã ngược lại, các nhà báo, những người quyết liệt chống tham nhũng thì vào tù, những kẻ bị bắt đã thành vô tội? Mới đây nhất, vụ PCI Nhật Bản đã đến mức cắt nguồn viện trợ ODA thì Việt Nam mới khởi tố vụ án? Trong khi ở Nhật, toà đã xét xử rõ ràng?

Khi đưa giáo dân Thái Hà ra toà xét xử gọi là “công khai” nhưng đã thực hiện tại tầng 4 của UBND phường. Phòng xử chỉ có được mấy bị cáo và vài người thân, ngoài ra chỉ là các cán bộ và công an. Các nhà báo và người nước ngoài được ngồi dự toà qua màn hình ở tầng 3. Quần chúng nhân dân hàng mấy ngàn người quan tâm đến tận nơi đã được sự đón tiếp của một lực lượng hùng hậu cảnh sát các loại trang bị tận răng. Quan chức nhà nước và chó nghiệp vụ ẩn đằng sau với xe chống bạo động, vòi rồng… và sự làm việc tận lực của cán bộ từ thành phố đến cấp phường, tổ dân phố với những thông báo, ngăn cấm dân chúng không được tập trung đông người hoặc đến nơi đó. Ngoài toà không một loa phóng thanh, không một màn hình để người dân chứng kiến cảnh “các bị cáo cúi đầu nhận tội” như báo Hà Nội mới và truyền hình đã tuyên bố như thế nào?

Ở đó, người dân chỉ thấy các “bị cáo” hùng dũng hiên ngang tự tin bước vào phiên toà đầu ngẩng cao và dang rộng hai cánh tay chiến thắng lên trời khi bước ra khỏi nơi xét xử. Ở đó, người ta chỉ thấy một hình ảnh trong phiên toà, giữa hàng loạt cảnh sát vây quanh với những gương mặt căng thẳng, bối rối, là những “bị cáo” – nạn nhân với trang phục đẹp, vẻ mặt bình thản, ngời sáng đức tin.

Thậm chí, tại vụ việc Thái Hà và Toà Khâm sứ, chính giáo dân đã có công đầu trong việc đập tan một âm mưu chia chác, biến đất đai tài sản này thành các miếng mồi ngon cho các cá nhân. Đó là công lao của họ trong việc nghe theo lời đảng và nhà nước chống tham nhũng.

Đây là một bản cáo trạng về những mờ ám, uẩn khúc và khoảng cách giữa một lời nói và việc làm của một chính quyền đã hô hào đến nhàm chán câu khẩu hiệu “thực thi pháp luật, công khai, dân chủ và lời nói đi đôi với việc làm” đặc biệt là trong việc chống nạn tham nhũng hiện nay.

Bản cáo trạng này cũng lên án, vạch rõ đích đáng thói lộng ngôn, bịa đặt của báo chí nhà nước về ngay cả những sự thật hiển nhiên ít có cơ hội che giấu nhằm đánh lừa cả cộng đồng dân tộc. Ngay khi vừa kết thúc phiên toà, đoàn người với hàng ngàn cành thiên tuế trên tay vừa bước ra đến đường Hoàng Cầu, những người dân bên kia ngã tư đã nghe loa phường đọc tràng giang đại hải bài viết chi tiết về phiên toà với những nội dung án cụ thể và lại “các bị cáo đã cúi đầu nhận tội”. Thật là lố bịch và vô liêm sỉ một cách trắng trợn. Họ tưởng rằng chính sách ngu dân của họ đã thành công nên mọi người dân cứ nhắm mắt và nghe theo?

Tại phiên toà, toàn bộ bản “cáo trạng” của Viện Kiểm sát thực chất chỉ là  lời bào chữa cho những hành động mờ ám, sự bất lương đối với những việc làm chính đáng của người dân như cầu nguyện, đòi quyền lợi của mình bị xâm hại. Bản “cáo trạng” nói trên, cũng đã làm một việc bất nhân và hèn hạ nữa là tranh thủ để công kích và kết tội Đức TGM Ngô Quang Kiệt, một con người đáng kính, dù việc đó chẳng liên quan gì đến việc kết tội 8 nạn nhân này.

Nhưng, bản bào chữa của luật sư thật sự mới là một bản cáo trạng đanh thép và dũng cảm. Trong đó, đã nêu rõ nguồn gốc, đường hướng luật pháp cần giải quyết, các căn cứ, căn nguyên mọi sự việc dẫn đến hành động cố tình kết tội để trả thù các nạn nhân của chính quyền ở đây. Tất cả các vấn đề đã được dùng văn bản có hiệu lực của chính nhà nước để giải thích và kết luận họ vô tội. Những căn cứ về nguồn gốc đất đai, những căn cứ pháp lý liên quan đã như đưa toà chạm vào lửa, và đã bị nhiều lần cắt ngang.

Vì lý do gì vậy? trong khi quyền sở hữu đất đai là cơ sở dẫn đến sự việc ngày hôm nay.

Trước toà, những nạn nhân hùng dũng, hiên ngang bước tới vành móng ngựa, trả lời và vặn hỏi những câu làm cho chánh án và các thẩm phán phải tái mặt và tịnh khẩu.

Họ sẵn sàng nhận việc họ đập bức tường, nhưng không cho rằng đó là có tội. Nói cách khác, họ đã khẳng định quyền sở hữu về đất đai, tài sản đó vẫn là của họ mà toà không có cách nào giải thích. Họ khẳng định việc làm của họ là đúng đắn và cần thiết không chỉ cho họ và giáo dân mà cần thiết cho cả xã hội đang khát khao công lý và sự thật.

Ngoài phiên toà, hàng ngàn người đứng vẫy tay với những tiếng hô vang vọng cả đất trời “Vô tội, vô tội” dưới nắng chiều rực rỡ bên cạnh những câu “chúng tôi muốn đi tù thay cho anh chị em”, “chúng tôi luôn bên cạnh anh chị em” đã làm ngạc nhiên không biết bao nhiêu cán bộ công quyền và cảnh sát có mặt và những người ngoài Công giáo tò mò tìm hiểu sự thật.

Đứng trước biển người cầm cành thiên tuế chờ đợi, đọc kinh và hô vang, một cán bộ công an Hà Nội rất ngạc nhiên và nói với tôi: “Sao bà con đứng đây làm gì cho nắng nôi khổ sở, ở nhà thì vẫn biết kết quả cơ mà”? Tôi đành phải giải thích “Thế mới là CON NGƯỜI chú ạ, con người biết vất vả hi sinh và nguy hiểm nhưng vẫn đến vì họ mong muốn sự thật và công lý, vì đạo đức con người đòi buộc họ phải lên tiếng. Họ đói vẫn biết từ chối những miếng ăn ngon vì nó chứa đựng sự nhục nhằn, họ nghèo đói nhưng không làm nô lệ cho đồng tiền. Vì thế con người mới khác với con vật, con vật thì cứ chủ cho ăn ngon thì dù chửi mắng vẫn ăn, ăn rồi bảo cắn càn là cứ cắn thôi”.

Sau phiên toà hàng ngàn con người đã diễu hành trên đường về nhà thờ với khẩu hiệu trên áo và cành thiên tuế trên tay, hình Đức Mẹ công lý trên ngực hô vang “vô tội, vô tội, công lý, sự thật”.

Cuộc diễu hành đã làm dòng người đông nghịt giờ tan tầm phải trầm trồ tìm hiểu. Những người biết giáo dân đi dự toà về đều hết sức ngạc nhiên và thú vị. Cũng ngoài nơi xét xử, rất nhiều người vì tò mò và chưa hiểu được vấn đề đã tìm đến nơi để hiểu được sự thật, tôi đã thấy sự thất vọng trên gương mặt họ khi hiểu được thế nào là truyền thông nhà nước.

Quả là một phiên toà lạ lùng và nhiều kịch tính. Trong lịch sử đất nước từ khi những người cộng sản lên cầm quyền đến nay, có lẽ chưa có cuộc diễu hành nào không được đảng và nhà nước ưa lại oai hùng và đẹp đẽ như vậy.

Đó là bản cáo trạng, bản cáo trạng của lòng dân, niềm tin của nhân dân, của những người thấp cổ bé họng đối với hệ thống pháp lý của nhà nước. Và một thực tế hiện nay là sự sợ hãi vốn có của họ đã không cánh mà bay, dù nó được nuôi dưỡng đã mấy chục năm nay dưới chế độ cộng sản.

Bản cáo trạng nói trên, không đóng dấu quốc huy, nhưng đóng dấu son và in đậm trong lòng dân. Bản cáo trạng nói trên đã trở thành tiếng nói của công lý và sự thật. Các “bị cáo” nạn nhân trong phiên toà đã trở thành những anh hùng làm chứng cho công lý, sự thật và hoà bình.

Những kẻ dựng lên vụ án này đã là những bị cáo bị lên án nặng nề nhất trong một phiên toà xử ngược mà án đã tuyên: phiên toà lương tâm và lòng dân.

Ở phiên toà đó, những kẻ gây nên tội ác đã phải chịu bản án đích đáng và sẽ phải chấp nhận những hình phạt nặng nề, dù vô hình hay thực thể.

Phiên toà Thái Hà là một tấm gương soi, mà trong đó những chỗ sồi sụt, những loang lổ và hầm hố trong chuỗi hệ thống công quyền đã lộ ra.

Có thể sẽ còn những phiên toà khác, còn những bản án khác. Nhưng, với người tín hữu Việt Nam, công lý, sự thật và hoà bình khi còn là ước mơ, thì vẫn là ngọn đèn soi, là mục đích cho họ bước tới bất chấp mọi trở ngại trên bước đường khó khăn này.

Nhân dân cả nước và nhân loại tiến bộ, những người yêu chuộng hoà bình, công lý sẽ nâng đỡ họ. Đúng như lời Chúa đã dạy: “Sự thật sẽ giải phóng anh em” (Ga 8,32).

Xin cầu nguyện cho nạn nhân của cả hai phiên toà được bình an, và những bị cáo trong phiên toà xử ngược sẽ biết ăn năn hối cải, sớm trở về nẻo chính đường ngay.

Lối đi đó thật đơn giản nhưng không dễ dàng, cho những kẻ đã bán rẻ lương tâm cuộc đời cho sự dối trá và lừa lọc.

J.B Nguyễn Hữu Vinh

Mục lục

Luận Cứ Bào Chữa Cho Giáo Dân Thái Hà

Kính thưa các vị Linh mục và toàn thể giáo dân có mặt tại trụ sở Tòa án quận Đống Đa để dự khán phiên tòa công khaihôm nay!

Tôi, Lê Trần Luật, là Luật sư bào chữa cho bà Nguyễn Thị Việt- người bị Viện Kiểm sát quận Đống Đa truy tố theo Cáo trạng số 178a/KSĐT ngày 11/11/2008về tội “Gây rối TTCC” và “Hủy hoại tài sản” theo khoản 1 Điều 245 và khoản 1 Điều 143 BLHS. Trước khi trình bày luận điểm bào chữa của mình, tôi thấy cần thiết phải nhấn mạnh và khẳng định với HĐXX rằng: bà Việt và những giáo dân bị xét xử hôm nay là hoàn toàn vô tội. Bất công thay cho những con người cầu nguyện để hy vọng tìm thấy công lý đã bị truy tố và xét xử như những người phạm tội.

Theo cáo trạng, bà Nguyễn Thị Việt đã thực hiện hành vi như sau:

“Bản thân là một giáo dân thường xuyên đi lễ tại Nhà thờ Thái Hà. Trước đó trong các buổi lễ các Linh mục chủ lễ cũng nói về việc cầu nguyện đòi lại đất của Công ty Cổ phần May Chiến Thắng đang sử dụng về cho Giáo xứ Thái Hà. Sau các buổi lễ trong nhà thờ các Linh mục thường dẫn các giáo dân ra khu vực bãi đất để cầu nguyện, hát Thánh ca và Việt cũng thường xuyên ra khu vực tường rào của Công ty Cổ phần May Chiến Thắng để cầu nguyện.

Khoảng 9 giờ 30 phút ngày 15/8/2008, Việt đến nhà thờ Thái Hà để dự lễ. Sau đó Việt và một số giáo dân khác đi qua bức tường thấp đã bị phá trước đó vào trong khu đất để nhặt cỏ, dọn dẹp ở khu vực bể nước nơi đặt tượng Đức Mẹ. Khi có người đuổi, Việt đã đi ra ngoài theo lối cũ. Khi ra đến phía ngoài bức tường rào nơi đối diện bể nước, Việt nghĩ cần phải phá bỏ bức tường để đi vào khu vực bể nước cho tiện việc cầu nguyện. Sau đó Việt đã cùng các giáo dân khác đập phá bức tường rào. Bản thân Việt đã dùng tay, ván gỗ phá tường rào rộng khoảng 3m và còn khoảng 20cm nữa là đến chân tường và cùng khoảng 200-300 giáo dân khác tràn vào khu đất để cầu nguyện. Ngoài ra Việt đã nhặt gạch san lấp chổ trống tạo lối đi thuận tiện cho các giáo dân vào cầu nguyện, trừ những ngày không ở Hà Nội thì ngày nào Việt cũng ra khu đất của Công ty cổ phần may Chiến Thắng để cầu nguyện” (Cáo trạng, trang 9-10).

Thưa HĐXX!

1. Trước hết, tôi cần nói về nguồn gốc đất, lịch sử khiếu kiện của nhà thờ Thái Hà và mục đích cầu nguyện của bà Việt cùng các giáo dân

Bà Nguyễn Thị Việt và các giáo dân cho rằng khu đất 178 phố Nguyễn Lương Bằng (tức số 116 phố Nam Đồng) là tài sản thuộc quyền sở hữu của Giáo xứ Thái Hà, nhưng thời gian qua đã bị các cơ quan quản lý Nhà nước chiếm đoạt trái phép, giao cho người khác sử dụng trái phép, phân lô bán đất trái phép, nhưng Giáo xứ khiếu nại đòi trả lại tài sản liên tục nhiều năm ròng không được cơ quan chức năng Nhà nước Việt Nam đáp ứng. Người dân mất lòng tin vào sự công minh của pháp luật nên buộc lòng phải cầu xin Thiên Chúa soi sáng mà trả lại cho họ sự công bằng.

Khu đất 178 phố Nguyễn Lương Bằng là tài sản của Giáo xứ Thái Hà bị Sở Quản lý nhà đất Hà Nội (nay là Sở Tài nguyên, Môi trường và Nhà đất) chiếm đoạt bất hợp pháp rồi ra Quyết định số 76/QL-NĐ đem giao cho Xí nghiệp thảm len Hà Nội sử dụng kể từ ngày 30/01/1961 đến nay.

Sở dĩ, tôi dám khẳng định 16.296m2 khu đất 178 phố Nguyễn Lương Bằng bị chiếm đoạt bất hợp pháp bởi lẽ:

·         Nguồn gốc khu đất này là đất mua hợp pháp:

1.1. Năm 1928, Đức Giám Mục Francois Chaize, Giám quản Tông toà Giáo phận Hà Nội đứng tên mua giúp cho Dòng Chúa Cứu Thế (DCCT) khu đất khoảng 400 mx 150 mnằm trên quốc lộ 6, nay là phố Nguyễn Lương Bằng, tổng diện tích là 61.455 m2, tức là 6,1455 ha (Xin xem hình 3: Bản đồ của Conservation de la Propiété Foncière de Hà Nội- Sở Quản thủ Điền thổ Hà Nội- lập ngày 16.08.1944).

1.2. Ngày 22.05.1944, Đức Giám Mục Francois Chaize đã làm giấy tuyên bố nhượng quyền sở hữu đất đai và toàn bộ bất động sản trên khu đất này cho các linh mục DCCT. Cha Edmond Dionne, Giám tỉnh DCCT Việt Nam, đã đứng ra tiếp nhận sự chuyển nhượng này (Xin xem tài liệu Acte de Cession de Propriété)

1.3. Tu viện DCCT bắt đầu cư trú tại khu đất trên đây từ ngày 26.09.1928. Năm 1930 các linh mục DCCT xây dựng toà nhà thứ nhất. Năm 1939 xây dựng toà nhà thứ hai nối tiếp toà nhà thứ nhất. Năm 1935 Tu viện cũng xây dựng một ngôi nhà thờ tạm thời mà ngày nay vẫn còn đang sử dụng. Tu viện còn xây dựng nhà đệ tử, nhà hội quán, hồ bơi, nhà ở cho gia nhân, nhà kho, nhà chăn nuôi gia súc.

Tu viện vẫn sở hữu và sử dụng toàn bộ đất đai và nhà cửa nằm trên khu đất trên đây một cách bình thường cho đến năm 1954. Ngoài khu đất này, Tu viện còn sở hữu một số khu đất khác tại các làng Thái Hà (Xin xem hình 2: Bản chụp bằng khoán điền thổ của DCCT năm 1944 ) và tại các làng Nam Đồng, Khâm Thiên, Trung Tự, v.v.

* Căn cứ toàn bộ văn bản pháp luật điều chỉnh về đất đai giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1962 thì đất đai của Giáo xứ Thái Hà và nhà cửa trên diện tích đất này dùng vào mục đích phụng sự tôn giáo không thuộc đối tượng bị cải tạo, tịch thu hay trưng thu, trưng dụng mà còn phải được chính quyền mới tôn trọng và bảo bảo vệ; cụ thể như sau:

- Toàn bộ 38 Điều của Luật Cải Cách Ruộng Đất năm 1953 ghi rõ đối tượng cải tạo của Luật CCRĐ 1953 là ruộng đất để sản xuất nông nghiệp ở nông thôn, mà đất đai thuộc khuôn viên nhà thờ Thái Hà là đất ở Thành thị (Thủ đô Hà Nội) nên không thuộc đối tượng bị cải cách của Luật CCRĐ;

- Thông tư số 73/TTg ngày 07/07/1962 “về việc quản lý đất của tư nhân cho thuê, đất vắng chủ, đất bỏ hoang ở nội thành, nội thị”. Đối tượng điều chỉnh của Thông tư này là đất cho thuê, đất vắng chủ, đất bỏ hoang ở nội thành, nội thị;

Cái duy nhất mà Quyết định số 2476/QĐ-UBND ngày 30/6/2008 của UBND thành phố Hà Nội vịn vào là Thông tư số 73/TTg ngày 07/07/1962 để cho rằng “Đất cho thuê của các tôn giáo, các Hội dù diện tích cho thuê nhiều hay ít, đều do Nhà nước trực tiếp quản lý, Nhà nước không bồi hoàn cho họ một khoản tiền nào” thì UBND Thành phố Hà Nội đã tự mâu thuẫn với chính mình, bởi lẽ:

+ Cũng bằng Quyết định số 2476/QĐ-UBND ngày 30/6/2008, UBND Thành phố Hà Nội đã xác nhận tại thời điểm năm 1961 khu đất này do Linh mục Vũ Ngọc Bích quản lý, Linh mục không ký hợp đồng cho ai thuê đất; nên khu đất này chưa bao giờ bị bỏ hoang, cũng không vắng chủ, không cho ai thuê mướn nên không thuộc đối tượng điều chỉnh của Thông tư số 73/TTg ngày 07/07/1962;

+ Mặt khác, ngày 30/01/1961 Sở quản lý nhà đất Hà Nội (nay là Sở Tài nguyên, Môi trường và Nhà đất) có Quyết định số 76/QL-NĐ giao cho Xí nghiệp thảm len Hà Nội được sử dụng khu đất phố Nam Đồng, khu Đống Đa, Hà Nội với diện tích 16.296m2 để làm xí nghiệp sản xuất (trích Cáo Trạng). Vậy Sở Quản lý nhà đất Hà Nội lấy đâu ra 16.296m2 đất để giao cho Xí nghiệp thảm len?

Đất này không thể tự nhiên “mọc” ra, Sở Quản lý nhà đất Hà Nội cũng không thể tự “đẻ” ra 16.296m2 đất, mà đó chính là đất thuộc khuôn viên Tu viện Dòng Chúa Cứu Thế được sử dụng vào mục đích phục vụ tín ngưỡng tôn giáo của giáo dân; nhưng đã bị Sở Quản lý nhà đất Hà Nội công nhiên chiếm đoạt một cách trái pháp luật trước khi có Thông tư số 73/TTg ngày 07/07/1962 ít nhất là 523 ngày (nếu tính từ ngày Sở Quản lý nhà đất Hà Nội ra Quyết định giao đất cho Xí nghiệp Thảm len).

Rõ ràng, việc UBND Thành phố Hà Nội viện dẫn Thông tư số 73/TTg ngày 07/07/1962 là để hợp pháp hóa hành vi chiếm đoạt đất một cách trái pháp luật của Sở quản lý nhà đất Hà Nội đối với Tu viện Dòng Chúa Cứu Thế mà thôi. Nhưng việc “hợp pháp hóa” này cũng không hợp lý, không hợp pháp, bởi một lẽ đơn giản, như tôi đã phân tích và chứng minh ở trên, đất đai thuộc khuôn viên Tu viện Dòng Chúa Cứu Thế chưa bao giờ là đối tượng bị tịch thu, quản lý của Thông tư số 73/TTg ngày 07/07/1962 cả.

- Sắc Lệnh của Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do ông Võ Nguyên Giáp ký ngày 20/09/1945 ghi rõ: “Điều thứ 1: Đền chùa, lăng tẩm, nhà thờ, tất cả các nơi có tính cách tôn giáo, bất cứ tôn giáo nào, nhân dân đều phải tôn trọng không được xâm phạm”;

- Điểm 3 Nghị Quyết của Quốc Hội ngày 26/3/1955 về vấn đề Tôn giáo “Các nhà thờ, chùa, thánh thất được tôn trọng và bảo vệ”;

- Sắc lệnh số số 234/SL ngày Ngày 14 Tháng 06 năm 1955 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký: “Điều 6: Các nhà thờ, chùa, đền, miếu, thánh thật và các đồ thờ, các trường giáo lý của tôn giáo được luật pháp bảo hộ”;

Rõ ràng, từ cụ Võ Nguyên Giáp, cụ Hồ Chí Minh đến Quốc Hội đều có cùng quan điểm là luật pháp phải tôn trọng và bảo vệ các cơ sở thờ tự tôn giáo; nhưng thực tế các cấp chính quyền đã làm điều ngược lại, không căn cứ vào bất cứ điều luật nào vẫn ngang nhiên chiếm đoạt đất đai thuộc sở hữu nhà thờ Thái Hà rồi giao cho đơn vị khác sử dụng.

Phía UBND Thành phố Hà Nội viện lý do rằng:

“Ngày 24/10/1961 Linh mục Vũ Ngọc Bích (là người quản lý nhà, đất) đã ký biên bản “Hội nghị bàn giao nhà thống nhất quản lý vào Nhà nước” bàn giao toàn bộ nhà đất do Dòng Chúa Cứu Thế quản lý tại 116 Nam Đồng (trừ diệnt ích nhà thờ) gồm 3.905m2 nhà chính, 945m2 nhà phụ trên diện tích khoảng 60.000m2 đất giao sang cho Nhà nước quản lý, trong đó có khu đất do Xí nghiệp Thảm len (nay là Công ty cổ phần May Chiến Thắng) đang sử dụng”.

Lập luận này rất vô lý, người quản lý làm sao có quyền tự ý giao tài sản của chủ nhân cho người khác được, bởi theo pháp luật cũng như theo Giáo luật, không có ai, kể cả Giám Mục, được tự ý sang nhượng, chuyển đổi đất đai, tài sản Giáo Hội Công Giáo.

Bởi lẽ:

- Như tôi đã trình bày ở trên, đất đai thuộc sở hữu hợp pháp của Nhà thờ Thái Hà từ năm 1928, cho đến ngày 30/01/1961 bị Sở Quản lý nhà đất Hà Nội chiếm dụng trái phép thì diện tích nhà đất này chưa bao giờ thuộc diện bị cải tạo theo Luật Cải Cách Ruộng Đất và Thông tư số 73/TTg ngày 07/07/1962, cũng không hề có quyết định trưng dụng, trưng thu, trưng mua nào hết; mà diện tích nhà đất này thuộc diện bị quản lý không rõ lý do, được quy định tại khoản 5 Điều 2 Nghị quyết số 23/2003/QH11: “Quản lý nhà đất trong từng thời điểm nhất định và nhà đất của các đoàn hội, tôn giáo”.

Như vậy, UBND Thành phố Hà Nội phải vận dụng Nghị quyết 755/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02/4/2005 của Ủy Ban Thường vụ Quốc Hội “Quy định việc giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng 07 năm 1991” và Nghị định 127/2005/NĐ-CP ngày 10/10/2005 “Hướng dẫn thực hiện Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội và Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02/4/2005 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định việc giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng 7 năm 1991” để giải quyết khiếu nại đòi nhà đất của Giáo xứ Thái Hà;

Điều 4 Nghị quyết 755/2005/NQ-UBTVQH11 quy định:

Đối với nhà đất mà chủ sở hữu tuy thuộc diện thực hiện các chính sách quy định tại Điều 2 của Nghị quyết số 23/2003/QH11 nhưng đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành, cơ quan nhà nước chưa có văn bản quản lý, chưa bố trí sử dụng nhà đất đó thì Nhà nước không thực hiện việc quản lý theo quy định của các chính sách trước đây. Việc công nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất được thực hiện theo quy định của pháp luật”.

Chưa có văn bản quản lý, chưa bố trí sử dụng nhà đất đó” là như thế nào? Điểm b Điều 3 Nghị định 127/2005/NĐ-CP hướng dẫn thủ tục pháp lý được coi là có văn bản quản lý, chưa bố trí sử dụng nhà đất như sau:

“b) Đối với diện tích nhà đất đang do các cơ quan, tổ chức (trừ trường hợp quy định tại điểm c khoản này) quản lý, sử dụng vào mục đích không phải để ở thì giao cho các cơ quan, tổ chức đó quản lý, sử dụng theo quy định về quản lý nhà đất thuộc sở hữu nhà nước.

Trường hợp các cơ quan, tổ chức đang cho thuê quỹ nhà đất này thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm thu hồi để giao cho doanh nghiệp nhà nước có chức năng quản lý quỹ nhà thuộc sở hữu nhà nước của địa phương quản lý, sử dụng theo quy định về quản lý nhà đất thuộc sở hữu nhà nước.

Trong hồ sơ vụ án này, tôi không hề thấy có Quyết định của UBND Thành phố Hà Nội giao diện tích nhà đất của Giáo xứ Thái Hà cho Công ty May Chiến Thắng sau ngày Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 có hiệu lực thi hành (ngày 22/04/2005), không thấy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho Công ty May Chiến Thắng, có nghĩa là Công ty May Chiến Thắng đã sử dụng diện tích nhà đất này bất hợp pháp. Mặt khác, Công ty May Chiến Thắng lại ký Hợp đồng không số ngày 01/6/2006 cho Công ty TNHH Bao Bì Đống Đa thuê lại diện tích nhà đất này (BL 750, 751) mà UBND Thành phố Hà Nội không hề có Quyết định thu hồi lại là Công ty May Chiến Thắng, Công ty TNHH Bao Bì Đống Đa đang sử dụng nhà đất trái phép và trái với quy định tại điểm b Điều 3 Nghị định 127/2005/NĐ-CP đã viện dẫn ở trên.

Vì Công ty May Chiến Thắng, Công ty TNHH Bao Bì Đống Đa đang sử dụng nhà đất trái phép của Giáo xứ Thái Hà, nên diện tích nhà đất này phải được xử lý theo Điều 4 Nghị định 127/2005/NĐ-CP là: “Đối với nhà đất tuy thuộc diện phải thực hiện các chính sách quy định tại Điều 2 của Nghị quyết số 23/2003/QH11 nhưng đến ngày Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 có hiệu lực thi hành, Nhà nước chưa có văn bản quản lý, chưa bố trí sử dụng nhà đất đó thì Nhà nước không tiếp tục thực hiện việc quản lý theo các chính sách trước đây”.

Căn cứ vào các văn bản pháp luật tôi đã viện dẫn ở phần trên thì UBND Thành phố Hà Nội phải trả lại diện tích nhà đất của Giáo xứ Thái Hà, vì Giáo xứ Thái Hà mới chính là chủ sở hữu hợp pháp của tài sản đó; nhưng UBND Thành phố Hà Nội lại cố tình bỏ qua Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11, Nghị định 127/2005/NĐ-CP (hiệu lực thi hành ngày 01/11/2005) mà vận dụng Điều 1 Nghị quyết số 23/2003/QH11 để nại lý do không trả lại nhà đất cho Giáo xứ Thái Hà là chủ sở hữu có giấy tờ hợp pháp, cũng không bồi thường là rất vô lý và trái pháp luật hiện hành.

Nếu Tòa án công nhận lập luận của phía chính quyền Thành phố Hà Nội là đúng, tức công nhận người quản lý có quyền định đoạt số phận tài sản trên cả chủ nhân của tài sản, thì điều này chẳng những trái luật, mà còn công khai thừa nhận rằng: Chủ tịch nước, Thủ tướng hay ai đó cấp cao cao hơn một chút (có quyền quản lý đất nước) là có quyền “giao” lãnh thổ, lãnh hải, không phận nước Việt Nam cho nước ngoài mà không cần thông qua Quốc Hội hoặc không cần phải tổ chức trưng cầu ý dân?

Đó là chưa kể đến việc UBND Thành phố Hà Nội không trưng ra được bản gốc và kết luận giám định chữ viết của Biên bản bàn giao, cái mà UBND Thành phố Hà Nội đưa ra chỉ là các bản photocopy chữ nghĩa mập mờ, không có giá trị pháp lý.

Từ những chứng cứ nêu trên, đã chứng minh được rằng:

Khu đất 178 phố Nguyễn Lương Bằng (tức số 116 phố Nam Đồng) là tài sản thuộc quyền sở hữu của Giáo xứ Thái Hà, nhưng đã bị các cơ quan quản lý Nhà nước chiếm đoạt trái phép, Giáo xứ đã khiếu nại đòi lại nhiều năm mà phía Nhà nước vẫn lờ đi nên bà Nguyễn Thị Việt và giáo dân phải cầu nguyện xin Thiên Chúa trả lại sự công bằng là lẽ tất nhiên và hoàn toàn đúng đắn.

(Phần chữ màu hồng cánh sen này, mặc dù Luật sư yêu cầu được nói rất nhiều lần nhưng HĐXX sơ thẩm không cho Luật sư trình bày tại Tòa)

Thưa HĐXX!

Có thể, HĐXX và VKS cho rằng nguồn gốc đất và lịch sử khiếu kiện của nhà thờ Thái Hà là vấn đề không nằm trong vụ án hôm nay, nhưng tôi xin được lưu ý rằng chính việc giải quyết khiếu nại của Thái Hà không đến nơi đến chốn, kéo dài nhiều năm của chính quyền Hà Nội đã dẫn đến sự bức xúc của các Linh mục và các giáo dân. Họ không còn tin vào công lý và sự công bằng của pháp luật, vì thế họ phải chọn giải pháp cầu nguyện để mong chính quyền quan tâm đến những lợi ích hợp pháp của họ

2. Về cáo buộc gây rối TTCC:

Cáo trạng đã nhầm lẫn giữa cầu nguyện và hành lễ, cố tình đánh tráo hai khái niệm này để buộc tội bà Việt và các giáo dân khác phạm tội gây rối TTCC:

Trước khi chứng minh bà Việt không phạm tội gây rối TTCC, tôi thấy cần thiết phải làm sáng tỏ sự khác nhau giữa “cầu nguyện” và “hành lễ”. Phân tích sự khác nhau này để HĐXX thấy rằng với hành vi “cầu nguyện”, bà Việt không thể phạm vào tội gây rối TTCC.

Cầu nguyện là việc tín đồ cầu xin đấng thiêng liêng mà mình tin tưởng ban cho họ một đặc ân, đáp ứng một ước muốn, nguyện vọng nào đó của họ. Cầu nguyện có thể nói lên bằng lời nói, có thể bằng việc đọc kinh, hát Thánh ca, hay đơn giản chỉ là sự im lặng thành kính, tập trung tinh thần liên thông tư tưởng với đấng tối cao, Thiên Chúa sẽ hiểu rằng tín đồ của mình muốn cầu xin điều gì. Người Công giáo có thể cầu nguyện ở bất cứ nơi nào, không pháp luật ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới này lại cấm tín đồ cầu nguyện cả, vì đó là vấn đề thuộc về tâm linh, về niềm tin tôn giáo trong tư tưởng con người, có muốn cấm cũng không thể cấm được.

“Lễ” là nghi thức tôn giáo của người Công giáo, trong đó có những điều kiện bắt buộc phải có, nếu thiếu điều kiện này thì không phải là “lễ” và không thể “hành lễ” được. “Hành lễ” tức là làm lễ, là tiến hành một cuộc “lễ”, nghi thức hành lễ được quy định trong Lễ nghi phụng vụ của Giáo Hội Công giáo (xem sách lễ Roma), không ai có quyền thay đổi.

Trong nghi thức hành lễ luôn luôn có cầu nguyện nhưng cầu nguyện không bao giờ là hành lễ cả.

Rõ ràng, thực tế giáo dân đến khu đất 178 phố Nguyễn Lương Bằng chỉ cầu nguyện, không hề “hành lễ”. Việc cáo trạng không hiểu (hay cố tình không hiểu), nhập nhằng các khái niệm “lễ” và “cầu nguyện” để xuyên tạc, bóp méo mục đích cầu nguyện của giáo dân nhằm thổi phồng sự việc, vu cáo cho giáo dân vi phạm Điều 25 Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo.

Ngược lại, hành vi cố tình cản trở giáo dân cầu nguyện mới chính là hành vi vi phạm pháp luật.

Khoản 1, Điều 245 BLHS về “Tội gây rối TTCC” qui định: “Người nào gây rối TTCC gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”.

Hành vi gây rối TTCC quy định tại Điều 245 BLHS được hiểu là hành vi làm náo động trật tự nơi công cộng gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này, hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Tuy nhiên, toàn bộ lời khai người làm chứng có trong hồ sơ vụ án (BL từ số 836 liên tục đến số 945) không có lời khai nào chỉ đích danh bà Nguyễn Thị Việt (hoặc bất kỳ bị cáo nào có mặt trong phiên xử sơ thẩm hôm nay) đã có hành vi cụ thể như thế nào để gây rối TTCC. Hồ sơ vụ án và Cáo trạng đã không chứng minh được bà Nguyễn Thị Việt (và các bị cáo Nguyễn Thị Nhi, Ngô Thị Dung, Lê Quang Kiện, Lê Thị Hợi, Phạm Trí Năng, Nguyễn Đắc Hùng, Thái Thanh Hải) đã có hành vi đuổi đánh nhau, hò hét gây náo loạn nơi công cộng, đập phá tài sản nơi công cộng, gây tắc ách giao thông…

Cáo trạng cũng ghi nhận bà Nguyễn Thị Việt chỉ có những hành vi sau: “nhặt cỏ, dọn dẹp ở khu vực bể nước nơi đặt tượng Đức Mẹ”, “nhặt gạch san lấp chổ trống”, “ngày nào Việt cũng ra khu đất của Công ty cổ phần may Chiến Thắng để cầu nguyện”, “dùng tay, ván gỗ phá tường rào rộng khoảng 3m và còn khoảng 20cm nữa là đến chân tường”.

Trước hết, phải thấy rằng bà Việt chưa bị xử lý hành chính và cũng chưa bị kết án về tội này. Như vậy vấn đề được đặt ra, liệu với hành vi nhặt gạch, nhổ cỏ, dọn dẹp và cầu nguyện có gây ra hậu quả nghiêm trọng nào thỏa mãn Điều luật của qui định không ?

Theo hướng dẫn tại điểm 5.1. Phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội Đồng Thẩm Phán Tòa Án Nhân Dân Tối Cao thì hậu quả nghiêm trọng xảy ra trong các trường hợp sau:

a. Cản trở, ách tắc giao thông đến dưới 2 giờ;

b. Cản trở sự hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân;

c. Thiệt hại về tài sản có giá trị từ mười triệu đồng trở lên;

d. Chết người;

đ. Người khác bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỷ lệ thương tật từ 31 % trở lên;

e. Nhiều người bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% trở lên;

g. Người khác bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm triệu đồng trở lên;

h. Nhiều người bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm triệu đồng trở lên.

Tham chiếu với Cáo trạng, có thể thấy rằng VKS quận Đống Đa, TP Hà Nội đã cho rằng hành vi của bà Việt gây ra thiệt hại về tài sản có giá trị trên 10 triệu đồng.

Thưa HĐXX!

Toàn bộ hồ sơ vụ án có thể thấy ngay rằng Cơ quan điều tra và VKS quận Đống Đa, TP Hà Nội không chứng minh được rằng hành vi nhặt gạch, nhổ cỏ và cầu nguyện của bà Việt có mối quan hệ nhân quả với thiệt hại đã xảy ra cho Công ty may Chiến Thắng.

Công ty May Chiến Thắng lập danh sách chi tiền cho 308 người với tổng số chi là 158.468.000 đồng với lý do “Chi tiền phụ cấp cho công nhân làm tại 178 Nguyễn Lương Bằng do giáo dân gây rối làm ảnh hưởng đến NSLĐ” (BL 810 đến 813), nhưng danh sách này không có quyết định tuyển dụng, quyết định bổ nhiệm (nếu là công chức) kèm theo; không có hợp đồng lao động (nếu là công nhân) kèm theo, không có danh sách đăng ký lao động (công nhân hợp đồng) với Phòng Lao động - Thương binh Xã hội quận Đống Đa; như vậy, danh sách này là do lãnh đạo Công ty May Chiến Thắng tự “đặt” ra. Vì vậy, con số chi 158.468.000 đồng là không có thật. Có thể thấy, Cty may Chiến Thắng tự ý thu chi một cách vô tội vạ. Chẳng lẽ Cty may Chiến Thắng làm ăn thua lỗ, “tham ô” rồi lấy lý do giáo dân cầu nguyện làm ảnh hưởng hay sao?

Mặt khác, Công ty May Chiến Thắng lấy tài liệu, chứng cứ gì chứng minh rằng 308 người có tên trong danh sách bị “ảnh hưởng đến NSLĐ” là do giáo dân chớ không phải do các nguyên nhân khác như: lười biếng, ăn cắp giờ công, đau ốm, bệnh tật, lo lắng việc riêng gia đình…? Tài liệu so sánh năng suất lao động trước và sau ngày 15/8/2008 ở đâu? Cơ quan, tổ chức chuyên môn nào giám định và kết luận giáo dân làm “ảnh hưởng đến NSLĐ”? “Báo cáo thiệt hại ảnh hưởng sản xuất tháng 8-9 năm 2008 tại cơ sở sản xuất 178 Nguyễn Lương Bằng” (BL 814) nhưng nội dung lại là doanh thu tháng 9/2008 bị giảm. Chẳng lẽ bà Nguyễn Thị Việt và các bị cáo phải chịu trách nhiệm về việc Công ty May Chiến Thắng bị giảm doanh thu do không có khách mua nên không bán được hàng hóa?

- Công ty May Chiến Thắng còn tự lập danh sách chi tiền trực bảo vệ cho 137 người với tổng số tiền 191.196.000 đồng (BL 808, 809) trái nguyên tắc tài chính kế toán giống như Danh sách chi tiền phụ cấp đã nêu ở trên. Việc bố trí bảo vệ là chuyện riêng của Công ty thì Công ty tự chịu chi phí, không thể đổ lỗi cho giáo dân bởi lẽ Cáo trạng cũng xác định rõ bà Nguyễn Thị Việt và các bị cáo không có người nào xông vào nơi sản xuất của công ty chửi bới, hăm dọa, đánh đập công nhân hay chiếm đoạt tài sản, công cụ sản xuất, nguyên vật liệu sản xuất, cản trở hoạt động sản xuất của Công ty, mà họ chỉ cầu nguyện ở khu đất trống bên ngoài.

Theo Giấy Chứng nhận đăng ký kinh doanh số 1030006478 (đăng ký thay đổi lần thứ 3) ngày 27/4/20007 thì Công ty May Chiến Thắng là doanh nghiệp Nhà nước với 51% vốn điều lệ (chiếm 61.200/120.000 cổ phần), chủ đầu tư là Tổng công ty Dệt - May Việt Nam -“là tổng công ty Nhà nước hoạt động kinh doanh” được thành lập theo Quyết định số 253/TTg ngày 29/4/1995 của Thủ tướng Chính phủ. Việc Công ty cổ phần May Chiến Thắng chi đến 349.664.000 đồng không nằm trong danh mục chi thường xuyên, mà không có thủ tục đề nghị và ý kiến chuẩn y cho phép của Tổng công ty Dệt - May Việt Nam là trái quy định tại Quyết định số 52/2006/QĐ-BTC ngày 25/9/2006 về “Quy chế quản lý tài chính của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước”.

- Thêm vào đó, Cáo trạng cho rằng việc Cty may Chiến Thắng giảm doanh thu tháng 8, tháng 9 năm 2008 là 1.059.708.000 đồng. Việc giảm doanh thu là do năng lực lãnh đạo và tổ chức kinh doanh của CTy may Chiến Thắng quá kém, chứ hà cớ gì lại cho rằng nguyên nhân là do giáo dân cầu nguyện?

Với thiệt hại rất lớn như vậy mà Cty may Chiến Thắng lại không yêu cầu bồi thường thiệt hại là hết sức vô lý, mà bất kỳ ai cũng dễ dàng nhận ra. Tôi đề nghị HĐXX lưu tâm đến điểm này.

Rõ ràng các hành vi nhặt cỏ, dọn dẹp, nhặt gạch, cầu nguyện của bà Việt không gây ra thiệt hại, ảnh hưởng đến bất kỳ ai, không để lại hậu quả nào, tức không hề có hậu quả nghiêm trọng nào xảy ra.

Tôi không thể tin rằng: trong một xã hội mà ngay cả dọn dẹp, nhặt gạch, nhổ cỏ, cầu nguyện cũng là phạm tội thì thử hỏi còn hành vi nào không bị coi là phạm tội? Do đó, tôi khẳng định rằng, bà Nguyễn Thị Việt không phạm tội gây rối TTCC.

3. Về cáo buộc hủy hoại tài sản

Bị buộc tội vì đã phá hủy một thứ vật dụng được dựng lên bất hợp pháp và là đồ phế thải

Khoản 1 Điều 143 BLHS quy định: “Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác gây thiệt hại từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm” thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Hủy hoại tài sản là hành vi làm cho tài sản bị mất hẳn giá trị sử dụng, không thể khôi phục lại được và toàn bộ giá trị tài sản không còn.

Như vậy, trước hết tội danh này đòi hỏi phải xác định được tài sản bị hủy hoại là tài sản có thật, hợp pháp, có giá trị sử dụng. Tài sản hợp pháp và có thật thì mới có thể hủy hoại và mới được pháp luật bảo vệ, tài sản không có thật thì không thể hủy hoại. Đồng thời, tài sản phải có giá trị sử dụng bằng số tiền cụ thể được quy định tại khoản 1 Điều 143 BLHS.

Từ điển tiếng Việt định nghĩa: Tài sản là “Của cải vật chất dùng để sản xuất hoặc tiêu dùng”. Trong Kinh tế học, tài sản là một “thuật ngữ kế toán kinh doanh chỉ tất cả những gì có giá trị tiền tệ thuộc sở hữu của một cá nhân, một đơn vị hoặc của Nhà nước; có thể được dùng để trả nợ, sản xuất ra hàng hoá hay tạo ra lợi nhuận bằng cách nào đó. Một tài sản có ba đặc tính không thể thiếu: lợi nhuận kinh tế có thể xảy ra trong tương lai; do một thực thể hợp pháp kiểm soát; thu được kết quả ngay từ hợp đồng kinh doanh hoặc giao dịch đầu tiên”.

Đối với bức tường mà Cáo trạng cho rằng đã bị bà Nguyễn Thị Việt hủy hoại, thì bức tường đó không phải là tài sản, bởi các lẽ sau:

- Bức tường đó là vật vô giá trị, không mang lại lợi nhuận kinh tế, không phải là vật tiêu dùng: Cáo trạng không chứng minh được bức tường lúc nó còn tồn tại thì nó mang lại giá trị kinh tế gì, cụ thể là bằng bao nhiêu tiền. Tôi khẳng định rằng bức tường này là vật vô giá trị và không phải là tài sản, bằng chứng là sau khi Nguyễn Thị Việt và các bị cáo khác bị khởi tố có 1 ngày thì 19/9/2008 UBND Thành phố Hà Nội đã cho xe cơ giới san bằng bức tường thành đống gạch vụn;

- Bức tường không được xây dựng hợp pháp: Như tôi đã chứng minh ở phần trên, khu đất 178 phố Nguyễn Lương Bằng bị Công ty May Chiến Thắng chiếm dụng bất hợp pháp thì mọi thứ được xây dựng phía trên khu đất ấy không được sự đồng ý của chủ nhân thật sự của khu đất đều là xây dựng bất hợp pháp, cần phải tháo dỡ.

- Căn cứ trình tự, thủ tục thu hồi đất quy định tại khoản 1, khoản 3, khoản 4 Điều 130 Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ, thì trước khi khởi công xây công viên ít nhất 180 ngày UBND Thành phố Hà Nội đã phê duyệt kế hoạch san bằng bức tường này rồi. Như vậy, về mặt pháp lý, bức tường đã bị chính UBND Thành phố Hà Nội xoá sổ 5 tháng trước ngày 15/8 (ngày giáo dân đập bức tường).

- Việc định giá bức tường chỉ hợp lý khi bức tường được xây dựng hợp pháp và có giá trị sử dụng, được sử dụng liên tục và cho đến thời điểm hiện nay vẫn còn nhu cầu sử dụng; còn đối với một vật đã bị chính UBND Thành phố Hà Nội san bằng vì không còn giá trị sử dụng thì không thể đem ra “định giá” để gán ghép cái tên “tài sản” cho nó được.

- Theo hồ sơ vụ án, bức tường được bắt đầu thi công vào ngày 15/1/2008 (BL 802) với tổng số tiền hơn 17 triệu đồng, đến thời điểm ngày 15/8/2008 là 7 tháng, tức bức tường còn rất mới, rất cứng; điều này mâu thuẫn với Cáo trạng là “bức tường thấp đã bị phá trước đó” (trang 4). Tôi được biết bức tường này đã tồn tại hơn mấy chục năm và đã mục nát, đã bị người nào đó phá vỡ từ trước (như Cáo trạng thừa nhận) nên một bà già như bà Nguyễn Thị Việt mới có thể dùng tay và mảnh ván gỗ phá vỡ dễ dàng như thế. Bà Nguyễn Thị Việt là phụ nữ, đã quá tuổi lao động 4 năm, lại có thể dùng tay và mảnh ván gỗ phá vỡ được bức tường xi măng mới dài đến 3m thì bà Việt phải là người có sức khỏe phi thường hoặc là hồ sơ (các BL 796 đến 807) đã được ngụy tạo để hợp pháp hóa nhằm “làm mới” một vật mục nát không có giá trị sử dụng.

Mặt khác, Cáo trạng không chứng minh được bà Việt dùng tay và mảnh ván gỗ phá vỡ bức tường rào rộng khoảng 3m còn khoảng 20cm nữa là đến chân tường thì cái đoạn 3m do bà Việt phá vỡ là bao nhiêu tiền trong tổng số 3.479.990 đồng của toàn bộ “bức tường gạch dài 6 mét * 1.3 mét” (BL 819)?.

Từ những lập luận trên, tôi cũng khẳng định rằng bà Việt không phạm tội hủy hoại tài sản.

4. Ngoài những lập luận cơ bản tôi đã trình bày, HĐXX nên lưu ý những vấn đề sau đây:

a- Vụ án không có vật chứng

Cáo trạng cho rằng ông Phạm Hải Dương - Cán bộ Thanh Tra xây dựng phường Quang Trung, ông Nguyễn Đức Hoàn, ông Đặng Tuấn Thảo- 2 cán bộ Đội An ninh Công an quận Đống Đa, là người trực tiếp quay phim, ghi hình những người đập phá bức tường. Tại sao ông Phạm Hải Dương, với chức vụ Thanh tra xây dựng của mình, lẽ ra lúc bà Việt và các bị cáo khác đập bức tường thì ông Dương phải lập tức ngăn chận và lập biên bản vi phạm (nếu có), nhưng ông Dương lại điềm nhiên đứng đó mà quay phim?

Hành vi gây rối TTCC và hủy hoại tài sản theo Pháp lệnh Tổ chức điều tra Hình sự thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan Cảnh sát, tại sao 2 vị cán bộ An ninh quận Đống Đa này cũng chen vào đó mà quay phim, chụp hình? 2 vị cán bộ An ninh quận Đống Đa này tự ý đến số 178 Nguyễn Lương Bằng quay phim chụp hình hay theo sự phân công, chỉ đạo của ai? Hóa ra cán bộ An ninh Công an quận chỉ làm có mỗi công việc là rình mò, theo dõi, “vạch lá tìm sâu” để bắt tội dân hay sao?

Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 720/2008/HSST-QĐ ngày 21/11/2008 của Tòa Án quận Đống Đa xác định chỉ có các ông bà Vũ Đức Lợi, Đặng Thúy Loan, Lại Thế Hiếu, Đinh Hồng Phong, Trần Tiến Hùng là người làm chứng. Tôi xin hỏi đại diện Viện Kiểm sát quận Đống Đa và Hội đồng xét xử sơ thẩm Tòa án quận Đống Đa: Trong vụ án này ông Phạm Hải Dương, ông Nguyễn Đức Hoàn, ông Đặng Tuấn Thảo tư cách tham gia tố tụng là gì? Là người làm chứng hay cán bộ của cơ quan tiến hành tố tụng?

Nếu 3 ông là người làm chứng thì tại sao phim ảnh do các ông Dương, Hoàn, Thảo quay không được giao nộp cho cơ quan điều tra và lập Biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu do người khác tự nguyện giao nộp theo quy định tại Quyết định số 1351/2004/QĐ-BCA (C11) ngày 18/11/2004 của Bộ Công An? Rõ ràng 3 ông Dương, Hoàn, Thảo không phải là Điều tra viên (không có tên trong Quyết định phân công điều tra vụ án) (BL 3, 4), cũng không phải người làm chứng, thì ai cho phép các ông này chen vào hoạt động của cơ quan tố tụng quận Đống Đa một cách trái luật?

Cáo trạng số số 178a/KSĐT ngày 11/11/2008 của Viện Kiểm sát quận Đống Đa ghi rõ “Tang vật: Không” (Trang 17), vậy 2 đĩa hình ghi trong Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 720/2008/HSST-QĐ ngày 21/11/2008 của Tòa Án quận Đống Đa lấy ở đâu ra? 2 đĩa hình này đã được cơ quan chuyên môn nào giám định tính trung thực, tính nguyên bản của nó chưa? Hay nó chỉ là những hình ảnh được dùng xảo thuật cắt xén, lắp ghép để vu vạ?

Khoản 1 Điều 64 BLTTHS quy định: “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án”. 2 đĩa hình ghi trong Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 720/2008/HSST-QĐ của Tòa Án quận Đống Đa đã không được thu thập đúng quy định nhưng Tòa Án quận Đống Đa coi đó là “vật chứng cần đưa ra xem xét tại phiên tòa” là trái với khoản 1 Điều 64 BLTTHS. Vì vậy, 2 đĩa hình đó không phải là vật chứng.

Tất cả những khuất tất kể trên không được làm sáng tỏ tại phiên tòa này bắt buộc tôi phải nghĩ rằng vụ án này chỉ là một âm mưu từ phía nhà cầm quyền nhằm trả thù những người dám phản kháng đối với sai trái của chính quyền.

b-Những kẻ phạm tội thật sự đã không bị truy tố:

Điều đáng chú ý là khi những giáo dân cầu nguyện ôn hòa bị khởi tố vào các ngày 05/9, 09/9, 17/9/2008; thì trong khi đó, đêm 31/8/2008 có kẻ đã cố ý lẫn vào đám đông giáo dân đang cầu nguyện để xịt hơi cay gây náo loạn, đánh người già, trẻ em đổ máu; đêm 18 rạng 19/9/2008 có kẻ đã cố ý lợi dụng lúc tối trời hất mắm tôm trộn nhớt thải lên bàn thờ và tượng Đức Mẹ… (có hình ảnh rõ ràng). Gần đây nhất là đêm 15 rạng 16/11/2008, một nhóm người tự xưng là “thứ dân bức xúc”, chẳng hiểu “bức xúc” chuyện gì, mà nửa đêm xông vào nhà thờ Thái Hà đòi đập đền Thánh Giêrađô, họ hô hào và tự đuổi nhau, họ lao vào trong khuôn viên nhà thờ, giáo dân đã nhìn thấy những vị chính quyền phường Quang Trung và lực lượng Công an mặc cảnh phục lẫn thường phục cũng có mặt trong đám đông lộn xộn này.

Những hành vi xịt hơi cay, đổ mắm tôm vào chốn linh thiêng của người có đạo, đánh đập người già, trẻ em không có khả năng tự vệ, làm náo loạn bên trong khuôn viên nhà thờ khi mọi người đang cầu nguyện, đòi đập phá đền Thánh…, xét về mặt tinh thần đó là hành vi hết sức vô đạo đức, mất hết tính người; xét về mặt pháp luật là hành vi hết sức lưu manh côn đồ, đáng bị khởi tố tội gây rối TTCC hay cố ý gây thương tích thì cơ quan điều tra quận Đống Đa lại im lặng, cho đến nay chưa có vụ án hay bị can nào thực hiện hành vi đó bị khởi tố cả; làm cho dư luận nghi ngờ rằng chính quyền quận Đống Đa đồng lõa, bao che cho nhóm côn đồ, lưu manh; rằng chính quyền lạm dụng quyền lực để trả thù những giáo dân tay không tấc sắt chỉ vì họ dám phơi bày cái sai trái của chính quyền và quyết tâm đòi hỏi sự công bằng?

Tôi hy vọng rằng sau phiên tòa này, cơ quan tố tụng quận Đống Đa cũng nên khởi tố, truy tố, xét xử những kẻ côn đồ nói trên để trả lại niềm tin của nhân dân đối với chính quyền.

c- Việc đưa ông Ngô Quang Kiệt-Tổng Giám mục Giáo phận Hà Nội vào trong Cáo trạng là không cần thiết, không liên quan và hết sức vô duyên.

Cáo trạng nêu: “Do bức xúc, phẫn nộ trước những hành vi vi phạm pháp luật của Linh mục và giáo dân tại giáo xứ Thái Hà, đặt biệt là sau khi nghe những lời phát biểu của Tổng giám mục Hà Nội Ngô Quang Kiệt phát biểu tại buổi làm việc với UBND Tp. Hà Nội vào ngày 20/09/2008.”

Tôi thấy cần thiết phải nhắc lại nguyên văn câu nói của Tổng giám mục Hà Nội Ngô Quang Kiệt. Ngài nói như sau: “Do đó, chúng tôi xin nhắc lại, chúng tôi rất mong muốn xây dựng một khối đại đoàn kết dân tộc. Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam, đi đâu cũng bị soi xét, chúng tôi buồn lắm chứ, chúng tôi mong muốn đất nước mình mạnh lên. Làm sao như một anh Nhật nó cầm cái hộ chiếu là đi qua tất cả mọi nơi, không ai xem xét gì cả. Anh Hàn Quốc bây giờ cũng thế. Còn người Việt Nam chúng ta thì tôi cũng mong đất nước lớn mạnh lắm và làm sao thật sự đoàn kết, thật sự tốt đẹp, để cho đất nước chúng ta mạnh, đi đâu chúng ta cũng được kính trọng.

Với câu nói nêu trên mà những kẻ quá khích tấn công vào cổng sau nhà thờ Thái Hà thì lẽ ra cần phải nghiêm trị. Mặt khác tôi thấy lời phát biều của Ngài không có mối liên hệ nào đến vụ án được xét xử ngày hôm nay.

d- Truy tố người vô tội để biện minh với dư luận

Toàn bộ bản Kết luận điều tra và Cáo trạng từ đầu chí cuối, thay vì đi sâu vào nội dung chi tiết chứng minh được hành vi của bị cáo phạm tội như thế nào thì lại kể lể lê thê, dài dòng về hành động của đám đông- tức những cá nhân-công dân khác-không phải bị cáo, với phương pháp trình bày và hàng loạt lập luận nhằm để lý giải về cách hành xử của chính quyền với dư luận, hơn là để cáo buộc bà Nguyễn Thị Việt và các bị cáo khác.

Ví dụ: đoạn nói về những phụ nữ Mường hay đoạn nói về phát biểu của Tổng Giám mục Ngô Quang Kiệt (sau khi các nạn nhân đã bị khởi tố) chẳng liên quan gì đến hành vi bị Cáo trạng coi là phạm tội và cũng không liên quan đến các bị cáo đang có mặt trong phiên tòa hôm nay.

Việc cơ quan tố tụng quận Đống Đa nhiều lần thay đổi tội danh của các bị cáo cho thấy rằng tự bản thân cơ quan tố tụng đã có sự lấn cấn, phân vân về việc làm cách nào để buộc tội các bị cáo cho bằng được.

Kính thưa các Linh mục và toàn thể giáo dân!

Việc một số cơ quan Nhà nước đã cố tình vi phạm pháp luật, không tôn trọng sự thật khách quan, không tôn trọng những chứng cứ pháp lý, thiếu công tâm trong quá trình giải quyết vấn đề đất đai, tài sản của Giáo xứ Thái Hà, đã gây bất bình rất lớn trong lòng giáo dân. Lẽ ra chính quyền Thành phố Hà Nội phải nhận thấy rõ điều đó và nhanh chóng sửa sai, trả lại công bằng cho người dân; đằng này lại cố tình lạm dụng quyền lực, dùng mọi thủ đoạn để đối phó với dân, kể cả vu vạ, dựng đứng sự việc, nhằm mục đích đè bẹp mọi tiếng nói từ lương tri con người, dung túng kẻ phạm tội thật sự, nhường chổ cho bóng tối và tội ác hoành hành, thách thức lòng tin.

Bà Nguyễn Thị Việt là một con người có lòng tự trọng, có niềm tin vào lẽ phải và Thiên Chúa, thì không lý do gì khi cầu nguyện cho sự công bằng, lẽ phải bà lại tự cho mình là có tội và phải hèn nhát “nhận tội” để cầu xin ân huệ từ phía những người không biết tôn trọng lẽ phải. Vì vậy, bà Nguyễn Thị Việt đã không “nhận tội” cũng không có gì lạ.

Từ các chứng cứ và lập luận ở phần trên, tôi đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bà Nguyễn Thị Việt không phạm tội “gây rối trật tự công cộng” và “hủy hoại tài sản”.

Xin cảm ơn mọi người đã chú ý lắng nghe tôi trình bày!

Ls Lê Trần Luật

Mục lục

 

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO

Bài Chia sẻ trong thánh lễ Tạ Ơn Đức Tân Giám Mục Phụ Tá Hà Nội

 

Trọng kính Đức Tổng Giuse, Kính thưa Đức Cha Lorenso,

 

 Kính thưa Quý Cha, quý Tu sĩ Nam nữ, quý gia đình Đức Tân Giám mục

 

 Quý Ông bà anh chị em rất thân mến.

 

 Hôm nay, ngày đặc biệt với Nhà thờ Chính tòa Hà-Nội, ngày của sự gặp gỡ trong Đức Tin và Tình mến với Chúa, với Giáo hội, với Giáo phận Hà-Nội và với nhau, khi chúng ta cùng Đức Tân Giám mục Phụ tá Lorenso dâng lời Tạ Ơn Chúa, vì qua Giáo hội, Chúa đã mời gọi Ngài trở nên Đấng kế vị các Tông đồ, người cộng tác với Đức Tổng Giuse trong sứ mạng Phục vụ Tin Mừng và Tình yêu Chúa tại Tổng Giáo phận Hà-Nội.

 

Đức Tân Giám mục mời con chia sẻ trong Thánh lễ này, xin hướng Cộng đồng Dân Chúa vào chính Phẩm phục của Giám mục để nói lên Ơn gọi và Sứ mệnh của các Ngài nơi Giáo hội và thế giới hôm nay. Nhìn vào Đức Giám mục, chúng ta thấy Ngài mang Nhẫn, Mũ và Gậy, có người nói vui: Giám mục là những người thật đặc biệt: vào nhà mà vẫn đội Mũ, còn trẻ mà đã phải chống Gậy, đi tu không lập gia đình mà vẫn đeo Nhẫn thật lớn…”. Nhưng ở đây chiếc Nhẫn biểu hiện cho Đức Tin, Mũ biểu hiện sự Thánh Thiện và Gậy là lời mời gọi Phục vụ.

 

 *Chiếc Nhẫn, dấu chỉ của Đức Tin (Giảng Dạy):

 

 Khi Đức Giám mục Chủ phong xỏ Nhẫn vào tay Đức Tân Giám mục, Ngài nói: “Hiền đệ hãy lãnh nhận chiếc nhẫn, ấn tín của đức tin: với đức tin nguyên tuyền làm trang sức, Hiền đệ hãy giữ gìn vị Hiền Thê của Thiên Chúa là Hội Thánh được vẹn toàn”. Lời nói thật cảm động và ý nghĩa cho đời Giám mục, từ nay chiếc Nhẫn luôn đồng hành với Ngài và nhắc nhở Ngài là đại diện của Chúa Kitô, là Hôn Phu kết hôn với Giáo hội là Hiền thê với lời thề hứa luôn trung tín. Ngày xưa, vua chúa dùng chiếc Nhẫn như con dấu là ấn tín của thời đại và dòng họ. Còn Giám mục, chiếc Nhẫn lại trở nên Ấn tín của Đức Tin. Hình ảnh Thánh Phê rô đã từng xin cùng Chúa Giêsu: “Xin Thày ban thêm Đức Tin cho chúng con” đã nhắc nhở các vị Mục tử với chiếc Nhẫn đồng hành trên tay, chỉ có thể là Ấn tín Đức Tin khi luôn biết kín múc suối nguồn Đức Tin nguyên tuyền từ Đức Kitô, để Tin, để gìn giữ cho Đức Tin của chính mình, và chăm sóc phát triển đức tin đó cho đoàn chiên được Giáo hội ủy thác. Như vậy, chiếc Nhẫn đã trở nên dấu chỉ mang hai ý nghĩa của đời Giám mục: dấu chỉ Đức Tin nơi đời sống bản thân mình với Chúa, với Giáo hội nơi ơn gọi Đấng kế vị các Tông đồ; và dấu chỉ Đức Tin để giảng dạy, sẻ chia, gìn giữ nơi Giáo hội Chúa Kitô. Chiếc nhẫn còn là dấu chỉ cho sự trung tín với Dân Chúa mà mình đã kết ước, là trang sức của đức tin nguyên tuyền với Hiền thê là Hội Thánh. Trong Tông huấn “Pastores Gresis về Giám mục” của Hậu Thượng Hội đồng Giám mục, Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II đã mời gọi:“mọi hoạt động của Giám mục phải nhằm mục đích Công bố Tin Mừng là sức mạnh của Thiên Chúa dùng để cứu độ bất cứ ai có lòng tin. Nhiệm vụ chủ yếu của Ngài là giúp Dân Chúa vâng phục lời Mạc khải bằng sự vâng phục của Đức Tin, và hoàn toàn gắn bó vói giáo huấn của Đức Kitô... Nếu không chu toàn điều đó, chúng ta không còn là chính mình nữa. Chính bằng chứng tá đức tin mà đời sống chúng ta trở thành dấu chỉ hữu hình của Đức Ki tô trong các cộng đồng của chúng ta” (PG.31)

 

 *Chiếc Mũ, dấu chỉ của Thánh Thiện (Thánh Hóa):

Trong nghi thức Tấn phong, khi đội Mũ cho vị Tân chức, Đức Giám mục chủ phong nói: “Hiền đệ hãy lãnh nhận chiếc mũ này và làm cho ánh sáng thánh thiện rực lên nơi Hiền đệ, để khi vị Thủ lãnh các mục tử xuất hiện, Hiền đệ xứng đáng lãnh nhận triều thiên vinh quang xuất hiện”. Hình ảnh chiếc mũ Giám mục gợi cho chúng ta vương miện của các vị Vua chúa, nhưng ý nghĩa và lời mời gọi thật sâu sa và mạnh mẽ: chiếc Mũ là dấu chỉ làm cho ánh sáng thánh thiện rực lên trong cuộc đời vị Mục tử. Mang trên đầu mình một dấu chỉ mời gọi hướng tới sự Thánh thiện của Ơn gọi và Sứ mệnh Thánh hóa của Giám mục. Trong Tông Huấn về Giám mục có viết: Hình ảnh trong Kinh Thánh đặc biệt thích hợp để soi sáng khuôn mặt của Giám mục như là người bạn của Thiên Chúa, người mục tử và người hướng dẫn dân Người. Giám mục chỉ có thể sống như một người cha, người anh em và người bạn giữa anh em mình khi Ngài đi vào trong đám mây thâm u và rực sáng của mầu nhiệm Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Được chiếu sáng bởi Chúa Ba Ngôi, ngài sẽ là dấu chỉ lòng từ bi thương xót của Chúa Cha, hình ảnh lòng mến sống động của Chúa Con, và là con người trong sáng cho Thánh Thần, được thánh hiến và sai đi để dắt dân Chúa trên những nẻo đường thời đại, trong cuộc lữ hành về nơi vĩnh cửu”(P.G,12). Muốn vậy, Giám mục phải lấy lời của Thánh Gregorio thành Nazian làm kim chỉ nam cho ơn gọi của mình: “Trước hết tự thanh tẩy, sau đó mới thanh tẩy; trước hết để cho sự khôn ngoan dạy dỗ mình, sau đó mới dạy dỗ; trước hết trở thành ánh sáng, sau đó mới soi sáng; trước hết đến gần Thiên Chúa, sau đó mới dẫn đưa người khác đến; trước hết nên Thánh, sau đó mới thánh hóa”. Những ý nghĩa trên cho chúng ta thấy gánh nặng của ơn gọi và sứ mạng, chiếc Mũ là dấu chỉ của sự Thánh thiện nhưng còn là sự cậy trông của cá nhân Giám mục vào Ơn Thánh. Là con người, ai cũng cảm thấy bất xứng trước Tôn Nhan Chúa, càng nhận lãnh trách nhiệm cao càng thấy mình bất xứng càng phải cậy trông Ơn Chúa hơn là sức riêng mình; chiếc Mũ với Giám mục đã trở thành dấu chỉ của Niềm Cậy Trông.

 

 *Chiếc Gậy, dấu chỉ của sự Phục Vụ (Quản Trị):

 

 Khi trao Gậy cho vị Tân chức, Đức Giám mục chủ phong nói: “Hiền đệ hãy lãnh nhận chiếc gậy, dấu hiệu nhiệm vụ chủ chăn, và hãy chú ý đến toàn thể đoàn chiên, nơi đó Chúa Thánh Thần đã đặt Hiền đệ làm Giám mục cai trị Hội Thánh Chúa”.

 

 Trong lúc sai các môn đệ ra đi Rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu từng mời gọi các Ông: “không tiền bạc, không bao bị, không giầy dép, không mặc hai áo, chỉ có chiếc gậy lên đường…”. Chiếc Gậy là dấu chỉ của Ơn Thánh Chúa, của Niềm tin và Tình Thầy đã trở nên sự dựa cậy của sức mạnh cho các môn đệ đi vào giữa thử thách của thế giới. Cầm gậy mục tử là nhận một sứ mệnh được ủy thác, dù là Giám mục Phụ tá không được ủy thác một Giáo phận tại Việtnam (chỉ là Giáo phận hiệu tòa), mà là giúp đỡ Đức Giám mục Chính tòa. Nhưng Chiếc gậy được trao trong lễ Tấn phong đã nhắc nhở các Ngài chu toàn sứ mệnh để Phục vụ trong Tin tưởng và Yêu mến. Lời mời gọi của Chúa Giêsu Ki tô:”Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người: (Mc 10, 42-45). Với những lời này, các Đức Giám mục được mời gọi quản trị với tâm hồn của một tôi tớ khiêm hạ và một chủ chăn tận tình, ngài hướng dẫn đoàn chiên của mình trong khi đi tìm Vinh Danh Thiên Chúa và phần rỗi các linh hồn”; vì thế, hình ảnh vị Mục tử cầm chiếc gậy dẫn dắt Dân Chúa trên đường lữ hành về Nhà Cha thật ý nghĩa.

 

Khẩu hiệu của Đức Tân Giám mục là “Phục vụ trong Đức Ái” đã là một sự chọn lựa, một hướng đi cho đời Giám mục của Ngài, với tâm tình của Đức Tân Giám mục thì lịch sử Cứu Độ, lịch sử Dân Chúa, và lịch sử Thế giới là TÌNH YÊU, thì đời người chính là trường học của Tình Yêu thương, đặc biệt Đức Giám mục được mời gọi thể hiện tình yêu thương đến tận cùng như Thầy đã yêu: Không có tình yêu nào lớn hơn Tình yêu của Người hiến mạng sống cho người mình yêu”. Chính tình yêu mục tử Giêsu sẽ là sức mạnh cho sự Nên Thánh của ơn gọi Phục vụ trong Đức Ái của Giám mục.

 

 Kính thưa Đức Cha Lorenso rất quý mến,

 

 Sau ngày Tòa Thánh công bố con được Đức Thánh Cha Benedicto XVI chọn làm Giám mục Giáo phận Lạng sơn-Cao bằng. Đức Tổng Giuse đã có lần nói với con: Đức Cha đừng quá lo lắng, vì Chúa sẽ ban ơn bổn phận, rồi Đức Cha sẽ cảm nhận rằng, từ nay không còn thời gian sống cho riêng mình nữa, mà là cuộc sống trọn vẹn cho Dân Chúa. Con đã thấy rõ điều đó, cuộc đời là lời Tạ Ơn như một tấm bánh luôn bẻ ra để CHO, nhưng đồng thời cũng cảm nhận Thánh Ân thật rõ ràng để NHẬN: để thấy Ơn gọi và Sứ mệnh Giám mục là đan xen Hạnh phúc và Gánh nặng; Hồng Ân và Trách Nhiệm; Ơn Ban và Hy sinh với sự dâng hiến liên lỉ. Chắc chắn Đức Cha cũng cảm nhận điều đó trong cuộc sống Tông đồ của mình, và đó cũng chính là con đường mà chúng ta đã chọn theo tiếng gọi của Chúa Giêsu Kitô: “HÃY THEO THẦY”.

 

 Xin cho Dân Chúa luôn nhận ra Nhẫn là dấu chỉ của Đức Tin nơi quyền Giảng dạy; Mũ là dấu chỉ của sự Thánh Thiện, với Đức Cậy nơi quyền Thánh Hóa; và Gậy là dấu chỉ của Đức Mến với sự Phục vụ nơi quyền Quản Trị mà Đức Cha thực hiện. Kính chúc Đức Cha tràn đầy Thánh Ân, can đảm lên đường với Chúa Giêsu Kitô, Người Mục tử Nhân Hiền. AMEN.

 

Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân

Giám mục Lạng Sơn – Cao Bằng

Mục lục

Gioan Tiền Hô, giáo lý viên mẫu mực

Tin Mừng Chúa Nhật thứ 3 Mùa Vọng dường như muốn nhấn mạnh sứ mệnh rao giảng Tin Mừng, cách riêng trong lãnh vực giảng dạy giáo lý. Khi nói đến việc rao giảng, người ta hay nghĩ đến sứ mệnh của các vị đã lãnh nhận thánh chức, nhưng riêng nói đến việc giảng dạy giáo lý thì không người tín hữu nào, dù là tân tòng, có quyền nói rằng “đấy không phải là lãnh vực của tôi”. Vậy thì, Chúa Giêsu muốn chúng ta rao giảng giáo lý như thế nào?

Khi Chúa Giêsu giới thiệu cho dân chúng về Gioan Tiền Hô, Người dùng Lời Thánh Kinh: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến”. Vai trò ngôn sứ, vai trò người nói về Chúa Giêsu được diễn tả rõ nét qua câu Thánh Kinh súc tích này. Người rao giảng Lời chính là người dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Trả lời câu hỏi “dạy giáo lý là dạy điều gì?”, ai cũng có thể trả lời: đó chính là dạy… môn giáo lý! Là nói những điều trong sách giáo lý có ghi sẵn. Nhưng không thể chỉ dạy cho người khác một cách đơn giản như thế. Nếu chỉ có thế thì các em học viên giáo lý về mở sách ra học mỗi ngày là cũng đủ rồi. Thật ra, dạy giáo lý trước hết là dạy cho các em về Thiên Chúa và Lời của Ngài, là chính Đức Kytô và được rao giảng bởi Đức Kytô. Thứ hai là đào luyện các đức tính nhân bản, nhất là các nhân đức và giúp các em sống theo Đức Kytô là con đường sống thật cho mọi người. Thứ ba là giúp các em cảm nhận đời sống cộng đoàn, gắn bó với Hội Thánh, Nhiệm Thể Chúa Kytô, và là đoàn lữ hành đang tiến về Nước Trời. Nếu nói tóm lại trong một câu, thì dạy giáo lý chính là rao giảng về Đức Kytô. Rao giảng để làm gì? Thưa là để dọn đường cho Chúa đến trong tâm hồn người nghe. Gioan Tiền Hô đã nêu một tấm gương và dạy mấy lời vắn tắt và đầy đủ về sứ mệnh này.

Tấm gương của “giáo lý viên” Gioan Tiền Hô chính là “giảng dạy bằng chứng minh”. Giáo lý không phải là toán học, nhưng giáo lý là một khoa học thánh. Khoa học này không đòi những chứng minh định lý như toán học, nhưng đòi chứng minh bằng thực nghiệm, bằng chính những cảm nghiệm sâu xa và đời sống gắn bó với Đấng mà người ta rao giảng. Khi Gioan Tiền Hô muốn nói về Giêsu, ông không dùng lời của mình, nhưng ông sai các môn đệ của ông đến với Đức Giêsu. Họ nghe chính Đức Giêsu nói, họ chứng kiến chính việc Đức Giêsu làm, và hơn hết, họ được nâng đỡ niềm tin do sức sống mà chính Đấng Cứu Thế thổi vào tâm hồn họ. Thế là họ ra đi. Và họ lại rao giảng. Giáo lý viên phải là như thế, phải nói với các em bằng chính Lời Đức Giêsu, đẩy vào lòng các em chiếc xa giá mà Chúa đã dùng để lướt qua các tầng trời mà ngự xuống. Còn nếu chỉ nói hời hợt kiểu hỏi thưa cho thuộc lòng vài câu chữ thì chưa phải là giảng dạy giáo lý thật sự.

Điều thứ hai mà giáo lý viên học được nơi Gioan Tiền Hô chính là đời sống chứng nhân. “Sống điều con dạy” là một đòi buộc của Tin Mừng. Giáo lý viên có thể bị hiểu lầm, bị nói xấu, nhưng chính tự trong lòng mình, giáo lý viên phải là người muốn chứng minh điều mình rao giảng bằng chính con người và cuộc đời mình, ngay cả nếu cần thì chấp nhận cái chết để làm chứng cho Đức Giêsu. Gioan Tiền Hô chấp nhận chết dưới tay bạo chúa Hêrôđê, để nói lên lời chân lý. Mới đây, tám anh chị em giáo dân Thái Hà chấp nhận phải “vác thánh giá lên đồi Calvê với Đức Giêsu”. Từ ngữ “vác thánh giá lên đồi” thường được hiểu theo nghĩa bóng. Nhưng Chúa Thánh Thần hoạt động tuyệt vời quá, để các vị “chuẩn tử đạo ở Thái hà” đi với Đức Giêsu và Mẹ Maria lên đồi Calvê hiểu theo nghĩa đen của từng câu chữ: Thánh Giá trên ngực, có Mẹ trên ngực, leo lên tầng cao, ở đó họ chịu phán xét. Và không một lời nói về Đức Giêsu, họ vẫn chứng minh hùng hồn cho toàn thể nhân loại hôm nay rằng: Đức Giêsu là Chúa. Tôi nghe các bài giảng của Cha Giám Tỉnh Phạm Trung Thành, Cha Vũ Khởi Phụng, Cha Lê Quang Uy, đọc bài của Cha Nguyễn Văn Khải, nhìn gương mặt rạng rỡ của Cha Phụng và các Cha DCCT Thái hà bên cạnh hình ảnh Mẹ yêu thương, tôi chợt hiểu rằng Gioan Tiền Hô không phải chỉ là một con người, mà còn là một niềm tin, một sứ mệnh, một cộng đoàn và là một lời mời lên đường, nói cho thế giới này rằng “Chúa Giêsu đang đến, cùng với Mẹ Vô Nhiễm của Người”.

Điều thứ ba, Gioan Tiền Hô không những rao giảng Đức Kytô là ai, mà còn dạy cho con người biết cách đón Đấng ấy. Gioan Tiền Hô dùng chính lời Thánh Kinh để bảo con người dẹp hết mọi chướng ngại trên đường đi, lấp hố sâu, bạt núi đồi, uốn chỗ cong, san chỗ gồ ghề. Người lãnh sứ mệnh giảng giáo lý cũng vậy. Trước hết họ cũng phải tự san bằng mọi trở ngại trong chính tâm hồn và cuộc đời của họ, để họ có thể giúp người khác dọn đường cho thích hợp. Dĩ nhiên Thiên Chúa quyền năng có con đường riêng của Ngài, và nếu Ngài đã muốn đi thì cho dù ngàn trùng sông núi hay hố đen của vũ trụ cũng không cản nổi bước chân Ngài. Nhưng vì Ngài tôn trọng con người, những nhân vị và phẩm giá với đầy đủ tự do quyết định cuộc đời mình, Ngài muốn con người tự mở lòng mình ra trước hồng ân của Ngài. Do đó, vai trò của giáo lý viên không cgỉ là mở đường, mà còn phải giúp người khác ý thức tầm quan trọng của việc sử dụng tự do mà Thiên Chúa ban để mưu ích cho cuộc đời mình.

Còn một điều nữa, giáo lý viên trước hết phải học với Đức Giêsu mỗi ngày để có đủ kiến thức, đủ nghị lực và đủ khôn ngoan để rao giảng. Những câu mở đầu của chương 11 Tin Mừng Matthêu nói về việc rao giảng, câu kết của chương 11 không phải vô tình mà lại là lời mời gọi đầy yêu thương của Đức Giêsu dành cho những kẻ chọn lối bước theo chân Người. "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của Ta, và hãy học với Ta, vì Ta có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách Ta êm ái, và gánh Ta nhẹ nhàng." (Mt.11,28-30). Chính nhờ mang lấy ách của Đức Kytô và học với Đức Kytô mà những người lãnh sứ mệnh rao giảng Lời Người không còn sợ bất cứ thế lực trần thế nào. Muốn học với Đức Kytô, chúng ta chỉ cần lăn xả vào Người, ôm lấy chân Người, và cùng Mẹ Maria, chúng ta “làm theo những gì Người bảo”.

Những ngày cuối năm, giáo lý viên nhiều giáo xứ, nhiều giáo phận có những hoạt động đặc biệt, như tĩnh tâm, tĩnh huấn, học hỏi thêm về Thánh Kinh và sư phạm giáo lý… Ước chi tất cả anh chị em giáo lý viên chúng ta thấm nhuần tinh thần của Đức Giêsu Kytô, Đấng mà chúng ta nhiệt tâm rao giảng. Chúng ta cùng cầu xin Người, nhờ Mẹ Thánh Người nâng đỡ và Thánh Gioan Tiền Hô làm gương sáng, xin Người chúc lành cho những dự tính của chúng ta, những dự tính làm mọi cách để Người được vinh quang hơn và làm cho các tâm hồn sẵn sàng đón Người.

Gioan Lê Quang Vinh

Mục lục

Cuộc Trắc Nghiệm Tư Cách “Tiền Hô”

"Hồn chúng con như chim non thoát khỏi lưới càn của người thợ săn" (Tv 123,7)

“Con người thời nay tin vào các chứng nhân hơn là các thầy dạy; tin vào kinh nghiệm hơn là đạo lý; tin vào đời sống và các sự kiện hơn là các lý thuyết. Hình thức đầu tiên của việc truyền giáo là chứng tá đời sống Ki-tô hữu; hình thức này là điều không thể thay thế được.” (Sứ Vụ Đấng Cứu Thế, ĐGH Gioan-Phaolô II)

Vụ nhân viên sứ quán Việt-Nam buôn bán sừng tê giác, vụ nhận hối lộ dự án Đông Tây của quan chức chính phủ, đã làm cho cả đất nước VN ê mặt và bị dân Nhật bắt ngưng khoản viện trợ ODA. Bôi tro trát trấu. Những người vốn không có tư cách đạo đức, chỉ biết lợi dụng chức quyền để bòn rút,lợi dụng cho đầy túi với mong ước là “hạ cánh” an toàn để ngày tháng hưu dưỡng tha hồ hưởng thụ, thì chẳng bao giờ có tư cách đại diện cho ai, chứ đừng nói là đại diện cho một quốc gia. Quýt làm cam chịu: người dân Việt đi đến đâu cũng bị hạch sách, coi khinh. Rồi những kẻ chỉ bước ra khỏi cánh cửa phòng xử án, đã vội bẻ cong ngòi bút, bóp méo sự thật như trong vụ tám giáo dân cách đây mới mấy hôm, có thể dám vênh váo trơ trẻn cho mình là tiếng nói của dân, ư? Những hạng người nầy, dù một chút liêm sĩ cũng không có, thì nói gì đến tư cách đại diện!

Dù kết quả không đúng như nhiều cử tri Mỹ mong muốn, hoặc sự việc hơi quá đà với vụ biểu tình kéo dài cả nửa năm ở Thái Lan, thì việc lần đầu trong lịch sử Hoa Kỳ một người da màu đắc cử tổng thống và có đến hai vị thủ tướng Thái Lan phải từ chức, cũng cho thấy quyền tự do chọn lựa của người dân được tôn trọng và những nhà lãnh đạo phải vượt qua được thử thách, thẩm tra năng lực, lý lịch của người dân, thì mới được chọn hoặc chấp nhận. Khác hoặc ngược ý dân, sẽ bị loại bỏ. Đây không phải là trò chơi chính trị theo kiểu nước Nga, và nhất là các nước dưới chế độ độc tài, chỉ có quyền được tán thành những gì đã sắp sẵn do mưu mánh hoặc chuyên quyền. Trong tuần vừa qua, chúng ta đã thấy hình ảnh một Gioan Tẩy Giả làm tổng chỉ huy cho “cuộc diễn tập mang tên Tiền Hô”, bảo đảm với mọi người về căn tính thiên giới và cứu tinh của Chúa Giêsu. Người ta vẫn chưa biết nhiều về tư cách “Tiền Hô” của Ông. Hôm nay, nhân dân thẩm tra tư cách ấy của Ông. Vì thế, dù là vì tò mò, dù xuất phát từ ác ý hoặc thực sự muốn biết rõ chân tướng của người vốn nỗi danh từ thuở chưa lọt lòng mẹ nầy, thì “thực vàng không sợ lửa”: Gioan không dấu diếm thân phận hoặc đề cao vai trò của mình. Hơn nữa, Ngài lợi dụng dịp tốt nầy để giới thiệu danh tính và lý lịch của Chiên Thiên Chúa, Đấng Kitô, Vị Thiên Sai. Hãy xem qua những nội dung của cuộc trắc nghiệm tư cách “Tiền Hô” nầy:

Gioan không phải là ánh sáng, mà chỉ làm chứng cho ánh sáng: người ta nhớ lại nhà điêu khắc Michel Ange khi ông tạc tượng Môsê ôm trong lòng hai tấm bia ghi 10 Điều Răn cho Thiên Chúa ban. Trên đầu [tượng] Môsê là hai cái “sừng ánh sáng” . Bức tượng điêu khắc thành công đến nỗi chính Michel Ange sững sờ và hô to lên như thể đang nói với một Môsê còn sống: “Hãy nói đi, Ông Môsê” (Parle, Moise). Kinh Thánh ghi rõ chi tiết nầy: khi Môsê từ trên núi xuống dân chúng phải lấy tay áo che mắt, vì Môsê sáng rực. Chỉ mới được ở gần ánh sáng thiên nhan, mà Môsê đã rực sáng như thế! Không lạ gì những người làm nhiệm vụ “tiền hô”, rao giảng về Chúa, cũng được hưởng ánh hào quang biết chừng nào. Nói khác đi, dấu hiệu để nhận ra những người dấn thân làm việc “tiền hô”, là “có ánh sáng toả ra”, khiến chỉ nhìn bề ngoài ấy, người ta có thể nhầm lẫn với Nguồn Ánh Sáng thật. Gioan “môn đệ” đã xác định rõ: Gioan “Thầy” chỉ là người làm chứng cho Ánh Sáng.

Nhóm Tư tế và Lê-vi hiểu rõ và không nghi ngờ về xuất thân và đạo đức của Gioan Tẩy Gỉa, nhưng họ muốn biết thẩm quyền của Gioan ở mức độ nào. Họ không đem các tiên tri “nhỏ” hay “vừa” ra đối chiếu, mà đặt luôn “tượng đài” Êlia ra với Gioan Tẩy Giả. Theo cách nói của các phim cổ trang, những người như Êlia được gọi là “ dưới một người, trên muôn người”, vì trong tâm trí người Do Thái, trong hàng ngũ tiên tri, Êlia chỉ “dưới” Thiên Chúa, nhưng “lớn” hơn mọi tiên tri. Gioan trả lời chẳng chút do dự: Ngài không phải là Êlia, không có nhiệm vụ như của Êlia. Trong suốt Cựu Ước, không có tiên tri nào giống nhau cả, vì Thiên Chúa giao cho mỗi người một sứ mệnh theo mỗi thời, như ý Thiên Chúa muốn nói với dân. Nếu ai hỏi tiên tri Ôsê, tiên tri Giêrêmia,… cũng sẽ nhận được câu trả lời tương tự. Điều đó cũng đúng cho mỗi Kitô hữu: Chúa không giao cho ai sứ mệnh hoàn toàn giống nhau. Chúng ta chỉ có thể học nơi nhau phương pháp, tinh thần truyền giáo, chứ không thể rập khuôn, vì như thế không thể đáp ứng đòi hỏi của sứ mệnh Chúa giao cho. Thánh Gioan Tẩy Giả không thể là “sosie” của Êlia và ngược lại. Chúng ta cũng không bao giờ là “sosie”(nhân vật giống hệt) của những vị tông đồ nỗi danh như Thánh Phaolô, như Thánh Phanxicô Xaviê, như Thánh Nữ Tiến Sĩ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, v...v…Chúa cũng không bao giờ muốn ta chỉ là “cái bóng” của bất cứ vị thánh nào.

Đến lượt người Biệt phái “hạch sách” về tính chất của phép rửa Thánh Gioan làm, cũng có nghĩa là muốn truy nguyên quyền lực cho phép Ngài thực hiện việc rửa tội nầy; cách mà ít lâu nữa họ sẽ làm đối với Chúa Giêsu, vừa theo kiểu “ghen ăn, tức ở”, vừa để vớt vát phần nào uy tín ngày càng bị sứt mẻ của họ. Lý lẽ trần tục xưa nay từng giúp họ “chiến thắng”, đè nén, đe doạ, áp chế người dân, làm cho họ trở thành một giai cấp ăn trên ngồi trốc, nay với Gioan Tẩy Giả (và ít nữa với Chúa Giêsu) bị sụp đổ tan tành. Chắc chắn những người Biệt-Phái không thoả mãn với câu trả lời của Thánh Gioan Tẩy Giả và họ sẽ bám dai dẳng để bắt bí và hành hạ Ngài mãi, nếu như đã không xuất hiện “cái đinh”,- hiểu cả theo nghĩa nhân vật nỗi trội và cả cái vật nhọn làm họ nhức nhối khi đã dẫm lên - Chúa Giêsu, người mà Gioan giới thiệu với thái độ vô cùng tôn kính, sùng bái!

Một thành xây trên núi không thể dấu được” (Mt 5,14). Vì thế dù muốn hay không, Giáo Hội trở thành cái bia để người ta nhắm vào công kích, bắn phá, cả với ý đồ tiêu diệt phá đổ nữa. Trong những khuôn mặt chứa chất hận thù, chống phá Giáo Hội ấy , không ít những gương mặt “quen thân”, luôn miệng tự xưng là con cái Chúa, là Kitô hữu, những chức sắn “có hạng” trong phẩm trật Hội Thánh, những nhà trí thức lớn, ưỡn ngực và mở to mắt kiêu căng, muốn vượt cả Xatan trong ý định bắt Gíao Hội phải qùy gối quy phục họ, tuân theo một mớ hiểu biết và lập luận được họ cho là duy nhất đúng với Kinh Thánh. Nhưng Giáo Hội vẫn vững vàng trước mọi phong ba. Tư cách “tiền hô” Nước Trời của Giáo Hội đã được khẳng định mãi đến tận thế.

Người ta không thắp đèn rồi đặt dưới đáy thùng” (Mt 5,15). Vì thế trắc nghiệm tư cách Kitô hữu không cứ ở địa vị, khả năng, thậm chí những việc đạo đức cá nhân, mà là ở hiệu quả “toả sáng” của người đó. Khác hoàn toàn với một cá nhân hoặc một bộ máy tuyên truyền ở đời, một Kitô hữu không thể có được bất cứ kết quả truyền giáo nào nếu không kết hiệp với Chúa Kitô qua các bí tich, nếu không hiệp thông trọn vẹn với Hội Thánh và tuân phục Đấng Đại Diện của người nơi trần gian. Và nên ánh sáng cho thế gian - giữ mãi ánh sáng của ngọn nến ngày rửa tội - để ai ai nhìn vào cũng nhận biết và ngợi khen Cha Trên Trời – Cha nào con nấy, - chính là tư cách một Kitô hữu được “kiểm định”.

Hãy ghi nhớ điều nầy: Chúa dùng “thế gian” - với cả những mưu toan xấu xa độc ác nhất - để trắc nghiệm tư cách Kitô hữu và “tiền hô” của mỗi môn đệ, của mỗi cộng đoàn. Mọi lúc mọi nơi! Không có ngoại lệ! Người đời - bằng đủ hình thức - sẽ đặt chúng ta dưới kính hiển vi, mổ xẻ từng phần nhỏ cuộc đời Kitô hữu, sẽ làm cho chúng ta bầm dập, trầy vi tróc vảy - không loại trừ có thể khiến ta mất mạng. Khi họ ngừng tay mà không đạp đổ hủy diệt được đức tin chúng ta, thì chúng ta đã lọt qua được trắc nghiệm tư cách “tiền hô”.

Giuse Nguyễn Thế Bài

Mục lục

Đồng hành với dân tộc?

Thư chung của HĐGM/VN năm 1980

Sau biến cố 1975, các vị lãnh đạo trong Giáo Hội Công Giáo đều kêu gọi các tín hữu bình tĩnh, chấp nhận hoàn cảnh mới, chấp nhận chế độ mới, để cùng với đồng bào cả nước xây dựng cuộc sống mới. Hai khuôn mặt nổi bật là đức cha Nguyễn Kim Điền, Tổng Giám mục Huế, và đức cha Nguyễn Văn Bình, Tổng Giám mục Sàigòn, những vị lãnh đạo theo tinh thần Công Đồng Va-ti-ca-nô II. Đức tin của các ngài, lòng yêu nước và óc thực tế của các ngài, chính là điểm tựa cho người tín hữu đang đối mặt với bao nỗi khó khăn, bao nhiêu đau khổ trong tình thế mới.

Đến Đại hội các Giám mục năm 1980, các Giám mục đã ra thư chung kêu gọi các tín hữu sống phúc âm giữa lòng dân tộc, hay đồng hành với dân tộc. Văn kiện này được xem như bản Định hướng cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam dưới chế độ cộng sản. Nếu đối với mọi người, dân tộc và chế độ là hai phạm trù khác nhau, thì riêng đối với người cộng sản, yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội, vì thế nên khi sử dụng cụm từ đồng hành với dân tộc, mỗi bên nghĩ một kiểu.

Đến cuối thập niên 80, nhất là từ khi nảy sinh xung đột giữa Nhà Nước và Giáo Hội nhân vụ phong thánh, và đặc biệt hơn nữa, đến giai đoạn Việt Nam đi vào nền kinh tế thị trường với cái đuôi theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kéo theo hậu quả là giai cấp cán bộ có chức có quyền ngày càng giàu sụ một cách bất chính trong một thời gian kỷ lục, giữa lúc đa số người dân ngày càng nghèo đi, thì cụm từ đồng hành với dân tộc đã bị bốc hơi từ lúc nào rồi. Cao điểm là vào lúc dân oan hết lớp này đến lớp khác nằm la liệt trên hè phố để đòi công lý thì Giáo Hội Công Giáo hoàn toàn im hơi lặng tiếng. Ai cũng ngạc nhiên trước thái độ thờ ơ này. Và không thiếu người mạnh mẽ chỉ trích Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.

Thư ngỏ của HĐGM/VN năm 2002

Sau mỗi Đại Hội Thường Niên, chắc chắn không thiếu những kiến nghị các Giám mục gửi lên Nhà Nước. Vì nội dung các kiến nghị đó không được thông tri cho cộng đồng dân Chúa, nên không ai biết các ý kiến đóng góp đã được tiếp nhận như thế nào, và các vấn đề yêu cầu cứu xét đã được giải quyết đến bao nhiêu phần trăm.

Tới Đại Hội 2002, HĐGM/VN đã gửi đến “Quý vị lãnh đạo các cơ quan lập pháp của Nhà Nước Việt Nam” một văn kiện đặc biệt quan trọng (xem nội dung đính kèm sau đây). Không rõ văn kiện đã được hình thành như thế nào, ai (hay những ai) là tác giả đầu tiên của bản văn, chúng ta không biết. Nhưng không sao, vì điều quan trọng là bản văn đã được HĐGM/VN chấp thuận.

Câu hỏi đặt ra là các đối tác, tức là Quốc Hội và các Hội Đồng Nhân Dân đã tiếp nhận văn kiện đó như thế nào. Có thể là đã có một hoặc một số văn thư cám ơn theo phép lịch sự. Nhưng hình như cũng chỉ bấy nhiêu thôi. Các phương tiện thông tin nằm trong tay Nhà Nước thì tuyệt đối không đả động gì đến văn kiện này, và do đó rất ít người được biết. Giá mà văn thư đó được phổ biến rộng rãi, ví dụ được đọc trong các nhà thờ thì người ta không còn lý do để chê trách lãnh đạo Công Giáo thờ ơ trước các vấn đề nhức nhối của xã hội.

Trong lá thư ngỏ nói trên, khi phản bác cơ chế xin-cho, các Giám mục không chỉ nói thay cho tập thể Công Giáo vốn chỉ chiếm từ 7 đến 8 phần trăm dân số, nhưng có thể nói là các ngài đã diễn tả được nguyện vọng sâu xa thầm kín của hơn 80 triệu người Việt Nam không phải là đảng viên cộng sản, những người dân muốn nói nhưng không nói được. Và chính vì vậy mà khi phản bác cơ chế xin-cho qua lá thư ngỏ của HĐGM/VN thì tập thể Công Giáo đã thực sự đứng về phía đại đa số người dân đang bị bóc lột, đang bị chèn ép. Có thể nói qua lá thư vô tiền khoáng hậu đó, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đã thể hiện ước muốn đồng hành với dân tộc.

Sau thư ngỏ

Khi đưa ra những ý kiến nhằm xoá giảm những khuyết tật của xã hội và phát huy những giá trị nhân bản làm cho con người ngày càng trở nên người hơn, các Giám mục đã có thái độ thẳng thắn chưa từng thấy đối với Nhà Nước. Còn việc Nhà Nước độc tài toàn trị không đếm xỉa gì đến các ý kiến xây dựng kia thì chẳng có gì phải làm ta ngạc nhiên. Điều đáng ngạc nhiên là sau văn thư nói trên, trong nhiều năm liên tiếp, ta không thấy một động thái nào khác từ phía HĐGM liên quan đến các vấn đề xã hội, ít là một cách công khai.

Cầu nguyện để đòi đất

Tuy nhiên, làm sao Giáo Hội có thể dửng dưng nhất là trong một xã hội thối nát và bất công như xã hội chúng ta đang sống? Vấn đề là bắt đầu từ chỗ nào. Đức Tổng Giám Mục Hà Nội Giu-se Ngô Quang Kiệt là người đã có sáng kiến phát động chiến dịch cầu nguyện để đòi lại thửa đất Toà Khâm Sứ cũ. Cùng lúc, phong trào được phát động mạnh mẽ tại Giáo xứ Thái Hà do các linh mục Dòng Chúa Cứu Thế đảm nhiệm. Chỉ cần một que diêm là rừng cây khô bốc lửa. Đây là một hiện tượng chưa từng xảy ra dưới chế độ cộng sản tại Việt Nam. Sự việc lại xảy ra ngay giữa lòng thủ đô, lôi kéo sự chú ý của dân Hà Nội cũng như của phóng viên nước ngoài. Điều đáng chú ý là lời mời gọi của Đức Tổng Giám Mục được đón nhận hết sức nồng nhiệt, không chỉ tại Hà Nội, mà là khắp nơi trong cả nước, đặc biệt trong khắp Giáo Tỉnh miền Bắc, đồng thời lời mời gọi đó lan toả ra nhiều nơi khác nữa ở Bắc Mỹ, nhiều nước Âu Châu và Úc Châu.

Mặc dù báo đài Nhà Nước coi như không có các sự kiện này, nhưng với công nghệ thông tin của đầu thế kỷ 21, không gì có thể che giấu được. Chính nhờ các bản tin cập nhật từng ngày và có lúc từng giờ của VietCatholic mà mọi người trên thế giới đều có thể theo dõi những gì đang diễn ra tại Toà Khâm Sứ, tại Giáo xứ Thái Hà, và tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế Sàigòn.

Mục tiêu tối hậu

Phát động một phong trào, phải bắt đầu từ một nơi nào đó, từ một việc gì đó. Giả sử vấn đề đơn giản chỉ là đòi lại một hai miếng đất của Giáo Hội Công Giáo thì người ngoài Công Giáo chẳng có lý do gì để phải quan tâm, và giải quyết vấn đề cũng không phải là chuyện khó đối với Nhà Nước. Thế nhưng ngay từ đầu, trong thánh lễ Giáng Sinh 2007 tại Nhà Thờ Lớn Hà Nội, đức cha Ngô Quang Kiệt đã minh định: muốn có hoà bình bền vững, cần thiết phải thực thi công lý. Còn tại Sàigòn, trong một thánh lễ cầu nguyện cho Hoà Bình và Công Lý với quãng 4000 người tham dự tại nhà thờ Kỳ Đồng đêm 11-01-2008, vị giảng thuyết là linh mục Vũ Khởi Phụng đã nói rõ mục tiêu (và từ đó được nhắc lại nhiều lần trong các buổi cầu nguyện tương tự): mảnh đất tuy quan trọng, nhưng quan trọng hơn nữa là mảnh đất tâm linh. Mục tiêu nhắm tới là công lý và hoà bình. Và như thế là các buổi cầu nguyện tại Toà Khâm Sứ cũ và Giáo xứ Thái Hà cũng như tại các nơi khác, đã đưa người Công Giáo đến với người nghèo, đến với dân oan mất ruộng mất vườn đang mỏi mòn đi tìm công lý. Tuy không có những lời tuyên bố công khai, cuộc đấu tranh này đã thật sự đưa cộng đồng Công Giáo đồng hành với dân tộc. Điều này càng rõ ràng hơn nữa khi Đức Tổng Giám Mục Hà Nội tuyên bố trước mặt UBND Hà Nội rằng tự do tín ngưỡng không phải là ân huệ xin-cho, nhưng là quyền. Điều này có nghĩa là việc đòi lại một vài miếng đất chỉ là khởi đầu cho tiến trình đòi nhân quyền, đòi tự do dân chủ. Khi khẳng định như thế, Đức Tổng Kiệt chỉ lặp lại nội dung của Thư Chung HĐGM/VN đã gửi Nhà Nước sau Đại Hội năm 2002 như đã nói trên đây. Điều đáng tiếc là trong văn thư trả lời Chủ tịch HĐND/Tp Hà Nội sau Đại Hội các Giám mục tại Xuân Lộc 2008 vừa qua, điểm trùng hợp quan trọng này đã không được nhắc tới.

Lửa Thái Hà tiếp tục cháy

Nay thì hai mảnh đất tranh chấp đã thành hai công viên. Nhưng ngọn lửa tranh đấu đã không vì thế mà tàn lụi. Ở trong nước cũng như ở nước ngoài, các buổi cầu nguyện cho Hoà Bình và Công Lý tại Việt Nam vẫn tiếp tục. Ở trong nước, sau Hà Nội, không nơi đâu sôi động bằng giáo phận Vinh. Lý do là ngay từ đầu, khi cùng với một nhóm linh mục đến Thái Hà hành hương, đức cha Cao Đình Thuyên, Giám mục Giáo phận Vinh đã dõng dạc tuyên bố: “Việc của Thái Hà cũng là việc của Vinh, của cả Giáo Hội Việt Nam… Do đó chúng tôi đến đây để cầu nguyện cùng anh chị em cho công lý và hoà bình…” Rồi kể từ lời tuyên bố đó, khắp nơi trong giáo phận, hết nhà thờ này đến nhà thờ khác, các tín hữu đốt nến cầu nguyện cho Công Lý và Hoà Bình. Theo bản tin của VietCatholic ngày 01-11-2008, tại nhà thờ Kẻ Gai, thuộc giáo hạt Cầu Rầm, trước giờ chầu Thánh Thể, Cha xứ đã trình chiếu lại các hình ảnh của Toà Khâm Sứ với lời phát biểu của Đức Tổng Kiệt (tại trụ sở UBND Tp. Hà Nội ngày 20-09-2008), sau đó là một số hình ảnh nơi này nơi kia trên thế giới lên án Việt Nam vi phạm tự do tôn giáo, cũng như những cuộc biểu tình phản đối Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong chuyến thăm nước Úc gần đây. Còn ở Thuận Nghĩa, làng tôi (thuộc huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An), Cha xứ đã có sáng kiến photo bài phát biểu của Đức Tổng Kiệt để các em học sinh có thể đưa cho thầy cô hay các bạn khi nghe người ta xuyên tạc lời Đức Tổng.

Kết luận

Sống trong một xã hội đầy dẫy những dối trá, những thối nát bất công, ai lại không muốn thay đổi ! Trong khi dân Mỹ vốn đa số là người da trắng, đã bầu vào chức vụ Tổng Thống kiêm Tổng Tư Lệnh một người da đen 47 tuổi, con một người Hồi Giáo, kinh nghiệm chiến trường không có, kinh nghiệm chính trường chưa nhiều, chỉ vì người dân Mỹ thấy rằng đã đến lúc phải thay đổi, chỉ vì người dân Mỹ tin vào khả năng, vào bản lĩnh của người mình chọn, và đã bầu với một đa số phiếu áp đảo. Trong khi đó tại Việt Nam ta, vốn “dân chủ gấp triệu lần so với các nước tư bản”, thì nguyên việc để cho dân bầu chức Chủ tịch xã thôi chứ chưa phải huyện hay tỉnh, mà ý tưởng mới manh nha được một hai tuần đã bị Quốc hội đánh bại. Và ai cũng biết là do chỉ đạo của đảng cộng sản. Vậy thì muốn có dân chủ, muốn có tự do (trong đó có tự do tôn giáo), chờ mong đảng cộng sản một ngày đẹp trời nào đó đi ban phát những ân huệ đó cho hơn 80 triệu người Việt Nam không thuộc đảng cộng sản, chỉ là chuyện mơ tưởng hão huyền. Đòi lại tự do, dân chủ, là trách nhiệm của mỗi người Việt Nam. Và hình như trong tình hình hiện tại, không có tập thể nào có những yếu tố thuận lợi hơn là Giáo Hội Công Giáo. Vấn đề ở chỗ: chúng ta có thực lòng muốn đồng hành với dân tộc hay không.

Sài-gòn, ngày 12 tháng 12 năm 2008

Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh, OFM

Lm Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh, OFM

Mục lục

Thư Ngỏ của Hội Đồng Gíam Mục Việt Nam, năm 2002

Kính gửi Quý vị lãnh đạo các cơ quan lập pháp của Nhà nước Việt Nam

Quốc hội và các Hội đồng Nhân dân

“Phục vụ con người là mục đích tối cao” của mọi tổ chức và cơ chế xã hội (xem Nghị quyết Đại hội Đảng lần VI), vì lẽ con người là mục đích, là cứu cánh, là trọng tâm của mọi hoạt động văn hóa, kinh tế, xã hội. Từ chân lý căn bản này về con người với nhân phẩm và nhân quyền của họ, nảy sinh những nhu cầu, những đòi hỏi bức thiết phải đáp ứng để xây dựng và phát triển một xã hội nhân bản, một xã hội không làm què quặt và hủy hoại con người. Những đòi hỏi bức thiết đó là:

I- Xóa giảm những khuyết tật hiện hữu của xã hội;

II- Phát huy những giá trị nhân bản làm cho con người ngày càng trở nên người hơn, sống xứng với phẩm giá của mình hơn.

I. XÓA GIẢM NHỮNG KHUYẾT TẬT HIỆN HỮU CỦA XÃ HỘI

1. Khuyết tật thứ nhất là hiện tượng tha hóa con người.

Sự tha hóa con người xuất hiện và lớn dần trong xã hội hiện nay:

- khi chủ nghĩa tiêu thụ đưa đẩy con người vào trong một mạng lưới những thỏa mãn hời hợt, giả dối;

- khi lao động được tổ chức nhằm bảo đảm tối đa cho lợi nhuận mà không lưu tâm cải thiện đời sống và thăng tiến phẩm giá người lao động;

- khi diễn ra sự đảo ngược giữa phương tiện và mục đích: con người vốn là mục đích của sự phát triển thì lại bị biến thành đơn thuần là phương tiện sản xuất;

- khi tự do được coi như là quyền được làm bất cứ điều gì mình thích, bất cứ điều gì mà cảm tính của mình cho là có lợi trước mắt cho bản thân, cho phe phái, đang khi tự do đích thực là quyền làm những gì mà lương tâm thấy được phép làm vì công ích, vì lợi ích của thế hệ hiện tại và mai sau. Thực tế cuộc sống hiện tại cho thấy: khi tách lìa chân lý về con người với nhân phẩm và nhân quyền của họ, tự do trở thành sự tùy tiện hoặc ngẫu hứng của những kẻ có quyền thế.

2. Khuyết tật thứ hai là cơ chế bất công và tha hóa con người.

Cơ chế xin-cho là một điển hình. Cơ chế xin-cho là một cơ chế bất công và tha hóa con người vì những lý do sau đây:

- Cơ chế xin-cho biến những quyền tự do của công dân thành những thứ quyền mà Nhà Nước nắm trong tay và ban bố lại cho người dân dưới dạng những cái phép, đồng thời biến Nhà Nước từ một tổ chức có chức năng phục vụ công ích trở thành một chủ nhân ông nắm các quyền tự do của người dân và ban phát các phép tự do lại cho họ thường theo sự tùy tiện chủ quan hơn là theo những tiêu chuẩn khách quan. Như thế cơ chế xin-cho vừa đi ngược lại công ích và xóa đi các quyền tự do của người dân, vừa bôi đen hình ảnh của một Nhà Nước của dân, do dân và vì dân. Đó là điều làm tha hóa con người.

- Theo thông tin của báo chí, cơ chế xin-cho còn là nguyên nhân làm thất thoát 50% các nguồn thu vào công quỹ, và làm thất thoát 50% phần còn lại khi phải chi ra cho công ích. Điều này có nghĩa là 5% hoặc 7% dân số là những người có thế lực và quyền lực thì hưởng 75% từ công quỹ quốc gia (trong con số 75%, có 50.000 tỷ đồng/năm của riêng ngành xây dựng), phần còn lại của dân số là hơn 70 triệu dân chỉ hưởng được 25%. Thực tế này tạo ra một tình trạng bất công trầm trọng trong xã hội và không ngừng làm gia tăng hố sâu cách biệt giàu nghèo trong lòng một dân tộc. Chính vì thế mà tham nhũng một cách có hệ thống quy mô trong xã hội ngày nay không những là một quốc nạn, song còn là một tội ác đối với đất nước và dân tộc.

II. PHÁT HUY NHỮNG GIÁ TRỊ NHÂN BẢN LÀM CHO CON NGƯỜI NGÀY CÀNG TRỞ NÊN NGƯỜI HƠN, SỐNG XỨNG VỚI PHẨM GIÁ CỦA MÌNH HƠN

1. Phát huy phẩm giá con người. Điều này đòi hỏi trong các quan hệ xã hội phải quan tâm tôn trọng con người như là trọng tâm của mọi hoạt động văn hóa, kinh tế, xã hội, nghĩa là các sinh hoạt văn hóa, kinh tế, xã hội phải hướng đến sự phát triển và thăng tiến con người toàn diện cả mọi mặt vật chất, tinh thần và tâm linh. Khi một trong ba mặt thiếu phát triển, con người trở nên hụt hẫng, què quặt, dị tật.

2. Phát triển xã hội và thăng tiến con người trên nền tảng chân lý. Một xã hội được coi là có trật tự và phù hợp với nhân phẩm khi đặt nền tảng trên chân lý. Chân lý căn bản trong quan hệ giữa người với người là mọi người đều bình đẳng về nhân phẩm. Chân lý này đòi hỏi phải gạt bỏ mọi kỳ thị và phân biệt đối xử, phải xóa đi những hình thức chuyên chế, phải loại trừ mọi gian dối xảo trá ngày nay đang tràn lan trong mọi lãnh vực của cuộc sống con người và xã hội.

3. Phát huy tình liên đới trong mọi sinh hoạt gia đình và xã hội. Tình liên đới chỉ được xây dựng và phát huy vững bền trên nền tảng tôn trọng con người, tôn trọng các quyền của họ, tôn trọng sự tự lập chính đáng và quyền tự quyết của con người, tôn trọng các giá trị đạo đức trong truyền thống văn hóa. Tình liên đới đòi hỏi phải nhìn xa hơn bản thân của tổ chức, của phe phái để phục vụ cho sự phát triển của xã hội, cho sự thăng tiến của con người và gia đình.

4. Phát huy tính phụ đới. Tình liên đới trong sự tôn trọng các quyền tự do của con người đòi hỏi tổ chức xã hội phải mang tính phụ đới. Tính phụ đới là một đặc tính của tổ chức xã hội trong đó một tập thể cấp cao không can thiệp vào nội bộ của một tập thể cấp thấp, không làm mất thẩm quyền và tính tự lập của nó, song tạo điều kiện giúp nó phối hợp hoạt động của mình với những hoạt động của tập thể khác nhằm mưu cầu công ích. Do đó, con đường phát huy tính phụ đới đòi hỏi:

Chính quyền tạo điều kiện cho các cá nhân và tập thể công dân sử dụng các quyền của con người. Trong các quyền đó, phải kể đến quyền bình đẳng, quyền và bổn phận chu cấp cho các nhu cầu vật chất, tinh thần và tâm linh của cuộc sống con người, gia đình và tập thể, quyền sáng kiến và tham gia các hoạt động phát triển xã hội, thăng tiến con người và gia đình, cả việc củng cố nền tảng pháp lý của cộng đoàn chính trị trong một quốc gia.

Dành cho mình độc quyền hay một quyền hành quá lớn trong các lĩnh vực của đời sống gia đình và xã hội, đó là con đường dẫn đến chuyên chế và độc tài, quan liêu và bao cấp, áp bức và bất công, là những tệ nạn làm tha hóa con người.

Tính phụ đới theo nghĩa trên là nền tảng để xây dựng một xã hội dân chủ, một Nhà Nước của dân, do dân và vì dân. Thiếu nền tảng này, Nhà Nước với chức năng phục vụ công ích trở thành một cỗ máy thống trị độc tài, và nhân dân từ địa vị làm chủ đất nước trở thành phương thế phục vụ cho cỗ máy đó. Đó là điều làm tha hóa con người và phân hóa xã hội.

5. Phát huy ý thức và thiện chí phục vụ công ích. Trước hết công ích đòi hỏi phải tôn trọng con người, tôn trọng nhân phẩm và các quyền tự do của họ. Do đó, chức năng phục vụ cho công ích đòi buộc chính quyền:

(1) tạo điều kiện bảo đảm cho mọi công dân hưởng những nhu yếu sao cho xứng hợp với phẩm giá con người;

(2) xóa bỏ những luật lệ bất công và những biện pháp trái với luân thường đạo lý trong truyền thống văn hóa của dân tộc, vì lẽ đây là những cơ chế và biện pháp làm tha hóa con người. Cơ chế xin-cho là một điển hình về luật lệ bất công. Phá thai hằng năm hơn cả triệu trường hợp là một điển hình về biện pháp trái với luân thường đạo lý mà những hậu quả đã và đang diễn ra không biết đưa tương lai dân tộc đi về đâu.

Kính thưa Quý Vị,

Là những người yêu mến quê hương, ai trong chúng ta cũng mong muốn xây dựng Việt Nam thành một đất nước giàu đẹp, văn minh, giàu tính nhân bản. Chính trong tinh thần đó, chúng tôi xin gửi đến Quý Vị thư ngỏ này.

Kính chúc Quý Vị luôn an lành, mạnh khoẻ và thành đạt.

Trân trọng kính chào.

HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM

Mục lục

Gaudete! Anh em hãy vui mừng lên!

Các cửa tiệm bán máy chụp hình digital, máy truyền hình đời mới có màn hình dẹp đủ cỡ loại. Chiếc máy nào có độ chấm ( pixel) phân giải cao càng nhiều, hình càng to càng rõ nét. Mỗi chấm của độ phân giải chiếu tỏa một mầu sắc. Tất cả những chấm đó đứng cạnh nhau ghép lại làm thành bức hình rõ nét.

Những nhà nghệ thuật thời Trung cổ bên Roma đã sáng chế ra cách làm hình nổi bằng cách ghép gắn những viên đá mầu nhỏ liền nhau lên tường hay lên nền nhà. Tòan thể những viên đá nhỏ mầu sắc khi được ghép gắn cạnh nhau đó làm thành một bức hình nghệ thuật tuyệt vời. Ngày nay khi sang thăm những ngôi Thánh đường cổ xưa bên Roma, hay ở nhà thờ chính tòa Aachen bên Đức, ta còn thấy có những bức tranh loại như thế khắc ghép hình Chúa Giêsu rất sang trọng rõ nét. Những bức granh nghệ thuật lại này có tên là bức tranh Mosaic.

Khi đứng xa nhìn bức tranh, ta có cảm tưởng là bức tranh vẽ, nhưng lại gần mới nhận ra những viên đá mầu nhỏ ghép nằm sát cạnh nhau. Những chấm độ phân giải ( pixel) ở máy chụp hình digital hay ở máy truyền hình màn ảnh dẹp đời mới cũng tương tự như vậy.

Tuy là những chấm nhỏ pixel hay viên đá nhỏ mầu sắc của một bức tranh Mosaik, chúng ta mỗi người cũng góp phần chiếu tỏa tạo nên bức hình Chúa Giêsu. Như Kinh Thá nh thuật lại, mỗi người chúng ta được Thiên Chúa tạo dựng nên giống hình ảnh của Người. Như thế mỗi người mang trong thân xác mình ánh sáng của Chúa. Mỗi người chiếu tỏa vẻ đẹp ánh sáng trong đời sống mình như Thiên Chúa đã tạo dựng nên.

Từng trăm, từng ngàn, triệu vạn viên đá mầu nhỏ khác nhau ghép lại tạo nên bức tranh nghệ thuật mosaic, từng triệu chấm mầu nhỏ pixel khác nhau ghép tạo nên hình mầu sắc trong sáng rõ nét trên máy truyền hình. Cũng thế mỗi người chúng ta là những viên đá, chấm nhỏ cũng khác biệt nhau.

Trong Giáo Hội của Chúa ở trần gian, cụ thể nơi mỗi xứ đạo, khi những viên đá sống động là người tín hữu mang ánh sáng hình ảnh của Thiên Chúa cùng tụ tập lại trong sống đức tin, sẽ chiếu tỏa nên bức tranh hình ảnh sống động muôn mầu sắc của Chúa ở trần gian.

Máy chụp hình, máy truyền hình càng có nhiều pixel, hình nổi lên càng trong sáng rõ nét. Những viên đá mầu của bức tranh Mosaik càng nhỏ tinh tế ghép sát cạnh liền nhau, bức tranh càng nổi có nghệ thuật cao.

Trong đời sống đức tin phụng vụ cũng tương tự như thế, càng có nhiều lớp người cùng tham dự dâng thánh lễ, cùng ca hát cầu nguyện chung với tâm tình lòng vui tươi phấn khởi, bức tranh Chúa Giêsu càng rõ nét chiếu tỏa ra xa. Không có những chấm nhỏ, những viên đá nhỏ, không tạo thành bức tranh, bức hình được. Mỗi chấm nhỏ, mỗi viên đá nhỏ quan trọng cần thiết cho bức tranh, bức hình.

Trong cách sống thực hành đức tin vào Thiên Chúa, Thánh Phaolô đã đặt mỗi viên đá nhỏ, mỗi Pixel người tín hữu Chúa Kitô chiếu sáng trứơc mặt Thiên Chúa: Anh chị em hãy vui mừng lên trong mọi thời gian! Vì chính Thiên Chúa là sức mạnh cuồn chảy trong mỗi người anh chị em. Người ban tặng sự sống thể xác lẫn tinh thần, nhất là niềm vui tận trong tâm hồn con người. Và Người để cho chúng ta chiếu tỏa ánh sáng đó ra bên ngoài, qua cung cách sống tình liên đời với Thiên Chúa qua việc cầu nguyện hằng ngày, qua lối sống bác ái tình người với nhau.

Thánh Phaolô còn khuyên nhủ: Xin anh chị em đừng bao giờ dập tắt ngọn lửa Chúa Thánh Thần! Nói cách khác: Anh chị em luôn là viên đá nhỏ, là một pixel, xin hãy gìn giữ để khỏi trở nên đen tối mờ nhạt vì tội lỗi. Và không ngừng chiếu tỏa ánh sáng qua cung cách sống hiệp thông với Chúa Giêsu.

Những khả năng nơi mỗi con người là viên đá nhỏ mầu sắc, là Pixel chiếu sáng vẻ đẹp của bức tranh sự sống Thiên Chúa giữa trần gian.

Mùa Vọng là thời gian chuẩn bị đón nhận niềm vui mừng hy vọng; là thời gian của ánh sáng. Ánh sáng niềm vui, ánh sáng tình yêu trời cao trao tặng con người.

Lm. Nguyễn ngọc Long

Mục lục

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH

Đặt tên cho con

Chuyện có vẻ dễ dàng nhưng đã làm tốn không ít thời gian của các bậc cha mẹ. Bởi mỗi cái tên không chỉ gắn liền với cuộc đời mỗi con người mà còn là nơi gửi gắm những ước mong của cha mẹ, và còn cần làm sao để phù hợp với thời đại mới.

Ít trùng tên người khác

Hiện nay, rất nhiều người có tên giống nhau, thậm chí giống cả họ và tên đệm. Những trường hợp ấy, nếu còn nhỏ, đến trường hay bị nhầm lẫn điểm số, ở nhà thì hay bị gọi nhầm, gọi người này thì người kia trả lời, nhiều khi phải gọi cả tên phụ huynh kèm theo. Để cho mọi người dễ phân biệt và tránh nhầm lẫn, cha mẹ nên chọn cho con một cái tên không quá phổ biến.

Theo ý kiến của ông bà

Theo quan niệm của ông bà ta, đặt tên con trùng với tên người trên, người thân là một việc rất không nên. Có nhiều trường hợp làm giấy khai sinh xong mới biết tên con mình trùng với tên họ hàng và không ít người phải đi làm lại giấy khai sinh, sổ hộ khẩu cho con. Chính vì thế, các bậc cha mẹ thường tham khảo ý kiến ông bà, thậm chí ông bà còn muốn được đặt tên cho cháu theo ý mình.

Tên phải thể hiện được giới tính

Nhiều người nếu không được gặp chúng ta khó mà biết được là nam hay nữ nếu như chỉ nghe tên. Có khi nữ lại mang cái tên rất nam tính, và ngược lại. Vì vậy, để thuận tiện cho việc nhận dạng giới tính, các bậc phụ huynh khi đặt tên cho con phải thể hiện được sự khác biệt cơ bản về giới.

Tên ngắn hay dài

Có nhiều người thích con mình có cái tên hay nhưng phải ngắn gọn, dễ nhớ, dễ nhận. Nhưng nhiều người lại muốn tên con mình phải dài, phải gây ấn tượng khi đọc lên, vì thế, họ chọn những cái tên và đệm có tới 4 đến 5 từ.

Tên hay về ngữ âm, ngữ nghĩa

Giữa họ, tên đệm và tên phải có mối quan hệ tổng hoà. Để khi đọc lên không chỉ có ý nghĩa mà còn phải tạo điều kiện thuận lợi cho người khác phát âm, tránh những trường hợp phát âm khó đứt quãng và đọc nhịu. Trên thực tế, nhiều người phải xấu hổ và bị bạn bè trêu trọc bởi cái tên chẳng giống ai của mình. Khi đọc lên, âm thanh của tên phải tạo được sự dễ chịu, phù hợp với tính cách của nam hay nữ.

Theo Dân trí

Mục lục

 

ĐỌC SÁCH

NGƯỜI MÔN ĐỆ “EM BÉ”

Khi giúp tĩnh tâm ở Dòng Xitô Phước Lộc, Bà Rịa, tôi ngắm hoài những cái bảng “Cầu nguyện cho quý vị ân nhân”. Ở đâu tôi cũng thấy đầy những cái bảng này, hết bảng lớn đến bảng nhỏ. Phòng ngủ thì bảng ghi tên một người, còn phòng lớn thì nhiều người. Tòa nhà tĩnh tâm vừa xây được vài năm nhờ các vị ân nhân đóng góp. Vì có công nên Dòng làm những cái bảng để ghi công, biết ơn, đồng thời cũng xin các người đến tĩnh tâm cầu nguyện giúp.

Nhìn những cái bảng này làm tôi liên tưởng thời gian tôi phục vụ tại Giáo xứ Chúa Ba Ngôi ở San Jose, California. Khi xây dựng hội trường lớn, cha chánh xứ và các cha phụ tá kêu gọi hết nước miếng mà số tiền đóng góp chẳng thấm vào đâu so với khoản tài chánh cần để có thể xây dựng. Cuối cùng phải nhờ nhóm chuyên viên vận động đến để gây qũy. Họ đề nghị làm những cái bảng ghi tên của các vị ân nhân đóng góp xây dựng hội trường. Tối thiểu phải đóng góp bao nhiêu tiền mới được khắc tên mình vào bảng. Và bà con sốt sắng hơn để đóng góp. Các bảng bằng gạch khắc tên được dán vào đầy tường chung quanh tòa nhà. Đây là tâm lý tự nhiên vì ai cũng muốn được khen, ai cũng muốn được người khác biết việc công đức của mình. Thành ra có công thì cần phải được biết ơn. Giáo xứ đã biết ơn và cũng xin anh chị em cầu nguyện và cám ơn quý vị ân nhân đóng góp. Đây quả là một phép lạ vì giáo xứ nghèo mà có thể đóng góp được khoản tiền lớn để xây dựng hội trường.

Trong câu chuyện Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều (Ga 6:1-15), Thánh Gioan thuật lại rằng có một em bé có năm chiếc bánh và hai con cá, và nhờ bánh cá, lòng quảng đại và sự hợp tác cho đi của em bé với Đức Giêsu mà mọi người được ăn no nê. Tôi cảm thấy vai trò của em bé này quan trọng lắm vì không có em bé không biết Đức Giêsu có làm được phép lạ hay không? Thành ra công ở đây có hai người là chính, Đức Giêsu và em bé, dù rằng công của em bé nhỏ xíu so với công của Đức Giêsu, nhưng em vẫn là người có công.

Mời anh chị em cùng tôi khám phá “em bé” này. Nếu đã có công thì cần phải biết tên tuổi gia thế của vị ân nhân để cám ơn. Nhà Dòng, nhà thờ nào quyên góp tiền để xây cất cái gì cũng cần những ân nhân giúp đỡ. Khi khánh thành phải tuyên dương công trạng và cám ơn những vị ân nhân đó (không cám ơn, biết ơn, ghi ơn họ thì lần sau chớ có sớ rớ tới để mà nhờ với cậy). Em bé có công thì mình cũng phải biết về em bé chớ. Em bé thì chắc là phải nhỏ lắm; ba, bốn, năm tuổi thì mới gọi là em bé, chớ lớn khoảng mười tuổi hoặc hơn mà gọi em là em bé thì em giận đấy. Em trai hay gái thì không ai biết, tên gì cũng chẳng ai hay, giàu nghèo cũng khó đoán. Em bé làm gì ở đó với phần ăn tối của bé là năm chiếc bánh và hai con cá? Nếu em chạy chơi thì không lẽ cha mẹ em dự tính rằng em, một đứa trẻ ba bốn tuổi nhỏ xíu của mình, chạy chơi xa và sẽ về trễ nên… gói theo đồ ăn tối cho em bé? Mà nếu cha mẹ có bới đồ ăn cho bé thì khi em chạy chơi với chúng bạn cùng trang lứa, thông thường bé sẽ để đồ ăn ở một xó xỉnh nào đó rồi chạy chơi, chơi một chặp thì bé chẳng còn nhớ đã để đồ ăn ở đâu, vì bản chất của bé là ham vui và hay quên.

Nếu em bé đi theo cha mẹ thì đâu phải em bé cho năm chiếc bánh và hai con cá, mà là cha mẹ của em bé cho. Nếu mẹ nói đứa con nhỏ đem một trăm đồng biếu cha xứ thì đâu phải đứa con nhỏ cho, mà là người mẹ cho. Nếu vậy thì có khả năng người cho bánh là người lớn chớ không phải em bé. Nhưng Thánh sử lại muốn nói “em bé”. Vì thế, tôi cảm nghiệm thấy Thánh Gioan muốn nói đến “em bé” theo nghĩa bóng. “Em bé” ở đây là một người lớn nhưng có tâm hồn như “em bé”. Tâm hồn em bé thì đơn sơ, không so đo tính toán, dám cho hết những gì mình có, trong khi người lớn thì thường có thái độ “thủ” lại.

“Em bé” có công nên được người ta khen: “Cám ơn em bé nghe, không có bé thì không biết chúng ta có bánh để ăn không.” “Em bé” nghe khen thì khoái, nghe khen nhiều quá nên lỗ mũi nở ra, ngày càng to thêm ra, “em bé” đứng đón nhận tất cả lời khen tặng và tưởng rằng tất cả là công của nó: “Không có tôi thì chắc quý vị đói hết rồi! Không nhờ công tôi thì làm gì ca đoàn hát hay được như vậy! Không có tôi giúp thì làm sao giáo xứ xây được nhà thờ đẹp như vậy v.v...” Lỗ mũi nó càng ngày càng nở to, khoái chí, tự mãn, và nó không chịu làm “em bé” nữa, nó lớn ra để làm người lớn và đứng phía trước mặt Chúa Giêsu để đón nhận những lời khen tặng. Nó lớn quá đến nỗi nó che khuất luôn cả Chúa. Chúa chết và trời lại đi vào bóng đêm.

“Em bé” phải tiếp tục làm “em bé”. “Em bé” mà đòi to lớn ra thì át mất Chúa thôi. Trong đám đông mấy ngàn người, “em bé” sẽ bị và được tan biến đi, để công của hai người chỉ còn một vai chính là Chúa Giêsu, Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót ban sự sống và ban dư đầy – ban sự sống của chính Ngài để làm của ăn nuôi đoàn con.

Người môn đệ theo Chúa Giêsu phải mang khuôn mặt, tâm hồn “em bé” này, phải và ước muốn mặc lấy tâm hồn bé thơ, tinh thần đơn sơ, không so đo tính toán, dám dẹp bỏ ý riêng và những cái lý luận, những cái “tôi” to lớn của mình, để Chúa Giêsu được lớn lên, để cảm nghiệm Chúa làm những phép lạ cả thể trong tâm hồn và trong đời sống của mình.

Nếu cha mẹ đưa bánh và cá cho em bé và dặn con đưa cho Đức Giêsu, và nếu em bé ích kỷ tính toán: “Đưa hết thì mình ăn cái gì? Chừng này chỉ đủ cho mình con ăn thôi, làm sao mà cho được, mà chừng này thì làm sao nuôi được ngần ấy người, đừng nói năm chiếc bánh và hai con cá, năm trăm chiếc bánh và hai trăm con cá cũng chẳng thấm vào đâu!” Nếu em bé không quảng đại cho, thì chắc Đức Giêsu khó làm phép lạ, hay nói cách khác, Đức Giêsu không thể làm được phép lạ, như khi Đức Giêsu về thăm Nadarét, Thánh Mátcô thuật lại rằng: “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. Người lấy làm lạ vì họ không tin” (Mc 6:5-6). Sự kiện này nói lên một điều là Thiên Chúa cần con người hợp tác với Thiên Chúa để Ngài làm những phép lạ cả thể trong tâm hồn và trong đời sống mỗi người. Â sủng của Thiên Chúa sẽ vẫn là ân sủng nếu con người từ chối hợp tác với Ngài.

Anh chị em thân mến, đâu là những chiếc Bánh Ân Sủng và Cá Tình Thương mà bạn và tôi đã nhận nhưng không? Cái gì cản trở bạn và tôi trao ban những Ân Sủng và Tình Thương đó như lòng Chúa mong ước?

Lạy Chúa, xin cho chúng con trở nên “Em Bé” để mỗi người chúng con biết sống quảng đại như em bé, dám cho đi mà không tính toán những món quà Chúa ban nhưng không, biết đón nhận Tình Yêu và Ân Sủng Chúa ban tặng để rồi biết rộng lòng trao ban những món quà của Chúa, cho những anh chị em chung quanh chúng con, đặc biệt những anh chị em đang cần sự giúp đỡ của chúng con. Xin nhắc nhở chúng con luôn biết rằng công của chúng con thật quá bé nhỏ so với công của Chúa. Xin ban cho chúng con Thần Khí Chúa để chúng con có thể vượt lên trên bản tính tự nhiên của con người, là thích được kể công trạng, để chúng con sống với luật siêu nhiên mà Chúa trân trọng mời gọi chúng con bước theo. Amen!

LM. Giuse Ngô Văn Chữ, S.J.

Mục lục