MỤC LỤC
Cái Đúng Và Cái Đẹp Trong Truyền Giáo
LÁ THƯ MỤC TỬ CỦA ĐHY GIOAN B. PHẠM MINH MẪN VỀ HIV/AIDS
ĐỨC THÁNH CHA ĐẾN THĂM TÂY BAN NHA
Thánh lễ bế mạc đại hội gia đình tại Valencia
Bài giảng giáo Lý về Đức Khiêm Nhường
TÌM SỰ GIAO THOA GIỮA CHA MẸ - CON CÁI.
TÍNH TỰ CHỦ VÀ HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH
CỦA LINH MỤC CHÚA KITÔ ( TIẾP THEO)
Chúa Nhật XV Thường Niên B
(16.07.2006 )
Bài Tin Mừng : Mc 6, 7 - 13
Qua bài Phúc âm hôm nay, thánh sử Mác-cô đã thuật lại việc Chúa Giêsu qui tụ nhóm 12 tông đồ lại và sai các ông từng đôi một ra đi chữa lành mọi bệnh tật, xua đuổi ma quỉ để mang bình an, mang hạnh phúc đến cho mọi người. Ngài ban cho các ông quyền năng trên ma quỉ và các tà thần, nhưng Ngài cũng căn dặn các ông rằng trên bước đường truyền giáo thì đừng mang gì đi đường trừ cây gậy, cũng không được mang lương thực, bao bị, tiền bạc và cũng đừng mặc hai áo. Xem ra những đòi hỏi của Chúa thật gắt gao và cương quyết. Thực ra, đây là một kiểu nói ám chỉ một thái độ tín thác tuyệt đối mà người tông đồ của Chúa cần phải có. Bởi vì Ngài muốn cho các ông không được dính bén đến của cải vật chất và những tiện nghi bảo đảm cho cuộc sống hiện taị.Ngài muốn các môn đệ luôn có được tự do nội tâm, chứ không bị thứ áp lực nào chi phối tâm hồn các ông, có thể làm xao nhãng nhiệt tâm của người tông đồ.
Là những người Kitô hữu, những người đã được lãnh nhận phép rửa tội, nghĩa là đã được tham dự vào 3 chức vụ, tư tế, tiên tri, và vương đế của Đức Kitô. Mỗi người chúng ta cũng phải luôn ý thức về 3 chức vụ đó, để thi hành trong cuộc sống mình, nhất là với sứ mạng tiên tri. Trong tong huấn “ NGƯỜI KITÔ HỮU GIÁO DÂN”, Đức Giáo Hoàng nói :” Việc tham dự vào chức vụ ngôn sứ của Đức Kitô, Đấng đã dùng chứng tá đời sống và sức mạnh của lời nói để công bố Nước Thiên Chúa Cha, làm cho người giáo dân có đủ tư cách và thúc đẩy họ đón nhận Tin Mừng trong lòng tin, để rồi dùng lời nói, việc làm loan báoTin mừng đó, cương quyết tố cáo cho sự dữ…Ngoài ra,họ còn được kêu gọi làm sáng lên nét mới mẻ và sức mạnh của Tin mừng trong đời sống thường ngày, cũng như diễn tả niềm hy vọng của họ vào vinh quang mai ngày…” (Tông huấn số 26).
Lời Chúa cặn dặn các tông đồ hôm xưa, cũng chính là những lời mà Chúa muốn nhắn gởi tới mỗi người chúng ta hôm nay. Chúng ta cũng là những người được sai đi vào lòng đời để làm chứng tá cho Tin mừng. Nhưng để cho việc loan báo Tin mừng không bị một trở lực nào ngăn cản, Chúa đòi chúng ta đừng quá bám víu vào những bảo đảm của cuộc sống, như tiền tài, danh vọng, chức quyền, mà trên hết hãy đặt niềm tin vào một mình Chúa mà thôi. Trong đời sống gia đình, chúng ta có nhiều cơ hội để giới thiệu Chúa cho những người chung quanh bằng đời sống khiêm tốn, hiền lành và bác ái. Chúng ta có nhiều dịp để thi hành vai trò chứng nhân cho Chúa bằng cách an ủi những bệnh nhân, xoa dịu những nỗi khổ đau của bản thân họ cũng như gia đình họ. Chúng ta cũng có thể chia sẻ cho những người nghèo khó một chút nhu cầu về vật chất, bằng những nghĩa cử bác ái, yêu thương và kính trọng của chúng ta.
Như vậy, Lời Chúa hôm nay là một lời mời gọi mỗi người chúng ta hãy xác tín về ơn gọi và sứ mạng của người Kitô hữu, để trong cuộc sống, chúng ta luôn tri ân cảm tạ Chúa và luôn biết làm chứng cho Tin Mừng bằng chính đời sống chúng ta.
Lm. Giuse Phạm Tất Thắng
Trong lịch sử công giáo có hai hình ảnh linh mục được đề cao.
Hình ảnh thứ nhất phát xuất từ thần học Công đồng Trentô và nền tu đức suy tôn
chức thánh của thế kỷ XVII, đó là hình ảnh linh mục, người tế lễ. Hình ảnh này
dựa trên lời Đức Kitô đã phán dạy các tông đồ xưa: “Các con hãy làm việc này để
nhớ đến Thầy” (Lc 22,19).
Hình ảnh thứ hai phát xuất từ thần học Công đồng Vatican II và từ nền tu đức dấn
thân hiện nay, đó là hình ảnh linh mục, người truyền giáo. Hình ảnh này dựa trên
lời Đức Kitô truyền dạy các tông đồ xưa: “Các con hãy đi giảng cho mọi dân...
Hãy dạy cho họ những điều Thầy đã dạy cho các con” (Mt 28,19).
Trong một Giáo Hội coi truyền giáo là bản tính và là ưu tiên số một của mình,
thì hình ảnh thứ hai về linh mục đang trở thành một hình ảnh thân thương, trong
đó truyền giáo được coi là đặc điểm đáng quan tâm nhất nơi thiên chức linh mục.
Cũng từ đó người ta có quyền đánh giá từng linh mục theo nhiệt tình truyền giáo,
khả năng truyền giáo, hoạt động truyền giáo, lãnh đạo truyền giáo và kết quả
truyền giáo.
Một cái nhìn truyền giáo như thế về Hội thánh nói chung và về linh mục nói riêng
sẽ lan sang các lãnh vực khác của tôn giáo, như tu sĩ, giáo dân, phượng tự, giáo
lý, thánh đường, sách báo đạo. Tất cả sẽ phải có tính cách truyền giáo. Và vì
thế tất cả sẽ phải có khả năng giới thiệu với mọi người cái đúng chân lý Phúc Âm,
cái đúng tình yêu Thiên Chúa, cái đúng dung mạo Đức Kitô.
Để những cái đúng ấy được dễ truyền đạt, dễ tiếp thu, dễ được chấp nhận, chúng
cần đi đôi với cái đẹp. Cái đẹp của nghệ thuật, cái đẹp của trí thức, cái đẹp
của phong cách, cái đẹp của văn hoá, cái đẹp của bản sắc dân tộc, cái đẹp của
đạo đức.
Kinh nghiệm cho thấy có những cái đúng khó hiểu, tưởng sẽ khó được chấp nhận,
nhưng đã rất được hâm mộ, bởi chúng đã được giới thiệu qua những vẻ đẹp có sức
thu hút. Trái lại có những cái đúng dễ hiểu, tưởng sẽ dễ được chấp nhận và thực
hiện, nhưng đã bị coi thường và chối bỏ, bởi vì chúng đã được trình bày qua hình
thức thiếu những vẻ đẹp cần thiết.
Đối với người thời nay, cái đẹp là một yếu tố quan trọng trong cuộc sống và
trong các tương quan. Hình ảnh đẹp thường có sức thu hút hơn tư tưởng đúng.
Chúng ta hã nhìn xem nhà thờ này và thánh lễ hôm nay. Biết bao vẻ đẹp đang nâng
tâm hồn chúng ta lên. Từ vẻ đẹp về môi trường, về kiến trúc, về nghi thức, về
thánh ca, cho đến vẻ đẹp về tinh thần huynh đệ, thái độ trật tự, phong cách cầu
nguyện.
Nếu việc thờ tự không được thực hiện với những vẻ đẹp, và nếu những chân lý Phúc
Âm không được giới thiệu với những vẻ đẹp, thì sức thu hút sẽ rất yếu, sức làm
chứng sẽ bị suy giảm, sự gặp gỡ với Chúa và với con người sẽ ít được trân trọng.
Thực tế truyền giáo có nhiều vẻ đẹp. Những vẻ đẹp đáng kể nhất ở đây phải là sự
hài hoà giữa cái cũ và cái mới, giữa truyền thống và sáng tạo, giữa nói và làm,
giữa các giá trị đạo đức và các giá trị đời, nhất là giữa lý trí mang chân lý
Phúc Âm và trái tim giàu lòng bác ái khiêm nhường. Tất cả những vẻ đẹp này đang
hỗ trợ cho việc truyền giáo. Chúng là những phương tiện thích hợp để chuyên chở
Tin Mừng vào tâm hồn người thời nay.
Thời nay, nhiều khi nhiều nơi việc truyền giáo đã bị cản trở, hoặc đã không sinh
kết quả. Có nhiều căn do khác nhau, trong đó có sự thiếu vẻ đẹp. Biết bao trường
hợp, nguyên do chính của sự thất bại không phải vì không nói lên đủ cái đúng,
nhưng nói đủ cái đúng mà thiếu vẻ đẹp. Chẳng hạn khi cái đúng tôn giáo lại được
tuyên xưng, loan truyền với thái độ tự phụ, hẹp hòi, độc tôn, độc đoán, phô
trương quyền lực, chia rẽ cộng đoàn. Tức là thiếu vẻ đẹp đạo đức.
Cái đúng tôn giáo đi đôi với cái đẹp, nhất là cái đẹp đạo đức sẽ tạo nên được
những hình ảnh hấp dẫn, những bầu khí lôi cuốn, những môi trường thu hút, để dẫn
con người vào Nước Trời, đồng thời cũng để giúp con người sống tốt chính đời
sống công dân của mình trong một Quê Hương rất cần những cái đúng và những cái
đẹp.
Với những nhận thức trên đây, chúng ta cảm tạ Chúa vì những cái đúng và những
cái đẹp trong giáo xứ chúng ta, trong Hội Thánh chúng ta, trong Quê Hương chúng
ta. Chúng ta cầu nguyện cho đường hướng truyền giáo của chúng ta được luôn đúng
mà đẹp.
+ ĐGM. GB Bùi Tuần
Lễ Thánh Phêrô – Phaolô, 29. 6.2006
Kính gởi : Anh em linh mục
Anh chị em tu sĩ giáo dân thuộc giáo phận thành phố Hồ Chí Minh đặc biệt là những anh chị em đang sống với HIV/AIDS.
1. Tôi viết thư này để chia sẻ với anh chị em mối quan tâm của tôi về tình hình dịch HIV /AIDS đang lan tràn trong thành phố cũng như trên đất nước chúng ta. Trong những năm qua, đã có nhiêu nỗ lực từ những ban nghành hữu quan nhằm ngăn chặn đại dịch HIV, nhưng HIV vẫn tiếp tục lây lan. Thống kế gần đây nhất của cơ quan y tế cho biết có hơn 30 ngàn người nhiễm HIV trong thành phố chúng ta, và con số người cần được chăm sóc ngày càng tăng nhanh. Ước tính cứ khoảng 60 hộ gia đình ở Việt Nam thì có một hộ có một người đang sống với HIV.Trong tình hình đó, cộng đồng Công giáo không thể không quan tâm , bởi lẽ “ vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngáy nay, nhất là cuả những người nghèo và đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người, mà lai không gieo anh hưởng trong lòng họ” (Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giớ ngày nay, số 1). Vì thế, chúng ta có trách nhiệm làm mọi cách để ngăn chặn đại dịch, và góp phần lành mạnh hóa đời sống gia đình và cộng đồng dân tộc.
Trong Năm Sống Lời Chúa này, Giáo Hội mời gọi chúng ta giúp nhau thi hành Lời Chúa dạy, cùng nhau chiêm ngắm Chúa Giêsu và bắt chước gương lành của Ngài. Trong cuộc đời rao giảng của Chúa, Ngài đã yêu thương các bệnh nhân cách đặc biệt và luôn tìm cách chữa lành họ, nâng đỡ họ, và đưa họ trở về hoà nhập với cộng đồng xã hội. Ngài chữa lành người phong cùi và dạy anh ta trở về trình với thượng tế để được tái hoà nhập vào cộng đoàn phụng vụ cũng như cộng đồng xã hội. Đối với người đàn bà phạm tội ngoại tình và đáng bị ném đá, không những Chúa Giêsu đã không kết án chị mà còn phục hồi nhân phẩm bằng cách khuyên chị “ hãy trở về nhà và đừng phạm tội nữa”.
Như thế, Chúa Giêsu bao dung đón nhận tội nhân và người bệnh, chữa lành họ cả thể xác lẫn tinh thần, và giúp họ hoà nhập vào đời sống cộng đồng. Đó cũng là thái độ mà Chúa muốn chúng ta phải có đối với những anh chị em sống với HIV/ AIDS hôm nay.
2. Noi gương Chúa Giêsu chúng ta không kết án, không bỏ rơi, song cần tìm cách giúp đỡ những anh chị em sống với HIV/ AIDS, được tiếp tục sống sống và sinh hoạt bình thường trong giáo xứ, cộng đồng và gia đình. Khoa học đã chứng minh cho chúng ta thấy, sống chung nhà, dùng chung mâm cơm, uống chung ly nước, không có nguy cơ lây HIV/ AIDS. Người nhiễm HIV có thể sống bình thường khoẻ mạnh trong nhiều năm trước khi chuyển sang AIDS, họ cần có một chỗ dựa tinh thần, một việc làm ổn định, cần được yêu thương và chấp nhận họ. Mặt khác, trong cơn đau bệnh, hơn ai hết, họ cần được ở gần bên người thân và gia đình, họ cần được tiếp tục lãnh nhận các bí tích, và được hòa nhập vào các sinh hoạt của giáo xứ như bao người khác. Vì thế, chúng ta không được phân biệt đối xử với họ. Các cộng đồng giáo xứ cần có những những sinh hoạt và các buổi sinh hoạt nhằm nâng cao nhận thức về HIV/ AIDS, góp phần ngăn chặn dịch bệnh và vượt qua thái độ phân biệt đối xử trong cộng đoàn.
3. Với những anh chị em đang sống chung với HIV/AIDS, anh chị em hãy nhớ rằng Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương anh chị em, Giáo Hội luôn giang tay đón nhận anh chị em với tất cả sự trân trọng và quý mến. Chính Chúa Giêsu vẫn luôn mời gọi anh chị em đến với Ngài trong lúc gặp gian truân đau khổ : “ Hãy đến với Ta hỡi những ai gặp khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi” Sự thiếu can đảm và tuyệt vọng khi đối diện với căn bệnh thường dẫn tới khuynh hướng tự cô lập mình, và đổ lỗi cho người khác, hoặc nuôi ý tưởng trả thù, hận đời…Thay cho những thái độ tiêu cực đó, anh chị em hãy can đảm chấp nhận thực tại của căn bệnh, hãy sống một lối sống tích cực hãy sống có trách nhiệm và mở lòng ra để người khác có thể giúp ta sống tốt hơn, đồng thời giúp người khác hiểu đúng về căn bệnh và đồng cảm với bệnh nhân. Hãy can đảm lên, đừng thất vọng, anh chị em không cô độc vì Giáo Hội luôn đồng hành với anh chị em. Hãy giữ vững niềm trông cậy vào Chúa là Đấng hằng yêu thương và nâng đỡ chúng ta trong mọi hoàn cảnh. Đây là cơ hội để anh chị em đến gần Chúa Kitô hơn vì chính Ngài đã từng chịu đau khổ và chịu chết trên thập giá để cứu chuộc tất cả chúng ta. Trong lúc gặp đau khổ và khó khăn, hãy nhớ Lời Chúa phán :” Đừng sợ, vì Ta đã chuộc con về, đã gọi con bằng chính tên của con : con là của riêng Ta ! Con có băng qua nước, Ta sẽ ở cùng con.. . Vì trước mắt Ta, con thật quý giá, luôn được Ta trân trọng và mến thương” ( Is 43, 1-4)
4. Thưa anh chị em, Giáo Hội lãnh nhận sứ mạng làm chứng và loan báo cho mọi người tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa Cha được thể hiện qua con yêu quý của Ngài là Chúa Kitô. Để tiếp nối sứ mạng của Chúa Kitô trên trần gian, chúng ta cần quan tâm đặc biệt đến những ai đang gặp đau khổ: về thể xác cũng như tinh thần; trong số đó, những người sống với HIV/ AIDS là những người cần được yêu thương và chăm sóc nhiều nhất. Với ơn Chúa, chúng ta có thể đồng hành với các bà mẹ, những goá phụ, những bạn trẻ, những trẻ mồ côi đang gần như tuyệt vọng vì căn bệnh thế kỷ này. Tình hình hiện tại là lời mời gọi chúng ta hợp lực xây dựng một cộng đồng nhân loại mới chan chưa yêu thương như Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhắc nhở nhiều lần. Lúc bấy giờ, AIDS sẽ không còn bị coi là sự nguyền rủa của Thiên Chúa, nhưng sẽ là cơ hội để tất chúng ta quay trở lại, đến gần hơn với Thiên Chúa tình yêu, và để tìm được niềm vui trọn hảo trong Ngài.
Tôi xin chân thành cám ơn các linh mục, anh chị em tu sĩ giáo dân trong nhiều năm qua, đã đi tiên phong trong việc loan báo một Thiên Chúa yêu thương qua việc anh chị em tận tuỵ phục vụ bệnh nhân HIV/ AIDS bằng nhiều cách và qua nhiều hình thức khác nhau. Hành động của anh chị em chính là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần luôn đồng hành với chúng ta trong sứ vụ yêu thương và phục vụ.
Tôi xin giới thiệu với tất cả mọi người tập sách nhỏ “ Chứng từ yêu thương và phục vụ”. Tập sách này không thể nói hết những đóng góp đôi khi rất thầm kín của anh chị em khắp nơi trong giáo phận, nhưng là một bằng chứng cho mọi người biết đến một lối sống mà tất cả chúng ta đều được mời gọi hướng tới : Sống Yêu Thương và Phục Vụ.
Nhờ lời cầu bầu của Mẹ Maria, Mẹ tất cả những ai đang đau khổ nguyện xin Thiên Chùa thương soi dẫn và tuôn đổ tràn đầy ơn lành của Ngài xuống trên tất cả anh chị em.
GIOAN B.PHẠM MINH MẪN
HỒNG Y TỔNG GIÁM MỤC
VALENCIA. ĐTC Biển Đức 16 đã đến thành phố Valencia, Tây Ban Nha, đã viếng thăm trong vòng hơn 24 tiếng đồng hồ, nhân dịp Đại hội kỳ 5 cách Công Giáo thế giới, tiến hành tại đây từ ngày 1 đến 9-7-2006, với chủ đề: “sự thông truyền đức tin trong các gia đình”.
Đây là chuyến công du thứ 3 của ĐTC Biển Đức tại nước ngoài, sau cuộc viếng thăm tại Koeln bên Đức hồi tháng 8 năm ngoái và tại Ba Lan hồi cuối tháng 5 năm nay.
Khi máy bay chở ĐTC tiến vào không phận Tây Ban Nha, hai chiếc phản lực cơ F-16 và F-18 của không lực Tây Ban Nha đã bay lên hộ tống trước khi máy bay đáp xuống phi trường Manises của thành Valencia. Tại đây, Quốc vương Juan Carlos, hoàng hậu Sofia, cùng với thủ tướng chính phủ và giáo quyền và hàng ngàn tín hữu đã chờ sẵn tại đây để dành cho ngài một sự tiếp đón nồng nhiệt, dưới bầu trời nóng bức của mùa hè.
Trong diễn văn, Vua Carlos đã cám ơn ĐTC vì sự hiện diện của ngài trên đất Tây ban nha và những lời chia buồn, an ủi nhân vụ tại nạn xe điện ngầm ở Valencia hôm 3-7-2006 làm cho 42 người thiệt mạng.
Về phần ĐTC, trong lời đáp từ, ngài nhấn mạnh mục đích cuộc viếng thăm của ngài để tham dự Đại hội kỳ 5 các gia đình thế giới, với chủ đề ”thông truyền đức tin trong gia đình”: ”Ước muốn của tôi là trình bày vai trò trung tâm của gia đình, dựa trên hôn nhân, đối với Giáo Hội và xã hội. Gia đình là một định chế không thể thay thế được, theo kế hoạch của Thiên Chúa và Giáo Hội không thể từ bỏ không rao giảng và thăng tiến giá trị cơ bản của gia đình, để gia đình luôn được sống trong tinh thần trách nhiệm và vui tươi.”
Câu nói của ĐTC có vẻ không có gì khác lạ, nhưng vang dội mạnh mẽ tại Tây Ban Nha, nơi mà chính phủ thuộc đảng xã hội, liên kết với đảng cộng sản, đã ban hành luật công nhận hôn nhân đồng phái, với quyền được nhận con nuôi, cách đây đúng 1 năm.
Sau nghi thức tiếp đón tại Phi trường, ĐTC dùng xe bọc kính để về Nhà thờ chính tòa Valencia cách đó 10 cây số. Dọc đường ngài đã dừng lại tại trạm xe điện ngầm Jesus, nơi đã xảy ra tai nạn, để cầu nguyện cho các nạn nhân, trước sự hiện diện của thái tử Filipe, phu nhân và đông đảo các tín hữu.
Trong cuộc viếng thăm nhà thờ chính tòa, ĐTC đã gặp 100 GM Tây Ban Nha tại Nhà Nguyện Chén Thánh, và trao cho các vị một lá thư, khích lệ các GM tiếp tục hăng say bảo vệ thăng tiến gia đình trong một xã hội bị tục hóa cao độ, đồng thời nêu gương cho các tín hữu về sự hiệp thông huynh đệ với nhau.
Tại quảng trường bên ngoài thánh đường, ĐTC đã gặp 3 ngàn người gồm các chủng sinh và thân nhân của các thầy, cùng với nhiều tín hữu khác. Ngài đề cao tầm quan trọng của bầu không khí hòa hợp và yêu thương trong gia đình, giúp người trẻ lắng nghe và đáp lại tiếng gọi của Chúa.
ĐTC cũng nói rằng: ”Các thầy hãy sống khẩn trương những năm chuẩn bị tại chủng viện, với sự trợ giúp và phân định của các vị đào tạo, và với tâm tình ngoan ngãn, tín thác hoàn toàn của các Tông Đồ là những vị đã từng mau mắn theo Chúa Giêsu. Các thầy hãy học từ nơi Mẹ Maria cách thức đón nhận ơn gọi của Chúa không chút dè dặt, với lòng quảng đại vui tươi.”
GẶP GỠ CÁC GIA ĐÌNH
Hoạt động chính của ĐTC trong ngày đầu tiên tại Valencia là cuộc gặp gỡ các gia đình Công Giáo thế giới vào lúc 9 giờ tối tại Thành phố Nghệ thuật và Khoa học, một khu vực ở Valencia có thể chứa được hơn 1 triệu người.
Mở đầu cuộc gặp gỡ, đại diện phái đoàn các nước đã cầm cờ quốc gia của mình tiến lên lễ đào, tiếp theo đó là nghi thức dâng hoa kính Đức Mẹ những người bị bỏ rơi, bổn mạng dân thành Valencia, và bức ảnh Thánh Gia vẽ trên gỗ, rồi ĐHY Lopez Trujillo, người Colombia, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về gia đình, đã đại diện mọi người chào mừng ĐTC, trước khi cộng đoàn nghe đọc hai bài Sách Thánh và chứng từ của một số gia đình.
Trong bài huấn dụ tiếp đó, ĐTC đặc biệt đề cao vai trò của gia đình trong việc giáo dục và thông truyền đức tin cho con cái:
”Gia đình là môi trường ưu tiên đặc biệt trong đó mỗi người học cách trao ban và đón nhận tình thương. Vì thế, Giáo Hội liên tục bày tỏ mối quan tâm mục tử đối với môi trường cơ bản này của con người.”
”Gia đình là một định chế ở giữa cá nhân và xã hội và không gì có thể hoàn toàn thay thế gia đình. Chính gia đình dựa trên một quan hệ sâu xa liên chủ thể, giữa vợ chồng, được nâng đỡ bằng tình thương và sự cảm thông với nhau. Để được thế, gia đình nhận được ơn phù trợ dồi dào của Thiên Chúa trong bí tích hôn phối, một bí tích bao hàm ơn gọi nên thánh thực sự. Ước gì các con cái thấy được những giờ phút hòa hợp và yêu thương của cha mẹ, nhiều hơn là những lúc bất hòa hoặc xa cách, vì tình thương giữa cha mẹ mang lại cho con cái một sự an tâm rất lớn và dạy họ về vẻ đẹp của tình yêu trung thành và lâu bền.”
”Gia đình là một thiện ích cần thiết cho các dân tộc, một nền tảng không thể thiếu được đối với xã hội và là một kho báu của các đôi vợ chồng trong suốt cuộc đời. Đó là một thiện ích không thể thay thế được đối với con cái, con cái phải là kết quả của tình thương, sự hiến thân trọn vẹn và quảng đại của cha mẹ. Công bố sự thật trọn vẹn về gia đình, dựa trên hôn nhân, như một Giáo Hội tại gia và là cung thánh sự sống, đó chính là trách nhiệm lớn lao của tất cả mọi người.”
ĐTC đề cao vai trò của cộng đồng giáo hội, xứ đạo và các hội đoàn Công Giáo trong việc giúp các gia đình vượt thắng khó khăn và chu toàn trách vụ thông truyền đức tin cho con cái: ”Thông truyền đức tin cho con cái, với sự trợ giúp của những người khác và của các tổ chức như giáo xứ, trường học, các hội đoàn Công Giáo, là trách nhiệm mà các cha mẹ không thể quên lãng, thờ ơ hoặc hoàn toàn ủy thác cho người khác. ”Gia đình Kitô được gọi là Giáo Hội tại gia, vì biểu lộ và thực hiện bản chất hiệp thông và gia đình của Giáo Hội như một gia đình của Thiên Chúa. Mỗi phần tử, theo phận vụ của mình, thi hành chức LM chung đã lãnh nhận khi chịu phép rửa tội, góp phần biến gia đình thành một cộng đồng ơn phúc và cầu nguyện, một trường dạy các nhân đức nhân bản và Kitô, là nơi đầu tiên rao truyền đức tin cho con cái” (SGL, Toát Yếu 350)
Từ thứ bảy vừa qua, ĐTC đã đáp máy bay sang Valencia Tây ban nha để chủ toạ Đại hội các gia đình lần thứ V. Cao điểm của cuộc gặp gỡ là buổi canh thức tại khu “thành phố Nghệ thuật và Khoa học” vào buổi tối thứ bảy, với sự tham dự của non một triệu người. Sau đó nhiều gia đình đã ngủ lại tại chỗ để tham dự thánh lễ cử hành sáng chúa nhựt lúc 9 giờ 15. Cùng đồng tế với đức Bênêđictô XVI có 50 hồng y, 450 giám mục và 300 linh mục, và đặc biệt chén thánh được sử dụng chính là chén mà Chúa Giêsu đã sử dụng tại nhà tiệc ly, mà theo truyền thống được thánh Phêrô đem qua Rôma, và được giao cho thánh Lorenzo phó tế đưa cất ở Huesca (Tây ban nha) trong thời bắt đạo, và được giữ tại nhà thờ chánh toà Valencia từ năm 1437.
Trong hàng ghế danh dự có hoàng gia Tây-ban-nha, hai vị tổng trưởng bộ ngoại giao và tư pháp đại diện cho chính phủ, thống đốc miền Valencia, thị trưởng thành phố. Các lời nguyện được lấy từ lễ kính thánh gia, còn các bài đọc Sách thánh đã được chọn lựa theo đề tài của Đại hội “Truyền thụ đức tin trong gia đình”: bài đọc thứ nhất trích từ sách Esther chương 14, trong đó có câu tuyên xưng rằng: “Lạy Chúa trong chi tộc cha ông, con được nghe kể lại rằng Chúa đã tuyển chọn Israel giữa muôn ngàn dân tộc”. Bài đọc thứ hai lấy ở thư thứ hai của thánh Phaolô gửi Timotê, chương 1, câu 1-8: thánh tông đồ tạ ơn Thiên Chúa, Đấng mà người phụng thờ với lương tâm trong trắng theo gót tổ tiên, và nhắn nhủ ngưòi môn đệ hãy nhớ lại đức tin của bà ngoại Loide và bà mẹ Eunike. Bài đọc Tin mừng lấy từ thánh Gioan chương 15, câu 9-12.
Trong bài giảng, sau những lời chào mừng thường lệ, ĐTC đã dựa theo các bài đọc để diễn giảng về vai trò của gia đình trong việc truyền thụ đức tin.
Trước khi kết thúc Thánh Lễ, Đức Thánh Cha đã tuyên bố đại hội gia đình lần tới sẽ được tổ chức tại thành phố Mêxicô (nước Mekhicô) năm 2009. Ngài đã đọc kinh Truyền tin bằng tiếng latinh và ban phép lành bằng tiếng Tây ban nha.
Theo Radio Vatican
Anh chị em thân mến,
Trong Thánh Lễ mà tôi vui mừng chủ sự đây, cùng với nhiều chư huynh trong hàng giám mục, và với đông anh em linh mục, tôi cảm tạ Chúa, thay cho tất cả mọi gia đình đáng mến đang quy tụ nơi đây kết thành cộng đoàn đầy hân hoan, và cho biết bao gia đình khác tại những nơi xa xôi cùng theo dõi buổi cử hành này, qua các phương tiện truyền thanh và truyền hình. Tôi xin chào tất cả mọi người và nói lên lòng mộ mến của tôi qua cái hôn bình an.
Những chứng tá của Ester và của Phaolô mà chúng ta đã nghe qua trước hết nơi các bài đọc thánh lễ, cho thấy như thế nào gia đình được mời gọi cộng tác trong việc thông truyền đức tin. Ester tuyên xưng như sau: "Lạy Chúa, thân phụ tôi đã kể cho tôi biết rằng Ngài đã tuyển chọn dân Israel từ muôn dân nước" (sách Ester 4,5). Thánh Phaolô theo truyền thống của cha ông ngài là người do thái mà lắng nghe Thiên Chúa, với một lương tâm trong sạch. Thánh nhân khen ngợi đức tin chân thành của Timotêô và nhắc lại cho Timotêô nhớ rằng "đức tin trước hết nơi bà ngoại Loide, rồi nơi người mẹ Eunice, và giờ đây, nơi chính bản thân Timotêô; cha tin chắc con có đức tin này." (2 Tim 1,5). Trong những chứng từ kinh thánh vừa trích trên, gia đình không phải chỉ gồm có cha mẹ và con cái, nhưng còn gồm có ông bà và tổ tiên. Gia đình như thế cho thấy như là một cộng đoàn những thế hệ và là một bảo đảm cho phần gia tài những truyền thống.
Không ai có thể tự ban cho mình sự hiện hữu, cũng không tự mình có được những hiểu biết căn bản về sự sống. Tất cả chúng ta đều đã lãnh nhận từ kẻ khác sự sống và những sự thật căn bản về sự sống, và chúng ta được gọi đạt đến sự trọn lành trong tương quan và trong hiệp thông tình thương với kẻ khác. Ðược xây dựng trong hôn nhân không thể tách rời giữa người nam và người nữ, gia đình nói lên chiều kích tương giao, con thảo và cộng đoàn; gia đình là môi trường nơi con người có thể sinh ra đúng với phẩm vị mình, rồi lớn lên và phát triển một cách toàn diện.
Khi một em bé sinh ra, thì qua tương quan với cha mẹ, em bé này là thành phần của truyền thống gia đình có gốc rễ xa xưa hơn. Với hồng ân sự sống, em bé lãnh nhận trọn cả phần gia tài những kinh nghiệm sống. Quy chiếu về điều này, những bậc làm cha mẹ có quyền và bổn phận không thể mất đi được để lưu truyền phần gia tài đó cho con cái: đó là công việc huấn luyện con cái để giúp con cái khám phá căn cước riêng của mình; đó là dẫn đưa con cái vào trong đời sống xã hội; đó là huấn luyện con cái biết thực thi một cách có trách nhiệm sự tự do tinh thần và thực thi khả năng yêu thương, nhờ qua kinh nghiệm được yêu thương, nhất là trong gặp gỡ với Thiên Chúa. Con cái lớn lên và trưởng thành trên bình diện nhân bản, trong mức độ con cái tin tưởng lãnh nhận phần gia tài và nền giáo dục mà con cái từ từ lãnh nhận. Bằng cách này, con cái có thể tạo ra một tổng hợp riêng cho mình từ những gì đã lãnh nhận được và những gì học được; và đây là tổng hợp mà mỗi người và mỗi thế hệ được mời gọi thực hiện.
Nơi nguồn gốc của mỗi người, và do đó, nơi mọi tình phụ tử và tình mẫu tử, có sự hiện diện của Thiên Chúa, Ðấng Tạo Hoá. Vì thế, đôi bạn phải đón nhận em bé vừa được sinh ra không những như là con của cha mẹ, nhưng còn như là người con của Thiên Chúa, Ðấng yêu thương em bé vừa được sinh ra đó như chính em là, và kêu gọi em sống làm con cái Thiên Chúa. Hơn nữa, mọi hành động truyền sinh, mọi tình phụ tử và mẫu tử, mọi gia đình có nguyên lý của mình nơi Thiên Chúa, Ðấng là Cha, Con và Thánh Thần.
Qua việc nhớ lại tổ tiên và dân tộc của mình, thân phụ của Ester đã thông truyền lại cho Ester một ký ức về một Vì Thiên Chúa, mà từ Ngài tất cả mọi người đều phát xuất và được mời gọi đáp lời mời gọi của Ngài. Ðây là ký ức về một Vị Thiên Chúa là Cha, là Ðấng đã tuyển chọn cho mình một Dân riêng, và là Ðấng tác động trong lịch sử để cứu rỗi chúng ta. Việc nhớ đến Vị Thiên Chúa là Cha như thế soi sáng cho căn cước sâu xa nhất của con người: chúng ta từ đâu đến, chúng ta là ai và phẩm giá chúng ta là cao cả như thế nào. Chắc rằng chúng ta đến trong thế gian từ cha mẹ, và chúng ta là con cái của các ngài; nhưng chúng ta cũng đến từ Thiên Chúa, Ðấng đã tạo dựng chúng ta giống hình ảnh Ngài và đã kêu gọi chúng ta trở thành những con cái Ngài. Vì thế, nơi nguồn gốc của mỗi một người, không phải là sự ngẫu nhiên hay định mệnh, nhưng là một dự án của tình thương Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa thật và là con người trọn vẹn, chính Người đã mạc khải điều này cho chúng ta. Chúa Giêsu Kitô biết rõ Người từ đâu đến và biết rõ tất cả chúng ta đây từ đâu đến: đó là đến từ tình thương của Thiên Chúa, là Cha của Người và cũng là Cha của chúng ta.
Quả thật, Ðức Tin không phải chỉ thuần tuý là gia tài văn hoá, nhưng là một tác động liên tục của ân sủng Thiên Chúa, Ðấng kêu gọi, và cũng là hành động của tự do con người chấp nhận gắn bó hoặc không gắn bó với ơn gọi đó. Cho dù không ai có thể đáp lời thay cho kẻ khác, nhưng những bậc làm cha mẹ kitô được mời gọi làm chứng một cách đáng tin cho đức tin và cho niềm hy vọng kitô của họ. Những bậc làm cha mẹ phải hành động làm sao cho lời mời gọi của Thiên Chúa và Tin Mừng của Chúa Kitô có thể đến được với con cái, một cách rõ ràng nhất và đích thật.
Với thời gian, hồng ân đức tin này của Thiên Chúa mà những bậc làm cha mẹ đã góp phần soi sáng cho con cái lúc còn thơ bé, sẽ được vun trồng một cách khôn ngoan và dịu dàng, vừa làm lớn lên trong con cái còn thơ trẻ một khả năng phân biệt. Như thế, với chứng tá liên lỉ về tình yêu hôn nhân của cha mẹ, một tình yêu được sống và được thấm nhuần trong đức tin, và với sự nâng đỡ đầy thân tình của cộng đoàn kitô, thì sẽ khơi dậy nơi con cái thái độ đích thân đến với hồng ân đức tin, để rồi qua thái độ này con cái khám phá được ý nghĩa sâu xa của chính cuộc sống mình và như thế con cái cảm thấy mình trào dâng tâm tình biết ơn.
Gia đình kitô thông truyền đức tin khi những bậc làm cha mẹ dạy cho con cái biết cầu nguyện và chính cha mẹ cầu nguyện cho con cái (x, Tông huấn về Gia Ðình, soó 60); gia đình thông truyền đức tin khi cha mẹ đến với các bí tích và hướng dẫn con cái vào trong sinh họat của Giáo Hội; gia đình thông truyền đức tin khi tất cả mọi thành phần gia đình quy tựu lại để đọc Kinh Thánh, vừa chiếu sáng đời sống gia đình bằng ánh sáng đức tin vừa chúc tụng Thiên Chúa là Cha.
Trong nền văn hoá hiện nay, người ta thường đề cao sự tự do cá nhân, một sự tự do được hiểu như là sự độc lập chủ quan, dường như thể chính đương sự tự quyết và tự đủ cho chính mình, không màng chi đến mối tương quan của mình với kẻ khác cũng như không kể gì đến trách nhiệm của mình đối với kẻ khác. Người ta cố gắng tổ chức cuộc sống xã hội chỉ từ những ước muốn chủ quan và hay thay đổi mà thôi, không một chút quy chiếu nào về sự thật khách quan hiển nhiên, như sự thật về phẩm giá của mọi người và về những bổn phận và quyền lợi không thể phai nhoà mà mọi nhóm xã hội cần phải dấn thân phục vụ cho.
Giáo Hội không ngừng nhắc lại rằng sự tự do thật của con người đến từ việc con người được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa. Vì thế, sự giáo dục kitô là sự giáo dục để đạt đến sự tự do và vì tự do. "Chúng ta thi hành điều tốt không phải như những người nô lệ không có tự do để làm khác đi, nhưng chúng ta làm điều tốt bởi vì chúng ta đích thân mang lấy trách nhiệm về thế giới; bởi vì chúng ta yêu mến sự thật và điều thiện, bởi vì chúng ta yêu mến Thiên Chúa và do đó cũng yêu thương những tạo vật của Ngài. Sự thật vừa nói trên là sự thật đích thực, mà Chúa Thánh Thần muốn hướng dẫn chúng ta đạt đến." (Bài giảng lễ Vọng Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, báo quan sát viên Roma, ấn bản bằng tiếng Tây Ban Nha, số phát hàng ngày 9 tháng 6 năm 2006, trg 6).
Chúa Giêsu Kitô là con người hoàn hảo, là mẫu gương cho sự tự do đầy tình con thảo; Chúa dạy chúng ta biết thông truyền cho kẻ khác chính tình yêu của Người: "Như Cha Thầy đã yêu thương Thầy thế nào, thì Thầy cũng yêu mến chúng con như thế, chúng con hãy ở trong tình yêu Thầy." (Gn 15,9) Về điểm này, Công Ðồng Vaticanô II dạy rằng "những đôi bạn và cha mẹ kitô, theo con đường sống của mình và cho đến suốt đời, cần phải nâng đỡ nhau trong ân sủng nhờ qua một tình yêu trung thành và cần phải giáo huấn trong giáo lý kitô và trong các nhân đức phúc âm những con cái, được lãnh nhận với tình yêu đến từ Thiên Chúa. Như thế những bậc làm cha mẹ cống hiến cho tất cả mẫu gương tình yêu không mệt mỏi và quảng đại; họ xây dựng một sự hiệp thông trong tình bác ái; họ là những người làm chứng cho và công tác với sự phong phú của Mẹ Giáo Hội như là dấu chỉ và là sự tham dự vào tình yêu thương, tình yêu mà Chúa Kitô đã yêu thương vị Hôn Thê của mình và đã trao ban chính mình cho vị Hôn Thê này" (Lumen gentium, 41).
Tâm Tình mến thương của cha mẹ đã đón nhận chúng ta và đồng hành với chúng ta trong những buớc đầu tiên vào đời; tình mến thương đó là như dấu chỉ và là sự "kéo dài bí tích" của tình yêu Thiên Chúa, mà từ đó chúng ta đến trong thế gian. Cảm nghiệm mình được chấp nhận và được yêu thương bởi Thiên Chúa và bởi cha me, (cảm nghiệm này) là nền tảng vững chắc luôn cổ võ cho sự tăng trưởng và phát triển đích thực của con người và là nền tảng giúp chúng ta trưởng thành trong khi tiến đến sự thật và tình thương, cũng như giúp ta bước ra khỏi chính mình để bước vào trong sự hiệp thông với kẻ khác và với Thiên Chúa.
Ðể tiến tới trên con đường trưởng thành nhân bản, Giáo Hội dạy chúng ta hãy tôn trọng và cổ võ cho thực tại kỳ diệu của hôn nhân không thể phân rẽ giữa một nguời nam và một người nữ; và hôn nhân này là nguồn gốc của gia đình. Vì thế, việc nhìn nhận và trợ giúp cho cơ chế gia đình là một trong những việc phục vụ quan trọng nhất mà con người ngày nay có thể làm, để phục vụ cho công ích và cho sự phát triển đích thật của con người và xã hội, và như thế là bảo đảm tốt nhất cho phẩm giá, cho sự bằng nhau giữa mọi người và cho sự tự do thật của con người.
Về vấn đề này, tôi muốn nhấn mạnh tầm quan trọng và vai trò tích cực của những hiệp hội gia đình trong giáo hội, để phục vụ cho hôn nhân và gia đình. Tôi "muốn mời gọi tất cả mọi người kitô hãy cộng tác, cách thân tình và can đảm, với tất cả mọi người thiện chí, đang thực thi trách nhiệm của họ nhắm phục vụ gia đình" (familiaris consortio, số 86), ngõ hầu nhờ việc liên kết các sức mạnh và với những sáng kiến đa dạng hợp pháp, tất cả mọi người đều góp phần vào việc cổ võ cho điều thiện hảo đích thật của gia đình trong xã hội hiện nay.
Chúng ta hãy trở lại với bài đọc thứ nhất của Thánh Lễ hôm nay, được trích từ sách Ester. Giáo hội được quy tụ trong việc cầu nguyện, đã nhìn thấy nơi vị hoàng hậu khiêm tốn này đang khẩn cầu với hết sức mình cho dân tộc bà đang phải đau khổ, (nhìn hoàng hậu khiêm tốn này) như là hình ảnh loan báo trước về Mẹ Maria, mà Con Mẹ đã trao cho tất cả chúng ta như là Mẹ của chúng ta; và như là hình ảnh loan báo trước của người Mẹ hết lòng yêu thương bảo vệ đại gia đình của Thiên Chúa đang hành hương trên trần gian này. Mẹ Maria là hình ảnh nêu gương cho tất cả mọi bà mẹ, cho sứ mạng cao cả của người mẹ như là kẻ gìn giữ sự sống, cho sứ mạng giảng dạy nghệ thuật sống, nghệ thuật yêu thương.
Như thế, gia đình kitô - cha mẹ và con cái - được mời gọi thực hiện những mục tiêu đã nói trên, không phải như điều gì bị áp đặt từ bên ngoài, nhưng như là một hồng ân của ân sủng bí tích hôn nhân, được đổ tràn xuống trong tâm hồn đôi bạn. Nếu đôi bạn sống cởi mở đón nhận Chúa Thánh Thần và khẩn xin Ngài trợ giúp, thì Chúa Thánh Thần không ngừng thông truyền cho họ tình yêu Thiên Chúa Cha, một tình yêu được biểu lộ và nhập thể trong Chúa Kitô. Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần sẽ giúp cho đôi bạn không bị lạc mất nguồn mạch và chiều kích của tình yêu và của việc họ trao hiến cho nhau; sự hiện diện của Chúa Thánh Thần sẽ giúp cho đôi bạn biết cộng tác với Ngài để phục hưng và nhập thể tình yêu đó trong tất cả mọi chiều kích của sự sống. Chúa Thánh Thần đồng thời sẽ khơi dậy trong đôi bạn lòng khao khát gặp gỡ vĩnh viễn với Chúa Kitô, trong nhà Cha của Người và cũng là Cha của chúng ta. Ðây là sứ điệp hy vọng mà từ Valencia tôi muốn gởi đến tất cả mọi gia đình trên thế giới. Amen.
Bản dịch Việt ngữ của Ðặng Thế Dũng
Theo Radio Veritas
Hiệp thông trong bầu khí các gia đình trên thế giới họp nhau lần thứ V, tại Valencia-Tây Ban Nha, từ 1-9/7/2006 theo truyền thống 3 năm một, chúng ta cùng suy nghĩ về gia đình Công Giáo ngày nay dưới ánh sáng của Lời Chúa và giáo huấn Hội Thánh.
Có thể nói nhận định của ĐTC Gioan Phaolô II trong Tông Huấn Gia Đình (Familiaris Consortio) được ban hành ngày 22.11.1981, trong phần đầu tiên “ánh sáng và bóng tối nơi gia đình ngày nay”, vẫn còn rất thời sự : “Hoàn cảnh các gia đình đang sống hiện có cả những khía cạnh tích cực và tiêu cực : một số khía cạnh cho thấy ơn cứu độ của Đức Kitô đang tác động trong thế gian ; một số khía cạnh cho thấy sự từ chối của con người đang chống lại tình thương của Thiên Chúa.” (FC. Số 6)
Những dấu hiệu tích cực- “ánh sáng” nơi gia đình là : ý thức về tự do, chú ý nhiều đến phẩm chất các tương quan từng thành viên trong hôn nhân gia đình, đề cao phẩm giá phụ nữ, nâng cao giáo dục trẻ em, tính hỗ tương trợ giúp giữa các gia đình với nhau về tinh thần cũng như vật chất, khám phá lại vai trò của Hội Thánh đối với gia đình, ý thức trách nhiệm gia đình trong việc xây dựng xã hôi. (x. FC. 6)
Bên cạnh đó, “bóng tối” xuất hiện trong gia đình bằng các dấu hiệu tiêu cực như : “Quan niệm sai lầm về sự độc lập giữa vợ chồng, những mập mờ rất trầm trọng về tương quan uy quyền của cha mẹ đối với con cái, những khó khăn cụ thể trong việc lưu truyền các giá trị gia đình đã cảm nghiệm, con số các vụ li dị gia tăng, vết thương về sự phá thai, việc dùng các phương pháp triệt sản ngày càng nhiều, việc hình thành một não trạng đích thị là não trạng chống thụ thai.” (FC. 6)
Cách riêng, vì phải chạy theo một chương trình giáo dục dầy đặc của xã hội, phần lớn phụ huynh Công Giáo Việt Nam đánh mất, quên đi, hay không còn thời giờ lo cho việc giáo dục đức tin của con cái như lời cam kết lúc đem con đi rửa tội : “Khi xin phép rửa tội cho con cái, anh chi em lãnh nhận trách nhiệm giáo dục các em trong đức tin, để các em tuân giữ các giới răn Chúa là mến Chúa yêu người như Chúa Kitô đã dạy chúng ta. Anh chị em có ý thức điều đó không ? Thưa ý thức. (Nghi Thức Rửa Tội Trẻ Em). Vì phải luôn miệng nhắc bảo con học sáng, học chiều, học tối, học bồi dưỡng, học phụ đạo… học thêm toán, lý, hoá, ngoại ngữ, vi tính, đàn… mà cha mẹ không còn giờ, không còn sức nhắc con học giáo lý ! Ngay cả mùa hè, tưởng con em có giờ đến với các lớp giáo lý, kinh nguyện, chầu và thánh lễ nhiều hơn, nhưng cũng không khá hơn như ước vọng.
Với nhiều lý do khác, nhất là sự quá tải của công việc, thực trạng các gia đình thế giới cũng báo động nguy cơ sao nhãng việc giúp con cái sống đạo. Phải chăng vì thế mà chủ đề của cuộc gặp gỡ, chia sẻ, đối thoại, học hỏi lần thứ V của các gia đình tại Valencia lần này rất thiết thực là : “Truyền thông đức tin trong gia đình”. Nó giúp gợi lại vai trò tiên quyết và căn bản của gia đình Công Giáo-“trường học đầu tiên mà không một đoàn thể nào có thể vượt qua” (Tuyên ngôn giáo dục Kitô giáo, số 3). Lý do mà Công Đồng Vatican II đưa ra rất rõ : “Vì là người truyền sự sống cho con cái, nên cha mẹ có bổn phận rất quan trọng trong việc giáo dục chúng. Vì thế, họ phải được coi là những nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu của chúng.” (tài liệu đã dẫn)
Cha mẹ “nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu” phải giáo dục con cái bằng lời và bằng gương sáng. Nhắc con cái đi lễ, nếu không hiệu quả, cha mẹ phải dắt con cái đi. Abraham đã từng đưa con trai là Isaác đi tế lễ Thiên Chúa dù của lễ chính là con một mình. (x.St 22, 1-18) Ngày nay cha mẹ dẫn con đi dâng lễ, của lễ “chính Thiên Chúa đã liệu” (St 22, 8), cho dù có cố gắng để đến nhà thờ vì xa xôi, vì bận việc… cũng không phải hy sinh, đau xót như tổ phụ Abraham lên núi.
Cũng có không ít trường hợp con cái thiếu ý thức tuân giữ luật Chúa. Chúng không ngoan ngoãi theo cha mẹ như Isaác theo Abraham. Phải chăng chúng chưa được dạy dỗ ngay từ sớm và trường kỳ những điều mà cha mẹ đã giữ theo tinh thần như Dân Chúa thời Cựu Ước. “Anh em phải yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của anh em, và mọi ngày phải truyền điều Người đã truyền giữ là các thánh chỉ, quyết định và mệnh lệnh của Người… những lời tôi nói đây anh em phải ghi lòng tạc dạ, phải buộc vào tay làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu. Anh em phải dạy những lời ấy cho con cái, mà nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy. Anh em hãy viết lên khung cửa nhà anh em, và lên cửa thành của anh em.” (Đnl 11, 1.18-19). Nếu cha mẹ “ghi lòng tạc dạ” và “tuân giữ thánh chỉ” ; nếu gia đình là nơi “lệnh truyền của Chúa” được “viết lên” ; và nếu con cái được giáo huấn “lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như thức dậy”… thì bảo đảm sẽ có những đứa con thông hiểu giáo lý, siêng năng việc đạo đức. Khi đó cha mẹ chu toàn tốt nhiệm vụ thông truyền đức tin cho con cái, hứa hẹn một tương lai con em vững tin và sống đạo tốt.
Chính vua Đavít, dù bận rộn với việc chinh chiến và cai trị đất nước, sau khi nhắc bảo dân, và giáo dục niềm tin cho con là Salômon, người nối ngôi : “Phần con, Sa-lô-môn, con của cha, con hãy nhận biết Thiên Chúa của cha con mà trọn niềm phụng sự với tâm hồn phấn khởi, vì ĐỨC CHÚA dò xét mọi tâm can và thấu suốt mọi tư tưởng đang hình thành. Nếu con tìm kiếm Người, Người sẽ cho con được gặp; nhưng nếu con lìa xa Người, Người sẽ lìa bỏ con.” (1 Sb 28, 9)
Sách Tôbia đã kể lại việc Tôbia cha dạy dỗ Tôbia con rất chi li, căn kẽ từng điều, để sống nên người tốt : “Con hãy chôn cất cha cho tử tế. Hãy thảo kính mẹ con và đừng bỏ rơi người bao lâu người còn sống. Con hãy ăn ở đẹp lòng người và đừng làm điều chi phiền lòng người cả. Này con, con phải nhớ rằng mẹ con đã trải qua bao nỗi ngặt nghèo vì con, khi con còn trong dạ mẹ. Khi người mất, con hãy chôn cất người ngay bên cạnh cha, trong cùng một phần mộ. Con ơi, con hãy tưởng nhớ Đức Chúa mọi ngày, đừng có ưng phạm tội và làm trái mệnh lệnh của Người. Hãy thực thi công chính suốt mọi ngày đời con và đừng đi theo những nẻo đường bất chính, vì những ai sống theo sự thật thì sẽ thành công trong sự nghiệp của mình. Con hãy dùng của cải bố thí cho tất cả những ai thực thi công chính, và khi bố thí, mắt con đừng có so đo. Đối với ai nghèo khổ, con đừng ngoảnh mặt làm ngơ, để rồi đối với con, Thiên Chúa cũng sẽ không ngoảnh mặt làm ngơ…” (Tb 4, 3-7). Đây có thể coi là gương mẫu giáo dục nhân bản và tu đức gia đình !
Những lời giáo huấn của Matigia với con cái, trước khi qua đời được Sách Macabê quyển 1 ghi lại : “Vậy giờ đây, hỡi các con, hãy bừng lửa nhiệt thành đối với Lề Luật, và hãy hy sinh mạng sống để bảo vệ Giao Ước của tổ tiên chúng ta… Con hãy tâm niệm rằng, từ đời này qua đời khác, hết những ai đặt niềm hy vọng vào Thiên Chúa sẽ không bị suy tàn.” (1Mcb 2, 50.61)
Thánh Phaolô dạy việc giáo dục trong gia đình : “Hỡi những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy.” (Eph 6, 4) “Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng.” (Cl 3, 21)
Không phải tất cả con cái chúng ta đều thực hiện tốt lời dạy của sách Châm Ngôn “Này con, giáo huấn của cha, con hãy nghe, lời dạy của mẹ, con đừng gạt bỏ.” (Cn 1, 8) hay làm theo lời Huấn Ca “Mọi lời lẽ về Thiên Chúa, con hãy thích nghe, những châm ngôn ý nhị, con đừng bỏ uổng.” ( Hc 6, 35). Ngày nay chúng thích đọc, học, nghe, xem những chuyện xã hội, những tác phẩm đời hơn là giáo huấn “khô khan” của Hội Thánh. Nếu thử thống kê tỉ lệ số trang sách báo gia đình mình đã đọc trong một tuần, được bao nhiêu phần so với Kinh Thánh và giáo huấn của Hội Thánh, chắc là chênh lệnh nhiều, rất nhiều, mà tài liệu giáo lý thua xa văn phẩm đời.
Thiết tưởng, những lời thánh Phaolô khuyên Timôthêô, thường được các mục tử, nhà rao giảng, truyền giáo thực hiện, cũng rất phù hợp với cha mẹ “tông đồ gia đình” : “Hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ. Thật vậy, sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo lý lành mạnh, nhưng theo những dục vọng của mình mà kiếm hết thầy này đến thầy nọ, bởi ngứa tai muốn nghe. Họ sẽ ngoảnh tai đi không nghe chân lý, nhưng hướng về những chuyện hoang đường. ( 2Tm 4, 2-4)
Chúng ta hãy cầu nguyện và góp phần làm cho lời kêu gọi của ĐTC Gioan Phaolô II, lời được Hội Đồng Giám Mục Á Châu nhắc lại trong phần kết thúc tài liệu “Gia Đình Á Châu Hướng Đến Nền Văn Hoá Sự Sống Toàn Diện” thành hiện thực : “Hỡi gia đình, hãy trở nên cái mà ngươi là” (F.C. số 17). Ước gì các gia đình ngày một tiến gần đến chính mình hơn :
1. “Gia đình là cộng đoàn yêu thương căn bản mà Tạo Hoá đã xếp đặt cho nhân loại, là tế bào đầu tiên và là nền móng để xây dựng một xã hội vững bền.”(Giáo Lý hỏi thưa của HĐGMVN, câu 393)
2. “Gia đình Kitô giáo là một cộng đồng tình yêu theo hình ảnh hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi. Thứ đến, gia đình Kitô giáo thể hiện cách đặc biệt sự hiệp thông trong Hội Thánh. Vì thế, gia đình Kitô giáo được gọi là “Hội Thánh tại gia”(sđd, câu 394)
3. “Gia đình Kitô hữu-một cộng đoàn đức tin và rao giảng Tin Mừng ; Gia đình Kitô hữu-một cộng đồng đối thọai với Thiên Chúa ; Gia đình Kitô hữu-cộng đồng phục vụ con người.” (x. FC. Số 54-64)
4. “Gia đình là cộng đoàn, nơi đó từ thời thơ ấu, con người được biết tôn trọng những giá trị luân lý, tôn thờ Thiên Chúa và biết sử dụng tự do. Đời sống gia đình chuẩn bị cho đời sống xã hội.” (Giáo Lý Toàn Cầu, số 2207)
5. ”Gia đình là chỗ bình thường để trẻ lớn lên tới độ trưởng thành cá nhân và xã hội. Gia đình cũng là nơi mang lấy gia sản nhân loại… Gia đình không đơn thuần là đối tượng chăm sóc mục vụ của Giáo Hội, gia đình còn là những thành viên hữu hiệu nhất trong việc rao giảng Tin Mừng. Các gia đình Kitô hữu ngày nay được kêu gọi làm chứng cho Tin Mừng, trong những thời gian và hoàn cảnh khó khăn, khi chính gia đình bị một loạt quyền lực đe doạ.” ( Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu, số 46)
6. “Giáo Hội thông chia những niềm vui và hy vọng, những nỗi buồn và lo âu trong cuộc hành trình thường nhật của con người, với niềm thâm tín rằng chính Chúa Kitô đã sai gởi Giáo Hội đến khắp mọi nẻo đường ấy : chính Người đã giao phó con người cho Giáo Hội, đã giao phó con người như là đường lộ cho sứ mệnh và cho thừa tác vụ của Giáo Hội. Trong vô vàn vô số đường lộ ấy, gia đình là đường lộ số một, và là đường lộ quan trọng nhất…” (Thư của ĐTC Gioan Phaolô II gởi các Gia Đình, Năm Gia Đình 1994)
Cầu chúc các bậc làm cha mẹ, nhờ suy niệm và thực hành lời Tv 119, 33-37, được dồi dào ơn Chúa, kiên trì giúp con cái mình sống theo Lời Ngài :
Lạy CHÚA, xin dạy con đường lối thánh chỉ,
con nguyện đi theo mãi đến cùng.
Xin cho con được trí thông minh
để vâng theo luật Ngài và hết lòng tuân giữ.
Trên đường mệnh lệnh Chúa, xin dẫn con đi,
vì con ưa thích đường lối đó.
Xin hướng lòng con nghiêng về thánh ý,
không ngả theo lợi lộc tiền tài.
Xin giữ mắt này khỏi nhìn theo những gì hư ảo,
và cho con được sống nhờ đường lối của Ngài.
Bình An, 07.07.2006
Lm. Phêrô Nguyễn Hữu Duy
Thứ bảy
ngảy
8/07/06 Ban Mục vụ
Di dân tổ
chức
buổihọc
Giáo lý cho giới
công nhân tại
Bình dương,
với
chủ
đề
Đức
Khiêm Nhường.
Theo Web site Giáo phận Phú Cường
I. VÌ ĐÂU NÊN NỖI.
Tôi còn nhớ như in, buổi chiều hôm ấy, mưa dữ dội. Mưa như người ta tháo cống. Tôi khá bất ngờ khi người gõ cửa phòng tôi là một cậu học trò đang tìm hiểu ơn gọi tu trì mà tôi đang chịu trách nhiệm linh hướng (hướng dẫn tâm linh). Bất ngờ vì cậu học trò của tôi có thể gặp tôi bất cứ lúc nào, nhưng đến với tôi giữa lúc mưa gió thế này, chắc chắn phải có chuyện!
Em học giỏi, là sinh viên năm cuối của một trường đại học, và đang là sinh viên năm thứ hai của một trường đại học khác. Em lạnh run, đôi môi xám ngắt. Nhưng hình như lòng em chẳng lạnh, ngược lại đang bừng bừng nóng nảy, giận hờn. Nét mặt và cả đôi mắt của em cho tôi hiểu như thế.
Tôi mời em ngồi và kiên nhẫn đợi em lấy lại bình tĩnh. Em kể cho tôi nghe về nỗi muộn phiền của em, về sự bất bình đối với một “người có quyền” lại nỡ đối xử tệ với em, khi cho rằng em có lỗi. “Người có quyền” ấy lại còn lôi cả lỗi lầm của gia đình em, của chính người cha ruột thịt của em đã vấp phạm từ gần hai mươi năm trước để quy chụp và kết luận trên chính trường hợp của em: “Cha nào con nấy. Đã sinh ra trong một gia đình thiếu nề nếp, thì cầm chắc, con cái của cái gia đình ấy làm sao nề nếp được!…”. Kể rồi em lại khóc. Khóc rồi em lại tức. Em tuyên bố: “Thưa cha, con nghỉ học, bỏ tu”.
Vẫn giữ thái độ bình tĩnh như từ lúc đầu gặp em, tôi im lặng ngồi nghe em trút hết tất cả niềm xót xa mà em đang gánh lấy. Em gục đầu trên chính đôi tay mình, khóc không biết bao nhiêu mà nói. Khóc cho nỗi oan ức mà “người có quyền” giáng xuống trên em, áp đặt em, không cho em có cơ hội bào chữa mình, hoặc chí ít là trình bày hoàn cảnh, trình bày sự thật…
Ngoài trời đang mưa to. Nhưng nước mắt uất hận của em là cả một trận mưa lòng còn lớn hơn tiếng mưa vỗ ngoài hiên...
Nửa giờ đồng hồ trôi qua, tôi vẫn hiện diện với em bằng tất cả sự đồng cảm, trân trọng và quý mến, trong khi vẫn thinh lặng, vẫn chăm chú theo em từng chi tiết của câu chuyện em kể. Có chăng khi phải nói thành lời, thì lời của tôi cũng chỉ là gợi hứng cho em trút hết vào tôi niềm bức xúc, sự suy nghĩ, cảm nhận và cả nội tâm nặng nề của chính em. Có một điều tôi không đồng ý với em khi em lặp lại chắc như đinh đóng cột quyết định của mình: “Con sẽ nghỉ học, bỏ tu”. Rồi để kết thúc dòng tâm tư đầy ngỗn ngang, đầy xáo trộn, bộn bề của mình, em yêu cầu tôi cho em một lời khuyên.
Thay cho một lời khuyên suông, tôi đã kể cho em nghe những nỗi niềm ai oán đã từng xảy ra dọc đường đời của tôi và xảy ra nơi những nhân vật mà em có thể biết mặt biết tên. Tôi muốn em đối chiếu chính hoàn cảnh của em nơi những câu chuyện rất thật ấy để thêm vốn liếng, thêm cơ sở mà tự quyết định chính tương lai, chính chọn lựa của mình. Tôi tha thiết xin em bốn điều tuy rất bình thường, nhưng chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả lớn, đó là:
1. Đang trong cơn chao đảo, bấn loạn thế này, em đừng suy nghĩ, đừng quyết định bất cứ điều gì. Thời gian sẽ làm nguôi ngoai. Lúc đó em sẽ tỉnh táo. Khi thật sự tỉnh táo, mọi suy nghĩ, mọi quyết định mới có thể sáng suốt, đúng đắn.
2. Tôi xin em đừng nói gì về vấn đề này với ai nữa. Nói với một mình tôi, thế là đủ. Hãy để cho nó lắng xuống. Thậm chí, nếu cần, hãy chôn sâu nó vào nấm mồ quá khứ. Đừng đeo bám nó. Nếu em cứ cố níu kéo nó, rồi than thân, trách phận, thì đau khổ của em chỉ càng đau khổ thêm. Em sẽ càng bí lối. Em sẽ là kẻ tự đào bới chính vết thương lòng của mình. Lúc đó em sẽ càng đau đớn hơn. Nặng hơn, nếu em không thể vượt qua, nó sẽ gây trong em sự xáo trộn, nhẹ thì mất ăn, mất khủ, giảm sức khỏe… Nặng thì có thể sẽ biến chứng từ một người dễ mến trở thành kẻ luôn luôn nuôi mặc cảm căm hờn, không còn tin người, không còn tin đời, thậm chí muốn nổi loạn, muốn làm một cái gì đó, ngay cả cái tồi tệ nhất vừa để tự khẳng định mình, vừa như để trả thù. Lúc đó, sẽ rất nguy hiểm, vì chính em trở thành con người của sự nguy hiểm.
3. Em hãy cố gắng tha thứ cho người đã lỡ đối xử tệ với em. Vì chưa cần nói đến khía cạnh đức tin, tha thứ cho kẻ xúc phạm đến mình là đòi buộc của Tin Mừng. Chỉ cần nói đến khía cạnh có lợi cho chính mình thôi, thì tha thứ mới là cách tốt nhất để lòng ta bới trĩu nặng, tâm hồn ta thanh thản hơn, cuộc sống của ta sẽ thăng bằng hơn. Tha thứ cũng sẽ thêm sức mạnh để ta có thể đào mồ chôn sự mất mát này vào quá khứ. Tha thứ sẽ nâng đỡ em, giúp em vượt qua hoàng cảnh, nhờ đó, em sẽ không trở thành con người của sự nguy hiểm.
4. Trên hết vẫn là cầu nguyện. Tôi xin em hãy quỳ trước thánh giá Chúa Giêsu, quỳ trước nhà tạm, quỳ thật lâu, đừng nói gì, chỉ cảm nghiệm. Trong cô tịch của sự lắng đọng, em sẽ thấy bình an, sẽ khám phá ra tình yêu của Chúa, khám phá đến tận cùng nỗi đau của em cũng chính là nỗi đau của Chúa, không chỉ khi Chúa chết trên thánh giá, mà chính là nỗi đau của Chúa ngay hôm nay, lúc này. Bởi Chúa đang đồng cảm với em. Người đồng cảm còn lớn hơn cả việc tôi đang ngồi lắng nghe từng lời em nói đây. Chính lúc em chìm lắng hoàn toàn trong thinh lặng trước Chúa, là lúc em nói nhiều nhất, gào thét to nhất và cầu nguyện dữ dội nhất.
II. NÓI VỚI NGƯỜI TRONG CUỘC.
Người trong cuộc thứ nhất là chính tôi. Tôi muốn đặt mình trở thành người trong cuộc để tự mình dấn thân vào chính kinh nghiệm mà cậu học trò của tôi đang trình bày. Từ đó, tự nhắc mình về nhiều bài học của đời sống, của những tương quan, của sự khôn ngoan và chính chắn trong những quyết định, những chọn lựa. Bởi nếu không dấn thân vào những khúc mắc thế này, thì bình thường không dễ gì có thể có bài học cụ thể nào dạy mình nghệ thuật sống cách xác đáng. Bài học tôi nhận ra cho mình là:
1. Trên hết mọi sự phải là lòng yêu thương. Chỉ có lòng yêu thương mới là thước đo quyền lực. Không có lòng yêu thương, quyền lực trở thành bạo chúa. Bởi không có lòng yêu thương, quyền lực của bạo chúa sẽ phán xét anh em độc đoán, nhẫn tâm. Thậm chí cuộc phán xét đó trở thành bản án “tử hình” anh em.
2. Chỉ có bình tĩnh mới có thể có đủ thận trọng suy xét một hoàn cảnh, một biến cố, một con người, ngay cả nếp sống, nếp nghĩ của chính con người đó. Sự bình tĩnh và thận trọng mới chính là cách giải quyết khôn ngoan nhất của “người có quyền”. Bình tĩnh, thận trọng, khôn ngoan sẽ giúp “người có quyền” phân biệt được đâu là chân lý, đâu là dư luận, và dư luận ấy do thành phần nào tạo ra, nhằm mục đích gì, chính xác bao nhiêu phần trăm. Nếu không như thế, “người có quyền” chỉ đáng giá của một kẻ dưới mức tầm thường.
3. Dù là “người có quyền”, nhưng “người có quyền” trước hết hãy là người đồng hành. Chỉ khi nào biến mình thành người đồng hành, gác quyền lực sang một bên, “người có quyền” mới có thể có được một tinh thần khiêm tốn. Chỉ có khiêm tốn mới nghe được lời của trái tim con người. Chỉ khi nào đi vào được trái tim con người rồi, “người có quyền” mới được phép phán quyết về một hoàn cảnh, hay một con người mà mình đang đối diện. Nếu không như thế, “người có quyền” lộ nguyên khuôn mặt của mình là một kẻ sống theo bản năng quyền lực. Nhưng con người đâu chỉ có bản năng. Vượt trên bản năng là tình cảm, tình yêu, lý trí, sự sống động của nội tâm… Bởi thế, “người có quyền” mà chỉ biết đem bản năng của mình ra để đối xử, thì “người có quyền” ấy cần phải được xét lại xem, anh ta có còn là người nữa không!
4. “Bề trên” chỉ thành công trong việc giáo dục “bề dưới” bằng sự đồng cảm, chở che, yêu thương. Nếu giáo dục bằng quyền lực, “bề trên” chính là thủ phạm và là kẻ gánh trách nhiệm trước tiên về việc “bề dưới” phải sống dồn nén, khiếp đảm. Hoặc tệ hơn, “bề dưới” trở thành con người của sự lỳ lợm, luôn luôn muốn nổi loạn, muốn trả thù, muốn phá vỡ sự bình yên xung quanh… Nếu đúng như thế, thì “bề trên” chính là con rắn độc, kẻ chủ mưu của việc truyền nộc độc sang “bề dưới”. Lúc này, cần phải đem con rắn độc, nghĩa là đem đầu mối của sự dữ ra xử, thì hầu như người ta lại làm điều ngược lại: xử kẻ bị truyền nộc độc. Bởi người ta quá nông cạn chỉ thấy sự nổi loạn của “bề dưới”, mà không hề suy xét xem, ai đã làm cho “bề dưới” nổi loạn.
5. Để có được một mức độ quân bình hết sức trong cách cư xử, kẻ làm “bề trên” hãy nhớ rằng:
Vì mình là “bề trên”, cho nên làm “bề trên” của anh chị em thì dễ, nhưng làm một người đồng hành với anh chị em thì rất khó.
Vì mình là “bề trên”, cho nên đóng vai trò của một giám thị hay giám luật thì dễ, nhưng làm một người bạn với anh chị em thì rất khó.
Tại sao ta cứ chọn cái dễ, mà không thử một lần đứng về phía cái khó? Dù biết rằng cái khó sẽ khó cho ta, nhưng nó mang lại hiệu quả của bình an, của tình yêu, của lòng biết ơn không nhỏ. Chính “bề trên” còn sợ khó, sợ khổ, thì tại sao áp đặt quyền hành trên chính những anh chị em của mình? Hay bề trên cũng chỉ tầm thường đến nổi chỉ biết giải quyết theo bản năng. Trớ trêu và nghịch lý làm sao, khi con người có mọi phương cách để giải quyết, thì lại chỉ giải quyết theo bản năng. Mà bản năng vốn không phù hợp với loài người…
******
Có thể, bạn sẽ cho rằng tôi “đao to búa lớn”. Nhưng có khi phải nhìn thẳng vào sự thật để can đảm rút ra những bài học thật cần thiết để sống trong đời. BỞi sống thành công là một nghệ thuật sống. Mà nghệ thuật sống có khi lại đến từ chính những lời hằn học, những chê trách nặng.
Chắc chắn, trong cuộc đời làm linh mục của mình, không ít lần tôi đặt bao nhiêu ách chồng chất trên đôi vai của biết bao nhiêu người. Thì thôi, một lần nói với chính mình như người trong cuộc, để từ nay thêm ý thức, càng tránh được sai sót nhiều bao nhiêu, càng tốt bấy nhiêu.
Mong ước trở thành ngọn đèn. Nhưng chưa thể trở thành ngọn đèn như mong ước, thì xin được ý thức từng chút, từng chút một, để hy vọng ngày qua ngày tiến gần đến niềm ước mong…
Và rồi thêm một lần chứng kiến giọt nước mắt của người, là thêm một cơ hội để tôi tích cóp bài học cho nghệ thuật sống trong đời tôi…
Lm. VŨ XUÂN HẠNH
1. Vẻ đẹp của đức Hiền lành
Để diễn tả vẻ đẹp ấy, đức Hiền lành được quan niệm như là hoa đức Bác ái. Cây Bác ái đã đẹp, bông hoa nảy sinh từ cây ấy càng thêm lộng lẫy. Bông hoa hiền lành tô điểm đời sống con người nên đẹp, tạo ra một cục xạ vô hình. Đã có xạ thì tự nhiên hương. Hương từ ngôn ngữ đến cử chỉ, hương từ hành vi đến tình liên đới vv... Đức Hiền lành thực là bông :
“Hoa thơm, thơm lạ thơm lùng,
Thơm cây đến rễ, người trồng cũng thơm” (Ca dao).
Đâu có được bông hoa Hiền lành, đấy luôn là mùa xuân : Bầu trời trong xanh, khí hậu mát mẻ êm đềm. Sống trong ấy ai cũng khoan khoái thanh thản và thắm tình anh chị em. Khác hẳn nơi không có được bông hoa ấy, cuộc sống của họ với nhau nhiều lúc như cua trong giỏ. Đêm ngày họ những khẩn khoản xin cho được bông hoa ấy. Khi được, họ hân hoan thở phào nhẹ nhõm, như vừa trút được tảng đá bấy lâu nay ghì cổ họ xuống. Ai nấy nhìn nhau hớn hở tươi cười; và vì quá sung sướng nhiều người cười khóc lẫn lộn.
Đức Hiền lành là hoa đức Bác ái còn mang một ý nghĩa là nó phải phát xuất từ đức Ái mới là thứ thiệt, có phẩm chất siêu phàm . Không vậy chỉ là tính chất tự nhiên, nếu quá sẽ trở thành nhu nhược, nhát gan khờ khạo, hay lại giả bộ khúm núm ủy mị như dân bụi đi xin. Cũng có thể là chịu vậy dưới sức ép của quyền lực như phạm nhân đứng trước quan toà, hoặc như tù nhân đứng trước viên cai ngục.
Như vậy đức Hiền lành là dấu chứng Bác ái, đức Bác ái biểu lộ thực chất của đức Hiền lành .
Vẻ đẹp của đức Hiền lành là vẻ đẹp anh dũng, chứ không yểu điệu. Vì nhờ nó mà người hiền “điềm tĩnh bình thản không gì làm xáo trộn, kể cả lời nói tàn tệ, hành động hung hãn. Nó như núi đá giữa biển khơi, sóng nước đập vào đều bị tan vỡ, phần nó vẫn đứng trơ trơ” (St. Climaque). Nó là sản phẩm của sức mạnh tâm hồn, hay là chính sức mạnh tâm hồn hành động cách êm ả.
Sách Thẩm phán có lời : “Mật ngọt chảy ra từ miệng người anh dũng” (Jug. 14,14).
2. Để nên người hiền.
Đến đây ta biết được đức Hiền lành là một tập quán tự chế mãnh liệt để kìm hãm cơn nóng giận bực tức, trấn áp và trấn tĩnh chúng bằng sức mạnh ý chí. Ai đã tập luyện đức Hiền lành đều thấy rằng phải triển khai nghị lực ý chí nhiều mới hy vọng chiến thắng trong trận mạc vừa thâm sâu, vừa cam go và dai dẳng. Ta chỉ thủ đắc bằng cố gắng và kiên trì.
Ai cũng biết thánh Phanxicô Salêsiô gương sáng chói về đức Hiền lành.
Bẩm sinh ngài nóng nảy dễ giận. Cải đổi được tính khí ấy, ngài đã phải trả giá bằng 22 năm chăm chú chiến đấu và cầu nguyện. Trong giờ nguyện ngắm ban mai, ngài nhắc lại điều dốc quyết phải hiền lành. Tối đến trong giờ xét mình, nếu có lỗi phạm, ngài tự phạt mình cách nghiêm ngặt. Trải qua thời gian dài cương quyết, thánh nhân chỉ thu hoạch được đức Hiền lành sau khi đã dũng cảm vun xới mảnh đất tâm hồn, và gieo vào đấy hạt giống hy sinh đủ loại.
Phần ta cũng không thể nên người hiền bằng phương thế nào khác là đấu tranh quyết liệt, can đảm và kiên trì.
Có người viện lẽ : “Tính tôi nó vậy rồi thì làm sao bây giờ ?” Thế rồi họ buông thả, không làm gì cho tính khí nên quân bình hơn, sự liên đới với tha nhân nên nhẹ nhàng dễ chịu hơn và tình bác ái thấm nhuần Phúc Âm hơn.
Chúa Thánh Thần cho ta một dấu chỉ như là căn tính người công chính : “Người công chính sửa sang đường lối của mình” (Prov. 21,29). Đây Chúa không nói tội nhân, mà nói người công chính phải sửa sang đường lối của mình. Phải chăng Chúa ám chỉ hàng linh mục, những người được coi là công chính. Nên hơn ai hết linh mục được kêu gọi ráo riết làm việc sửa sang ấy. Dứt khoát Chúa phải ngự trị trong linh mục, và cần giáo dân phải biết và nhìn thấy Chúa đang hiện diện trong linh mục qua cách sống hiền lành và khiêm nhường của ngài.
Lạy Chúa, xin ướp ngọt lời nói, hành động và mọi cách giao tiếp của con trong mật Hiền lành. Được nương náu trong đức Hiền lành, tâm hồn con luôn an toàn như “Bồ câu làm tổ trong hốc đá” (Cant. 2,14).
3. Thực hiện đức Hiền lành.
Sau khi đã tìm hiểu về bản chất và phương pháp tập luyện đức Hiền lành, nay nên suy nghĩ đến thực hiện làm sao cho khôn khéo.
Có bốn trường hợp cần phải thực hiện đức Hiền lành :
- Trường hợp thứ nhất là khi bị nhục mạ khinh khi.
Linh mục là người hình như đã được tiên liệu để luôn bị đả thương bằng trăm nghìn cách.
Thi hành nhiệm vụ ít khi linh mục thoát khỏi đắng cay. Lúc ấy cần biết lợi dụng để tập điềm tĩnh, và tỏ ra tâm hồn cao thượng bằng sự ở lặng và nhẫn nhục chịu đựng.
Một thánh nhân nói : “Bình tĩnh tiếp nhận lời lăng mạ có sức thuyết phục hơn việc hy sinh hãm mình nào khác ”. Bị lăng mạ tự nhiên cảm thấy như da thịt sục sôi lên. Lúc ấy vận dụng sức mạnh ý chí giữ được tâm hồn tĩnh lặng bình thản, đó là đức Hiền lành. Cuộc chiến đấu bên trong có khi thật gay go, nhưng sự xúc động đã được chế ngự, nên bề ngoài không tỏ dấu gì khác thường.
Để vững bước đi lên, tưởng nên nhìn theo gương Đức Kitô . Thuở bình sinh Đức Kitô lại đã không bị những người độc miệng gán cho đủ điều xấu đó sao ? Họ ghép Ngài vào cùng một duộc với phường tội lỗi, kết thân và ăn uống với chúng. Họ coi Ngài đã bị quỷ ám, dựa thế tướng quỷ mà trừ quỷ. Người đồng hương xem Ngài như kẻ điên khùng. Họ đã tính điệu Ngài lên sườn núi và đạp Ngài xuống vực thẳm cho chết đi.
Trước những hành vi xỉ vả ấy, Đức Kitô đã ứng xử khi thì bỏ qua và biến đi khỏi họ như nố xảy ra nơi người đồng hương (Lc 4,20-30). Khi thì Ngài vỗ nhẹ vào ức đoán của họ : “Quỷ mà chia rẽ nhau thì nước nó đứng vững sao được” (Mat 12,26), và “Nếu tôi dựa thế quỷ mà trừ quỷ, thì con cái các ông dựa vào thế ai mà trừ” (Lc 11,19). Khi thì Ngài lợi dụng để nói lên thanh thế và sứ mạng của Ngài : “Cũng như thầy thuốc không cần cho người khoẻ mạnh, mà cho người đau yếu. Tôi đến không để gọi người công chính mà để gọi người tội lỗi” (Mat 9,12-13). Sau đó Ngài quay lại nhắn nhủ các môn đệ : “Môn đệ không hơn thầy, đầy tớ không hơn chủ. Môn đệ được như thầy, đầy tớ được như chủ là tốt phúc lắm rồi.... Vậy nếu người ta đã gọi thầy là Béelzéboul thì phương chi là anh em” (Mat 10,24-25). “Thầy nói với anh em các điều đó để anh em yên tâm trong Thầy. Sống trong thế gian anh em sẽ chịu khổ nhiều. Nhưng anh em vững lòng cậy tin vì Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33).
- Trường hợp thứ hai là khi phải mắng trách .
Hiện nay trong đạo muốn quyền hành được tôn trọng và tuân theo cách chân tình, quyền hành ấy phải được đức Hiền lành ướp dịu. Khi thi hành quyền bính, phải sử dụng tối đa luật điều hoà... Đức Hiền lành bảo vệ quyền bính, tính nóng giận phá hủy. Người ta làm hỏng mọi việc khi quá dựa vào quyền hành, để rồi làm cao làm kiêu, nghiêm khắc lạnh lùng gay gắt, nhất là lại kèm theo sự nổi khùng chua chát. Với tính cách ấy người thuộc quyền dễ bị bực tức, và có thể đi đến chỗ quá đáng. Pierre de Blois nói : “Bề trên sửa dạy mà nóng giận nghiêm khắc là việc làm xấu”.
Ở đây tưởng nên theo ý kiến thánh Phanxicô Salêsiô : “Hiền lành có quá một tí còn hơn là khắc nghiệt”. “Là Giám mục của giáo dân, nhưng tôi thích tỏ mình là mẹ của họ hơn là Giám mục ”.
Về trường hợp này Phúc Âm kể hai ca nổi cộm :
a/ Bị cản đường lên Giêrusalem, mấy môn đệ nổi sùng : “Thầy cho phép chúng tôi khiến lửa trên trời phụt xuống thiêu rụi bọn này ”. Đức Kitô quạt nhẹ các ông : “Anh em không biết vì tinh thần nào mà ăn nói như vậy. Con Người không đến để tiêu diệt, nhưng để cứu sống” (Lc 9,54-56).
b/ Khi nghe Đức Kitô nói trước về cuộc tử nạn sẽ phải chịu, Phêrô kéo Ngài ra một bên nói nhỏ: “Thầy không thể chịu như thế được” (Mat 16,22). Với vẻ nghiêm nghị Ngài xua đuổi : “Lui lại, Satan, anh làm cớ cho Thầy bị vấp phạm ! anh chẳng nghĩ đến tư tưởng của Thiên Chúa, mà chỉ nghĩ đến tư tưởng của loài người” (Mat 16,23). Đã rõ Đức Kitô không mắng Phêrô là Satan. Nhưng tư tưởng ông phát biểu là của loài người phát xuất từ Satan, nghịch hẳn với tư tưởng của Thiên Chúa muốn Con Người phải chịu nạn chịu chết để cứu chuộc nhân loại, nên phải thẳng tay và tức khắc gạt bỏ. Sau phút ấy Thầy trò lại nhắn nhủ nhau : “Ai muốn theo Thầy, phải bỏ mình, vác thập giá mình mà theo. Ai muốn bảo vệ mạng sống mình thì sẽ mất. Ai liều mạng sống mình vì Thầy sẽ được lại sự sống. Được lời lãi cả thế gian mà mất mạng sống thì có ích gì. Ai có thể lấy gì đánh đổi được sự sống ? Con Người sẽ đến trong vinh quang cùng với các thiên thần mà ban thưởng cho mỗi người tùy theo công việc của họ” (Mat 16,23-27).
- Trường hợp thứ ba là khi phải từ chối.
Từ chối mà không gây buồn lòng là việc không dễ. Vì từ chối là gạt bỏ một ước vọng người ta ham thích, là đột nhiên dập tắt một mơ tưởng người ta ấp ủ, nên thường dễ gây mích lòng và phản kháng, không tỏ thì ngầm.
Điều người ta yêu cầu thường được coi là một ơn huệ, một đặc ân, nhưng biết đâu người ta còn cho đó là một quyền lợi của họ.
Người hiền lành chứa sẵn trong thâm tâm phương cách giảm nhẹ sự bất mãn của việc từ chối.
Người hiền lành thường mềm mỏng, giỏi co giãn lui tới, dễ làm cho việc từ chối mất đi sự cứng cỏi thiếu cảm thông. Kết quả là phủ dụ được đương sự nhận ra không phải vì khó, song lý đương nhiên buộc phải vậy : hoặc vì lợi ích chung riêng nào khác, hay phải phòng xa một bất tiện nào có thể xảy ra. Đồng thời cũng làm đương sự ý thức rằng : được như sở cầu mà không mắc mứu gì đến chuyện khác mới thật là vui.
Hôm ấy ba mẹ con Gioan và Giacôbê đến gặp Đức Kitô, bà mẹ lên tiếng : “Xin cho hai con tôi đây đứa ngồi bên tả đứa ngồi bên hữu trong nước Thầy. Đức Kitô đáp : Các người không hiểu điều mình xin. Các người có uống được chén Thầy sẽ uống không ? -Thưa, được”. Chúa dạy tiếp : “Thật các người sẽ uống chén Thầy, nhưng việc ngồi bên tả bên hữu Thầy không trong quyền Thầy mà do Cha Thầy sắp đặt..”. Rồi Ngài dạy chung các môn đệ : “Vua quan cai trị và ép dân phục vụ mình. Phần anh em không thế : ai làm lớn sẽ làm đầy tớ anh em, ai làm đầu sẽ làm tôi mọi anh em. Thầy đến không để được hầu hạ, mà để hầu hạ và phó mạng sống mình làm giá cứu chuộc mọi người” (Mt 20,20-28).
. Trường hợp thứ bốn là khi cần phải phản kháng.
Trong câu chuyện bàn cãi người ta dễ đi đến khích bác đả phá nhau. Trái lại, vì đã thấm nhuần đức hiền lành Phúc Âm, linh mục phải luôn có thái độ dung hoà. Khi tranh cãi qua cửa miệng hay trên giấy tờ, ngôn từ phải ôn tồn lịch thiệp tôn trọng, mới chuẩn bị người ta đón nhận sự thật. Hùng hổ bài bác hay đả
phá thẳng thừng chỉ làm người ta xoay lưng lại.
Sau hết vì lý do thuận hoà, và nhất là khi sự việc không mấy quan trọng, tưởng nên nhường lời trước khi nó nổ thành chuyện đáng tiếc. Hy sinh trong dịp này không giảm giá chân lý hay quyền lợi, mà còn tránh được nhiều lầm lỗi khi nóng nảy bênh vực quan điểm của mình.
Trong dinh Caipha, Đức Kitô trả lời vị Thượng Tế tra hỏi về môn đệ và giáo lý Ngài dạy thì bị một người thuộc hạ Thượng tế tát và mắng : “Mầy dám đối đáp với vị Thượng Tế như vậy sao ?”. Đức Kitô điềm đạm nói với anh : “Nếu tôi nói sai, thì hãy chỉ chỗ sai ấy. Nếu tôi nói phải thì sao lại đánh tôi ?” (Jo 18,22-23).
Xem cách Đức Kitô ứng xử trong các trường hợp thấy dịp nào Ngài cũng luôn là mình : hiền hậu bao dung. Gặp kẻ lỗi phạm Ngài không la mắng, song khôn khéo bênh vực và tìm cách cứu gỡ. Gặp cây sậy giập, Ngài không bứt bẻ đi mà bó táp cho nó tiếp tục sống. Gặp ngọn đèn leo lét, Ngài không phụt tắt đi, song Ngài châm thêm dầu và khêu bấc lên cho nó cháy sáng.
Cũng trong những trường hợp tương tự, có người anh em tôi thi hành biện pháp 3L :
. Trước thì dùng Lý
. Lý không được thì La
. La không được thì Lờ.
Nhưng ghép vào khuôn mẫu của Đức Kitô trên đây thấy không khít và còn bị hụt.
Người anh em khác cũng sử dụng biện pháp 3L ấy, nhưng có sự sửa đổi ở hai phần sau :
. Trước hết dùng Lý
. Lý chưa được thì Lay (nhắc hoài)
. Lay không được thì Lạy .
Hẳn người anh em này đã biết chuyện Đức Cha Mugnagori Trung, người Tây Ban Nha, Giám mục Bùi Chu trước Đức Cha Hồ Ngọc Cẩn. Truyện kể rằng : Khi cha Trung làm cha xứ Thái Bình, một cụ Annam ở xứ xa Tỉnh, dây dưa vào vụ cách mạng chống Pháp. Cụ bị bắt và giam tại khám Thái Bình. Cha Trung đi gặp viên chánh sứ Pháp biện hộ và đòi trả tự do cho cụ. Đi lại nhiều lần không có kết quả, mặc dầu đã nhờ cả bà vợ ông nói giùm. Lần chót ngài vào dinh gặp bày biện với cả hai ông bà, nhưng vẫn bị từ chối. Bất chợt ngài quỳ xuống cúi mình sâu lạy van. Quá ngỡ ngàng và xúc động, hai ông bà vội đỡ ngài lên, và nhận lời lo gấp cho cụ được về.
Vì thương các linh hồn, có trường hợp cũng phải tự huỷ mình đến thế. Nhưng một mối lợi rất quí đang chờ ở phiá trước là cũng như “Môisen được Chúa thương và người ta mến” (Eccli 45,1)
Lm. Goakim Mai Xuân Triết
Theo tài liệu tĩnh tâm linh mục Gp. Long Xuyên
HƯỚNG DẪN ĐỌC KINH THÁNH :
Cựu Ước
Bài 3
Ta phải phân biệt đọc một bản văn và nghiên cứu bản văn ấy.
Đọc một bản văn là bắt nó phải cho ta một ý nghĩa cho ngày hôm nay. Đây là điều chúng ta quen làm. Ta thường nói "đó là điều bản văn muốn nói với tôi... điều đánh động tôi trong bản văn nầy là...". Đọc như vậy thì rất dễ. Nhưng cũng có nguy hiểm bởi vì làm sao ta có thể bắt bản văn nói lên bất cứ điều gì ? Vì thế mà cần phải nghiên cứu.
Nghiên cứu tức là làm việc trên bản văn bằng những phương pháp phân tích, nhằm mục đích giúp ta thấy rằng có một khoảng cách giữa chúng ta với bản văn khiến ta không thể bước vào bản văn một cách trọn vẹn. Vì thế không nên liều lĩnh giải thích nó theo cảm quan và tâm lý của ta. Nghiên cứu cũng buộc ta phải đọc bản văn thật sát. Có những bản văn ta biết rõ (hoặc tưởng là biết rõ), chẳng hạn những bản văn Tin mừng, đến nỗi chúng ta không phải "đọc", mà chỉ nhìn lướt qua chúng, rồi lặp lại ý nghĩa mà ta thường nghe nói về chúng (một thí dụ : khi đọc Lc 2,1-20 người ta thường nói "đó là chuyện các mục tử đến thờ lạy Chúa". Nhưng bạn hãy đọc kỹ bản văn ấy xem, bạn sẽ thấy rằng các mục tử đến không phải để thờ lạy mà chỉ là để "giảng" cho Đức Maria nghe !).
Hai phương pháp phân tích :
Trước một bản văn chúng ta thường sử dụng hai loại phương pháp nghiên cứu. Xin lấy một thí dụ đơn sơ :
Bà cô của bạn viết thư cho bạn. Khi đọc thư bạn thấy được bà qua ý tưởng của bà, và bạn giải nghĩa bức thư theo những gì bạn đã biết về bà. Giả sử có đoạn bà than phiền, nếu như bạn biết bà có tính hay than phiền luôn thì bạn chẳng quan tâm, bạn chỉ nói : "bà ấy vốn là như vậy mà" ; trái lại nếu bạn biết bà là người rất nghiêm khắc với bản thân thì bạn sẽ nói : "bà mà than phiền thì chắc chắn là bà đang buồn khổ lắm". Hoặc hơn nữa, nếu trong thư có một câu công kích đám trẻ hay một nhóm xã hội bạn sẽ nói : "bà ta thuộc thế hệ xưa rồi nên không thể thông cảm với ngày nay". Tức là bạn đã đi ra khỏi bức thư để hình dung bà cô của bạn, và từ cái hình dung ấy bạn tìm hiểu xem bà cô muốn nói gì.
Cũng thế, bạn đang đọc một bản văn và gặp một đoạn khó hiểu. Bạn ngừng đọc một lúc để tìm hiểu ý nghĩa, bạn phân tích ngữ pháp. "Động từ ở đâu? Chủ từ ở đâu? Túc từ ở đâu...?", sau đó bạn đọc lại bản văn để tìm cho nó một ý nghĩa. Cũng có thể xảy ra là bạn thấy bức thư bắt đầu với giọng bi quan nhưng kết thúc cách lạc quan. Bạn đọc lại bức thư để xem cái gì đã khiến giọng điệu thay đổi như thế. Trong trường hợp này, bạn không ra khỏi bản văn nhưng bạn tìm hiểu trong chính bản văn.
Đó là hai cách nghiên cứu một bản văn, các chuyên viên đã sử dụng chúng và hoàn chỉnh chúng. Dưới đây ta sẽ xem họ đã sử dụng chúng như thế nào.
I. PHÂN TÍCH LỊCH SỬ :
Khi đọc bức thư của bà cô, bạn đặt câu hỏi "bà muốn nói điều gì đây ?", và để trả lời, bạn đặt bức thư vào đời sống hiện tại hoặc quá khứ của bà.
Đó cũng là câu hỏi chúng ta đặt cho một bản văn Thánh kinh : "Luca muốn nói gì? Tác giả sách Sáng thế muốn nói gì?".
Nhưng sự việc hơi phức tạp hơn. Phần bạn thì đã hiểu rõ bà cô của bạn. Nhưng chúng tôi thì không hiểu bà ; nếu tôi đọc bức thư ấy, tôi sẽ dựa vào chữ viết, vào những câu ám chỉ và tâm trạng bà biểu lộ để đoán bà bao nhiêu tuổi, môi trường sống như thế nào, muốn nói những gì v.v... nghĩa là từ hình dung mà tôi tạo ra về một con người, tôi sẽ giải thích bức thư của người ấy. Tôi phải biết rằng làm cách đó thì có phần mạo hiểm : vì tôi tạo ra một con người từ một bản văn, thế rồi sau đó tôi giải nghĩa bản văn từ hình dung về con người ấy.
Cũng tương tự như vậy, chúng ta chỉ biết Luca và tác giả sách Sáng thế qua những bản văn của họ. Do đó phải tiến hành cách thận trọng và không ngừng kiểm tra điều ta xác định.
1) Làm thế nào để đặt tác giả vào môi trường của ông ?
Việc nầy rất dễ đối với trường hợp bà cô vì bà thuộc thời đại của chúng ta. Dù vậy trong thư bà có nói tới trận đại chiến 14-18 thì tôi phải liên hệ với những gì tôi đã biết về cuộc chiến ấy. Đối với các sách trong Thánh kinh thì lại càng khó hơn nữa vì chúng được viết cách nay hai ba nghìn năm. Để đặt chúng vào môi trường, ta cần lưu ý những điểm sau:
- Tìm hiểu lịch sử dựa vào những gì được viết trong Thánh kinh, nhưng cũng phải dựa vào những tư liệu của các dân khác.
- Tìm hiểu văn chương thời đó : những người Do thái thời lưu đày bên Babylone đã dựa vào những huyền thoại vùng Lưỡng Hà Địa để trình bày tư tưởng của họ ; những người Do thái thời Đức Giêsu có những cách thức riêng để diễn giải một đoạn sách thánh...
- Tìm hiểu khoa Khảo cổ : thành Giêricô đã điêu tàn khi Giôsuê chiếm nó ; đã tìm thấy ở Giêrusalem một ao nước có 5 cửa mà Tin mừng có nói tới...
Dĩ nhiên những việc trên dành cho các chuyên viên. Nhưng cũng may là họ đã tốt bụng cho chúng ta được biết những kết quả vững chắc nhất mà họ đã tìm ra. Bạn có thể đọc chúng trong rất nhiều tác phẩm nổi danh, nhất là trong những bài dẫn nhập và những ghi chú trong ấn bản Thánh kinh (nhất là TOB và BJ).
2) Làm thế nào để đặt một bài tường thuật vào môi trường của nó ?
Chúng ta hay tưởng rằng tác giả của một bài tường thuật cũng giống như một chiếc máy ghi âm. Khi mở máy ra ta sẽ nghe lại chính xác những sự việc và những lời nói đã xảy ra. Sự thật không phải vậy : tác giả vừa thuật sự việc, vừa phản ánh sinh hoạt của ông và của thời đại ông. Hãy lấy vài thí dụ :
Luther đã sống vào thế kỷ XVI. Ta hãy đọc hai quyển sách đều của người Công giáo viết về ông. Một quyển viết khoảng năm 1900 và một quyển mới viết. Quyển thứ nhất viết đại khái như sau : Luther là một thầy tu hồi tục, đi quyến rũ một nữ tu, và do tính kiêu căng, ông đã đưa Âu châu và Giáo hội vào vòng máu lửa... Còn quyển thứ hai thì viết đại khái : Luther cũng có những yếu đuối như bất cứ ai trong chúng ta, nhưng ông là một tu sĩ rất say mê Thiên Chúa, luôn nghĩ đến việc cứu độ các linh hồn ; ông thấy rằng Giáo hội cần phải canh tân và trở về nguồn Thánh kinh ; tiếc thay ông đã bị loại ra khỏi Giáo hội... Trong hai quyển sách ấy, chúng ta được biết nhiều điều về Luther, nhưng nhất là ta thấy được tinh thần đại kết của những người Công giáo vào năm 1900 và vào thời đại bây giờ khác xa nhau đến chừng nào !
Cũng như cặp vợ chồng già kia thuật lại cuộc hôn nhân của họ vào buổi chiều ngày lễ vàng hôn phối. Muốn hiểu, tôi phải đặt lại cuộc hôn nhân này vào bối cảnh năm 1940, nhưng cũng phải đặt nó vào bối cảnh năm 1990 nữa. Bởi vì họ thuật chuyện theo ánh sáng của cả năm 1940 lẫn của năm 1990.
Cũng thế tác giả Thánh kinh thuật chuyện Abraham, nếu ông viết trong thời thịnh vượng của Đavít thì ông sẽ viết không giống như nếu ông viết 500 năm sau đó lúc đang bị lưu đày bên Babylone. Những lời nói của Đức Giêsu phải được hiểu theo ánh sáng lịch sử của những năm 30, nhưng cũng phải theo ánh sáng của sinh hoạt các giáo đoàn vào những năm 80 hoặc 90 là những giáo đoàn đã viết ra chúng.
Tóm lại : khái quát lộ trình của phương pháp phân tích lịch sử là : đặt một bản văn trở lại vào lịch sử của nó để có thể thấy được tác giả muốn nói gì (người ta cũng gọi phương pháp này là "lịch sử/phê bình" nghĩa là có phần phê bình riêng trong khi đặt bản văn trở lại vào lịch sử).
3) Phân tích duy vật :
"Đấy là một cách phản ứng của môi trường" chúng ta nghĩ thế khi đọc một câu trong bức thư của bà cô. Nghĩa là khi chúng ta nói, chúng ta tưởng là chúng ta đang nói, nhưng thực ra là chính môi trường và nền giáo dục của chúng ta nói qua chúng ta.
Phương pháp phân tích duy vật đặt bản văn trở lại vào lịch sử của nó vì cho rằng bản văn là sản phẩm của những điều kiện xã hội, kinh tế và chính trị của thời đó.
II. PHÂN TÍCH CƠ CẤU :
Ta dùng lại thí dụ bức thư của bà cô. Trước một câu khó hiểu, ta dừng lại một lúc để sắp xếp những yếu tố của câu ấy (chủ từ, động từ, túc từ v.v...) nhờ đó ta sẽ hiểu được ý nghĩa của câu.
Từ đầu thế kỷ XX, một khoa mới đã sinh ra, đó là khoa Dấu chỉ học (sémiothique: từ chữ Hy Lạp sémeion nghĩa là "dấu chỉ"), nhằm nghiên cứu ý nghĩa những dấu chỉ trong các yếu tố của ngôn ngữ. Các chuyên viên khoa nầy cho biết rằng ngoài ngữ pháp của câu, còn có ngữ pháp của bản văn nữa. Khi viết một câu ta phải để ý tới những quy tắc ngữ pháp, và khi viết cả một bài, ta cũng phải để ý tới những quy tắc ngữ pháp ấy (về thể loại thư tín, tường thuật v.v...).
Một trong những nét đặc thù của phương pháp nầy là : với phương pháp phân tích lịch sử, ta ra khỏi bản văn để giải nghĩa nó theo ánh sáng của điều tác giả muốn nói ; còn với phương pháp phân tích cơ cấu này, ta không ra khỏi bản văn, nhưng nghiên cứu trong chính bản văn và không cần quan tâm tới những ý hướng của tác giả ("tác giả đã chết !"). Ta mổ xẻ bản văn đủ mọi khía cạnh, nhưng đồng thời phải quên đi những gì ta đã biết trước về bản văn, phải gạt sang một bên điều mà ta muốn tìm, để chỉ tập chú vào một mình bản văn. Vì thế phương pháp nầy rất khách quan.
Một nhóm người đi dạo trong rừng. Có người thích nấm nên chỉ thấy nấm, đối với anh, rừng chỉ toàn là nấm ! Thế nhưng bạn của anh không thích nấm nên chẳng thấy nấm gì cả mà còn đạp nát chúng. Đối với anh nầy, rừng là chim, là cây, là đá, là hoa v.v... Cũng thế, khi chúng ta đọc một bản văn, thì một cách vô thức ta đã có sẵn một ý tưởng : chẳng hạn ta muốn tìm trong bản văn một lời khuyên, một trợ lực. Rồi ta mải mê tìm điều đó và chỉ thấy mỗi điều đó. Chính vì thế mà rất nhiều khi chúng ta không hiểu nhau. Giả sử như nhóm bạn kia khởi sự tham quan tổng quát toàn khu rừng và mở mắt quan sát tất cả nào nấm, nào chim, nào cây, nào hoa, nào đá... Sau đó, nếu ai thích thì làm một đợt tham quan thứ hai, người xem nấm, kẻ xem chim v.v... thì họ sẽ không nói rằng : "rừng chỉ toàn là nấm" hay "rừng chỉ toàn là chim".
Ích lợi của phương pháp phân tích cơ cấu, dù chỉ được sử dụng một cách rất thô sơ, là buộc chúng ta phải khảo sát bản văn dưới càng nhiều khía cạnh càng tốt, đồng thời quên đi quan điểm riêng có trước của chúng ta, để tập chú vào một mình bản văn. Sau đó ta có thể trở lại xem xét một khía cạnh nào đó, nhưng vẫn biết rằng còn có những khía cạnh khác nữa.
III. MỘT DỤ NGÔN :
Bây giờ ta hãy dùng một dụ ngôn để tóm lược những điều vừa nói trên. Tôi và một người bạn nghe một đĩa nhạc giao hưởng của Mozart. Mỗi người trong chúng tôi nghe khác nhau : tôi thấy bản nhạc ấy vui, còn bạn tôi lại thấy nó buồn. Đó là vì mỗi người nghe theo tâm trạng của mình lúc đó và phả tâm trạng mình vào bản nhạc : "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ".
Vì cách giải thích của chúng tôi quá khác biệt, cho nên để đi đến nhất trí thì chúng tôi phải nghiên cứu. Chúng tôi lấy một đoạn nhạc và nghiên cứu những nhịp, những lúc nhạc cụ này, nhạc cụ nọ nhập cuộc... Sau đó chúng tôi mở một quyển sách viết về Mozart để tìm hiểu xem ông muốn thể hiện gì qua bản giao hưởng ấy. Với hai phương pháp ấy, chúng tôi khám phá rất nhiều điều, loại trừ đi rất nhiều giải thích cá nhân chủ quan. Thật là hay. Tuy nhiên một bản giao hưởng được viết ra không phải để được nghiên cứu, mà để được nghe !
Vì thế chúng tôi mở máy ra nghe lại lần nữa. Việc nghiên cứu trước sẽ giúp chúng tôi nghe hay hơn, nhưng bây giờ chúng tôi tạm quên đi những gì đã nghiên cứu mà chỉ thả hồn lắng nghe thưởng thức bản nhạc. Chúng tôi tìm được một cảm hứng mới cho cuộc đời. Đây mới là điều chủ yếu.
Trong dụ ngôn trên, bạn thay chữ "nghe" bằng chữ "đọc", thay "bản nhạc" bằng "quyển sách" thì bạn sẽ có được điểm cốt yếu mà chúng tôi muốn nói với bạn trong bài nầy.
"HỘP ĐỒ NGHỀ"
I. TIẾP XÚC SƠ KHỞI :
Hãy đọc bản văn. Ghi ra những phản ứng tự nhiên bộc phát: điều gì đánh động bạn, điều gì làm bạn thích, điều gì làm bạn ngạc nhiên, điều gì làm bạn thắc mắc...
II. NGHIÊN CỨU BẢN VĂN :
1) Chính bản văn :
Hãy đọc lại bản văn, nhưng đừng để ý tới những ghi chú của quyển Thánh kinh. Nếu bản văn không dài quá thì hãy chép ra. Hãy tìm (nếu cần thì dùng những bút chì màu gạch dưới):
- Những từ hoặc nhóm từ lặp đi lặp lại tương ứng nhau, đối nghịch nhau...
- Những vai (nhân vật hoặc sự vật) : chúng làm gì ? nói gì ? điều gì xảy ra cho chúng ?
- Những nơi , những sự di chuyển : một số nơi có liên hệ đặc biệt với một nhân vật hay một ý tưởng nào đó không ?
- Những thì của các động từ, những chỉ dẫn khác...
Dựa trên những chi tiết vừa khám phá, bạn hãy tìm xem điều gì đang diễn ra trong bản văn ai (hoặc cái gì) làm hoặc tìm ai (hoặc cái gì) giúp cho việc làm hoặc cuộc tìm kiếm đó ? Ai (hoặc cái gì) cản trở việc ấy ? để ý xem có biến chuyển nào không từ đầu cho tới cuối bản văn : biến chuyển của ai (của cái gì) ? biến chuyển thế nào ? biến chuyển qua mấy giai đoạn ? biến chuyển nhờ ai (hoặc nhờ gì) ?
2) Đặt bản văn vào văn mạch :
Bản văn này thuộc về một chương, một phần, một quyển sách ? chỗ đứng của nó trong văn mạch ra sao ? nó mang lại điều gì cho văn mạch ?
3) Đặt bản văn vào thời của nó :
Bây giờ bạn dùng những bài dẫn nhập và những ghi chú của quyển Thánh kinh để trả lời những câu hỏi sau đây :
- Bản văn này được viết vào thời nào ? hoàn cảnh của dân tộc hoặc của tác giả lúc ấy ra sao ?
- Một số từ hoặc nhóm từ có mang một ý nghĩa đặc biệt nào không vào thời đó ?
- Bản văn này thuộc văn thể nào ?
- Thời đó có những bản văn nào tương tự không trong Thánh kinh hoặc ngoài Thánh kinh : bản văn Cựu ước này có nói lại những chủ đề Thánh kinh không ? Hãy nói lại những chủ đề quen thuộc của văn chương Ai cập hoặc Lưỡng Hà Địa ? những điểm nào giống nhau và khác nhau ? bản văn này của Tân ước có nói lại những chủ đề Do thái của thời Đức Giêsu không ? hay của những bản văn Cựu ước ? trong trường hợp này nó được soi sáng nhờ những bản văn ấy thế nào ?
- Nếu trong Thánh kinh có những bản văn tương tự, nhất là đối với các sách Tin mừng (bạn hãy xem những quy chiếu in bên lề trang sách Thánh kinh), bạn hãy so sánh chúng : những điểm nào giống nhau và khác nhau ? những điểm ấy có giúp bạn hiểu bản văn rõ hơn không ?
- Bản văn này được viết bởi một giáo đoàn và cho một giáo đoàn. Vậy ai nói với ai ? nhằm trả lời cho câu hỏi nào ?
4) Kiểm tra :
Xem lại những câu hỏi ban đầu: bạn có thể trả lời chúng không ?
III. ĐỌC BẢN VĂN :
Bây giờ bạn bỏ sang một bên những gì đã nghiên cứu được, và cả cái "hộp đồ nghề" nữa. Bạn đọc bản văn : nó nói gì với bạn ? nó giúp gì cho cuộc sống bạn ?
Etienne Charpentier
POUR LIRE L’ANCIEN TESTAMENT
Nxb Les Éditions du Cerf, Paris, 1990
Lm Carôlô HỒ BẶC XÁI chuyển dịch
Đại Chủng Viện Thánh Quý
Giáo dục con cái :
Công nghệ thông tin phát triển mạnh, mà tuổi trẻ càng nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin, thích nghi với cái mới, nên nhiều cha mẹ rất “lạc hậu” hơn so với con cái. Mặc dầu con cái vẫn yêu kính cha mẹ, nhưng các cháu vẫn muốn cha mẹ thức thời, không bảo thủ. Càng yêu quý cha mẹ bao nhiêu, các cháu càng muốn cha mẹ không lạc hậu với bước tiến của thời đại bấy nhiêu !
Điều đáng mừng là càng ngày càng có càng nhiều bậc cha mẹ tỏ ra nhạy cảm, rất thức thời, chịu khó lắng nghe, tôn trọng và bao dung với quan điểm của con cái. Nhờ vậy, hàng rào tâm lý ngăn cách giữa hai thế hệ dần dần được tháo gỡ, tạo nên sự cảm thông, chia sẻ giữa cha mẹ và con cái. Từ đó, con cái tìm thấy sức mạnh, niềm tin, chỗ dựa tinh thần để tăng thêm nghị lực trong việc dấn thân vào tương lai, nhập cuộc với dòng chảy mới.
Tuy nhiên, thực tế vẫn xảy ra tình huống cha mẹ - con cái không cảm thông được với nhau. Khi đó, cha mẹ ngoảnh mặt làm ngơ để mặc con cái tự xoay xở…tự vấp váp, tự rút kinh nghiệm. Đối nghịch lại, con cái cũng bất cần cha mẹ, bất chấp các lời khuyên và cả kinh nghiệm sống từ cha mẹ, để bướng bỉnh một cách liều lĩnh. Trong hoàn cảnh như thế, việc giáo dục gia đình xem như thất bại !
Hạnh phúc chỉ có được trong những gia đình có sự giao thoa giữa cha mẹ và con cái ; cha mẹ quan tâm nhưng không áp đặt mà biết lắng nghe, chia sẻ và bổ sung, năng đỡ con cái, giúp con cái tự bước đi trên đôi chân của mình.
Ngược lại, con cái cũng biết lắng nghe, nương tựa vào cha mẹ, trân trọng vốn sống, kinh nghiệm và tấm lòng yêu thương của cha mẹ, luôn biết làm vui lòng cha mẹ.
Mối quan hệ cha mẹ với con cái là mối quan hệ xã hội đầu đời, mang tính “mở hàng“cho tất cả mối quan hệ khác còn lại. Mở hàng suôn sẻ, mọi mối quan hệ còn lại sẽ thuận lợi theo.
Thạc sĩ giáo dục Võ Văn Nam
Theo báo Phụ nữ TPHCM
Con người trổi vượt lên những động vật khác vì có khả năng làm chủ và khả năng sống yêu thương. Tùy theo khả năng làm chủ của bạn mà bạn có được yêu hay không, vì tình yêu luôn cần đến yếu tố tự do, tự do tức là không nô lệ, tự do phải đi đôi với việc làm chủ. Nói cách khác, bạn chỉ có thể thực sự sống tự do khi bạn làm chủ được bản năng của mình, vì khi nô lệ cho bản năng bạn đã mất tự do. Có bạn ngộ nhận cho rằng tôi thích sống tự do, tôi tự do nghiện hút, tự do quan hệ sinh lý trước hôn nhân, nhưng thực sự bạn đó đang sống nô lệ cho bản năng mặc dầu đã nhìn trước được hậu quả bi đát của nó. Vì thế, nền giáo dục nhân bản của bất cứ một quốc gia nào cũng đều khắc sâu vào tâm trí con người là không được buông trôi theo bản năng, nghĩa là biết nói không với điều xấu. Muốn thế, chúng ta phải luyện tập cho mình thói quen biết sử dụng tự do, đó là thói quen làm chủ thái độ, làm chủ lời nói và làm chủ cảm xúc của mình.
1. Làm chủ thái độ
Một anh chàng phàn nàn: vợ em đẹp như đóa hồng, có năng lực làm việc rất thành công, nhưng mỗi khi không vừa ý là cô ấy hung dữ bẳn gắt như sư tử Hà đông. Những lúc như vậy em thường bỏ nhà đi ra ngoài. Nhưng nhịn làm sao mãi được.
Một chị vợ cũng than phiền: chồng em rất chịu khó, có tinh thần trách nhiệm cao nhưng anh ấy luôn lầm lì, hỏi đến thì cau có quát mắng, em rất sợ: trong khi đó ở cơ quan em có người rất tử tế yêu chiều em…
Nhiều người tự hỏi: mình sống rất trung thực và nhiệt tình, nhưng làm sao vẫn không được yêu. Nhà giáo dục không được học trò mến phục, cấp trên không được cấp dưới kính nể, cha mẹ không được con cái yêu quí, người mình yêu lại không yêu mình.
Tôi thường đề nghị các bạn hãy kiểm lại thái độ của mình, có thể bạn hay nhăn mặt, cau có khi gặp trái ý, có thể bạn vội nổi giận khi bị xúc phạm. Tất cả đều do bạn thiếu tự chủ, làm cho người khác sợ không dám đến gần, không dám kết thân, và rồi càng bị cô lập, bạn lại càng khó tính.
2. Làm chủ lời nói
Một bạn gái có ngoại hình rất đẹp, thông minh có cá tính mạnh nhưng rất buồn vì không được yêu mặc dù đã sắp 30 tuổi. Bạn kể rằng lúc mới quen, bạn trai rất thích em nhưng chỉ sau một thời gian lại nói với em rằng anh rất sợ người khôn quá như em. Qua trao đổi tôi thấy bạn đó rất tốt, có năng lực làm việc và tâm hồn trong sáng, nhưng bạn ấy có một yếu điểm là tính hiếu thắng. Mặc dầu bạn ấy sống rất thẳng thắn, trung thực nhưng vì thiếu tự chủ, nên thường vội phản ứng, làm phật lòng người nói chuyện với mình vì họ cho rằng họ không được tôn trọng. Đây là điều mà các bạn gái thông minh cần lưu ý.
Thực tế, tính tự chủ rất quan trọng, tự chủ làm nên phẩm cách của một người, làm tăng vẻ đẹp tự nhiên và năng lực cho người ấy. Nhờ tự chủ, bạn gìn giử được tình yêu và hạnh phúc trong gia đình vì bạn có một thái độ bình tĩnh, khôn ngoan để giải quyết được vấn đề và chinh phục được đối tượng.
3. Làm chủ cảm xúc
Các bạn trẻ khi mới có cảm xúc đầu tiên với người nào không nên vội tỏ tình, vì đối tượng sẽ nghĩ rằng bạn là người bồng bột hay là anh chàng bẻm mép, bạn chưa biết rõ bạn đó mà đã nói lời yêu thương thì bạn yêu thương cái gì đây. Khi hai bạn đã yêu nhau, nhưng còn trong thời gian tìm hiểu, nếu trong lúc đi chơi ở bên nhau có những giây phút rung động mãnh liệt, và bạn trai đòi hỏi bạn nữ, bạn nữ sẽ đặt vấn đề về nhân cách bạn trai, tình yêu của bạn đó thật hay giả. Ngược lại, nếu bạn gái dễ dãi quá, bạn trai cũng giảm bớt lòng tôn trọng cho đến lúc coi thường và chia tay.
Nhiều bạn gái không muốn bạn trai vượt qua ngưỡng, nhưng khi bạn trai đòi hỏi quá không biết phải đối phó làm sao? Lo sợ rằng nếu không cho, anh ấy nói rằng không yêu anh ấy và sẽ bỏ mình. Ý kiến bạn thế nào? Theo tôi, các bạn đừng hốt hoảng lo lắng. Hãy tự chủ – bình tĩnh giải thích. Nếu không được, đừng tiếc một người không làm chủ được bản năng. Vì một người không có khả năng làm chủ thường bị nô lệ cho bản năng. Vì thế họ khó có được đức tính chung thủy.
Tóm lại, tính tự chủ thể hiện được phẩm cách của con người, có thể luyện tập được nhờ giáo dục và những gương tốt trong gia đình. Vì thế, vai trò của gia đình rất cần thiết trong việc luyện tập thói quen biết tự chủ cho con. Yêu chiều con không có nghĩa làcho con được làm mọi đỉều con thích, nhưng nên kiên nhẫn giải thích cho con những điều tốt xấu, giúp con thực hiện những điều tốt và biết nói không với điều xấu. Đối với các bạn trẻ được lớn lên trong gia đình có giáo dục, các bạn hãy biết cám ơn ba mẹ vì nhờ đó mà mình có thể phát triễn nhân cách là yếu tố cơ bản để được yêu thương và hạnh phúc.
Phạm Thị Oanh
Chuyên viên tâm lý giáo dục và tình yêu hôn nhân gia đình
Đức thứ ba :
NGÔN
(Ăn nói
lịch sự)
Ngôn là lời nói mà chắc chắn là lời nói lịch sự và dễ nghe chứ không khó nghe
như có nhiều người đã dùng nó để chọc cười, để chửi hoặc để thoá mạ người khác.
Chúa Giêsu là Ngôi Lời đã làm người, Ngài là Lời của Chúa Cha và lời Ngài nói là
Chúa Cha nói, việc Ngài làm là làm theo ý của Chúa Cha, chỉ giảng dạy ba năm
nhưng Ngài đã chuẩn bị ba mươi năm trong gia đình Nagiarét, chỉ giảng dạy có ba
năm mà Ngài đã giáo huấn và dạy dỗ rất nhiều người tin và theo Ngài, tại sao vậy
? Thưa vì Chúa Giêsu đã nói Lời của Thiên Chúa, đã giảng lời sự thật và nhất là
chính Ngài đã sống như lời Ngài giảng.
Linh mục là Chúa Kitô thứ hai được xức dầu tấn phong để trở nên người nói lời
của Thiên Chúa, giảng dạy cho mọi người biết và tin theo Tin Mừng của Chúa
Giêsu, cho nên lời của linh mục giảng dạy là lời của Thiên Chúa, lời của linh
mục nói thì luôn là sự thật và làm mát lòng người nghe, lời linh mục rất có
quyền năng khi đọc lời truyền phép bánh miến và rượu nho trở nên Mình và Máu
thánh của Chúa Kitô.
Thưa các bạn,
Các bạn nghĩ coi, nếu một người bình thường ăn thô nói tục thì người ta đã chịu
không nổi, đôi lúc khinh thường và cho đó là người mất dạy, vô giáo dục, hoặc là
những đứa bụi đời lang thang đầu đường xó chợ, còn nếu một linh mục mở miệng ra
là chửi thề, ăn nói cộc cằn thô lỗ thì người ta nghĩ như thế nào và nói sao nhỉ
???
Một người vợ dịu dàng và nết na không phải chỉ trong thái độ cử chỉ nhưng cả
trong lời nói nữa, lời nói của nàng nhẹ nhàng và reo vang như khúc nhạc khiến
cho chồng nàng thích thú yêu thương, lời nói của nàng nhẹ nhàng và rất có hiệu
quả khi dạy dỗ bảo ban con cái của mình, bởi vì lời nói nhẹ nhàng thì có sức
mạnh hơn cả trăm cái bạt tai...
Ngôn là lời nói, không những nhẹ nhàng dễ nghe mà còn là lời nói trung thực phát
xuất từ trong một tâm hồn hiền lành thật thà và thấm nhuần tinh thần tu đức kính
Chúa yêu người.
Linh mục của Chúa Kitô trong vai trò là mẹ của giáo dân, các ngài cũng sẽ luôn
hiền lành và nhẹ nhàng trong cách nói năng để dạy dỗ giáo dân của mình, chứ
không phải là một dì ghẻ mỗi lần lên toà giảng là hết mắng chửi người này đến
phê bình người kia, làm cho con cái (giáo dân) nản lòng nản chí không muốn đi
nhà thờ nữa.
Ngôn là nói Lời Thiên Chúa.
Linh mục là người được đặt tay để trở thành người phát ngôn chính thức Lời của
Chúa, nghĩa là các ngài có bổn phận loan truyền Lời Chúa cho mọi người thuộc mọi
dân tộc và mọi quốc gia trên khắp thế giới, đó không những là bổn phận mà còn là
sứ mạng cao cả của các linh mục khi các ngài được Giáo Hội -qua Giám Mục- kêu
gọi và đặt tay xức dầu thánh hiến.
Cho nên lời của các linh mục luôn là lời đem lại bình an và động viên người ta
yêu mến Chúa và yêu thương tha nhân.
Được vinh dự là người phát ngôn chính thức Lời của Thiên Chúa, các linh mục cần
phải suy tư, đào sâu và sống Lời Chúa để có “chất” mà giảng dạy cho giáo dân
nghe và sống Lời Chúa như mình, các ngài là những thầy dạy người ta về chân lí
của sự sống đời đời là Chúa Giêsu Kitô, cho nên các ngài không thể lãng phí thời
gian vào các bộ phim hoặc những quyển tiểu thuyết không đem lại ích lợi cho việc
đào sâu và thực hành Lời Chúa.
Có một vài linh mục có thói quen tốt một ngày đọc vài hàng tin tức trên báo chí,
trên internet để biết tin tức thế giới và Giáo Hội, đọc một quyển sách thiêng
liêng và suy gẫm để có chất liệu giảng dạy cho giáo dân, những linh mục này là
kì vọng của giáo dân và là niềm hãnh diện cho Giáo Hội, bởi vì nơi các ngài đời
sống thánh thiện và tinh thần cầu tiến đã trở thành sức hấp dẫn người khác đến
với Chúa Giêsu.
Ngôn nơi toà giảng
Toà giảng là nơi công bố và giảng dạy Lời Chúa cho nên nó rất quan trọng, tầm
quan trọng này đến mức nào thì các linh mục chắc chắn hiểu rõ hơn những người
khác, nó quan trọng đến mức mà Giáo Hội cấm những người không phải là linh mục
được giảng trên toà giảng trong khi cử hành thánh lễ dù họ là tiến sĩ hay là nhà
bác học lừng danh thế giới, dù họ là ông tổng thống hay bà bộ trưởng...
Nơi toà giảng, ngôn từ của linh mục thật đặc biệt và cao quý bởi vì giờ đây
không còn phải là lời của các ngài nữa, nhưng là lời của Chúa Thánh Thần nói qua
miệng của các ngài để giáo dân hiểu và sống đúng lời dạy của Thiên Chúa, và nơi
đây -toà giảng- Lời Chúa trong bài Tin Mừng được vang ra từ miệng và từ tâm hồn
của linh mục để đến nơi từng tâm hồn của các tín hữu đang hiện diện và đang lắng
nghe Lời Chúa qua vị mục tử của mình, họ hân hoan phấn khởi lắng nghe và suy tư
những gì mà linh mục chia sẻ với họ, họ vui mừng vì những thắc mắc trong đời
sống đầy lo âu đã được linh mục -qua bài giảng- nói cho họ nghe và họ an tâm tin
tưởng phó thác cho Thiên Chúa cuộc sống của họ...
Đa số giáo dân thời nay đều biết và hiểu rất rõ toà giảng là nơi công bố và
giảng dạy Lời Chúa, là nơi mà chính họ đã băn khoăn bức xúc khi mà không được
đến nghe Lời Chúa trong các ngày chủ nhật hoặc là các ngày lễ trọng khác, là nơi
mà họ lấy làm tiếc rẽ khi đi lễ trể vì bận công việc nên không được nghe linh
mục giảng...
Thế mà có một số linh mục đã lợi dụng toà giảng để nói lời “của mình” cho giáo
giáo dân chứ không nói Lời Chúa cho họ nghe, các ngài đem những nổi bực tức của
mình trút lên đầu giáo dân nơi toà giảng, các ngài “giận cá chém thớt” trên toà
giảng, lời của các ngài không còn là Lời Chúa nữa bởi vì làm cho giáo dân bực
mình, lời của các ngài cũng không còn là lời giáo huấn nữa nhưng là lời dạy đời
thiên hạ, mà thiên hạ đó chính là những giáo dân của mình có người chín mươi
tuổi, có người bảy mươi tuổi, có người tuổi đáng cha ông của mình với kinh
nghiệm đầy mình, họ nghĩ gì khi nghe những lời dạy đời thiên hạ của một linh mục
đáng con cháu của mình, họ sẽ nghĩ rằng : chúng tôi đến đây là để nghe Lời Chúa
qua miệng các linh mục là những người thay mặt Chúa, chứ không phải đến đây để
nghe dạy đời qua miệng một người chưa từng lăn lộn với đời như chúng tôi...
Ngôn nơi toà giảng là ngôn (lời nói) đã được uốn lưỡi bảy mươi bảy lần bảy,
là ngôn đã được suy tư, đã được cầu nguyện và thánh hoá bởi chức thánh nơi
bản thân các linh mục, do đó mà ngôn của các ngài cần phải chừng mực không la
lối tại sao các ông các bà không đi lễ, không kể lể là tại sao quý vị không xin
lễ cầu hồn cho ông bà cha mẹ, và cũng không khen người này đã dâng cúng cho nhà
thờ và cha sở tiền bạc vật chất, người kia thì quanh năm không thấy đi xin lễ và
không đóng góp cho nhà thờ.v.v... Tất cả những ngôn từ ấy không phải để nói nơi
toà giảng trong thánh lễ -ngày thường hay chủ nhật- bởi vì những ngôn từ ấy
không phải của Thánh Thần và cũng không được uốn lưỡi bảy mươi bảy lần bảy trước
khi nói, cho nên nó dễ làm cho giáo dân ngao ngán mà bỏ nhà thờ đi lang thang
kiếm nhà thờ khác để tâm hồn bình an hơn...
Nếu vậy thì, ngôn của các ngài -nơi toà giảng- đã trở thành những ngọn roi tra
tấn tâm hồn những người yếu đức tin, làm rát tâm hồn những người ngoan đạo và
làm chảy máu tâm hồn của những người hết lòng yêu mến Giáo Hội Chúa Kitô.
Ngôn trong đời thường
Cuộc sống đời thường của mỗi người thì cứ theo thứ tự như sau : ngủ, ăn, làm
việc, nghỉ ngơi giải trí, trong bốn việc cần thiết này chỉ có ngủ là không nói
mà thôi, ngoài ra thì đều có nhu cầu khơi thông tức là lời nói.
Ăn cũng phải nói,
Làm việc cần phải nói,
Nghỉ ngơi giải trí cũng phải nói.
Các linh mục cũng không ra ngoài cái lệ này, nhưng -xét cho cùng- cuộc sống đời
thường của linh mục thì khác rất xa người khác về nội dung, bởi vì linh mục đã
được chọn để sống đời tận hiến cách đặc biệt giữa nhân loại như Chúa Giêsu đã
sống giữa dân Do Thái nơi làng Nagiarét vậy, do đó mà các linh mục cần phải cẩn
trọng lời nói của mình dù khi ăn, khi làm việc hay khi nghỉ ngơi giải trí, bởi
vì chính lời nói của mình sẽ phán xét mình trong ngày Chúa quang lâm.
1. Ngôn khi ăn uống
Cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ câu nói của một vị linh mục đáng kính đã nói với
chúng tôi : “Mỗi lần cha làm tiệc đãi các linh mục (bổn mạng, sinh nhật) thì
không bao giờ cha mời giáo dân cùng dự, ngay cả ban chấp hành của giáo xứ, bởi
vì các ngài (linh mục) khi ăn thì uống bia rượu nhiều hơn giáo dân và ăn nói thì
ồn ào rất tự do dễ gây gương mù gương xấu cho giáo dân”.
Khi ăn uống có rượu vào thì lời ra, đó là một “quy luật” tự nhiên, nhưng đó là
quy luật của người đời bởi vì họ thường cho rằng chỉ có rượu mới giúp họ giải
sầu, còn đối với các linh mục nói chuyện khi ăn uống là cả một mẫu mực cho mọi
người, có những linh mục khi ăn uống thì nói văng cả thức ăn ra, có linh mục khi
ăn uống thì đem chuyện giáo dân này giáo dân nọ ra mà nói giữa đám tiệc, và tệ
hơn có một vài linh mục khi ăn uống thì nói liên tu bất tận về mình...
Giáo dân đứng hầu bàn khi linh mục ăn uống là thái độ kính trọng của họ đối với
các ngài là đại diện Chúa Kitô, họ trân trọng mời linh mục lên bàn trên rất danh
dự vì chức vụ của các ngài quả là đặc biệt hơn các chức vụ khác của người thế
gian, và quan trọng hơn các ngài là người cha dẫn dắt linh hồn của họ. Nhưng có
những lúc -chúng ta- những linh mục của Chúa Kitô đã phụ lòng kính trọng của
giáo dân dành cho mình, chúng ta coi giáo dân là hạng thứ nên trong bữa tiệc
cùng ăn uống với họ, ngôn từ của chúng ta toàn là “dao to búa lớn” lên mặt kẻ cả
với họ, kêu người này bằng thằng, xưng người kia là tớ tớ cậu cậu (vai thấp) và
có khi cả mày mày tao tao rất ư là không hợp với lời nói và lối xưng hô của một
linh mục. Thân mật và thân tình trong cách gọi như thế giữa đám đông là không
đúng, bởi vì có nhiều người ngoại giáo sẽ lấy làm ngạc nhiên khi chúng ta vô
phép và bất lịch sự với người lớn tuổi hơn mình...
2. Ngôn trong làm việc.
Việc làm của linh mục đôi khi quá bề bộn và đôi khi cũng thật nhàn hạ, nhưng có
việc làm để bận rộn thì có lợi cho đời sống tu trì hơn là rãnh rỗi nhàn hạ.
Vì bận rộn với công việc của giáo xứ mà đôi khi linh mục cũng có những lời nói
không hay khi tiếp xúc với giáo dân. Có những linh mục khi mệt nhọc mà nghe giáo
dân hỏi chuyện thì càng bực thêm và có những lời nói gắt gỏng, có những linh mục
mà giáo dân không dám đến gần để hỏi chuyện hoặc là chuyện trò thân tình như con
cái trong gia đình, bởi vì ngài hay nạt nộ và có khi chê người giáo dân là không
biết gì, thế là họ không muốn đến chuyện trò bàn hỏi với linh mục của mình nữa.
Chúa Giêsu bận rộn rất nhiều với công việc giảng dạy và chữa trị đủ các thứ bệnh
hoạn cho dân chúng, nhưng chưa bao giờ thấy Ngài gắt gỏng với ai hoặc nói nặng
lời với họ, ngoại trừ đối với những người biệt phái kiêu căng coi mình là thầy
dạy thiên hạ.
Có những giáo dân thích nghe cha giảng trong nhà thờ chứ không thích hỏi chuyện
với ngài (!) vì ngài quá hách trong khi làm việc mục vụ, lời nói của ngài phán
ra thì bắt buộc mọi người phải nghe răm rắp dù lời nói ấy không phù hợp với hoàn
cảnh của họ và cũng không phù hợp với môi trường sống đạo của họ, có những linh
mục độc quyền ra lệnh chứ không muốn bàn hỏi với giáo dân, có những linh mục lớn
tiếng khi có giáo dân góp ý cho công việc của mình, có những linh mục thì đỏ mặt
tía tai cãi nhau với
giáo dân về vấn đề xã hội mà quên mất rằng mình là linh mục của Chúa Kitô chứ không phải là cán bộ nhà nước.
Công việc mục vụ của linh mục không như công việc hành chánh của nhà nước, công
việc mục vụ của ngài đòi hỏi trước hết là thinh lặng lắng nghe tiếng Chúa dạy
qua hoàn cảnh của giáo xứ và qua cuộc sống của mình, kinh nghiệm cho biết linh
mục nào cầu nguyện nhiều hơn thì khi tiếp xúc với giáo dân đều có những lời nói
rất tế nhị mà sâu sắc, hoà nhã và thân ái, bởi vì chính các ngài đã hiểu được
mình là ai khi cầu nguyện với Chúa và giáo dân là ai khi tiếp xúc với mình :
ngài là linh mục của Chúa Kitô và giáo dân là những người đã được Chúa trao cho
các ngài dạy dỗ đường nên trọn lành.
Linh mục Chúa Kitô luôn hoà nhã với hết mọi người, lời nói của các ngài luôn
phản ảnh tâm hồn vị tha và khiêm tốn, đôi lúc có một chút hài hước đáng yêu để
mọi người nhận ra cha sở của mình không phải là một ông quan bệ vệ làm bộ làm
tịch với dáng điệu và lời nói của “người bề trên”...
3. Ngôn khi nghỉ ngơi giải trí
Ở ngoại quốc hình như mỗi tuần đều có ngày nghỉ ngơi của cha sở, có giáo phận
thì nghỉ ngày thứ hai, có giáo phận thì nghỉ ngày khác trong tuần, và một năm
thì được nghỉ một tháng, đó là những nghỉ ngơi có ích cho các linh mục bận rộn
với công tác mục vụ trong tuần hoặc trong năm. Tuy nhiên hội dòng của chúng tôi
thì không có ngày nghỉ vì đấng tổ phụ của hội dòng -cha Vincent Lebbe- đã dạy :
thay đổi công việc là nghỉ ngơi.
Có linh mục lợi dụng ngày nghỉ ngơi của mình để đi leo núi, có linh mục thì tắm
biển, có linh mục thì đi thăm bạn bè, và có linh mục thì đọc sách báo viết lách
trong ngày nghỉ, tất cả đều là hồng ân của Thiên Chúa ban cho.
Ngôn trong giải trí của linh mục của Chúa Kitô cũng đáng được mọi người để ý,
bởi vì có một vài linh mục khi cùng nhau chơi cờ đominô giải trí cũng có những
lời lẽ “vượt quá” tầm mức chức vụ của mình, tức là các ngài vì quá hưng phấn
trong giải trí nên thốt ra những lời không mấy hay ho chẳng khác chi người đời;
cũng có một vài linh mục cùng nhau giải trí đã to tiếng cãi nhau đến mặt đỏ gân
xanh nổi lên trên khuôn mặt vốn hiền hoà khả ái của mình, khiến cho giáo dân
cười “tủm tỉm” các cha của mình mà cũng như thế...
Nghỉ ngơi giải trí không có nghĩa là buông lỏng con người của mình, giải trí
cũng không có nghĩa là thích gì làm nấy mà quên mất mình là Linh mục của Chúa
Kitô, nhưng giải trí có nghĩa là thư giản tâm hồn và thân xác sau một tuần, một
năm mệt nhọc vì công cuộc mục vụ truyền giáo của mình và lợi dụng kỳ nghỉ để bồi
dưỡng thêm tu đức của mình trong những lúc cầu nguyện và giải trí.
Nghỉ ngơi giải trí không có nghĩa là mình hết làm linh mục để rồi ngôn hành như
những người ngoài đời, nhưng trong cách nghỉ ngơi giải trí cũng luôn làm nổi bật
nét hiền hoà thánh thiện của một linh mục, có một vài linh mục nghỉ ngơi giải
trí bằng cách coi phim, coi truyền hình đến nổi gắt gỏng khi có người gọi điện
thoại hỏi thăm cha sở, lại có linh mục bực tức vì phải tiếp khách trong ngày
nghỉ hàng tuần của mình...
Một người vợ hiền là một người mẹ biết chăm lo cho chồng con và dọn dẹp nhà cửa
khi được nghỉ trong tuần, nàng hết sức lợi dụng những ngày nghỉ để chu toàn bổn
phận làm vợ và làm mẹ trong gia đình, do đó mà nết na đức hạnh của nàng bay xa
và chồng nàng và con cái của nàng rất hãnh diện về nàng.
Cũng vậy, linh mục là hiền thê của Chúa Kitô và của Giáo Hội, ngài cũng là mẹ
của các giáo hữu trong giáo xứ của ngài, cho nên dù là đang kỳ nghỉ hay giờ giải
trí, dù là xuất ngoại, leo núi hay tắm biển thì tâm hồn của ngài cũng luôn hướng
về đoàn con của mình nơi giáo xứ, và lời của ngài lúc này chính là những lời cầu
nguyện thiêng liêng và thánh thiện nhất cho con cái của mình, và như thế cuộc
nghỉ ngơi giải trí của ngài thật giá trị và trở nên mẫu gương sáng cho mọi
người.
Ngôn trong đời sống tu đức
Đời sống tu đức của các linh mục thì chắc chắn là trổi vượt hơn giáo dân, bởi vì
các ngài là thầy dạy đàng nhân đức cho mọi người, do đó mà đời sống của các ngài
luôn trở thành mô phạm phản ảnh trung thực sống đời sống của Chúa Giêsu ngay
trước mặt giáo dân tại trần gian này, cho nên thiết nghĩ ngôn (lời nói) trong
đời sống tu đức của các linh mục khác xa ngôn trong cuộc sống bon chen của giáo
dân. Ngôn trong đời sống tu đức chính là...không nói gì cả, nhưng lắng nghe và
làm cho đúng điều mà mình đã lắng nghe trong khi cầu nguyện, đó là ngôn phát
xuất từ tâm linh đã được soi sáng bởi Chúa Thánh Thần nơi các linh mục hiền thê
của Chúa Kitô.
1. Ngôn trong thinh lặng.
Linh mục có cái uy của linh mục, cái uy này không phải làm bộ làm tịch mà có,
cũng không phải tập tành điệu dáng đi đứng cho nó uy nghi bệ vệ như những vị
tướng tá hay những ông quan hống hách, nhưng cái uy của linh mục hệ tại nơi tâm
hồn của các ngài.
Có linh mục rất dễ thương đơn sơ với hết mọi người, vậy mà không ai dám hó hé
với ngài cái gì cả, bởi vì nơi ngài toát ra vẻ uy nghiêm thánh thiện của linh
mục; có linh mục rất ít nói nhưng khi nói thì ai cũng thích nghe và có thái độ
kính trọng bên ngoài lẫn bên trong tâm hồn, bởi vì nơi ngài phát ra một hấp lực
khiến cho người đối diện kính nể. Tại sao vậy ? Thưa vì các ngài dùng tâm hồn để
nói.
Dùng tâm hồn để nói tức là im lặng, bởi vì trong thinh lặng người ta dễ dàng
nghe được cả những âm thanh nhỏ nhất, cũng vậy linh mục Chúa Kitô khi thinh lặng
suy tư cầu nguyện thì sẽ thấy và nghe được rất nhiều điều trong giáo xứ và trong
mỗi tâm hồn của con chiên bổn đạo của mình, mà đã nghe và thấy thì chắc chắn lời
nói có giá trị và hiệu quả hơn nhiều. Đa số giáo dân thích và yêu mến một linh
mục nói ít làm nhiều hơn là nói nhiều làm ít, bởi vì nói nhiều không phải là “cá
tính’ của thiên chức linh mục nhưng là cá tính của cá nhân người linh mục, cho
nên để xứng đáng hơn với thiên chức linh mục cao quý của mình thì người linh mục
càng phải luyện tập cá tính của mình cho phù hợp với chức vụ thánh mà mình đã
lãnh nhận, đặc biệt là tính nói nhiều, bởi vì nói nhiều là bày tỏ một tâm hồn
khoe khoang và rỗng tuếch. Kinh nghiệm cho thấy người nói nhiều là người ít làm
việc và làm không tốt, một linh mục nói nhiều là một linh mục ít cầu nguyện và
dù việc làm của ngài có thành công dưới mắt người đời chăng nữa, nhưng sẽ không
bền lâu vì không có nền tảng khiêm tốn và cầu nguyện.
2. Ngôn trong khi giảng dạy.
Giảng dạy đây không những ở trên toà giảng trong thánh lễ mà ngay cả
trong cuộc sống đời thường : khi dạy giáo lý, dạy học chữ ở nhà trường, dạy các
lớp khác có liên quan đến đời sống tôn giáo của giáo dân...
Có một vài linh mục khi giảng dạy thì tự khoe khoang mình quá đáng nên có những
lời không được thực tế và không khiêm tốn, có một vài linh mục khi dạy giáo lý
hôn nhân cho người sắp làm đám cưới thì không một chút tế nhị với đôi bạn trẻ
với những câu hỏi khiến họ đỏ mặt tía tai; lại có những linh mục khi dạy giáo lý
cho trẻ em thì dùng những lời lẽ như đe doạ và thái độ như ông kẹ làm cho các em
có ấn tượng không mấy thiện cảm về cha sở của mình...
Ngôn trong giảng dạy là ngôn từ giáo dục chứ không phải ngôn từ tranh luận, là
ngôn từ của con tim hiền hoà chứ không phải là của tra tấn và kiêu căng, cho nên
người linh mục của Chúa Kitô như người mẹ hiền dạy dỗ con cái mình nên người,
nàng không cáu gắt khi dạy con, nàng cũng chẳng la lối thoá mạ, nhưng với tất cả
tình mẫu tử nàng yêu thương và có khi rơi nước mắt khi dạy dỗ con cái mình.
Thiên Chúa là tình yêu, tình yêu này được tỏ hiện qua Con Một của Ngài là Chúa
Giêsu Kitô, Đấng là tình yêu và vì yêu mà chết để tình yêu được thăng hoa và
viên mãn, chính Ngài muốn tình yêu này được liên tục thực hiện giữa trần thế cho
đến ngày thế mạt, nên đã chọn các linh mục làm những hiền mẫu thay mặt Ngài đem
tình yêu đến cho nhân loại, do đó mà các linh mục khi thi hành bổn phận bảo ban
dạy dỗ giáo hữu của mình thì cũng như một bà mẹ hiền với giọng nói hiền hoà và
con tim yêu thương trong một tâm hồn khiêm tốn, đó chính là linh mục của Chúa
Kitô và người mục tử nhân hiền của giáo dân vậy.
Ngôn (lời nói) của linh mục thì rất có ảnh hưởng trên giáo dân, dù cho ngài là
cha sở hay cha phó, hay đang về hưu, dù cho các ngài ở đâu và bất cứ lúc nào
cũng đều được giáo dân vâng lời và nể vì, bởi vì với đức tin mà họ đã lãnh nhận,
với giáo huấn mà họ đã học được trong Giáo Hội Công Giáo, với đức vâng lời như
Chúa Giêsu, họ (giáo dân) luôn luôn coi các ngài như những người thay mặt Thiên
Chúa dạy dỗ họ, ban các bí tích ân sủng của Chúa cho họ, cho nên họ luôn yêu mến
và kính trọng các linh mục của mình, đó chính là một mẫu gương nhân đức mà chúng
ta -linh mục- cần phải noi theo, tại sao ? Thưa, bởi vì có một quan niệm “khó
hiểu” nơi một số các linh mục trẻ rằng : mình là linh mục thì cũng giống như các
linh mục khác, cho nên tự cho mình ngang hàng với các linh mục đàn anh lớn tuổi,
không có ý nể vì các vị đàn anh đáng bậc cha ông ấy của mình, thế là các linh
mục trẻ ăn nói ít lễ phép, tự do phê bình các vị lớn tuổi và -có lúc- còn cho
mình học cao học giỏi hơn các vị ấy, thậm chí còn phát ngôn rằng : thần học các
vị ấy học là xưa rồi không hợp thời và cổ hủ...
Ngôn là đức thứ ba trong “công, dung, ngôn, hạnh” của người con gái có nề nếp
gia phong, và cũng là của các linh mục -những hiền thê của Chúa Kitô và của Giáo
Hội- có thể nói “công, dung” là tiêu biểu cho cái vẻ bên ngoài, và “ngôn, hạnh”
là tiêu biểu cho cái nội tâm bên trong, cho nên người ta có thể nghe lời nói của
một linh mục -hoặc của ai đó- thì biết rằng “công lực” tu đức của ngài tu luyện
đã đến mức nào rồi vậy.
----------------------------------
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
( Còn tiếp nhiều kỳ )