Số 54 CN 01. 10. 2006
Chúa Nhật 26 Thường Niên ( 01.09.2006)
Bài thuyết trình của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI tại đại học Regensburg.
SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊĐICTÔ XVI
CHO NGÀY THẾ GIỚI TRUYỀN GIÁO LẦN THỨ 80 NĂM 2006
Vài dòng về tiểu sử Đức Cha Giuse Maria Nguyễn Quang Tuyến
Chia sẻ với em: ''Linh mục, Chúa Ki-tô thứ hai''. (tiếp theo)
ĐỨC CHÚA Ở CÙNG BÀ
Bài Tin Mừng Lc 1, 26 – 38
Julbell có một bài hát nổi tiếng khắp thế giới từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, và chắc có lẽ mãi mãi còn đọng lại trong lòng người nghe. Bài hát rất quen thuộc. Đó là bài Ave Maria.
Điều gì đã khiến cho nhạc sĩ có được cảm xúc một cách dạt dào để viết lên một bản nhạc tuyệt vời như vậy?
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc Đức Chúa Trời ở cùng Bà. Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ”. Chính lời kinh tuyệt vời đó đã làm nên cảm xúc không phải chỉ một Julbell mà cho biết bao nhạc sĩ trong lịch sử âm nhạc của thế giới viết nên những bản nhạc tuyệt vời và chính lời kinh đó làm nên ngày lễ Mân Côi hôm nay. Tại sao vậy?
Trong lịch sử Giáo Hội vào khoảng thế kỷ 16. Anh em Hồi giáo làm một cuộc chinh phục thế giới. Bởi vì họ đi từ vùng Trung Đông sang Á châu đến An Độ. Họ đổ bộ lên Au châu. Đi đến đâu thắng đến đó. Khi đổ bộ đến Au châu, đi vào một vịnh của nước Ý. Một đoàn quân thiện chiến như thế thì quân Ý làm sao mà đối đầu được. Nếu để thua thì Ý sẽ thất thủ, thủ đô của Giáo Hội Công giáo là Rôma cũng biến mất và cả Au châu cũng bị đe doạ.
Đức Giáo Hoàng Piô V bấy giờ lên tiếng kêu gọi cầu nguyện, và cầu nguyện bằng kinh Kính Mừng.
Ngày 7/10 năm ấy quân của Công giáo chiến thắng. Chiến thắng không phải nhờ khả năng quân sự mà là nhờ sự phù trợ của Mẹ Maria. Vì thế Đức Giáo Hoàng đã lấy ngày đó làm ngày lễ Đức Bà chiến thắng. Sau này thành lễ Mân Côi.
Nói đến chiến thắng, có lẽ chúng ta nghĩ đến chiến thắng về quân sự, kinh tế, chính trị. Không, Chúa Giêsu không ban cho mình chiến thắng đó. Khi đối diện với Philatô Ngài đã trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này thì binh lính tôi đã đến giải thoát tôi khỏi tay người Do Thái”.
Ta cần nhìn vào chiến thắng ở một góc độ khác. Đó là chiến thắng chính mình. Một danh tước trong lịch sử thế giới đã thường nói:” Không có cuộc chiến đấu nào khó khăn hơn chiến đấu với chính bản thân mình.”
Mỗi chúng ta có thể cảm nghiệm điều đó trong cuộc sống. Đức Cha Pul-ton- Shin, Ngài nói: “Nếu bạn chấp nhận một cuộc chiến đấu trong tâm hồn bạn, thì sự bình an sẽ giải tỏa trong cuộc sống xã hội. Ngược lại, nếu bạn không chấp nhận cuộc chiến đấu đó, mà bạn đi tìm thỏa hiệp với cái xấu và tội lỗi trong tâm hồn bạn, thì chiến tranh sẽ lan tỏa trong cuộc sống xã hội”.
Nói như thế có nghĩa là chuyện chiến thắng chính mình là một cuộc chiến rất khó, nhưng nó lại là căn bản để dẫn đến cuộc sống bình an cho mọi người. Chuỗi Mân Côi, những lời kinh Kính Mừng đan kết lại với nhau thành xâu chuỗi. Chuỗi mân côi đó có khả năng giúp cho ta tập chiến thắng chính mình. Tại sao vậy?
Ở phương Đông khi nói về con người, người ta hay nói đến thân, trí, tâm. Triết học phương Tây ngày xưa, khi học tâm lý học nói đến con người, người ta nói đến tình cảm và ý chí. Cũng tựa như nhau. Khi các bạn lần chuỗi mân côi thì cả thân, cả trí, cả tâm, có nghĩa là tất cả con người toàn diện chúng ta được chi phối. Chúng ta hãy nhớ lại, khi ta lần chuỗi có nghĩa là trong tay của mình cầm chuỗi đó là cái thân. Việc cầm một xâu chuỗi ảnh hưởng đến trí và tâm mình.
Có một linh mục kể chuyện: Trong một lần ngài đi máy bay, ngồi cạnh nhà sư, thấy trên tay nhà sư cầm xâu chuỗi, miệng lâm râm nam-mô-a-di-đà-phật. Linh mục hỏi nhà sư : Tại sao lần chuỗi vậy? Nhà sư bảo: Chúng tôi lần chuỗi như thế này tâm trí đỡ căng thẳng. Thế thì bên các ngài không có cái gì giống vậy à?
Linh mục trả lời: Có chứ, nhưng mà chúng tôi lần chuỗi không phải để cho tâm trí bớt căng thẳng, mà chúng tôi nhắm cái khác cơ. Nhà sư nói với vị linh mục thế này: Cha ạ, nếu cha muốn tập trung vào một điều gì, thì trong tay của cha phải có một cái gì, nhờ đó cha sẽ dễ tập trung hơn.
Vị linh mục học được một bài học, hóa ra chuỗi Mân côi mình cầm trong tay giúp cho cái trí của mình tập trung. Khi các bạn lần chuỗi là trong tay cầm xâu chuỗi, nó giúp cho trí của mình tập trung vào lời kinh, và còn tập trung vào cuộc đời của Chúa Giêsu mà kinh mân côi mô tả từ khi Ngài sinh ra cho đến cuộc sống công khai, đến khi bị chết trên thánh giá chịu táng trong mồ, sống lại, lên trời, ban Thánh Thần xuống cho Giáo Hội.
Tất cả cuộc sống của Chúa Giêsu. Một thứ Tin Mừng thu gọn được tóm lại ở trong chuỗi mân côi, đồng thời khi chúng ta lần chuỗi như vậy tâm của mình tịnh lại. Đối với người trẻ hôm nay đang sống trong một thời đại tốc độ, mà người đọc như thế thật mất thì giờ. Tôi đã từng nghĩ như vậy. Nhưng sau này khi tìm hiểu lại lịch sử linh đạo, tôi mới thấy đó là một phương pháp rất hay cho cuộc sống tâm linh. Những lời con người vắn tắt được lặp đi lặp lại như thế nó làm cho tâm của mình tĩnh lại.
Có một người học trò người Việt Nam, sau này sang Mỹ viết thư về kể cho tôi nghe kinh nghiệm về việc sống đạo của anh ta : Cuộc sống quá nhiều khó khăn đến mức độ chịu không được, nên đêm đến về nhà muốn phá toang, la toáng lên: Tại sao lại đổ trên đầu tôi những sự khổ sở thế này. Bất chợt nhìn lên đầu giường thấy một tràng chuỗi treo ở đấy. Nó liền chạy đến cầm lấy ngồi đọc kinh. Chỉ mới có 10 kinh thôi là thấy tâm hồn của mình lắng xuống. Em học trò đó khẳng định: Lần đầu tiên sau một số năm con tìm lại được kiêu ngạo tôn giáo.
Khi lần chuỗi Mân côi thì toàn diện con người của mình: thân, trí và tâm đều được chi phối. Cùng sự chi phối đó thì chuỗi Mân côi làm cho nơi chúng ta hình thành một con người mới chống lại những gì xấu trong tâm hồn mình.
Con người ta sống ở đời này bao giờ cũng sống trong ba mối tương quan chính: tương quan với Thiên Chúa, tương quan với tha nhân, tương quan với thế giới vật chất. Tội lỗi chúng ta nó cùng nằm trong ba mối tương quan đó. Khi lần chuỗi mân côi, Mẹ Maria sẽ giúp chúng ta sống những tương quan đó tốt đẹp.
Chẳng hạn khi chúng ta lần chuỗi chúng ta đọc: Chúa Giêsu lên trời, xin cho lòng con được hưởng những sự lên trời. Chúng ta sẽ sống mối tương quan với Thiên Chúa; chúng ta sẽ sống một tâm hồn siêu thoát hơn; khi chúng ta đọc : Mẹ Maria đi viếng thăm bà Isave, xin cho được lòng yêu người. Đó là lời cầu xin tương quan với tha nhân, bằng tình yêu thương chứ không phải là hận thù ghen ghét; khi chúng ta đọc Chúa Giêsu chịu đóng đinh, xin cho đóng đinh tính xác thịt mình vào thánh giá Chúa; đó là tương quan với thế giới vật chất, với chính xác thịt của mình.
Chuỗi mân côi giúp cho chúng ta chiến thắng cái xấu ở nơi bản thân mình, hoàn thành một con người mới, con người mới đó sẽ tác động trong cuộc sống, làm cho cuộc sống được đẹp hơn.
Đức Cha Pul-ton- Shin là một diễn giả nổi tiếng ở Mỹ. Ngài chỉ giảng trên đài truyền hình chứ không giảng ở nhà thờ. Nhiều bạn trẻ xin Ngài chứng hôn cho lễ cưới của mình. Ngài đồng ý chứng nhận với hai điều kiện, hai bạn đó phải hứa với Ngài mỗi ngày vợ chồng phải đọc chung với nhau 50 kinh Kính Mừng. Lời kinh nối kết vợ chồng giúp cho vợ chồng xây dựng cuộc sống gia đình tốt đẹp hơn.
Hình như bây giờ các bạn trẻ ít lần chuỗi lắm. Hôm nay tôi muốn nói về giá trị của kinh Mân côi. Chúng ta đừng xem thường, lại càng không nên xem đó là chuyện đạo đức rẻ tiền. Chúng ta hãy cầu nguyện để khám phá ra giá trị tuyệt vời của kinh mân côi. Nếu chúng ta không đọc được nhiều, tôi xin đề nghị mỗi ngày chỉ đọc 1 kinh Lạy Cha, 3 kinh Kính Mừng, 1 kinh Sáng Danh. Chúng ta hãy nuôi dưỡng trong tâm trí mình ý nghĩ: khi tôi đọc kinh mân côi, đó là phương cách để tôi đào luyện bản thân, để tôi chiến thắng chính mình, để tôi sống đời đức tin tốt hơn. Amen.
Lm. Phêrô Nguyễn Khảm
NHỮNG BÔNG HỒNG NGOẠI
Hằng năm, tháng 10 là thời gian Hội Thánh dành riêng để tôn kính Đức Mẹ. Cách tôn kính truyền thống trong tháng này là cầu nguyện theo kinh Mân Côi.
Năm nay, thời cuộc gợi ý cho tôi tôn kính Đức Mẹ trong tháng Mân Côi này một cách hơi độc đáo. Đó là dâng lên Mẹ những bông hồng thiêng hái từ vùng đất ngoài công giáo.
Xưa, nhiều người ngoại đạo đã được Chúa Giêsu khen ngợi vì họ ngoại đạo mà sống đạo rất tốt. Thực là phải lẽ, nếu coi những người ấy là những bông hồng ngoại trong Nhà Chúa.
Nay, nhiều người ngoại đạo cũng rất đáng được khen ngợi, vì họ sống Phúc Âm còn tốt hơn người công giáo. Chúng ta nên coi họ là những bông hồng ngoại trong Nước Trời.
Ở đây, tôi chỉ nêu lên vài trường hợp người ngoại, mà Chúa Giêsu đã khen, và tôi gọi là bông hồng ngoại. Từ đó mỗi người chúng ta sẽ nhận ra những người ngoại giống như họ đang sống xung quanh ta. Tìm ra rồi, ta sẽ cùng Đức Mẹ dâng những bông hồng thiêng đó lên Chúa với lòng cảm tạ ngợi khen.
1/ Bông hồng ngoại toả hương thơm đức tin
Phúc Âm thánh Matthêu kể: "Khi Đức Giêsu vào thành Caphácnaum, có một viên đại đội trưởng đến gặp Ngài và nài xin: 'Thưa Ngài, tên đầy tớ của tôi bị tê bại nằm liệt ở nhà, đau đớn lắm'. Chúa Giêsu nói: 'Chính tôi sẽ đến chữa nó'. Viên đại đội trưởng đáp: 'Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi sẽ được khỏi bệnh. Vì tôi đây, tuy dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền tôi. Tôi bảo người này: Đi, là nó đi, bảo người kia: Đến, là nó đến, bảo người nô lệ của tôi: Làm cái này, là nó làm'. Nghe vậy, Đức Giêsu ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Ngài rằng: 'Tôi bảo thật các ông, tôi không thấy một người Ítraen nào có lòng tin như thế. Tôi nói cho các ông hay: Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Ápraham, Ixaác và Giacóp trong Nước Trời. Còn con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng vào chỗ tối tăm bên ngoài. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng'. Rồi Đức Giêsu nói với viên đại đội trưởng rằng: 'Ông cứ về đi. Ông tin thế nào thì được như vậy'. Và ngay giờ đó, người đầy tớ ông được khỏi bệnh" (Mt 8,5-13).
Trong câu chuyện trên đây, chính Chúa Giêsu đã tôn vinh đức tin viên sĩ quan ngoại giáo. Một đức tin khiêm tốn, một đức tin đơn sơ, một đức tin mạnh mẽ vững bền.
Đức tin như thế vẫn nhận thấy hiện nay nơi nhiều người ngoài công giáo. Họ có thể là những người quyền quý. Nhưng phần đông họ sống cảnh nghèo, bệnh tật. Có người như chìm sâu dưới đáy vực thẳm thất vọng hoặc trong đường hầm tăm tối. Nhưng một số người trong họ vẫn can đảm phấn đấu. Sau cùng họ đã tìm được lối thoát. Nhờ niềm tin vào Đức Mẹ.
Họ biết rất sơ sài về Đức Mẹ. Nhưng họ tin tuyệt đối vào Đức Mẹ. Tôi nghĩ là chính Đức Mẹ đã ban cho họ niềm tin. Niềm tin ấy ví tựa cây hoa hồng, mà Đức Mẹ gieo trồng và chăm sóc. Chúng ta hãy đứng bên họ, để cùng họ ca ngợi tình Mẹ xót thương.
2/ Bông hồng ngoại toả hương thơm đức ái
Trong Phúc Âm thánh Luca, khi nêu gương sáng về bác ái, Chúa Giêsu đã chọn một người ngoại giáo. Người đưa ra dụ ngôn với những chi tiết cụ thể.
Một người bị bọn cướp trấn lột, bị trọng thương, nằm bất động bên vệ đường. Mấy vị chức sắc tôn giáo đi qua, nhìn thấy cảnh đó, nhưng bỏ đi. Sau cùng, một người ngoại đạo cỡi ngựa đi qua, thấy vậy, đã xuống ngựa, và chăm sóc cho nạn nhân một cách rất chu đáo (x. Lc 10,30-35).
Hồi đó, dụ ngôn trên đây có lẽ đã làm buồn lòng những người theo đạo Chúa, vì Chúa Giêsu không tìm gương bác ái nơi họ, mà lại đưa một người ngoại để làm gương.
Thời nay, tình hình có khác. Người có đạo vốn coi việc thực thi bác ái là bổn phận căn bản của đạo. Nhưng không vì thế, mà khẳng định được rằng: Trên thực tế, mọi người công giáo, mọi miền công giáo, đều nêu gương sáng về bác ái.
Phải thành thực mà nhận rằng: Hương thơm bác ái đã và đang toả ra một cách rõ ràng và hấp dẫn từ nhiều cá nhân, nhiều nhóm, nhiều tổ chức ngoài công giáo.
Không thiếu người kể cả người công giáo, tại Việt Nam hôm nay, dám làm chứng rằng: Trong nhiều trường hợp khó khăn, họ đã nhận được tình yêu thương giúp đỡ từ những người ngoài công giáo. Họ tưởng mình đã bị loại trừ, nhưng họ đã gặp được những cái nhìn, những bàn tay, những tình nghĩa chân thành cứu họ từ một thế giới không phải là công giáo.
Riêng tôi, tôi nhìn những chứng nhân bác ái đó là những bông hồng thơm đẹp. Thời nay việc bác ái là cách sống đạo có sức thuyết phục. Chúng ta hãy cùng Đức Mẹ mà dâng họ lên Chúa là nguồn tình yêu.
3/ Bông hồng ngoại toả hương thơm biết ơn
Phúc Âm thánh Luca thuật lại rằng: "Lúc Chúa Giêsu vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: 'Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!' Thấy vậy, Đức Giêsu bảo họ: 'Hãy đi trình diện với các tư tế'. Đang khi đi thì họ được sạch. Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samari. Đức Giêsu mới nói: 'Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?" (Lc 17,12-18).
Biết ơn là một đức tính nhân bản rất được tôn trọng khắp nơi. Riêng tại Việt Nam, lòng biết ơn được coi như một yếu tố tôn giáo truyền thống.
Biết ơn phải được thực hiện bằng những việc cụ thể, với những nhân tố cụ thể.
Mọi người công giáo Việt Nam hôm nay đều ý thức điều đó và cố gắng thực thi điều đó. Nhưng, biết đâu lời Chúa Giêsu phiền trách xưa vẫn còn đúng một cách nào đó nơi này người nọ tại Hội Thánh ta.
Trái lại, lòng biết ơn lại là một thứ bông hồng thơm đẹp dễ gặp được ở nhiều người ngoại đạo. Chính vì thế, mà chúng ta sát lại bên họ, để hiệp thông, và để cùng Đức Mẹ cảm tạ Thiên Chúa là Cha chung mọi người.
Tới đây, chắc mọi người đã hiểu được ý hướng của tôi về tháng Mân Côi năm nay. Hình thức vẫn như cũ. Nhưng tinh thần thì mở rộng ra. Mục đích để chúng ta gần lại các người ngoài công giáo với tinh thần trân trọng khiêm tốn. Thời sự hiện nay mời gọi chúng ta thực thi điều đó.
ĐGM. GB Bùi Tuần
Đây là toàn văn bài thuyết trình của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI trình bày hôm 12 tháng 9, 2006 cho các nhà khoa học tại đại học Regensburg. Bài thuyết trình đề cập đến tương quan giữa lí trí và đức tin đồng thời mổ xẻ ba giai đoạn trong tiến trình giải trừ ảnh hưởng văn hoá Hi Lạp trong đức tin Kitô giáo.
Đức Tin, Lí Trí và Đại Học
Hồi tưởng và Suy Tư
Thưa quý Bà quý Ông thân mến,
Thật là một kinh nghiệm xúc động cho tôi khi một lần nữa lại được đứng trên bục giảng của trường đại học này để thuyết trình. Tôi hồi tưởng lại những năm trước đây khi, sau một thời gian thật tốt đẹp tại Viện cao học Freising, tôi bắt đầu giảng dạy tại Đại Học Bonn này. Đó là vào năm 1959, trong những ngày tháng tại ngôi trường cũ gồm các giáo sư chuyên khoa. Nhiều giáo sư không có cả trợ giáo lẫn thư kí riêng, nhưng bù lại đã có nhiều tiếp xúc trực tiếp giữa chúng tôi với sinh viên và giữa các giáo sư với nhau. Chúng tôi thường gặp gỡ nhau trong phòng họp của ban giảng huấn. Ở đó đã diễn ra những cuộc trao đổi sống động giữa các nhà sử học, các triết gia, các nhà ngữ học, và dĩ nhiên là giữa hai phân khoa thần học.
Mỗi học kì có một buổi “dies academicus – ngày học thuật” trong đó các giáo sư từ mỗi phân khoa đứng trước các sinh viên của toàn trường đại học thể hiện một kinh nghiệm thật sự về “universitas”: Một thực tại theo đó bất kể sự chuyên biệt hoá cuả chúng tôi, mà đôi lúc tạo ra những khó khăn khi trao đổi với nhau, chúng tôi cố gắng hình thành một tập thể trong khi đào sâu mọi thứ trên căn bản của một lí trí duy nhất với những khía cạnh khác nhau của nó, và trên căn bản của trách nhiệm chung về sự sử dụng lí trí cách đúng đắn – Đó là một kinh nghiệm sống động.
Trường đại học này cũng rất tự hào về hai phân khoa thần học. Rõ ràng là qua việc suy xét tính chất hợp lí của đức tin, hai phân khoa đã tiến hành một công trình là phần thiết yếu của “toàn bộ ” ‘universitas scientarium’ , ngay cả nếu như không phải mọi người đều có thể chia sẻ đức tin mà các thần học gia tìm cách chứng minh rằng nó thuộc về lí trí phổ quát. Tương quan nội tại giữa lí trí với vũ trụ chẳng hề gây phiền hà cho ai ngay cả khi có ai đó tường thuật là một đồng nghiệp của chúng tôi tuyên bố rằng cái trường này thật kỳ lạ: nó có tới hai phân khoa dành cho một điều không hiện hữu là Thiên Chúa. Dẫu phải đối diện với chủ thuyết hoài nghi triệt để như thế, vẫn cần thiết và hợp lí để nêu ra câu hỏi về Thiên Chúa qua việc sử dụng lí trí, và tiến hành điều đó trong bối cảnh của truyền thống đức tin Kitô giáo: Điều này vẫn chưa được thảo luận trong toàn trường đại học.
Tôi đã hồi tưởng lại tất cả điều này khi vừa mới đọc một ấn bản của giáo sư Theodore Khoury (Muenster) về phần đối thoại diễn ra – có lẽ vào năm 1391 trong các trại lính mùa đông gần Ankara - giữa hoàng đế uyên thâm của Byzatine là Manuel II Paleologus và một học giả Ba Tư về chủ đề Kitô Giáo và Hồi Giáo, đồng thời về chân tính của cả hai tôn giáo.
Có lễ chính hoàng đế đã đề xướng cuộc thảo luận này, diễn ra trong thời kì Constantinople bị vây hãm từ năm 1394 cho đến 1402, và điều này giải thích tại sao lập luận của ông được trình bày chi tiết hơn là những lí lẽ do học giả người Ba Tư đưa ra. Cuộc đối thoại đã bàn rộng về các cấu trúc của đức tin chứa đựng trong Thánh Kinh và trong Kinh Koran, và đề cập một cách đặc biệt đến hình ảnh của Thiên Chúa và của con người, và thường quy chiếu vào tương quan của “ba Bộ Luật”: Cựu Ước, Tân Ước và Kinh Koran.
Trong bài thuyết trình này tôi chỉ muốn trình bày một khía cạnh duy nhất – tự nó có lẽ là ngoài lề của cuộc đối thoại nêu trên, nhưng trong bối cảnh của vấn đề “đức tin và lí trí”, tôi thấy là lí thú và có thể dùng phần dẫn nhập cho những suy tư của tôi về vấn đề này.
Trong đoạn đối thoại thứ bảy, do giáo sư Khoury biên soạn (‘dialexis’ – một cuộc tranh luận dài), vị hoàng đế đã đề cập đến chủ đề djihâd (thánh chiến). Hoàng đế biết chắc rằng đoạn sura 2:256 viết là: “Không có sự cưỡng buộc trong vấn đề đức tin”. Đó là một trong những đoạn sura của thế kỉ đầu khi Mohammed chưa có quyền hành trong tay và đang bị đe doạ đến tính mạng. Nhưng hiển nhiên hoàng đế cũng biết đến những huấn thị, được khai triển sau đó và được ghi vào Kinh Koran, liên quan đến thánh chiến.
Không đi vào những chi tiết, chẳng hạn sự phân biệt đối xử giữa những người tuân giữ “Sách Thánh” và “những kẻ vô đạo”, hoàng đế đã hướng người đối thoại với mình một cách bất ngờ về câu hỏi trọng tâm liên quan đến tương quan giữa tôn giáo và bạo lực nói chung, với những lời sau: “Hãy chỉ cho tôi thấy Mohammed đã mang lại điều gì mới, và ở đó anh chỉ thấy toàn là sự dữ và phi nhân, chẳng hạn như lệnh truyền của ông ta là phải dùng gươm giáo để truyền bá niềm tin ông ta rao giảng”.
Hoàng đế vẫn tiếp tục giải thích chi tiết về những lí do tại sao việc truyền bá đức tin bằng bạo lực là điều vô nghĩa lí. Bạo lực mâu thuẫn với bản tính Thiên Chúa và bản chất của tâm hồn. “Thiên Chúa không hài lòng trước máu me, và không hành xử hợp lí(‘sunlogô’ ) là đi ngược với bản tính Thiên Chúa. Đức tin được sinh ra bởi linh hồn chứ không phải bởi xác thịt. Vậy những ai muốn dẫn dắt người ta đến với đức tin cần có khả năng ăn nói thuyết phục và suy luận chuẩn xác, không được dùng đến bạo lực và những đe doạ...Để chinh phục một linh hồn có lí trí, ta không được “thượng cẳng chân, hạ cẳng tay”, dùng vũ khí các loại, hay dùng những phương thế đe doạsự chết chóc cho con người...”.
Tuyên bố có tính chất quyết định trong lập luận chống lại việc cưỡng bách cải đạo được phát biểu như sau: Không hành động phù hợp với lí trí là mâu thuẫn với bản tính của Thiên Chúa. Giáo sư Theodore Khoury nhận xét rằng: Đối với hoàng đế, “một người Byzantine, được giáo dục trong nền triết học Hi Lạp, khẳng định này là hiển nhiên. Nhưng đối với giáo huấn Hồi Giáo, Thượng Đế là tuyệt đối siêu việt. Ý chí của Người không bị trói buộc bởi các phạm trù của chúng ta, ngay cả trong phạm vi lí trí.” Ở đây, Khoury trích dẫn một tác phẩm của một học giả về Hồi Giáo người Pháp, ông R. Arnaldez, người đã chỉ ra rằng Ibn Hazn đã đi xa đến nỗi cho rằng “Thiên Chúa không bị ràng buộc cả với chính những lời của Người, và không có gì khả dĩ buộc Thiên Chúa phải mặc khải chân lí cho chúng ta. Và nếu mà Chúa muốn thế, ắt chúng ta đã phải thờ các tà thần.”
Liên quan đến việc hiểu biết về Thiên Chúa và qua đó là sự thực hành tôn giáo cụ thể, chúng ta đối diện với một nghịch lí mà ngày nay đang trực tiếp thách thức chúng ta. Liệu xác tín cho rằng hành động mâu thuẫn với bản tính Thiên Chúa có phải chỉ là một ý tưởng theo văn hoá Hi Lạp, hay đó luôn là một chân lí tự thân là đúng?
Tôi nghĩ rằng ở đây chúng ta có thể thấy sự hoà quyện sâu xa giữa điều gì là Hi Lạp theo nghĩa đẹp nhất của từ đó và đức tin vào Thiên Chúa theo Kinh Thánh. Lấy lại câu đầu của Sách Khởi Nguyên, Thánh Gioan bắt đầu lời tựa cuốn Phúc Âm của ngài bằng những lời sau: “Từ khởi đầu đã có Logos”.
Đây chính là từ mà vị hoàng đế đã dùng: Thiên Chúa hành động với logos. Logos có nghĩa cả lí trí và Lời – một thứ lí trí sáng tạo và có khả năng tự cho mình tham dự vào, nhưng đích thị vẫn là lí trí. Thánh Gioan đã dùng từ ngữ cuối cùng này để trình bày khái niệm Thánh Kinh về Thiên Chúa, và chính từ này mở ra mọi nẻo đường tìm về đức tin theo Kinh Thánh, thường là khó khăn và ẩn khuất, nhưng tìm thấy đỉnh cao và sự hợp nhất giữa chúng. Tự khởi đầu đã có Logos, và Logos là Thiên Chúa, thánh sử đã cho biết như thế. Sự gặp gỡ giữa sứ điệp Thánh Kinh và tư duy Hi Lạp không phải diễn ra tình cờ.
Thị kiến của Thánh Phaolô, người đã thấy những nẻo đường đến Châu Á bị chặn lại và trong một giấc mơ đã thấy một người Macêđônia cầu khẩn với ngài: “Hãy đến Macêđônia và giúp chúng tôi!”(x. Cv 16, 6-10) – có thể diễn giải như một sự thu tóm tất cả nhu cầu bức thiết là làm sao dung hợp đức tin và những vấn đề Hi Lạp.
Thực tế là sự dung hợp này đã diễn ra trước đó lâu rồi. Danh xưng mầu nhiệm Thiên Chúa, được mặc khải từ trong bụi gai đang cháy, một danh xưng tách biệt Thiên Chúa khỏi tất cả các thần khác với những tên tuổi đa dạng của nó, chỉ để xướng tên Người là Đấng Hằng Hữu, đã đưa ra một thách đố cho ý niệm thần thoại, vốn không phải không có sự tương đồng nội tại với toan tính của Socrate muốn xoá bỏ, vượt qua thần thoại. Trong Cựu Ước, tiến trình khởi đầu là bụi gai đang cháy đạt đến một mức trưởng thành mới trong thời Lưu Đày, khi Thiên Chúa của Israel giờ đây bị tước mất quê hương và phụng tự, được tuyên xưng là Thiên Chúa của trời và đất, và được mô tả trong một công thức nguyên thuỷ vọng lại những lời phát ra từ bụi gai đang cháy “Ta là.”
Thể thức tuyên xưng mới về Thiên Chúa như thế giờ đây được kèm theo một sự khai sáng, biểu lộ rất hiệu qủa trong việc chê bỏ các thần, chúng chỉ là sản phẩm của bàn tay con người (x. Tv115). Vì thế, bất chấp sự đối đầu quyết liệt với nhà cầm quyền theo văn hoá Hi Lạp, những kẻ muốn áp đặt tục lệ và tà giáo Hi Lạp, đức tin Thánh Kinh trong giai đoạn Hi Lạp đã gặp gỡ những nét tinh tuý cuả tư duy Hi Lạp ở một mức độ rất sâu đưa đến kết quả là tạo nên một sự phong phú hỗ tương, có thể thấy rõ nét nhất trong hình thức văn chương khôn ngoan về sau.
Ngày nay, chúng ta biết rằng bản dịch Cựu Ước sang tiếng Hi Lạp được hoàn thành tại Alexandria – bản Septuagint – không chỉ đơn giản là bản dịch Cựu Ước từ tiếng Hip-ri: Đó là một chứng cứ độc lập bằng văn bản và là một bước nổi bật và quan trọng về lịch sử Mặc Khải, nhờ nó mà cuộc gặp gỡ giữa đức tin và văn hoá Hi Lạp này trở thành yếu tố quyết định cho sự khai sinh và mở rộng Kitô giáo. Từ phạm vi sâu xa, một cuộc gặp gỡ giữa đức tin và lí trí, một cuộc gặp gỡ giữa sự khai sáng chính thực và tôn giáo đã diễn ra nơi đây. Từ chính bản chất đức tin Công Giáo, và đồng thời, từ cốt lõi tư duy Hi Lạp mà giờ đây đức tin đã kết tụ lại nơi con người hoàng đế Manuel II để ông có thể tuyên bố: Không hành động “theo Logos” là mâu thuẫn với bản tính Thiên Chúa.
Với tất cả sự trung thực, khi nhìn vào cuối thời kì Trung Cổ, chúng ta thấy đã có những khuynh hướng thần học chủ trương tách rời sự dung hợp giữa tinh thần Hi Lạp và học thuyết Kitô. Đối lập với thuyết gọi là duy trí của Thánh Augustinô và Thánh Tôma, đã nảy sinh ra thuyết duy ý chí của Duns Scotus, là thuyết mà chung cuộc đã dẫn tới khẳng định rằng chúng ta chỉ có thể biết “voluntas ordinata ” (ý muốn ngoại hướng) của Thiên Chúa. Ngoài phạm vi này, đó là lãnh vực tự do của Thiên Chúa, trong đó Người cũng có thể làm những điều trái ngược với những gì ngài đã thực sự làm.
Điều này khơi lên những lập trường gần với những điều do Ibn Hazn đưa ra, và có cơ tạo phác ra hình ảnh một Thiên Chúa độc đoán, một Thiên Chúa không bị ràng buộc ngay cả với chân lí và sự thiện. Sự siêu việt và sự dị biệt của Người quá cao vời đến nỗi lí trí của chúng ta, cảm thức của chúng ta về điều gì là đúng, điều gì là thiện hảo không còn phản ảnh đúng đắn về Thiên Chúa nữa, Đấng mà những khả thể sâu nhiệm nhất, qua các quyết định thật sự của Người, vẫn mãi mãi là bất khả thấu đạt và luôn bị khuất lấp.
Đối nghịch lại với lập trường này, đức tin của Giáo Hội luôn luôn xác quyết rằng giữa Thiên Chúa và chúng ta, giữa thần trí tác tạo đời đời của Người và lí trí thụ tạo của chúng ta luôn có một sự tương đồng thật sự, trong đó tuy sự tương dị dẫu luôn vượt xa vô hạn sự tương đồng, lại không loại bỏ sự tương đồng và ngôn ngữ của nó (x. Công đồng Lateranô IV). Thiên Chúa không trở nên thần thiêng hơn khi chúng ta đẩy Người xa khỏi chúng ta trong thuyết duy ý chí thuần tuý; đúng hơn, một Thiên Chúa đích thực là vị Thiên Chúa đã tự tỏ mình trong Logos, và Người đã hành động và tiếp tục hành động vì yêu thương chúng ta. Chắc chắn, tình yêu “vượt qúa” sự hiểu biết và do đó đòi hỏi phải cảm nhận hơn là chỉ suy nghĩ đơn thuần (x. Ep 3, 19); tuy nhiên đó vẫn là tình yêu của Thiên Chúa - Logos; Do vậy, sự tôn thờ Thiên Chúa của Kitô giáo là “logiké latreía ” – sự thờ phượng kết hợp với Lời vĩnh cửu và với lí trí của chúng ta (x. Rm 12, 1).
Sự dung hợp nội tại giữa đức tin và triết học Hi Lạp là một biến cố có tầm quan trọng quyết định không chỉ liên quan đến lịch sử tôn giáo, nhưng còn là lịch sử thế giới – đó là một biến cố cũng liên quan đến chúng ta cho tới tận hôm nay. Khi khảo sát sự giao thoa này, người ta không ngạc nhiên khi Kitô giáo dù có khởi điểm và những phát triển đáng kể tại phương Đông, thì cuối cùng đã chịu ảnh hưởng tư duy Hi Lạp một cách quyết định tại Châu Âu. Chúng ta cũng có thể diễn tả điều này đảo ngược lại như sau: Sự giao thoa này, với sự bổ sung tiếp nối gia sản Rôma, đã hình thành Châu Âu và giữ mãi nền móng cho điều được gọi một cách chính danh là Châu Âu.
Luận đề cho rằng di sản Hi Lạp sau khi đã được thanh lọc có phê phán thuộc về một phần hoàn chỉnh của đức tin Kitô giáo đã phải đối diện với sự hô hào đòi giải trừ Hi Lạp hoá Kitô giáo - một cuộc vạn động ngày càng thống lãnh các cuộc tranh luận thần học từ khi bắt đầu thời hiện đại. Nếu quan sát kĩ hơn, ta có thể thấy ba giai đoạn trong tiến trình giải trừ văn hoá Hi Lạp. Mặc dù tách biệt về những động cơ và mục tiêu, chúng lại liên kết chặt chẽ với nhau.
Giai đoạn giải trừ văn hoá Hi Lạp lần thứ nhất xuất hiện với những định đề nền tảng của phong trào Cải Cách vào thế kỉ 16. Những nhà cải cách bị đặt trong một hoàn cảnh phải đối diện với truyền thống thần học kinh viện, vốn hoàn toàn hệ thống hoá đức tin dưới những xác quyết của triết học, đến nỗi có thể nói đó là một xác quyết xa lạ với đức tin, một tư tưởng không xuất phát từ đức tin. Hệ quả là đức tin không còn biểu hiện như một Lời sống động mang tính lịch sử, nhưng như một yếu tố trong một hệ thống triết học chủ đạo.
Mặt khác, nguyên tắc “sola scriptura ” (chỉ dựa vào Kinh Thánh) muốn tìm lại đức tin trong hình thức uyên nguyên của nó, như khởi thuỷ được tìm thấy trong Thánh Kinh. Siêu hình học xuất hiện như một tiền đề xuất phát từ một nguồn mạch khác mà từ đó đức tin phải được giải phóng để một lần nữa trở nên chính nó cách hoàn chỉnh hơn. Khi Kant khẳng định rằng ông cần đặt tư duy sang một bên để có chỗ cho đức tin, ông thực hiện chương trình này theo một đường hướng cực đoan mà các nhà Cải Cách chưa từng dự đoán nổi. Như vậy ông đã cắm chặt đức tin vào lí trí thực dụng đơn thuần, phủ nhận khả năng của lí trí có thể tiếp cận thực tại như một tổng thể.
Thần học tự do vào thế kỉ 19 và 20 mở ra giai đoạn hai trong tiến trình giải trừ Hi Lạp hoá, với đại diện nổi bật là Adolf von Harnack. Khi tôi còn là sinh viên, và trong những năm đầu giảng dạy của mình, tiến trình này ảnh hưởng mạnh đến cả thần học Công Giáo. Khởi thuỷ, đó là sự phân biện của Pascal về Thiên Chúa của các triết gia và Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Giacóp. Trong bài thuyết trình đầu tiên của tôi tại Bonn vào năm 1959, tôi đã cố đề cập đến vấn đề này.
Tôi sẽ không lặp lại ở đây những gì tôi đã nói trong dịp đó nhưng tôi muốn ít nhất là tóm tắt đưa ra sự khác biệt giữa giai đoạn mới lần thứ hai của tiến trình giải trừ Hi Lạp hóa này với giai đoạn thứ nhất. Ý tưởng trọng tâm của Harnack là thuần tuý quay lại con người của Chúa Giêsu cũng như sứ điệp nguyên thuỷ của Người, có trước mọi tiến trình thần học hoá và dĩ nhiên cả tiến trình Hi Lạp hoá: sứ điệp nguyên thuỷ này tiêu biểu tột đỉnh thật sự cho sự phát triển tôn giáo nhân loại. Chúa Giêsu được coi như đã đặt một dấu chấm hết cho nền thờ phượng đề cao luân lí. Cuối cùng Người được giới thiệu như cha đẻ của một sứ điệp luân lí nhân đạo.
Mục tiêu chính yếu là đưa Kitô Giáo quay trở lại sự hội nhập với lí trí hiện đại, nghĩa là đưa nó ra khỏi những yếu tố ngoại vi triết học hay thần học, chẳng hạn đức tin vào thần tính của Chúa Kitô hoặc vào Thiên Chúa Ba Ngôi. Theo nghĩa này, thần học được coi như khoa chú giải Tân Ước theo phương pháp phê bình lịch sử và có một vị thế trong trường đại học: Thần học, đối với Harnack, chủ yếu là lịch sử và do đó là khoa học đúng nghĩa. Việc đề cập đến Chúa Giêsu được coi là sự diễn tả lí trí thực tiễn và do đó có thể chiếm một chỗ xứng đáng trong đại học.
Đằng sau cách nghĩ này tiềm ẩn một sự tự hạn chế của chính lí trí hiện đại, như được thấy diễn tả cách cổ điển trong “Phê Bình ” của Kant, nhưng lúc này đây còn được diễn tả triệt để hơn bởi ảnh hưởng của các ngành khoa học tự nhiên. Có thể nói vắt tắt, khái niệm hiện đại về lí trí dựa trên một sự tổng hợp giữa học thuyết Platon (học thuyết Descartes) và thuyết duy nghiệm, một thứ tổng hợp được củng cố bởi những thành qủa của kĩ thuật .
Một mặt nó giả định cấu trúc toán học của vật chất, lí tính nội tại của nó, là điều khiến ta có thể hiểu được cách thức vật chất vận động để sử dụng nó cho có hiệu quả: giả thuyết nền tảng này có thể coi là một yếu tố Platon trong sự lí hội tự nhiên thời hiện đại. Mặt khác, khả năng của tự nhiên có thể được khai thác cho những mục đích của chúng ta và, ở đây chỉ có sự khẳng định hoặc phủ định thông qua thí nghiệm mới đem lại một sự xác thực tối hậu. Trọng lực có thể nghiêng về phía này hay phía khác tuỳ theo những hoàn cảnh. Một triết gia đề cao thuyết thực chứng như J. Monod đã tự mình công nhận chịu ảnh hưởng bởi Platon, cũng có nghĩa là bởi Descartes.
Điều này dẫn đến hai nguyên tắc thiết yếu cho vấn đề chúng ta vừa nêu ra. Trước hết, chỉ có xác thực tính xuất phát do sự giao hội của các yếu tố toán học và thực nghiệm mới được coi là khoa học. Bất cứ ngành nghiên cứu nào muốn được gọi là khoa học thì cần phải thoả mãn tiêu chuẩn này. Thành ra, các môn khoa học nhân văn như lịch sử, tâm lí, xã hội và triết học phải cố gắng thích ứng theo nguyên tắc này của khoa học. Điểm thứ hai, rất quan trọng cho suy tư của chúng ta, là tự bản chất của nó phương pháp này loại bỏ vấn đề Thiên Chúa, làm cho vấn đề này có vẻ như một vấn đề không thuộc phạm vi khoa học hay tiền - khoa học. Hệ quả là chúng ta giới hạn phạm vi của khoa học và lí trí, là điều đáng phải đặt vấn đề.
Chúng ta sẽ quay lại vấn đề này sau. Trước hết cần phải nhận định rằng từ quan điểm này bất cứ cố gắng nào nhằm bảo lưu ý kiến cho thần học là khoa học cuối cùng sẽ giản lược Kitô Giáo thành một mảnh vụn của chính nó. Nhưng chúng ta phải nói thêm rằng: chính con người cuối cùng bị giản lược, vì những vấn nạn hiện sinh đặc thù về nguồn gốc và vận mệnh của chúng ta, những câu hỏi đặt ra bởi tôn giáo và đạo đức học, lại không có chỗ đứng trong tầm mắt của lí trí tổng hợp được định nghĩa như là “khoa học”, và như thế bị xếp vào phạm vi chủ quan.
Từ đó chủ thể dựa trên cơ sở kinh nghiệm của mình để quyết định điều gì là khả tín trong những vấn đề của tôn giáo, và “lương tâm” chủ quan trở thành quan toà duy nhất cho những vấn đề đạo đức. Theo chiều hướng này, đạo đức học và tôn giáo mất đi năng lực để tạo lập một cộng đồng xã hội và trở thành một vấn đề hoàn toàn cá nhân. Đây là một tình trạng nguy hiểm cho sự sinh tồn của nhân loại, chúng ta thấy rõ điều đó qua những hình thức bệnh hoạn về tôn giáo và lí trí mà hẳn nhiên phải nảy sinh một khi lí trí bị thu giảm đến mức tôn giáo và đạo đức không còn liên quan gì đến nó nữa. Những nỗ lực nhằm xây dựng một nền đạo đức khởi đi từ những quy luật của tiến hoá hoặc từ tâm lí học và xã hội học cuối cùng chỉ đem đến bất cập.
Trước khi rút ra kết luận về tất cả những gì đang được trình bày, tôi muốn vắn tắt đề cập đến giai đoạn thứ ba trong tiến trình giải trừ Hi Lạp hoá, vốn đang diễn ra. Nhìn vào sự giao thoa giữa các nền văn hoá, ngày nay người ta thường nói rằng sự tổng hợp đạt được với văn hoá Hi Lạp thời Giáo Hội sơ khai chỉ là một sự hội nhập văn hoá sơ khởi, không nên áp đặt vào các nền văn hoá khác. Tiến trình thứ ba này đòi quyền được khoanh lại tiến trình hội nhập văn hoá sơ khởi để quay lại với sứ điệp nguyên thuỷ của Tân Ước hầu tháp nhập nó vào những môi trường đặc thù một cách tinh khôi. Luận thuyết này không những sai lầm; nó còn tỏ ra quá lố và thiếu chính xác. Tân Ước được viết bằng tiếng Hi Lạp và bản thân nó mang dấu ấn tinh thần Hi Lạp, vốn đã chín mùi ngay khi Cựu Ước phát triển.
Thực sự là có những tầng bậc trong những bước tiến thời Giáo Hội sơ khai mà không cần phải được tháp nhập vào mọi nền văn hoá. Tuy nhiên, những chọn lựa nền tảng bao gồm tương quan giữa đức tin và việc sử dụng lí trí thì đó chính là một phần của đức tin; chúng phát triển song hành với chính bản chất của đức tin.
Và đến đây tôi xin kết luận. Nỗ lực của tôi chỉ phác nên những nét chấm phá nhằm phê phán lí trí hiện đại tự bên trong, không phải là chuyện quay ngược kim đồng hồ để quay lại thời kỳ trước Khai Sáng (Aufklrung ) và phủ nhận tri thức của thời hiện đại. Những khía cạnh tích cực của thời hiện đại được nhìn nhận một cách không do dự: Chúng ta biết ơn những khả năng diệu kì mở ra cho nhân loại và cho sự tiến bộ của loài người mà chúng ta đã nhận được. Hơn thế nữa, đạo lí của khoa học là ý chí tuân phục chân lí, và như thế, nó chứa đựng một thái độ nền tảng thuộc về một trong những chọn lựa căn bản của Kitô Giáo.
Ý hướng của tôi không phải là sự triệt hạ hay lời phê phán tiêu cực, nhưng mở rộng khái niệm về lí trí và việc ứng dụng của nó. Trong khi chúng ta vui mừng với những triển vọng mới mở ra cho nhân loại, chúng ta cũng thấy những nguy hiểm đang nảy sinh từ những khả năng này và chúng ta phải tự hỏi làm cách nào để chế ngự được chúng. Chúng ta sẽ thành công trong việc đó nếu như lí trí và đức tin đồng hành trên một con đường mới, nếu chúng ta vượt thắng giới hạn tự áp đặt lí trí vào phạm vi những gì thực nghiệm, cũng như nếu chúng ta một lần nữa mở rộng hơn những chân trời bao la của lí trí. Theo nghĩa này, thần học có một chỗ xứng đáng trong đại học và trong cuộc đối thoại rộng rãi của các nghành khoa học, không chỉ như một nghành khoa học lịch sử hay một trong các môn khoa học nhân văn, nhưng đích xác như thần học, như một sự truy tầm lí tính của đức tin.
Chỉ như thế chúng ta mới có thể thực hiện được cuộc đối thoại thật sự giữa các nền văn hoá và tôn giáo hiện nay đang đốc thúc chúng ta. Trong thế giới Tây Phương, nhiều người cho rằng chỉ có lí trí thực chứng và các hình thức triết học dựa trên đó mới có giá trị phổ quát. Tuy nhiên, những nền văn hoá đậm truyền thống tôn giáo đều xem việc loại trừ sự thánh thiêng ra khỏi tính phổ quát của lí trí là một sự khinh miệt đối với những xác tín sâu xa nhất của họ.
Một li trí giả điếc trước Thiên Chúa và hạ thấp tôn giáo vào phạm vi của loại văn hoá phụ hệ thì không thể bước vào cuộc đối thoại văn hoá. Đồng thời, như tôi đã cố gắng chứng minh, lí trí khoa học hiện đại, với những yếu tố nền tảng Platon , chứa đựng bên trong chính nó một vấn nạn hướng ra ngoài nó và vượt quá những khả năng phương pháp luận của nó. Lí trí khoa học hiện đại buộc phải chấp nhận cấu trúc hợp lí của vật chất như một dữ kiện và, sự liên hệ giữa tinh thần chúng ta với những cấu trúc hữu lí đang bao trùm tự nhiên, một dữ kiện để đặt cơ sở phương pháp luận của nó.
Tuy nhiên ‘ tại sao nó phải như thế ‘ là một vấn nạn thực sự và là điều phải được kiểm chứng bởi các nghành khoa học tự nhiên với những mức độ khác nhau và với những hình thái tư duy khác nhau – triết học và thần học. Đối với triết học, và một cách nào đó, cả thần học, việc chú ý lắng nghe những kinh nghiệm và nhận thức phong phú của các truyền thống tôn giáo nhân loại, cách riêng của Kitô Giáo, là một nguồn tri thức, vànếu bỏ qua nó sẽ là một hạn chế không thể chấp nhận được trong việc lắng nghe và tìm câu đáp trả .
Ở đây tôi nhớ đến điều mà Socrates đã nói với Phaedo. Trong những lần đối thoại triết học, qúa nhiều ý kiến triết học sai lầm đã được đưa ra, vì thế Socrates nói: “Thật dễ hiểu nếu có ai đó bực mình trước những quan niệm sai lầm đến mức cho tới chết cũng chán ghét và miệt thị tất cả những bàn luận về hiện sinh – nhưng nếu làm thế anh ta sẽ phải chịu thiệt thòi nặng và đánh mất đi sự thật về cuộc đời mình.”
Xã hội Tây Phương từ lâu đã bị đe doạvề việc chối bỏ những vấn đề nền tảng của lí trí và chắc chắn sẽ còn găp nhiều hiểm hoạ hơn. Can đảm phát huy lí trí, không phủ nhận vai trò tối thượng của lí trí – đó là chương trình mà một nền thần học dựa trên Kinh Thánh phải kíp thời đảm nhận và đưa vào trong những cuộc hội thảo hiện thời. “Không hành động theo lí trí (theo Logos) là mâu thuẫn với bản tính Thiên Chúa”, Manuel II đáp trả người Ba Tư đối thoại với mình ngay khi ông xác định nhãn quan Kitô giáo của mình về hình ảnh Thiên Chúa. Chính trong Logos cao trọng này, trong chiều kích lí trí mênh mông này chúng ta mời gọi những người đối thoại với chúng ta tiến vào cuộc đối thoại về văn hoá. Đạo Học chi đạo tại minh minh trí.
Lm. Giuse Ngô Quang Trung
dịch theo bản tiếng Anh, có đối chiếu và bổ sung theo bản tiếng Pháp
“Đức ái: Linh hồn của Truyền giáo”
Anh Chị Em thân mến,
1. Ngày Thế Giới Truyền Giáo mà chúng ta sẽ cử hành vào Chúa Nhật 22 tháng Mười là một dịp để trong năm nay, suy tư về chủ đề: “Đức ái: Linh hồn của Truyền giáo”.
Nếu truyền giáo không được đức ái định hướng, nghĩa là, nếu nó không xuất phát từ hành vi yêu mến Chúa sâu xa thì nó có nguy cơ bị thu giảm vào hoạt động từ thiện xã hội đơn thuần. Thật vậy, tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mỗi con người tạo thành cốt lõi của sức sống và lời rao giảng Tin Mừng, và đến lượt tất cả những ai cảm nhận tình yêu ấy đều trở thành chứng nhân cho Tin Mừng.
Tình yêu Thiên Chúa tác sinh sự sống trần gian là tình yêu đã được trao ban cho chúng ta trong Chúa Giêsu, Lời cứu chuộc, hình ảnh hoàn hảo về lòng thương xót của Chúa Cha.
Như vậy, sứ điệp cứu chuộc có thể được tóm kết lại theo lời Thánh Sử Gioan: “Nơi điều này mà tình yêu của Thiên Chúa được tỏ lộ cho chúng ta: Thiên Chúa đã sai Con Một của Người đến thế gian để chúng ta có sự sống trong Người” (1 Gio 4, 9).
Chính sau biến cố Phục Sinh Chúa Giêsu ủy thác cho các Tông Đồ loan tin về tình yêu này, và các Tông Đồ, sau khi được biến đổi sâu xa bởi quyền năng Chúa Thánh Thần trong Ngày Hiện Xuống, bắt đầu làm chứng Chúa đã chết và sống lại. Từ đó trở đi Giáo Hội tiếp nối chính sứ mệnh ấy, đó là một lời cam kết thiết yếu và lâu bền đối với mọi tín hữu.
2. Và mỗi cộng đồng Kitô giáo được mời gọi làm cho Thiên Chúa được nhận biết như Đấng là tình yêu. Trong thông điệp của tôi, “Deus Caritas Est” (Thiên Chúa là Tình Yêu), tôi đã muốn dừng lại và suy niệm về mầu nhiệm nền tảng này của đức tin. Với tình yêu của Người, Thiên Chúa thấm nhập vào toàn thể thụ tạo và lịch sử nhân loại.
Từ khởi thủy con người được tạo xuất từ bàn tay đấng tạo dựng như kết qủa của một sáng kiến tình yêu. Nhưng sau đó, tội lỗi đã phủ mờ dấu ấn thần linh nơi con người.
Bị Ác Thần xúi gạt, ông bà nguyên tổ của chúng ta, Ađam và Evà, đã không hết lòng sống tín thác vào Chúa của mình, chiều theo cám dỗ của Ác Thần, là kẻ đã dẫn dụ họ nghi ngờ rằng Thiên Chúa là một đối thủ muốn hạn chế tự do của họ.
Như thế, họ yêu mình hơn tình yêu ban không của Thiên Chúa, vì ngộ tín rằng chỉ như thế họ mới khẳng định ý muốn tự do của chính họ. Hệ qủa là họ đã đánh mất hạnh phúc nguyên thủy và phải nếm trải nỗi đau buồn cay đắng của tội lỗi và sự chết.
Tuy nhiên, Thiên Chúa không bỏ rơi họ. Người hứa ban ơn cứu chuộc cho họ và cho con cháu họ khi báo trước rằng Người sẽ sai Con Một của Người, là Chúa Giêsu, Đấng mà vào thời viên mãn sẽ mặc khải cho họ tình yêu của Chúa Cha, một tình yêu có khả năng cứu chuộc mọi người thoát khỏi nô lệ tội lỗi và sự chết.
Bởi đó, trong Chúa Kitô, sự sống bất tử, là chính sự sống của Chúa Ba Ngôi được thông ban cho chúng ta. Nhờ Chúa Kitô vị Mục Tử Nhân Lành, Đấng không bỏ rơi con chiên lạc mất, con người thuộc mọi thời đại được ban tặng khả năng bước vào sống hiệp thông với Thiên Chúa, là Cha nhân từ, Đấng luôn sẵn sàng chờ đón người con đi hoang của mình trở về nhà.
Dấu chỉ kì diệu của tình yêu này là Thập Giá. Trong thông điệp của tôi, “Deus Caritas Est,” tôi đã viết rằng “cái chết của Chúa Kitô trên thập giá là tột cùng của việc Thiên Chúa đi ngược lại với chính mình, qua đó người tự hiến để nâng con người lên và cứu chuộc họ… Đây là tình yêu trong hình thức triệt để của nó… Chính tại nơi đó mà sự thật này được chiêm niệm. Chính từ điểm đó chúng ta phải khởi đi để định nghĩa về tình yêu. Trong sự chiêm ngắm này người Kitô hữu khám phá ra con đường để định hướng cho cuộc đời và tình yêu của mình.” (Số 12)
3. Vào buổi chiều trước Cuộc Khổ Nạn, Chúa Giêsu đã để lại cho các môn đệ đang tụ họp trong phòng Tiệc Li để cử hành Lễ Vượt Qua một di chúc của Người, đó là “giới luật mới về tình yêu – ‘mandatum novum’”: “Thầy truyền cho các con điều này: Hãy yêu thương nhau” (Gio 15, 17). Tình yêu thương huynh đệ mà Chúa đòi hỏi các “bạn hữu” của Người bắt nguồn từ tình phụ tử của Thiên Chúa.
Tông đồ Gioan ghi nhận: “Phàm ai yêu thương thì được Thiên Chúa sinh ra và họ nhận biết Thiên Chúa” (1Gio 4, 7). Do đó để yêu thương theo gương Chúa, chúng ta phải sống trong Người và sống nhờ Người: Thiên Chúa là “căn nhà” đầu tiên của con người và chỉ khi ở trong Thiên Chúa, những người nam nữ ấy mới bừng cháy sáng ngọn lửa kính mến Chúa để “đốt nóng” thế gian.
Và không khó để hiểu rằng việc quan tâm truyền giáo đích thực, mà đó cũng là bổn phận ưu tiên của cộng đồng Giáo Hội, gắn liền với lòng trung thành sống tình yêu Thiên Chúa, điều này đúng cho mọi người Kitô, mọi công đồng địa phương, các Giáo Hội địa phương và cho toàn thể Dân Chúa. Thái độ sẵn sàng quảng đại của các môn đệ Chúa Kitô trong việc thực hiện những công tác thăng tiến tinh thần và nhân sinh nhận được sức mạnh chính yếu từ việc ý thức sứ mệnh chung này. Những công tác đó, như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II kính yêu đã viết trong Thông điệp Redemptoris Missio, làm chứng cho “linh hồn của mọi hoạt động truyền giáo: Tình yêu đã là và vẫn sẽ là sức mạnh chủ đạo của việc truyền giáo, đồng thời cũng là tiêu chuẩn duy nhất để xét đoán điều gì phải làm hay không nên làm, phải thay đổi hay không được thay đổi. Tình yêu là nguyên tắc hướng dẫn mọi hành động và là mục tiêu để mọi hoạt động nhắm tới. Khi chúng ta hành động vì đức ái, hoặc được khởi hứng bởi đức ái thì không có gì là không thích đáng nhưng tất cả đều tốt.”(số 60)
Như thế, là nhà truyền giáo có nghĩa là yêu mến Thiên Chúa trọn cả tâm hồn mình, cho dẫu nếu cần, cũng phải chết cho Người. Biết bao linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân đã làm chứng cho tình yêu tuyệt đỉnh qua phúc tử đạo ngay trong thời đại chúng ta đây!
Là nhà truyền giáo có nghĩa là cúi xuống phục vụ những nhu cầu của mọi người, như người Samaritanô nhân hậu, một cách đặc biệt những người nghèo túng và những người cùng khổ nhất, bởi vì ai yêu thương bằng con tim của Chúa Kitô thì không mưu tìm lợi ích riêng nhưng chỉ tìm vinh danh Thiên Chúa và điều thiện hảo cho tha nhân. Đây chính là bí quyết đem lại hoa trái thiêng liêng cho việc truyền giáo, một hoạt động vượt qua mọi ranh giới và mọi nền văn hoá, một hoạt động vươn đến mọi dân tộc và trải rộng đến tận cùng thế giới.
4. Anh chị em thân mến, ước gì Ngày Thế Giới Truyền Giáo là một dịp thuận tiện để hiểu rõ hơn rằng chứng tá của tình yêu, linh hồn của truyền giáo liên quan đến mọi người. Thật vậy phục vụ Tin Mừng không bao giờ có thể được coi như một cuộc phiêu lưu riêng lẻ, nhưng là một bổn phận chung nối kết mọi cộng đồng.
Cùng với những người đang hoạt động trực tiếp cho việc rao giảng Tin Mừng – và nơi đây tôi tỏ lòng biết ơn nhớ đến tất cả các nhà truyền giáo – tôi cũng nhớ tới nhiều người khác, các thiếu nhi, những bạn trẻ và những người lớn mà qua lời cầu nguyện cùng những đóng góp cách này cách khác, đã góp phần vào việc mở rộng Nước Chúa trên trần gian. Tôi hi vọng rằng sự tham gia này sẽ tiếp tục gia tăng qua việc đóng góp của mọi người.
Tôi muốn nhân dịp này bày tỏ lòng biết ơn đối với Bộ Rao Giảng Tin Mừng cho các Dân Tộc và với những Hiệp Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo (PMS). Họ đã tận tụy phối hợp những nỗ lực của mọi miền trên thế giới để hỗ trợ hoạt động của những người đang trực tiếp truyền giáo.
Nguyện xin Đức Nữ Đồng Trinh Maria, Đấng mà lúc khởi đầu sứ mệnh Giáo Hội đã cộng tác một cách tích cực vào việc truyền giáo, qua sự hiện diện của Mẹ dưới chân Thập Giá cũng như qua lời cầu nguyện tại Phòng Tiệc Li, xin Mẹ phù trợ hoạt động của các nhà truyền giáo và trợ giúp những ai tin vào Chúa Kitô được càng ngày càng có khả năng hơn để yêu thương đích thực, ngõ hầu họ có thể trở nên những nguồn nước đầy tràn sức sống cho một thế giới luôn khát khao điều thiêng liêng. Tôi hết lòng ước mong như vậy và ban phép lành cho tất cả mọi người.
Từ Vatican, ngày 29 tháng Tư, 2006
Benedictus PP. XVI
Linh mục Giuse Ngô Quang Trung chuyển ngữ
Tin Buồn
Chúng tôi vừa nhận được tin buồn
Ðức Cha Giuse Maria Nguyễn Quang Tuyến
Giám mục giáo phận Bắc Ninh
đã được Chúa gọi về nhà Cha
lúc 4 giờ 58 phút chiều thứ Bảy, ngày 23 tháng 9 năm 2006
(tức 6 giờ 58 phút sáng Chúa Nhật, ngày 24/09/2006 giờ Việt Nam)
tại bệnh viện Providence Mendical Center Hospital, Portland,
Tiểu bang Oregon, Hoa Kỳ.
Sau 17 năm làm giám mục Bắc Ninh, hưởng thọ 61 tuổi.
Ðược biết, Ðức Cha Tuyến qua Hoa kỳ tham dự Ðại Hội Thánh Mẫu tại Dòng Ðồng Công vào tháng 8 năm 2006 và sau đó đã đến Portland Oregon để chữa bệnh trong 2 tuần vừa qua.
Các bác sĩ đã giải phẫu bướu ở bụng cho Ngài hôm 19 tháng 9 năm 2006. Và sau đó Ngài đã tỉnh và đi lại được. Nhưng đến ngày 21 tháng 9 năm 2006 thì Ngài lên cơn sốt nặng và bị hôn mê. Khám nghiệm sau cho biết lý do qua đời vì bị ung thư máu.
Nghi Lễ An Táng và cầu nguyện như sau:
- Thăm viếng và Cầu Nguyện:
6:00 chiều Ngày thứ Hai 25/09/2006
tại Nhà Quàn Finley Sunset Funeral Home
Portland, Oregon
- Thánh Lễ Ðưa Chân:
Do Ðức Tổng Giám Mục giáo phận Portland chủ sự
6:00 Chiều Ngày thứ Ba 26/09/2006
tại Nhà thờ Ðức Mẹ La Vang Việt Nam
Trung Tâm Ðông Nam Á
Porland, Oregon.
- Tiễn đưa về Việt Nam:
Ngày thứ Tư 27/09/2006
dự trù sẽ mang thi hài của
Ðức Cố Giám Mục Giuse Maria
về Việt Nam.
Chúng tôi xin chân thành
với các Linh Mục, Tu Sĩ và Giáo dân Giáo phận Bắc Ninh
vì đã mất đi người cha yêu thương,
Đức Cha Giuse Maria Nguyễn Quang Tuyến sinh ngày 20.9.1945 tạu Đại Lãm. Ngài theo học tiều chủng viện và Đại Chủng Viện Hà Nội và được thụ phong linh mục ngày 16.9.1974 cho giáo phận Bắc Ninh.
Ngày 15.12.1988 Ngài được Đức thánh Cha Gioan Phaolô II bổ nhiệm làm Giám mục phó giáo phận Bắc Ninh và được thụ phong giám mục vào ngày 25.1.1989.
Ngày 23.3.1994 Ngài được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám mục chính tòa Giáo phận Bắc Ninh và cai quản giáo phận Bắc Ninh từ đó đến ngày qua đời 24.9.2006 (Giờ việt Nam)
Vào năm 2005, ngài sang Hoa Kỳ và đến Portland, Oregon để chữa bệnh trong vòng 6 tháng, mổ bướu ở cổ và sau đó bình phục sức khỏe trở lại Việt Nam làm việc.
Rồi tháng 8, năm 2006 vừa qua, Ngài được mời sang Hoa Kỳ tham dự Đại Hội Thánh Mẫu tại Dòng đồng Công và đã chủ tế Thánh Lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam cho khách hành hường về Carthage Missouri.
Trong bài giảng Đức Cha Nguyễn Quang Tuyến nhắc lại những tấm gương anh dũng tiêu biểu trong số 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam khiến mọi người xúc động. Đức Cha khuyên nhủ và cầu chúc mọi thành phần Dân Chúa ở Việt Nam, ở hải ngoại được kiên cường sống Đức Tin, vượt qua mọi khó khăn thử thách của cuộc sống, làm chứng cho mọi người lương giáo biết Thiên Chúa Tình Yêu và thấy lòng yêu mến dân tộc và đất nước của những người Công giáo Việt Nam.
Ngài nói: “Hãnh diện về Cha Ông Tổ Tiên là một lẽ và mọi người chúng ta có quyền ấy. Nhưng điều quan trọng hơn là mỗi người sống làm sao cho xứng danh là con cháu của các Thánh Tử Đạo Việt Nam anh dũng, như trong “Kinh Khấn Xin” mà chúng ta đọc trước mỗi giờ Lễ trong những ngày này.”
Trong lịch sử Giáo Hội Việt Nam, Bắc Ninh là một trong số các giáo phận bị bách hại dữ dội nhất và có nhiều Thánh Tử Đạo. Bắc Ninh cũng là nơi mà chính quyền Cộng Sản đã dùng để thử nghiệm những chính sách diệt tôn giáo khốc liệt nhất từ năm 1945 và nhất là sau năm 1954.
Vào buổi chiều ngày hôm qua, sau khi Đức Cha Tuyến qua đời VietCatholic đã có cuộc phỏng vấn với Cha Nguyễn An Ninh là phó đại diện của giáo dân Bắc Ninh tại Hoa Kỳ thì ngài cho biết rằng:
“Khoảng 2 tuần trước đây ĐC Nguyễn Quang Tuyến có ý trở lại Portland để khám lại tình trạng sức khỏe của mình. Khi được khám nghiệm thì biết là ngài đang có một số bướu ở phần bụng, mà chính các bác sĩ cũng không biết là thứ bướu gì hay cancer loại nào bệnh gì. Ngài đã được mổ cắt đi những bướu đó. Sau đó tỉnh lại nhưng vài ngày sau thì lại lên cơn sốt và tiếp tục hôn mê, và rồi qua đời ngày 24.9.2006(giờ Việt Nam). Cuộc giảo nghiệm cho biết là ngài chết vì chứng cancer máu”.
Lúc Đức Cha qua đời tại bệnh viện thì có sự hiện diện của Cha Bí Thư của Đức cha Bắc Ninh là LM Trần văn Khiêm, LM Nguyễn An Ninh, một số các bác sĩ, y tá, và giáo dân Việt Nam trong vùng Portland Oregon.
Cha Ninh cho biết thêm rằng: “Có một điều đặc biệt là Đức Tổng Giám Mục Portland là John G. Vlazny coi Đức Cha Tuyến như là người bạn rất thân và hết lòng hỗ trợ Đức Cha Bắc Ninh trong việc chữa bệnh tạo Portland. Từ khi biết ĐC Tuyến thì Ngài coi ĐC Tuyến như thành phần của Giáo phận Portland, và tự coi mình như là một thành phần của giáo phận Bắc Ninh nữa”.
Cha Ninh còn cho biết thêm rằng “Các bác sĩ và y tá tại nhà thương Công giáo Providence Medical Center đều coi ĐC Tuyến là một vị tu hành rất thánh thiện và khiêm nhường nhẫn nại trong suót thời gian ĐC Tuyến chữa bệnh tại đây cả năm ngoái và năm nay nữa. Các bác sĩ và y tá đều bật khóc khi ngài qua đời”.
Theo Vietcatholic News
Sáng nay 27. 9. 2006, cầm báo Tuổi Trẻ lên, như thường lệ tôi nhìn trước tiên vào Mục "Đọc gì trong số này" được đóng khung ở góc phải trang 1, và mắt tôi dừng lại ngay nơi bài: Tiền trường đầu năm: Choáng! Bài báo tóm tắt bằng chữ đậm ở đầu bài nội dung như sau: "Tiền mua tivi, đầu máy. Tiền nâng cấp phòng vi tính, mua bàn ghế. Tiền hội phụ huynh trường, hội phụ huynh lớp. Tiền học thêm Anh văn, vi tính... Đủ thứ "linh tinh phí" gộp lại trong các khoản thu đầu năm của các trường tại TP. HCM khiến không ít phụ huynh ... choáng! Trong đó, rất nhiều khoản tiền được các trường thản nhiên qui vào hai chữ: tự nguyện!" Liền sau đó là phần "khai triển" với tiểu đề khá ấn tượng: Gánh nặng "trọn gói!" (Lại dấu than [!]. Bài này dùng nhiều dấu than). Trường THCS Lê Quí Đôn quận 11: nếu tính cả tiền bảo hiểm và hội phu ïhuynh thì tổng số tiền mà một học sinh bán trú phải đóng lên tới trên 1, 5 triệu đồng... Trường THCS Phan Bội Châu quận 12 có nhiều khoản linh tinh phí khác nhau như: riêng khoản ấn phẩm, ngoài sổ liên lạc, học bạ (dành cho học sinh lớp 6), phù hiệu, còn có cả tiền mua đơn xin phép, túi kiểm tra, thư mời (!) và cả giấy thi trong khi phần đề thi và giấy thi đã được thu thành một khoản riêng. Hơn nữa, theo qui định thì giấy thi chỉ là 5.000đ/năm nhưng trường đã thu gấp đôi, tức 10.000đ/năm, v. v. Trường tiểu học Bình Chiểu, quận Thủ Đức còn "sáng tạo" hơn khi đưa thêm những khoản thu gọi là "thỏa thuận" bên cạnh những khoản thu được Bộ GD-ĐT cho phép; trong khoản thỏa thuận có học phí Anh văn tự chọn, vi tính, quĩ hội phụ huynh, quĩ lớp, quĩ nụ cười hồng ... (Chả hiểu quĩ nụ cười hồng là gì! Muốn bày vẽ gì mà chẳng được). Có những trường bắt phụ huynh đóng góp để trang bị bàn ghế, máy móc với mục đích mở lớp tăng cường Anh văn mà đáng lẽ ra, theo qui định, chính nhà trường phải tự lo cơ sở vật chất trước khi được phép mở lớp.
Và còn nhiều, nhiều trường hợp khác được đề cập tới rất cụ thể trong bài báo, tất cả đều làm cho phụ huynh học sinh phải điên đầu, choáng váng, còn những độc giả ngoài cuộc như tôi phải đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác và cuối cùng không tránh khỏi một tâm tình phẩn uất nào đó trước cảnh người dân cứ phải è cổ chịu đựng năm này qua năm khác những gánh nặng phi lý trong một chế độ chính trị xã hội nói là do dân và vì dân! Ở xã hội khác, nếu gặp cảnh này có lẽ người dân còn có cách phản đối nào đó (như biểu tình, đình công, công khai tranh luận hay tự do chọn một trường khác vừa ý), còn ở ta, chính quyền -cụ thể là các sở, phòng giáo dục- cũng thường đứng về phía nhà trường hơn là phía nhân dân, thì còn làm được gì khác hơn là chịu đựng. (Nếu không muốn tin, xin hãy đọc lại phát biểu của ông Giám đốc Sở Giáo dục-Đào tạo Huỳnh Công Minh của Tp. HCM ngày 24. 9 mới đây). May mà còn báo chí, nhưng không thể chờ đợi báo chí làm thay đổi tận gốc mọi tình hình xã hội.
Cách nay mới năm ngày thôi, tôi có hai đứa cháu gọi tôi bằng chú ruột ở Nghệ An vào thăm. Khi nói tới đòi sống bà con ngoài ấy, chúng nó cũng nói ngay tới đủ loại phí mà người dân phải đóng góp cho địa phương, không kể nhiều khoản đóng góp cho nhà trường vì có con đi học. Chúng kể lể với giọng phàn nàn nhưng ... an phận, như thể đó là những chuyện không cách nào và "đời nào" tránh khỏi.
Tôi nhớ lại ngày xưa mỗi lần đề cập tới chế độ thực dân người ta thường nói tới sưu cao thuế nặng do chính quyền đặt ra để bóc lột người dân. Rồi qua thời chiến tranh chống Pháp, người dân vẫn phải tiếp tục đóng góp hết sức nặng nề. Tôi không thể quên những năm kháng chiến dành độc lập ở Thanh-Nghệ-Tĩnh-Bình (Liên khu IV), rất nhiều các gia đình nông dân phải bán trâu bò, ruộng vườn hay của cải khác để đóng thuế vì mức thuế do cán bộ áp đặt cho mỗi loại ruộng là "trên trời dưới đất", không căn cứ vào đâu cả, đem toàn bộ lúa thóc thu hoạch được để nộp thuế vẫn không đủ. Thôi thì lúc đó còn có lý do "toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến", không thể nói là nhân dân bị bóc lột được. Vào thời chống Mỹ, miền Bắc đã được hợp tác hoá hết, thuế má ra sao tôi không biết nhưng chắc chắn phần đóng góp của nhân dân về mọi mặt phải là vô cùng to lớn. Tình trạng này cũng có thể biện minh được và dễ đuợc người dân chấp nhận khi mà người cầm quyền cũng đồng cảnh ngộ với toàn dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh hô hào rằng giải phóng xong, đất nước sẽ được xây dựng giàu mạnh hơn gấp nhiều lần để cho nhân dân bớt khổ. Đến nay, hơn 30 năm sau khi hoà bình trở lại, tuy đời sống nhân dân đã khá hơn lên nhiều nhờ chính sách mở cửa, nhưng sự chênh lệch giàu nghèo lại cũng tăng thêm, và người dân, nhất là nông dân vẫn cứ là tầng lớp chịu thiệt thòi hơn cả trong hoạch định các chính sách và phân phối của cải. Nói không còn đấu tranh giai cấp nữa là nói theo lý thuyết, còn trên thực tế rõ ràng vẫn còn giai cấp trên, giai cấp dưới, giai cấp trên thì đầy quyền lực và của cải, giai cấp dưới vẫn là thấp cổ bé miệng, bị "hành" đủ cách. Có vẻ như khi cần đến thì người ta đề cao nhân dân, nhưng khi đã nắm quyền và đụng tới quyền lợi thực tế, người ta lơ là với những người đã hy sinh cho đại sự của dân tộc.
Tôi lại nhớ tới thái độ Chúa Giêsu đối với đám quần chúng lầm than cơ cực ở Palestin xưa. Các sách Tin Mừng nhiều lần nói tới lòng thương xót Người dành riêng cho dân chúng. Tác giả Matthêu viết: "Đức Giêsu thấy đám đông, Người chạnh lòng thương vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt" (Mt 9, 36). Giai cấp lãnh đạo thời bấy giờ khinh miệt họ, coi họ là đám dân ngu khu đen, chất lên vai dân những gánh nặng nề là đủ thứ luật lệ và không màng chi tới quyền lợi của họ. Ngược lại Chúa Giêsu đứng hẳn về phía họ, bênh vực họ, chăm sóc, an ủi, khích lệ họ. Người mời gọi: "Tất cả những ai đang đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường" (Mt 12, 28-29). Và dân chúng đã nhận ra ai là người của họ nên họ thường kéo đến quanh Đức Giêsu nghe Người giảng dạy và xin Người cứu giúp phần hồn phần xác.
Những ngày tháng sau 30.4.75--và trong thời gian dài sau đó--người dân công giáo ở phía Nam cảm thấy bơ vơ lạc lõng trong một xã hội còn xa lạ với họ và chắc chắn là không có cảm tình với họ. Lòng họ mang nặng nhiều mặc cảm và lo sợ. Lúc bấy giờ, tôi nhớ rất rõ, chính Giáo Hội, chính những cộng đoàn giáo xứ, cộng đoàn tu trì là những nơi rộng mở đón nhận họ, những nơi họ cảm thấy mình còn được yêu thương, tin tưởng, tôn trọng, nên họ rất thích tìm đến. Thời bấy giờ họ thấy rõ Giáo Hội là của mình, cho mình. Đối với họ, Giáo Hội đóng vai trò tương tự như Chúa Giêsu xưa đối với đám quần chúng lầm than và bị hất hủi, bỏ rơi. Thời bấy giờ tôi hiểu rõ thế nào là một Giáo Hội cho người nghèo.
Bây giờ, hơn 30 năm sau, còn có thể nói được như thế nữa không? Hay có thể nói tới mức nào?
(27. 9. 06)
Lm Nguyễn Hồng Giáo, dòng Phanxicô
Thần thoại Hy Lạp kể về chàng trai Narcisse soi bóng mình trong mặt nước và vì muốn ôm trọn lấy mình chàng đã nhào xuống mặt nước ấy và chết trong hồ nước ấy.
Có nhiều chú giải về huyền thoại này.
Narcisse là một loài hoa Thuỷ Tiên, một loài hoa tượng trưng cho MùaXuân, nó nở trong mùa Xuân, ở nơi ẩm ướt. Theo vòng chu kỳ thời gian bốn mùa, mùa Xuân là mùa nảy nở, sinh sản phong nhiêu. Loài hoa Thuỷ Tiên nở vào Mùa Xuân và cũng khô héo trong mùa ấy, nơi cây ấy còn biểu lộ chu kỳ tự nhiên của vạn vật: “Chết - ngủ - Hồi sinh”. Trong Diễm Tình Ca ví cây Thuỷ Tiên như Huệ Tây báo Mùa Xuân tới, Mùa tình yêu khai mở:
“Em là đoá thủy tiên của Sa-rôn đồng bằng, là bông huệ thắm hồng trong thung lũng.
Bạn tình tôi giữa đoàn thiếu nữ có khác gì cánh huệ giữa bụi gai”[1][1].
Ví von người thiếu nữ như cánh hoa Thuỷ Tiên báo mùa Xuân tình yêu đất trời nở rộ cùng tình yêu của con người hoà nhịp, đó cũng là loan báo vào mùa tình yêu thời sau cùng chớm nở.
Tuy biểu hiện về tình yêu, nhưng có nhiều người giải mã huyền thoại này để nói tới một tình yêu vị kỷ. Một tình yêu ôm lấy mình, đắm đuối nơi mình và cuối cùng chết ở trong ngục tù của chính mình. Một tình yêu không nên có, và cũng song đó có những giải huyền về tính cách chiêm ngắm bản thân để trau dồi thêm nét đẹp để điểm tô.
Có thể thấy ở những triết gia L. Lavelle, G.Bachelard… và nhiều nhà thơ như Paul Valéry. Nước là mặt gương, nhưng là cái gương soi sâu vào bản ngã; ánh sáng phản chiếu là hình ảnh lý tưởng hoá.
Với G. Bachelard: “Đứng trước mặt nước phản chiếu hình ảnh mình, Narcisse cảnh thấy vẻ đẹp của mình vẫn tiếp tục chưa hoàn kết, và phải hoàn kết nó. Những chiếc gương bằng thủy tinh, trong ánh sáng gắt của căn phòng, cho ta một hình ảnh quá ổn định. Chúng sẽ trở nên sống động và tự nhiên khi ta có thể ví chiếc gương như một mặt nước sống động và tự nhiên, và khi trí tưởng tượng , được trả lại tính tự nhiên, có thể tiếp nhận sự tham gia của các cảnh quan sông, suối (BACE, 35).
G.Baehelard nhấn mạnh vai trò của Narcisse, kẻ vị kỷ vì lý tưởng hóa này. Điều đó đối với chúng ta xem ra lại càng cần thiết, ông viết, bởi vì môn phân tâm học cổ điển có vẻ coi nhẹ vai trò việc lý tưởng hóa này. Thực ra kẻ ái kỷ không phải bao giờ cũng nhiễu tâm. Hắn cũng có vai trò tích cực, nhất là trong còng việc thẩm mỹ... Trăng hoa không phải bao giờ cũng là phủ định dục vọng, không phải bao giờ thăng hoa cũng có vẻ như là chống lại bản năng. Có thể có sự trăng hoa vì một lý tưởng (BACE, 34 - 35).
Làm đẹp bản thân bằng đức hạnh có lẽ cũng là một cách thăng hoa con người tự nhiên của mình. Người không chú trọng đến bản thân mình dường như không còn bị khép tội vị kỷ, khi cái đẹp tự bản thân ấy làm tô điểm thêm vườn hoa muôn sắc của trần gian.
Thế nhưng, vẻ đẹp của cá nhân có nguy cơ rơi vào tình yêu vị kỷ, chỉ cho mình mà không muốn chia sẻ với người khác. Cho nên, việc lý tưởng hóa này gắn với một niềm hy vọng, mỏng manh đến mức bị xóa nhòa ngay khi có một làn gió nhẹ nhất :
“Tiếng thở dài nhẹ nhất
Mà tôi thót ra
Sẽ cướp đi của tôi
Cái thà tòi tòn thờ
Trên mặt nước xanh và hoe vàng
Cà trời và rừng
Cả màu hồng của làn nước”
(Paul Valéry, Narcisse)
Sự tĩnh lặng trong nội tâm, khi chiêm ngắm vào chiều sâu của tâm hồn là một cách tư duy về chính mình. Tư duy về chính mình để khám phá ra một chiều sâu tâm thức và nghiệm thấy một điều còn sâu xa hơn chính bản thân. Những bài nghiên cứu của Joachim Gasquet, G.Baehelard còn phát hiện ra tính ái kỷ của vũ trụ: đó là rừng, là trời tự ngắm mình qua mặt nước cùng với Narcisse. Chàng không còn đơn độc, vũ trụ được phản chiếu cùng với chàng và bao bọc chàng để bù lại, vũ trụ sôi động lên bằng chính tâm hồn Narcisse. Và như J.Gasquet nói : Thế giới là một Narcisse mênh mông đang tư duy về mình. Ở đâu thế giới có thể tư duy về mình tốt hơn là trong chính các hình ảnh của mình? G.Baehelard hỏi: Các mặt nước trong vắt, ở đây chỉ một cử chỉ sẽ khuấy động mọi hình ảnh, và khoảnh khắc yên tĩnh sẽ trả lại những hình ảnh ấy. Thế giới được phản ánh là do tĩnh lặng được thiết lập (Base, 36 và tiếp theo).
Tình yêu và chiếm hữu là hai điều trái ngược nhau nhưng lại ở trong nhau. Chính vì thế mà tình yêu sẽ bị biến nghĩa, trở thành tù ngục khi con người chiếm hữu làm của riêng mình. Tình yêu chiếm hữu giết chết tình yêu ngay trong vòng tay của nó. Văn hoá Việt cũng có hình ảnh của chàng Narcisse với hình ảnh “Con chim quý phải ở lồng son”. Dù là lồng son hay là lồng vàng quý giá mấy đi nữa vẫn là chiếc lồng trói chặt tự do. Tình yêu làm mất tự do là một tình yêu quá vị kỷ, một tình yêu có tên gọi là Eros. Theo Hésiode, vị thần Eros có một sắc đẹp chiếm mất hồn người chiêm ngắm, chế ngự mọi trí khôn và trái tim.
Tình yêu làm nên hai chiều hướng quyến luyến và chiếm hữu. Tình yêu Eros. Trong loài hoa thuỷ tiên có hương thơm quyến rũ mê hồn. Hương thơm của hoa Narcisse (thủy tiên) đã mê hoặc Perséphone, khi thần Hadès, bị sắc đẹp của nàng quyến rũ, muốn cướp lấy nàng và đưa nàng cùng thần xuống địa ngục: Đóa hoa lóng lánh nhột ánh huyền diệu, làm kinh ngạc tất cả những ai thấy nó, dù đó là những vị Thần bất tử hay người trần. Từ rễ cây mọc ra một thân có trăm ngọn và trước hương thơm của chùm hoa này, toàn Thượng giới bao la mỉm cười, cả toàn thế gian nữa, và cả làn sóng biển dâng lên hăng hắc. Ngạc nhiên, cô bé dang cả hai tay ra muốn tóm lấy cái đồ chơi diễn tuyệt: Nhưng trái đất với những con đường rộng đã mở ra nơi bình nguyên Nysie, và từ nơi ấy xuất hiện lên, cùng với đàn ngựa bất tử của thình, vị Chúa tể của biết bao tân khách, vị thần linh con trai Cronos được cầu khấn dưới biết bao danh xưng. Thần nhắc bổng nàng lên, và mặc dầu nàng chống cự, đặt nàng cỡn đang khóc nức nở lên cỗ xe vàng của mình (HYMH: Tụng ca dâng Dénléter, 4 - 20).
Đối với các nhà thơ Ả rập, hoa thủy tiên, do cánh hoa thẳng đứng của nó, tượng trưng cho con người ngay thẳng, người đây tớ siêng năng, người sùng đạo muốn chuyên tâm phụng sự Chúa Trời. Ở đây trong tư tưởng này xuất phát một hình ảnh của loài hoa khác, đó là loài hoa Hướng Dương. Tình yêu biểu lộ trong cách thức này là tình yêu hướng về thay vì chiếm lấy, một tình yêu đòi sự dứt bỏ giới hạn mỗi ngày để vươn cao hơn. Tình yêu như vậy là một tình yêu Agapé, một tình yêu biểu lộ bằng việc chết cho người mình yêu.
Lm. Giuse Hoàng Kim Toan
Tiếp xúc đầu tiên của tôi với anh chị em không nhà cửa - vào năm 1982 - khi tôi làm Cha Sở xứ đạo Okayama bên Nhật Bản.
Vào một buổi tối, khi đóng cửa nhà thờ, tôi trông thấy một người đàn ông nằm ngủ trên băng ghế. Vì không muốn ông ở lại suốt đêm trong nhà thờ cũng không muốn đuổi ông ra, tôi đưa ông vào ngủ nơi căn phòng nhỏ cạnh nhà thờ.
Có lẽ ông ta hài lòng với chỗ ngủ mới, nên chiều nào cũng thế, sau khi lang thang suốt ngày, ông tìm về căn phòng nhỏ của giáo xứ để ngủ qua đêm.
Sau này tôi biết ông tên Mikitô và không bình thường. Tốt nghiệp đại học, ông không chịu làm việc, nhưng sống nhờ của cha mẹ hay bạn bè và lang thang đầu đường xó chợ. Tôi liên lạc với văn phòng dịch vụ xã hội và xin họ giúp ông Mikitô.
Thời gian sau, tôi thuyên chuyển về thủ đô Tokyo và làm Cha Sở giáo xứ Matsubara. Nơi đây, có rất nhiều người không nhà cửa đến giáo xứ xin giúp đỡ. Mỗi lần như thế, chúng tôi có thói quen dọn cho họ một bữa ăn - thường là bát mì ăn liền - và cho thêm tiền túi 500 Yen, tương đương với 5 mỹ kim.
Tôi tiếp tục thói quen lành thánh này. Sau một năm, tôi quen biết hầu hết ”khách hàng” của giáo xứ. Tôi đặc biệt chú ý đến một người, vì dáng vẽ khác thường của ông. Người ta gọi ông là ”Kobu - người có bướu” vì ông có cục bướu lớn nơi cổ. Giọng ông nói thật trầm.
Ông Kobu hơi nhút nhát nhưng thành thật. Đôi khi ông xin tiền mua vé xe lửa đi kiếm việc làm. Tôi sẵn sàng giúp đỡ ông. Tôi còn mời vị y sĩ trong giáo xứ đến để khám cục bướu và khuyên ông nên mổ. Nhưng ông do dự không dám quyết định. Bẵng đi một thời gian ông Kobu không đến giáo xứ xin giúp đỡ. Cho đến một ngày, tôi trông thấy ông đang sơn tường và không còn cục bướu nơi cổ.
Chúng tôi vui mừng gặp lại nhau. Ông kể cho tôi biết là một Linh Mục khác - Cha Mito - khôn khéo thuyết phục khiến ông nghe lời và đi mổ cục bướu. Cha Mito còn tìm cho ông căn nhà trọ và việc làm: sơn quét lại tường nhà thờ và các căn phòng của giáo xứ.
Chúa Nhật sau đó, ông Kobu đến gặp tôi đưa 2000 Yen - tương đương 20 mỹ kim - và nói:
- Xin Cha dùng số tiền giúp những người không nhà cửa, thường đến giáo xứ xin!
Tôi rất cảm động về cử chỉ liên đới. Cũng kể từ ngày đó, tôi nhận ông làm việc cho giáo xứ một tuần một lần. Ông Kobu kể tôi nghe về cuộc đời ông.
Lúc ông còn nhỏ tuổi, thân phụ ông bị bệnh lao. Một mình mẹ ông phải làm việc nuôi sống cả gia đình 4 người. Sau 5 năm liệt giường, thân phụ ông qua đời. Vài năm sau, mẹ ông cũng chết vì bệnh lao. Người chị cả lập gia đình với người lính Mỹ và sang sống bên Hoa Kỳ. Phần ông, sau vài năm làm việc, ông ngã bệnh nặng, mất việc làm. Mất việc làm ông cũng mất luôn nhà ở, vì không có tiền trả tiền nhà. Từ đó ông sống lang thang ngoài đường.
Người chị cả ở Hoa Kỳ có ý tìm ông. Bà nhờ cảnh sát tìm giúp. Nhưng vì ông không có nhà nên không ai biết ông lang thang nơi nào. Giờ đây, ông có việc làm, có nhà ở, cảnh sát tìm được ông và báo cho bà chị cả biết. Bà chị liền mời em sang Mỹ. Cha Mito rửa tội cho ông Kobu trước khi ông lên đường sang Hoa Kỳ. Ngày ông lãnh bí tích Rửa Tội cũng có sự hiện diện của gia đình bà chị. Đây là gia đình Công Giáo thật đạo đức. Tôi sung sướng chia sẻ niềm vui của toàn gia đình ông Kobu.
Sau chuyện ông Kobu là chuyện ông Nachu, người không nhà cửa.
Khi ông Nachu đến giáo xứ xin giúp đỡ, tôi giao việc để xem ông làm như thế nào. Ông luôn cố gắng tìm việc đây đó hầu có thể trả tiền nhà ngủ qua đêm.
Ông Nachu có tính tình đặc biệt: sống ngày nào hay ngày đó, không lo lắng dự trù cho tương lai. Vì thế, khi có việc làm, có tiền thì có chỗ ở. Mất việc thì cũng mất luôn chỗ ngủ. Bây giờ ông có việc làm và có đồng lương tương đối khá.
Mỗi lần lãnh nhiều tiền ông đến ngay giáo xứ trao cho chúng tôi, khi thì 2000 Yen, có khi đến 5000 Yen (khoảng 50 mỹ kim). Ông nói:
- Đây là tiền giúp người không nhà cửa!
Lòng ông Nachu thật quảng đại.
Chứng từ của Cha Cyriel Smet Linh Mục thừa sai người Bỉ dòng Khiết Tâm Đức Mẹ (Scheut).
(”Cronica CICM”, n.5, Septembre+Octobre/1997, trang 189-192).
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
Nắng nóng. Không khí mặn chát. Những con sóng đều đều. Một thằng bé trên bờ biển quỳ gối xúc cát bằng xẻng và nén cát vào cái xô đỏ. Sau đó nó úp xô xuống. Nhấc ra, chỉnh sửa khối cát để cho ra đời tòa lâu đài. Nó chơi vậy suốt buổi trưa. Xây thêm hào, đắp thêm tường thành, những ngọn tháp là trạm bảo vệ. Que kem làm cầu. Một khu lâu đài bằng cát được xây xong.
Thành phố lớn. Những con đường đông đúc. Giao thông sôi sục. Một người đàn ông ngồi trong văn phòng, sắp giấy tờ thành từng đống và bàn giao những công việc đã xong. Ông kê điện thoại vào giữa vai và cổ, tay vẫn gõ bàn phím vi tính liên tục. Những con số múa may, nhiều hợp đồng kí kết, niềm vui của người đàn ông và lợi nhuận sinh ra. Cả cuộc đời ông dành cho công việc. Những kế hoạch nối tiếp nhau. Tương lai nằm trong dự đoán. Tích luỹ hàng năm là những sự bảo đảm. Vốn vươn dài ra bắc cầu khắp nơi. Một đế chế được dựng nên.
Hai người xây lâu đài có nhiều điểm giống nhau. Cả hai đều tích tiểu thành đại. Cả hai đều làm nên chuyện từ khi chưa thấy nó. Cả hai đều cần cù và quyết tâm. Và cả hai đều biềt rằng khi thủy triều lên cũng như khi xu thế thay đổi thì mọi việc sẽ kết thúc. Và đây chính là điểm khác biệt giữa hai người. Trong khi người đàn ông làm ngơ kết quả thì đứa bé biết chấp nhận.
Hãy xem đứa bé làm gì khi mọi thứ sắp tan thành cát bụi. Khi sóng kéo đến, cậu bé thông minh nhảy lên và vỗ tay. Không buồn phiền, không sợ hãi, không tiếc nuối. Vì nó biết chuyện này sẽ xảy ra, nên nó không ngạc nhiên. Và khi cả tòa lâu đài ầm ầm sụp đổ, bị hút về biển cả, đứa bé mỉm cười. Nó cười, nhặt lấy dụng cụ và nắm tay cha về nhà. Mà sao người lớn không được ngoan như vậy. Khi con sóng thời gian tràn tới, phá sập toà lâu đài của mình, người đàn ông kinh hoàng. Ông ta lượn lờ quanh cái phế tích của mình để bảo vệ. Ông ta xây thêm tường để chặn con sóng, rồi khi nước biển thấm vào và phá vỡ nó, ông rối trí trước cơn thuỷ triều. Ông nói một cách bất chấp: "Đây là tòa lâu đài của tôi mà!".
Nhưng đại dương không trả lời, ai cũng biết cát thuộc về nơi nào.
Tôi cũng không biết gì nhiều hơn về những toà lâu đài cát. Nhưng trẻ con lại
biết rõ lắm. Hãy quan sát chúng để học hỏi. Tiếp tục xây lên nhưng bằng một trái
tim trẻ thơ. Lúc chiều tà bóng xế, khi con nước lên, hãy hoan nghênh nó. Sau khi
chào đón tiến trình của cuộc sống, nắm lấy tay cha, rồi... về nh
Mộng Tuyền ( sưu tầm từ Internet )
Hoạn nạn nung nấu tâm can
“Có con chim
hằng ngày nương náu nơi cành khô của một cây đại cổ thụ giữa cánh rừng hoang.
Ngày kia có trận cuồng phong làm bật gốc của cây đại thụ, bắt buộc con chim đáng
thương kia vỗ cánh ngàn dặm đi tìm nơi trú ẩn khác.
Cuối cùng, nó bay đến một cánh rừng khác, với những cây cối nặng trĩu hoa trái….”
Một đời sống kỷ luật, với những đòi hỏi nơi bản thân và việc đương đầu với nghịch cảnh giúp chúng ta cố gắng. Thêm vào đó, chúng ta sẽ có thêm sức mạnh nếu biết tận dụng khả năng sẵn có, và cả những tiềm năng chưa được khai thác để có thể vượt qua khó khăn và nghịch cảnh – chính khi cố gắng, xoay xở để vượt qua, mà làm bật lên sức mạnh tự bản thân, đó chính là nội lực.
•Nội lực là sức
mạnh bên trong mà mỗi chúng ta cần có để có thể đảm nhận cuộc đời mình cách
thành công .
•Nội lực cũng có thể ví như khung sắt bên trong của những cây cột, chính nhờ
khung sắt này đã giữ cho toà nhà cuộc đời chúng ta đứng vững không sụp đỗ.
•Nội lực là chất liệu giữ cho cuộc đời mình không nghiêng ngữa, trước những bảo táp cuộc đời
•Nội lực chính là sức mạnh riêng để chúng ta có thể sống độc lập, trong hành vi cũng như trong suy nghĩ, không để mình bị ai hay những gì bên ngoài cuốn lôi.
•Nội lực là sức
mạnh giúp ta giữ được nét độc đáo của riêng mình không đánh mất căn tính của
mình.
•Nội lực cũng chính là sức mạnh giúp chúng ta chỗi dậy sau những sai lầm hay sự
quật ngã của nghịch cảnh.
• …
Nội lực là sức mạnh tinh thần, nó mang nhiều dáng vẽ : nội lực chính là ý chí,
sự cương quyết, sức chịu đựng, lòng kiên trì , và tính tự chủ…
Nội lực là tài sản tốt nhất mà con người có thể tạo nên và chiếm hữu, không phải chỉ vì nó bảo đảm cho thành công, nhưng bởi vì một người thiếu nội lực, ý chí yếu ớt thì xem ra luôn gắn liền với thất bại…
Những người thiếu nội lực là những người bạc nhược, yếu mềm, thiếu năng lực , nơi họ không có niềm vui, và cũng chẳng có sức sống, họ sống co cụm, sợ hãi và chẳng dám làm gì. Một cuộc sống như thế thì buồn nản, đơn điệu và vô hồn, có sống cũng như chết, vì thế mà chúng ta không lạ gì khi Shakespeare nhận định rằng :
“Người bạc nhược chết nhiều lần trước khi chết”
Chuẩn bị hành trang cho mình vào đời với một sức mạnh tự thân, là bảo đảm cho chúng ta một tương lai thành công hay ít nhất cũng tránh bớt những thất bại. Nội lực là thứ tài sản không sợ bị ai cướp mất, như tiền bạc, địa vị và ngay cả trí thông minh cũng không đánh đổi được nó. Trái lại, với nội lực, con người có thể vượt khó trong học hành, trong nghề nghiệp, có thể tạo ra tiền, địa vị cùng uy tín và sự nể trọng.
Làm sao để xây dựng nội lực ?
Trước hết xin các bạn trẻ đừng chấp nhận một đời sống quá dễ dãi, quá tiện nghi, đầy đủ...
“Kẻ nào tấm thân được nhàn nhã thì ý chí thường yếu ớt, hẹp hòi”
Gia Ngữ
Ai cũng có thể nhận thấy rằng “chính trong lửa mà sắt đã được tôi thành thép !” Nghịch cảnh chính là thầy dạy, nhưng lắm lúc ta lại từ chối cơ hội lớn lên này.
“Sự thịnh vượng là một ông thầy lớn,
nhưng nghịch cảnh lại là bậc thầy vĩ đại hơn.
Sự đầy đủ mơn trớn lòng ta,
sự thiếu thốn tôi luyện và làm cho lòng ta cứng cát.”
Hazlitt
Lưu Dung, một nhà giáo, nhà văn và cũng là họa sĩ, nhưng điều nỗi bật nơi ông
chính là sự quan tâm đến việc giáo dục con cái trong từng chi tiết rất cụ thể
của cuộc sống thường nhật, đã có lần ông khuyến dụ con mình. Chúng ta có thể học
thêm từ người cha này :
“Chưa phải là thành tựu trừ phi con có năng lực nội tại,
tự mình kích phát chính mình, một xung lực chủ động,
liên tục vượt qua chính mình và
môt tinh thần kiên trì cho tới cùng, kiên định không lay chuyển.”
Thật vậy, những gì bên ngoài chỉ là tạm bợ, không an toàn và không bảo đảm cho cuộc sống của chúng ta có giá trị và an vui lâu dài.
Các bạn trẻ khi buớc vào đời chúng ta coi chừng bị "sập bẩy" , những cái bẩy rất hợp với nhu cầu và ước vọng của con người, nhưng không khéo thì chúng ta có thể tự vùi lấp đời mình đấy ! Cái bẩy của tiền bạc, của chỗ đứng ...
Tiền ? - Tiền có giá trị rất lớn cho cuộc sống , nhưng cũng là con dao hai lưỡi, nó có thể tạo cho con người sự dễ dãi, ươn lười; có thể đưa chúng ta vào một cuộc sống hưởng thụ, và rồi có thể sa đoạ, và sau đó là tai hoạ …!!! Nhất là tiền có thể tạo quyền lực và sức mạnh, vì thế dễ làm cho con người trở nên tự mãn, và cuộc đời xảy ra nhiều vấp váp cũng bởi cái tính khó trị này. Các bạn sẽ nói : "đời không có tiền thì còn làm được gì ? Phải, nhưng cái bẩy của nó là : để có tiền chúng ta rất nhiều khi phải hy sinh những giá trị khác...
Địa vị, chỗ đứng ? – Nhiều bạn trẻ đã cố gắng xây đắp và tìm cho mình một chỗ đứng trong xã hội ; đó là bằng chứng của sự thành đạt. nhưng có ai dám bảo đảm rằng một người sẽ ở mãi vị trí cao ? Danh vọng là một cạm bẩy lớn dễ làm cho người ta bị tha hoá , biến chất đấy các bạn. Chỉ xin được nhắc các bạn coi chừng thôi !!!
Trí thông minh ? – Đây là món quà rất quý giá của đời người. Tuy nhiên, nếu có trí cao mà không tận dụng thì có cũng như không. Hoặc dùng trí cao trong những việc làm bất chính thì lại càng nguy hiểm hơn. Biết bao đau thương và hũy diệt bản thân cùng người khác đều do những người thông minh gây nên như Hitler hay các tên trùm khủng bố, các nhóm làm ăn phi pháp, chèn ép đạp đỗ người khác… Xã hội đầy dẫy những người thông minh hàng ngày ngồi “tán dốc và lý sự” bên ly cà phê trong những quán cóc bên vệ đường ? Họ đã làm gì cho bản thân và người khác ?
Nội lực ? - Phải, nội lực chính là gia sản mà chúng ta tự tạo cho mình.
Nội lực như kho tàng được chôn dấu, không bị ai đánh cắp, cũng có thể ví nội lực như một cái phanh (thắng) an toàn khi xe cuộc đời xuống dốc.
Nội lực là sức đẩy như nhiên liệu, làm cho xe cuộc đời lăn bánh.
Nội lực luôn giúp con người theo chiều hướng tích cực, vì thế, giá trị của mỗi người tỉ lệ thuận với nội lực họ có.
Một người cha và đồng thời đã và đang là một vị đại sứ Việt nam ở nhiều nước khác nhau , có lần tâm sự cùng tôi như sau :
“Khi tôi còn bé, nhà nghèo, mỗi sáng phải dậy thật sớm đi bộ bảy cây số với một tấm ny lông quấân quanh khi trời mưa để đến trường. Những ngày mùa đông rét lạnh ở miền Bắc thật khủng khiếp, đường xa, bụng đói, hằng ngày đi ngang qua thúng xôi của bà bán hàng trên đường đi, tôi thấy thèm quá, mỗi lần có ai đến mua, thúng xôi được giở lên, sao mùi thơm của nó tuyệt vời thế !!!. Nhưng nhờ cuộc đời niên thiếu cực nhọc ấy, tôi đã được như ngày nay. Tôi đang lo lắng cho hai con trai tôi, tôi sợ cuộc sống quá đầy đủ sẽ làm mất đi sức mạnh vượt khó của chúng… “
Nỗi lo rất chính đáng của một người cha !
“Không có việc gì có giá trị ở đời mà không đổi bằng :
thời gian, lao nhọc, bị hiểu lầm, chịu đau khổ và quyết chí thành công…”
V.Cousin
Điều quan trọng là chính ở sự quyết chí đó. Cũng như chú chim nhỏ kia. Nếu không
có trận cuồng phong làm bật gốc cây cổ thụ, mất đi nơi nương náu thì chắc chú sẽ
không chịu khó cất cánh bay xa, và rồi tìm được những kho tàng mới, bầu trời mới
!
Biết bao cuộc đời thành tựu và có giá trị khởi phát từ giới nghèo và giới trung lưu, từ những người chẳng có chút vốn vật chất nào trừ cái vốn nội lực ? Gần như hằng ngày đối diện với Một số sinh viên có vẽ "bèo nhèo" ... Tôi vẫn hằng thao thức, mong làm sao để : nổ lực của bản thân chính là món ăn hằng ngày cho các bạn trẻ trong tiến trình lớn lên.
Ngoài ra, niềm tin vào chính mình, vào người khác, vào cuộc đời hay vào tương
lai, là điều tối cần mà các bạn trẻ cần đầu tư để xây dựng. vì niềm tin cũng
chính là nội lực , là động lực vướn tới, để bắt tay, để lao vào những ước mơ,
những dự tính… Với niềm tin đó, người ta sẽ có hy vọng và không ngại khó dấn
bước vào đời với đôi tay giang rộng, để đón lấy cuộc sống với muôn màu, muôn vẽ
của nó
“Niềm tin tạo nên sự nỗ lực bất khuất. Đây chính là chìa khóa làm nên kỳ tích.”
Chung Ju Yung
Đã đến lúc chúng ta phải bỏ lối chờ đợi những quà tặng bất ngờ của trời đất, mà phải tự mình làm nên cuộc sống vì :
“Cuộc sống của chúng ta đáng giá như thế nào
đều do những cố gắng đã bỏ ra”
Francois Mauriac
M.Thécla Trần Thị Giồng – Dòng Đức Bà
Con trai yêu thương của mẹ,
Tối qua, mẹ đã nhắc nhở con rất nhiều lần cần phải ngủ sớm để sáng sớm đi lãnh
thưởng.V ậy mà con hết đòi xem họat hình, xem siêu nhân, xem thế giới động vật…
con biết rằng mẹ yêu thương con và thế là con mè nheo, con khóc thét lên và con
đánh cả mẹ, con đuổi mẹ xuống giường vì mẹ tắt tivi và bắt con nhắm mắt ngủ khi
đồng hồ chỉ 10h45 phút.
Mẹ đã không kiềm được tức giận trước hành động “đánh mẹ và lì lợm”…của con. Mẹ
đã phải bắt con trai 3 tuổi rưỡi của mẹ nằm sấp xuống giường và đánh liên tục
vào mông con hơn 5-6 cây thước ….
Có lẽ lúc mẹ giận con, mẹ có cái nhìn của người giận dữ và nay là lần đầu tiên
mẹ đánh con trai nhiều roi (vì tội nặng lắm cũng chỉ 2 roi). Mẹ thấy con khóc và
con mếu máo “mẹ không yêu thương con“.
Con quay lưng vô tường và con khóc.
Mẹ cũng khóc, vì mẹ nhận ra rằng thể mẹ đã không kiềm chế đựợc sự bực mình và có
thể mẹ cũng bị những khó chịu trong công việc ảnh hưởng nên đã đánh con thật
nhiều. Con quay lại thì con thấy mẹ khóc và thế là con giơ bàn tay bé xíu của
con lau nước mắt cho mẹ. …
Lần này con khóc không phải vì đau mà vì con thấy mẹ khóc hoài. Mẹ hỏi con, "mẹ
có thương con không?” .Con rớt nước mắt và lắc đầu nhẹ nhẹ. Nước mắt mẹ chảy vì
ăn năn đã đánh con nhiều roi và mẹ không biết phải giải thích sao cho con hiểu
mẹ rất yêu thương con.
Me không muốn ép buộc con trả lời ngay, mẹ hiểu ngay lúc này con sẽ không bao
giờ hiểu được ý nghĩa của đòn roi. Ngày xưa mẹ cũng vậy, mẹ cũng đã từng có ý
nghĩ bà ngoại ghét bỏ mẹ, vì chỉ có ghét mới cầm roi đánh vào mông con đau ơi là
đau.
Tối qua mẹ con mình đã ôm nhau ngủ với kết luận dễ thương của con: mẹ làm con
khóc là tội của mẹ không phải tội của con đâu à nghen”.
Mẹ xin lỗi con trai về trận đòn tối qua và mẹ mong sau này con hiểu được con là
tình yêu và niềm tự hào lớn nhất của mẹ.
Yêu thương
MẸ
Mộng Tuyền ( sưu tầm từ Internet )
B. CỬ HÀNH CÁC BÍ TÍCH
Ngoại trừ thánh lễ ra, thì không có nơi nào linh mục trở nên một Chúa Ki-tô thứ
hai cho bằng khi các ngài cử hành ban các Bí Tích cho giáo hữu. Thật vậy, các Bí
Tích không phải do con người lập ra, nhưng do chính Chúa Giê-su đã lập ra vì con
người, cho con người, để chuyển thông ơn của Thiên Chúa cho nhân loại, và tùy
nhu cầu ơn ích của người lãnh nhận mà ban cho họ những ơn cần thiết. Do đó mà
khi cử hành các Bí Tích thì linh mục không nhân danh chính mình, nhưng là nhân
danh Chúa Giê-su là Đầu của Giáo Hội, là vị tư tế tối cao đầy quyền năng để ban
ơn, chữa lành và tha tội qua thừa tác vụ linh mục mà ngài đã lãnh nhận.
Vì sự quan trọng của các Bí Tích mà Giáo Hội dạy rằng: “Quả thật, các Bí Tích
ban ân sủng, nhưng việc cử hành các Bí Tích còn nhằm chuẩn bị các tín hữu đón
nhận ân sủng đó một cách hữu hiệu...” (Hiến chế về Phụng vụ thánh, số 59).
Bởi vì các Bí Tích được gọi là Bí Tích Đức Tin, nên việc cử hành các Bí Tích cần
được khuyến khích cộng đoàn Dân Chúa tham dự, để họ thấy và hiểu được những dấu
chỉ và ơn thánh nơi các Bí Tích mà họ đón nhận. Vì Bí Tích quan trọng như thế,
nên mỗi lần cử hành các Bí Tích thì linh mục phải cử hành như một Chúa Giê-su
thứ hai đang đưa tay đụng đến mắt người mù để họ được sáng, như Chúa Giê-su chúc
lành cho con trẻ và như Chúa Giê-su ngước mắt lên trời cầu nguyện với Chúa Cha
trước khi chữa lành cho dân chúng.v.v... nghĩa là ngài –linh mục- phải nghiêm
trang sốt sắng, không la lớn tiếng khi giáo dân làm không đúng quy định, bởi vì
có khi chính ngài làm cho giáo dân cảm thấy linh mục cử hành bí tích như làm bùa
phép, vì ngôn hành của ngài không nghiêm trang, không cẩn trọng và sốt sắng, làm
cho xong việc...
Những vị đạo sĩ của các tôn giáo như đạo Lão, hoặc như các hòa thượng của đạo
Phật, họ vẫn lấy nước “phép” rảy trên lễ vật, dùng tay huơ huơ như làm phép, và
miệng đọc lâm râm những kinh khó hiểu, và chúng ta –người Công Giáo- gọi đó là
dị đoan bùa phép tà đạo; nhưng nếu các linh mục của Hội Thánh Công Giáo không
nghiêm trang sốt sắng khi cử hành các Bí Tích, thì người ta cũng cho đó là dị
đoan, mê tín, làm hại đến đức tin của tin hữu, và nhất là không thể hiện được
mình là Chúa Ki-tô thứ hai đang chúc lành, tha tội và ban ơn thiêng liêng cho
những người lãnh nhận Bí Tích.
Bởi vì “Bí Tích là dấu bên ngoài chỉ ơn ích bên trong” cho nên, mặc dù
linh mục không nghiêm trang sốt sắng, không có tâm tình cử hành Bí Tích, thì Bí
Tích vẫn thành sự, ơn của Thiên Chúa vẫn xuống trên người lãnh nhận nó, nhưng
không làm cho những người hiện diện sốt sắng, và có khi phản tác dụng đối với
giáo huấn của linh mục. Vì là “dấu chỉ bên ngoài” nên bên ngoài của linh mục
cũng như của người nhận lãnh Bí Tích, ít nữa là phải sạch sẽ gọn gàng, đứng đắn
theo như quy định của Giáo Hội. Có một vài linh mục khi ban Bí Tích Giải Tội thì
không ngồi trong tòa cáo giải, chỉ ngồi nơi phòng khách giáo xứ (mặc dù được
phép) nhưng hối nhân cũng cảm thấy như bị hụt hẩng, khi ngài mặc áo mai-ô (áo
lót) quần pyjama để ban bí tích Giải Tội, hoặc là khi ngài đang tưới cây làm
vườn thì cũng mặc đồ lao động dơ bẩn đó, khi có giáo dân đến xin xưng tội, thì
ngài ngồi ngay trên tảng đá kiểng trong vườn để ban bí tích Giải Tội, đương
nhiên là bí tích vẫn thành sự, nhưng hỏi có mấy giáo dân lấy đó làm gương mẫu !
Không phải thời chiến tranh, cũng không phải thời bách hại đạo, thì ít nữa linh
mục cũng luôn bày tỏ sự yêu mến và tôn trọng Bí Tích mà mình sắp sửa cử hành.
1. Bí tích Rửa Tội.
“Nhờ phép Rửa Tội chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi, được sinh lại làm
con Thiên Chúa, được trở thành chi thể của Chúa Ki-tô, được gia nhập vào thân
thể Giáo Hội và sứ mạng của Giáo Hội” (sách GLCG số 1213).
Ai giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, chính Chúa Giê-su, qua việc đổ nước thanh
tẩy nhân danh Chúa Ba Ngôi của linh mục.
Ai sinh ta lại làm con Thiên Chúa, chính Chúa Giê-su, qua tay linh mục tái sinh
ta làm con Thiên Chúa.
Ai làm cho chúng ta trở thành chi thể của Chúa Giê-su, chính Ngài, qua tay linh
mục, nhờ bí tích Rửa tội sáp nhập chúng ta vào thân thể mầu nhiệm của Chúa
Ki-tô.
Ai trao sứ mạng loan truyền Phúc Âm cho chúng ta, chính Chúa Giê-su, qua Giáo
Hội và nhờ linh mục, chúng ta trở thành những môn đệ của Chúa Giê-su, và có bổn
phận làm chứng cho Chúa Giê-su trong chính cuộc sống của mình.
Nơi bí tích Rửa Tội, chính linh mục làm cho chúng ta được trở nên con của Thiên
Chúa, chính ngài nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi, nhân danh Giáo Hội, nhân danh
cộng đoàn và nhân danh mình, đón nhận một thành viên mới vào trong đại gia đình
Giáo Hội, thân thể mầu nhiệm của Chúa Ki-tô.
Linh mục, ngài thật sự là một người cha tinh thần của người giáo hữu khi cử hành
bí tích Rửa Tội cho họ, và có thể nói, trong bí tích Rửa Tội linh mục đã sinh ra
người giáo hữu để họ được làm con Thiên Chúa, và ngài cũng là một mục tử khi
ngài dùng bánh Hằng Sống và các ân sủng của Thiên Chúa để dưỡng nuôi linh hồn
của họ, để trên đường về quê trời, linh hồn họ được mạnh khỏe, đủ sức đề kháng
những cám dỗ do ma quỷ và tội lỗi gây ra. Thật vậy, nơi bí tích Rửa Tội, linh
mục là một Chúa Ki-tô thứ hai đang ghi dấu Thánh Giá cứu độ trên trán, để từ đây
họ thuộc hẳn về Ngài và Ngài là gia nghiệp và nơi nương náu của họ, bất khả phân
ly, và chỉ có tội lỗi mới làm cho họ xa cách Thiên Chúa mà thôi.
2. Bí tích Thêm Sức
“Phép Thêm Sức hoàn tất ân
sủng của phép Rửa Tội. Đây là bí tích ban Chúa Thánh Thần, làm chúng ta bén rễ
sâu vào sự làm con cái Thiên Chúa, sáp nhập chúng ta vào Thân Thể Chúa Ki-tô
cách mật thiết hơn, khiến mối liên lạc của chúng ta với Giáo Hội thêm chặt chẽ,
kết hợp chúng ta nhiều hơn vào sứ mạng của Giáo Hội, và giúp chúng ta làm chứng
cho đức tin Ki-tô giáo bằng lời nói và việc làm” (sách GLCG, số 1316).
Vì không hiểu giáo lý cách rõ ràng, mà có nhiều người Ki-tô hữu không biết tìm
linh mục đến để ban bí tích cho các em nhỏ trong cơn nguy tử, bởi vì họ cứ nghĩ
rằng: các em nhỏ không cần lãnh bí tích Thêm Sức, và chỉ có các giám mục mới có
quyền ban bí tích Thêm Sức, bởi vì linh mục là người trực tiếp chăm sóc linh hồn
của giáo hữu, nên ngài cũng có những năng quyền mà Giáo Hội ban cho, để mưu ích
cho linh hồn các giáo hữu của mình.
Mặc dù chỉ có Đức giám mục mới có quyền ban bí tích Thêm Sức, nhưng linh mục
đóng vai trò Chúa Ki-tô và là cộng sự viên của hàng giám mục trong ba phận vụ
thánh (sắc lệnh truyền giáo, số 39) là cai quản, thánh hóa và giảng dạy, nên các
linh mục cũng được giáo luật cho phép ban bí tích Thêm Sức khi ngài Rửa Tội cho
những người lớn tuổi, nguy tử (Gl 883, 2-3), và giám mục của mình ủy quyền cho
cử hành bí tích Thêm Sức trong những trường hợp đặc biệt, như giám mục trắc trở
không đến được, người lãnh nhận bí tích Thêm Sức quá đông.v.v...
Dù là Đức giám mục hoặc linh mục ban bí tích Thêm Sức, thì hiệu quả ơn Thánh
Thần vẫn giống nhau, bởi vì tất cả đều được Chúa Thánh Thần xức dầu thánh hiến
để trở nên mục tử của Chúa Giê-su, và khi linh mục cử hành bí tích này, thì ngài
vẫn là Chúa Ki-tô thứ hai đang hiện diện giữa dân thánh.
(còn tiếp)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Ngất xỉu là im lặng
Trong phòng thử quần áo, một phụ nữ mặc chiếc áo măng tô sang trọng lên người.
Cô ta hơi vén tấm rèm phòng thử ra hỏi người bán hàng:
- Cô có nói giá tiền cho chồng tôi biết không?
- Có ạ, thưa bà.
- Phản ứng của ông ấy ra sao?
- Ông ấy ngất đi.
- Cô biết câu tục ngữ "Im lặng là đồng ý" rồi chứ. Tôi lấy chiếc áo này.
o O o
Chẳng có kết quả
Tên ăn trộm lần thứ 6 ra tòa.
- Anh có điều gì nói để biện hộ cho mình không?
Quan tòa hỏi:
- Có, thưa ngài chánh án. Tôi muốn đề nghị các ông đừng đưa tôi vào tù nữa. Đã 5
lần người ta cho tôi đi tù mà chẳng đem lại kết quả gì cả.
o O o
Tặng quà
Một chàng trai Scotland hỏi người yêu:
- Sinh nhật này em muốn tặng cái gì?
- Em không biết, em chưa nghĩ đến điều đó.
- Được, anh gia hạn một năm để em suy nghĩ cho kỹ.