Web site:www.tinvui.org E-mail : bantreconggiao@yahoo.com
Tổng kết những sự kiện quan trọng của Ðức Thánh Cha Bêneđitô XVI trong năm 2006.
Bài Giảng của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
Thánh Lễ Đêm Giáng Sinh 25/12/2006
Sứ Ðiệp Giáng Sinh 2006 của Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI
Lễ Phong Chức Linh Mục tại Huế ngày Đầu Năm Dương Lịch 2007
TÀI LIỆU TUẦN THƯỜNG HUẤN LINH MỤC GIÁO PHẬN ĐÀLẠT 2006
07/01/2007
Mt 2, 1-12
"Chúng tôi từ phương Đông đến thờ lạy Đức Vua".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Đông phương tìm đến Giê-rusalem. Các ông nói: "Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người". Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Đức Kitô sinh hạ. Họ tâu nhà vua rằng: "Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Đấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta".
Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: "Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người". Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Đông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở về xứ sở mình. Đó là lời Chúa.
Hiển Linh ( Epiphanie), nghĩa là biểu lộ, tỏ ra. Theo sau các mục đồng Do Thái, chính các Đạo sĩ đã loan báo Đức Giêsu Kitô. Các vị có lẽ là những nhà Thiên văn học Babylon hoặc Batư. Qua việc mời họ đến thăm viếng Bêlem, Thiên Chúa muốn tỏ rõ màu nhiệm Cứu độ của Đức Giêsu Kitô phải được thắp sáng lên cho mọi dân tộc trên trái đất, như Thánh phaolô đã khẳng định.
Ý nghĩa của lễ này cho thấy một cuộc qui tụ dân chúng vĩ đại từ khắp mọi nơi,
không phân biệt nguồn gốc, dân tộc. Tất cả đều được tụ họp quanh Đức Kitô, để
thiết lập thành Dân Thiên Chúa, Vương Quốc của Thiên Chúa, Giáo Hội phổ quát.
1. Lễ Hiển Linh, ánh sáng Tin mừng chiếu soi muôn dân :
Trong ý nghĩa thì Hiển linh là lúc Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân đại diện là các nhà Đạo sĩ. Sự tỏ mình này cho thấy tính phổ quát của ơn Cứu Độ. Ơn Cứu Độ dành cho mọi người chứ không phải là ơn huệ độc quyền của một dân tộc nào ngay cả dân Do Thái. Chính các nhà Đạo sĩ chứ không phải là những người Do Thái khám phá ra ngôi sao của Đấng Cứu Thế xuất hiện. Họ có Kinh Thánh thì đáng lý ra họ sẽ phải là những người đầu tiên khám phá ra sự sinh hạ của Đức Kitô. Trong bài đọc II, Thánh Phaolô đã khẳng định tính phổ quát của ơn cứu độ: “ Nhờ Tin mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần với lời hứa của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô.” Ngày nay, Giáo Hội chúng ta chính là nơi qui tụ mọi dân tộc sẵn sàng đón nhận mọi dân tộc, mọi quốc gia với kho tàng văn hóa của họ. Và một khi họ đã đến với Giáo Hội thì sẽ thông truyền cho họ kho tàng duy nhất là Đức Giêsu Kitô. Mỗi Kitô hữu chúng ta sẽ là những đại diện chính thức của Giáo Hội để loan báo ánh sáng Tin mừng cho người khác, để thông truyền cho họ chính Đức Giêsu Kitô. Đấy cũng là sứ mạng truyền giáo mà Đức Kitô đã trao vào tay Giáo Hội và vào tay mỗi Kitô hữu chúng ta.
2. Lễ Hiển Linh, ánh sáng Tin mừng mời gọi khám phá Đức Kitô :
Các nhà Đạo sĩ đã lên đường tìm kiếm Vua Dân Do Thái, Đấng Cứu Độ theo ánh sáng của ngôi sao lạ. Dõi theo đường đi của các nhà đạo sĩ, chúng ta thấy đó là cả một hành trình đức tin. Khởi đầu là ra khỏi chính mình để lên đường, các nhà Đạo sĩ từ nơi xa xôi theo ánh sao, các ông dứt khoát rời khỏi quê nhà để đến một nơi xa lạ tìm kiếm Đấng mà các ông tin là có. Mỗi người chúng ta cũng vậy, để có thể tiến bộ trong đời sống đức tin thì phải biêt can đảm ra khỏi mình để khám phá Thiên Chúa, khám phá Đức Kitô. Không thể nhìn nhận và sống đức tin cách hời hợt, chủ quan hay bảo thủ theo những gì mình biết cách hạn chế. Phải lên đường tìm kiếm, phải thoát ra khỏi cái tôi để thấy Chúa trong cuộc đời. Trên đường đi, có những lúc có ánh sao dẫn đường, có những khi thấy vui vẻ phấn chấn, nhưng có những lúc ánh sao biến mất, có những khi thấy buồn sầu phiền muộn, các ông vẫn kiên tâm tìm kiếm, không dựa được vào ánh sao, các ông hỏi thăm người khác cho đến khi tìm thấy. Cuộc sống đức tin cũng thế, có những lúc là ánh sáng, có những khi là đêm tối; có những lúc mạnh mẽ nhưng không hiếm những lần ngại bước; có những lúc vui sống trong niềm tin nhưng cũng chẳng thiếu những lúc chán nản nghi nan. Cho dẫu thế nào vẫn phải cố gắng lên đường, phải cất công tìm hiểu, học hỏi Lời Chúa, phải năng tham dự các bí tích và những phương thế thiêng liêng khác để không ngừng khám phá Thiên Chúa, tiến về Đức Kitô.
3. Lễ Hiển Linh, ánh sáng Tin mừng toả chiếu cuộc đời :
Các nhà Đạo sĩ nhận thấy ánh sao lạ và bị ánh sao cuốn hút để lên đường tìm kiếm Đức Giêsu Kitô, khi đã tìm thấy Ngài, các ông hết sức vui mừng, tiến vào dâng lễ vật. Như thế, các ông đã tin tưởng, đã chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ Đấng Cứu Thế, Vua Dân Do Thái. Có thể xác quyết rằng ánh sao đã chiếu tỏa và biến đổi cuộc đời các ông. Chi tiết cuối của bản văn : các ông đã qua đường khác mà trở về xứ sở của mình đã măïc nhiên cho thấy cuộc đời các ông biến đổi qua sự diện kiến Đức Kitô. Gặp Đức Kitô các ông không còn lệ thuộc, không quay lại với Hêrôđê nữa mà đã theo một con đường khác. Ánh sáng Tin mừng cũng sẽ lôi cuốn mọi người tìm đến với Đức Kitô để được biến đổi. Cuộc đời sẽ sang trang mới khi được ánh sáng Tin mừng soi sáng để khi gặp Đức Kitô sẽ không quay trở lại với con người cũ, với nếp sống cũ mà bước vào đời sống mới trong Đức Kitô. Một ánh sao thôi đã đủ để hấp dẫn, lôi cuốn các nhà Đạo sĩ đến với Đức Kitô. Còn chúng ta ngày nay có cả một kho tàng Tin mừng vậy mà khi đọc, khi nghe Tin mừng lòng chúng ta dường như chai đá, vô cảm. Tại sao vậy? Xem ra ngày nay không ít người biết Tin mừng, hiểu Tin mừng nhưng được biến đổi, biết khám phá và gắn bó với Đức Kitô thì lại không được như các người lãnh đạo tinh thần, những chuyên gia Kinh Thánh Do Thái ngày xưa. Hãy để Lời Chúa lôi cuốn chúng ta vào trong huyền nhiệm của Đức Kitô để khám phá Ngài và khám phá ra huyền nhiệm cuộc đời mình nhờ đó, chúng ta được biến đổi nên thánh.
Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng
Cứ mỗi năm dương lịch, tôi lại bước vào ba năm mới :
Một là năm mới Phụng vụ. Năm mới này bắt đầu từ Mùa Vọng, trước lễ Giáng sinh.
Hai là năm mới Dương lịch. Năm mới này bắt đầu ít ngày sau lễ Giáng sinh.
Ba là năm mới Âm lịch. Năm mới này bắt đầu một thời gian sau tết Dương lịch.
Mỗi khi bước vào những năm mới đó, tôi thấy mình cũng có cái gì mới. Riêng những năm mới hiện nay, cái mới nhất đang đến với tôi là tuổi già sức yếu. Cái mới đó là một biến chuyển nhất định. Càng ngày tôi càng biến chuyển them theo hướng đi xuống. Tôi cảm nghiệm sự thực đó rõ ràng.
Nhận thức sâu sắc về “sự phải đến sẽ đến” tôi muốn tâm sự với các độc giả thân yêu những gì tôi cho là quan trọng nhất.Tôi ràng làm, khi tôi còn sức chia sẻ.Đề tài tôi xin chia sẻ hôm nay là phiên dịch đức tin.
Lý do chọn vấn đề.
Hiện nay đâu đâu trong Hội Thánh Việt Nam cũng nói về vấn đề đức tin : Sống đức tin, học hỏi về đức tin, rao giảng đức tin, làm chứng cho đức tin, cộng đoàn đức tin.
Nêu vấn đề đức tin trong hoàn cảnh này là rất cần. Nhưng một câu hỏi sẽ được đặt ra liền đó là : Đức tin phải thế nào ?
Vì tầm quan trọng của câu hỏi, nhiều người đã trả lời. Hôm nay, tôi chỉ xin góp phần phần nhỏ. Hy vọng phần nhỏ này cũng được coi là một thiện chí.
Một trả lời.
Đức tin phải được phiên dịch ra hành động
Rất nhiều nơi Kinh đã dạy : “Đức tin nơi mỗi người cần phải được phiên dịch ra hành động. Thánh Giacôbê tông đồ rất dứt khoát về điều đó.Ngài viết : “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì ? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng ? …Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết…Nhờ hành động mà con người được nên công chính, chứ không phải chỉ nhờ đức tin mà thôi…Thật thế, một thân xác không hơi thở là một xác chết. Cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết”. ( Gc 2, 14 – 26)
Như vậy, dựa vào Kinh Thánh, chúng ta nhìn nhận và xác tín vững vàng ; Chỉ tin suông, dù tin đúng và tin đủ hệ thống giáo lý, cũng sẽ không cứu rỗi được ta đâu. Nhưng tin phải đi đôi với hành động. Nói cách khác, đức tin phải được phiên dịch ra hành động, mới là đức tin cứu rỗi.
Tới đây, xuất hiện một lý do rất thời sự, khiến ta phải suy nghỉ thêm. Lý do đó là hiện nay hiện tượng chọn lựa hành động, dể phiên dịch đức tin, càng ngày càng mang tính chất đa dạng, tự chọn và buông lỏng. Xin vắn tắt nêu lên một ít ví dụ :
Nếu Hội Thánh Việt Nam được ví như một đoàn tàu nhỏ được lệnh ra khơi, thì tôi thấy :
Con tàu vẫn cắm neo tại chỗ.
Con tàu đi rất chậm.
Con tàu bị lắc lư giữa sóng gió.
Con tàu bị thủng.
Con tàu muốn quay trở lại.
Cắt nghĩa tại sao, thì người ta đưa ra rất nhiều lý do: tại thuyền trưởng, tại các người trong tàu, tại ngoại cảnh.
Nếu Hội Thánh Việt Nam được ví như đoàn dân Chúa lên đường, thì tôi thấy :
Có nhóm đi về hướng đền thờ.
Có nhóm đi về hướng vùng sâu vùng xa.
Có nhóm thích dừng lại ở xóm giàu.
Có nhóm tự nguyện sống giữa xóm nghèo.
Có nhóm dấn thân vào các ngóc ngách của xã hội, để hiện diện với nhiều tình yêu và hy sinh.
Có nhóm đi giữa đời thường với lương tâm trách nhiệm.
Có nhóm hoà mình vào lớp người hưởng thụ, khoác lác, quậy phá.
Có nhóm nhởn nhơ, lười biếng, chậm chạp, không phấn đấu.
Hỏi lý do tại sao, thì người ta cũng đưa ra nhiều trả lời khác nhau như : tại người đứng đầu, tại cộng đoàn, tại ngoại cảnh.
Trước một tình hình như trên, việc chọn lựa hành động để làm chứng cho đức tin, hay để phiên dịch đức tin, chúng ta cần cảnh giác và khôn ngoan bằng ơn Chúa. Nếu không, tôi sợ Đạo thời khó thì dễ chọn lựa, còn Đạo thời dễ thì lại khó lựa chọn. Hiệu quả sẽ rất nghiêm trọng cho phần rỗi ta và tương lại Hội Thánh.
Một cách giải quyết vấn đề.
Vấn đề phiên dịch đức tin ra hành động là vấn đề không phải chỉ đặt ra trong những trường hợp đặc biệt, mà là vấn đề của đức tin đời thường. Vì thế tôi xin phép trình b ày một cách giải quyết nhẹ nhàng dễ nhớ. Giải quyết này tất nhiên dựa trên Kinh Thánh
Cuộc đời ta là một hành trình cùng với Đức Kitô “đi về với Chúa Cha” ( 1Ga 14,12)
Hành trình này được thực hiện bằng những tâm tư của ta hướng về Chúa, lòng ta lắng nghe thánh ý Chúa, trót bản thân ta và trọn đời ta thực thi thánh ý Chúa, mọi lúc mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh.
Thánh ý Chúa rõ rang nhất là : Tôi tin “ Chúa là tình yêu” ( 1Ga 4, 8). Nên ta sẽ đi về với Chúa bằng những bước tình yêu, bác ái.
Tình yêu, bác ái là điều răn mới cực kỳ quan trọng Chúa Giêsu đã trối lại cho các môn đệ Chúa.( xGa 14, 34). Tình yêu, bác ái là đặc biêt điểm của người môn đệ Chúa ( xGa 14, 35).
Tình yêu, bác ái là nhận thức trọng nhất. Hãy đọc lại bài ca bác ái do thánh Phaolô viết :
“ Giá như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa,
mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoàng.
Giá như tôi được ơn nói tiên tri,
và được biết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu,
Hay có tất cả đức tin đến chuyển núi đời non mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giá như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí,
hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” ( 1Cr 13, 1- 3).
Khi ta phiên dịch đức tin của ta ra đức ái, ta chắc chắn sẽ được an tâm, ơn Chúa sẽ ở trong ta và đến với các tâm hồn.
Giải quyết cách khác có thể sẽ mắc mưu ma quỷ, xác thịt và thế gian.
Thiết nghĩ cách giải quyết trên đây cần được nắm vững trong việc đào tạo mình và tín hữu hôm nay.
Tôi rất được khích lệ, khi nhìn vào gương nhiều vị giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân sống bác ái, để làm chứng cho đức tin của mình. Cho dù hành động đức ái nơi các chứng nhân ấy nhiều khi chỉ là sống trong đau khổ, cả phần xác lẫn phần hồn. Gương sáng của các chứng nhân đó gợi cho tôi nhớ lại lời Đức Giêsu đã phán sau : “ Thật, thầy bảo thật với các con, nếu hạt lúa gieo vào làng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó thối đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” ( Ga 12, 24).
Bị chôn vùi, bị thối đi, nhưng vẫn yêu thương. Yêu thương trong đau khổ là một cách phục vụ Tin Mừng, một thánh lễ sống động, một bài ca ngợi khen Thiên Chúa, một giá trị thiêng liêng xây dựng hoà bình.
Những tư tưởng trên đây đang đưa tôi vào năm mới, và sẽ hướng dẫn tôi trên quãng đời còn lại. Tôi tin sau cùng tôi sẽ gặp được Cha giàu tình yêu thương xót đang đợi tôi cuối đường.
Cùng với niềm tin đó, tôi luôn hiệp thông với mọi người con Chúa, đưa lòng mình vào bài kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô : “ Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người”.
Năm mói, xin chúc Hội Thánh Việt Nam tiếp tục ra khơi, tiếp tục lên đường với đức tin được phiên dịch ra đức ái.
Long Xuyên, ngày 31 tháng 12 năm 2006
ĐGM GB. Bùi Tuần
Tin Vatican (Vat 29/12/2006) - Năm 2006 sắp sửa kết thúc. Và một năm mới 2007 đang đến. Vào ngày cuối năm, 31 tháng 12 năm 2006, Ðức Thánh Cha Beneđitô XVI sẽ cử hành Nghi Lễ Tạ Ơn cuối năm, Phụng Vụ Giờ Kinh Chiều lễ vọng Ðức Maria Mẹ Thiên Chúa, trong Ðền Thờ Thánh Phêrô. Theo truyền thống hằng năm, trong nghi lễ này, mọi người sẽ hát Thánh Vịnh Chúc Tụng Chúa, Thánh Vịnh Tạ Ơn,... để tạ ơn Thiên Chúa đã ban những ơn lành trong một năm qua. Khi nghi thức Kinh Chiều tạ ơn kết thúc, Ðức Thánh Cha sẽ đi ra quảng trường Thánh Phêrô để viếng Hang Ðá Noel
Trong 12 tháng vừa qua của năm 2006, Ðức Thánh Cha Beneđitô XVI đã thực hiện những công việc mục với tinh thần Chân Lý và Bác Ái. Chân Lý và Bác Ái là hai chủ đề mà Ðức Thánh Cha đã giới thiệu với mọi người như là những nguyên tắc mục vụ trong suốt triều đại của ngài từ khi ngài lãnh nhận chức vụ Giáo Hoàng vào ngày 24 tháng 4 năm 2005. Sau đây, là những sự kiện quan trọng mà Ðức Thánh Cha đã thực hiện trong năm 2006 vừa qua:
- Ngày 25/01/2006: Ðức Thánh Cha gởi toàn thể dân Chúa Thông Ðiệp đầu tiên của ngài: Thông Ðiệp "Thiên Chúa là Tình Yêu". 10 ngày sau khi phát hành Thông Ðiệp này, đã có hơn 1 triệu bản đã được bán hết, và trở thành tác phẩm bán chạy nhất trong thời gian này.
- Ngày 3/03/2006: Ðức Thánh Cha viếng thăm Ðài Phát Thanh Vatican, và chúc mừng đài Vatican được thành lập 75 năm.
- Ngày 24/03/2006: Ðức Thánh Cha phong tước cho 15 vị Tân Hồng Y.
- Ngày 19/04/2006: Ðức Thánh Cha cử hành thánh lễ tạ ơn, kỷ
niệm một năm lãnh nhận chức vụ Giáo Hoàng.
- Ngày 25/05/2006: Ðức Thánh Cha lên đường viếng thăm Mục Vụ quốc gia Ba Lan.
Mục đích chính của chuyến viếng thăm là tưởng niệm vị giáo hoàng tiền nhiệm Ðức
Gioan Phaolô II.
- Ngày 3/06/2006: Ðức Thánh Cha tiếp kiến tại quảng trường Thánh Phêrô, hơn 40 ngàn thành viên của các hội đoàn và các hiệp hội của giáo hội công giáo đến từ khắp các quốc gia trên thế giới.
- Ngày 12/06/2006: Ðức Thánh Cha bổ nhiệm Ðức Hồng Y Tarcisio Bertone, Tổng Giám Mục giáo phận Genoa, làm tân Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh. Và ngày 15/09/2006 đức tân Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh nhậm chức.
- Ngày 8/07/2006: Ðức Thánh Cha lên đường viếng thăm mục vụ quốc gia Tây Ban
Nha. Sau khi viếng thăm Tây Ban Nha, Ðức Thánh Cha đi về miền Bắc Italia để nghỉ
hè.
- Ngày 9/09/2006: Ðức Thánh Cha lên đường viếng thăm Ðức
Quốc và nơi sinh quán của ngài. Ngày 12/09/2006, Ðức Thánh Cha đã diễn thuyết
tại Ðại Học Regensberg về đề tài "Ðức Tin và Lý Trí", bài thuyết trình này đã
tạo nên một vài hiểu lầm từ phía hồi giáo. Tuy nhiên, bài thuyết trình này cũng
đã được Phân Khoa Hùng Biện của Ðại Học Tubingen của Ðức Quốc bình chọn là "bài
diễn thuyết của năm 2006".
- Ngày 23/11/2006: Ðức Thánh Cha tiếp kiến Ðức Tổng Giám Mục Canterbury của Anh
Giáo.
- Ngày 28/11/2006: Ðức Thánh Cha lên đường viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ. Gặp gỡ đại kết với Ðức Thượng Phụ Constantinople của Chính Thồng Giáo. Viếng thăm và cầu nguyện tại Ðền Thờ Xanh của Hồi Giáo. Và dâng thánh lễ tại trung tâm hành hương "Ngôi Nhà của Ðức Mẹ" tại Ephêsô.
- Ngày 8/12/2006: Ðức Thánh Cha gởi toàn thể dân Chúa Sứ
Ðiệp ngày Quốc Tế Hòa Bình của năm 2007.
- Ngày 14/12/2006: Ðức Thánh Cha tiếp kiến Ðức Tổng Giám Mục Chính Thống Giáo Hy
Lạp Christodoulos của Thành Nhã Ðiện. Ðây là lần đầu tiên một vị Giám Mục Chính
Thống Giáo Hy Lạp chính thức viếng thăm Tòa Thánh kể từ sau cuộc đại ly giáo năm
1054.
Ngoài ra, theo báo cáo của Văn Phòng Phủ Giáo Hoàng, trong năm 2006, tổng cộng đã có khoảng hơn 3 triệu 2 trăm hai chục ngàn khách hành hương đến tham dự các buổi tiếp kiến công khai của Ðức Thánh Cha Bêneđitô XVI. Trong đó nhiều nhất là số lượng người tham gia các buổi huấn đức trước giờ Kinh Truyền Tin vào các buổi trưa tại quảng trường Thánh Phêrô hay tại sân trước Ðiện Castel Gandolfo, gần bên nhà nghỉ mát của Ðức Thánh Cha, có khoảng hơn 1 triệu 3 trăm ngàn người tham dự. Tiếp đến là số lượng người tham dự các buổi tiếp kiến chung vào mỗi thứ Tư hằng tuần, có khoảng hơn 1 triệu không trăm 3 chục ngàn người. Số lượng người tham dự các nghi lễ khác của Ðức Thánh Cha, có khoảng hơn 5 trăm 4 chục ngàn người. Cuối cùng là số người tham dự các buổi tiếp kiến đặc biệt khác của Ðức Thánh Cha, có khoảng hơn 3 trăm 6 chục ngàn người.
Trong suốt năm 2006, số người tham dự các buổi huấn đức trước giờ Kinh Truyền Tin vào mỗi trưa Chúa Nhật hoặc Lễ Trọng nhiều nhất là vào tháng 12, có khoảng hơn 2 trăm 6 chục ngàn người, và tiếp đến là vào tháng 5, có khoảng hơn 2 trăm lẻ 7 ngàn người.
(Joseph Trương)
?“Thiên Chúa biến mình trở nên nhỏ bé để chúng ta có thể hiểu biết Ngài”
Anh Chị Em thân mến,
Chúng ta vừa nghe trong Phúc Âm sứ điệp được các thiên thần báo cho các mục đồng
trong Đêm Thánh, một sứ điệp giờ đây được Giáo Hội loan báo cho chúng ta: ‘Hôm
nay, trong thành Đavít, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho các người, Ngài là Chúa
Kitô. Và đây là dấu hiệu cho các người hay, đó là các người sẽ thấy một con trẻ
được bọc trong khăn và nằm trong máng cỏ’ (Lk 2:11-12). Các mục đồng không được
chỉ cho thấy những gì là lạ lùng, những gì là phi thường, những gì là uy nghi vĩ
đại cả.
Tất cả những gì họ sẽ thấy là một con trẻ được bọc trong khăn, Đấng mà, như tất
cả mọi con trẻ khác, cần đến sự chăm sóc của người mẹ; một con trẻ được sinh ra
trong hang đá, một con trẻ mà vì vậy không nằm trong một cái nôi mà là một máng
cỏ. Dấu hiệu của Thiên Chúa là một thơ nhi cần được giúp đỡ và sống trong tình
trạng bần cùng. Chỉ bằng con tim của mình các mục đồng mới có thể thấy được rằng
thơ nhi ấy làm hoàn tất lời hứa được tiên tri Isaia nói tới mà chúng ta nghe
trong bài đọc thứ nhất: ‘Một con trẻ được sinh ra cho chúng ta, một người con
được ban cho chúng ta; và Người sẽ đảm nhiệm việc trị vì’ (9:5). Cũng cùng một
dấu hiệu đã được ban cho chúng ta. Cả chúng ta nữa cũng đưoơc thiên thần Chúa
mời gọi, qua sứ điệp của Phúc Âm, hãy khởi hành bằng tâm hồn của chúng ta để
thấy được con trẻ nằm trong máng cỏ ấy.
Dấu hiệu của Thiên Chúa có tính cách đơn sơ. Dấu hiệu của Thiên Chúa đó là việc Người biến mình trở thành nhỏ bé vì chúng ta. Đó là cách Người trị vì. Người không đến bằng quyền năng và hào nhoáng bề ngoài. Người đến như một thơ nhi – bất khả tự vệ và cần chúng ta giúp đỡ. Người không muốn chiếm đoạt chúng ta bằng sức mạnh của Người. Người làm cho chúng ta hết sợ hãi trước sự cao cả của Người. Người cần đến tình yêu của chúng ta, bởi vậy mà Người biến mình thành một con trẻ. Người không muốn gì khác nơi chúng ta ngoài tình yêu của chúng ta, một tình yêu nhờ đó chúng ta tự nhiên biết cách chia sẻ với những cảm xúc của Người, những ý nghĩ của Người và với ý muốn của Người – chúng ta biết sống với Người và thực tập với Người đức khiêm tốn từ bỏ là những gì thuộc về chính yếu tính của yêu thương. Thiên Chúa biến mình thành nhỏ bé để chúng ta có thể hiểu biết Người, đón nhận Người, và mến yêu Người. Các Giáo Phụ của Giáo Hội, trong bản dịch Hy Lạp Cựu Ước của mình, đã thấy được một đoạn theo tiên tri Isaia được Thánh Phaolô cũng trích dẫn để tỏ cho thấy làm thế nào những đường lối mới mẻ của Thiên Chúa đã đưoơc báo trước trong Cựu Ước. Ở đó chúng ta đọc thấy rằng: ‘Thiên Chúa đã làm cho Lời của Ngài trở nên ngắn gọc, Ngài đã rút gọn Lời Ngài’ (Is 10:23; Rm 9:28). Các Giáo Phụ đã dẫn giải điều này hai cách: ‘Chính Con là Lời, là Lý Trí; Lời hằng hữu trở nên bè nhỏ – nhở vừa gọn trong một máng cỏ. Người đã trở thành một con trẻ, nhờ đó Lời có thể được chúng ta nắm bắt. Như thế Thiên Chúa dạy chúng ta yêu thương thành phần bé nhỏ. Như thế Người dạy chúng ta yêu mến kẻ yếu hèn. Như thế Người dạy chúng ta tôn trọng trẻ em. Con trẻ Bêlem này hướng mắt chúng ta về tất cả mọi con trẻ đang chịu khổ và bị lạm dụng trên thế giới này, những con trẻ đưoơc sinh ra và những con trẻ không được sinh ra. Về các trẻ em bị sử dụng như lính tráng trong một thế giới bạo động; về những trẻ em đi ăn mày ăn xin; về những trẻ em bị thiếu thốn và đói khổ; về nhữn g trẻ em bị hất hỉu. Nơi tất cả những trẻ em ấy là Con Trẻ Bêlem đang kêu khóc đối với chúng ta; chính vị Thiên Chúa trở thành nhỏ bé đang kêu gọi chúng ta. Chúng ta hãy nguyện cầu đêm nay để ánh rạng ngời của tình yêu Thiên Chúa được tỏa rạng cho tất cả những trẻ em ấy. Chúng ta hãy xin Thiên Chúa giúp chúng ta thực hiện phần của mình n hờ đó phẩm vị của trẻ em được tôn trọng. Chớ gì tất cả họ đều cảm nghiệm được ánh sáng yêu thương nhân loại đang cần còn hơn những nhu cầu vật chất của đời sống.
Bởi vậy chúng ta tiến tới ý nghĩa thứ hai được các vị Giáo Phụ thấy nơi câu: ‘Thiên Chúa đã làm cho Lời của Ngài nên bé nhỏ’. Lời được Thiên Chúa nói cùng chún g ta trong Thánh Kinh đã trở thành dài dòng qua giòng lịch sử của các thế kỷ. Lời đã trở nên dài dòng và phức tạp, chẳng những đối với thành phần đơn sơ và thất học, thậm chí đối với cả thành phần thông thuộc Thánh Kinh nữa, đối với những chuyên gia rõ ràng cảm thấy bối rối trước những chi tiết và đặc biệt là trước những vấn đề, hầu như tới độ không còn thấy được cái phối cảnh tổng quan nữa. Chúa Giêsu ‘đã tóm gọn’ Lời này – Người đã tỏ cho chúng ta thấy một lần nữa tính chất giản dị và hiệp nhất sâu xa của Lời. Người đã tuyên bố rằng hết mọi sự được truyền dạy bởi Lề Luật và các vị Tiên Tri đều được tóm lại thành giới lệnh: ‘Các người phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa của các người hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn mình… Các người phải yêu thương tha nhân như bản thân mình’ (Mt 22:37-40). Đó là tất cả mọi sự – tất cả đức tin được chất chứa nơi tác động yêu thương duy nhất bao gồm cả Thiên Chúa lẫn loài người này.
Tuy nhiên, đến đây lại xuất hiện những vấn nạn khác, đó là làm thế nào chúng ta có thể yêu mến Thiên Chúa hết trí khôn của mình, nếu trí khôn của chúng ta khó có thể vươn tới Ngài? Làm sao chúng ta có thể yêu mến Ngài hết lòng và hết linh hồn của mình, khi lòng chúng ta chỉ có thể thoáng thấy Ngài từ xa xa, khi mà có quá nhiều cái ngược nghịch xung khắc nhau trong một thế giới có thể che khuất đi dung nhan của Ngài này đây? Đó là điểm gặp gỡ của hai đường lối của việc Thiên Chúa ‘tóm gọn’ Lời của Ngài. Ngài không còn ở cách xa nữa. Ngài không còn là những gì không biết tới nữa. Ngài không còn vượt ngoài tầm với của tâm can chúng ta nữa. Ngài đã trở thành một con trẻ đối với chúng ta, và làm như thế, Ngài đã xua tan đi tất cả những gì là ngờ vực. Ngài đã trở thành tha nhân của chúng ta, nhờ đó phục hồi lại hình ảnh của con người, thành phần chúng ta thường cảùm thấy rất khó mà yêu thương nổi.
Đối với chúng ta, Thiên Chúa đã trở thành một tặng ân. Ngài đã ban tặng chính mình Ngài. Ngài đã đi vào thời gian cho chúng ta. Ngài là một Đấng Hằng Hữu, vượt trên thời gian, Ngài đã mặc lấy thời gian và nâng thời gian lên với Ngài ở trên cao. Lễ Giáng Sinh đã trở thành một Lễ của các thứ tặng ân, phản ảnh việc Thiên Chúa là Đấng đã ban tặng bản thân mình cho chúng ta. Chúng ta hãy làm sao cho lòng của mình, linh hồn của mình và trí khôn của mình cảm thấy được sự kiến ấy! Trong số nhiều tặng ân chúng ta mua sắm hay lãnh nhận, chúng ta đừng quên tặng ân chân thật này, đó là hãy trao tặng nhau một cái gì đó từ bản thân mình, trao cho nhau một cái gì đó từ thời giờ của chúng ta, hướng thời giờ của chúng ta về Thiên Chúa. Nhờ đó mới không còn lo âu, mới có được niềm vui, và mới tạo nên lễ hội này.
Trong các bữa ăn mừng lễ ở những ngày này, chúng ta hãy nhớ đến lời Chúa phán: ‘Khi các người dọn bữa ăn hay tiệc tùng, đừng mời những ai có thể mời lại các người, mà là mời những ai không đưoơc ai mời và không thể mời lại các người’ (x Lk 14:12-14). Điều này cũng có nghĩa là khi anh chị em trao tặng quà Giáng Sinh, đừng tặng chỉ cho những ai sẽ tăngëlại anh chị em, mà cho những ai không đưoơc ai tặng và không thể tặng gì lại cho anh chị em. Đó là những gì Thiên Chúa đã làm, ở chỗ, Ngài đã mời chúng ta đến với bữa tiệc cưới của mình, một điều chúng ta không thể đáp ứng, mà chỉ biêt vui mừng đón nhận. Chúng ta hãy bắt chước Ngài! Chúng ta hãy yêu mến Thiên Chúa, và bắt đầu từ Ngài, chúng ta cũng hãy yêu thương con người, nhờ đó, bắt đầu từ con người, chúng ta lại có thể tái nhận thức được Thiên Chúa một cách mới mẻ!
Bởi vậy, sau hết, chúng ta thấy được ý nghĩa thứ ba nơi câu nói Lời đã trở thành ‘ngắn ngủi’ và ‘nhỏ bé’. Các mục đồng được báo cho biết rằng họ sẽ thấy một con trẻ nằm trong một cái máng giành cho thú vật, những con thú mới đáng ở trong hang đá ấy. Đọc tiên tri Isaia (1:3), các vị Giáo Phụ đã kết luận rằng, ngoài máng có ở Bêlem còn có một con bò và một con lừa. Các vị cũng cắt nghĩa đoạn sách này như là những gì biểu hiệu cho người Do Thái và các dân ngoại – tức toàn thể nhân loại – thành phần bằng cách thức riêng của mình cần đến một vị Cứu Tinh, đó là Vị Thiên Chúa đã trở thành một con trẻ. Con người, để sống, cần đến bánh ăn, hoa trái của trái đất và lao công của mình. Thế nhưng họ không sống nguyên bởi bánh. Họ cần của sinh dưỡng cho linh hồn họ, ở chỗ họ cần đến ý nghĩa có thể làm viên trọn cuộc sống của họ. Boơi thế mà đối với các vị Giáo Phụ, cái máng của thú vật ấy trở thành một biểu hiệu của bàn thờ, trong đó có Bánh là chính Chúa Kitô, dưỡng thực thật sự cho tâm can của chúng ta. Một lần nữa, chún g ta thấy Người đã trở nên bé bỏng là chừng nào: nơi một dáng vẻ khiêm hèn của một tấm bánh, nơi một miếng bánh nhỏ, Người đã ban mình cho chúng ta.
Tất cả những điều ấy là dấu hiệu được báo cho các mục đồng biết cũng cho cả chúng ta nữa: đó là con trẻ được hạ sinh cho chúng ta, một con trẻ chất chứa vị Thiên Chúa trở thành nhỏ bé cho chúng ta. Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta ơn huệ khi nhìn vào máng cỏ đêm nay tính chất đơn sơ giản dị của các mục đồng, để chúng ta được hưởng niềm vui họ có được khi trở về nhà họ (x Lk 2:20). Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta lòng khiêm nhượng và niềm tin tưởng của Thánh Giuse được ngài sử dụng khi nhìn thấy con trẻ được Mẹ Maria thụ thai bởi Thánh Linh. Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta biết nhìn ngắm Người bằng cùng một tình yêu mến như Mẹ Maria nhìn ngắm Người. Và chúng ta hãy nguyện cầu để nhờ đó ánh sáng đã giúp cho các mục đồng nhìn thấy chiếu tỏa trên cả chúng ta nữa, cũng như để cho những gì được các thần trời hát lên đêm hôm ấy cũng sẽ vang vọng khắp thế giới: ‘Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thể cho người Ngài thương’. Amen!
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/homilies/2006/documents/hf_ben-xvi_hom_20061224_christmas_en.html
“Salvator noster natus est in mundo” (Sách lễ Roma)
“Ðấng Cứu Độ chúng ta đã giáng sinh!” Trong đêm qua, một lần nữa, tại các Nhà thờ, ta đã nghe lại sứ điệp này, dù đã trải qua bao thế kỷ, vẫn còn luôn mới mẻ. Ðây là sứ điệp từ trời kêu gọi ta đừng sợ, vì “một tin mừng trọng đại” đã đến “cho toàn dân” (Lc 2,10). Ðây là một sư điệp hy vọng, vì bảo ta rằng, trong đêm đó cách đây hơn hai ngàn năm, "một Đấng Cứu Độ đã sinh ra trong thành vua Ða-vít, Người là Ðấng Ki-tô Đức Chúa" (Lc 2,11). Thiên sứ của Giáng Sinh đã loan báo cho các mục đồng trên đồi Bê-lem; ngày hôm nay Thiên sứ lặp lại cho chúng ta, cho tất cả những ai sống trong thế giới của chúng ta: "Ðấng Cứu Độ đã giáng sinh; Người đã giáng sinh cho anh em! Hãy đến, hãy đến thờ lạy Người!"
Nhưng một “Ðấng Cứu Thế” còn có giá trị và ý nghĩa nào cho những người nam, người nữ của ngàn năm thứ ba này không? Một “Ðấng Cứu Thế” có còn cần thiết cho một nhân loại đã lên đến mặt trăng và Sao Hỏa và hiện đang sẵn sàng chinh phục vũ trụ; cho một nhân loại tìm hiểu không giới hạn các bí mật của thiên nhiên và thành công trong việc giải các mã kỳ diệu bản đồ gien con người? Có còn cần một Ðấng Cứu Độ cho một nhân loại ngày nay đã phát minh các phương tiện truyền thông với nhau, và vận hành trong đại dương ảo internet, và nhờ vào các công nghệ truyền thông hiện đại nhất và tiến bộ nhất, ngày nay đã biến Trái Đất này, ngôi nhà chung to lớn của chúng ta, trở thành một ngôi làng toàn cầu? Nhân loại này của thế kỷ hai mươi mốt có vẻ là một kẻ làm chủ vận mệnh của mình một cách an nhiên tự tại, là kẻ hăng say tạo ra những chiến thắng không thể chối cãi được.
Xem ra là như thế, nhưng thật sự không phải vậy. Người ta tiếp tục chết vì đói khát, bệnh tật và nghèo túng, trong thời đại dư thừa và tiêu thụ vô độ này. Có người vẫn còn nô lệ, bị bóc lột và tước đoạt phẩm giá của mình; có người vẫn còn là nạn nhân của sự thù hằn chủng tộc và tôn giáo, và bị ngăn cản bởi sự bất khoan dung và kỳ thị, bởi can thiệp chính trị và những áp đặt thể lý hoặc tinh thần, trong việc tự do tuyên xưng đức tin của mình. Có người vẫn còn nhìn thấy thân thể mình và của những người thân yêu của mình, nhất là con cái của mình, bị thương tổn vì vũ khí, vì chủ nghĩa khủng bố và đủ thứ bạo lực, tại một thời điểm mọi người đều nhắc đến và đề cao tiến bộ, tình liên đới và hoà bình cho tất cả mọi người. Và có thể nói gì về những người tuyệt vọng, buộc phải rời bỏ nhà cửa và quê hương, để tha phương đi tìm các điều kiện sống xứng đáng với phẩm giá con người? Làm thế nào để có thể giúp cho những người bị lạc đường bởi các tiên tri về một thứ hạnh phúc dễ dãi, những người vật lộn với các mối quan hệ và không có khả năng nhận lấy trách nhiệm cho chính hiện tại và tương lai của họ, những người bị vây hãm trong đường hầm của sự cô đơn và cuối cùng kết thúc trong sự nô lệ cho nạn nghiện rượu hoặc ma túy? Ta nghĩ gì về những người chọn lấy cái chết mà cứ tưởng mình đang tôn vinh sự sống?
Làm sao ta không nghe thấy, từ thẳm sâu trong chính nhân loại này, đang vui hưởng và đồng thời đang đau khổ này, vang lên lời kêu cứu xé lòng? Ðây, Giáng Sinh: hôm nay, "ánh sáng thật, ánh sáng chiếu soi mọi người" đã d0ến trong thế gian (Gn 1,9). "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng tôi" (Gn 1,14), Thánh sử Gio-an tuyên bố. Ngày hôm nay, phải, chính ngày hôm nay, Chúa Ki-tô lại đến "giữa những người nhà" và ban cho những ai tiếp nhận Người "quyền trở nên con Thiên Chúa"; nghĩa là ban cho họ được cơ hội nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa và chia sẻ niềm vui của Tình Yêu đã nhập thể tại Bê-lem vì chúng ta. Ngày hôm nay, chính ngày hôm nay, "Ðấng Cứu Độ chúng ta giáng trần", bởi vì Người biết rõ rằng ta cần đến Người. Mặc dù biết bao tiến bộ, con người vẫn luôn như vậy: một sự tự do giữa thiện và ác, giữa sự sống và sự chết. Chính tại đó, trong chính cõi thâm sâu của mình, trong điều mà Kinh Thánh gọi là "con tim", con người luôn cần được cứu rỗi. Và trong thời hậu hiện đại này, con người có lẽ cần đến Ðấng Cứu Độ còn nhiều hơn, bởi vì xã hội trong đó con người sinh sống đã trở nên phức tạp hơn, và những đe dọa đối với sự toàn vẹn bản thân và toàn vẹn luân lý trở nên gay gắt hơn. Ai có thể bênh vực con người, nếu không phải Ðấng yêu thương con người cho đến mức độ hy sinh trên thập giá chính Con Một của Mình làm Ðấng Cứu Độ thế gian?
"Salvator noster", Ðấng Cứu Độ chúng ta: Chúa Ki-tô là Ðấng Cứu Ðộ những con người nam nữ ngày nay. Ai có thể làm vang lên mọi nơi trên trái đất, một cách đáng tin, sứ điệp của niềm hy vọng? Ai sẽ hoạt động để bảo đảm sự nhìn nhận, bảo vệ và được cổ vũ điều thiện hảo toàn diện của con người như là điều kiện cho hoà bình, tôn trọng mọi người nam nữ và phẩm giá riêng của họ? Ai sẽ giúp ta hiểu rằng với thiện chí, với sự hợp lý và với sự kiềm chế, có thể tránh cho các cuộc xung đột khỏi trở nên trầm trọng và thay vào đó, tìm ra các giải pháp công bằng? Với sự quan ngại lớn lao, trong ngày lễ hôm nay, tôi nghĩ đến vùng Trung Ðông, bị ghi dấu bởi vô số những cuộc khủng hoảng trầm trọng và xung đột, và tôi cầu mong mở ra các viễn tượng hoà bình công chính và bền vững, trong sự tôn trọng những quyền lợi không thể chuyển nhượng của các dân tộc sống tại đó. Tôi đặt vào đôi tay của Hài Nhi Bê-lem các dấu hiệu của việc nối lại cuộc đối thoại giữa người Israel và người Palestine, mà ta đã chứng kiến trong những ngày gần đây, và tôi cũng đặt vào tay Chúa Hài Ðồng niềm hy vọng vào những bước phát triển thêm nữa và đầy an ủi. Tôi tin rằng, sau biết bao nạn nhân, sự tàn phá, và tình hình không ổn định, vẫn tồn tại và tiến bộ một Liban dân chủ, mở rộng vòng tay đón nhận người khác và đối thoại với các nền văn hoá và các tôn giáo. Tôi gửi lời kêu gọi đến tất cả những ai nắm trong tay vận mệnh của Iraq, để cho sẽ chấm dứt cảnh bạo lực hung tàn làm đổ biết bao máu cho đất nước, và ước gì mọi người dân của đất nước được an vui sống cuộc đời bình thường. Tôi khẩn cầu Thiên Chúa cho những phe phái đang xung đột với nhau tại Sri Lanka sẽ lắng nghe khát vọng của dân chúng về một tương lai của tình huynh đệ và liên đới; cầu xin cho tại Darfur và khắp Châu Phi, sẽ kết thúc các cuộc xung đột huynh đệ tương tàn, ước gì những vết thương bị mở ra tại đại lục đó mau lành và ước gì tiến trình hoà giải, dân chủ và phát triển được củng cố. Nguyện xin Chúa Hài Đồng, Hoàng Tử của Hoà Bình ban ơn chấm dứt những sự bùng nổ căng thẳng làm cho tương lai của những người sống ở các nơi khác của thế giới, tại Châu Âu cũng như tại Châu Mỹ La tinh trở nên không chắc chắn.
“Salvator noster”, Ðấng Cứu Độ chúng ta: đây là hy vọng của chúng ta; đây là sứ điệp mà Giáo Hội một lần nữa công bố trong ngày Giáng Sinh này. Với việc Nhập Thể, như Công Đồng Vatican II đã nêu, Con Thiên Chúa được kết hiệp một cách nào đó với mọi người nam nữ (x.Vui Mừng và Hy Vọng, 22). Vì thế sinh nhật của Ðấng là Ðầu cũng là sinh nhật của thân thể, như Ðức Thánh Giáo Hoàng Lêo Cả ghi nhận. Tại Bê-lem, đã sinh ra dân Ki-tô, nhiệm thể của Chúa Ki-tô trong đó mọi chi thể được kết hiệp chặt chẽ với nhau, trong sự liên đới hoàn toàn. Ðấng Cứu Độ chúng ta đã giáng trần cho tất cả mọi người. Ta phải công bố không những bằng lời nói, nhưng còn bằng toàn bộ cuộc sống của ta, cống hiến cho thế gian một chứng tá về các cộng đoàn hiệp nhất, cởi mở nơi tình huynh đệ và sự tha thứ, cùng với sự tiếp đón và phục vụ lẫn nhau, sự thật, công bình và tình yêu ngự trị.
Một cộng đoàn được Chúa Ki-tô cứu độ. Ðây là bản chất thật của Giáo Hội, được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa và Thánh Thể... Chỉ có bằng cách tái khám phá hồng ân đã lãnh nhận, Giáo Hội mới có thể làm chứng cho tất cả mọi người về Chúa Ki-tô Ðấng Cứu Độ. Giáo Hội hăng hái làm chứng với lòng nhiệt thành, trong sự tôn trọng hoàn toàn mọi truyền thống văn hoá và tôn giáo; Giáo Hội vui mừng làm như thế, nhờ biết rằng Ðấng mà Giáo Hội rao giảng không lấy mất đi bất kỳ điều gì thực sự nhân bản, nhưng thay vào đó, đem điều ấy lên đến thành toàn. Thật vậy, Chúa Ki-tô đến chỉ để hủy diệt sự dữ và tội lỗi; tất cả những gì còn lại, Người nâng lên và kiện toàn. Chúa Ki-tô không cứu rỗi ta ra khỏi nhân tính chúng ta, nhưng qua nhân tính này; Người không cứu chúng ta ra khỏi thế gian, nhưng đã đến trong thế gian, ngõ hầu qua Nguời thế gian được cứu rỗi (x. Gn 3,17).
Anh chị em thân mến, dù cho anh chị em đang ở bất kỳ nơi đâu, ước gì sứ điệp vui mừng và hy vọng này đến với anh chị em: Thiên Chúa đã làm người trong Đức Giê-su Ki-tô, đã sinh ra bởi Ðức Trinh Nữ Ma-ri-a, và hôm nay Người lại sinh ra trong Giáo Hội. Người mang đến cho tất cả mọi người tình yêu của Chúa Cha trên trời. Người là Ðấng Cứu Độ thế gian! Anh chị em đừng sợ, hãy mở rộng con tim cho Người ngự vào, và hãy đón tiếp Người, ngõ hầu Vương Quốc tình yêu và hoà bình của Người trở nên phần gia tài chung cho mọi người nam nữ. Xin chúc tất cả mọi người một mùa Giáng Sinh hạnh phúc!
Ðan Quang Tâm dịch
HUẾ -- Từ ngày 07 tháng 12 năm 2006, sau khi được Toà Tổng Giám Mục Huế thông báo cho biết sẽ có cuộc Lễ Phong Chức Linh Mục cho 10 Thầy Phó Tế thuộc Tổng Giáo Phận Huế, vào ngày Đầu Năm Dương Lịch 2007, mọi thành phần trong Tổng Giáo Phận Huế vui mừng, tăng gia lời cầu nguyện và hy sinh, mong đợi Ngày Hồng Ân đến. Và hôm nay, ngày đó đã đến: ngày 01.01.20007.
Mọi thành phần trong Tổng Giáo Phận Huế càng vui mừng hơn nữa khi biết được Vị Chủ Chăn đáng kính, đáng yêu của Tổng Giáo Phận Huế đã về lại địa phân nhà bằng an sau nhiều tháng vắng bóng, và hôm nay sẽ chủ lễ Phong Chức Linh Mục tại Nhà Thờ Chính Toà Phủ Cam.
Trời mùa đông Huế hôm nay lạnh và có mưa nhè nhẹ.
Tuy Thánh Lễ Truyền Chức sẽ được cử hành vào lúc 08g30, nhưng người công giáo thuộc đủ thành phần đã tấp nập đến Nhà Thờ Chính Toà Phủ Cam rất sớm.
Trước tiền đường Nhà Thờ Chính Toà Phủ Cam, nổi bật dòng chữ "Con là Linh Mục đời đời". Bên trong nhà thờ, Hang Đá nằm ngay giữa cung thánh. Bên mặt và bên trái cung thánh, nổi bật hai dòng chữ: SỐNG ĐẠO HÔM NAY và YÊU THƯƠNG PHỤC VỤ.
Gần đến giờ Thánh lễ, ba ngàn người đã có mặt trong và ngoài nhà thờ.
Hôm nay là ngày Lễ Mẹ Thiên Chúa, Ngày Hoà Bình Thế Gíới, và là ngày Đầu Năm Dương Lịch, ngày Đầu Năm Ơn Cứu Độ 2007. Lễ Phong Chức Linh Mục được diễn ra trong dịp nầy thật là quá đặc biệt và đầy ý nghĩa: loan tin vui Con của Mẹ giáng trần, loan tin vui hoà bình và bình an cho toàn thế giới, loan tin vui Ơn Cứu Độ đến cho toàn thể nhân loại. Đó là sứ mạng của linh mục.
Mười Thầy Phó Tế của Tổng Giáo Phận Huế sẽ chuyển sang bậc Linh Mục đời đời. Linh mục đoàn Huế, một trong những linh mục đoàn hết sức đoàn kết với nhau và luôn luôn đoàn kết với Vị Chủ Chăn, tuy thầm lặng nhưng tiềm tàng nội lực mãnh liệt để tung ra khi cần thiết, linh mục đoàn nầy sắp có thêm mười anh em quyết sinh tử với nhau dưới lá cờ Thánh Giá và dưới bóng Mẹ Maria La Vang trên con đường đức ái mục vụ và loan báo Tin Mừng để đem lại ích lợi hồn xác cho đoàn giáo dân nói riêng và cho đồng bào Việt Nam yêu quý nói chung.
Đúng 08g.30 phút, các chuông Nhà Thờ Chính Toà Phủ Cam đổ
vang, báo hiệu Thánh lễ Phong Chức bắt đầu.
Đoàn Phụng Vụ tiến vào Nhà Thờ: đi đầu là Thầy giúp lễ cầm Huơng, Thánh Giá và
Đèn hầu, tiếp theo là đoàn Phụ Huynh của các Thầy tiến chức mang lễ vật, 96 Thầy
Đại Chủng Sinh Xuân Bích Huế, 104 Linh Mục Đồng Tế, Đức Viện Phụ Thiên An, Đức
Giám Mục Phụ Tá Tổng Giáo Phận Huế, và Đức Tổng Giám Mục Huế chủ tế.
Mở lời trước Thánh Lễ, Đức TGM chủ tế chúc binh an cho cộng đoàn phụng vụ hôm nay và nói: Hôm nay là ngày đầm ấm vui tươi của Đầu Năm Dương Lịch, cũng là Ngày Hoà Bình Thế Giới và Ngày Lễ Mẹ Thiên Chúa. Riêng tại Nhà Thờ Chính Toà nầy, có 10 Thầy Phó Tế sẽ được phong chức linh mục. Chúng ta đang sống trong một mùa gặt thiêng liêng. Nhà nhà đều vui, mọi người đều vui. Chúng ta hãy dâng lời ngợi khen cám tạ Thiên Chúa. Chức Linh Mục là chức hết sức cao trọng. Ai làm linh mục cũng thấy mình hoàn toàn bất xứng. Các linh mục là những người thề hứa triệt để trung thành với Chúa Giêsu, quyết thực hiện và sống đức ái mục vụ trong nhiệm vụ vừa lãnh đạo Dân Chúa, vừa làm người tôi tớ phục vụ Dân Chúa. Xin Mẹ Maria luôn nâng đỡ, bản ban, hướng dẫn các linh mục để các linh mục luôn sống theo gương Chúa Giêsu, Con của Mẹ, Vị Linh mục Thượng Phẩm đời đời.
Sau bài Phúc Âm, Nghi thức Truyền Chức bắt đầu.
Đức TGM chủ tế tiến đến cấp bàn thờ, long trọng xướng kinh Veni Creator Spiritus, cầu xin Đức Chúa Thánh Thần đến, đăc biệt đến với các Thầy tiến chức hôm nay. Cộng đoàn phụng vụ sốt sắng hiệp ý cầu nguyện hát theo.
Sau kinh cầu nguyện Đức Chúa Thánh Thần, Đức TGM chủ tế lên
toà ngồi, cộng đoàn phụng vụ an toạ.
Linh mục Ngô Văn Nhơn, đặc trách các Đại Chủng Sinh Huế, giới thiệu lên Đức TGM
chủ tế mười Thầy Phó Tế. Đó là:
Thầy Gioan Baotixita Nguyễn Hiệp, gốc Đá Hàn;
Thầy Phaolô Nguyễn Xuân Hiệu, gốc Dương Lộc;
Thầy Philiphê Lê Hoàng Linh, gốc Loan Lý;
Thầy Gioan Đặng Văn Niên, gốc Dương Sơn;
Thầy Barnaba Trần đình Phục, gốc Dương Sơn;
Thầy Phêrô Nguyễn Văn Phước, gốc Thủy Yên;
Thầy Phaolô Trần Văn Quang, gốc Thủy Yên;
Thầy Giuse Phan Văn Quyền, gốc Thủy Yên;
Thầy Phaolô Trương Minh Tiên, gốc An Bằng;
Thầy Phanxicô Xaviê Hồ Văn Uyển, gốc Phường Tây.
Linh mục Trần Thái Hiệp, Giám Đốc Đại Chủng Viện Xuân Bích Huế, kính xin Đức TGM
chủ tế phong chức linh mục cho các Thầy nầy. Sau khi được Linh mục Giám Đốc Đại
Chủng Viện bảo đãm về các Thầy, Đức TGM chủ tế long trọng tuyên bố chấp nhận các
Thầy vào Hàng Linh Mục. Cộng đoàn phụng vụ hân hoan cất lời Tạ ơn Chúa và vui
mừng vỗ tay vang dội.
Tiếp đến là huấn từ của Đức TGM chủ tế. Các Thầy Phó Tế trước mặt anh chị em là con cái, bà con của anh chị em, hôm nay sẽ được lên chức linh mục để phục vụ cộng đoàn Dân Chúa. Chúa Giêsu là Đấng Được Sai, cũng đã sai một số người để làm ngôn sứ, tư tế và thánh hoá. Các linh mục là những cộng sự viên của Giám Mục và những cộng tác viên với những anh em linh mục khác. Các Thầy hãy luôn liên kết chặt chẽ với chức Linh Mục của Giám Mục vì các Thầy sẽ được lãnh chức Linh Mục từ Đức Giám Mục. Để thi hành phận sự rao giảng, các Thầy hãy thấm nhuần Lời Chúa, sống và thực hành Lời Chúa trước khi đem ra dạy dỗ con chiên và dạy họ sống theo. Để thi hành phận sự thánh hoá, các Thầy hãy đặc biệt cầu nguyện trong các Giờ Kinh Phụng Vụ, cử hành các Bí Tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể vì Bí Tích Thánh Thể là lẽ sống của linh mục, là con đường tu đức của linh mục. Các Thầy hãy sống đời hiến tế chính bản thân, từ bỏ chính mình, từ bỏ những tính hư tật xấu, những đam mê dục vọng. Các Thầy hãy sống làm sao cho mọi người thấy Chúa Giêsu đang ở và sống trong các Thầy. Để thi hành phận sự lãnh đạo, các Thầy hãy quy tụ đoàn chiên, yêu thương đoàn chiên, nêu cao gương mẫu cho đoàn chiên, sống chết vì đoàn chiên. Linh đạo của linh mục là sống trọn vẹn Đức Ái Mục Vụ, sống thực thi trọn vẹn ba lời khuyên Phúc Âm: Vâng Phục, Khiết Tịnh và Nghèo Khó mà Chúa Giêsu đã mời gọi một cách thiết thực. Nguyện xin Đức Mẹ Maria nâng đỡ, dạy dỗ các Thầy trên con đường linh mục.
Sau những lời huấn từ của Đức TGM chủ tế, các Thầy công khai thề hứa, đặc biệt thề hứa hoàn toàn vâng phục Đức TGM, và qua Đức TGM, thề hứa triệt để vâng phục quyền bính Giáo Hội.
Kinh Cầu Các Thánh được vang lên. Cộng đoàn phụng vụ quỳ gối, sốt sắng cầu nguyện với Các Thánh trên trời cho các Thầy sắp lãnh chức linh mục, trong khi các Thầy nằm phủ phục dưới đất nơi cung thánh để sống tâm tình phó thác, khiêm cung, để ý thức rằng mình thật hoàn toàn bất xứng với chức linh mục vô cùng cao quý. Ai làm linh mục, người đó chỉ do Chúa yêu thương chọn gọi mà thôi.
Thánh Lễ Truyền Chức Linh Mục được tiếp tục và kết thúc lúc 10g45 sau khi cộng đoàn hát bài TE DEUM, Tạ ơn Chúa, và sung sướng lãnh phép lành từ tay Đức TGM chủ tế, Đức GM Phụ Tá và các Tân Linh Mục.
LM Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang
Theo Vietcatholic News
Cùng với Mẹ Maria, xin được suy đi nghĩ lại trong lòng những dữ kiện, những sự kiện đã qua. Không dám bàn đến những sự kiện xa xôi của những thế kỷ trước. Không dám lạm bàn đến những sự kiện lịch sử của thế kỷ XX như cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), lần thứ hai (1939-1945), những cuộc chiến tranh đó đây ở các quốc gia trên thế giới hay tại quê nhà Việt Nam chúng ta ròng rã mấy chục năm qua. Cũng không dám có suy tư trên những biến cố lịch sử thiên nhiên như sóng thần, động đất, dịch bệnh hay các biến cố lịch sử xã hội như chuyện Việt Nam ta gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)… Chỉ xin suy đi nghĩ lại trong lòng hai sự kiện xảy ra vài ngày cuối năm 2006: Ông Saddam Hussein bị treo cổ (30-12), cả nước chúng ta nô nức “nối vòng tay lớn” vì người nghèo (31-12).
Bước vào năm mới cùng với niềm khát khao của cả nhân loại trên thế giới, Hội
Thánh mời gọi đoàn tín hữu cầu nguyện cho sự hòa bình. Đã là người thì cứ vào
dịp đầu năm mới không ai lại không ước nguyện, thầm xin một điều gì đó. Một
trong những điều chính đáng và phải đạo nhất ta cần thầm xin và nguyện ước đó là
hòa bình: sự bình an trong tâm hồn, trong gia đạo, xóm giềng, hòa bình cho quê
hương đất nước và cho cả thế giới này. Nhớ lại lời của Đức cố Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II: “sẽ không có hòa bình nếu không có công lý”. Như thế muốn xây dựng
hòa bình thì cần phải nổ lực thiết lập và gìn giữ công lý giữa người với người,
giữa tập thể với tập thể, giữa từng người với tập thể và giữa tập thể với từng
người. Mẹ Hội Thánh Việt Nam qua Hội Đồng Giám Mục cũng đã mời gọi đoàn tín hữu
Công giáo Việt Nam thể hiện tình yêu thương – phục vụ trong năm 2007 này bằng
nhiều cách thế mà một trong những cách thế ấy là “góp phần xây dựng một xã hội
công bằng” (Thư chung 2006 số 7).
Xây dựng một xã hội công bằng: Nói đến hai chữ công bằng người ta rất dễ nghĩ
ngay đến sự sòng phẳng kiểu theo khái niệm phổ biến đó là trả cho ai cái phần
của họ. Tuy nhiên cái khái niệm phổ biến này thường chỉ dừng lại ở mức thực hiện
sự công bằng giao hoán nghĩa là trả cho người ta cái phần họ đã làm. Hễ người ta
có công thì thưởng và ngược lại nếu có tội thì phải phạt. Và như thế phải chăng
việc treo cổ ông Saddam Hussein là thực thi công bằng? Theo cái nhìn của Kitô
giáo thì ai ai trong chúng ta cũng đều là người có tội. Thánh Gioan Tông đồ quả
quyết: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và
sự thật không ở trong chúng ta. Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là
Đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho chúng ta, và sẽ thanh tẩy chúng ta
sạch mọi điều bất chính. Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội thì
chúng ta coi Người là kẻ nói dối, và lời Người không ở trong chúng ta” (1 Ga
1,8-10). Theo nhãn quan này và cứ theo logich “công bằng giao hoán” thì chẳng lẽ
phải treo cổ tất cả mọi nguời ! Mà mọi người đều là kẻ có tội thì chọn lấy ai để
treo cổ kẻ khác hay là phải tự treo cổ chính mình?
Thiên Chúa là Đấng công bình vô cùng thế mà Người lại không muốn cho kẻ gian ác
phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống. Người là Cha giàu lòng xót
thương, chậm bất bình và rất mực khoan dung. Người kiên nhẫn chờ đợi cho đến mùa
gặt chứ không nhổ phăng ngay cỏ lùng đang mọc lẩn với lúa. Cây lau bị dập Người
không bẻ gẫy và cái tim đèn còn khói Người cũng không nỡ dập tắt. Là Đấng công
bình vô cùng và cũng là Đấng thấu suốt mọi tâm can bí ẩn của con người thế mà
Nguời hành xử thật khoan dung. Còn chúng ta là loài chỉ biết xem mặt mà bắt hình
dong, chỉ biết xem xét cái bên ngoài, có thể dò được sông sâu nhưng không dò
được lòng người, thế mà ta lại hành xử như chỉ có mình mới có khả năng nắm giữ
cán cân công lý, chỉ có mình mới có khả năng thẩm định đúng sai, tốt xấu ! Chúng
ta đừng quên khi Saddam Hussein bị treo cổ thì bên cạnh nhiều người vui mừng
phấn khởi cũng vẫn có đó nhiều người căm giận, phản đối. Và cả thế giới như đang
chờ đợi những hậu quả kéo theo cái án treo cổ ấy, đặc biệt khi mà đoạn băng ghi
hình cảnh treo cổ ông Saddam Husein đang được phát tán trên mạng internet.
Dĩ nhiên chúng ta không thể a tòng, toa rập
với sự dữ, sự xấu. Chúng ta không thể dung dưỡng các hành vi xấu xa, tội ác.
Tích cực khử trừ sự dữ là nghĩa vụ của người có lương tri và cách riêng của Kitô
hữu chúng ta. Còn với người phạm lỗi, người có tội, cần phải sửa sai, cảm hóa họ
luôn mãi trong tình yêu tha thứ đến bảy mươi lần bảy (x. Mt 18,21-22). Các quốc
gia trên thế giới đang dần dà hoàn thiện luật pháp với việc bỏ án tử hình. Đây
là một nét tiến bộ của loài người phù hợp với Tin Mừng. Quả thật nếu cứ chăm
chăm kiếm tìm kẻ có tội để treo cổ thì chính chúng ta một lúc nào đó sẽ tự biến
mình thành kẻ tội đồ đáng treo cổ.
Khi mạc khải đức công bình của Thiên Chúa, Đức Giêsu đã cho chúng ta dụ ngôn
thật ý vị: người làm vườn nho giờ thứ 11 (17 giờ chiều). Tin mừng tường thuật
rằng đến lúc trả tiền công cho những người làm vườn nho thì ông chủ đã làm chưng
hửng những người vào làm từ sáng sớm (6 giờ). Họ cũng lãnh được một đồng như
những nguời làm vẻn vẹn có một giờ (x. Mt 20,1-16). Thiên Chúa, qua hình ảnh ông
chủ trong câu chuyện dụ ngôn, đối xử với chúng ta không theo như những gì chúng
ta đã làm được gì mà theo như chúng ta là ai. Đây chính là sự công bằng đích
thực của tình yêu. Chúng ta có thể nhận ra điều này ngay chính trong đời sống
gia đình. Đứa bé đang nằm trong nôi đã làm được sự gì? Thế mà cả bố lẫn mẹ, cả
anh đến chị, tất thảy đều hết lòng hết sức cho bé. Chỉ vì một lẽ mà thôi: bé là
con, là em của họ. Giả như họ không chu toàn bổn phận đó thì đã làm điều bất
công và lắm khi đáng bị lên án.
Rất cám ơn đài truyền hình Việt Nam đã góp phần khá lớn cho chuơng trình “nối
vòng tay lớn” đêm 31/12 vừa qua thành công mỹ mãn. Không phải vì con số gần 500
ngàn bản tin nhắn qua số 8733 và đang dần tăng lên, cũng không phải bởi con số 7
tỉ đồng, 8 tỉ đồng ở đầu cầu truyền hình Hà Nội hay thành phố Hồ Chí Minh nói
lên sự thành công của chương trình, nhưng chính những tấm lòng vàng của những
con người của các cơ quan, đoàn thể, các doanh nhân, xí nghiệp, các công ty đó
đây mới thực sự nói lên ý nghĩa của chương trình. Tình tương thân tương ái mãi
luôn xinh đẹp. Cái đẹp ở đây khiến chúng ta phải suy đi nghĩ lại đó là người ta
đã biết yêu nhau cách hiện sinh. Cái tính hiện sinh này phần nào xóa đi chước
cám dỗ háo danh, tự phô trương ngay cả trong những hành vi được gọi là cao
thượng. Hai trăm phụ nữ miền Trung đang được công ty XQ tạo công ăn việc làm;
ước mơ của một em bé tại một trường học nghèo nay được hiện thực với tủ sách và
hai dàn máy vi tính; những con người chưa hoặc không thể nhìn thấy ánh sáng mặt
trời nay lại có cơ hội được nhìn đời, nhìn tha nhân… Phải chăng các tấm lòng
vàng ấy đã thấy nơi bà con nghèo chính là đồng bào, là người cùng một mẹ với
mình?
Tích cực sống tình tương thân tương ái, nổ lực làm việc thiện chính là một trong những mục đích mà Hoàng Tử Bình An khi đến thế gian tặng ban cho nhân trần cái lẽ sống của kiếp làm người. Lời Thánh Tông đồ dân ngoại mà Hội Thánh trích đọc trong đêm Lễ Giáng Sinh khẳng đinh với chúng ta điều này: “ Vì chúng ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện” (Tt 2,14).
Để xây dựng hòa bình thì phải biết lo chuẩn bị chiến tranh hay để xây dựng xây
dựng hòa bình thì phải tiêu diệt chiến tranh? Để xây dựng hòa bình thì phải
triệt để tiêu diệt sự bất công hay phải khử trừ những ai làm điều bất chính?
Những cái nhìn này tuy có phần hữu lý nhưng chỉ với một góc độ nào đó. Tuy nhiên
sự hòa bình mà chúng đem lại thì nhất thời và phiếm diện. Chỉ có tình yêu đích
thật cùng với các động thái tương thân tương ái mới có thể dệt xây nền hòa bình
chính hiệu trên trái đất này. Khi cây đã xanh tốt, đã giao cành thì cỏ dại hẳn
sẽ úa vàng. Để viễn ảnh này sớm thành hiện thực thì các tấm lòng son cần được
nâng đỡ bằng một niềm tin. Và niềm tin ấy lại được dệt xây bằng một lời kinh duy
mà Đấng cứu độ truyền dạy chúng ta: “Lạy Cha chúng con ở trên trời…”(Mt 6,7-15;
Lc 11,2-4). Chính khi mọi người chân nhận nhau là đồng loại, đồng bào, là anh
chị em thì chữ nghĩa, chữ nhân, chữ tình sẽ nở hoa.
LM Nguyễn Văn Nghĩa
Phần đông giáo dân Việt Nam vẫn được tiếng là đạo đức. Các bề trên trong đạo đều lấy thế làm vui và hãnh diện. Các bản tường trình về Rô-ma thường rất phấn khởi, với những con số và hình ảnh thuyết phục, chung quanh các buổi kinh lễ và rước kiệu
Vào cuối năm ngoái (2005), các buổi lễ từ Bắc chí Nam, với sự đón tiếp nồng hậu và cung kính, dành cho Đức Hồng Y Sepe, Tổng Trưởng Bộ Truyền Giáo, nhân chuyến viếng thăm của ngài, chắc đã làm cho ngài cảm nhận được sâu sắc, lòng đạo đức của giáo dân Việt Nam cũng như sự trọng vọng của họ đối với ngài và qua ngài đối với Đức Thánh Cha Bê-nê-đích-tô XVI. Có thể nói lòng đạo đức này cộng với sự trung thành tuyệt đối của Hàng Giáo Phẩm Việt Nam là nét đặc sắc chỉ ở Việt Nam mới có. Và có lẽ cũng chỉ ở Việt Nam người ta mới đi lễ đông như thế, vào các ngày Chúa nhật, các lễ truyền thống như Lễ Tro, lễ Lá, lễ Các Thánh, lễ Các Linh hồn và các ngày Lễ lớn về Đức Mẹ, tuy người công giáo chỉ là thiểu số chưa đầy 1/10 dân trong nước. Mong rằng tình trạng này còn kéo dài và trở nên bền vững. Nhưng không biết có được không. Mà nếu không được thì ngay từ bây giờ phải tìm cách đề phòng. Đề phòng bằng cách nào đây ? Thưa thiết tưởng bằng cách giáo dục đức tin qua giáo lý và các lời diễn nghĩa, giảng giải về Kinh thánh cũng như giáo huấn của Công Đồng Va-ti-ca-nô II và tài liệu cập nhật của Tòa thánh, cùng những thông tin cần thiết về các biến chuyển trên thế giới và ngoài xã hội.
Tất nhiên, chẳng ai muốn cho tình trạng suy sụp xẩy đến. Nhưng nhìn vào những nước đạo gốc ở Au châu như Pháp, Ý, Đức, Bỉ hiện nay, người ta phải đặt câu hỏi tại sao đạo ở những nước đó đến nông nỗi này, trong khi họ có truyền thống đạo đức, có nhiều chuyên viên về các môn thần học, Kinh thánh, tu đức, giáo ý và phương tiện sách vở đầy đủ ? Phải chăng là do nền văn minh vật chất, phong hóa thời đại và các trào lưu tư tưởng mới lạ lôi cuốn, làm cho lòng người ra khác. Chính sự đổi khác này đã làm cho người ta thờ ơ với đạo và coi đạo như một cái gì ở bên ngoài cuộc sống, không cần thiết và hạn chế tự do của con người ?
Có thể là như thế. Chúng ta cứ nhìn vào các nhà thờ nguy nga đồ sộ của họ mà suy nghĩ. Chắc hẳn thời trước, những nhà thờ đó cũng là nơi diễn ra những buổi lễ linh đình và long trọng lắm chứ ! Chẳng vậy, tại sao họ lại xây lên những nhà thờ vĩ đại như thế.
Hiện tượng bỏ đạo, lơ là với đạo hay không hành đạo là điều đã xẩy ta từ nhiều năm nay rồi ở bên các nước Au Mỹ. Mùa hè năm 2000 nhân dịp đến hành huơng khu vực Sainte Anne de Beaupré của các cha Dòng Chúa Cứu Thế ở Québec (Canada), tôi có gặp cha Camille Dubé. Cha này trước kia đã ở Việt Nam nhiều năm. Cha nói rằng cách đây bốn, năm mươi năm đạo nghĩa ổ Canada cũng sầm uất lắm, nhưng bây giờ thì không còn như thế nữa. Người ta ít đi nhà thờ, ngay cả các cháu của cha cũng vậy. Nghe cha nói và nhìn vào các nhà thờ trong thành phố Montréal, nơi tôi đã ở trong mấy tháng hè năm 2000 mà lấy làm tiếc nuối. Các nhà thờ ở Montréal san sát nhau giống như Hố nai. Có thể nói gần như mỗi phố hay vài ba phố cạnh nhau là có một nhà thờ. Nhà thờ vẫn còn nhưng sinh hoạt thì ít oi và thưa thớt sánh với các nhà thờ ở Việt Nam. Ít oi và thưa thớt thôi chứ chưa hoàn toàn biến mất. Nếu chỉ căn cứ vào hiện tượng này, người ta có thể bi quan về đạo công giáo ờ những nơi như Canada. Gần đây Hội Đồng Giám Mục Pháp đã tỏ ra rất băn khoăn lo ngại về tình hình đạo nghĩa của đồng bào mình và đặt ra câu hỏi phải làm thế nào để chấn chỉnh lại tình trạng này.
Đứng trên quan điểm loài người thì quả thật tình hình chung rất đáng lo ngại ở những nơi nói trên. Phong trào trần tục hóa, giải trừ sự thiêng thánh, duy vật, vô thần, thuyết hậu hiện đại, lối sống vô kỷ cương theo bản năng v.v…, tất cả đều như vũ bão tàn phá dữ dội đạo lý của Hội thánh. Nhưng không phải bây giờ mới như vậy mà ngay từ thời thánh Phao-lô đã tương tự như thế khiến thánh nhân phải viết : “Đến thời người ta không còn chịu nghe giáo lý lành mạnh, nhưng theo những dục vọng của mình mà kiếm hết thầy này đến thày nọ, bởi ngứa tai muốn nghe.” (2 Tm 4,3)
Nhưng may thay lại có lời ngôn sứ Mi-kha nói về số người còn sót lại trong Ít-ra-en. Chính nhờ số sót này mà Ít-ra-en được cứu như Đức Chúa phán : ” Ta sẽ qui tụ cả nhà Gia-cóp, sẽ qui tụ số còn sót của nhà Ít-ra-en, sẽ gom chúng lại như đàn chiên trong chuồng, như đàn vật giữa đồng cỏ, khiến chúng không còn sợ ai nữa.” (Mk 2,12)
Như vậy, ở Au Mỹ hay nơi nào khác nữa trên thế giới, nhiều người bỏ đạo hoặc không hành đạo, nhưng trong Hội thánh chắc vẫn còn những người trung thành giữ đạo và sống đạo. Có thể họ là số ít hay số còn sót lại, như ở Nhật Bản từ thế kỷ XVII-XIX, ở Việt Nam thời cấm đạo, ở Nga dưới chế đô Liên Bang Xô Viết, ở Trung Quốc và Au Mỹ hiện nay.
Do đấy, cần hiểu cho đúng và đặt lại vấn đề đạo đức. Thực ra, đi đạo hày theo đạo thì phải giữ đạo, hành đạo và cố gắng làm cho mình nên người đạo đức. Nhưng thế nào là đạo đức ? Thông thường người ta vẫn hiểu đạo đức là giữ luật Chúa, đi lễ, đi nhà thờ, đọc kinh lần hạt, viếng Mình Thánh Chúa, năng lãnh nhận các bí tích, đi đàng thánh giá v.v… Những việc này xưa nay giáo dân Việt Nam vẫn làm và làm cách rất đáng khen, theo truyền thống ông cha để lại, khiến nhiều vị Giám Mục Mỹ phải ca ngợi và lấy làm ưng ý về cộng đồng giáo dân Việt Nam đang cư ngụ trên đất nước các ngài. Nhiều người đã dựa vào đấy và lấy đó làm thước đo để đánh giá lòng đạo đức. Nhưng có lẽ bấy nhiêu chưa đủ, dù đã là rất tốt. Chưa đủ vì đó mới chỉ là đạo đức ở thế tĩnh và mang tính cá nhân, mà chưa phải là đạo đức ở thế động và mang chiều kích xã hội, trong khi lòng đạo đức tinh tuyền vừa phải tĩnh và đông, vừa cá nhân mà lại vừa xã hội như thánh Gia-cô-bê dạy : “Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão. Có lòng đạo đức tinh tuyền và không tì ố trước mặt Thiên Chúa Cha là thăm viếng cô nhi quả phụ gặp bước gian truân và giữ lòng cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian.” (Gc 1, 26-27)
Đó là chuẩn mực cho lòng đạo đức tinh tuyền và không tì ố trên bình diện cá nhân và xã hội. Về cá nhân thì kiềm chế miệng lưỡi nghĩa là không vu oan giáng họa cho người ta, không nói lời gây buồn phiền chia rẽ, hay phê bình, chỉ trích, chê bai châm chọc, mỉa mai, bóng gió… rồi giữ lòng cho khỏi lây nhiễm những vết nhơ của thế gian, nghĩa là chiến đấu chống lại gương xấu dịp tội và lối sống buông thả của nhiều người chung quanh. Về xã hội thì lo thực thi bác ái, thăm viếng, giúp đỡ người cô thế cô thân như cô nhi, quả phụ, những người lâm cảnh gian truân, như bị cháy nhà, lụt lội, bão tố và nghèo khổ túng thiếu.
Những hành vi này đòi buộc con người phải phấn đấu với chính mình, bằng lòng chịu rầy rà mà đi đến với người ta, hy sinh thời giờ, tiền bạc (tùy khà năng) và công khó cho người khác. Vì vậy mới nói là lòng đạo ở thế động thay vì tĩnh. Tĩnh là ở yên một chỗ trong nhà thờ hay tại phòng mình, còn động là đi ra, đi tới, liên hệ với người khác. Lòng đạo đức này rầy rà hơn và do đấy cũng đòi hỏi nhiều hơn.
Vậy, nếu như đọc Kinh thánh và suy niệm Lời Chúa, tham dự thánh lễ, giữ mình sạch tội, thực thi bác ái cũng như kiềm chế miệng lưỡi thì đó là đạo đức, một lòng đạo đức tinh tuyền, vô tì tích theo thánh Gia-cô-bê (Gc1,26-27) và được hưởng nhiều lợi ích theo thánh Phao-lô : “Lòng đạo đức thì lợi ích mọi bề, bởi Chúa hứa sự sống hiện tại cũng như tương lai cho người có lòng đạo đức.” (1 Tm 4,8)
LM An-rê Đỗ Xuân Quế, O.P.
KINH NGHIỆM CỘI NGUỒN
VÀ KHUÔN MẶT CHỜ ĐỢI MỘT CỐ GẮNG LẮNG NGHE
THÔNG ĐIỆP “THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU”
CỦA ĐỨC BÊNÊĐICTÔ XVI
Tiếp cận bản văn
1. Với những thủ đắc của khoa chú giải cũng như của triết học “diễn giải” đương đại (herméneutique), ngày nay người ta hiểu rõ hơn mối tương qua gắn bó, tùy thuộc ít nhất giữa “ba cực” chi phối việc hiểu một bản văn : bối cảnh, tác giả, độc giả. Nói một cách đơn giản hơn, để hiểu dù chỉ một lời nói, trước hết cần phải biết lời đó đã thốt ra trong bối cảnh nào, bởi con người nào và kẻ lắng nghe đến với đôi tai như thế nào. Không biết đến bối cảnh, chúng ta không thể hiểu lý do tại sao lại có lời như thế, không biết đến tác giả hay thao thức của kẻ thốt ra lời, chúng ta khó có thể hiểu lời đó thực sự muốn nói gì và nếu độc giả không đến với bản văn với những chờ mong thực sự của mình, bản văn sẽ khép lại trong ý nghĩa riêng của nó.
2. Sở dĩ phải nêu lại những khía cạnh căn bản đó, vì lời đến với chúng ta ở đây không phải là một bài báo hay một thông tin nào đó, nhưng là Thông Điệp đầu tiên của người “dẫn đầu” một cộng đồng lớn lao, đối diện với cuộc sống và một thế giới mà mình có nhiệm vụ phải “trả lẽ về niềm hy vọng”. Và như nhận định của Đức Tổng giám mục Angelo Comastri,[1][1] Thông điệp đó tuy không hẳn mang tính chất “chương trình” như thông điệp đầu tiên của Đức Paul VI, Ecclesiam Suam, về tương quan giữa Giáo Hội và Thế Giới, hay của Đức Gioan Phaolô II, Redemptor Hominis, tập trung vào mối liên hệ giữa Đức Kitô và nhân loại, nhưng “nhắc lại trọng tâm của Kitô Giáo”, qua đó chỉ ra con đường để đi, để sống. Lập luận rất đơn giản nhưng căn bản và quyết liệt : nếu không biết mình tin vào một Thiên Chúa như thế nào, thì cũng không hiểu mình là ai, cần đi con đường nào, và nên xây dựng một thế giới như thế nào. Ở đây chúng ta không khỏi nhớ đến câu hỏi mà Giosuê và các tiên tri đã không ngừng đặt ra cho dân chúng về con đường sống (Gs 24,14-19), cũng như lựa chọn quyết liệt mà Đức Giêsu đặt ra cho các môn đệ của Ngài (Ga 6,67-68).
3. Vấn đề định hướng mang tầm quan trọng thực sự và cấp thiết khi người ta có nguy cơ mất hướng, không còn biết nên chọn con đường nào, không biết mình nên đi đâu, về đâu. Vấn đề ý nghĩa (sens) tiên vàn là vấn đề định hướng (orientation). Kẻ đánh mất ý nghĩa cuộc sống trước tiên là kẻ mất định hướng. Trường hợp một cộng đồng lại càng nghiêm trọng hơn, vì định hướng của một cộng đồng cũng chính là một trong những yếu tố cấu thành cộng đồng và do đó một cộng đồng có nguy cơ tan rã thì không thể không đặt vấn đề về định hướng của cộng đồng đó.
4. Thực tế, chúng ta, những Kitô hữu, đang sống trong một thế giới mà “tính đa phức” đã trở thành yếu tố đặc trưng : đa nguyên, đa văn hóa, đa tôn giáo, đa chủng tộc… Và chính lịch sử cũng đã ít nhiều cho thấy tính “hàm hồ” của tính đa phức đó : rất hứa hẹn nhưng đồng thời chứa đầy nguy cơ, đe dọa sự duy nhất hiện tại và tương lai của nhân loại. Viễn tượng về thế giới của “chúng ta”, của mọi con người vẫn còn trong hy vọng, nếu không muốn nói là rất mờ mịt nều tính đến những xung đột hiện tại giữa các cộng đồng, đặc biệt là các cộng đồng tôn giáo, giữa “chúng tôi”, người Kitô giáo, chúng tôi, người Do thái giáo, Hồi giáo, Phật giáo, Ấn giáo… Thông điệp kết thúc phần thứ nhất với niềm hy vọng như thế : “Tình yêu mang tính “thiên linh” vì từ Thiên Chúa mà đến và giúp chúng ta kết hợp với Thiên Chúa, và trong tiến trình kết hợp này, giúp chúng ta trở thành một “chúng tôi”, vượt thắng mọi chia rẽ và làm cho chúng ta nên một, để rồi cuối cùng “Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1Cr 15,28)” (s.18).[2][2]
5. Điểm lại bối cảnh như vậy cũng là để chúng ta có thể nhận ra khía cạnh “trách nhiệm” của Thông điệp, theo cả hai nghĩa : trách vụ và khả năng đáp ứng, trả lời. Trách nhiệm chỉ đạo (vạch ra hướng đi) nằm trong định nghĩa của người lãnh đạo hay người “chủ” ở mọi cấp độ : gia đình, cộng đoàn, quốc gia. Lãnh đạo không chỉ đơn thuần là “cầm quyền”. Một chủ trương “dân chủ” đến mấy cũng không thể thay thế cho vai trò dẫn đạo, dám chịu trách nhiệm với vận mệnh của cộng đồng (leadership). Tuy nhiên,điều này chỉ mới là một khía cạnh của vấn đề. “Trách nhiệm” theo nghĩa “khả năng lắng nghe, đáp ứng” là một khía cạnh khác, một cách hiểu khá mới mẻ trong tư tưởng hiện đại mà chúng ta sẽ có dịp đào sâu (Hans Jonas, Le Principe Responsabilité).[3][3] Có thể nói vắn tắt như sau : trách nhiệm không chỉ liên quan tới người “có trách nhiệm” mà còn và nhất là tới tất cả những gì mà mình phải làm và có thể làm cho anh em của mình. Phải có trách nhiệm khi có tiếng kêu cứu, dù kẻ nghe là ai và dù kẻ kêu cầu là ai. Thực ra chính Tin Mừng đã đề cập tối đa đến trách nhiệm theo nghĩa này : dụ ngôn về người Samaritanô nhân hậu, hay về cuộc Phán xét chung. Vấn đề không phải : “ai là anh em tôi” (Lc 10,29 – để tôi chịu trách nhiệm !) nhưng là “lắng nghe xem ở đâu có tiếng kêu cứu”. Thánh Phaolô đã hiểu trách nhiệm cách thấm thía theo nghĩa đó : “có ai đau yếu mà tôi lại không phát sốt lên !” (2Cr 11,29). Thiết nghĩ Thông Điệp về Tình Yêu cần phải được đọc, được hiểu theo cả hai nghĩa : không những vì trách nhiệm của người lãnh đạo, mà còn do thao thức muốn đáp ứng, trả lời cho con người, cho bao con người và ngay cả cho một thế giới đang cần đến điều đó nhất : Tình Yêu.
“Trước tiên, chúng ta nhớ đến sự đa dạng ý nghĩa của thuật ngữ tình yêu…” (s.2)
Thông Điệp đã không vội vã “rửa tội” cho tình yêu, vì tình yêu vốn nằm trong kinh nghiệm căn bản của con người. Tình yêu không là độc quyền của ai cả, ngay cả là Kitô giáo. Tình yêu ở trong lòng đời sống, bao trùm cuộc sống, đến nỗi khó có thể nói đến một cuộc sống con người xứng với con người mà lại vắng bóng tình yêu. Vì thế, Thông Điệp đã đề cập đến tình yêu trước hết như một kinh nghiệm căn bản của mọi người đồng thời như một chân trời chờ đợi, một chân trời sống theo đúng nghĩa của nó, nghĩa là “cảnh vực” mà trong đó mọi người và từng con người có thể được tôn trọng, thương yêu.
1. Tình yêu và “định nghĩa” con người.
Ngay trong kinh nghiệm bình thường của con người, hiện diện của tình yêu là một hiện diện bao trùm, liên hệ đến tất cả, kể cả Thiên Chúa : “chúng ta nói đến tình yêu tổ quốc, tình yêu nghề nghiệp, tình yêu bạn bè…cha mẹ và con cái, giữa anh chị em và thân bằng quyến thuộc, tình yêu tha nhân và tình yêu đối với Thiên Chúa” (s.2). Thông điệp còn đi xa hơn : tình yêu chính là “tính đặc thù nhân bản của con người” (s.29) và nhu cầu tối hậu của con người không gì khác hơn là tình yêu (s.29). Như thế tình yêu không chỉ là hiện tượng bên ngoài, mà còn là điều làm nên “con người xét là người”. Tắt một lời, không thể nói đến con người mà lại không nói đến tình yêu.
Tưởng cũng nên nhắc lại rằng, suốt dòng lịch sử, nhân loại vẫn không ngừng đặt ra câu hỏi về chân tính của mình, và thực tế đã không biết bao nhiêu câu trả lời đã được đưa ra, như một cách thức vừa để hiểu chính mình vừa là dự phóng cho hiện hữu nhân linh. Con người vừa là, vừa phải trở nên điều mình là.
Tuy nhiên, hầu hết các định nghĩa đều dựa trên khả năng đặc trưng của con người và thường nhằm phân biệt con người với loài vật : con người là kẻ có lý trí, tự do, ý chí, con vật xã hội, kinh tế… Và qua lịch sử, chúng ta đã biết khía cạnh tích cực (thúc đẩy tiến triển) cũng như mặt trái của những định nghĩa đó : làm nổi bật một vài khía cạnh nhưng bỏ qua hay phủ nhận các khía cạnh khác, và hệ quả là : con người bị hiểu cách què quặt, và vì thế bao cuộc đời bị phủ nhận, chà đạp, hoặc bị đẩy ra ngoài lề vì không “phù hợp” với định nghĩa đưa ra. [Thông điệp trực tiếp phê phán các quan niệm cũ cũng như các ý thức hệ thời đại mới, trong đó con người bị định nghĩa cách phiến diện, bị giản lược thành “phương tiện”, hoặc làm tế vật cho tương lai (s.31)]. Vì thế, vấn đề đặt ra là : làm sao có được định nghĩa trong đó con người, từng con người và mọi con người, được đón nhận, tôn trọng cách toàn vẹn (hồn/xác), ngay ở đây, lúc này (hic et nunc), và làm sao con người đạt đến sự hoàn tất chứ không chỉ kết thúc, nhất là kết thúc trong bất công, đau khổ.
“Định nghĩa” của Thông điệp do đó vừa mang tính chất của một xác tín căn bản vừa như một “đề nghị” cho con người và thế giới hôm nay : “con người không thể thiếu tình yêu” (s.18) – và hơn nữa “con người là kẻ đã được yêu (s.17) và được kêu gọi trở nên những người có khả năng yêu” (s. 8).
Có thể thấy đây là một định nghĩa “năng động”, chứ không “tĩnh” hoặc “cố định” theo kiểu : “con người là con vật có lý trí”. Một định nghĩa muốn tôn trọng toàn vẹn con người, bởi lẽ tình yêu nhắm đến con người như một “ngôi vị” (personne) chứ không chỉ là linh hồn hay thân xác (s.5). Và nhất là không đi theo lối định nghĩa so sánh người với vật, mà là với Thiên Chúa, trong điều kỳ diệu nhất, cao vời nhất : Tình yêu.
[Trong tác phẩm nổi tiếng “Pensées”[4][4] B. Pascal cho rằng có ba thứ bậc của sự vĩ đại. Bậc thứ nhất liên quan đến vật chất hay thân xác con người : người giàu có, người có sức khoẻ lực sĩ hay dung nhan xinh đẹp thuộc về bậc này. Giá trị của bậc này không nên coi nhẹ, nhưng vẫn là hạng thấp nhất. Bậc tiếp theo là của các thiên tài, thông minh mẫn trí: các nhà tư tưởng, phát minh, khoa học gia, nghệ sĩ và văn thi sĩ ở nhóm này. Bậc này có phẩm chất khác. Giàu hay nghèo, đẹp hay xấu, không thêm vào hay lấy bớt điều gì của những thiên tài. Thân thể có bị tật nguyền dị dạng không lấy mất được vẻ đẹp suy tư của Socrates, hay nét đẹp của thi ca Leopardi. Giá trị của tài năng thì chắc chắn là cao hơn giá trị vật chất, nhưng đó cũng chưa phải là cao nhất. Trên nó còn một thứ bậc cao hơn, và đó là thứ bậc của tình yêu, của lòng nhân ái. Pascal gọi đó là thứ bậc của thánh thiêng và ân sủng].[5][5]
2. Thân phận của tình yêu : Eros/Agape
Có thể nói đến “thân phận của tình yêu”, vì theo dòng lịch sử, tình yêu đã không được sống theo cùng một nghĩa, một cách thức, có lẽ cũng vì thế mà nhân loại đã trải qua một lịch sử đầy vui mừng và đau khổ, hy vọng và lo lắng.
Thật vậy, lời của Đức Bênêđictô “Tình yêu có nhiều nghĩa” mang một sức nặng không kém câu nói của Aristote, một thời làm bừng tỉnh suy tư triết học (Heidegger) : “Hữu thể có nhiều nghĩa”.[6][6] Chỉ có điều thân phận của hữu thể trong triết học không mấy liên hệ đến tình yêu, còn trong quan điểm của Kitô giáo và cũng là của Thông Điệp thì hoàn toàn khác : thân phận của tình yêu cũng là thân phận của hữu thể. Chính cách hiểu về tình yêu đã hình thành lịch sử. Tiếp bước thánh Augustinô, Đức Bênêđictô ngay từ tác phẩm “Muối cho đời” đã cho rằng, tấn kịch của lịch sử nói cho cùng là tấn kịch của tình yêu : “Tôi nghĩ rằng đó là tấn kịch đặc biệt của lịch sử, rằng trong bao nhiêu trận tuyến mà nó phải đối đầu, lịch sử cuối cùng có thể tóm lược lại trong điều này : (nói) có hay không đối với tình yêu”.[7][7]
Cần lưu ý rằng, mỗi cách đọc/hiểu lịch sử đều tác động, thậm chí khuôn đúc lịch sử chứ không đơn giản là một phân tích hay tổng hợp thuần túy trí thức. Chúng ta đã biết đến các “thế giới quan” trong quá khứ đã tác động lên lịch sử như thế nào, thiết tưởng không cần thiết hay nói đúng hơn quá tế nhị để lập lại !
Thực ra Đức Thánh Cha đã “điều chỉnh” câu nói của thánh Augustinô, không phải để “sửa sai” cho bằng “xác định rõ hơn” ý nghĩa của tính yêu cũng như tránh ngộ nhận về tình yêu đặc biệt trong kiểu nói : “yêu bản thân mình”.
“Augustinô có cái nhìn hơi khác, ngài nói, lịch sử là cuộc chiến giữa hai loại tình yêu, giữa yêu Chúa đến hy sinh chính mình và yêu mình đến chối bỏ Chúa. Ngài trình bày lịch sử như bi kịch về cuộc chiến giữa hai thứ yêu. Tôi tìm cách làm sáng tỏ thêm ý tưởng này, khi cho rằng đối lực của yêu không phải là một loại tình yêu khác, nó không đáng gọi là tình yêu, nhưng là sự chối bỏ tình yêu”.[8][8]
“Yêu bản thân mình” (nói nôm na là “quanh quẩn với chính mình”) thì không đáng gọi là tình yêu, hay chưa thể gọi là yêu. Vì thế, thay vì nói tới hai thứ tình yêu khác biệt nhau, ngài nhấn mạnh đến sự khác biệt căn để giữa “tình yêu” và sự “chối bỏ tình yêu”, “yêu” và “không có khả năng yêu”.[9][9] Và như thế không còn có thể nói đến sự đối kháng bên ngoài giữa những người “yêu Chúa” với những kẻ “yêu bản thân” [vốn có nguy cơ biến thành đối kháng giữa kẻ tin và người không tin, kẻ tốt người xấu. Vấn đề “trục sự dữ” (axe du mal) hiện đại cho thấy tính hàm hồ và nghiêm trọng của vấn đề] nhưng là một cuộc chiến nơi tâm hồn mỗi người, mỗi cộng đồng cũng như trong lòng nhân loại. Tình yêu không phân loại con người, chính con người mới phân loại tình yêu !
Số phận của tình yêu cũng là số phận của con người.
Thật vậy, sau phần dẫn nhập rất “bình thường” về vai trò của tình yêu trong cuộc sống hằng ngày, Thông Điệp chuyển sang một bình diện khác : lịch sử. Chính trên bình diện này mà “tình yêu bị đặt thành vấn đề”, đặc biệt trong thời cận và hiện đại.
Trước tiên là phê phán của triết học Ánh sáng (Aufklarung), và nhất là của Nietzsche : “Kitô giáo đã đầu độc eros (tình ái) ; tình ái nếu không bị triệt tiêu thì cũng trở thành tật xấu. Triết gia người Đức này muốn nói lên một quan niệm rất phổ biến : Hội Thánh, với lề luật và giới cấm của mình” (s.3). Và như ta biết, phê phán này đã có một ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu rộng cho đến tận hôm nay, trên nhận thức về tôn giáo nói chung và đặc biệt là Kitô giáo : Kitô giáo chỉ biết đến linh hồn mà quên đi thân xác, vạch ra con dường về đời sau đến nỗi lạc mất lối về đời này ! Kitô giáo trở thành như kẻ chỉ còn biết “nói không” đối với cuộc sống !
[Gần đây, trước những chất vấn của các phóng viên Đức về thái độ cũng như luật lệ của Giáo Hội liên quan đến vấn đề gia đình, tính dục, “hôn nhân đồng tính”, Aids…, Đức Thánh Cha trả lời :
“Kitô giáo, Công giáo không phải là tổng số những điều cấm kỵ, nhưng là một lựa chọn tích cực. Và điều đó lại cần phải được nhìn nhận là tối quan trọng, bởi vì hiện nay ý thức này đã gần như biến mất…Tôi tin là phải sửa lại hình ảnh theo đó chúng tôi chỉ gieo xung quanh mình những lời nói “không” quyết liệt” [10][10]].
Câu trả lời của Thông Điệp cho chất vấn của Nietzsche cũng như của não trạng hiện đại về con người và tình yêu rất khéo léo và sắc bén : anh hiểu về tình yêu như thế nào thì anh sẽ đối xử với con người như vậy !
Vì quan niệm tình yêu chỉ là eros, và là một eros dưới hình thái thấp nhất, nghèo nàn nhất – tình dục, khoái cảm thân xác – mà con người bị chà đạp, thậm chí trở thành phương tiện sử dụng, khai thác tùy ý (s.5).
Nhưng quan niệm tình yêu cách giản lược như thế không phải
không có phần trách nhiệm của quan niệm “truyền thống” trong triết học cũng như
thần học (s.7). Thật vậy, eros/agape là hai khía cạnh khác biệt nhưng bổ túc của
tình yêu trong Kinh Thánh đã dần dần chuyển thành đối lập giữa “tình yêu
trần thế” (eros) và “tình yêu Thiên Chúa” (agape), giữa “tình yêu ham muốn,
hưởng thụ” (amor concupiscentiae) – và tình yêu ban tặng (amor benevolentiae).
“Trong cuộc trao đổi triết học và thần học, những phân biệt này được đưa lên
thành những đối kháng : tình yêu theo quan niệm Kitô giáo là agape, tình yêu đi
xuống và dâng hiến ; ngược lại, tình yêu eros không thuộc về Kitô giáo, đặc biệt
thuộc văn hóa Hy lạp, là tình yêu đi lên và ham muốn” (s.7). Đối lập trong
quan niệm đưa tới đối lập trong thực tại, trong cuộc sống : thân
xác – linh hồn ; đời này – đời sau ; con người – Thiên Chúa !
Kết quả là con người và cả mạc khải Kitô giáo rơi vào mâu thuẫn :
- Tại sao một nhân loại đòi được yêu và muốn tôn vinh thân xác, nghĩa là con người và cuộc sống rất cụ thể này lại đi đến chỗ chà đạp nhân phẩm, tha hóa và băng hoại như thế (s.5) ?
- Tại sao một Thiên Chúa tìm kiếm con người ngay trong thế giới này (s.12), một Tình Yêu đến mức “nhập thể”, “chết cho người mình yêu” rốt cuộc bị xem như là một Thiên Chúa nếu không chống lại thì cũng xa lạ với con người ? Một Thiên Chúa nói “có” đến mức “nhập thể”, “tự hiến”, rốt cuộc trở thành một Thiên Chúa nói “không” với cuộc sống !
Câu trả lời của Thông điệp vì thế nhắm đến cả hai :
- Muốn con người được tôn trọng cách toàn vẹn, thì hãy trả lại cho tình yêu ý nghĩa toàn vẹn. Chính vì tình yêu chỉ được hiểu là eros, theo nghĩa hạn hẹp nhất của nó, nghĩa là đam mê thoáng qua, khoái cảm, hưởng thụ thân xác, và hơn nữa, “chỉ biết đến mình”, nên tha nhân bị biến thành phương tiện và chính tình yêu cũng trở thành vô nghĩa : “không phải chỉ có hồn hay xác mới yêu – con người, nhân vị, yêu như một thụ tạo duy nhất và đơn nhất, bao gồm cả hồn lẫn xác. Chỉ khi đó tình yêu – eros – mới đạt được sự cao cả thực sự của mình” (s.5) Trả lại phẩm giá và sự toàn vẹn của tình yêu cũng là trả lại phẩm giá và sự toàn vẹn của con người, cả hai tùy thuộc lẫn nhau.
- Muốn biết Thiên Chúa gần hay xa, nói “có” hay nói “không” với cuộc sống, hãy trở lại xem Tình yêu của Ngài “là thế nào” (s.17). Tình yêu kitô không chỉ là agape [cho dù đó là “từ ngữ đặc thù cho cách hiểu thánh kinh về tình yêu” (s.6)], vì, theo Thông Điệp, tình yêu của Thiên Chúa “là eros, nhưng cũng đồng thời là agapê” (s.9). “Eros của Thiên Chúa đối với con người cũng hoàn toàn là agape” (s.10). Nói cách đơn giản, một Thiên Chúa đã yêu với một tình yêu thực sự mãnh liệt (eros), đến độ trao hiến tất cả (agape).
Điều bất ngờ đồng thời làm nên một trong những điểm độc đáo nhất của Thông Điệp đó là khôi phục phẩm giá của tình yêu, theo nghĩa là eros. Eros không phải chỉ là chuyện của con người hay của thân xác. Nó trước tiên là chuyện của Thiên Chúa. Quả thật là sự đảo lộn táo bạo, vì nếu thời đại hôm nay tôn eros lên hàng thần thánh hoặc kéo xuống như là biểu tượng của “trần thế”, “trần tục”, thì Thông Điệp khôi phục lại “nét đẹp thần linh” của nó. Tình yêu không phải là Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa là tình yêu ! và là tình yêu với tất cả đam mê mãnh liệt, nghĩa là dám đi đến cùng để “nên một với người mình yêu” : “tình yêu là “thần thánh” vì nó đến từ Thiên Chúa và kết hợp chúng ta với Thiên Chúa” (s.18).
Tình yêu của Thiên Chúa “là eros nhưng cũng đồng thời là agape” (s.9). Kiểu nói thận trọng (nhìn trước nhìn sau !) nhưng không che dấu nổi tính “táo bạo” của nó, vì Đức Thánh Cha ý thức rõ hơn ai hết : “Cựu Ước chỉ sử dụng từ eros có 2 lần, trong khi Tân Ước không hề sử dụng” (s.2) !
Chắc chắn không phải tự nhiên mà Thông Điệp đã nhấn mạnh đền eros đến mức như thế. Phải chăng vì “agape”, “tình yêu nhưng không” mà chúng ta tôn lên tới trời đã đánh mất tất cả tính đam mê, tha thiết của một tình yêu đích thực ? Yêu mọi người nhưng cũng không thực sự yêu ai ! Yêu hết lòng, hết linh hồn hết trí khôn, nhưng lại không ra khỏi chính mình ! Và phải chăng, trong khi Thiên Chúa yêu chúng ta bằng một tình yêu quá mãnh liệt, quá “cụ thể” còn chúng ta “mến Chúa, yêu người” bằng một tình yêu nhiều khi rất dửng dưng và hết sức “thiêng liêng” !
3. Tình yêu và Công lý
Thông điệp đối diện với một chất vấn khác của lịch sử (cận và hiện đại) không kém phần thách thức đối với tình yêu : “người nghèo không cần đến công tác bác ái, nhưng đòi hỏi công bằng” ! (s.26) Nói cách cụ thể, đứng trước thực tế đầy đau khổ, bất công của xã hội, điều con người cần để sống cho ra người không phải là tình yêu mà là công lý !
Ở đây không còn là chất vấn lý thuyết mà là của chính thực tế cuộc sống, và chất vấn này cho đến nay vẫn mang tất cả tính hiện đại và khẩn thiết của nó. Trong lời mở đầu cho cuốn “Thần học giải phóng” (Theology of Liberation) của Gustave Guitierrez, Johann Baptist Metz đã viết một câu mà sau này Hội Đồng Giám Mục Đức đã lập lại trong bản tuyên tín của mình :
“Giáo Hội dễ đứng vững trước những hoài nghi trí thức những khó đứng vững trước những hoài nghi câm nín và trước nỗi tuyệt vọng của đoàn dân, cũng như trước sự khinh bỉ những người phận nhỏ, là những kẻ mà Đức Giêsu ưu ái và cũng là những người mà Giáo Hội của ngài phải đặc biệt yêu thương”. [11][11]
Phê bình của Marx như thể đặt Kitô hữu trước lựa chọn : hoặc là tình yêu, hoặc là công lý, vì dưới cái nhìn của ông, tình yêu theo lối rao giảng và thực hành của Kitô giáo chẳng những không thay đổi được số phận của người nghèo mà ngược lại còn bảo đảm hay củng cố cho các hình thái bóc lột, áp bức, nô lệ hóa con người. Thực tế, Thông điệp đã đón nhận khía cạnh thích đáng của phê bình đó, qua việc nhắc lại cho chính Kitô hữu cũng như Giáo Hội qua lời của phó tế Lorenxô : những người nghèo mới chính là “kho tàng đích thực của Hội Thánh” (s.23), đồng thời “phải công nhận rằng, các vị đại diện Hội Thánh thật chậm trễ khi nhận ra vấn nạn về cơ cấu công bằng của xã hội được đặt ra cách mới mẻ” (s.26).
Thế nhưng điều mà Thông điệp hay nói đúng hơn Sứ điệp Kitô giáo không chấp nhận trong phê bình trên cũng vẫn là chỗ đứng của tình yêu trong định nghĩa con người. Con người cần đến công bằng nhưng không phải là thứ công bằng vô hồn, vô tâm, mà là công bằng của tình yêu. Tình yêu phải là động lực và cùng đích của công bằng, vì “con người, vượt trên sự công bằng, luôn cần đến tình yêu” (s.29).
Câu trả lời của Thông Điệp thực ra không chỉ là lý thuyết, mà đúng hơn là một ghi nhận đau đớn về lịch sử : “giấc mộng công bằng tan vỡ” (s.29) và chúng ta biết sự tan vỡ đó kéo theo những thảm kịch như thế nào. Chính cuộc sống chứng minh rằng, không có tình yêu thì không thể có thiên đàng, và ngược lại, “thiên đàng mà không có tình yêu” thì chỉ là một tên gọi khác của hỏa ngục.
Nhưng nói như thế không có nghĩa là người Kitô hữu có thể xoa tay đắc thắng, vì nếu Thông Điệp nhắc đi nhắc lại chuyện của Giulianô “bội giáo” cũng như phê bình của Marx thì cũng là để cảnh tỉnh người Kitô hữu : phải chăng chúng ta đã sai trong chính cách sống của mình, hoặc đã sống làm sao để đến nỗi người ta hiểu sai về mình ! [một chi tiết đáng nghiền ngẫm : “Khi lên sáu, chính Giulianô tận mắt chứng kiến đội bảo vệ hoàng cung sát hại cha, em và thân nhân của mình và gán hành động tàn bạo này – đúng hay sai chưa rõ – cho hoàng đế Constance, người tự cho mình là một Kitô hữu vĩ đại” (24)].
Xin được “diễn giải” câu nói “đúng hay sai chưa rõ” : đặt trong văn mạch (bản văn) có lẽ dễ hiểu và rõ ràng : Constance có phải là thủ phạm giết hại thân nhân của ông như Giulianô nghĩ hay không thì chưa biết. Thế nhưng trong văn mạch cuộc sống (thế giới), dù muốn dù không, chúng ta buộc phải nhìn nhận chuyện hiểu đúng hiểu sai là “quyền của người khác”, và nó có một ảnh hưởng thực sự trên người nghe hay nhìn cách sống của chúng ta. Vì thế, vấn đề không đơn giản là buộc người khác phải hiểu đúng trong khi chúng ta chỉ cần tin đúng (còn sống thế nào thì mặc kệ !) nhưng là sống làm sao cho đức tin chúng ta trở thành “khả tín”. Nói khác đi nếu orthodoxie không “nói lên” qua orthopraxie, thì chúng ta không có gì thực sự “để nói với” thế giới, với cuộc sống này, ngoại trừ tiếng “không” ! Đức Tin trong cuộc sống chỉ có thể diễn tả dưới hình thái “khả tín”. Tình yêu của Thiên Chúa cũng không (thể) chọn con đường nào khác (x. đặc biệt số 17), vì yêu là như thế, sự thuyết phục của tình yêu không bao giờ là sự thuyết phục của một bài toán, và sự chắc chắn của tình yêu đã và sẽ không bao giờ chỉ là sự chắc chắn của lý thuyết hay lý luận !
Vì thế, dù thế nào đi nữa, chúng ta không nên quên rằng cách thức rao giảng hữu hiệu nhất, “dễ hiểu” nhất vẫn là tình yêu thực sự trong lòng đời.
“Tình yêu trong sự thuần khiết, vô vị lợi là chứng cứ tốt nhất về Thiên Chúa…Người Kitô hữu biết lúc nào có thể nói về Thiên Chúa, lúc nào thì nên thinh lặng và chỉ nói về tình yêu mà thôi” (s.31).
Nói tóm lại, con người cần đến công lý và tình yêu, chứ không phải hoặc là công lý hoặc là tình yêu. Thế nhưng chúng ta phải nhìn nhận rằng, Tình yêu và Công Lý có nguy cơ trở thành khẳng định suông, bởi lẽ tình yêu và công lý trong giới hạn của con người cũng như trong thực tế lịch sử dường như không nối kết được, nhấn mạnh đến tình yêu thì quên mất công lý, nhấn mạnh đến công lý lại quên mất tình yêu.
Vậy có điều gì khiến cho tình yêu có thể hòa giải với công lý. Nói đúng hơn, phải yêu thế nào để chính công lý cũng “được hoàn tất” ?
4. Khôn ngoan hay điên rồ :
Mạc khải của Tình Yêu tuyệt đối
“Chẳng lẽ tôi không có quyền định đoạt về những gì là của tôi hay sao ? Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức ?” (x. Mt 20,1-16)
Để có thể đi vào trọng tâm của Thông Điệp, có lẽ chúng ta nên dừng lại một vài giây phút với “Dụ ngôn thợ làm vườn nho” (Mt 20,1-16), bởi chủ đề chính của dụ ngôn này không gì khác hơn là “Công Lý và Tình Yêu”, hơn nữa lại nằm ngay trước lời tiên báo thứ 3 về cuộc khổ nạn.
Chuyện kể rằng : có một ông chủ “ra” mướn thợ làm việc cho vườn nho mình. Không phải một lần, mà là nhiều lần. Không phải kêu chung chung mà gặp từng người, thỏa thuận sòng phẳng (công lý !). Nhưng dường như ông ta “không bình thường”, vì đi tìm thợ làm vườn ngay cả khi đã… hết ngày làm việc. Người thợ tất nhiên phải làm gì, xây dựng điều gì. Thế nhưng tất cả diễn ra như thể, kẻ xây dựng thật sự không phải là người thợ mà là ông chủ, và điều ông muốn xây dựng không phải là khu vườn, mà là chính những người thợ ! Có lẽ những người thợ mới chính là vườn nho của ông.
Tất cả vấn đề nằm ở đó : vườn nho Chúa là con người, dù họ là ai. Buồn vui của ông chủ cũng ở đó : là chính con người, bất kể họ như thế nào. Hơn thế nữa, từng con người được đối xử như thể là duy nhất, không so sánh với bất kỳ ai khác (singulier), và mọi con người (universel) được đối xử như thể là với một người. Công lý chỉ hoàn thành khi kết hợp được hai chiều kích hầu như không thể kết hợp đó : cụ thể và phổ quát, “rất riêng” và “rất chung”.
Thực tế, dụ ngôn nói đến “tình yêu và công lý” của Thiên Chúa đối với con người, đó là điều hiển nhiên. Nhưng câu hỏi ít ai nêu ra :
“Tình yêu và công lý” nơi chính Thiên Chúa thì sao ?
Xin mượn câu chuyện đó để dẫn vào phần có thể xem là nghịch lý nhất đồng thời mang ý nghĩa quyết định nhất của Thông điệp :
“Tình yêu này cao cả đến độ
Thiên Chúa chống lại chính mình, tình yêu của Người chống lại công lý của Người.
Người Kitô hữu nhìn thấy mầu nhiệm Thập Giá ẩn tàng trong đó” (s.10). Và trong số 12 sau đó, Ngài xác định rõ thêm :
“Thiên Chúa quay lại chống đối chính mình” đạt đến mức tuyệt đỉnh khi Người (Đức
Giêsu Kitô) tự hiến chính mình, để nâng con người lên và cứu độ họ - đó là tình
yêu trong hình thức triệt để nhất. Cái nhìn vào cạnh sườn bị đâm thâu của Đức
Giêsu, mà thánh Gioan nói đến (x. Ga 19,37) giúp chúng ta hiểu khởi điểm
của Thông điệp này : “Thiên Chúa là tình yêu”
(1Ga 4,8). Nơi đó, chân lý này có thể được nhìn ngắm. Và cũng từ đó, có
thể định nghĩa tình yêu là gì. Từ cái nhìn này, người Kitô hữu tìm được con
đường để sống và để yêu”.
Chúng ta có thể “nghe thấy gì” từ sứ điệp đó ?
a. Một Thiên Chúa biết yêu : Đây có thể coi như “leitmotiv” của tất cả Thông Điệp, như thể nếu không có điều đó thì không những sứ điệp Kitô giáo mà mọi thực tại cũng như lịch sử sẽ không còn gì đáng kể: nếu tất cả khôn ngoan nhân loại (philosophia) chỉ có thể đạt đến một Thiên Chúa “được yêu”, thì mạc khải Kitô giáo hé lộ điều mà không một khôn ngoan nào dám nghĩ tới : một Thiên Chúa “biết yêu” (s.9). Và điệp khúc về “Thiên Chúa biết yêu đó” được xoáy sâu qua mầu nhiệm Sáng Tạo, Mạc Khải và Cứu Độ. Các bản văn kinh thánh được tham chiếu hoặc qui chiếu tự chúng đã nói lên rất nhiều : Sách Khởi Nguyên (tạo dựng bởi yêu thương) (s.9) ; Hôsê và Êdêkien (đặc biệt diễn tả đam mê của Thiên Chúa đối với dân Người) (s.9) ; sách Diễm ca (s.10) ; và tuyệt đỉnh : Ga 19,37 (“họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu”).
b. Nhưng chưa có tình yêu nào đã được định nghĩa như thế : Thông Điệp không “lập luận” hay “lý luận” gì cả, trái lại, chỉ “tường thuật” về “một tình yêu như thế đó”, “một tình yêu đến độ”, theo kiểu nói của thánh Gioan. “Thiên Chúa đã yêu thương con người đến độ trở thành con người, chạy theo họ đến độ đi vào cõi chết và với cách thức này đã giao hòa công lý với tình yêu” (s.10). Quả thật, chúng ta có thể đọc đoạn 17 của Thông Điệp như một “kinh tin kính” hoàn toàn theo ngôn ngữ của tình yêu (tại sao không !). Điều này cũng có nghĩa là, ai muốn hiểu Tình Yêu thì hãy lắng nghe “thần học tường thuật” (théologie narrative) của Thiên Chúa ! Và hãy quì xuống mà chiêm ngắm, mà ngợi ca (doxologie). Quả vậy, “Thần học tường thuật” khởi thủy không phải là của con người, mà là của chính Thiên Chúa, và “chủ thể” của thần học (théo-logie) không phải là chúng ta hay bất cứ trí óc phàm nhân nào, mà là Thiên Chúa, là trái tim của Ngài, một “trái tim bị đâm thâu”.
c. Một tình yêu “tha thứ tất cả - chịu đựng tất cả” : Một vấn nạn đã và đang chi phối lên lịch sử tín điều cũng như đời sống thiêng liêng của chúng ta, đó là câu hỏi về ý nghĩa của Thập Giá Đức Kitô. Trong lịch sử cho đến nay ít nhất có hai cách trả lời có thể nói đối nghịch nhau. Một đàng cho rằng, Đức Kitô chết để “đền bù” tội lỗi chúng ta. Câu trả lời nhấn mạnh tối đa đến “công lý” theo nghĩa công bình giao hoán [cán cân công lý chỉ thỏa mãn khi có sự đền bù thỏa đáng, mà điều đó không ai có thể làm được ngoại trừ Con Thiên Chúa]. Ưu điểm của giải đáp này là coi trọng thực sự sức nặng của tội lỗi cùng với những hệ quả của nó, nhưng khuyết điểm “chết người” của lập trường này, đó là để cho Công lý xóa mất Tình yêu, Thiên Chúa rốt cuộc xuất hiện như “Đấng Báo Thù”. Cách trả lời khác, và cũng là một phản ứng ngược lại, đó là nhấn mạnh tối đa tới Tình yêu, và do đó, không còn thấy Công lý ở đâu. Tình yêu Thiên Chúa vô cùng rộng lượng (không tiếc với chúng ta điều gì, kể cả Người Con Một), vì thế Ngài dễ dàng tha thứ tất cả. Tội lỗi đến mấy, chỉ cần quay về là được thứ tha (chỉ cần đi xưng tội !). Điều này quá quen tai đối với một người Kitô hữu, và dường như không còn “thành vấn đề”, thế nhưng nếu thử nghe với đôi tai của người khác, người “bên ngoài”, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra ngay tính chất “khó có thể chấp nhận” (scandaleux) của nó. Trước hết, vì nó dẫn tới nguy cơ không coi trọng đủ tính chất nghiêm trọng của tội lỗi, nhất là khi đứng trước điều mà ta có thể gọi là “sự dữ tuyệt đối” (le mal absolu - điều không thể để cho xảy ra). Điều thứ hai, nó đứng về phía người phạm tội và hầu như quên, hay ít nhất không coi trọng đủ “nạn nhân” của tội lỗi, tội ác. Tất nhiên, truyền thống không quên phân biệt giữa tội (péché) và vạ (peine), nhưng vấn đề là, làm sao “coi trọng” nạn nhân và những hậu quả “vô lường” của tội lỗi, ngay trong cuộc sống này ! Vì dù thế nào đi nữa, vấn đề của tội lỗi và sự dữ liên hệ đến chính hiện tại và tương lai của con người.
Câu trả lời của Thông Điệp (s.10), với lời trích tiên tri Hôsê (11,8-9), khiến ta không khỏi nhớ đến những lời như “điên dại” của thánh Phaolô (2Cr 12,11) về tình yêu Thiên Chúa : “Hỡi Ephraim, Ta từ chối ngươi sao nổi ! Hỡi Israel ta trao nộp ngươi sao đành…Tim Ta quay lại chống chính Ta, sự thương cảm của Ta ray rứt Ta…Tình yêu mãnh liệt của Thiên Chúa đối với dân Người – đối với nhân loại – cũng đồng thời là tình yêu tha thứ. Tình yêu này cao cả đến độ Thiên Chúa chống lại chính mình, tình yêu của Người chống lại công lý của Người…đến trở trở thành con người, chạy theo họ đến độ đi vào cỗi chết và với cách thức này giao hòa công lý và tình yêu”. Một tình yêu “quay quắt”, không phải vì chính mình hay với chính mình, mà là vì người mà mình yêu. Ở đây ngôn ngữ chạm tới giới hạn cuối cùng của nó, nhất là ngôn ngữ việt : tha thứ. Phải nhận rằng, một số ngôn ngữ khác diễn tả tốt hơn điều mà chúng ta vừa nghe : Par-donner / For-give / Ver-geben : cho đi và cho đi cách trọn vẹn nhất. Nhưng nói như thế vẫn chưa đủ : “cho” nhưng “cho gì” ? Tất cả sứ điệp Kitô giáo mở ra với điều ở “bên kia” mọi thứ ngôn ngữ : Tình yêu tha thứ của Thiên Chúa đồng nghĩa với “hiến/tặng chính mình”. Vấn đề không còn là thỏa mãn công lý (công lý bất chấp tình yêu) hay chống lại công lý (tình yêu bất chấp công lý), nhưng để cho công lý đạt đến mục đích cuối cùng của nó : mỗi con người và mọi con người được yêu thương cách trọn vẹn. Hơn nữa, chính tình yêu cũng được trọn vẹn khi “nên một” với người mình yêu. “Giao hòa công lý với tình yêu” nói cho cùng là giao hòa con người lại với Thiên Chúa : “Vâng, có một sự kết hợp của con người với Thiên Chúa – đó là giấc mơ nguyên thủy của con người – nhưng sự kết hợp này không phải là sự tan biến, chìm sâu vào một đại dương vô danh của thần tính, nhưng là sự hợp nhất tạo nên tình yêu, trong đó cả hai – Thiên Chúa và con người - ở lại trong tình yêu và hoàn toàn trở thành một” (s.10).
Nhưng nói như thế cũng có nghĩa là, vấn đề công lý, vấn đề của tội lỗi, đau khổ, sự chết, có một chấn động thực sự nơi Thiên Chúa, nếu không sự tha thứ cho Cain có nghĩa gì nếu Thiên Chúa không “mang nặng” sự bất công cũng như cái chết mà Abel phải chịu (St 4,1-16). Tha thứ cho Cain đồng thời mang lấy nơi mình đau khổ của Abel, và cũng là để mở một chân trời mới cho Cain. Không phải tình cờ mà truyền thống và đặc biệt là phụng vụ không ngừng nghe lại các bài ca về Người Tôi Tớ để “hiểu” về thập giá Đức Kitô.
“Người công chính, tôi tớ ta sẽ giải án tuyên công cho nhiều người, và chính ngài sẽ vác lấy tội chúng ta” (Is 54,11).
Có bao giờ sự tha thứ lại trở nên một kinh nghiệm chấn động, khiến chúng ta “mang nặng” hơn đau khổ của anh em mình ? Và phải chăng chúng ta cũng nên nghiền ngẫm thêm mối liên hệ giữa “tội và vạ” trong thần học cũng như trong đời sống thiêng liêng của chúng ta ? Xin đừng quên rằng, ngay trong Cựu Ước, các ơn đại xá hay toàn xá trước hết là để cho một “thế giới mới” có thể hình thành. Xóa nợ hay tha vạ chắc hẳn không phải để mọi người có thể xoa tay nghĩ về đời sau, mà là để cho chúng ta ít nhất “nhạy cảm” hơn với tất cả bóng tối của tội lỗi nơi mình, có “trách nhiệm” hơn với đau khổ quanh mình, và cho ai đó có thể sống như họ có thể và có quyền sống dưới ánh mặt trời.
5. Kinh nghiệm cội nguồn : tình yêu như là lời đáp
Lời tuyên tín : “Thiên Chúa là Tình Yêu” chỉ mang ý nghĩa thực sự cũng như chỉ có thể trở thành hiện thực trong cuộc đời khi nó được sống trong mối liên hệ thường xuyên với kinh nghiệm cội nguồn : “họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19,37) (12). Đây chính là điểm “bản lề” nối kết hai phần của Thông Điệp và cũng là câu trả lời cho vấn nạn : có thể yêu con người bằng một tình yêu như thế không ? [12][12]
[Khi suy nghĩ về cái “vòng hỏa ngục” của hận thù và bạo lực, đặc biệt sau thế chiến II, Hannah Arendt trong tác phẩm“Thân Phận con người hiện đại”,[13][13] cũng cho rằng : nếu không có tình yêu tha thứ thực sự (pardon/forgiveness) thì khó có thể thoát khỏi vòng hủy diệt, hay ít nhất không thể sinh ra điều gì mới, thế nhưng tình yêu như thế lại vô cùng họa hiếm (như là phép lạ) chứ không “phổ biến”[14][14] như người ta lầm tưởng. Và điểm qui chiếu duy nhất của Hannah Arendt, một triết gia Do Thái, lại là Tin Mừng của Đức Giêsu].
Câu trả lời của Thông Điệp cũng chính là câu trả lời của Tin Mừng, của toàn bộ Mạc Khải : một tình yêu như thế chỉ có thể có dưới hình thái “lời đáp” (réponse/Antwort) :
“Thiên Chúa không đòi hỏi một tình cảm mà chúng ta không thể khơi lên trong chúng ta. Người yêu chúng ta và cho chúng ta thấy và cảm nhận tình yêu của Người, và từ “bước trước” này của Thiên Chúa, tình yêu nảy sinh trong chúng ta như một lời đáp trả” (s.17).
Khẳng định quả rất đáng để chúng ta dừng lại suy gẫm, bởi lẽ nó bao hàm một định nghĩa hết sức mới mẻ về tình yêu. Thật vậy, tình yêu thường được định nghĩa như là điều thuộc về một “chủ thể” (sujet/subject), theo kiểu chia động từ : tôi yêu, anh yêu, nó yêu, chúng ta yêu… Thế nhưng, mạc khải Kinh Thánh, xét như là “tình sử” giữa Thiên Chúa và con người [love story between God and man (17)] chứng minh rằng : tình yêu trước hết phải hiểu theo cấu trúc đối thoại [yêu-được yêu] và “kẻ duy nhất” có thể nói “tôi yêu” theo nghĩa tuyệt đối của nó, nghĩa là “không vì gì cả”, một tình yêu “ex nihilo” và đi đến mức “hủy mình ra không” (Pl 2,1-11) thì chỉ có… Thiên Chúa ! Vì thế, trong thân phận con người, một tình yêu như thế chỉ có thể dưới hình thái của “lời đáp”, nghĩa là, con người chỉ có thể “yêu như Thiên Chúa yêu” trong mức độ kẻ đó cảm nhận “mình đã được yêu như thế nào” (s.17). Như thế vấn đề không còn là khẳng định “xuôi” hay “suông” theo kiểu : “yêu Chúa, yêu người”, hay “càng yêu Chúa thì càng yêu người” ! Có lẽ ít khi chúng ta ý thức tính chất hàm hồ nếu không muốn nói là ảo tưởng của công thức đó. Thánh Phêrô hiểu rõ điều đó hơn ai hết, nhất là khi ngài phải ba lần “trả lời về lòng mến” của mình ! Nếu chúng ta có thể nói lên tiếng “vâng” (oui/yes) của tình yêu đối với cuộc sống, với con người, dù họ là ai, thì cũng vì thấm thía tiếng “có” (oui/yes) đến tuyệt mức của Thiên Chúa dành cho mỗi người và cho toàn nhân loại. Tình yêu theo mạc khải Kitô giáo là tiếng “vâng-đối-đáp” giữa Thiên Chúa và con người, và cũng chỉ từ “kinh nghiệm cội nguồn” đó mà con người mới có thể “đối đáp với nhau trong tình yêu”. Tình yêu có thể trở thành “bó buộc”, vì trước đó tình yêu đã được ban tặng (s.14).
Nhưng như thế phải chăng chỉ có người Kitô hữu mới có thể yêu thực sự, mới có quyền rao giảng tình yêu, rao giảng Thiên Chúa ? Phải nhận rằng, không ít khi chúng ta nghĩ như thế. Thế nhưng, như trong 1Cr 1,17 – 2,5 về sự “khôn ngoan và điên đại” của Thập Giá Đức Kitô, thánh Phaolô cho biết điều ngài rao giảng không phải là bất cứ điều gì khác mà là chính tình yêu “khôn ngoan/điên dại” của Thiên Chúa dành cho mọi con người trong Đức Kitô. Chúng ta, cá nhân hay cộng đồng, không làm chứng cho “tình yêu của mình” hay “tình yêu nào đó”, càng không có tham vọng cho rằng chỉ mình mới có thể yêu thực sự, nhưng là rao giảng bằng chứng tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta, cho mọi con người ! Đáng tiếc là nhiều khi “tình yêu” bị biến thành sở hữu, làm như thể chúng ta “có tình yêu” rồi chỉ việc “ban phát”. Nếu phải nói đến sự tự hào về tình yêu trong Kitô giáo, thì có lẽ chỉ như một xác tín phổ quát : tất cả chúng ta đều được yêu thương, và đồng thời như một lời sám hối và hy vọng cụ thể : “tôi đã không hoặc chưa yêu ai đó như tôi đã được yêu”.
6. “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp,
loài người không được phân ly” (Mt 19,6)
Thông Điệp “Thiên Chúa là tình yêu” vừa là lời nhắc nhớ về “trọng tâm đức tin Kitô giáo”, vừa là một sứ điệp cho con người và thế giới, như lời của sứ thần ngày xưa : “Tôi báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại…” (Lc 2,10). Chính vì chiều kích “tương lai” này của Thông Điệp, mà chúng ta, những con người của Tin Mừng không thể không rút ra những hệ luận cho cuộc sống cũng như sứ mạng của mình.
Giới luật tình yêu ?
Một kiểu nói dường như ai cũng xem như là “đương nhiên”. Thế nhưng F. Rosenzweig, trong tác phẩm “Ngôi Sao Cứu Độ”[15][15] đã đặt vấn đề về kiểu nói rất đương nhiên này : “giới luật tình yêu”. Theo ông, điều duy nhất không thể biến thành luật chính là…tình yêu ! Một tình yêu bó buộc chẳng những không có nghĩa gì cả mà còn là điều đáng sợ nhất. Nếu buộc phải dùng tới chứ “giới luật” thì chỉ có thể hiểu theo nghĩa là lời mời gọi tha thiết nhất. Thực vậy, qua chú giải sách “Diễm Ca”, Rosenzweig cho thấy, kẻ “ra lệnh” : “hãy…yêu tôi !” thực ra là kẻ trước hết “thú nhận” tình yêu của mình đối với ai đó, đồng thời đặt mình vào thế yếu, vào thế của kẻ chờ đợi, cả Thiên Chúa cũng vậy ! Giới luật tình yêu vì thế là “lời thố lộ” (mạc khải) về một Thiên Chúa “biết chờ đợi” nếu không muốn nói là “phải chờ đợi”, đến nỗi tất cả những gì Ngài có thể làm cũng chỉ để nói lên mong ước : “con có yêu ta không ?”. Trong tình yêu không có “preuve” (chứng cứ, chứng lý) theo kiểu chứng minh buộc người ta phải nhận, mà là “épreuve” nghĩa là những thử thách phải trải qua để chứng tỏ tình yêu của mình. Rosenzweig gọi đó là “ngữ pháp của tình yêu” (grammaire de l’éros).[16][16]
Quả thực, Thiên Chúa qua lịch sử cứu độ, đã không yêu chúng ta bằng một ngữ pháp khác (s.17) : Ngài đã làm tất cả để chứng tỏ tình yêu của Ngài là “khả tín” (s.17). Nhưng tình yêu đó không chỉ là đòi hỏi từ bên trong, như chuyện tình giữa hai người, mà còn từ bên ngoài, từ “một ai đó đang cần được thương yêu”. Mọi lời khẳng định về “chúng tôi”, vô tình hay hữu ý, cũng đồng thời là lời phân biệt với “các anh” hay “chúng nó”. Ngữ pháp tình yêu của sách Diễm ca mở ra với một ngữ pháp khác, ngữ pháp của hành động hay của tình yêu trong lòng đời (grammaire du pathos),[17][17] vì vẫn còn đó những cuộc đời không được nhìn nhận hay bị đẩy ra ngoài lề cuộc sống. Thông Điệp về Thiên Chúa tình yêu cũng mở ra với một câu hỏi khác : câu hỏi về người thân cận. Câu hỏi quyết định cho biến đổi từ “chúng tôi” thành “chúng ta”, câu hỏi của ơn cứu độ phổ quát.
“Ngày ấy... Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước… Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ, trên khuôn mặt mọi người” (Is 25,8)
“Ai là anh em của tôi ?” (Lc 10,29)
Thông điệp quả thật hướng cái nhìn của chúng ta về “một Thiên Chúa chờ đợi được yêu”, nơi khuôn mặt “rất cụ thể và rất phổ quát” của “người thân cận” (s.15).
“Cho đến nay, quan niệm về người thân cận chỉ thu hẹp vào những người đồng hương…bây giờ ranh giới đó bị loại bỏ : bất cứ ai cần đến tôi, và tôi có thể giúp họ, đều là người thân cận của tôi. Ý nghĩa người thân cận đã trở nên phổ quát và rất cụ thể” (s.15).
Việc Thông điệp dùng tới “ba dụ ngôn lớn của Đức Giêsu” (Lc 16,19-31 – Lc 10,25-37 – Mt 25,31-46) để “chỉ ra” thế nào là người lân cận, và thế nào là tình yêu đối với tha nhân có lẽ quá đủ để nói lên ý nghĩa và tầm vóc của vấn đề. Chúng ta thử điểm lại các dụ ngôn cũng như cách “diễn giải” của Thông Điệp :
- Dụ ngôn người phú hộ và Ladarô nghèo khó : Người giàu đã không yêu thương người nghèo khó ngay trước cửa nhà mình, và người nghèo đây rất cụ thể, có một tên gọi và một cuộc đời van xin (Ladarô). Thông Điệp diễn giải : Người nghèo là người mà chúng ta “không thèm nhìn đến”, dù họ ở ngay trước cửa cuộc đời chúng ta. Hơn nữa, “Đức Giêsu đã dùng tiếng kêu cầu giúp đỡ này, để nói với chúng ta, để cảnh cáo và giúp chúng ta đi vào con đường ngay chính” (s.15). Nói khác đi, “tiếng kêu của người nghèo” được hiểu cách gián tiếp như “tiếng kêu của Thiên Chúa”, vì tiếng đó có thể cảnh tỉnh, giúp chúng ta đi vào đường ngay nẻo chính. [Hệ luận mà Thông Điệp rút ra là : “Giữa các cộng đoàn tín hữu không thể có sự nghèo đói, như việc có người bị từ chối những nhu cầu cần thiết cho một cuộc sống xứng với nhân phẩm” (s.20) ; “Hội Thánh là gia đình của Thiên Chúa giữa trần gian. Trong gia đình, không được phép có người túng thiếu” (s.25)].
- Dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu : Trước câu hỏi, “ai là người thân cận của tôi”, Đức Giêsu đã đảo ngược vấn đề. Đừng hỏi ai là anh em của mình, nhưng hãy trở nên người anh em, đối với bất cứ ai đang cần đến. Khác với Ladarô, người anh em ở đây là người mà ta tình cờ gặp gỡ trên đường. Hơn nữa, thánh Luca đã dùng kiểu nói vốn thường được dành cho Thiên Chúa : “chạnh lòng thương” để nói về người Samaritanô nhân hậu. Và như ta biết, người Samaritanô, tức là kẻ ở bên ngoài biên giới của tôn giáo, lại mang tấm lòng của Thiên Chúa ! Chỉ có tấm lòng như thế mới có khả năng yêu thương người thân cận theo nghĩa “phổ quát và cụ thể nhất” (s.17) [Hệ luận rút ra là : “…caritas-agape phải vượt qua ranh giới của Hội Thánh : dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu vẫn phải là tiêu chuẩn, đòi buộc tính phổ quát của tình yêu, một tình yêu luôn hướng đến những người túng quẫn mà ta “tình cờ” gặp gỡ” (s.25)].
- Dụ ngôn về cuộc Phán xét chung : Nghĩa “phổ quát và cụ thể” của người thân cận đạt đến mức tột cùng của nó : người khát, người khách lạ, trần truồng, đau yếu, ngồi tù… (anh em = tất cả những ai cần được yêu thương). Và điều mà dụ ngôn khiến chúng ta phải sững sờ, đó là việc đồng hóa đến mức tận cùng giữa “Đức Giêsu với những người khốn cùng”, giữa “Thiên Chúa” và “người thân cận” đến nỗi cả kẻ dữ lẫn người lành đều hoang mang tự hỏi : “có bao giờ chúng tôi thấy…” Người thân cận ở đây không còn đơn giản là ai đó, để chúng ta mặc tình phân biệt hay phân loại, mà còn là chính Chúa, cả hai là một. “Mỗi lần các ngươi làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Có thể nói như F. Rosenzweig : “hình hài” đau khổ của nhân loại đã in hằn trên chính “Dung Nhan” của Thiên Chúa.
Nếu dụ ngôn thứ nhất thúc đẩy chúng ta “ mở cửa nhà của mình”, dụ ngôn thứ hai đưa chúng ta vượt mọi biên giới, thì dụ ngôn thứ ba khiến chúng ta phải cúi xuống/nhìn lên khuôn mặt “người thân cận”, một khuôn mặt mà không ai có thể “phân biệt” nổi : đó là tha nhân hay là chính Chúa !
“Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp,
loài người không được phân ly !” (Mt 19,6)
Quả thật đây không còn là lời cho “đôi hôn phối” nào đó, mà đúng hơn là “tiêu chuẩn quyết định” cho giá trị tối hậu của hành động cũng như của đời sống chúng ta (s.15). Chúng ta có thể sống, hành động nhắm đến rất nhiều mục đích khác nhau, có thể có nhiều ơn gọi và sứ mạng khác nhau, nhưng đừng quên rằng cuối cùng Thiên Chúa cũng chỉ hỏi chúng ta về một điều duy nhất, một đòi hỏi “kép” mà chính Thiên Chúa đã không chấp nhận “phân ly” :
Ngươi có yêu mến anh em/Ta
như Ta đã yêu thương ngươi không ?
7. Khuôn mặt đời thường của tình yêu : “trách nhiệm”
Nếu Đức Giêsu đã một lần cảnh tỉnh : không phải cứ kêu lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời, thì cũng có thể nói như vậy về tình yêu : không phải cứ nói mãi về tình yêu là xong chuyện ! Trong cuộc sống thực, tình yêu được diễn tả bằng “nhiều cách”, nhiều ngôn ngữ khác, như trong bài ca đức mến của Thánh Phaolô (1Cr 13), bản văn mà theo Đức Thánh Cha đã “cô đọng tất cả những suy tư triển khai trong Thông Điệp này về tình yêu” (34) :
“Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang tự đắc…Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả…”.
Yêu trong cuộc đời là nhẫn nhục, tha thứ, là chịu đựng và hy vọng… Và dựa vào Thông điệp cũng như những suy tư vừa khai triển, chúng ta có thể nói, yêu trong cuộc sống thực là “trách nhiệm” (responsabilité/Verantwortung). Nhưng trách nhiệm có nghĩa là gì ?
a. Trách nhiệm thường được hiểu như là điều gắn liền với “quyền” theo hai nghĩa “quyền bính” (pouvoir) và “quyền lợi” (droit). Kẻ có quyền cũng có nghĩa là người mang trách nhiệm “theo quyền hạn của mình”. Kẻ có “quyền lợi” cũng đồng thời phải là người có trách nhiệm. Nói khác đi, muốn có quyền lợi thì phải có trách nhiệm đóng góp. Cách hiểu như thế không có gì phải tranh cãi, nhưng điều đáng lưu ý là, trong cả hai trường hợp, công lý đóng vai trò quyết định hơn là tình yêu, và cả hai định nghĩa đều qui chiếu về chủ thể trách nhiệm.
b. “Nguyên lý trách nhiệm” : như đã nói qua ở trên, một ý thức mới về trách nhiệm xuất hiện, mà tiêu biểu là Hans Jonas qua tác phẩm chính “Nguyên lý trách nhiệm” [18][18]. Ý thức này phát sinh như một “phản tỉnh” trước các hiểm họa về môi sinh, môi trường do con người gây ra. Đây là một hiểm họa đặc thù của thời hiện đại, vì từ trước tới nay con người là nạn nhân của thiên nhiên còn bây giờ chính thiên nhiên trở thành nạn nhân của con người. Chính nguy cơ sự sống bị hủy diệt (sự sống không đương nhiên, nhưng như một phép lạ trong vũ trụ), đòi buộc con người phải “có trách nhiệm”, điều đó cũng có nghĩa là, trách nhiệm phải được định nghĩa không qui về chủ thể mà là về đối tượng. Chính tiếng kêu của thiên nhiên, của môi trường buộc con người phải mang lấy trách nhiệm. Theo nghĩa này, trách nhiệm xuất phát từ “nỗi sợ” trước nguy cơ hủy diệt, mất mát của ai đó hay điều gì đó, chứ không phải là trách nhiệm tùy theo quyền lực hay quyền lợi của mình.
c.
Đàng khác, sau thảm kịch diệt chủng trong thế chiến II, một
thảm kịch mà nói cho cùng phát xuất từ sự xác định “ai là anh em của tôi”,
Emmanuel Levinas cho rằng, vấn đề “tha nhân” không phải là vấn đề ý tưởng
mà là khuôn mặt. Ý tưởng thì chúng ta có thể tạo ra, có thể “nắm bắt”,
hình dung, trình bày, hay phác họa, thậm chí thao túng theo như mình muốn, còn
khuôn mặt thì không thể, nhất là những khuôn mặt thống khổ. Khuôn mặt đó như thể
ở trên cao nhìn xuống, chất vấn chúng ta, buộc chúng ta phải trả lời về
đau khổ của họ cũng như đòi chúng ta phải “biện chính” (justifier) cho chỗ đứng
của mình dưới ánh mặt trời. Cũng như Hans Jonas và cả Rosenzweig, ý thức trách
nhiệm nơi Levinas xuất phát từ “nỗi sợ” có ai đó vì chúng ta, vì tham vọng của
chúng ta mà bị hủy hoại hay chà đạp [Totalité et Infini,[19][19]
tựa đề tác phẩm chính của Levinas cũng đã nói lên điều đó, Totalité
là tham vọng thâu tóm của các ý thức hệ, của các quyền lực chính trị, Infini
nói lên khía cạnh thách thức, bất khả thâu tóm
của khuôn mặt người]. Có thể nói theo kiểu của Rosenzweig, những tiếng ca
hát trong thiên đường “của chúng tôi” biết đâu không đẩy tất cả những gì “không
phải là chúng tôi” vào “nơi khóc lóc, nghiến răng” !
Dù không thể phủ nhận khía cạnh chính đáng của “quyền bính” và “quyền lợi” trong quan niệm về trách nhiệm, nhưng với sứ điệp về “người thân cận” mà chúng ta vừa nghe, phải chăng đã đến lúc cần có một cái nhìn mới về trách nhiệm : ở đâu có tiếng kêu, ở đó đòi phải có có trách nhiệm (responsabilité/Verantwortung), nghĩa là đòi sự đáp ứng, đáp lời (réponse/Antwort).
Nếu trách nhiệm chỉ khởi đi từ cái “tôi hay chúng tôi”, và hơn nữa lại dựa trên “quyền bính và quyền lợi”, thì hầu như chúng ta sẽ gặt đúng cái chúng ta gieo ! Nhưng nếu “cái chết của người tôi yêu mới là điều đáng kể !” nói theo kiểu của G. Marcel, thì phải chăng chúng ta có đủ lý do để sợ rằng : biết đâu chúng ta đã không quá nghĩ đến mình và không còn đủ nhạy cảm với những vấn đề của người khác, quá ưu tư với những vấn đề của mình và đánh mất khả năng lắng nghe thao thức, mong mỏi của tha nhân. Và cũng đủ lý do để hy vọng rằng : một tình yêu “coi trọng người khác” hơn chính mình chắc chắn sẽ gặt được hơn điều mình đã gieo. Trái tim bị đâm thâu trên thập giá là gì nếu không phải là một trái tim “lớn hơn” theo mọi nghĩa. Và phải chăng Thiên Chúa luôn luôn lớn hơn (Deus semper major) cũng chính vì tình yêu của Ngài mãi mãi lớn hơn ?
Thay cho lời kết
Tình yêu không thể có kết luận trong sách vở mà là trong cuộc đời thực. Thông điệp về “Thiên Chúa là tình yêu” cũng thế, kết thúc với việc nêu lên cuộc đời các vị thánh đã sống trọn vẹn tình yêu ngay giữa lòng đời.
Hóa ra Thông điệp được viết theo cấu trúc thật đơn giản, như một lời nhắc nhớ và kêu gọi đi theo :
- Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế đó…
- Họ đã yêu thương anh em như thế đó…
Một lời kêu gọi khẩn thiết, vì hơn bao giờ hết, chúng ta ý thức mình đang sống trong một thế giới khá “hỗn loạn” (chaotique) trên bình diện tinh thần và đặc biệt là về ý thức tôn giáo : một đàng là các chủ trương “cuồng tín” (fanatisme) ; “chiêu dụ tín đồ” (prosélytisme)… và đàng khác là các chủ trương “thế tục” ; “tương đối” (relativisme) ; “khoan dung” (tolérance) mà hệ quả đáng buồn là “dửng dưng” (indifférence). Trong bối cảnh như thế, “tình yêu” và nhất là “tình yêu tuyệt đối” trở thành đáng ngờ, thậm chí là đáng sợ. Người ta có thể nhân danh điều cao cả nhất để làm điều tệ hại nhất. Tình yêu có thể trở nên bình phong cho tất cả, từ sự “buôn bán thân xác” cho đến “ôm bom quyết tử”. Có khi lại “khoan dung” cho những điều “không thể khoan dung” (tolérer l’intolérable) [hôn nhân đồng tính ; “giết người êm dịu”]. Và hệ quả là con người dửng dưng với những điều mà lẽ ra “không thể dửng dưng”.
Trong cảnh “tranh tối tranh sáng” như thế, sự thuyết phục về tình yêu chỉ “khả tín” khi đồng thời là sự thuyết phục của tình yêu. Nghĩa là, hãy để cho tình yêu lên tiếng, qua những điều rất bình thường nhưng không chương trình hay kế hoạch nào có thể thay thế nổi : một bàn tay ân cần, một lời hỏi han, một lần thăm viếng… (x. Mt 25,31-46) để nơi khuôn mặt của ai đó, dù là mọn hèn nhất, có thể rạng lên niềm vui của chính Thiên Chúa !
“Ta bảo thật các ngươi : mỗi lần ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta”. (Mt 25,40).
“Thiên Chúa là tình yêu”
phải chăng cũng là lời tuyên xưng
về một “Thiên Chúa-đang-chờ-được-yêu-thương”
trên khuôn mặt người ?
Lm. Athanasiô Nguyễn Quốc Lâm
SỐNG ĐỨC TIN TRONG CUỘC ĐỜI LỨA ĐÔI
”Les Équipes Notre Dame - Các Nhóm Đức Bà” là phong trào giáo dân, quy tụ các gia đình, các đôi vợ chồng Công Giáo, quyết tâm sống đạo cùng đem Tin Mừng vào môi trường nghề nghiệp và xã hội. Sau đây là chứng từ của ông bà Marisa và Vittorio Alfisi, người Ý, về hồng ân biết và gia nhập phong trào.
Tất cả bắt đầu vào năm 1993.
Một ngày nọ .. Nói thế, không có nghĩa là chuyện tình cờ, mà là một ngày được THIÊN CHÚA chuẩn bị trước, để chúng tôi có cơ hội gặp gỡ hôm ấy.
THIÊN CHÚA chuẩn bị, đưa chúng tôi qua không biết bao cuộc thanh luyện thử thách. Trước tiên là song thân chúng tôi lần lượt từ trần. Rồi đến cuộc hôn nhân tan vỡ của người chị và người anh chúng tôi. Tiếp theo đó là hai đứa con trai lớn của chúng tôi bỏ đạo, không đi nhà thờ cũng chả lãnh nhận các bí tích Thánh Thể và Hòa Giải. Sau cùng, đứa con gái út bỏ nhà ra đi sống tự lập, khi vừa tròn 18 tuổi. Nó ra đi với bàn tay trắng, vì chưa có công ăn việc làm.
Chưa hết. Giữa vợ chồng chúng tôi thường xảy ra những vụ đụng độ, cãi cọ dữ dội, như muốn nổ tung cắt đứt cuộc sống lứa đôi. Tuy rằng, tận thâm tâm, cả hai, không ai muốn đi đến chỗ ly dị!
Bà Marisa nói. Dầu vậy, tôi vẫn hy vọng. Tôi hằng hy vọng nơi THIÊN CHÚA và Ngài đoái thương đến thân phận khốn cùng của chúng tôi. Tôi luôn luôn cầu nguyện. Trước đó, tôi đã nhiều lần tham dự các buổi gặp gỡ của Phong trào Canh Tân trong Thánh Thần. Tôi cũng thường nghe Đài Phát Thanh Công Giáo Radio Maria. Các buổi phát của Đài giúp tôi rất nhiều và có ảnh hưởng mạnh, trong thời gian tôi gặp gian nan thử thách.
Từ đó tôi lấy thói quen lần hạt Mân Côi liên tục. Vừa làm các công việc trong nhà, tôi vừa đọc kinh. Tham dự Thánh Lễ Chúa nhật thôi chưa đủ, tôi còn dự thêm Thánh Lễ các ngày thường, cho đến một lúc, tôi đi dự lễ hàng ngày. Giờ đây, khi nhắc lại chặng đường trải qua, lòng tôi dâng lên THIÊN CHÚA niềm tri ân chân thành. THIÊN CHÚA là Đấng Trung Tín. Ngài không bỏ rơi một ai.
Một ngày, tôi trông thấy nơi cửa ra vào nhà thờ giáo xứ, tờ giấy nhỏ thông báo Cuộc gặp gỡ thiêng liêng cho các gia đình sẽ diễn ra vào ngày 14-2-1993.
Về nhà, tôi đem chuyện ra nói với Vittorio, chồng tôi. Và chúng tôi đồng ý tham dự cuộc gặp gỡ. Chúng tôi còn xem cuộc gặp gỡ như là món quà đến từ THIÊN CHÚA. Bởi vì, ngày hôm trước, 13-2, kỷ niệm 22 năm thành hôn của chúng tôi. Và, ngày 14-2, trở thành ngày lịch sử của chúng tôi: ngày chúng tôi tiếp xúc lần đầu và chính thức gia nhập phong trào ”Các Nhóm Đức Bà”.
4 năm sau, Đức Cha De Giorgi Salvatore, Tổng Giám Mục giáo phận Palermo (Nam Ý), đề nghị gởi vợ chồng chúng tôi đi tham dự cuộc gặp gỡ quốc tế các gia đình với Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II tại Rio de Janeiro, thủ đô nước Brazil. Cuộc gặp gỡ diễn ra vào đầu tháng 10 năm 1997.
Khi nhận tin này, chúng tôi lúng túng tự hỏi không biết mình có đủ khả năng làm một cuộc hành trình xa, sang tận mãi Châu Mỹ La tinh, để tham dự một cuộc gặp gỡ có tầm mức quốc tế không.
Chúng tôi không muốn lìa con cái đi xa, mặc dầu chúng đã lớn tuổi. Nhưng nhất là, chúng tôi không muốn bỏ lại nhà cha mẹ già, một vị 87 tuổi và một vị 96 tuổi. Sau nhiều do dự, chúng tôi may mắn gặp các nữ tu Ursuline Chúa Chịu Đóng Đinh có cứ điểm truyền giáo tại bang Sao Paolo, nước Brazil. Chúng tôi quyết định lên đường tham dự cuộc gặp gỡ quốc tế các gia đình với Đức Thánh Cha.
Giờ đây, chúng tôi thâm tín rằng:
- Đáp lại tiếng Chúa mời gọi, không có nghĩa là bắt đầu đi trên con đường phẳng phiu, trơn tru. Không phải vậy. Khó khăn vẫn luôn luôn hiện hữu. Có khác chăng là bây giờ chúng tôi không tiến bước với tinh thần bi quan chỉ thấy toàn những điều tiêu cực. Trái lại, chúng tôi ngẩng cao đầu, đối diện với khó khăn và tiến thẳng với niềm hy vọng, với lòng tín thác hoàn toàn nơi Tình Yêu vô bờ và sự quan phòng của THIÊN CHÚA.
(”Lettera END”, Marzo+Aprile/1999, trang 34-37).
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
(Bài giảng lễ hôn phối)
... Chúng con đã chuẩn bị từ lâu cho ngày hôm nay. Trước hết, chúng con đã quen biết nhau, rồi quan tâm tới nhau, tìm hiểu nhau: tìm hiểu tính tình, sở thích, quan niệm của nhau về cuộc sống, về gia đình, về nghề nghiệp ... Tình yêu và sự hòa hợp tâm hồn càng ngày càng lớn lên theo thời gian, đưa chúng con tới ý muốn xây dựng gia đình với nhau. Rồi khi được gia đình đôi bên đồng ý, chúng con bắt đầu tính chuyện cụ thể cho lễ hôn phối và cuộc sống chung tương lai.
Là người Kitô hữu, chúng con còn được Giáo Hội dạy cho biết giáo lý về bí tích
hôn phối và những nhiệm vụ đặc biệt của bậc vợ chồng và bậc làm cha làm mẹ theo
đạo chúng ta. Và chắc chắn chúng con cũng đã cầu nguyện xin Chúa soi sáng hướng
dẫn cho mình trong quyết định kết hôn quan trọng này.
Vậy về các mặt, chúng con đã được chuẩn bị sẵn sàng.
Trong thánh lễ này, cha sẽ chỉ muốn lưu ý chúng con thêm về hai điểm mà cha muốn
nhấn mạnh.
Điểm thứ nhất là sự thánh thiện của hôn nhân Kitô giáo
Không có gì tự nhiên hơn, thường tình hơn là việc hai người nam nữ yêu thương nhau, cam kết xây dựng với nhau một cuộc chung sống bền vững và được xã hội nhìn nhận. Hôn nhân là một định chế xã hội cổ kính nhất, thiêng liêng nhất, vì hôn nhân là nền tảng của gia đình và gia đình là nền tảng của xã hội. Nhưng trong nền văn hóa ngày nay, định chế này đang bị đe dọa trầm trọng. Chuyện trăm năm là chuyện hệ trọng, thế mà nhiều người suy nghĩ đơn giản rằng hôn nhân chỉ là chuyện thỏa thuận của hai người, hoàn toàn tùy thuộc nơi ý muốn của họ, - còn thương nhau, còn hợp nhau thì còn chung sống, không thì thôi, chẳng có gì mà phải rắc rối! Rồi còn chuyện hôn nhân thử và chuyện sống chung không cần hôn phối nữa. Chưa hết, hiện nay một số nước đã hợp pháp hóa những cuộc chung sống giữa hai người đồng phái, coi đó như một cuộc hôn nhân đích thực về mặt pháp lý với những bổn phận và quyền lợi như trong hôn nhân thông thường giữa hai người nam và nữ. Như thế không phải là gián tiếp phá hoại tự gốc rễ định chế hôn nhân tự nhiên sao?
Còn chúng ta là người Kitô hữu, chúng ta biết rằng hôn nhân là thánh thiện, là một sự thánh vì đó là điều Thiên Chúa đã muốn ngay từ khi sáng tạo con người (x. Mt 19, 3-6), và hôn nhân giữa những người đã lãnh bí tích Thánh Tẩy lại Đức Kitô nâng lên thành một bí tích. Mọi người Kitô hữu đều được mời gọi nên thánh, dù ở địa vị nào, bậc sống nào. Đối với hai đứa chúng con thì từ nay chúng con sẽ thực hiện ơn gọi nên thánh này một cách cụ thể trong thực tế của cuộc sống hôn nhân và gia đình (x.Tông huấn Gia đình 1). Vậy không những bí tích mà hôm nay chúng con sắp cử hành là thánh thiện, mà tất cả cuộc sống chúng con sẽ xây dựng với nhau kể từ đây không trừ khía cạnh nào, - dù là đời sống thân mật giữa hai người, dù là công ăn việc làm, dù là sinh sản và giáo dục con cái, tất cả những gì làm nên cuộc sống hôn nhân và gia đình ?- tất cả đều được thánh hóa và giúp chúng con nên thánh. Đừng nghĩ rằng chỉ có chuyện đạo thuần túy như đọc kinh, xem lễ, lãnh nhận các bí tích mới làm cho ta nên thánh. Nhưng chính đời sống thường ngày với những bổn phận, những bó buộc, những lo toan, những vui buồn, thành công và thất bại của nó ?, nếu ta sống theo thánh ý Chúa, cũng vẫn là thánh thiện và có sức thánh hóa chúng ta. Ngôi Hai Thiên Chúa làm người đã sống ở trần gian 33 năm, nhưng đã ẩn dật trong gia đình tới những 30 năm. Và chúng con biết, phép lạ đầu tiên Người đã làm là trong một tiệc cưới...
Điểm thứ hai cha muốn nhắc nhở chúng con là phải kiên trì học tập cho biết yêu
thương nhau như Chúa muốn.
Tình yêu đôi lứa và hạnh phúc gia đình là một công cuộc phải khó nhọc xây dựng suốt đời. Như đã nói, không gì tự nhiên hơn là tình yêu đôi lứa, và theo nghĩa đó xem ra không có gì dễ dàng hơn. Nhà thơ Xuân Diệu viết : Làm sao sống được mà không yêu, Không nhớ, không thương một kẻ nào! Thế nhưng cũng không có gì khó khăn bằng tình yêu chân thật, tình yêu đúng nghĩa.
Vậy tình yêu đích thực là gì ? Là tình yêu dâng hiến, tình yêu hy sinh quên
mình, tình yêu sẵn sàng chết cho kẻ mình yêu. Tình yêu chân chính đòi hỏi chúng
ta phải chết đi mỗi ngày cho tính ích kỷ và sự hẹp hòi nơi ta. Ích kỷ, chỉ nghĩ
tới mình, chỉ lo cho mình: đó là con sâu nằm trong trái cây tình yêu, đục khoét
tình yêu. Thánh Phaolô trong Bài đọc I (l Cr 12,31-13,8) vừa nhắc lại một số
những đặc tính của tình yêu, đó là: nhẫn nhục, hiền hậu, khiêm nhường, không
ghen tương, không nóng giận, không tìm tư lợi, luôn tin tưởng nhau, chịu đựng
nhau và tha thứ cho nhau.
Vậy thì chúng con phải học cho biết yêu thương, học suốt cuộc đời. Càng sống lâu trong hôn nhân càng phải học vì lúc đó những tình cảm nồng nàn tự nhiên thuở ban đầu đã nguội đi; lúc trước: chỉ thấy bạn mình là hoàn hảo; về sau: té ra cũng nhiều giới hạn, nhiều tật xấu mình không ngờ. Và nếu không để ý, thì người ta có khi chỉ còn thấy toàn là cái xấu nơi bạn mình. Sự nhàm chán, sự khinh thường nhau, cuộc sống vất vả, v.v. có thể đe dọa tình yêu vợ chồng. Có người nói: đời sống gia đình là một trường học kéo dài cả đời. Các nhà tâm lý học cho rằng hôn nhân là một cuộc nói chuyện dài lâu, đôi khi bị cắt ngang bởi những cuộc cãi vả. Có nghĩa là phải học cách nói chuyện, và thậm chí phải học cả cách cãi cọ nữa!
Xin kể một câu chuyện cha mới đọc được. Có lần vợ chồng nữ hoàng nước Anh giận nhau. Sau hai ba ngày, nữ hoàng muốn làm hòa nhưng chồng bà cứ đóng chặt cửa ở trong phòng. Nghe tiếng bà gõ cửa, ông hỏi: -Ai? Đáp : - Nữ hoàng nuớc Anh. Nhưng cửa không mở. Nhiều lần như thế, lần nào cũng chỉ hai câu hỏi đáp cụt ngủn. Đến lúc chịu hết nổi, nữ hoàng lại đến gõ cửa. Vẫn giọng quen thuộc từ trong phát ra : -Ai? Nhưng lần này quá khổ tâm, bà thốt lên: -Em đây! Và lần này, cửa mở vì người trả lời là "em" chứ không phải "nữ hoàng Anh quốc". Câu chuyện này đáng cho các bậc vợ chồng suy gẫm. Điều người bạn đời mong chờ, đôi khi người ta cứ tưởng là tiền bạc, là tiếng tăm xã hội, là địa vị hay điều gì to tát, nhưng thật ra điều thâm sâu mà bạn ta chờ đợi, chính là lòng yêu thương, sự âu yếm, mối quan tâm lo lắng cho nhau. Chỉ một lời nói, một câu hỏi, một lời khen, một cái nhìn hay một cử chỉ phù hợp và chân tình cũng đủ diễn tả rất nhiều. Thật chẳng to tát gì, tốn kém gì, thế mà lắm khi người ta lại dè sẻn với nhau!
Hai cháu T và H thương mến! Tình yêu đôi lứa và cuộc sống gia đình thật là cao cả, nhưng không dễ dàng. Nhưng chúng con đừng sợ ! Chúa Giêsu lập bí tích Hôn phối để thánh hóa tình yêu của chúng con và ban ơn dư đầy giúp chúng con vượt qua mọi khó khăn thử thách để cùng nhau xây dựng đời sống gia đình hạnh phúc theo thánh ý Người với điều kiện chúng con biết để cho Người luôn hiện diện trong tình yêu của chúng con và luôn ngự giữa gia đình chúng con. Hãy quan tâm làm cho gia đình mình thực sự là một Hội Thánh tại gia.
Lm Nguyễn Hồng Giáo, dòng Phanxicô
Tâm lý giáo dục:
Hành trang vào đời – Nói chuyện về tình yêu
Cánh cửa nhà tạm của nhà thờ Đức Bà Lâm Viên Đà Lạt thuộc dòng Đức Bà của chúng tôi có hình chén thánh và hai con chim Bồ Nông, loài chim khi không tìm đủ thức ăn cho con, chúng lấy chính máu mình để nuôi con. Hình ảnh này đã gợi cho tôi những suy nghĩ của bài chia sẻ này.
Đây là biểu tượng tình thương: Tình của Chúa đối với mỗi người và tình cha mẹ dành cho con. Thương đến nỗi cho đi tất cả, kể cả bản thân mình, máu là dấu hiệu của sự sống, hiến máu mình là cho đi chính cuộc sống của mình.
Yêu thương là thế đấy. Tình yêu, ôi đắm đuối nhiệm mầu!
Có lẽ không ai hiểu tình thương đưa đến việc trao cho, hy sinh hết… cho bằng những người cha, người mẹ. Khi trải qua kinh nghiệm nuôi con, quý ông bà mới hiểu một cách thấm thía lời Chúa:
“Không ai yêu thương cho bằng
Kẻ hy sinh tính mạng vì người mình thương yêu”.
Nhiều lần tôi đã được nghe nhiều quý ông bà chia sẻ:
“Tôi có tiếc gì với con tôi đâu, cuộc đời tôi có còn lo gì cho bản thân đâu, tất cả chỉ vì con tôi thôi”.
Có khi nào ông bà lấy chính kinh nghiệm yêu thương con cái để nghĩ đến tình Chúa đối với mình không?
Không có gì khác biệt cả. Để nuôi con, loài chim Bồ Nông đã tự lấy máu mình để tiếp sức cho con, đã tự đổi mạng mình cho con được sống, đã hy sinh sự sống của mình để cứu lấy sự sống của con. Chúa chúng ta cũng đã làm như thế, lấy mạng sống mình “làm giá chuộc” cho sự sống chúng ta. (Ngay cả những người tốt lành như thầy thuốc Hơ Dun (Hàn quốc) cũng đã cắn tay để lấy máu giúp bệnh nhân hồi sinh).
*Mình và Máu Chúa, một chứng tích, một bằng chứng rất cụ thể của tình Chúa. Mồi khi rước Chúa, mỗi lần quỳ trước Thánh Thể, chúng con đang hưởng ơn huệ của tình yêu, đang đón nhận tình yêu của Chúa dành cho riêng con.
Lạy Chúa, chúng con sẽ làm gì trước món quà vô giá của tình yêu này? Chúng con chỉ biết đón nhận và chỉ biết đáp trả bằng tình yêu thương của mình. Nợ tình chỉ trả bằng tình.
“Con biết lấy gì, lấy gì đền đáp, đền đáp cho cân”. Chúng con sẽ cố gắng dâng lại cho Chúa một cuộc sống đẹp lòng Chúa hơn!
Lạy Chúa, chúng con rất yêu thương con cái mình, chúng con cũng sẵn sàng hy sinh chính bản thân vì con cháu. Chúng con có thể đáp trả bằng cách dâng lại cho Chúa những gì quý giá nhất của chúng con: Đó là con cháu của chúng con. Chúng con sẽ làm gì để con cháu chúng con trở nên như những của lễ đẹp lòng Chúa.
Nhiều lần quý phụ huynh muốn tự nhắc nhở mình:
Hạnh phúc của bậc làm cha mẹ là gì?
Là thấy con cái mình lớn lên vững vàng trong đức tin, bền lòng trông cậy và thờ phượng mến yêu Chúa, nên thánh? Hay thành đạt, chức cao, giàu có… ?
Phụ huynh có thể chúng tỏ lòng yêu thương con đích thật qua những điều cụ thể nào? Chắc chắn có trăm ngàn cách yêu. Sau đây, xin cùng phụ huynh đề cập đến một số điều cơ bản.
Cầu nguyện, kiên trì cầu nguyện…
“Hãy truyền đạo đức cho con cái. Chính đạo đức mới làm cho con cái quý vị sung sướng chứ không phải bạc vàng”
Beethoven
Giả như con cháu quý vị không nghe lời dạy dỗ, nó hư hỏng, khô khan… quý vị đã và sẽ làm gì?
Chắc chắn một gương yêu thương rất cụ thể mà quý vị đã từng nghe nói đến: Bà thánh Monica. Trước đứa con hư hỏng và bỏ Chúa, bà đã làm gì để biến đổi đứa con trai hư đốn của mình trở thành một giám mục,
một vị thánh lớn của Giáo Hội, một người yêu mến Chúa hết con tim và hết sức mình?
Điều gì đã làm nên phép lạ này?
Xin mời quý phụ huynh suy nghĩ những lời ca sau đây về bà mẹ Monica:
“Monica, người mẹ mẫu gương,
mười mấy năm trường khóc con xa lạc,
chỉ mong con mau bước trở về.
Chỉ mong con mau kịp trở về,
về nguồn chân lý duy nhất đời con,
về cùng Thiên Chúa hoan lạc đời con”
Người mẹ này không mong con trở về với mình, mà mong con trở về cùng Thiên Chúa là nguồn chân lý.
Cái khác biệt của người mẹ thánh là ở chỗ: Làm sao cho con quay về với Chúa.
“Monica, trọn kiếp trần gian ước mơ một điều,
chỉ mong con nên thánh nên người.
Lời kinh nước mắt lay chuyển lòng con,
lời kinh tha thiết biến cải đời con”.
Một lần nữa, người mẹ này suốt đời không chỉ mong con thành đạt, quyền cao chức trọng hay giàu có… mà chỉ mong con nên thánh nên người.
“Monica, ngời sáng gương lành đức tin can cường,
Mẹ thương con biển lớn không bằng,
Mẹ thương con lội suối băng ngàn,
Tìm con quên hết trăm đắng ngàn cay,
Tình mẹ tha thiết thấu tận trời mây”.
Nước mắt và sự cậy tin kiên vững của Monica đã động lòng Trời, và Chúa đã nhậm lời cầu xin của người mẹ khổ đau, nhưng luôn cậy dựa vào ơn Chúa giúp.
“Chúa đã lắng nghe lời,
lời nguyện xin trong âm thầm nước mắt
Chúa chúc phúc cho người,
hằng cậy trông không nao núng sờn lòng”.
Dạy con về Chúa.
“Tất cả trẻ con, dù ở tuổi nào cũng vậy, đều bịt tai trước những lời khuyên răn dạy bảo, nhưng chúng sẽ chăm chú, mở mắt thật to nếu người lớn làm gương cho chúng”. Thetablet
Đầu óc con trẻ như những tờ giấy trắng, như những nấm đất sét mềm mại, muốn cho con trở nên thế nào, chúng ta cần uốn nắn chúng từ khi còn nằm trong nôi, từ khi bập bẹ biết nói, biết đi. Chúng ta cần rót vào tai chúng những lời kinh, lời Phúc Aâm, lời hát ru mang tính đạo đức, về Chúa, hát các Thánh vịnh, ngâm những bài thơ đạo hay và ý nghĩa… Chúng ta rót vào đầu chúng những ước muốn lành thánh như làm Dấu Thánh Giá trước khi ăn, chắp tay, phủ phục trước Mình Thánh… Giúp con ao ước trở nên người lành thánh, hướng cho con tương lai mà chúng muốn xây đắp cho bản thân: Khi lớn lên, “CON MUỐN TRỞ NÊN…”, người như thế nào?
Chắc chắn thánh Aâutinh trong thời gian sống phóng đảng, vẫn còn vẳng bên tai những lời của mẹ nhắc nhở. Chính những gì bà Monica đã gieo, tạo nên sự giằng co trong tâm hồn… cho đến khi thánh nhân dứt khoát trở về với Chúa…
“Lòng con luôn khắc khoải cho tới khi an nghĩ trong Chúa”.
M. Thécla Trần Thị Giồng – Dòng Đức Bà
TS Tư Vấn Tâm Lý
Tác giả: Hạnh Nguyễn
Viết tặng bạn tôi - một đường thẳng song song - [/i]
Ở một miền xa xôi nào đó rất khó tìm và ít ai biết đến, có hai người bạn chơi
thân với nhau. Một người có tên là [b]Tạm Biệt[/b], người kia có tên là [b]Vĩnh
Biệt[/b]. Họ là một đôi thân lắm, lúc nào cũng có nhau.
Hồi còn nhỏ, khi Tạm Biệt hãy còn bé xí xí, loắt choắt chập chững vào lớp Một, cô giáo xếp Tạm Biệt ngồi kế bạn Vĩnh Biệt. Từ lúc đó hai đứa là đôi bạn thân của nhau.
Tạm Biệt và Vĩnh Biệt là hai đứa trẻ hiếu động lắm, lúc nào cũng leo trèo nhảy nhót, nghịch cái này cái kia. Có lần vào năm học lớp Năm, cả hai tập tành chạy xe đạp. Lúc đó, Tạm Biệt bị ngã hoài hoài nhưng cuối cùng cũng làm chủ được chiếc xe và dông thẳng ra bãi cỏ sau nhà rồi đạp lòng vòng khắp nơi trong sự ganh tỵ của Vĩnh Biệt. Sao mà hổng ganh tỵ được chớ, hai đứa cùng bằng tuổi, cùng tập một lượt như nhau mà nó được, mình hổng được, tức lắm chứ bộ. Sau hôm ấy, Vĩnh Biệt cố gắng tập chạy xe đạp cho bằng được, ban đầu thì không dám chạy một mình nên nhờ Tạm Biệt giúp. Rõ ràng là Tạm Biệt vẫn còn vịn sau yên xe cho Vĩnh Biệt chạy thế mà hổng biết sao Vĩnh Biệt bị ngã. Cú ngã ấy làm Tạm Biệt nhớ hoài, nhớ hoài luôn.
Khi Vĩnh Biệt ngã, toàn thân Vĩnh Biệt nằm xuống đất còn đầu gối thì xướt vaò
cục đá và chảy máu. Đáng lẽ ra chảy một chút là hết, nhưng đằng này máu cứ chảy
hoài chảy mãi. Mặt của Tạm Biệt xanh lè lè, mặt của Vĩnh Biệt lúc ấy thì trắng
bợt lại. Hai đứa sợ quá chừng chừng luôn.
Từ sau bữa đó, mẹ của Vĩnh Biệt trách Tạm Biệt hoài hà. Ban đầu là mắng vì để
Vĩnh Biệt ngã, riết rồi hổng biết sao mà thành ra hổng ưa Tạm Biệt, lâu dần ngăn
cấm hai đứa trẻ chơi chung với nhau luôn. Mà Tạm Biệt thấy mình đâu có lỗi gì
lớn lao ngoài chuyện “hổng may” để Vĩnh Biệt té đâu chớ. Hổng may chớ bộ Tạm
Biệt muốn đâu. Thấy bạn đau, Tạm Biệt cũng xót xa lắm mờ. Thế mới tội nghiệp cho
hai nhóc nhỏ làm sao! Nào tới giờ vẫn đang thân thiết, ngã có một xí xí thành ra
không được chơi chung. Mà ngộ, hễ cái gì mà bị cấm là người ta lại hay… lén làm.
Càng cấm hông cho hai đứa chơi chung thì chúng càng len lén chơi với nhau. Mà
cấm sao được khi hai đứa chung lớp nè, ngồi chung bàn nè, học chung trường nè,
cùng chung đường về nữa chớ! Càng lúc chúng càng thân hơn nữa kìa.
Gia đình vẫn hỏng cho Vĩnh Biệt và Tạm Biệt chơi với nhau, nói rằng bạn mình để
cho mình bị ngã chảy máu là bạn không có tốt đâu. Vĩnh Biệt nghe thế buồn lòng
ghê gớm, thương Tạm Biệt gì đâu. Nghĩ mình trong nhà nhỏ nhất nên cũng chẳng dám
thanh minh hay giải thích gì hết trơn. Vĩnh Biệt ghi trong Nhật kí lớp 5 của
ngày cuối cùng đi học rằng: ":( Mình là đứa trẻ hèn nhát khi không dám bênh vực
Tạm Biệt trước mặt mẹ mình". (Mà sau này nghe Vĩnh Biệt nói Tạm Biệt mới biết
chớ cuốn nhật kí lớp cô chủ nhiệm giữ nên chẳng nhóc nào xem được lời cuối của
mình hết trơn!).
Mùa hè năm chuẩn bị lên cấp II, hai đứa vẫn còn len lén đi chơi chung. Cả hai
đứa đều nghĩ, lên cấp 2 thế nào chúng ta cũng học chung nữa cho coi! Mà vậy thì
thích thật! Ấy nhưng, tới ngày khai giảng cả hai ngẩn ngơ buồn khi học khác lớp
nhau. Ừ thì khác lớp cũng chẳng sao, thế mà còn khác buổi nữa chứ! Chán ghê!
Hai nhóc, mỗi nhóc mỗi lớp, có bạn bè riêng. Cả hai ít có cơ hội gặp nhau, ít
nói chuyện luôn chớ nói chi là đi chơi chung. Nhưng mà hai đứa cứ tiếp tục giữ
liên hệ với nhau bằng những lần lén mẹ Vĩnh Biệt leo qua sân thưọng nhà của nhau
để chuyện trò thâu đêm. Cứ vậy, nhưng rồi có mấy lần, hổng biết sao mà Tạm Biệt
thấy Vĩnh Biệt là lạ, thấy Vĩnh Biệt như càng ngày càng ốm đi và yếu ớt làm sao
ấy. Rồi, Vĩnh Biệt nói Vĩnh Biệt bị bệnh. Biết là bị bệnh đấy nhưng bệnh gì thì
Tạm Biệt còn nhỏ quá nên không hiểu. Một hôm, cuối năm cấp 2, Vĩnh Biệt nói với
Tạm Biệt là sẽ đi xa lắm để chữa bệnh. Khi ấy Tạm Biệt mới biết là Vĩnh Biệt
bệnh, khó chữa lắm. (Chỉ biết vậy thôi à, chớ cũng hổng biết bệnh gì, vô tâm
thấy sợ luôn!)
Hai đứa nhỏ bây giờ thì nhìn nhau mà khóc, kế bên nhà nhau nè, giờ dọn đi đâu
không chịu nói chính xác để người ta viết thư. Cứ úp úp mở mở, cứ bảo là xa lắm.
Xa lắm là chỗ nào, để người ta biết với chứ, sao không nói rõ ra cho rồi! Tạm
Biệt vừa khóc vừa trách, còn Vĩnh Biệt cũng khóc rấm rứt. Mà chẳng lẽ ngồi khóc
hoài, Vĩnh Biệt hứa sẽ luôn viết thư cho Tạm Biệt, hay khi nào rảnh thì sẽ về
thăm. Tạm Biệt cũng nín khóc và bằng lòng vơí lời hứa như thế.
Ngày Vĩnh Biệt đi, Tạm Biệt không có nói lời nào hết. Mẹ Vĩnh Biệt đứng kế bên
mà, thử nói mà xem, bị liếc một cái là tự ái khóc liền cho coi. Vậy là đành ngậm
ngùi tựa cửa mà tiễn bạn của mình (Sao mà thương hai đứa tụi nó quá đi!).
Thời gian trôi mải miết, thời gian lớn dần bằng những tấm thiệp hằng năm Vĩnh
Biệt vẫn gửi. Bọn trẻ vẫn là bạn sau từng đó thời gian, dù rằng hai đứa cách
nhau xa lắc xa lơ à, dù rằng lớn lên hết rồi, nếu giờ mà gặp nhau chưa chắc có
còn nói chuyện được nhiều với nhau như hồi… con nít hông nữa. Vậy đó, nhưng mà
bảo đảm là đứa này vẫn nhớ đứa kia, trong đứa này có đưa kia. Chứ sao hông được,
bạn mà.
Vĩnh Biệt nói chớ, sẽ có ngày nào đó hai đứa gặp nhau thôi. Ngày đó sẽ là một
ngày nắng ấm áp nào đó. Vô tình lắm nha, Tạm Biệt đang đi lững thững trên bãi
cát ngắm biển thì gặp Vĩnh Biệt... Cả hai hổng có nói gì hết, cũng chẳng có ôm
nhau, chẳng khóc mà chỉ cười thôi! Cười không nhiều nhưng nụ cười thì đọng mãi
trong trí nhớ luôn à nghen. Nhưng rồi, chưa có kịp mừng gặp lại thì Vĩnh Biệt
nói rằng Vĩnh Biệt lại sắp đi xa, lần này là đi du lịch cho biết đây đó. Tạm
Biệt nói chớ mới gặp mà xa thì chán ghê lắm à nha. Nhưng biết làm sao bây giờ,
hai đứa mới đưa mail address cho nhau. Nhắn vậy nè, giờ lớn rồi, cũng biết này
biết nọ, rảnh nhiều thì chat, rảnh ít thì gửi mail nghe chưa. Hổng quên nhau à
nghen, bạn mà.
Thời gian lại tiếp tục trôi qua, trôi bằng lãng quên trong cả hai đứa. Vẫn mail
cho nhau, Tạm Biệt vẫn gửi mấy cái card chúc mừng đó thôi, nhưng còn Vĩnh Biệt
thì biến đâu mất tiêu…
Rồi một ngày kia, ngoài trời mưa tầm tã, Tạm Biệt nhận được một cái mail và đi gặp anh của Vĩnh Biệt! Họ trao đổi nhiều thứ, nói chuyện quá chừng (dù gì cũng là hàng xóm với nhau mà) và chẳng hiểu anh Vĩnh Biệt nói gì mà Tạm Biệt khóc quá trời! Đứng từ xa nhìn qua cửa kiếng tiệm cà phê mà thấy Tạm Biệt khóc nhiều như mưa bên ngoài vậy đó.
Ngày sau, Tạm Biệt đến thăm Vĩnh Biệt, hai đứa ngồi trên ghế đá góc vườn mà chẳng nói gì ráo. Một hồi lâu sau, Vĩnh Biệt mới thì thầm:
- Chẳng ai tin chúng ta có một tình bạn. Cả hai khác nhau quá trời, đúng không?
Tạm Biệt không nói gì, Vĩnh Biệt tiếp:
- Ngày nào đó gần thôi, chúng ta sẽ là hai thế giới khác biệt! Muốn chào một lời
chào cho một lần nữa chẳng thề gặp nhau sao mà khó quá! Đừng buồn khi phải chia
xa với Vĩnh Biệt nghen!
Tạm Biệt nghẹn giọng:
- Sao nói thế? Chẳng có gì là chia xa mãi mãi đâu mà… Mình chỉ tạm biệt nhau
thôi, rồi còn gặp lại mà.
Vĩnh Biệt chen ngang:
- Vĩnh Biệt có nghĩa là mãi mãi mà. Tạm Biệt thì là tạm thời chia xa.
Tạm Biệt cãi:
- Không phải!
Vĩnh Biệt buồn bã :
- Nhưng mà đó là sự thật. Ước gì chỉ là tạm biệt mà không là vĩnh biệt!
Tạm Biệt nói:
- Chúng ta chỉ tạm biệt khi chúng ta muốn mà thôi.
Vĩnh Biệt triết lí:
- Mà sao phải là tạm biệt mà không là hẹn gặp nhé ngày mai!
Lần này cả hai cùng khóc. Sau buổi nói chuyện vẩn vơ ấy, Tạm Biệt không còn gặp
Vĩnh Biệt thêm lần nào nữa. Đôi lần Tạm Biệt cố tình đi ngang căn nhà có Vĩnh
Biệt ở chỉ để tìm kiếm gì đó quen quen, nhưng mà đâu có thấy đâu, chỉ biết là
buồn thôi. Sau rồi, Tạm Biệt cũng bỏ luôn không đi ngang nữa.
Tạm Biệt biết rằng, họ là hai thế giới, hai định nghĩa cho một sự chia xa và họ minh chứng cho một tình bạn không trọn vẹn! Không trọn vẹn theo một nghĩa đen thui nào đó…
Nhưng mà đó là ở cái miền xa xôi nào đó, còn ở miền của chúng ta, chúng ta vẫn
hay nhớ đến Tạm Biệt mỗi khi chúng ta chia xa với một ai đó trong thời gian ngắn
thôi. Còn với Vĩnh Biệt, chúng ta dùng trong chia xa mãi mãi. Sao chúng ta lại
Tạm Biệt và Vĩnh Biệt mà không là hẹn gặp nhé ngày mai! Gặp nhé vào ngày mai!
Hẹn gặp nhé vào ngày mai!
Một ngày mai nào đó sẽ tới thôi, tại sao không chứ? Là bạn kia mà
Tin vui sưu tầm từ Internet
Tuyết rơi từ bao giờ không biết, cứ mưa trong lặng lẽ một trời đêm. Tôi vén màn nhìn qua khuông cửa kính phòng ngủ. Ðường vắng tanh. Nghe ngoài trời gió tuyết rì rào đập xuống vuông kính cửa sổ. Có tiếng xe nặng nề. Tiếng cần trục cẩu chiếc thùng sắt ở đầu ngõ. Tôi đoán trời đã gần về sáng vì xe đổ rác đang đi thu rác. Vào mùa đông ở những tiểu bang miền Bắc Mỹ 6 giờ sáng trời vẫn tối mù sương.
Phòng tôi có một thùng rác. Trong nhà tắm và vệ sinh có một thùng nữa.
Xuống khỏi cầu thang là phòng khách, cũng có một thùng rác. Từ phòng khách nếu
đi thẳng xuống nhà bếp, đó mới lại là thùng rác lớn. Nếu rẽ mặt là phòng làm
việc của cha xứ, cũng có một thùng rác. Cạnh đó là phòng làm việc của cha phó,
dĩ nhiên cũng phải có một thùng. Bên cạnh phòng cha phó là văn phòng của nhà xứ,
văn phòng chính, làm sao mà thiếu thùng rác được. Tính ra đã là 7 thùng rác.
Chưa tính những phòng khác và ngoài đầu nhà. Người ta cần nhiều thùng rác vì
cuộc đời, đâu cũng có rác.
Sáng nay, trời mù sương tuyết phủ. Gió lạnh bay về se sắt những nhánh cây khô. Từ đường phố còn vắng hoe, người phu đã đi dọn rác.
* * *
Chỉ mấy ngày, thùng rác trong căn bếp đã đầy.
Ðặc tính của rác là rác gọi ruồi nhặng tới. Rác sinh dòi bọ.
Trong những thứ làm bẩn cuộc đời có hai loại rác. Rác bên ngoài và rác trong tâm
hồn. Các Biệt phái và ký lục chất vấn Chúa:
Vì lẽ gì mà môn đệ Ngài lại không noi theo lệ truyền của tiền nhân, không rửa tay khi dùng bữa? (Mt. 15: 2). Chúa gọi dân chúng lại mà trả lời họ: Không có gì ở ngoài miệng vào có thể làm cho người ta ra dơ uế được. Nhưng chính các điều bởi miệng ra là những điều làm cho người ta ra dơ uế (Mt. 15: 11).
Sau đó Chúa giải thích thêm cho các môn đệ:
Ðiều tự người ta ra, điều đó làm cho người ta ra dơ uế. Vì tự bên trong, tự lòng người ta, mà xuất ra những suy tính xấu xa: Những dâm bôn, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo quyệt, phóng đãng, phân bì, gièm pha, kiêu hãnh, vô lương tri. Các điều xấu xa đó thay thảy đều tự bên trong mà xuất ra, và làm cho người ta ra dơ uế (Mt. 15: 17-20).
Con người đề cập đến rác rưởi bên ngoài thì Chúa lại soi dọi đến rác rưởi tâm hồn. Chúa đem nó ra ánh sáng vì loại rác này khó thấy, hoặc người ta không muốn thấy. Từ thái độ của Chúa về rác, có lẽ ta cũng cần có đôi chút thời giờ để gợi một vài ý:
� Gia đình tôi không thể sống mà thiếu thùng rác, vậy đâu là thùng rác thiêng
liêng của gia đình tôi?
� Bao đựng rác cũng mất tiền, tại sao tôi không tiết kiệm tiền mua bao bằng cách
cứ chứa rác trong nhà? Lý do nào làm tôi không nhạy cảm với rác tội lỗi?
� Khi đổ rác, người ta đổ tất cả rác trong nhà. Một thùng có mùi hôi, cả nhà vẫn
hôi. Người ta không thể để cho rác của mình gây tanh tưởi và lập luận đó là rác
của tôi, tôi có tự do giữ nó trong phòng tôi! Tôi có bao giờ cho những băn khoăn
về tội riêng của tôi có liên hệ tới người chung quanh trong gia đình là một băn
khoăn chính đáng?
� Người ta không đổ rác từ thùng này qua thùng phòng bên kia. Nhưng là đổ tất cả
ra ngoài. Tôi có thái độ nào với rác thiêng liêng trong gia đình tôi?
� Khi phát mùi tanh, khi có dòi bọ mà bao rác hãy còn vơi, người ta vẫn đem đi
đổ, sao không cứ đợi cho đầy? sao không cứ đợi đúng thời khóa biểu? Tôi hiểu thế
nào trong đời sống thiêng liêng với các thứ rác tinh thần và bí tích giải tội?
Tất cả sang trọng trong căn nhà của tôi chẳng có gì là quyến rũ để Chúa vào. Rác
tâm hồn đã biến nó thành ngôi mộ. "Các ông giống như những mồ mả quét vôi trắng,
bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy hài cốt và mọi mùi hôi thối" (Mt.
23: 27).
* * *
Lạy Chúa,
Ai cũng có rác. Nhà nào cũng có rác. Trong hai thứ rác, Chúa sợ rác rưởi trong tim con người. "Khốn cho các ngươi, vì các ngươi rửa sạch bên ngoài chén đĩa, còn bên trong thì chứa đầy cướp bóc và ô uế" (Mt. 23: 25). Căn nhà của con dù có trang trí mỹ thuật đến đâu mà đầy rác, thì đấy cũng chẳng thể là nơi sống được. Gia đình con có khi nào nhạy cảm với rác rưởi vô hình?
Dù đời đẹp đến đâu, nói đến đời cũng vẫn phải nói đến rác. Cuộc sống của con
cũng có biết bao nhiêu sợi chỉ thêu bạc, nhưng cũng chẳng thể tránh được những
đường may tội lỗi. Như vậy, xin cho con hàng ngày khi đổ rác biết suy tư về rác
cũng là đủ cho con lắm rồi.
Tr1ch tập sách "CON BIẾT CON CẦN CHÚA" của tác giả Nguyễn Tầm Thường
[1][1] Vicaire général de la cité du Vatican.
[2][2] Trong bài này, số để trong ngoặc đơn là số phân đoạn trong “Thông Điệp Deus Caritas est”.
[3][3] Hans Jonas, Le Principe Responsabilité, trad. J. Greisch, Flammarion, 1990.
[4][4] Xem B. Pascal, Pensées, 793 Brunschvicg biên tập.
[5][5] Trích bài giảng thứ sáu tuần thánh 14.4.2006 của cha Raniero Cantalamessa, OFM Cap. - Maranatha dịch.
[6][6] Mét., Z, 1, 1028a 10.
[7][7] Sel de la Terre, p. 274 : “Je pense que c’est réellement là le drame particulier de l’Histoire, que dans la multiplicité de fronts qui lui font face, elle se laisse réduire finalement à la formule : oui ou non à l’amour”.
[8][8] Muối cho đời, bd. việt ngữ của Trần Hoành và Phạm Hồng Lam, 2006, trg. 294.
[9][9] Le Sel de la Terre, p. 273 : “L’histoire est dans son ensemble le combat entre l’amour et l’incapacité d’aimer, entre l’amour et le refus de l’amour”.
[10][10] trích Zenit, cuộc phỏng vấn này cũng được đài Vatican phát ngày 13/8/2006.
[11][11] Gustavo Guittierrez, A Theology of Liberation : History, Politics and Salvation, trans. Sister Caridad Inda and John Eagleson, Orbis Books, 1988.
[12][12] Trong bức thư gửi độc giả tuần báo “Gia đình Kitô” để giải thích Thông Điệp, Đức Thánh Cha cho biết tất cả Thông Điệp chỉ nhằm trả lời cho hai câu hỏi cụ thể và đơn giản : “Người ta có thể yêu muốn Thiên Chúa thật không ?” và “Chúng ta có thể yêu mến thật sự người lân cận, xa lạ với chúng ta, hoặc không dễ thương chút nào không ?” p. 3-4.
[13][13] Hannah Arendt, Condition de l’homme moderne, Calmann-Lévy, 1983.
[14][14] ibid,. note 1, p. 308 : “Le préjugé répandu est aussi fréquent que les histoires sentimentales vient sans doute de ce que la poésie a fait notre éducation. Mais les poètes nous trompent ; ils sont les seuls pour qui l’amour soit une expérience non seulement cruciale mais même indispensable ; ce qui les autorise à la croire universelle”.
[15][15] Franz Rosenzweig, Der Stern der Erlosung, Gesammelt Schriften, La Haye, Nijhoff, 1976. Trad. A. Derzcanski et J.L. Schlegel, L’Etoile de la Rédemption, Seuil, Paris, 1982.
[16][16] x. L’Etoile de la Rédemption, pp. 206-222.
[17][17] x. L’Etoile de la Rédemption, pp. 268-281.
[18][18] Hans Jonas, Das Prinzip Verantwortung : Versuch einer Ethik fur die technologische Zivilisation, Frankfurt am Main, 1979. trad. J. Greisch, Le Principe Responsabilité, Flammarion, 1990.
[19][19] Emmanuel Levinas, Totalité et Infini. Essai sur l’extériorité. La Haye, Nijhoff, 1971.