Web site:www.tinvui.org E-mail : bantreconggiao@yahoo.com
Sứ Điệp của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI Cho Ngày Thế Giới Di Dân và Tỵ Nạn lần thứ 93 ngày
NGÀY TRUYỀN THỐNG LẦN THỨ NHẤT
GIÁO XỨ PHÚ LONG – GIÁO PHẬN PHÚ CƯỜNG
ĐÔI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI ĐỨC CHA GIACÔBÊ HUỲNH VĂN CỦA
Khởi Công Xây Dựng Con Ðường Ði Lên Tượng Ðài Ðức Mẹ Tàpao, Giáo phận Phan Thiết.
TÀI LIỆU TUẦN THƯỜNG HUẤN LINH MỤC GIÁO PHẬN ĐÀLẠT 2006
ĐÔI ĐIỀU VỀ BÁC ÁI MỤC VỤ NHÂN ĐỌC THÔNG ĐIỆP DEUS CARITAS EST
Bài Tin Mừng: Ga 2,1-11
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, có tiệc cưới tại Cana xứ Galilêa. Và có mẹ của Chúa Giêsu ở đó. Chúa Giêsu và các môn đệ Người cũng được mời dự tiệc cưới. Và bỗng thiếu rượu, mẹ Chúa Giêsu nói với Người: "Họ hết rượu rồi". Chúa Giêsu nói với mẹ: "Hỡi bà, Con với bà có can chi đâu, giờ Con chưa đến". Mẹ Người nói với những người giúp việc: "Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo". Ở đó có sáu chum đá, dùng vào việc thanh tẩy của người Do-thái, mỗi chum đựng được hai hoặc ba thùng nước. Chúa Giêsu bảo họ: "Hãy đổ nước đầy các chum". Họ đổ đầy tới miệng. Và Chúa Giêsu bảo họ: "Bây giờ hãy múc đem cho người quản tiệc!" Và họ đã đem đi. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu, ông không biết tự đâu ra, nhưng những người giúp việc đã múc nước thì biết, ông mới gọi tân lang mà nói: "Ai cũng đem rượu ngon ra trước, khi khách ngà ngà thì mới đem rượu xoàng hơn. Còn ông, ông lại giữ rượu ngon tới giờ này". Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa, và đã tỏ vinh quang Người và các môn đệ Người tin Người.
<Sau đó Người xuống Capharnaum làm một với mẹ Người, anh em (Người) và môn đệ của Người, nhưng các Ngài chỉ lưu lại ở đó ít ngày thôi.> Đó là lời Chúa.
Để suy niệm bài Tin Mừng hôm nay, tôi tưởng tượng mình là một trong những gia nhân phục vụ tiệc cưới hôm đó. Tôi thật sự ngạc nhiên trước dấu lạ 6 chum nước do chính tay chúng tôi vừa đổ vào lại hóa thành rượu ngon! Hơn nữa, diễn tiến của dấu lạ rất đơn giản và kín đáo vì chỉ có chúng tôi chứng kiến câu chuyện trao đổi của hai mẹ con Maria và Giêsu và âm thầm làm theo những gì Giêsu bảo mới biết rõ vấn đề.
Tôi có cảm nhận rằng: dấu lạ đầu tiên nước hóa thành rượu mà Đức Giêsu làm hôm nay, khởi đi từ tấm lòng yêu thương tế nhị của Mẹ Người dành cho đôi tân hôn và gia đình hai họ hôm ấy. Khi có được cảm nghiệm này, ngay lập tức tôi liên hệ tới cuộc sống đạo của người Kitô hữu hiện nay với xác tín rằng: nếu chúng ta biết sống theo mẫu gương của Đức Maria, Đức Giêsu cũng sẽ tiếp tục làm nhiều dấu lạ cho những người đang sống bên cạnh chúng ta.
1. Khởi đi từ tấm lòng nhạy bén và đồng cảm
Cùng đi dự tiệc cưới như nhiều người khác, nhưng Mẹ Maria đã quan sát và tế nhị nhận ra tiệc cưới hết rượu mà ngay người chủ tiệc cũng không biết. Mẹ đặt mình là người trong cuộc để tìm cách trợ giúp.
Trong đời sống gia đình, nếu chúng ta biết dành thời gian gần gũi, quan tâm đến nhu cầu của nhau, chúng ta cũng sẽ phát hiện ra tình trạng “thiếu rượu” của những người thân yêu của chúng ta: ông bà trong tuổi già bệnh tật, bất lực đang cần con cháu nói chuyện, giúp đỡ, để đỡ cô đơn và đang cần rất nhiều ơn ủi an để khơi sáng niềm tin trong tâm hồn; cha mẹ đang gặp bế tắc về nghề nghiệp, kinh tế, giáo dục; con cái đang cần sự chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm khôn ngoan để đỡ buồn phiền và biết định hướng đúng; con cái mỗi đứa một nhu cầu: sức khỏe, bạn bè, học hành, cách ứng xử … đang cần sự thông cảm, hướng dẫn để được hiểu biết, sống đạo đức, kính sợ Chúa, có khả năng vượt qua cám dỗ thách đố hằng ngày, lớn lên thành người và thành con Chúa.
Như Mẹ Maria, mỗi thành viên trong gia đình chúng ta hãy sống yêu thương nhau khởi đi từ những quan tâm để ý đến nhau trong những chi tiết nhỏ bé hằng ngày. Khi đó, chúng ta sẽ thấy có nhiều điều chúng ta có thể giúp đỡ ngay, nhưng cũng có những vấn đề vượt quá khả năng mình, chúng ta cũng hãy noi gương Mẹ để kể cho Đức Giêsu về thực trạng đó.
2. Mẹ đặt niềm tin vững chắc nơi Đức Giêsu
Sau khi đã quan sát thấy rõ vấn đề, Mẹ Maria đã kín đáo báo cho Chúa Giêsu biết tình trạng khẩn cấp này bằng một câu nói hết sức đơn giản và rõ ràng: “Họ hết rượu rồi”. Tại sao Mẹ lại nói với Chúa Giêsu mà không nói với bất cứ ai khác. Thưa, vì Mẹ biết Đức Giêsu là con Thiên Chúa và Mẹ vững tin rằng: tình yêu của Người sẽ giúp đỡ đôi tân hôn trong lúc bế tắc này. “Họ hết rượu rồi”, lời của Mẹ Maria cần được chúng ta lập lại mỗi ngày để chuyển cầu cho từng thành viên trong gia đình và những ai chúng ta thấy được nhu cầu cấp thiết của họ trong đời sống hằng ngày.
Là những bậc cha mẹ trong nền kinh tế thị trường toàn cầu hóa hiện nay, làm sao chúng ta không cảm thấy bức xúc khi con cái chúng ta chỉ biết ưu tiên cho việc học hành, nghề nghiệp và những nhu cầu giải trí, còn việc cầu nguyện, học giáo lý và tham dự sinh hoạt phụng vụ thì xem ra mỗi ngày một giảm sút. Ngay cả khi lời nhắc nhở khuyên bảo của chúng ta dường như không được tôn trọng nếu không muốn nói là không còn tác dụng, chúng ta cũng đừng nản lòng, tuyệt vọng. Noi gương Mẹ Maria, chúng ta hãy đến với Đức Giêsu và đơn giản thưa với Người: “Họ hết rượu rồi”.
Chúng ta hãy vững tin rằng, Đức Giêsu trong mọi thời đại vẫn đang đi tìm những con chiên lạc, đang đồng bàn với những người thu thuế, tội lỗi và kiên nhẫn mời gọi những người “anh cả” vào dùng tiệc với người em phung phá trở về, vì Người là Đấng Cứu Độ, chỉ mình Người mới có thể mang rượu đức tin, đức cậy và đức mến cho con người.
3. Phép lạ đã xảy ra và tiệc cưới tràn đầy hoan lạc
Mặc dầu Đức Giêsu thưa với Đức Mẹ giờ của con chưa đến, nhưng ngay sau đó, khi nghe Đức Mẹ nói với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ làm như vậy”, Đức Giêsu đã làm theo lời của Mẹ Người. Điều này cho chúng ta thấy: tình yêu và lòng tin tưởng của Đức Maria đã cộng tác vào sứ vụ của Đức Giêsu và làm cho Giờ Cứu Độ của Người được thực hiện theo nhu cầu của chúng ta. Tin Mừng cho thấy niềm tin của Mẹ Maria đã dẫn đến phép lạ nước lã hóa rượu ngon làm cho tiệc cưới càng về sau càng tràn đầy niềm vui hoan lạc. Và chính phép lạ đầu tiên này đã cũng cố niềm tin cho các môn đệ.
Lạy Mẹ Maria, toàn cảnh Tin Mững hôm nay cho thấy Mẹ ở trong tư thế rất âm thầm, nhắc bảo mọi người tin vào Chúa Giêsu để có được hạnh phúc đích thực. Mẹ là nhịp cầu để dẫn chúng con tới đức tin vì cả cuộc đời Mẹ sống bằng đức tin. Nhờ tin vào lời Kinh Thánh, Mẹ đã đón nhận lời giải thích của Sứ thần để dám thưa ‘xin vâng’ trước lệnh truyền của Thiên Chúa. Và từ đó, hơn ai hết, Mẹ cảm được hoa trái của đức tin là tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa luôn ở với Mẹ. Xin Mẹ giúp chúng con luôn biết đặt niềm tin nơi Đức Giêsu, sống yêu thương, quan tâm đến nhu cầu của nhau, cầu nguyện cho nhau, để Đức Giêsu có thể thực hiện phép lạ trong đời sống thường ngày. Nhờ đó, chúng con có thể nâng đỡ niềm tin cho anh chị em chúng con, ngay cả các linh mục và tu sĩ trong công tác mục vụ giáo xứ.
Nữ tu Têrêsa Phạm Thị Oanh
Dòng Đaminh Tam Hiệp
Năm nay tôi 80 tuổi. Nhìn lại Hội Thánh Việt Nam trong cuộc đời đã qua của tôi, tôi thấy Hội Thánh của tôi thực vất vả. Có thể ví cuộc đời ấy như một chuyến đi đầy trắc trở.
Nhưng những gian nan trắc trở đó đã được vượt qua. Hơn thế nữa, đức tin được tôi luyện đã đào tạo nên nhiều con người biết sống công bình bác ái. Nhờ đâu? Tất nhiên là nhờ ơn Chúa. Nhưng chắc chắn cũng nhờ nhiều tín hữu, nhất là nhiều vị lãnh đạo trong Hội Thánh Việt Nam đã biết khiêm tốn cộng tác với ơn Chúa. Các vị đã cùng nhau tiến lên trong mọi chặng đường lịch sử khác nhau với tâm hồn sáng suốt.
Bây giờ, Đạo đang bước vào một giai đoạn mới của lịch sử: Giai đoạn hội nhập và cạnh tranh. Tôi vui, nhưng cũng lo. Với kinh nghiệm của một người, vừa già về tuổi đời, vừa già về tuổi mục vụ, tôi xin phép chia sẻ một nỗi lo như một cảnh báo. Đó là hãy coi chừng về một chứng bệnh nguy hiểm cho Đạo. Chứng bệnh này thường xuất hiện trong thời cạnh tranh giữa các giá trị.
Chứng bệnh đó là bệnh mù quáng.
Mù quáng trong sống đạo được Kinh Thánh đề cập đến nhiều cách. Ở đây tôi chỉ nêu lên bốn dạng mù quáng dễ gặp thấy.
1/ Mù quáng, vì không nhận ra cái chính, cái phụ
Chúa Giêsu có lúc đã đau buồn phải nói sự thực với các kinh sư và Pharisêu: "Khốn cho các ngươi, những kẻ dẫn đường mù quáng... Các ngươi nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề luật là công bình, lòng thương xót và sự thành tín... Hỡi những kẻ dẫn đường mù quáng. Các ngươi lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà" (Mt 23,23-24).
Những lời Chúa Giêsu phiền trách trên đây xem ra đang ứng nghiệm ở nơi này nơi nọ. Tình hình đạo ở những chỗ đó được tiếng là thêm mở mang, thêm hoạt động, thêm luật lệ. Nhưng lòng đạo thực ra chỉ được xây dựng bằng những giá trị phụ.Người ta gọi đạo kiểu đó là đạo hình thức, đạo gánh nặng, đạo bề ngoài, đạo phong trào. Nhưng không thiếu người tự mãn với lối sống đạo như thế. Chúa thì dứt khoát không hài lòng. Người gọi những người giữ đạo kiểu đó là mù quáng. Cái làm cho sự mù quáng đó thành nguy hiểm, đó là sự nó tạo nên một ảo tưởng sai lầm, đưa con người vào ẩn trú trong đó. Hơn nữa, nó càng nguy hiểm, khi lôi kéo, thậm chí ép buộc nhiều người khác đi vào não trạng sai lạc về đạo, bám vào một nếp sống đạo dễ dàng biến chất. Hy vọng cảnh đó sẽ không nhiều tại Việt Nam.
2/ Mù quáng, vì không nhận ra đoàn lũ quỷ dữ rình rập mình thường xuyên
Trong thư thứ nhất của thánh Phêrô gởi các giáo đoàn, Ngài đã viết: "Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì quỷ dữ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé" (1 Pr 5,8).
Danh từ quỷ dữ mà thánh Phêrô dùng ở đây không những chỉ đích danh các tướng quỷ và thuộc hạ ác ôn vô hình luôn rảo quanh chúng ta, mà cũng ám chỉ các lực lượng xấu hữu hình xung quanh ta. Đó là những thứ văn hoá đồi truỵ, những phong trào gây hận thù chia rẽ, những nhóm đầu tư đủ loại mưu mô quỷ quyệt, những lối sống kích thích huỷ hoại luân lý, những định kiến hẹp hòi, kiêu căng.
Thánh tông đồ Phêrô nói rõ với tín hữu là chỉ với tiết độ và tỉnh thức, người ta mới nhận diện được mặt thực của quỷ dữ và mới đối phó được với chúng một cách có hiệu quả. Nhưng thực tế nhiều nơi cho thấy sự tiết độ và tỉnh thức có vẻ như đang bị lơ là. Do đó mà không ít người trở nên dần dần mù quáng. Họ không những không nhận ra đoàn lũ các loại quỷ dữ đang hoạt động ráo riết xung quanh mình, mà còn nhởn nhơ hoà nhập và tích cực cộng tác vào những cái xấu của chúng.
3/ Mù quáng, vì không biết nhận xét thời đại mình sống
Chúa Giêsu có lần đã cảnh báo nặng lời: "Những kẻ đạo đức giả kia, cảnh sắc trời đất, thì các ngươi biết nhận xét, còn thời đại này, sao các ngươi lại không biết nhận xét? Sao các ngươi không tự mình xét xem cái gì là phải" (Lc 12,56-57).
Lời Chúa phán trên đây, nếu áp dụng vào nhiều người có đạo thời nay, thì thiết tưởng không sai. Bởi vì theo các nơi hành hương và huấn giáo, thì thời nay có hai việc Chúa muốn ta làm:
Việc thứ nhất là sám hối, đền tội, đổi mới bản thân ta.
Việc thứ hai là tin vào Thiên Chúa giàu tình yêu thương xót và hãy đến với Người bằng những việc ta xót thương người khác, như Chúa thương xót ta.
Thế nhưng, cách sống của bao người tín hữu hôm nay tỏ ra mình chưa nhìn thấy rõ bao con đường Chúa đang đợi họ trong thời đại này.
4/ Mù quáng, vì không nhận ra Chúa đến và ở giữa lịch sử nhân loại
Phúc Âm thánh Gioan viết: "Ngôi Lời ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng thế gian lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón Người" (Ga 1,10-11).
Đọc mấy dòng trên, chúng ta cảm thấy buồn. Người nhà của Chúa là chính những người công giáo chúng ta. Nhưng biết đâu biết bao lần Chúa đến với ta, mà ta không đón nhận Người. Người đến qua Kinh Thánh, qua các bí tích, qua Hội Thánh. Ngoài ra, Người cũng đến qua nhiều ngả khác, như qua các biến cố lịch sử, qua các thành công và thất bại của ta, qua các nền văn hoá chất lượng, qua các sách báo và gương sáng nhắc nhở của cá nhân và tập thể, trong và ngoài Đạo ta.
Nhưng, chúng ta nhiều khi tự mãn, không nhìn và không muốn nhìn, cho nên kể như tự mình trở nên mù quáng. Mọi thứ mù quáng đều đáng tiếc. Nhưng mù quáng không nhìn nhận Chúa đến với ta, đó quả là một tai hoạ kinh khủng.
Kinh nghiệm tại nhiều nơi cho thấy: Đạo Chúa thời khó thì chất lượng phát triển. Đạo Chúa thời dễ thì chất lượng suy thoái.
Chúng ta cũng nên nhìn sự phát triển của các tôn giáo bạn hiện nay trong nước ta và tại các nước xung quanh, nói chung là tại Á châu. Tại nhiều nước Á châu, văn hoá dân tộc là văn hoá một tôn giáo nào đó phủ kín khắp nước. Tất nhiên văn hoá đó và tôn giáo đó không phải là công giáo.
Ai trong chúng ta cũng có nhiều giới hạn. Nên chúng ta rất cần cầu nguyện.
Thiết tưởng vấn đề này nên được nhận thức sớm, với những nghiên
cứu mới, sáng kiến mới, dấn thân mới. Kẻo sẽ quá muộn. Vì lịch sử đất nước,
khu vực và thế giới, đang chuyển biến rất mau, với những bất ngờ dễ sợ.
+ ĐGM GB Bùi Tuần
Anh Chị Em thân mến!
Nhân dịp sắp đến Ngày Thế Giới của Thánh Phần Di Dân và Tỵ Nạn, và nhìn ngắm Thánh Gia Nazarét, hình ảnh của tất cả mọi gia đình, tôi muốn mời anh chị em hãy suy nghĩ về tình trạng của gia đình di dân. Thánh Ký Mathêu đã thật lại rằng sau khi Chúa Giêsu giáng sinh ít lâu thì Thánh Giuse buộc phải lên đường sang Ai Cập vào ban đêm, mang con trẻ và mẹ của người đi với mình, để thoát cuộc bách hại của v ua Hệrôđê (x Mt 2:13-15). Khi dẫn giải về đoạn Phúc Âm này, vị Tiền Nhiệm đáng kính của tôi là Vị Giáo Hoàng Tôi Tớ Chúa Piô XII đã viết vào năm 1952 như sau: ‘Gia đình Nazarét lưu vong, Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse, những người di dân và tìm nơi tị nạn ở Ai Cập để thoát khỏi cơn giận dữ của một bạo vương, là mô phạm, mẫu gương và sự nâng đỡ của tất cả mọi người di dân và hành hương thuộc mọi thời đại và mọi quốc gia, của tất cả mọi người tỵ nạn thuộc bất cứ hoàn cảnh nào, thành phần, vì bị bách hại và như cầu, buộc phải từ bỏ quê hương của mình, các người thân thuộc của mình, hàng xóm láng giềng của mình, bạn bè thân thiết của mình, di chuyển tới một mảnh đất xa lạ’ ("Exsul familia," AAS 44, 1952, 649). Nơi cái bất hạnh mà Thánh Gia đã trải qua ấy, buộc phải đi tỵ nạn ở Ai Cập, chúng ta có thể thoáng thấy được tình trạng đớn đau của tất cả mọi người di dân sống, nhất là thành phần tỵ nạn, lưu đầy, di tản, những người phân tán nội quốc, những ai bị bách hại. Chúng ta có thể thoáng thấy những khó khăn mà hết mọi gia đình di dân trải qua, những khốn khó và thấp hèn, tình trạng thiếu hụt và mong manh của hằng triệu triệu người di dân, tỵ nạn và phân tán nội địa. Gia Đình Nazarét cho thấy cái hình ảnh của Thiên Chúa được bảo toàn nơi tâm điểm của hết mọi gia đình nhân loại, cho dù gia đình này có bị méo mó và suy yếu bởi vấn đề di dân.
Đề tài cho Ngày Thế Giới c ủa Thành Phần Di Dân và Tỵ Nạn tới đây là “Gia Đình Di Dân “ là những gì nối tiếp với đề tài của năm 1980, 1986 và 1993. Nó có ý nhấn mạnh hơn nữa việc dấn thân của Giáo Hội chẳng những quan tâm tới cá nhân người di dân mà còn cả gia đình của họ nữa, một nơi và là nguồn văn hóa sự sống và là một yếu tố cho việc hội nhập các thứ giá trị. Gia đình của người di dân gặp nhiều khó khăn. Sự xa cách nhau nơi các phần tử trong gia đình và việc tái đoàn tụ bất thành thường gây ra tình trạng đổ vỡ những liên hệ ban đầu. Những mối liên hệ mới được thành hình cùng với những cảm mến mới xuất hiện. Một số người di dân đã quên đi quá khứ của mình cùng nhiệm vụ của họ, khi họ bị thử thách nặng nề bởi tình trạng xa cách và cô độc lẻ loi. Nếu gia đình di dân không nắm được cơ hội của việc bao gồm và dự phần, thì khó lòng mong đợi nó phát triển một cách hòa hợp. Công Ước Quốc Tế về việc bảo vệ các quyền lợi của tất cả mọi nhân công di dân cùng gia đình của họ, một bản công ước được áp dụng vào ngày 1/7/2003, nhắm đến mục đích bênh vực thành phần lao động nam nữ di dân cùng gia đình riêng tư của họ. Điều này có nghĩa là giá trị của gia đình được nhìn nhận cả ở lãnh vực di dân , một lãnh vực hiện nay trở thành một hiện tượng làm nên xã hội của chúng ta. Giáo Hội phấn khích việc chuẩn nhận những phương tiện về luật lệ quốc tế nhắm đến chỗ bênh vựïc quyền lợi của những người di dân, tỵ nạn và gia đình của họ, và qua những Tổ Chức cùng Hiệp Hội của mình, cống hiện việc tranh đấu càng ngày càng trở nên cần thiết. Để đạt được mục đích ấy, Giáo Hội đã mở các Trung Tâm để lắng nghe những người tỵ nạn, những Nhà để tiếp đón họ, những Văn Phòng để phục vụ con người và các gia đình, cùng những hoạt động khác được đề ra để đáp ứng các nhu cầu gia tăng nơi lãnh vực ấy.
Nhiều điều đã được thực hiện cho việc hội nhập của các gia đình thành phần di dân, mặc dù vẫn còn nhiều cái chưa làm. Có những thứ khó khăn thực sự liên quan tới một số ‘những đường lối bênh vực’ liên quan tới thế hệ đầu tiên của thành phần di dân, thành phần thế hệ này có nguy cơ trở thành một chướng ngại vật cản trở tình trạng trưởng thành hơn của giới trẻ thuộc thế hệ thứ hai. Đó là lý do tại sao cần phải có những can thiệp về lập pháp, tư pháp và xã hội để làm cho dễ dàng hơn việc hội nhập này. Trong những thời gian gần đây, xẩy ra vấn đề gia tăng con số nữ giới rời bỏ bản quốc của mình để tìm kiếm cuộc sống tốt đẹp hơn, hướng tới những chân trời nghề nghiệp hứa hẹn hơn. Tuy nhiên, cũng không ít nữ giới đã đi tới chỗ trở thành nạn nhân của việc buôn người và của nạn mãi dâm. Trong vấn đề đoàn tụ gia đình, các nhân viên cán sự xã hội, nhất là những nữ tu, có thể mang lại việc dàn xếp quí hóa đáng chúng ta càng ngày càng cảm thấy biết ơn.
Về vấn đề hội nhập của các gia đình di dân, tôi cảm thấy có nhiệm vụ lôi kéo sự chú trọng của anh chị em tới các gia đình của thành phần tỵ nạn, những gia đình sống trong những tình trạng trở nên tồi tệ hơn so với quá khứ, cũng đặc biệt liên quan cả tới vấn đề đoàn tụ gia đình nữa. Nơi những trại tỵ nạn của họ, ngoài những khó khăn về vấn đề cung cấp nhu cầu, cùng với những khó khăn có tính cách cá nhân liên quan tới tình trạng căng thẳng đau thương và lo lắng gây ra bởi những kinh nghiệm thảm thương họ gặp phải, đôi khi nữ giới và trẻ em còn có nguy cơ bị khai thác tình dục nữa, như một phương tiện để sống còn. Cần phải thực hiện việc mục vụ ân cần trong những trường hợp như thế. Ngoài việc trợ giúp có thể chữa lành các vết thương lòng, việc chăm sóc mục vụ cũng còn phải cống hiến cả sự nâng đỡ hỗ trợ của cộng đồng Kitô hữu nữa, một sự hỗ trợ có thể phục hồi thứ văn hóa tôn trọng và tìm lại được thứ giá trị yêu thương thực sự. Cần khuyến khích những ai cảm thấy bị tan nát tâm can lấy lại được niềm tin tưởng vào chính bản thân họ. Phải làm mọi sự để bảo đảm quyền lợi và phẩm giá của các gia đình, cũng như để làm cho họ vững tâm về những tiện nghi về nhà cửa theo nhu cầu của họ. Thành phần tị nạn cần phải được vun trồng một thái độ cởi mở và tích cực đối với xã hội tiếp nhận họ, và tỏ ra chủ động sẵn sàng chấp nhận những cơ hội tham dự vào việc cùng nhau xây dựng một cộng đồng biết hội nhập để trở thành một ‘ngôi nhà chung’ cho tất cả mọi người.
Trong số thành phần di dân, có thành phần cần phải được đặc biệt chú ý, đó là thành phần sinh viên từ các quốc gia khác, thành phần xa nhà, không đủ kiến thức về ngôn ngữ, có những lúc chẳng có bạn bè và thường có một học bổng không đủ cho các nhu cầu của họ. Tình trạng của họ càng tệ hơn nữa nếu họ lập gia đình. Qua những tổ chức của mình, Giáo Hội dồn mọi nỗ lực để cung cấp việc hỗ trợ làm bớt khổ đau cho tình trạng thiếu vắng gia đình nơi những sinh viên trẻ trung này. Giáo Hội giúp họ hội nhập vào các thành phố tiếp nhận họ, bằng việc giúp họ liên hệ với các gia đình có thể sẵn sàng tiếp đón họ và giúp họ dễ dàng hiểu biết nhau. Như tôi đã có dịp nói là việc giúp đỡ cho các sinh viên ngoại quốc là ‘một lãnh vuưc quan trọng của hoạt động mục vụ… Thật vậy, giới trẻ rời bỏ quê hương của mình để học hành gặp phải nhiều vấn đề và n hất là nguy cơ bị khủng hoảng về căn tính” (L'Osservatore Romano, 15 December 2005).
Anh Chị Em thân mến, chớ gì Ngày Thế Giới của Thành Phần Di Dân và Tỵ Nạn trở thành một cơ hội hữu ích cho việc gia tăng ý thức, trong cộng đồng giáo hội cũng như nơi dư luận quần chúng, về các nhu cầu cùng với các vấn đề, cũng như các khả năng tích cực của các gia đình di dân. Tôi đặc biệt nghĩ tới những ai đang đặc biệt tham dự vào hiện tượng di dân to lớn này, cũng như đến những ai nới rộng công sức mục vụ của mình để phục vụ việc đổi dời di chuyển này của con người. Những lời của tông đồ Phaolô ‘caritas Christi urget nos – tình yêu Chúa Kitô thôi thúc chúng ta’ (2Cor 5:14), là những gì thúc đẩy chúng ta hiến thân ưu tiên cho những người anh chị em khẩn trương nhất của chúng ta. Với những cảm thức ấy, tôi xin ơn trợ giúp thần linh xuống trên mỗi một người và ưu ái ban phép lành Tòa Thánh đặc biệt cho tất cả mọi người.
Tại Vatican ngày 18/10/2006
Biển Đức XVI
Đaminh Maria Cao tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ mạng điện toán toàn cầu của
Tòa Thánh
Theo thoidiemmria.net
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/messages/migration/documents/hf_ben-xvi_mes_20061018_world-migrants-day_en.html
5 giờ sáng ngày 9.1.2007, nhân lễ giỗ lần thứ 12 của Đức Cha Giacôbê Huỳnh Văn Của (1915-1995), cựu Giám mục Phó giáo phận Phú Cường (1976-1979), Đức Cha Phêrô Trần Đình Tứ đã về giáo xứ Phú Long chủ sự thánh lễ đồng tế cùng nhiều linh mục, tu sĩ và giáo dân trong giáo phận để cầu nguyện cho Đức Cha Giacôbê, người đã có công lớn đối với giáo xứ Phú Long. Dịp này, giáo xứ Phú Long cũng nhận ngày 9.1 hàng năm làm ngày Truyến Thống “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” của giáo xứ. Vì thế, đây cũng là thánh lễ cử hành ngày Truyền Thống lần thứ I của giáo xứ Phú Long.
Mãnh đất mà nhà thờ giáo xứ Phú Long đang tọa lạc, từ năm 1967 đã được Đức Cha Giacôbê mua lại của nhiều người, (đây là mãnh đất rất rộng lớn. Đến sau năm 1975 bị chiếm vụng nhiều. Hiện tại chỉ còn khuôn viên nhà thờ và một thửa đất 700 thước vuông phía trước nhà thờ. Thửa đất này vừa mới được giáo xứ Phú Long rào lại ngày 22.10.2006) để xây dựng thành Trung Tâm Bác Ái Lái Thiêu – Trung Tâm Foyer de Charité. Năm 1993, do nhu cầu của giáo phận, Đức Cha Luis Hà Kim Danh đã cho chỉnh trang lại thành Trung Tâm Nghỉ Dưỡng của các linh mục giáo phận Phú Cường.
Tiền thân của nhà thờ giáo xứ Phú Long là nhà thờ họ đạo Tân Thới (trực thuộc giáo xứ Lái Thiêu), do Cha Tôma Phan Minh Chánh, chánh xứ Lái Thiêu quản nhiệm. Do thời gian gần đây giáo dân, nhất là giới trẻ công nhân di dân từ nhiều miền đất nước đổ về kiếm kế sinh nhai, nhà thờ họ đạo Tân Thới trở nên chật chội. Hơn nữa, vì ở gần chợ Lái Thiêu và bị lấn chiếm nhiều đến nỗi nhà thờ trở nên quá ồn ào, không còn khuôn viên riêng để sinh hoạt đạo đức. Vì thế, Đức Cha Phêrô Trần Đình Tứ quyết định dời nhà thờ họ đạo Tân Thới về Trung Tâm Bác Ái Lái Thiêu. Ngày 13.11.2004, thánh lễ đặt viên đá đầu tiên cho nhà thờ mới, đánh dấu thành công ban đầu sau nhiều năm trăn trở và hy vọng. Ngày 17.6.2005, họ đạo Tân Thới được Đức Cha Phêrô nâng lên hàng giáo xứ và đổi tên thành giáo xứ Phú Long. Sau một năm sáu tháng, ngôi nhà thờ mới của giáo xứ Phú Long đã hoàn tất. Ngày 21.5.2006, Đức Cha Phêrô Trần Đình Tứ đã về dâng thánh lễ khánh thành cung hiến nhà thờ giáo xứ Phú Long. Ngày 15.8.2006, Đức Cha Phêrô quyết định cắt cử cha Gioan Baotixita Nguyễn Minh Hùng, đang làm cha phó giáo xứ Búng, làm cha sở tiên khởi nhà thờ Phú Long. Ngày 29.8.2006, cha Gioan Baotixita Nguyễn Minh Hùng chính thức về nhận nhiệm sở mới.
Để cụ thể hóa việc biết ơn trong ngày Truyền Thống lần đầu tiên của giáo xứ Phú Long, vị Đại Diện giáo xứ đã xướng danh các Giám mục, các linh mục đã từng lưu dấu nơi Trung Tâm Bác Ái và Nghỉ Dưỡng này:
1. Đức Cha Giuse Phạm Văn Thiên, Giám mục tiên khởi giáo phận Phú Cường.
2. Đức Cha Luis Hà Kim Danh.
3. Cha Giuse Thịnh.
4. Cha Antôn Nguyễn Văn Tuyên (dòng Chúa Cứu Thế).
5. Cha Gioan Đinh Tiến Hoàng.
6. Cha Phêrô Tô Đức Bạch (hay Tôn Đức Bạc).
7. Cha Giuse Huyền Linh.
8. Cha Tôma Nguyễn Toàn Quyền.
9. Cha Phaolô Võ Văn Bộ.
Trong phần huấn từ, Đức Cha Phêrô đã ngỏ với cộng đoàn dân Chúa giáo xứ Phú Long: “Chúng ta không quên ơn tiền nhân. Đó là một nghĩa cử cao đẹp, một bài học giáo dục về lòng biết ơn không chỉ cho người thời đại mà còn cho muôn thế hệ đời sau. Đây là nhà của anh chị em. Nhà này do công khó cha ông lập ra. Là con cháu của các ngài, anh chị em phải gìn giữ lấy. Anh chị em gìn giữ bằng nỗ lực sống đức tin ngoan cường và bày tỏ đức tin nơi cuộc sống hằng ngày của anh chị em. Anh chị em cũng hãy gìn giữ bằng sự cố gắng tiếp tục xây dựng và phát triển cơ sở vật chất đã được trao vào tay anh chị em”.
Biết ơn Thiên Chúa và biết ơn những người đã làm ơn cho mình, trong phần cám ơn, vị Đại Diện giáo xứ Phú Long nói lên quyết tâm vâng lời Đức Giám mục giáo phận, ra sức gìn giữ gia sản đức tin và tất cả tài sản mà cha ông để lại.
Từ nay, ngày Đức Cha Giacôbê Huỳnh Văn Của được Chúa gọi về, không còn chỉ là ngày giỗ tưởng nhớ Đức Cha mà thôi, nhưng sẽ trở thành ngày Truyền Thống của giáo xứ, đễ mãi mãi giáo xứ không chỉ ghi nhớ công ơn Đức Cha, mà còn ghi nhớ tất cả những ai đã chung sức, chung lòng dày công xây dựng và tôn tạo mãnh đất, nhà thờ và giáo xứ Phú Long này.
Đức Cha Giacôbê Huỳnh Văn Của sinh ngày 1.11.1915. Lớn lên, ngài dâng mình cho Chúa trong ơn gọi tu trì và trở thành linh mục của Chúa ngày 20.9.1941. Sau khi được thụ phong linh mục, Cha Giacôbê Huỳnh Văn Của đã phục vụ tại nhiều giáo xứ như: Tha La, Gò Dầu, Hiệp Thạnh, Búng, Bến Sắn, Lái Thiêu… Cha Giacôbê đã từng được chọn làm Cha Tổng Đại Diện của giáo phận Phú Cường.
Ngay từ những ngày còn phục vụ tại giáo xứ Búng (1966 – 1967), Ngài đã nghĩ đến việc thành lập một Trung Tâm Bác Ái cho giáo phận. Vì thế, ngài đã bắt đầu tìm địa điểm, mua đất chuẩn bị xây cất nhà cửa.
Đến năm 1967, sau khi nhận nhiệm vụ làm cha sở giáo xứ Lái Thiêu, Cha Tổng Đại Diện Giacôbê Huỳnh Văn Của đã có trong tay một miến đất rộng. Như ước nguyện, Cha đã thành lập một trung tâm gọi là Trung Tâm Bác Ái Lái Thiêu. Tại Trung Tâm này, Cha đã dang tay đón nhận không biết bao nhiêu người neo đơn túng thiếu. Đặc biệt, nơi đây cũng là địa điểm tĩnh tâm, sám hối, hâm nóng hồn người dành cho mọi giáo dân có nhu cầu, cho linh mục đoàn giáo phận và cho tất cả những linh mục thuộc giáo phận khác muốn thay đổi địa bàn làm việc… Tấm lòng rộng mở của Cha Tổng Đại Diện Giacôbê luôn sẵn sàng cung ứng nhà cửa, lương thực, và mọi nhu cầu cần thiết cho những ai nhờ cậy ngài, bất kể tôn giáo, sắc tộc.
Cùng với việc phát triển Trung Tâm Bác Ái Lái Thiêu, Cha Tổng Đại Diện Giacôbê còn thành lập khu nhà hoàn lương ở Long Thành để cứu giúp các chị em lầm lỡ.
Nhà thờ Tân Thới được tôn tạo lại từ một rạp hát ở gần chợ Lái Thiêu, tiền thân của nhà thờ Phú Long, dù do Cha Vicentê Trần Minh Khang đảm nhiệm, cũng đã ghi công lớn của Cha Bề Trên Giacôbê Huỳnh Văn Của.
Ngày 22.2.1976, Cha Bề Trên Giacôbê Huỳnh Văn Của được tấn phong Giám mục, trở thành Giám mục phó giáo phận Phú Cường. Khẩu hiệu Giám mục của Ngài là “Vua trên các vua, Chúa trên các chúa ”. Thời gian đó còn nhiều khó khăn, vì thế thánh lễ tấn phong Giám mục của Đức Cha Giacôbê diễn ra hết sức âm thầm, không kèn trống, không tiệc tùng, không một hình thức long trọng rước sách nào cả.
Đức Cha Giacôbê thực hành quyền Giám mục của mình trong khoảng ba năm, đến năm 1979, ngài nghỉ hưu và dưỡng bệnh. Đức Cha Giacôbê cũng rời Việt Nam, định cư tại nước ngoài từ đó.
Đến năm 1993, do nhu cầu của giáo phận, Đức Cha Luis Hà Kim Danh đã cho chỉnh trang Trung Tâm Bác Ái Lái Thiêu thành Trung Tâm Nghỉ Dưỡng của quý cha giáo phận Phú Cường.
Đến ngày 13.11.2004, với việc Đức Cha Phêrô đương nhiệm Giám mục Chánh Tòa giáo phận Phú Cường chính thức dâng thánh lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng nhà thờ Phú Long tại mảnh đất này, rồi một năm sáu tháng sau đó, nhà thờ Phú Long được khánh thành ngày 21.5.2006, Trung Tâm Bác Ái và Nghỉ Dưỡng Lái Thiêu mà Đức Cha Giacôbê đã dày công xây dựng, từ nay còn mang thêm một sứ mệnh mới: trở thành Trung Tâm tế tự và thờ phượng của mọi tầng lớp giáo dân trong và ngoài giáo xứ Phú Long. Có được tất cả những gì mà chúng con thừa hưởng hôm nay, chúng con không có quyền quên ơn Đức Cha Giacôbê Huỳnh Văn Của và các ân nhân xa gần. Chính vì thế, chúng con xin được chọn ngày qua đời của Đức Cha Giacôbê làm ngày truyền thống của giáo xứ, để hàng năm, vào ngày này, chúng con tưởng nhớ cách riêng Đức Cha Giacôbê, quý Cha, quý tu sĩ, quý ân nhân của giáo xứ chúng con.
Đức Cha Giacôbê Huỳnh Văn Của được Chúa gọi về hưởng thánh nhan Chúa ngày 9.1.1995, tại Nice thuộc Pháp quốc. Đức Cha hưởng thọ 80 tuổi.
La Ngà - Phan Thiết, Việt Nam (8/01/2007) - Vào lúc 9g00 sáng ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, 08-01-2007, bên bờ sông La Ngà, dưới chân tượng đài Ðức Mẹ Tàpao, Ðức Cha Phaolô Nguyễn Thanh Hoan, Giám Mục giáo phận Phan Thiết, Ðức Ông G. B. Lê Xuân Hoa, Tổng Ðại Diện, cha Phêrô Phạm Tiến Hành, Hạt Trưởng hạt Hàm Tân, cha F.X. Phạm Quyền, Hạt Trưởng hạt Ðức Tánh, cha Anrê Lương Vĩnh Phú, Quản lý giáo phận, một số cha trong giáo hạt Ðức Tánh cùng với một ít khách hành hương và tu sĩ giáo dân trong giáo hạt Ðức Tánh đã tham dự buổi cầu nguyện tôn kính Ðức Mẹ Tàpao để dâng lên Mẹ công trình xây dựng nơi tôn kính Mẹ và xin Mẹ chúc lành cho việc thi công được tiến hành an toàn và tốt đẹp.
Sau phần kinh nguyện đơn giản, không cờ xí, không kèn trống, không rước kiệu, Ðức Giám Mục, Ðức Ông Tổng Ðại Diện cùng 2 cha Hạt Trưởng đã mở những lát cuốc khai móng.
Tiếp theo là gần 100 gia trưởng giáo xứ Tánh Linh với cuốc xẻng, xà beng trên tay hăng hái leo lên triền núi phát đất mở đường lên tượng Mẹ trong tinh thần hăng say phấn khởi. Các gia trưởng này tình nguyện tham gia 2 ngày, sau đó mỗi giáo xứ trong hạt Ðức Tánh cũng sẽ luân phiên tham gia mỗi giáo xứ 2 ngày.
Cách nay gần nữa thế kỷ, ngày 8-12-1959, Ðức Cha M. Piquet Lợi, Giám Mục giáo phận Nha Trang đã làm phép tượng Mẹ Tàpao. Trong thời gian chiến tranh, tương đài bị cây rừng che phủ, ít ai có thể kính viếng. 40 năm sau, từ ngày 8-12-1999 khách hành hương bắt đầu vượt núi băng ngàn với bao nhiêu gian nan thử thách đã bắt đầu những cuộc hành hương lên tượng Mẹ Tàpao. Ðến ngày 15-8-2006 đã có thánh lễ làm phép viên đá xây dựng công trình. Sau gần 5 tháng làm các thủ tục, nay mới bắt đầu thi công được.
Công trình gồm con đường đi lên dài 250m với 450 bậc cấp lên đến độ cao 100m và lễ đài trước tượng Mẹ.
Ðức Giám Mục giáo phận đã giao cho cha Phạm Quyền, Hạt Trưởng hạt Ðức Tánh làm trưởng ban thi công. Cộng tác với cha Hạt trưởng còn có các cha Ðaminh Nguyễn Văn Hoàng, chánh xứ Tư Tề, cha FX Nguyễn Quang Minh, chánh xứ Tánh Linh, cha Tôma Nguyễn Ngọc Hảo, phụ trách cộng đoàn Ðồng Kho.
Công trình do Cty TNHH Xây Lắp Trường An, Thành Phố Phan Thiết, thiết kế và xây dựng. Nhờ sự phù trợ của Ðức Mẹ Tàpao, với sự tham gia đông đảo và hăng say của các gia trưởng, thợ xây trong giáo hạt và giáo phận, sẽ tiết kiệm cho công trình được một số kinh phí và hy vọng trong vòng 100 ngày sẽ hoàn thành được phần cơ bản.
Rev. Phạm Quyền
Nhân kỷ niệm 500 năm ngày sinh của Thánh Phanxicô Xaviê, vị thừa sai vĩ đại và mẫu mực của Châu Á, giáo phận thành phố đã hân hoan đón tiếp ba vị Hồng y Châu Á đến viếng thăm, và vị chủ chăn của giáo phận đã mời các ngài cử hành Thánh lễ trọng thể tại Nhà thờ Chính toà. Cũng trong thánh lễ này, vị chủ chăn giáo phận đã tuyên bố kết thúc Năm Sống lời Chúa. Có người giáo dân hỏi : “Như vậy là trong năm nay, mình không cần đọc và suy niệm Lời Chúa nữa mà chỉ lo sống đạo thôi, phải không cha ?”. Một câu hỏi dễ hiểu và cũng thật dễ thương. Dĩ nhiên là không phải thế bởi lẽ dù là Năm Thánh Thể, Năm Lời Chúa, hay Năm Sống Đạo thì vẫn chỉ là một dòng sông đang chảy. Hãy thử nhìn lại các Thư Mục Vụ trong những năm qua để thấy dòng chảy thế nào.
Thư Mục Vụ 2004, các giám mục Việt Nam đã mời gọi anh chị em tín hữu “ở với Chúa’. Dễ hiểu thôi vì đó là điều kiện tiên quyết cho đời môn đệ. Khi Chúa Giêsu quyết định thiết lập Nhóm Mười Hai thì Máccô kể rằng Người gọi các ông trước hết là để các ông “ở với Người” ( Mc 3, 14). Trước hết là ở với Chúa đã rồi muốn làm gì thì làm, muốn đi đâu thì tuỳ ý…nếu không e rằng sẽ làm nhiều thứ lắm, đi nhiều nơi lắm nhưng toàn là những nơi và những điều Chúa không muốn.
Nhưng ngày xưa các tông đồ ở với Chúa là ở với một Chúa Giêsu hữu hình, cụ thể mà Thánh Gioan mô tả là nghe được, thấy được, và sờ mó được ( x 1Ga 1, 1); còn bây giờ, Chúa đã về trời rồi thì làm sao ở với Chúa được ? Không sao, Chúa đã về trời nhưng Chúa vẫn ở với ta ‘ mọi ngày cho đến tận thế” ( Mt 28, 20) và cụ thể nhất là Chúa ở với ta trong Bí tích Thánh Thể. Thế nên Thư Mục Vụ 2004 mới tập trung vào Thánh Thể để chiêm ngắm và khám phá tình yêu tự hiến của Thiên Chúa, để đón nhận niềm bình an sâu thẳm Người ban cho những ai thuộc về Người, và để đón nhận năng lực cho một đời sống mới. Không ít anh chi em tín hữu đã cảm nghiệm rõ ràng hoa trái tuyệt vời của những phút giây quỳ bên Thánh Thể : một niềm bình an xâm chiếm tâm hồn thấm đẫm bình an thì sự bình an ấy lan toả đến những người khác trong gia đình, rồi nhờ đó cả cộng đoàn giáo xứ cũng được bình an.
Sau khi thúc giục anh chị em tín hữu ở lại với Chúa Giêsu trong Thánh Thể, trong Thư Mục Vụ 2005, các giám mục Việt Nam lại tiếp tục khuyến khích ta học hỏi, suy niệm và sống Lời Chúa. Bởi lẽ ở với Chúa là để học với Chúa, học bằng cách lắng nghe Lời Chúa. Còn hình ảnh nào đẹp hơn hình ảnh cô Maria quỳ bên chân Chúa lắng nghe lời Người, và Chúa Giêsu đã khen cô biết chọn phần tốt nhất ( x Lc 10, 42). Lắng nghe Lời Chúa để khám phá dung mạo đích thực của Thiên Chúa tình yêu, để nhận diện vẻ đẹp và sự cao cả của ơn gọi làm người, để tập nhìn mọi sự bằng căp mắt của Chúa và biết rung động bằng con tim của Chúa. Tắt một lời là để mang lấy những tâm tư của Chúa ( x Pl 2, 5), và đó lại chẳng phải là nết đẹp đích thực của người môn đệ Chúa Giêsu đó sao ?
Khi khép lại Năm Sống Lời Chúa 2005, không ít anh chị em tín hữu đã tâm sự : theo Đạo bấy lâu nay mà bây giờ mới biết mở Thánh Kinh, mới trực tiếp đọc Lời Chúa dạy, mới cùng nhau chia sẻ Lời Chúa và cảm nhận Lời Chúa hữu ích dường nào. Chưa có một thống kê đây đủ xem có bao nhiêu lớp Thánh kinh được mở ra, bao nhiêu nhóm chia sẻ Lời Chúa được hình thành, bao nhiêu giáo dân đọc Lời Chúa mỗi ngày… nhưng những tâm sự như thế cũng đã phản ánh phần nào ích lợi mà năm Lời Chúa đem lại.và đó là hành trang cần thiết đẻ bước vào năm Sống Đạo như Thư Mục Vụ 2006 kêu gọi.
Ở với Chúa để học với Chúa, và học với Chúa để sống như Chúa. Đó là đòi hỏi cho các học trò của Thầy Giêsu ở mọi nơi và mọi thời. Tuy nhiên hoàn cảnh sống ở mỗi nơi và mỗi thời lại có những nết đặc thù riêng biệt, và người môn đệ Chúa Giêsu cần phải sống tinh thần của Thầy trong hoàn cảnh cụ thể mình đang sống. Chính vì thế, các giám mục Việt Nam đã không chỉ nói đến việc sống đạo cách chung chung mà là Sống Đạo Hôm Nay. Thế thì đâu là những nết đặc thù của xã hội Việt Nam hôm nay, và ta cần phải sống Đạo thế nào trong hoàn cảnh dó ? Đâu là nguồn sự sống và sức mạnh mà người tín hữu phải tìm về và múc lấy cho việc sống Đạo của mình ? Trong suốt Năm Phụng Vụ 2007, các giám mục Việt Nam mời gọi ta cùng cầu nguyện và suy nghĩ với các ngài để tìm ra câu trả lời cho những vấn đề trên, và đưa vào thực tế của đời sống thường ngày.
Kết luận
Trong thành lễ ngày 02/12/2006 vừa qua tại nhà thờ Chính toà Sài Gòn khi tuyên bố kết thúc Năm Lời Chúa, vị chủ chăn của giáo phận cũng tuyên bố chính thức phát hành cuốn sách Sống Lời Chúa Hằng Ngày. Kể cũng lạ. Đáng lẽ ra phải phát hành cho Năm Lời Chúa chứ ! Nghe đâu ý định ban đầu là thế nhưng vì nhiều lý do bên trong cũng như bên ngoài, việc phát hành phải dời lại đến cuối năm. Thế nhưng sự chậm trễ đó lại làm nổi bật một ý nghĩa mới, ấy là kết thúc Năm Lời Chúa không có nghĩa là không cần tiếp cận Lời Chúa nữa; trái lại, càng cần lắng nghe lắng nghe và học hỏi Lời Chúa hơn nữa để có thể sống Đạo như lòng Chúa mong muốn. Hoá ra dù là Năm Thánh Thể hay năm Lời Chúa hay Năm Sống Đạo thì vẫn chỉ là một dòng sông đang chảy.
Như thế, trong suốt nam nay, bạn hãy tiếp tục dành thời giờ “ở với Chúa” trong bí tích Thánh Thể. Hãy tiếp tục lắng nghe, học hỏi và suy niệm Lời Chúa, lấy Lời Chúa làm ánh sáng soi đường cho những chọn lựa và hành động trong cuộc sống. Đồng thời, hãy nỗ lực sống đức ái và tinh thần phục vụ ngay trong gia đình và khu xóm, quan tâm đặc biệt những anh chị em đang gặp khó khăn. Vâng, vẫn chỉ là một dòng sông đang chảy.
Lm. Phêrô Nguyễn Khảm
Hôm nay, 7 anh tân linh mục chúng ta về đây để cùng nhau tạ ơn Chúa với cộng đoàn Học Viện trước khi tung cánh bay vào bầu trời rộng mở với những nhiệm vụ quan trọng khác nhau. Anh em có nhờ tôi nói ít lời trong thánh lễ này trong tư cách là một người anh đi trước. Tôi thấy có nhiều điều để chia sẻ, nhưng tôi xin giới hạn lại trong một vài kinh nghiệm và suy nghĩ - thật ra không có gì cao siêu- về đời sống linh mục.
1. Coi chừng nguy cơ sống bám vào cái hào quang bề ngoài
Sau khi chịu chức linh mục, anh em đã về gia đình dâng lễ tạ ơn tại giáo xứ mình và một vài nơi khác; trong những dịp này và suốt thời gian qua, anh em đã nhận được biết bao lời chúc mừng và ca tụng. Chắc anh em đã trực tiếp cảm nghiệm được lòng tôn kính của dân chúng đối với linh mục lớn lao như thế nào. Vì tôn kính linh mục, người ta cũng rất kính trọng các bậc sinh thành của linh mục mà họ tôn lên thành ông bà cố, - một điều mà chắc các cha mẹ nào cũng mơ ước. Nhưng anh em cũng hiểu rằng trong văn hóa Việt Nam vốn còn mang đậm ảnh hưởng của Nho giáo, lòng tôn kính đó phát xuất một phần từ đức tin nhưng phần khác từ cái nhìn tự nhiên về chức vụ linh mục như một thứ bậc, một chức tước xã hội.
Chúng ta không phê bình dân chúng về điểm này. Nhưng người linh mục, nhất là người linh mục dòng anh em hèn mọn cần tỉnh táo để đừng rơi vào chước cám dỗ sống bám vào cái hào quang xã hội trùm lên mình, hoặc bám vào ánh hào quang của chức vụ linh mục hơn là sống bằng thực chất và uy tín tinh thần mà chính mình tạo ra nhờ cố gắng sống đời linh mục như lòng Chúa muốn. Cám dỗ này là có thực khi một con người cũng bình thường như chung chung mọi người thôi, nhưng chỉ sau một lễ truyền chức bổng chốc thấy mình được tăng giá trước mặt xã hội, giống như một khu đất bình thuờng được tăng giá gấp nhiều lần sau khi có một con đường lớn chạy qua! Cái giá "thặng dư" (tăng thêm) đó là của con đường không phải của tự thân đám đất. Tôi muốn nói: Việc chúng ta được hưởng thêm hào quang của chức vụ linh mục la bình thuờng, nhưng đừng bám vào đó mà quên mất nổ lực bản thân.
2. Luôn ý thức về sự bất xứng của chúng ta đối với sứ mạng cao cả được giao phó
Tôi xin chia sẻ một kinh nghiệm đầu đời linh mục của tôi. Tôi thụ phong linh mục vào tháng 7 năm 1968 tại nhà thờ chính tòa tổng giáo phận Paderborn, lúc bấy giờ thuộc Tây Đức. Theo tập tục, tân linh mục được gởi đi dâng lễ và ban phép lành "đầu tay" trong một vài cộng đoàn tu sĩ và nhà thương trong thành phố. Lần đó, tôi đến dâng lễ ở nhà thương Thánh Tâm Chúa Giêsu (nơi mà tôi đã có lần được giải phẫu). Sau lễ, tôi được gọi khẩn cấp tới một giường bệnh: người ta cho tôi biết có một chị mới lập gia đình đang nguy kịch vì uống nhầm thuốc. Khi tới nơi, tôi vô cùng xúc động thấy cả gia đình bệnh nhân sụt sùi vây quanh người phụ nữ đang hấp hối. Tôi thực sự nghẹn ngào. Nói gì trong hoàn cảnh này để khỏi trở thành khách sáo, trống rổng? Và tôi là ai để mở miệng an ủi những con người bất hạnh này khi mà tai họa của họ không phải là của mình? Tôi đứng lặng một hồi lâu để đồng cảm với họ, cuối cùng cũng tìm ra lời để mời họ nghĩ tới Chúa Giêsu trên thập giá, rồi cùng với họ đọc một kinh Lạy Cha, đoạn ban "phép lành tân linh mục" cho bệnh nhân và cúi đầu lui ra.
Linh mục chúng ta được sai đến với một nhân loại khổ đau và bị tổn thương, nhưng chính mình cũng mang thương tích của tội lỗi. Chúng ta được sai đi cứu vớt, trong lúc chính mình cũng cần được cứu vớt. Chúng ta thánh hóa người khác và loan báo Tin Mừng cho người khác, mà chính chúng ta cũng phải được thánh hóa và được Phúc Âm hóa. Có một sự chênh lệch lớn lao giữa chúng ta là phương tiện tầm thường Chúa dùng và mục đích cao cả mà Chúa đặt ra cho sứ mạng linh mục. Ta phải luôn luôn giữ cho sống động cái ý thức về sự chênh lệch này để đừng quên nỗi cùng khốn, sự yếu hèn và bất xứng của chúng ta.
3. Phong trào thành những linh mục công chức
Nói theo ngôn ngữ kinh tế, người linh mục "vào nghề" với một cái vốn quá lớn và luôn luôn được bao cấp. Cái vốn lớn đó, chính là thánh chức linh mục, là ân sủng của chức vụ linh mục. Linh mục hành động không những nhân danh Chúa Kitô mà còn là trong chính vị trí Chúa Kitô, như chính Người hành động. Trong hành động riêng của chức vụ, linh mục làm gì, làm thế nào rồi cũng thành sự cả. Về mặt này, ông linh mục mới toanh hay ông linh mục đã thi hành chức vụ lâu năm, ông linh mục trẻ hay ông linh mục già, ông linh mục đạo đức hay ông linh mục kém cỏi ... cũng hoàn toàn như nhau. Phêrô rửa tội nhưng là chính Đức Kitô rửa tội; Giuđa rửa tội nhưng là Đức Kitô rửa tội. Nói: "Linh mục 'hành nghề' luôn được bao cấp" là như thế đó. Có Chúa Giêsu bao cấp cho rồi. Linh mục "hành nghề" mà khỏi lo lỗ lãi chi cả, điều cốt yếu luôn luôn được bảo đảm!
Thực tế này chất chứa một số nguy cơ cho người linh mục. Chẳng hạn nguy cơ làm các công việc bổn phận của mình, từ quản trị đến phụng tự một cách máy móc, vô hồn hay cứng cỏi (cứng cỏi đối với giáo dân); nguy cơ biến mình thành công chức của một cơ chế thay vì sống như một người môn đệ trung thành của Chúa và người mục tử tốt lành đối với c?ng ??ng dân Chúa, hoặc nguy cơ không còn thấy cần phải nổ lực thường xuyên để hoàn thiện mình về mặt thiêng liêng và chuyên môn (nghiệp vụ) nữa.
4. Luôn luôn nuôi dưỡng sống động tinh thần truyền giáo
Chia sẻ cuối cùng của tôi dựa trên mấy lời đầy bức xúc của Đức cha Micae Hoàng Đức Oanh vào cuối lễ truyền chức hôm 9/12/2006 tại nhà nguyện này. Ngài nói chúng ta phải đổi cách nhìn về Giáo Hội. Cái nhìn nào mà phải thay đổi? Đó là cái nhìn quen thuộc và phổ biến hướng vào nội bộ Giáo Hội thay vì hướng mở ra bên ngoài tới thế giới bao quanh, tới những môi trường, những con người còn xa lạ với Chúa để tìm cách đem Tin Mừng đến cho họ. Cái nhìn hướng nội không phải là sai nhưng phiến diện và có nguy cơ làm cho người ta mãn nguyện về những thành tích đã đạt được. Đức cha nói nếu thay đổi cách nhìn, chúng ta sẽ thấy mọi sự không phải là tốt đẹp cả đâu và Giáo Hội còn nhiều vấn đề, nhiều thách thức. Chẳng hạn, có bao nhiêu người lớn nhập đạo hằng năm không phải vì lý do lập gia đình nhưng nhờ gương sáng đời sống hoặc nhờ lời rao giảng của người Kitô hữu? Ít lắm! Đời sống đạo mà chúng ta đang rất hãnh diện có tác động tích cực nào ra bên ngoài ranh giới của các giáo xứ, các đoàn thể công giáo và hay các dòng tu? Cũng ít lắm! Đức cha Oanh nói, giữa đời sống văn minh giàu có của Sài Gòn và đời sống dân chúng ở vùng cao nguyên của ngài là một vực thẳm cách biệt. Ngài lo lắng với đà phát triển vật chất đang diễn ra, liệu sẽ còn mấy ai sằn sàng đáp lại ơn gọi tu sĩ và linh mục? E rằng chỉ còn mấy người "quê mùa" và nghèo khó mà thôi.
Tôi nghĩ cách suy nghĩ của Đức cha địa phận Kontum rất gần với cách nhìn của Hội Dòng Phanxicô chúng ta về bản chất và sứ mạng của mình. Chúng ta ngày nay cũng vậy, phải có sự thao thức truyền giáo, phải luôn luôn nuôi dưỡng ý thức loan báo Tin Mừng trong mọi công việc chúng ta làm và môi trường chúng ta sống, và trước tiên trong lối sống của chúng ta. Chính nhờ thao thức và ý thức đó mà chất lượng Phúc Aâm của đời sống chúng ta sẽ được nâng cao, đối lại với sự trì kéo của tinh thần thế tục, óc hưởng thụ, sự mệt mỏi và thói quen.
Kết luận: Anh em sắp bắt đầu thi hành tác vụ linh mục, xin đừng nôn nóng muốn một thành công mau lẹ và nổi bật. Đừng tìm cách khẳng định mình bằng những thành tích bên ngoài. Đừng tìm kiếm vinh danh của mình nhưng là vinh quang của Chúa. Hãy để cho Chúa tự do sử dụng mình. Lễ Giáng sinh sắp tới nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa đã trở nên một hài nhi yếu đuối bé bỏng. Chính trong sự yếu đuối mà Thiên Chúa biểu lộ quyền năng của Người.
Lm. Nguyễn Hồng Giáo
(16-12-2006)
Không một chỗ nào trong Thông điệp minh nhiên nói về bác ái mục vụ. Thậm chí những chữ ‘bác ái mục vụ’, nếu không lầm, cũng không thấy có trong bản văn. Đây không phải là điều Đức Giáo Hoàng muốn đề cập. Trong Thông điệp đầu đời giáo hoàng của mình, ngài muốn nhấn mạnh về tình yêu nói chung, một tình yêu là của Thiên Chúa, phát xuất từ Thiên Chúa, được ban tặng cho con người, để người ta, nhất là người Kitô hữu, có thể yêu mến Thiên Chúa và yêu thương nhau, nghĩa là trao ban tình yêu của Thiên Chúa cho người khác.
Ngay cả trong phần thứ hai là phần khai triển nhiều hơn khía cạnh thực hành, Thông điệp cũng chỉ nói chung về hoạt động bác ái, phục vụ bác ái, coi đó tiên vàn là công tác của cả Hội Thánh, của từng cá nhân cũng như các tổ chức trong Hội Thánh, “trên các bình diện, bắt đầu từ các giáo xứ đến các Giáo Hội từng vùng, từng miền, cho đến Giáo Hội toàn cầu” (s.32), trong đó trách nhiệm về hoạt động bác ái được coi như… bổn pnận thuộc thừa tác vụ của Giám mục (ibid.).
Tuy vậy, những ý tưởng được gợi ra trong Thông điệp cho phép chúng ta nghĩ đến một sự bác ái chuyên biệt hơn, cụ thể hơn cho linh mục chúng ta. Đó là bác ái của người mục tử, bác ái mục vụ. Và đây là điều chúng ta muốn cùng nhau suy nghĩ trong dịp thường huấn này.
Theo Đức Gioan Phaolô II, bác ái mục vụ là “nguyên lý nội tại thôi thúc và hướng dẫn đời sống của linh mục…, tạo nên nguyên lý nội tại và động lực có thể thống nhất những hoạt động phong phú và đa dạng của linh mục”[1][1]. Không những thế, nó còn là “phương thế thiết yếu để đưa con người vào đời sống ân sủng”[2][2]]. Một nhân đức có tầm quan trọng và hiệu năng lớn lao như thế phải được linh mục chúng ta quan tâm và thực hành.
Đề tài được giới hạn vào 3 điểm : động lực và kiểu mẫu của bác ái mục vụ ; thể hiện bác ái mục vụ ; những phương thế vun trồng bác ái mục vụ.
I. ĐỘNG LỰC VÀ KIỂU MẪU
CỦA BÁC ÁI MỤC VỤ.
Trong Giáo Hội do Chúa Kitô thiết lập, chỉ có một Mục Tử duy nhất là chính Ngài. Nhưng “để chăn dắt và phát triển dân Chúa luôn mãi, Chúa Kitô đã thiết lập các thừa tác vụ khác nhau trong Hội Thánh hầu mưu ích cho toàn thân”.[3][3] Không những thiết lập, Ngài còn “trao ban quyền hành và sứ mạng, phương hướng và cứu cánh cho thừa tác vụ Giáo Hội”.[4][4] Trong số những người lãnh nhận thừa tác vụ này, có Giám Mục và linh mục được đặt làm mục tử, hành động nhân danh Đức Kitô, “hành động với thần lực và vai trò của chính Đức Kitô”,[5][5] thi hành chức vụ thủ lãnh của Đức Kitô (in persona Christi Capitis).
Là những mục tử hữu hình trong Giáo Hội, các ngài “đồng hình đồng dạng với Đức Kitô Mục Tử”[6][6]. Chính ấn tích của bí tích Truyền Chức Thánh làm cho các ngài đồng hình đồng dạng với Đức Kitô về phương diện hữu thể học. Nhưng điều này chỉ có ý nghĩa nếu các ngài đồng hình đồng dạng với Đức Kitô về phương diện luân lý và tu đức, nghĩa là trong cách sống và hoạt động của mình, các ngài làm nổi bật hình ảnh Đức Kitô, những nét của khuôn mẫu là Đức Kitô, cách riêng tình yêu của Đức Kitô Mục Tử. Chính tình yêu này làm cho việc chăn dắt đàn chiên của Chúa trở thành một dịch vụ tình yêu.[7][7] Chính tình yêu này phải là khuôn mẫu và động lực thúc đẩy các linh mục thi hành bác ái mục vụ.
Vậy Đức Kitô đã thể hiện tình yêu này như thế nào ?
Trước hết, Chúa xưng mình là một mục tử tốt (Ga 10,11). Theo bản văn hy lạp, ‘tốt’ gợi lên ý tưởng về một mục tử thật, hoàn toàn xứng danh là mục tử, ngược với mục tử giả. Nhưng hiểu ‘tốt’ theo nghĩa thông thường cũng không sai, vì tốt lành là đặc điểm của mục tử đích thực, và nơi Chúa Giêsu Mục Tử, biểu lộ sự tốt lành vô biên của Thiên Chúa. Khi tự xưng như vậy, Chúa muốn cho thấy Ngài sẽ đảm nhận hoàn toàn trách nhiệm về đàn chiên, đồng thời cũng cho thấy một sự bảo đảm và đoan hứa mãi mãi sẽ là Mục Tử tốt ỡ giữa đàn chiên.
Người mục tử chúng ta hôm nay theo gương Chúa, phải luôn tỏ ra là một mục tử tốt. Đương nhiên chúng ta không dám tự xưng mình là mục tử tốt, nhưng sự tốt lành theo khuôn mẫu của Chúa phải luôn là mục tiêu để chúng ta vươn tới, bằng cách không ngừng cải thiện đời sống và hoạt động thừa tác vụ của mình, sao cho mỗi ngày một tốt hơn.
Sự tốt lành được biểu lộ qua nhiều khía cạnh nói lên tình yêu sâu xa của Chúa.
Trông thấy đám đông đi theo mình, Chúa động lòng xót thương họ, vì họ lầm than vất vưởng như bầy chiên không có người chăn (Mt 9,36 ; Mc 6,3-4). Nói đúng ra, họ vẫn có người chăn, nhưng chỉ là những người chăn thuê, không thiết gì đến chiên (Ga 10,13), nên chiên phải bơ vơ.
Linh mục chúng ta không phải là người chăn thuê, cũng không phải như một thứ công chức, sống theo một thứ chủ nghĩa công chức (fonctionnalisme). Thực tế, một số linh mục có não trạng thu hẹp chức tư tế thừa tác vào những khía cạnh thuần túy công vụ. Não trạng này có nguy cơ làm cho đời sống linh mục trở thành trống rỗng, thường được bù trừ bằng những lối sống không phù hợp với thừa tác vụ của mình.[8][8] Chúng ta đã tự nguyện lãnh nhận sứ mạng từ Chúa. Phải quan tâm đến những người được trao phó cho mình. Phải hun đúc cho mình một sự mẫn cảm đối với những người đáng thương, nhất là những người đói khát chân lý hoặc cần được thông truyền chân lý, vì chúng ta được sai đến chủ yếu để cung ứng cho họ chân lý của Thiên Chúa.
Mục tử cũng là người có tương giao tốt với từng con chiên. Chúa Giêsu Mục Tử lên tiếng gọi chiên và được chiên nhận ra tiếng (Ga 10,3-5). Ngài âu yếm gọi tên từng người, như đã gọi tên các Tông Đồ ngày xưa, đã gọi tên Dakêu khi vào thành Giêricô, đã gọi tên Maria Magđala sau khi sống lại… Ngài có thể kêu gọi qua lời Ngài trong Sách Thánh, qua tiếng nói tự thâm tâm mỗi người, qua thừa tác viên trong Giáo Hội… Ngài cũng kêu gọi từng người đi theo Ngài trong một ơn gọi phù hợp với họ, đưa họ tới sự sống, như chiên được dẫn tới đồng cỏ xanh tươi. Dù Chúa có gọi theo cách thức nào thì con chiên biết và yêu Chúa vẫn nhận ra đó là tiếng nói của Ngài và đáp lại, giống như Maria Magđala, lúc đầu trông thấy Chúa Phục Sinh lại tưởng là người giữ vườn, nhưng khi nghe Chúa gọi tên mình thì đã nhận ra Chúa ngay và đã đáp lại : Rabbouni (Ga 20,16).
Người mục tử hôm nay, sống tinh thần bác ái mục vụ, có kêu mời ai thì cũng phải kêu mời họ đến với Chúa, đi theo Chúa, và phải giúp cho họ nhận ra chính là tiếng Chúa gọi mình. Tương quan của chúng ta với con chiên phải đưa đến tương quan tốt của họ với Chủ Chiên đích thực là Chúa.
Chúa Giêsu Mục Tử cũng là người biết chiên và chiên biết Ngài. Biết, không chỉ là một thái độ thuần túy tri thức, hoặc biết hời hợt như khi nghe nói về một người nào mà bảo rằng mình có biết người đó. Đây là một sự biết vào sâu, diễn tả một cộng đồng sinh mệnh dựa trên cả tri thức lẫn tình yêu. Chúa Giêsu biết rõ và yêu thương con chiên, như Ngài biết rõ và yêu mến Chúa Cha. Sự hiểu biết của Ngài về con chiên bắt nguồn từ tình yêu liên kết Ngài với Chúa Cha, và có được sự sung mãn trong tình yêu này. Nhưng Ngài chỉ có thể là Mục Tử tốt khi giúp cho con chiên cũng biết và yêu mến Chúa Cha.
Người mục tử hôm nay dễ có khuynh hướng biết nhiều thứ ‘đàn’ hay ‘đoàn’ diễn ra trước mắt, qua cuộc sống cụ thể và những phương tiện thông tin hiện đại. Nhưng nếu muốn là mục tử tốt thì phải ưu tiên biết và yêu thương đàn chiên được trao phó cho mình, không những thế, còn phải giúp họ biết và yêu mến Chúa Giêsu Mục Tử, và qua Ngài mà biết và yêu mến Thiên Chúa.
Có lẽ nét đặc trưng nhất nơi một mục tử chân chính là hy sinh mình cho đàn chiên (Ga 10,11.15.17-18), để chúng được sống và sống dồi dào (Ga 10,10). Chúa Giêsu chính là mẫu mục tử như vậy. Qua việc hiến mạng sống mình, Ngài bộc lộ tấm lòng chân thành và vô vị lợi tuyệt đối khi nhận chăm sóc đàn chiên. Đàn chiên này là xương bởi xương Ngài và thịt bởi thịt Ngài, theo cách Ađam nói với Evà (x. St 2,23). Những gì liên hệ đến đàn chiên thì cũng liên hệ đến Ngài. Mọi nguy hiểm đe dọa đàn chiên đều làm cho Ngài lo lắng. Nhưng Chúa Giêsu Mục Tử không chỉ hy sinh để cung ứng những nhu cầu bên ngoài của đàn chiên. Sự hy sinh độc đáo nhất, cao quý nhất, nói lên tình yêu cao cả nhất, là Ngài đã hy sinh mạng sống, đã tự nguyện chấp nhận hy tế Thập giá. Ở đây, hình ảnh mục tử hòa lẫn với hình ảnh Chiên Con, hình ảnh người Tôi Tớ đau khổ, mang lấy mọi tội lỗi của đàn chiên, hy sinh thân mình để lôi kéo ơn tha thứ của Thiên Chúa. Là Mục Tử tốt trong cái chết, Chúa Giêsu cũng là Mục Tử tốt trong sự sống lại. Nhờ sự sống lại này, Ngài đã hoàn tất công cuộc cứu độ, đưa đoàn chiên trở lại với Chúa Cha, làm cho họ được sống bằng sự sống vĩnh cửu của Ngài (Ga 14,19).
Người mục tử hôm nay cũng phải biết hy sinh cuộc sống của mình vì đàn chiên. Hy sinh đến nỗi chấp nhận chết vì đàn chiên chắc hẳn chỉ là trường hợp hãn hữu, nhưng hy sinh những gì thuộc về đời sống như tiền bạc, thời giờ, tiện nghi, sở thích… là điều có thể làm và phải làm. Những hy sinh như vậy cũng là một cách chết, chết dần chết mòn. “Yêu là chết trong lòng một tí”. Nhưng chết đó là để sống, đặc biệt ở đây là để làm cho đàn chiên của mình được sống.
Cuối cùng, người mục tử tốt đi tìm chiên lạc (Lc 15,3-7 ; Mt 18,12), quy tụ chiên thành một bầy. Chiên lạc là hình ảnh người tội lỗi. Chúa Giêsu Mục Tử sẵn sàng bỏ 99 con chiên còn lại để đi tìm một con xa bầy, vì Ngài đến để kêu gọi và tìm kiếm kẻ có tội. Chiên lạc cũng còn được hiểu là những người khác được Ngài gọi trước là con chiên nhưng chưa thuộc về đàn chiên. Ngài cũng có sứ mệnh quy tụ những con chiên đó, đưa về làm thành một đàn chiên duy nhất, dưới sự chăn dắt của một chủ chăn.
Người mục tử hôm nay cũng có trọng trách với hai loại chiên này. Một đàng phải quan tâm đến những người tội lỗi trong cộng đồng, tìm cách đưa họ về đường chính, không an tâm với ý nghĩ “sống chết mặc bay”. Đàng khác, không chỉ hài lòng với đàn chiên được trao phó, mà còn phải hướng tới những người ở ngoài đàn chiên, chưa được biết Chúa. Ý hướng truyền giáo luôn luôn phải được khơi dậy nơi bất cứ mục tử nào.
Tóm lại, mọi mục tử tốt đều phải sống bác ái mục vụ trên đây, theo gương Chúa Giêsu Mục Tử “trong sự hiến mình và phục vụ của Người”.[9][9]
II. THỂ HIỆN BÁC ÁI MỤC VỤ.
Linh mục là Thày dạy lời Chúa, thừa tác viên các bí tích và người lãnh đạo cộng đồng. Đó là những hoạt động chuyên biệt của người mục tử. Ngài phải thể hiện bác ái mục vụ trong những hoạt động chuyên biệt này.
1. Thày dạy lời Chúa
Lời Chúa là lời thần linh, lời mạc khải, lời đem lại sự sống đời đời cho những ai tin, lắng nghe và thực hành. Lời đó được truyền đạt trong và qua Giáo Hội, là một phương tiện nhờ đó Chúa Kitô hiện diện và hành động. Lời Chúa khi được lắng nghe và đón nhận sẽ giúp con người gặp gỡ một Thiên Chúa nói, sẽ chất vấn tâm hồn họ, sẽ đòi buộc họ quyết định thay đổi đời sống.
Bởi vậy, lời cần phải được loan báo và giảng dạy. Đây là nhiệm vụ hàng đầu của linh mục,[10][10] là món nợ mà linh mục mắc với mọi người, là nhiệm vụ mà “các linh mục bị ràng buộc cách chặt chẽ hơn bất cứ nhiệm vụ nào khác, nghiêm khắc hơn bất cứ nhiệm vụ nào khác”.[11][11] Việc dùng lời Chúa để dạy dỗ các tín hữu nổi bật trong số những việc làm thể hiện lòng bác ái mục vụ, vì nó đáp ứng nhất với điều người ta chờ đợi nơi các mục tử. Đó là bác ái trí thức.[12][12]
Thông thường thì người mục tử truyền đạt lời Chúa qua hai công việc là dạy giáo lý và giảng giải lời Chúa trong các bí tích, nhất là trong Thánh Lễ. Nhưng trên thực tế, việc dạy giáo lý thường được trao cho các giáo lý viên, chỉ còn công việc thứ hai dành cho mục tử, là công việc chỉ người có chức thánh mới có quyền làm.
Chúng ta hẳn được nghe nhiều phản ánh không thuận lợi của giáo dân về bài giảng của linh mục, trong đó có những điều thực sự không phù hợp với tinh thần bác ái mục vụ. Thử ghi nhận một số phản ánh đáng lưu ý :
Linh mục chửi mắng giáo dân trên tòa giảng. Dân chúng chờ đợi nghe những lời giúp cho họ hiểu biết hơn về tình thương của Chúa, giúp họ cảm thấy được an ủi, khích lệ, để can đảm đi theo Chúa, thì thay vào đó lại là những lời của con người trách mắng con người, trực tiếp hoặc gián tiếp, những lời thay vì đem đến sự sống lại đem đến sự chết, không chết về thể xác mà là chết về tinh thần nếu như đó là những lời thậm tệ. “Trời đánh còn tránh bữa ăn”. Trời tránh, nhưng linh mục không tránh. Lương thực lời Chúa đã bị linh mục thao túng một cách tệ hại, làm sao giáo dân có thể nuốt trôi cho được ?
Có những bài giảng không đụng chạm tới ai, thậm chí có thể làm cho một số người thích thú, nhưng lại không chứng tỏ bác ái mục vụ chân thực. Nội dung chỉ là những chuyện giời ơi đất hỡi, những sự khôn ngoan thuần túy của con người hay của mình, chứ không phải sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Augustinô bảo rằng : “Kiến thức của chúng ta là Đức Kitô, sự khôn ngoan của chúng ta cũng là Đức Kitô”.[13][13] Thánh Phaolô thì khẳng định : “Chúng tôi không dùng những lời lẽ đã học được nơi trí khôn ngoan của loài người, nhưng dùng những lời lẽ học được nơi Thần Khí ; chúng tôi dùng những lời lẽ Thần Khí linh hứng để diễn tả thực tại thuộc về Thần Khí” (1Cr 2,13). Thêm thắt một câu truyện như gia vị để cho bài giảng thêm đậm đà cũng tốt thôi, nhưng đừng để cho người nghe chỉ nhớ đến truyện mà quên mất lời Chúa. Liên hệ với hoàn cảnh cụ thể và vấn nạn thực tế của người nghe là điều nên làm và phải làm, nhưng phải biết dùng lời Chúa để giải thích và soi sáng những điều đó. Dân Chúa đói khát lời Chúa không tìm đến tòa giảng để nghe những chuyện đâu đâu, hoặc những gì ai nấy đều có thể biết chi tiết qua các phương tiện thông tin hiện đại của ngày hôm nay.
Bác ái mục vụ đòi linh mục cung cấp cho họ của ăn đích thực, có chất lượng, để đời sống đạo của họ không suy dinh dưỡng. Của ăn này không gì khác hơn là chính lời Chúa. Muốn vậy, chúng ta phải không ngừng học hỏi và nghiền ngẫm lời Chúa, vì “không biết Kinh Thánh là không biết Đức Kitô”.[14][14] Lười biếng trí thức, trong đó có lười biếng học hỏi Kinh Thánh, là nguy cơ đáng báo động nơi không ít linh mục. Có thể do lười biếng thực. Có thể do tự phụ mình đã biết đủ nên không chịu học hỏi thêm.[15][15] Dĩ nhiên, biết ở đây không chỉ thuần túy về tri thức, nhưng còn biết bằng tấm lòng : yêu mến lời Chúa, để lời Chúa thấm nhập và biến cải tâm hồn chúng ta trước, qua suy niệm, cầu nguyện và thực hành. Khi có đầy trong lòng, tự nhiên lời Chúa sẽ trào ra ngoài miệng. Khi ấy, chúng ta sẽ không “trở thành những kẻ huênh hoang rao giảng lời Thiên Chúa bằng môi miệng, bởi đã không nghe lời Chúa trong lòng”.[16][16]
Một việc cụ thể mà trước đây Đức Cha Bartôlômêô đã có lần nhắc nhở : “Đừng bao giờ suy nghĩ bài giảng mà không đọc trước các bài Kinh Thánh của Thánh Lễ, vì bài giảng phải được múc từ nguồn Kinh Thánh và phụng vụ. Đừng mở miệng sau Phúc Âm khi không biết, không nghe, không suy lời Chúa vừa được công bố”.[17][17] Một lời nhắc nhở không phải là thừa.
Ngoài ra, để giúp cho việc giảng được hiệu quả, phải biết trau dồi hình thức giảng, làm sao cho sứ điệp được trình bày mạch lạc, hấp dẫn, bằng thứ ngôn ngữ dễ hiểu nhưng không tầm thường, phù hợp với trình độ và não trạng người nghe. Không phải ai cũng có thể trở thành nhà hùng biện. Nhưng nếu yêu mến lời Chúa, yêu thương và tôn trọng người nghe, chuyên cần học hỏi cả về những điều phải giảng lẫn cách thức giảng, với thái độ chân thành và khiêm tốn, thì lời Chúa mà chúng ta truyền đạt vẫn có thể giúp biến cải tâm hồn họ. “Linh mục không phải là nhà hoạt náo truyền thông (showmaster) đang biểu diễn một cái gì đó do ông tự nghĩ ra. Trái lại, ông có thể là một diễn viên rất tồi, nhưng ông đang đại diện cho một cái gì đó hoàn toàn khác, và cái đó hoàn toàn không tùy thuộc ông”.[18][18]
Tóm lại, bác ái mục vụ đòi người mục tử phải rao truyền trung thực và trọn vẹn lời Chúa, và cố làm sao cho lời Chúa đạt được hiệu quả tối đa nơi người nghe.
2. Thừa tác viên bí tích.
Linh mục là người “quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa” (1Cr 4,1) là những kho tàng ân sủng nuôi dưỡng đời sống và đức tin của người tín hữu. Thuộc vào kho tàng ân sủng này là các bí tích.
Các bí tích có vai trò quan trọng trong đời sống người Kitô hữu. Các bí tích khai tâm đặt nền tảng cho toàn thể đời sống của họ, giúp họ hiệp thông sâu xa hơn vào đời sống thần linh và ngày càng tiến tới đức mến hoàn hảo, đồng thời cũng đặt nền tảng cho ơn gọi chung của người môn đệ Chúa Kitô : ơn gọi nên thánh và được sai đi rao giảng Tin Mừng cho thế giới. Các bí tích Thống Hối và Xức Dầu Bệnh Nhân giúp họ được chữa lành, đặc biệt được tha thứ tội lỗi. Các bí tích Truyền Chức Thánh và Hôn Nhân nhằm xây dựng cộng đồng và cũng góp phần cứu rỗi bản thân.
Được tham dự vào chức tư tế của Chúa Kitô và hành động như thừa tác viên của Ngài, linh mục thi hành chức tư tế này đặc biệt trong việc cử hành các nghi thức phụng vụ và bí tích. Tuy chúng ta thường xuyên cử hành các bí tích Thánh Tẩy, Thánh Thể, Thống Hối, Xức Dầu Bệnh Nhân, Hôn Nhân, nhưng có hai bí tích cần được lưu ý nhiều hơn, vì tầm quan trọng đặc biệt của chúng trong đời sống, hầu như được làm hằng ngày, và cũng vì có nhiều vấn đề đặt ra cho mục vụ. Đó là các bí tích Thánh Thể và Thống Hối. Bác ái mục vụ của chúng ta cần được đặt ưu tiên cho những bí tích này.
Đối với các bí tích nói chung, bổn phận của linh mục là giúp cho giáo dân hiểu biết ý nghĩa của chúng, ý nghĩa giáo hội và quy hướng về Thánh Thể, cũng như tập cho họ, khi tham dự, biết yêu mến, đón nhận và sống ơn bí tích nhờ chức tư tế cộng đồng của họ. Như vậy, họ sẽ tránh được ý tưởng sai lầm coi bí tích như một thứ ma thuật tự nó có hiệu lực không liên hệ gì đến đời sống Kitô giáo.[19][19] Liên hệ với ý tưởng sai lầm trên đây, cần giúp cho họ biết dọn mình xứng đáng, vì chỉ khi chuẩn bị tâm hồn cẩn thận và xứng đáng, họ mới có quyền và có thể lãnh nhận bí tích cách hữu hiệu.[20][20]
Riêng về Bí tích Thánh Thể, chúng ta đều biết Thánh Thể có vai trò trung tâm, là nguồn mạch và tột đỉnh của toàn thể đời sống người Kitô hữu, vì chính nhờ tác động của bí tích này và chung quanh bí tích này mà cộng đồng được sống động và trường thành.[21][21] Nhưng để cho thấy giá trị và hiệu quả của Thánh Lễ trong đời sống thì ngoài việc chuẩn bị cho giáo dân như nói trên, bác ái mục vụ còn đòi hỏi chính thừa tác viên phải góp phần xứng hợp vào cử hành, qua việc tổ chức, thái độ và hành động của mình trong Thánh Lễ. Quy Chế Tổng Quát của Sách Lễ Rôma đã đưa ra những chỉ dẫn tổng quát như sau : “Phải hết sức lo cho việc cử hành Thánh Lễ… được tổ chức thế nào, để các thừa tác viên và các tín hữu, khi tham dự tùy theo địa vị của mình, được lãnh nhận các hiệu quả dồi dào hơn” và “điều này có thể đạt được, nếu ta để ý đến bản chất và hoàn cảnh của mỗi cộng đoàn, mà xếp đặt toàn bộ việc cử hành thế nào, để giúp các tín hữu tham dự với cả xác hồn, một cách ý thức, tích cực, đầy đủ, và với lòng tin cậy mến nồng nàn. Đó là việc tham dự mà Hội Thánh mong muốn, và bản chất việc cử hành đòi hỏi, lại cũng là quyền lợi và nghĩa vụ của giáo dân, phát xuất từ bí tích Thánh Tẩy”.[22][22] Chúng ta thấy một trong những lý do Quy Chế đưa ra liên hệ đến quyền lợi của giáo dân, tức còn hơn cả bác ái nữa, vì liên hệ đến sự công bằng mà người giáo dân phải được hưởng khi tham dự Thánh Lễ.
Xin được gợi ra một vài điểm về sự công bằng và bác ái này.
- Giữ đúng giờ lễ. Nhiều người càm ràm không chỉ vì lễ lâu (nhiều phần vì giảng dài), mà còn vì Thánh Lễ bắt đầu trễ hơn giờ quy định. Trong cuộc sống hôm nay, thời giờ phân chia cho những công việc trong ngày thường sít sao. Ngay cả ngày Chúa nhật, dù không có lao động, dịch vụ hay học hành đi nữa (thường ra vẫn có đối với một số người), vẫn còn có những công việc khác để làm. Làm lễ trễ giờ có thể gây khó khăn cho công việc của họ. Vả lại, dù không thực sự bận gì sau đó thì tâm lý của người đi lễ vẫn khó chịu khi phải chờ đợi. Chính sự khó chịu hoặc lo lắng làm cho tâm hồn họ không còn được sự thanh thản và sốt sắng.
- Giữ đúng quy luật phụng vụ. “Trong số những khía cạnh khác nhau của kỷ luật Giáo Hội, sự tuân phục đối với những luật lệ và quy định phụng vụ của Giáo Hội, nghĩa là trung thành với các quy tắc tổ chức việc phụng thờ Thiên Chúa theo ý muốn của Linh Mục Thượng Phẩm đời đời và Nhiệm Thể của Người, có tầm quan trọng đặc biệt… Việc ấn định các quy tắc phụng vụ thuộc thẩm quyền Giáo Hội tức Tòa Thánh mà thôi và, trong những điều Giáo luật quy định, thuộc thẩm quyền Giám Mục. Không ai khác, ngay cả linh mục, được phép thêm bớt hay thay đổi bất cứ điều gì trong phụng vụ theo ý mình”.[23][23] Linh mục chỉ là thừa tác viên, cử hành phụng vụ nhân danh Chúa Kitô và Giáo Hội, phải thi hành những gì Chúa và Giáo Hội dạy về việc này. Giáo dân có quyền được tham dự phụng vụ theo nghi thức của Giáo Hội thì linh mục có bổn phận cho họ được hưởng quyền đó, chứ không phải những gì theo ý muốn và sáng kiến riêng của mình. Đừng gây thắc mắc và chia rẽ nơi họ liên can đến việc cử hành phụng vụ.
- Thái độ cử chỉ của chủ tế. Muốn cho giáo dân tham dự Thánh Lễ sốt sắng thì chính chủ tế phải cử hành sao cho sốt sắng, qua thái độ, cử chỉ và lời đọc của mình. “Việc thiếu lưu tâm đến những khía cạnh biểu trưng của phụng vụ hoặc, hơn nữa, sự cẩu thả, vội vã, hời hợt và vô trật tự sẽ làm mất hết ý nghĩa đồng thời làm suy giảm chức năng của phụng vụ là làm tăng trưởng đức tin. Ai cử hành cẩu thả chứng tỏ đức tin yếu kém và không thể dạy người khác đạt tới đức tin. Ngược lại, cử hành tốt là một huấn giáo đầu tiên và quan trọng nhất về Hy Lễ Thánh”.[24][24]
Để được như vậy, phải luôn ý thức về công việc thiêng thánh sắp làm, và có sự chuẩn bị cần thiết ngay trước khi làm. Còn về lâu về dài, phải tập cho mình một thái độ nghiêm trang, một cung giọng tự nhiên, nhịp nhàng, những cử chỉ vừa phải và đúng phép, không như một kịch sĩ diễn trò cũng không phải một pháp sư vẽ bùa. Sự múa máy gây phản cảm của chủ tế có thể là một trong những nguyên nhân khiến nhiều giáo dân thích tham dự Chầu phép lành hơn là tham dự Thánh Lễ, dù họ biết Thánh Lễ có giá trị hơn. Ít ra khi chầu, người ta được thanh thản, đối diện trực tiếp với Thánh Thể, không phải thông qua một chủ sự làm cho họ chia trí và khó chịu.
Về việc ban bí tích Thống Hối hay Giải Tội, có nhiều điểm cũng cần được đề ra cho bác ái mục vụ. Thống hối, đặc biệt qua bí tích, là điều kiện cần thiết để có thể tin và được cứu độ, và để có thể lãnh nhận ơn ích khi tham dự mầu nhiệm thánh. Việc thống hối càng phải được nhấn mạnh trong một thế giới ít nhạy cảm với tội lỗi, với thực tại tội lỗi. Bởi vậy, người mục tử sẽ không ngừng dựa vào lời Chúa kêu gọi người ta thống hối nhất là qua bí tích.
Nhưng để giáo dân có thể làm việc này thì một trong những điều kiện là linh mục phải năng ngồi tòa. Không những có thời biểu ấn định việc ngồi tòa,[25][25] mà còn phải sẵn sàng giải tội bất cứ lúc nào khi có thể, nhất là cho những hối nhân có hoàn cảnh đặc biệt. Bác ái mục vụ đòi chúng ta phải sẵn sàng như vậy, giúp cho người ta tìm lại được tình yêu thương tha thứ của Chúa. Thường thi linh mục trẻ mới ra lò thích ngồi tòa hơn làm lễ có giảng, vì giảng chưa thông, còn linh mục cao tuổi, do “bệnh mục xương đã nhập vào mình” (Kb 3,16), không thể ngồi lâu nên thích giảng hơn giải tội. Nhưng trên thực tế, phải nói thành thật là lắm cha già lại siêng năng giải tội hơn cha trẻ. Cha trẻ muốn có những hoạt động này khác ở bên ngoài cho ra trò, chứ chuyện lủi thủi một mình trong tòa, đối diện với một hối nhân thôi, thì có mòi không ưa.[26][26]
Trong khi giải tội, cũng phải thể hiện lòng bác ái với hối nhân : kiên nhẫn khi hối nhân xưng có vẻ vớ vẩn hoặc không chuẩn bị kỹ ; không la rầy về những tội hối nhân phạm ; không to tiếng quá khiến hối nhân có thể cảm thấy xấu hổ với người khác. Nhiều trường hợp hối nhân chết khiếp khi đến với tòa có cha giải tội theo cung cách ấy. Thư luân lưu của Bộ Giáo sĩ viết : “Nhiệm vụ của linh mục trong nghi thức xá giải là đặt hối nhân trước Chúa Kitô, nhờ vậy, bằng sự hết sức tế nhị tạo điều kiện dễ dàng cho một cuộc gặp gỡ lòng thương xót Chúa”, và không quên cảnh báo : “Việc xưng tội giảm sút… gây thiệt hại cho đời sống luân lý và lương tâm của người tín hữu, nguy hiểm đó đôi khi là do sự sa sút phẩm chất phục vụ của thừa tác viên xá giải về phương diện thần học và mục vụ”.[27][27]
3. Người lãnh đạo cộng đồng.
Người mục tử được đặt làm thủ lãnh cộng đồng. Lãnh đạo là một vinh dự, đồng thời cũng là một trách vụ nặng nề (honor – onus). Đối với người mục tử chúng ta, vinh dự không phải là điều chúng ta tìm kiếm, nhưng trách vụ là điều chúng ta phải không ngừng và hết sức quan tâm.
Chúng ta đảm nhận chức vụ trong vai trò của Đức Kitô là Đầu. Qua bí tích Truyền Chức Thánh, chúng ta được Chúa ban quyền để làm công việc này. Đây là quyền thánh (potestas sacra) để phục vụ cho dân thánh của Chúa, nên được thực hiện khác với quyền cai trị trong một xã hội hay tổ chức dân sự. Tư cách của người thể hiện quyền này phải là tư cách của chính Đức Kitô là Đầu đã thể hiện, tức là lãnh đạo dân Chúa trong tinh thần bác ái yêu thương. Chức linh mục chính là “tình yêu của Trái Tim Chúa Giêsu”, nói theo cha sở họ Ars.[28][28]
Để có được tinh thần trên đây, người mục tử phải yêu Chúa trước đã. Chúng ta hẳn nhớ câu truyện Chúa Phục Sinh trao cho Phêrô quyền chăn dắt đàn chiên của Ngài, với đòi hỏi đi kèm như thế nào. “Này anh Simon, con ông Giona, anh có mến Thày hơn các anh em này không ?” (Ga 21,15). Chúa không đòi hỏi gì khác hơn là phải yêu Ngài. Chúa còn hỏi đi hỏi lại tới 3 lần để cho thấy tầm quan trọng của vấn đề. Mà quan trọng và cần thiết thật ! Không yêu Chúa, làm sao Phêrô có thể chăn dắt những con chiên được Chúa yêu thương và trao phó cho mình ?
Nơi người mục tử lãnh đạo cộng đồng hôm nay, Chúa cũng đòi hỏi như vậy. Có yêu Chúa, chúng ta mới có thể chuyển đạt tình yêu của Ngài cho các con chiên của Ngài. Có yêu Chúa, chúng ta mới có thể chăn dắt đàn chiên của Ngài.
Trong vai trò lãnh đạo, người mục tử tập họp dân Chúa, tổ chức cộng đồng, dẫn dắt đàn chiên, chăm lo cho sự sống của con chiên. Đi vào những khía cạnh cụ thể của vai trò này, thiết tưởng chỉ cần đọc lại những gì đã được quy định trong khoản 529 của Giáo luật. Khoản này đúc kết những chỉ thị chính yếu trong các văn kiện khác nhau của Tòa Thánh về những việc mà người mục tử phải ưu tiên để ý và thi hành, cũng như tinh thần phải có khi thi hành những việc này : “Để nhiệt thành chu toàn chức vụ chủ chăn, cha sở phải cố gắng biết các tín hữu đã được ủy thác cho mình chăm sóc ; vì vậy, cần thăm viếng các gia đình, chia sẻ những lo lắng, ưu tư và nhất là những tang tóc của các tín hữu và an ủi họ trong Chúa ; đồng thời sửa bảo họ cách khôn khéo nếu họ có những thiếu sót nào đó ; đối với những bệnh nhân, nhất là những người sắp qua đời, hãy lấy hết tình bác ái mà giúp đỡ bằng cách dùng các bí tích giúp họ vững lòng và phó thác linh hồn họ cho Thiên Chúa ; phải đặc biệt chú ý tới những người nghèo, những người đau khổ, những người cô đơn, những người bị đày biệt xứ cũng như những người đang gặp khó khăn đặc biệt ; cũng phải cố gắng sao cho các đôi vợ chồng và những người làm cha mẹ được nâng đỡ trong sự chu toàn những phận sự riêng của họ, và cổ võ sự tăng trưởng đời sống Kitô giáo trong gia đình”.
Tiếp đến, cũng trong khoản này, Giáo luật muốn cha sở hướng giáo dân lên một tầm mức cao hơn, trên bình diện Giáo Hội : “Cha sở phải nhận biết và thúc giục mọi tín hữu giáo dân góp phần riêng của họ vào sứ mệnh của Giáo Hội, bằng cách cổ võ các hiệp hội của họ vào những mục tiêu tôn giáo… cũng phải cố làm sao cho các tín hữu quan tâm tới sự hiệp thông trong giáo xứ và chính họ tự cảm thấy mình vừa là phần tử của giáo phận vừa là phần tử của Giáo Hội phổ quát, sao cho tham dự hoặc nâng đỡ những công trình nhằm cổ võ sự hiệp thông ấy”.
Các cha sở, hoặc nói chung là các mục tử, ai nấy đều biết rõ những trách nhiệm trên đây. Nhưng thực tế thì thi hành thế nào ?
Nói chung, các ngài ý thức sứ mệnh, cố gắng thi hành theo gương Chúa cũng như theo tinh thần lời Chúa dạy : “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em ; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc 10,43-44). Ngay trong Giáo Hội Việt Nam, không thiếu những tấm gương để đời của những mục tử như vậy.
Nhưng cũng phải nói thành thật, một số mục tử điều hành cộng đồng không có được phẩm chất như lòng Chúa mong ước. Chức vụ vương đế, lẽ ra phải được thể hiện theo tinh thần Tin Mừng, lại biến các ngài thành như những đế vương hoặc những ông quan thực sự. Lý do có thể ở nơi các ngài và có thể một phần cũng ở nơi con chiên. Các ngài đã không muốn biết đến những lời căn dặn như : người làm lớn không được bắt người khác phục quyền như nơi các dân (x. Mc 10,42), “đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đàn chiên” (1Pr 5,3), hoặc tự phụ tự mãn về địa vị làm cha của mình, về khả năng có thật hay tưởng tượng của mình so với giáo dân, nên có những cách hành xử cha chú, kẻ cả (paternalisme), độc đoán chuyên quyền (autoritarisme) gây ra những khó khăn, khổ sở chia rẽ trong cộng đồng. Có vô vàn lời càm ràm của giáo dân về cách hành xử này của các linh mục. Thái độ trên của người mục tử lại có vẻ được khích lệ do sự kính trọng, đôi khi thái quá, của giáo dân, nhất là những giáo dân chân chất miền quê, đối với các ngài. Nguyên một cách chào cha chẳng hạn, cũng phải “con xin phép lạy cha”, thì tránh sao cho linh mục khỏi lên nước ?[29][29]
Người mục tử chúng ta, suy nghĩ về bác ái mục vụ, phải thường xuyên tra xét về tư cách và cung cách hành xử trong vai trò lãnh đạo dân Chúa.
III. NHỮNG PHƯƠNG THẾ
VUN TRỒNG BÁC ÁI MỤC VỤ.
Bác ái là tình yêu được Thiên Chúa đổ xuống lòng ta (Rm 5,5), để ta thể hiện cho người khác, và đối với mục tử thì thể hiện đặc biệt cho các con chiên của mình. Tuy là ơn Chúa ban nhưng bác ái cần được vun trồng không ngừng để ngày một hoàn hảo hơn. Bác ái mục vụ cũng vậy. Có rất nhiều phương thế giúp chúng ta làm việc này. Ngoài những gì đã nói rải rác ở trên, xin đề nghị một vài phương thế chính.
1. Gắn bó với Thánh Thể.
Nếu Thánh Thể là trọng tâm sinh hoạt cộng đồng Kitô giáo, của đời sống người Kitô hữu nói chung, thì không những cũng phải là trọng tâm thừa tác vụ của người mục tử mà còn là trọng tâm của chính đời sống người mục tử. Thánh Thể là mầu nhiệm tình yêu. Gắn bó với Thánh Thể là gắn bó với nguồn mạch tình yêu, luôn được Chúa ban thêm tình yêu, được tình yêu này thúc đẩy để biết chia sẻ cho người khác qua thừa tác vụ của chúng ta.
Trong những phương tiện giúp chúng ta sống mầu nhiệm Thánh Thể thì Thánh Lễ phải ưu tiên, phải là mối quan tâm hàng đầu. “Tinh thần tư tế của linh mục là cố lo sao để nội tâm hóa những gì được thực hiện trên bàn thờ. Linh mục phải có một đời sống Thánh Thể tràn đầy và sốt sắng, để từ đó tìm được đà tiến và sức lực cho đời sống thiêng liêng của mình. Việc cử hành Thánh Lễ, cũng như hằng ngày viếng Đức Kitô nơi Thánh Thể… là những thời khắc đầy ý nghĩa và là một trợ lực không gì thay thế được cho đời sống thiêng liêng”.[30][30]
Có lẽ ở đây nên nhắc lại lời của Giám Mục nói với tân chức linh mục trong nghi thức trao bánh rượu : “Con hãy ý thức việc con làm, noi theo điều con thực hiện, và rập đời sống con theo khuôn mẫu mầu nhiệm Thập giá Chúa”.
Để giúp chúng ta ý thức thì ngoài việc chuẩn bị xa là học hỏi và suy niệm về Thánh Thể, thiết tưởng cần lưu ý đến việc chuẩn bị gần ngay trước Thánh Lễ. Giáo luật khoản 909 có lời khuyên chung chung như sau : “Linh mục đừng quên cầu nguyện để dọn mình thích đáng và xong lễ rồi đừng quên cám ơn Chúa”. Ngày xưa, trước giờ lễ có Giờ Kinh Laudes, có những kinh đọc tùy ý để dọn mình làm lễ,[31][31] mặc phần nào của lễ phục đều có kinh nguyện đi kèm. Nay tuy không còn, nhưng không vì vậy mà xao lãng sự chuẩn bị cần thiết.
Nhưng quan trọng hơn, chính là điểm cuối trong lời nhắc của Giám Mục : rập đời sống chúng ta theo khuôn mẫu mầu nhiệm Thập giá Chúa hoặc, nói như Chỉ Nam linh mục, nội tâm hóa những gì thực hiện trên bàn thờ. Việc truyền phép nhắc cho ta bổn phận phải biến đổi mình nên giống Chúa Kitô Linh Mục. Mầu nhiệm tế sát nhắc cho ta bổn phận phải tế sát mình để phục vụ Chúa Kitô. Sự tự hiến của Chúa Kitô trong việc trao ban mình nhắc cho ta phải hiến thân cho các linh hồn. Ba việc trên đây được cha Antoine Chevrier thâu tóm trong một câu nói thời danh : Le prêtre est un homme dépouillé, un homme crucifié, un homme mangé. Ba việc trên đây cũng chính là thực hiện điều chúng ta đã long trọng hứa trong ngày chịu chức khi Giám Mục hỏi : “Con có muốn ngày càng liên kết mật thiết hơn với Đức Kitô Thượng Tế, Đấng đã tự hiến mình cho Chúa Cha làm của lễ tinh tuyền vì chúng ta, và có muốn cùng với Người hiến thân cho Thiên Chúa để cứu độ loài người không ?”
Cũng như bánh và rượu, nhờ lời truyền phép, biến thành Thịt Máu Chúa, con người chúng ta, nhờ tiếp xúc gần gũi với mầu nhiệm, cũng phải biến đổi sao cho nói được như Phaolô : “Tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Khi cử hành Thánh Lễ, chúng ta không những là tư tế mà còn là tế vật, như Chúa Kitô Thượng Tế và Tế Vật, biết “hiến dâng thân mình làm lễ tế sống động, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12,1). Bàn tay chúng ta được xức dầu thánh không chỉ để làm các việc thánh, mà còn phải bị đâm thủng như bàn tay của Chúa Kitô trên Thánh giá. Nói khác đi, Chúa Kitô phải tìm lại được các dấu thánh khổ nạn của Ngài nơi ta. Và cũng như Chúa Kitô Thánh Thể ban mình cho ta làm của ăn, chúng ta cũng phải trở thành lương thực cho người khác, tiêu hao mình vì con chiên (x. 2Cr 12,15), đặc biệt ban cho họ những gì thuộc Thiên Chúa (tình yêu, sự sống, lời Chúa, chân lý của Thiên Chúa).
2. Thực hành sự khiêm nhu.
Trong số các gương mẫu của Chúa đã nêu trên, thiết tưởng người mục tử cần quan tâm tới một trong những gương mẫu này : sống khiêm nhu. Gương mẫu này đã được chính Chúa mời gọi chúng ta thụ giáo : “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29).
Hiền lành và khiêm nhường, hai đặc tính sóng đôi. Đó là hai mặt của một thái độ tâm trí. Có khiêm nhường là có hiền lành. Và chính khi có sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng, chúng ta mới có thể thật tình yêu thương con chiên. Hai đức tính này thuộc nền tảng của tình yêu, là cánh cửa đầu tiên mở vào con đường bác ái. Trước khi kêu gọi chúng ta lấy tình bác ái mà cư xử với nhau, Phaolô đã nhắc phải ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại (x. Ep 4,2).
Có thể có mục tử xấu, nhưng chắc không có mục tử dữ. Tuy nhiên, từ chỗ không dữ đến chỗ thực sự hiền lành, khoảng cách có khi còn khá xa, nhất là khi tính tự nhiên vào loại nóng. Có người cho rằng phải nóng tính mới được việc. Quả có thế thật trong một số trường hợp. Thế nhưng điều muốn nói ở đây không chỉ là được việc mà còn được lòng người. Con chiên làm mà lòng hậm hực, nhất là vì sợ cha nóng tính mà giữ thái độ kính nhi viễn chi là điều không hay. Chưa kể nóng quá đến chỗ nóng giận thì nguy. Giận quá mất khôn như người ta thường nói. Khi nóng giận, chúng ta có thể dễ dàng để lộ ra những lời nói hay hành động không phù hợp với tư cách một linh mục và mục tử.
Ở đây cũng cần phân biệt. Hiền lành không đồng nghĩa và đồng tình với nhu nhược, yếu đuối. Chính Chúa Giêsu, hiền lành và khiêm nhường đấy, nhưng không bao giờ lùi bước khi phải bảo vệ chân lý, luôn mạnh mẽ chống lại những gì xúc phạm tới phẩm giá con người, nhất là ơn cứu rỗi của họ. Hiền lành không phải là thiếu cá tính, “hiền như Bụt”, mặc ai muốn làm gì thì làm. Tuy phải đơn sơ như chim bồ câu, nhưng cũng phải khôn ngoan như rắn, Chúa nói vậy (x. Mt 10,16).
Lấy thí dụ về một cách thực hành bác ái mục vụ là sửa lỗi con chiên. Đây là một trong 7 mối thương linh hồn người ta (trong kinh Thương người có 14 mối), thường được đọc là răn bảo kẻ có tội. Trước một lỗi nặng của người khác, gây tác hại cho cả cộng đồng, khiêm nhường không lên án vì thấy mình cũng tội lỗi, là một chuyện, hiền lành để tỏ ra bao dung, muốn chín bỏ làm mười cho xong, là một chuyện, nhưng lợi ích của cộng đồng lại là chuyện khác. Có khi tự nhủ : hơi đâu mà lo, mặc xác nó ! Nhiều trường hợp không mặc xác được đâu. Có khi ngần ngại, sợ chả được tích sự gì, lại thêm mất lòng, gây thêm thù oán. Phaolô ngày xưa đâu có ngại làm mất lòng Phêrô khi mạnh mẽ chống lại vị Tông Đồ trưởng, vì Phêrô muốn người ngoại trở lại phải giữ những tập tục của người Do Thái (x. Gl 2,1tt). Dĩ nhiên, khi sửa lỗi, chúng ta không thể không nhớ tới lời khuyên của Phaolô : “Hãy lấy tinh thần hiền hòa mà sửa dạy” (Gl 6,1), và làm theo cách mà chính Chúa gợi ra : “Hãy đi sửa lỗi nó, một mình với nó thôi (Mt 18,5), trừ khi bất đắc dĩ phải làm cách khác. Đó là cách thể hiện bác ái mục vụ mà vẫn dung hòa được với tấm lòng hiền lành.
Mục vụ của chúng ta là sự phục vụ của người mục tử. Nhưng sự phục vụ này chỉ có ý nghĩa đích thực nếu làm không những vì bác ái mà còn phải có lòng khiêm nhường. “Đâu có khiêm nhường, đấy có bác ái” (Augustinô).[32][32] Bác ái và khiêm nhường cộng lại làm nên sự phục vụ theo Tin Mừng. Không có bác ái, chúng ta chỉ có thể phục vụ theo kiểu công chức phục vụ người dân, hoặc như kiểu người bán hàng phục vụ khách hàng. Có coi khách hàng là Thượng Đế đi nữa thì cũng chỉ vì hầu bao của khách hàng mà thôi. Nhưng có bác ái mà thiếu sự khiêm nhường, sự phục vụ của chúng ta có khi không phải là phục vụ người mà là phục vụ mình, hoặc chỉ là cái cớ để bắt người phục vụ mình.
Phục vụ mình là khi phục vụ không hoàn toàn vô vị lợi, không hẳn vì người khác, nhưng là muốn cho người khác thấy mình đang phục vụ, mong cho người khác hiểu là mình đang làm ơn cho họ. Về điểm này, Chúa Giêsu có những đòi hỏi triệt để : “Đừng để tay trái biết việc tay phải làm” (Mt 6,3). Một kiểu nói thật thú vị để diễn tả hành động ngược với những kẻ giả hình. Chẳng những không tìm cách rao báo cho mọi người biết, mà còn phải âm thầm khiêm tốn, không khoe khoang, không tự mãn, không thích hãnh diện về việc mình làm. Làm cốt cho người khác thấy, mong được người khác ca ngợi, thì dù có tất bật với việc phục vụ, việc này cũng chả còn mấy ý nghĩa. Phải luôn nhớ là “Đức Kitô đã không chiều theo sở thích của mình” (Rm 15,3). Đó là luật vàng của phục vụ.
Muốn phân biệt đâu là lý do thúc đẩy ta phục vụ, cứ xem những việc phục vụ nào ta hăng hái vui lòng làm, và những việc nào ta muốn tránh né. Khi phải làm cho ai một việc gì, cứ xem ta có sẵn sàng bỏ những việc đem lại danh giá, để nhận một việc âm thầm ít ai chuộng không. Việc phục vụ bảo đảm nhất là việc ta làm mà không ai biết đến, hoặc không nhằm để cho nhiều người biết đến, nhưng chỉ có Thiên Chúa ngự trong nơi bí ẩn thấu suốt mà thôi (x. Mt 6,4).
Phục vụ trong yêu thương và khiêm nhường còn ở chỗ không lấy cớ phục vụ để bắt người khác phục vụ mình. Điều này không hiếm, nhất là nơi những người lãnh đạo như mục tử. Khổ nỗi, thường thường chính đương sự lại không nhận ra hay không muốn nhận ra. Nó che giấu một tham vọng thống trị, một thói quen áp đặt cho người khác ý muốn hay cách thức hành động của mình. Nói tắt là muốn ra oai, chứng tỏ ta đây có quyền. Uy quyền trong tay một người như thế giống như một cái búa. Người đó có khuynh hướng coi mọi vấn đề như những cái đinh, chỉ biết lấy búa mà đóng, mà nện.
Xin ra ví dụ : thấy một việc mình cho là hay, một phương pháp là hợp, rồi chẳng bàn bạc với ai, hoặc có hỏi ý mà không nghe người nào, cứ thế bắt người khác cùng với mình làm theo đó, cho dù đa số người khác không đồng tình.
Phục vụ trong hoạt động tông đồ, lại nhiệt thành nữa, tự nó là điều tốt chứ đâu có xấu. Nhưng vì cung cách làm như vậy, chúng ta thực ra đã vô tình bắt người khác phục vụ mình, chứ không phải mình phục vụ người khác. Chúng ta đã không lưu ý đến những đau khổ bực bội gây ra cho con chiên. Thậm chí còn ngạc nhiên không hiểu sao con chiên lại không thích hoặc chê bai điều mình làm cho họ, không thấy những cố gắng của mình phục vụ họ. Do đó mà đâm buồn, thấy nản, trách con chiên vô ơn, bạc bẽo. Thực ra con chiên không thấy, không thích sự phục vụ của mình, vì mình đã phục vụ mà thiếu sự khiêm tốn, chỉ chiều theo sở thích riêng, theo đầu óc quen độc đoán và áp chế của mình.
Bởi vậy, cần biết khiêm tốn và kiểm điểm lại sự phục vụ của ta.
Dù sao, cũng nên giữ sự tự do của Tin Mừng. Khi phục vụ, đã đành chúng ta không coi mình hơn người khác, nhưng không phải lúc nào cũng nhất thiết coi mình ở dưới người khác. Không tự tôn mà cũng không tự ti. “Có những người tỏ ra rất khiêm nhường để đặt mình dưới người khác, nhưng lại không khiêm nhường để giống như họ” (Manzoni). Một nhận xét thật tinh tế.
Đôi khi sự phục vụ tốt nhất không ở chỗ phục vụ người khác, nhưng để người khác phục vụ mình. Ở đây, nhận cũng quý như cho, cũng là một cách cho. Bởi vậy, có lúc Chúa Giêsu đã để cho người khác rửa chân cho mình (Lc 7,38). Và Ngài có để cho các phụ nữ đi theo hầu hạ trong suốt hành trình truyền giáo cũng là theo ý hướng đó.[33][33]
***
Nếu bác ái huynh đệ ngày càng được coi là dấu chỉ đặc trưng và khả tín nhất của một người Kitô hữu, thì bác ái mục vụ cũng được coi là dấu chỉ đặc trưng và khả tín nhất của một mục tử. Điều quan trọng là ý thức và nhất là thực hành. Chúa nói với các môn đệ : “Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành thì thật phúc cho anh em” (Ga 13,17). Vấn đề chẳng qua là thực hành. Học hỏi bác ái mục vụ bằng cách tập thực hành bác ái mục vụ và rà soát xem thời biểu, cách sống và công việc đã giúp cho việc thực hành này như thế nào. Cố gắng vươn tới hình ảnh về một mục tử như lòng Chúa mong ước.
Trên bia mộ của một cha xứ, người ta đọc được những hàng chữ sau đây :
PASCEBAT GREGEM (ngài đã chăn dắt đoàn chiên)
AMORE |
(bằng tình yêu) |
MORE |
(bằng đời sống tốt) |
ORE |
(bằng lời giảng dạy) |
RE |
(bằng những gì mình có) |
Tuy là cách chơi chữ, câu trên đây cũng cho thấy vị linh mục quá cố đã chu toàn sứ mệnh của mình như thế nào. Tất cả đều phát xuất từ tình yêu. Ngài đã chăn dắt đoàn chiên của ngài bằng tấm lòng bác ái.
Ước mong cho mọi mục tử trong Giáo Hội, nếu được người khác nhớ đến, thì cũng được nhớ đến bằng những lời tương tự.
Lm. Micae Trần Đình Quảng
Ngày xưa, có giòng họ Điền, anh em ăn ở với
nhau từ đời nọ sang đời kia rất là hòa thuận. Về sau, họ này chỉ còn lại có
ba anh em. Ba người vẫn chung sống với nhau vui vẻ tử tế, cho đến khi người
thứ hai lấy vợ. Người vợ tính tình ích kỷ, lại hay sinh sự, lắm lời, nên
không khí trong gia đình không còn được như xưa. Rồi một hôm người vợ nhất
quyết đòi chia gia tài của ba anh em và bắt ép chồng đi ở riêng. Người chồng
ban đầu nghĩ tình anh em bấy lâu sum họp mà không nỡ chia lìa, song rồi vì
người vợ ngày đêm cằn nhằn khó chịu, kiếm chuyện gây gỗ trong nhà, nên rồi
cũng đành phải nghe theo vợ, nói với anh em đi ở riêng. Người anh cả khuyên
can không được cũng đành phải chia của cải cha mẹ để lại ra làm ba phần đều
nhau. Chỉ còn một cây cổ thụ trước nhà, cành lá sum sê xanh tốt, chưa biết
làm cách nào để chia cho đều. Ba anh em cùng nghĩ ngợi, rồi sau cùng quyết
định gọi thợ về hạ cây xuống, cưa xẻ thành ván để chia làm ba phần.
Đến hôm định hạ cây xuống, buổi sáng ba anh em ra vườn thì thấy cây cổ thụ đã khô héo tự bao giờ. Người anh cả bèn ôm lấy cây mà khóc nức nở. Hai người em thấy vậy mới bảo anh:
- Một thân cây khô héo, giá phỏng là bao mà anh phải thương tiếc như thế?
Người anh cả đáp lại rằng:
- Có phải anh khóc vì tiếc cây đâu. Song nghĩ vì loài cây cỏ vô tri nghe thấy sắp phải chia lìa mà còn biết buồn phiền khô héo đi, huống gì chúng ta đây là người cùng ruột thịt. Anh thấy cây mà suy đến cảnh ba anh em chúng ta, anh mới phải khóc.
Nghe anh nói, hai người em hiểu ý, đưa mắt nhìn nhau rồi cùng òa khóc. Người
vợ xúi chồng đi ở riêng nghe thấy vậy, cũng rơm rớm nước mắt, đâm ra hối hận,
cúi đầu xin lỗi hai anh em và thề không bao giờ còn tính đến việc chia lìa
nhau nữa.
Từ hôm đó, ba anh em ở lại với nhau êm ấm, vui vẻ như trước.
Cây cổ thụ nọ đã khô héo cũng trở lại xanh tươi như cũ.
Tin vui sưu tầm
Sáng
ngày 25-10-1988, bà Penny Thomas - tín hữu Công Giáo Hoa Kỳ -
bồn chồn nhìn chiếc đồng hồ treo tường nhà bếp và tự hỏi, sao giờ này mà
Candi, đứa con gái út lên 7 tuổi của bà vẫn chưa thức giấc, chuẩn bị đến
trường? Bé Candi rất yêu thích đi học lắm mà! Cứ mỗi buổi sáng, cô bé lại
nằng-nặc đòi mẹ chải tóc cho, rồi tự tay chọn chiếc áo đầm cô ưa thích và
mặc vào .. Nhưng sáng nay vẫn chưa thấy cô bé xuất hiện!
Lo lắng, bà Penny bước vào phòng con và thấy Candi đôi má đỏ hồng, nằm bất
động trong đám chăn mền ngổn ngang.. Bé bị sốt cao độ. Thì ra bệnh đau gan
tái phát trầm trọng. Bé Candi được ghép gan lần đầu tiên vào năm 1982.
Bà Penny vội vàng chở con đến ngay nhà thương Nhi Đồng ở Pittsburgh,
thuộc bang Pennsylvania. Các bác sĩ khám phá ra mật trong gan cô bé
bị vỡ tung và đang chuyển vào máu. Cần phải thay gan cho cô bé tức khắc.
Candi được đánh thuốc mê và chờ đợi, nếu may mắn tìm được một cái gan, người
ta sẽ thay ngay cho cô bé.
Vào cùng một ngày
đó, nơi thành phố bên cạnh, bạn tí hon của Candi ngã bệnh nặng. Đó là bé
Jason, 5 tuổi. Cậu bé mang chứng bệnh như Candi và được chuyển ngay tới nhà
thương nhi đồng Pittsburgh để chữa trị, vì nơi đây có bác sĩ nổi tiếng
Thomas Starzl, người thành công trong vụ ghép gan đầu tiên vào năm 1963.
Mẹ của Jason là bà Nancy Point, nữ y tá bệnh viện Nhi Đồng Washington. Do đó
bà biết rõ bệnh tình Candi, ngày cô bé được chở đến đây lần đầu tiên, trước
khi được chuyển sang bệnh viện Nhi Đồng ở Pittsburgh.
Khi cậu bé Jason con bà bị đau gan, bà Nancy liên lạc với bà Penny hỏi ý
kiến. Từ đó hai gia đình Thomas và Point, liên lạc với nhau thường xuyên và
hai bé Candi-Jason trở thành đôi bạn tí hon, khắng khít nô đùa bên nhau.
Ngày hôm nay hai bé ngã bệnh nặng và cùng vào nhà thương Pittsburgh.
Nơi hành lang bệnh viện, hai bà mẹ Penny và Nancy tình cờ chạm mặt nhau, và
chỉ lúc ấy hai bà mới biết cả hai đứa con đang lâm nguy.
Đang bồn chồn lo lắng, thì bác sĩ Thomas Starzl xuất hiện. Ông tiến về phía
hai bà mẹ. Bác sĩ nói:
- Chúng tôi vừa kiếm được một gan và Candi cần được ghép gan. Nhưng lúc
này đây, chúng tôi có thể giữ cho tình trạng của cô bé không trầm trọng
thêm. Trái lại, trường hợp của bé Jason đang lâm nguy và cần được ưu tiên
ghép gan tức khắc!
Rồi trịnh trọng quay sang bà Penny, bác sĩ Stazl hỏi:
- Chúng tôi phải làm gì bây giờ? Phải quyết định ra sao?
Bà Penny nhìn sang bà Nancy, đang rươm rướm nước mắt.
Bà phải xử sự như thế nào đây? Có thể nào một người mẹ, lại đặt trên cán cân
hai mạng sống: mạng sống chính con mình và mạng sống một trẻ thơ khác? Làm
sao bà dám tin chắc rằng, rồi đây sẽ tìm được một cái gan khác, kịp thời cứu
sống con bà???
Hiểu rõ hoàn cảnh đau thương, bác sĩ Starzl, im lặng chờ đợi. Lúc đó vắng
mặt chồng, bà Penny phải tự mình giải quyết vấn đề quan trọng nhất trong
đời!
Ngay lúc đó, bà Penny nghĩ bé Jason được quyền ghép gan trước. Sau đó, chỉ
cầu mong tìm được cho con gái bà một cái gan khác.
Thu hết can đảm, bà Penny trả lời với bác sĩ:
- Xin ghép gan cho bé Jason trước!
Bà Nancy cảm động ôm chầm lấy bà Penny và chỉ nói được vỏn vẹn câu: ”CÁM
ƠN”!
Ba phút sau, bé Candi được đem ra khỏi phòng mổ và thay vào đó bé Jason.
Cuộc mổ diễn tiến tốt đẹp và thành công.
Trong khi đó bé Candi tiếp tục chờ cơ may, có được một cái gan cho mình.
Tâm lòng bà Penny thật bấn loạn. Mỗi một ngày qua, mang thêm mối lo lớn cho
bà. Mỗi sáng thức giấc bà tự nhủ:
- Liệu hôm nay có tìm được một cái gan cho bé Candi không?
Cứ thế ba tuần lễ dài đằng đẵng trôi qua. Bà Penny mất hết 14 kílô.
Mãi đến ngày 21-11-1988, bé Candi được ghép gan và thoát chết!
Ngày nay, cả hai bé Candi và Jason đều khỏe mạnh. Mỗi lần nhìn hai bé nô đùa
bên nhau, bà Penny cảm thấy thật sung sướng. Bà thổ lộ:
- Tôi biết rằng, hy sinh của mình mang lại hoa quả. Ngày tôi bằng lòng
nhường cái gan, đáng lý của bé Candi, cho bé Jason, tôi tin rằng, THIÊN CHÚA
sẽ có cách cứu con tôi khỏi chết. Giờ đây, mỗi ngày tôi dâng lời cảm tạ
THIÊN CHÚA vì Tình Yêu bao la của Ngài.
(”Reader's Digest Sélection”, Juin/1992, trang 7-14).
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
Giáo dục con cái
NỀN TẢNG
Cơn bão số 6 Xangsane chĩ quét qua Đà Nẳng và Huế hơn hai tiếng đồng hồ, nhưng đã để lại nhiều tổn thất về người và của. Chuyện đó xin miễn bàn bởi vì ai cũng biết. Ít ngày sau cơn bão, bản tin buổi trưa VTV1 thông báo hàng hóa bán cho người dân vùng bão trở về sau khi trốn chạy khỏi cơn bão đã tăng lên, lúc đầu chút chút, nhưng lúc sau tăng lên gấp ít lần, nhất là mì gói, và vật liệu xây dựng như tôn, gạch ngói. Người dân vùng bão lại chịu thêm một cơn bão khác, cơn bão từ trong lòng đất, từ trong những người anh em giàu có thổi vào người anh em nghèo khổ thiếu may mắn. Tốc độ gió của thứ bão này không mạnh nhưng cơn bão này không biết đâu mà tránh. Chẳng ai cứu họ (và trợ giúp) họ khỏi thứ bão tố do lòng tham và lợi nhuận của chính những người anh em. Nhà nước kêu gọi cứu trợ. Nhà nhà kêu gọi cứu trợ. Người dân đóng góp tại nơi làm việc, tại khu xóm, qua những đoàn lạc quyên. Những người anh em tỉnh bơ bốc lột người anh em mình bằng cách tăng giá hàng như thế là do đâu? Có lẽ chẳng khó tìm câu trả lời: Tại thiếu nền tảng đạo đức.
7 giờ 45 ngày thứ bảy 23-9-2006, đài truyền hình VTV1 phát đi một tin tức (nghe thật tức mình). Người ta (vâng lại cũng con người) ở Hải Phòng nhập về hàng trăm ngàn tấn rác thải và bình ắc qui phế thải từ những nước khác. Những thứ rác này được “tút lại” và biến thành hàng hóa cho người anh em trong nước xài! Vâng, đấy là lòng thương người của những người anh em cùng chung màu máu đỏ, da vàng! Họ tính toán và họ hưởng lợi. Chẳng khó tìm câu trả lời cho việc làm đó: Vâng, đó chính là thiếu nền tảng đạo đức. VTV1 cũng báo cáo là sau đó nhà nước phải tốn công sức tìm cách tái xuất khẩu những thứ đồ phế thải như vậy. Lại thêm tốn tiền.
Báo Phụ Nữ số ra ngày 29-9-2006 có bài viết: Chuyện thường ngày ở… viện. Viện đây là bệnh viện, và chuyện thường ngày ở đây là chuyện nạo phá thai (NPT) ở thanh thiếu niên. Tại sao vậy? Quan hệ tình dục ở lứa tuổi thanh thiếu niên không chỉ khá phổ biến ở đô thị, mà đang xuất hiện ngày càng nhiều ở các vùng nông thôn. Thống kê của Hội Kế Hoạch Hóa Gia Đình Việt Nam báo động: “Cả nước có khoảng 20% số thanh thiếu niên tìm kiếm dịch vụ nạo phá thai, 5% em gái sinh con trước 18 tuổi, 15% sinh con trước 20 tuổi.
Sáu tháng đầu năm 2006, Trung Tâm Chăm Sóc Sức Khỏe Sinh Sản TpHCM nhận được con số 45.174 ca nạo phá thai từ báo cáo tổng kết của tất cả các bệnh viện, trung tâm y tế có dịch vụ kế hoạch hóa gia đình trong toàn thành phố thuộc hệ thống y tế công cộng. Như vậy chỉ riêng TpHCM, mỗi năm con số NPT ước tính khoảng 100.000 ca. Đây là con số thuộc loại “nhất nhì” thế giới. Tuy nhiên đó chưa phải là nhiều vì người ta chưa tính tới vô số những phòng khám dưới mô hình y tế tư nhân đủ sức và chia sẻ “khách hàng” có nhu cầu NPT. Đây là sự lựa chọn của nhiều cô gái trẻ muốn cho mọi việc được giải quyết nhanh chóng và êm thắm. Do vậy con số NPT tại các địa chỉ tư nhân, thậm chí ở cả những phòng mạch làm “chui”, được phỏng đoán là cao hơn trong hệ thống y tế công cộng. Do đâu mà có hiện tượng (đã trở thành phong trào NPT) như thế? Chẳng phải do nền tảng đạo đức gia đình hay sao?
Nền là cái gì vững chắc nằm bên dưới khối sức nặng của căn nhà. Tảng là phần kết cấu to lớn có chức năng kết hợp làm cho cái nền vững chắc. Tôi có người bạn đậu tiến sĩ ngành đúc bê tông bên Canada và hiện đang dạy đại học bên đó. Tôi nói đùa với anh: “Đúc bê tông như anh cần gì phải học tới tiến sĩ. Ơ đây người ta làm hà rầm. Có sao đâu! Hư thì sửa! Chuyện nhỏ”. Anh cười. Dĩ nhiên nụ cười méo xệch. Khi về nước, chạy trên những con đường thiếu “cái tảng” bên dưới cái “nền” lung lay, lở lói, anh cười: “Chịu!” Sao lại “chịu”? – Thưa, vì thiếu cái nền tảng. Cái thứ nền tảng không nói ra ai cũng biết. Cũng như thấy mấy ông kinh doanh làm giàu ngay trên người anh em bão Xangsane không thể không biết cái lợi của mình là cái khổ biết chừng nào cho người anh em khác đang chịu cảnh màn trời chiếu đất! Nhưng chẳng có cái nền đạo đức nên lòng tham sẵn sàng che lấp lương tâm.
Gia đình cũng vậy. Không có nền tảng thì chẳng ra làm sao. Một gia đình được bắt nguồn từ thế hệ thứ nhất không chồng mà có con, hay có năm bảy dòng con thì đến đời con đời cháu cũng không thoát khỏi “cái nghiệp chướng” nhiều dòng con như ông bà, cha mẹ. Người nông dân dọn ruộng trồng lúa phải cẩn thận như thế nào trước khi gieo mạ? Người trồng rừng dọn dẹp cánh rừng vô cùng cẩn thận trước khi hạ cây con xuống thành hàng, thành lối. Họ chẳng coi thường những việc cần làm trước tiên đó.
Gia đình bà X. là một thí dụ. Bà khoe với mọi người sự “hạnh phúc” và “sung sướng” của mình vì cha mẹ chẳng bao giờ bắt con gái phải lau nhà, rửa chén. Thậm chí nấu ăn cũng chẳng lo bởi vì cả nhà thường xuyên ăn cơm tiệm. Anh con trai cưới vợ về, bà cho “hai cháu” đi tuần trăng mật một tháng! Câu chuyện đó do chính “bà con dâu” kể lại trước mặt bàn dân thiên hạ. (Nhiều khi tôi nghĩ: “bà nội này NỔ quá” vì làm gì có tuần trăng mật kéo dài như vậy. Chán bỏ mẹ!) Còn cậu con bé tí của bà mỗi ngày đi học với người làm đi bên cạnh xách cho cậu cái cặp. Cậu chỉ việc ưỡn ngực tới trường. Cô con gái lớn học tiểu học tại một trường quốc tế. Sáng sáng khi “cô chiêu” đi đến cổng trường, cô được tiếp đón bởi hai hàng kiều nữ xinh như mộng tuổi mười bảy, mười tám. Rồi cô giáo “tây” từ bên trong đi ra đón “cô chiêu” vào lớp. Một ông thầy giáo già đi qua ngôi trường “quốc tế” ấy chép miệng (y như cái chép miệng của anh bạn tiến sĩ đúc bê tông bên xứ Canada). Tại sao ông giáo già lại chép miệng? – Có gì khó hiểu? Họ đã đặt mấy đứa nhỏ trên cái “nền” làm bằng vải nhung. Đứa nhỏ lớn lên một sẽ làm nghề thương mại để chuyên bán vật liệu xây dựng cho những vùng bị bão lụt. Hai là sẽ rơi tõm xuống vũng bùn xã hội vì thấy sao cuộc đời không “cưng chiều” mình như “ông bà cố”, rồi cũng sẽ đi nạo phá thai vì đời đâu phải lúc nào cũng vui chơi mà không phải trả giá. Hoặc ba là sẽ tỉnh như con sáo sậu khi thấy người anh em bên cạnh đổ mồ hôi, sôi bọt mép để kiếm sống. Những đứa trẻ như vậy lớn lên sẽ chỉ biết có mình, bởi vì “những con người bình thường không ai không phải đổ mồ hôi sinh sống”.
Trên trang báo này, có lần tôi đã kể một câu chuyện có thật, do một người bạn cùng dạy học chung tường thuật. Anh nói: “Bố mình cưng chiều mình lắm. Đi học thì có xe xích lô chở. Ao quần có người làm giặt giũ và ủi cho ngay thẳng. Ong cụ không cho tập thể thao, không cho học bơi, học nhảy. Còn chuyện nấu nướng thì tuyệt nhiên không bao giờ đụng ngón tay. Khi lấy vợ, ông chọn cho một người phụ nữ vô cùng tháo vát. Mọi chuyện trong nhà chị lo hết. Đến khi anh lên đường đi nước ngoài tu nghiệp, chị lo sốt vó vì … bạn biết đấy, đến luộc cái trứng gà mình cũng không biết làm!” Cũng may cho anh, trong nhóm thầy cô du học đó có một chị. Thế là bà vợ anh gởi gấm “ông chồng cậu ấm của mình cho người phụ nữ cùng đi trong đoàn du học!” Hú vía. Anh kể tiếp: “Rút kinh nghiệm, thằng con trai mình phải làm việc nhà, tự nấu nướng, giặt giũ áo quần, phải học bơi, học đàn, học võ và phải tham gia các đoàn công tác xã hội”. Tạo cho con cái nền tảng vững chắc trên cái tảng to đùng không phải là khôn khéo hay sao. Cha mẹ có cưng chiều cho mấy cũng không thể theo con từng bước trong sinh hoạt hằng ngày. Đó là chưa kể đến khi nhắm mắt xuôi tay, chẳng lẽ lại “xin ông trời” cho sống thêm ít chục năm nữa để lo cho con cho cái! Bà X. kể trên cũng vậy. Chưa bao giờ trong những cuộc gặp mặt chung mà bà thò tay khiêng bàn ghế, hay sắp xếp chén đĩa những bữa ăn chung tập thể hoặc cầm cái chổi quét dọn sau khi tiệc đã tan. Chị chỉ xách cái bóp đầm đi lên đi xuống và cười cười khi thấy các anh chị khác, có cả các cô bác tuổi ông tuổi bà của chị lao vào việc dọn dẹp quét tước. Chẳng ai khen, nhưng họ vẫn làm việc cách vui vẻ. Nhưng có lẽ riêng chị thì thích thú vì “Mấy người làm kệ xác mấy người. Ai bảo ngu ráng chịu!”
Tại Hội Nghị Gia Đình Toàn Thế Giới ở Roma năm 2000, có một đề tài khiến ai cũng phải suy nghĩ. Đó là phải “dạy cho con cái những đau khổ của cuộc sống” để khi lớn lên chúng biết yêu cuộc sống và yêu người anh em chung quanh mình. Nhà văn Guyau nói: “Người ta sống thực sự đầy đủ khi người ta sống vì kẻ khác”. Còn Alfred de Mosset lại nói: “Người sống tồi là người chỉ sống cho riêng mình!”. Cha mẹ và gia đình là người chuẩn bị cho con cái bước vào cuộc sống. Họ chính là cái nền tảng cho con cái lớn lên thành con người hữu dụng.
Trần Bá Nguyệt
Đọc thư thứ nhất Thánh Phêrô tông đồ 3,1-9
Cổ tích dân gian người Xưgan, một dân tộc thuộc Nga kể rằng:
Tại làng kia, trong một gia đình có ba anh em trai đến tuổi lập gia đình. Họ đến xin ý kiến cụ Pkhurô là người già và khôn ngoan nhất trong làng, được mọi ngưòi kính trọng. Cụ già khôn ngoan ra lệnh cho ba anh em:
- Lão sẽ giúp các anh toại nguyện. Nhưng trước hết, các anh hãy lên núi, mang về một tặng phẩm mà mỗi người định trao cho hôn thê của mình. Trái tim quyết định ra sao, thì cuộc đời các anh sẽ được như vậy.
Cả ba vội vã lên đuờng. Anh cả sục sạo trên sườn núi, bới tìm thật lâu, anh đào được một thỏi vàng. Anh nghĩ thầm: Đây phải là quà tặng "hết ý" cho người vợ tương lai của mình.
Anh thứ rảo khắp núi, mãi khi trời tối, mới bắn được một con hươu xinh đẹp, anh rất hài lòng với đồ tặng này.
Còn em út, chùn chân mỏi gối đi tìm vật tặng từ sáng sớm, kiếm mãi trên sườn núi, anh ngắt được một bông hoa đỏ thắm tươi nở và cố gìn giữ đưa về khi trời vừa tối.
Lần lượt cả ba trình bày món quà trước mặt cụ Pkhurô theo trái tim mỗi người. Anh cả đưa ra thỏi vàng. Cụ già gật gù: "Món quà của anh vừa đắt giá, lại vừa đẹp. Xem ra anh thích giàu có. Vì thế, anh cần có một cô vợ biết giữ của. Đây xin trao cho anh một người con gái tham lam nhất làng"
Tiếp đến, khi anh thứ đặt món quà của mình trước mặt, cụ già nói: "Quà tặng cho người vợ tương lai của anh là xác một con hươu. Như vậy, vợ anh phải là người hay ăn". Và cụ đã dẫn đến anh một cô to béo nhất.
Cuối cùng, khi nhìn thấy món quà của người em út, cụ Pkhurô mỉm cười: "Xin mọi người hãy coi, chàng trai trẻ này đã biết tìm cái đẹp. Vì thế, chàng ta xứng đáng có được một người vợ đẹp như hoa". Nói xong, cụ già dẫn đến cho anh một thiếu nữ Xưgan xinh đẹp nhất làng.
*
Chuyện cổ tích trên nói lên ý nghĩa này, là khi lập gia đình, Anh Chị ưa chọn cho mình một người yêu đẹp như ý. Điều này cũng hợp lý, vì chẳng ai dại đi lấy một ngưòi mình không ưa, không đẹp. Thế nhưng, thế nào là đẹp? Đẹp với tôi, nhưng có khi lại xấu với người thì sao?
Để giúp thêm vào việc chọn lựa này, tôi xin nêu lên tiêu chuẩn căn bản và cần thiết này. Đó là: Hãy Biết Sống Cuộc Đời Vợ Chồng Bằng Sự Hoà Hợp Thân Xác Và Tâm Hồn.
1/ Vợ chồng phải sống hoà hợp thân xác.
Khi lập gia đình, Anh Chị được vinh dự nối tiếp công cuộc sáng tạo của Chúa ở trần gian. Vì thế, Chúa truyền dạy Anh Chị, khi thành vợ chồng, phải nên một thân xác. Bởi đó, chồng yêu vợ chính là yêu mình, vợ yêu chồng cũng là yêu mình vì không ai lại ghét xác thịt mình bao giờ. Những ai không bước vào đời sống gia đình hoặc chưa lãnh bí tích hôn nhân không được phép yêu "cái mình" như thế. Ngay cả người có đôi bạn, sự hoà hợp thân xác chính là biết sống cho bạn đời, sống vì xương thịt mình chứ không cho tính ích kỷ thấp hèn của mình.
2/ Vợ chồng phải sống hoà hợp tâm hồn.
Đây là điểm chủ yếu, vì nếu chỉ hoà hợp thân xác mà không hoà hợp tâm hồn thì chồng hay vợ sẽ coi người bạn đời của mình như một mối lợi, còn lợi là còn xài, bất lợi thì không dùng nữa hoặc chán ghét bỏ đi.
Hoà hợp tâm hồn chính là hoà hợp bằng cả tình yêu lẩn ý chí. Nghĩa là luôn thăng tiến người yêu, luôn xây dựng hạnh phúc cho người mình yêu. Vì thế, muốn hoà hợp tâm hồn, Anh Chị phải có lòng kính trọng nhau và hy sinh cho nhau. Không kính trọng và hy sinh thực tình cho nhau, Anh Chị rất dễ coi thường nhau và như vậy sẽ tan vỡ vì thiếu hạnh phúc bền chặt.
*
Đám cưới nào tôi cũng thấy chú rể đeo bông trước ngực, cô dâu cầm hoa trên tay.
Bông hay hoa là đồ vật diễn tả cái đẹp và người đeo bông cầm hoa muốn tăng thêm cái đẹp nơi họ. Đẹp như hoa! Tươi như hoa.
Vì thế, khởi đầu cuộc sống lứa đôi từ ngày hôm nay, tôi cầu chúc cho Anh Chị được trở nên những bông hoa tươi đẹp, sống động. Muốn được vậy, Anh chị cần sống hòa hợp thân xác và tâm hồn bằng sự kính trọng và hy sinh cho nhau không ngừng. Hoa vật chất rồi sẽ tàn vì không có sinh lực, nhưng hoa đời Anh
Chị sẽ tươi đẹp mãi nếu có ơn Chúa tiếp sức.
Trong thánh lễ này, mỗi người chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau, đặc biệt cho đôi tân hôn này, được trở nên những bông hoa sống dâng lên Thiên Chúa là tình yêu và làm tươi đẹp cuôc đời.
Lm. Giuse Bùi Văn Khiết Tâm
Lạng Sơn ngày ….
Bạn thân mến,
Mình theo ÐC Lạng Sơn lên Nà Toòng, thuộc giáo xứ Bó Tờ, cách TGM Lạng Sơn 140km để cử hành lễ an táng cho bà Maria Ký, người dân tộc Tày. Một đám tang đơn sơ, nhưng đã để lại cho mình những ấn tượng thật khó quên.
Ấn tượng thứ nhất là cái chết của người quá cố. Bà Ký chết vì quá thương con. Con gái bà chết vì bệnh ung thư. Quàng xác con tại nhà chờ ngày chôn cất, bà Ký không cầm nổi nước mắt khóc thương. Và khi xác con chưa kịp đưa ra đồng thì mẹ cũng theo con cho thỏa nỗi nhớ thương. Bà chết sau con gái 4 ngày !
Ấn tượng thứ hai là gia đình của bà Ký. Ðây là gia đình công giáo duy nhất trong làng Nà Toòng.
….
Chuyện ông Ký trở lại đạo cách đây hơn 70 năm cũng thật là hi hữu. Theo lời ÐC Lạng Sơn thì hồi đó gia đình ông Ký tội nghiệp lắm. Mẹ ông sinh ba bốn lần nhưng đứa con nào cũng chết sớm. Khi sinh ra ông Ký, thấy con èo uột, hết bệnh này đến bệnh kia, bà lo lắm, chỉ sợ thằng bé rồi cũng bị "ma" bắt như các anh, các chị nó thôi. Thế rồi một hôm, nghe người ta mách, cách làng Nà Toòng khoảng 15km, có ông cha theo đạo thờ “Cái Chúa” giỏi lắm. Cứ mang con ra đó rửa tội, “Cái Chúa” sẽ phù hộ, không để “ma” bắt mất đâu. Nghe lời, người mẹ mang bé Ký ra xin “ông cha” rửa tội. Ông cha dậy bé Ký làm dấu thánh giá, đọc kinh lạy cha, cho bé Ký quyển sách kinh nhỏ rồi rửa tội cho bé. Về nhà ít lâu, bé Ký tự nhiên ăn được, ngủ được, người béo khỏe ra. Lớn lên đi học, lại có trí nhớ tốt hơn chúng bạn, thế mới lạ!
Mấy năm sau đó, chiến cuộc nổ ra, dân làng ly tán. Không có linh mục tới lui nên nhà thờ Bó Tờ cũng thành nơi hoang vắng. Mẹ của Ký cũng chẳng nghĩ gì đến việc mình có đứa con “đi đạo” nữa. Và cứ thế, năm tháng dần trôi, chốn sơn khê heo hút này, dường như chẳng còn ai biết là có “Cái Chúa” ở trên đời.
Thế rồi một hôm, người mẹ làng Nà Toòng ấy giật nẩy mình khi nghe đứa con mình mang đi rửa tội, đem cho “Cái Chúa” ngày xưa ấy, xin phép làm bàn thờ kính “Cái Chúa” ở trong nhà. Bà tự nhủ : Mình đem nó “rửa tội”, cho nó theo “Cái Chúa" là chỉ có ý mong nó khỏi chết, chứ đạo nghĩa gì đâu. Làng này, mọi người theo “thày mo” tất, có ai biết “Cái Chúa” là gì. Ðể nó làm bàn thờ kính “Cái Chúa”, người ta không cười vào mặt cho à ! Nghĩ thế, bà cương quyết từ chối, rồi nói thật với con: Mẹ để con “đi đạo" là cốt cho con khỏi chết thôi. Giờ con khỏe mạnh thế này, cần gì phải giữ nữa. Nhưng anh Ký cương quyết thưa:
- Mình đã tin “Cái Chúa” thì phải tin cho thật. Ðã “đi đạo” thì phải giữ cho tròn. Nếu Mẹ không bằng lòng, con sẽ ra ở riêng để làm bàn thờ, vì con đã tin “Cái Chúa”.
Thấy con khẳng khái nhất mực, tuổi mình cũng đã cao, nó giận, nó ra ở riêng thì mình biết lấy ai săn sóc, nên cuối cùng bà mẹ cũng bằng lòng.
Những năm khó khăn ấy kiếm đâu ra ảnh tượng mà làm bàn thờ nên anh Ký chỉ biết lấy than vẽ trên vách nhà hình cây thánh giá, bên dưới nắn nót hàng chữ “Tôi tin Thiên Chúa Ba Ngôi”, thêm một ngọn đèn dầu nhỏ trên chiếc bàn con. Chỉ bằng ấy thôi cũng đã đủ cho một tấm lòng thành diễn tả niềm kính mến.
Dân làng Nà Toòng có ai biết “Cái Chúa” là gì. Thấy bàn thờ nhà Ký chẳng có hương hoa, không có hình ảnh ông bà, khác hẳn bàn thờ nhà họ, chỉ biết lắc đầu bảo Ký: “Bàn thờ nhà mày lạ quá, chẳng có nến hương, chẳng có tiên tổ, giống hệt bàn bán thịt lợn, Ký ạ.” Nghe thế, Ký chỉ cười cho qua câu chuyện, chẳng biết nói gì hơn.
Vì Ký theo đạo lạ, nên dân làng tẩy chay. Mỗi khi có cúng giỗ, “làm then”, mỗi lần dân làng mở hội, chẳng ai thèm mời Ký nữa. Họ bảo: Nó theo “Cái Chúa” phản bội dân làng, mình cần gì nó nữa. Nhưng dù họ có giận, Ký cũng chẳng để lòng. Anh vẫn tham gia việc làng, vẫn vui vẻ giúp đỡ mọi người những khi cần thiết. Thỉnh thoảng, vẫn có người bảo anh:
- Tưởng mày đi đạo thì bỏ chúng tao rồi chứ.
- Ðạo là việc riêng tư. Tôi vẫn là người làng, làm sao bỏ được bà con.
Vì biết “cái chữ”, cộng thêm tính hiền hòa, chịu thương chịu khó nên Ký được dân làng tín nhiệm bầu làm thư ký xã. Rồi Ký lập gia đình. Con cái sinh ra không được rửa tội, không đến nhà thờ kinh lễ vì biết đi đâu bây giờ. Bó Tờ thì chẳng còn cha, mà Cao Bằng, Lạng Sơn lại xa xôi quá ! Thế là ông Ký đem hết vốn liêng nghèo nàn của mình dậy cho con biết Chúa, biết đạo. Ông thuờng nhắc nhở con cháu:
- “Mình đã tin thì phải tin cho thật. Tin đến suốt đời. Ðời cha truyền sang đời con. Ðời con truyền sang đời cháu, cho đức tin vững bền mãi mãi.”
Có được niềm tin vững chắc ấy là vì ông cảm nhận rõ ràng tình Chúa thương ông. Bên nội, bên ngoại nhà ông chỉ còn có mình ông sống sót. Ðó chẳng phải tình Chúa thương ông là gì? Làng xóm cũng thấy rõ Chúa thương ông. Này nhé, ông có phải tốn tiền đón thầy mo về nhà cúng giỗ đâu thế mà con cháu ông vẫn khỏe mạnh, lợn gà nhà ông không chết, ruộng rẫy nhà ông vẫn tốt tươi. Họ bảo nhau: “Cái Chúa” nhà thằng Ký mạnh thật !
Chuyện ông Ký làng Nà Toòng xa xôi ấy đi theo “Cái Chúa” tưởng chừng cũng chỉ là “dấu chân trên cát” sẽ xóa nhòa theo năm tháng cuộc đời! Nào có ai ngờ, phải! nào có ai ngờ… Năm 1999, sau khi được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám Mục Lạng Sơn, ÐC Giuse Ngô Quang Kiệt đến thăm những người giáo dân Tày còn sót lại của họ đạo Bó Tờ năm xưa. Nghe dân nói trong làng Nà Toòng có một người giữ đạo, Ngài vội vàng đến thăm. Ðường đi trắc trở, xe không tới được. May thay có chiếc máy cày to, thế là cha con chất chồng nhau lên tìm đến nhà ông Ký.
60 năm giữ đạo âm thầm hôm nay mới gặp được “ông cha” làm sao nói được hết nỗi niềm, vì thế ông Ký miệng thì ấp úng, mà nước mắt cứ trào tuôn.
Từ đó, nhà ông Ký tự nhiên trở thành điểm hẹn. Bức vách với hình thánh giá bằng than nhòa dần theo năm tháng nhưng bàn thờ trong tâm hồn ông càng ngày càng thêm rõ nét. Ông có chờ, có đợi được niềm hạnh phúc ấy đâu, thế mà “Cái Chúa” vẫn còn nhớ đến ông nơi góc biển chân trời này !
……
Ngủ đêm tại Cao Bằng, 4g30 sáng ÐC Lạng Sơn, cha Hạnh, cha Thế và mình lên xe đến Nà Toòng. Ðường chỉ dài 70km, nhưng dốc núi cheo leo nên mãi 7g mới tới được nhà thờ Bó Tờ. Ăn vội mỗi người một gói mì tôm, gọi thêm mấy cháu ca đoàn rồi tiếp tục con đường thiên lý.
Nhà ông Ký nằm sâu trong bản, phải lội bộ một quãng dài. Ðêm trước, trời lại mưa nên cha con vừa xách dép vừa đi. Tới nhà ông Ký, sau khi chào hỏi người sống, thắp hương người chết, mọi người túa ra, ai lo phận nấy. Kẻ dọn bàn thờ, người lo giở sách, kẻ tìm bài hát, người sắp xếp chỗ ngồi…
Trong thánh lễ, lúc hát đáp ca, nghe các cháu thiếu nhi trong ca đoàn nhà thờ Bó Tờ hát bài “Chúa chăn nuôi tôi”, nhìn ông Ký và con cháu lặng lẽ đứng bên quan tài người quá cố, quan sát những dân làng im lặng tham dự thánh lễ lần đầu tiên trong đời, dõi mắt qua cửa nhà ra những rặng núi chập chùng xa xa, lòng mình chợt thấy nao nao không sao tả được. Một niềm tin mộc mạc, chân thành. Một con chiên lẻ bầy nơi góc biển chân trời. Thế mà, người Mục Tử Nhân Lành vẫn chẳng lãng quên, dù đã hơn 60 năm trời biền biệt! Ngôi nhà tranh vách lá, có hình thánh giá vẽ bằng than trên bức vách, có bàn thờ lẻ loi như “bàn bán thịt lợn”, có ai ngờ lại có ngày trở thành một ngôi “thánh đường” với thánh lễ do chính ÐGM giáo phận cùng đồng tế với hơn một nửa “linh mục đoàn” của mình !
Sau thánh lễ, mình đến bên ông Ký để chia buồn về nỗi mất mát lớn lao. Ông chỉ đơn sơ bảo mình:
- Tôi buồn lắm nhưng không dám khóc, ông cha ạ ! Mình làm bố mà khóc thì các con cháu sẽ òa lên cả. Lúc ấy làm sao mà dự “Cái Lễ” cho yên được !
- Thế bây giờ cụ muốn gì nhất hả cụ Ký ?
- Tôi chỉ muốn lâu lâu lại được có “Cái Lễ” ở đây, để dân làng biết “Cái Chúa” thương người ta như thế nào thôi !
Một ước mơ quá đỗi thánh thiện ! Một khát mong giản dị đến thế là cùng ! Khi chia tay cụ Ký, mình thầm nhủ sẽ hết sức cố gắng để thực hiện ước mơ giản dị này.
Thế rồi, vì công việc, mình được điều về Hà Nội, những chuyến về Lạng Sơn thưa dần. Ngày trở lại Bó Tờ dâng một “Cái Lễ” theo ý cụ Ký lại càng thêm xa…
Cách đây vài tháng, một buổi chiều đang đứng vẩn vơ cạnh nhà nguyện Fatima trong khuôn viên tòa giám mục Hà Nội thì ÐC Kiệt bảo mình: Ông Ký chết rồi, Diễm ạ.
Mình lặng người đi, không nói được gì cả. Biết rằng, cuộc ra đi có lẽ sẽ tốt đẹp cho ông đấy. Ông sẽ gặp được Ðấng mà ông “đã tin thì phải tin cho thật. Tin đến suốt đời. Ðời cha truyền sang đời con. Ðời con truyền sang đời cháu, cho đức tin vững bền mãi mãi”. Ông sẽ gặp lại được bà Ký thân yêu đã cùng đồng hành với ông trọn con đường đời nhiều gian nan, vất vả mà vẫn vững mãi niềm tin, sẽ gặp lại người con gái mến thương mà ông đã dốc lòng truyền lại cho cô đức tin bỏng cháy của mình. Nhưng nghĩ lại vẫn thấy tội cho ông. Một ước mơ đơn sơ, chỉ mong được tham dự ít “Cái Lễ” mà đến lúc chết vẫn chẳng thành !
Bạn thân mến!
Viết cho bạn những dòng này, mình chỉ muốn thay mặt ông Ký nhắn với bạn rằng: Nếu có lúc nào đó bạn ngại ngùng, không muốn tham dự thánh lễ, thì xin bạn hãy nhớ lại, tại làng Nà Toòng xa xôi, nơi phương trời biền biệt kia, có những người dân tộc chỉ ước mơ được tham dự “Cái Lễ” vài lần trong đời thôi, nhưng vẫn chưa được đấy, bạn ạ !
LM. Giuse Nguyễn V. Diễm
[1][1] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Pastores dabo vobis, 25/3/1992, số 23
[2][2] Bộ Giáo sĩ, Kim Chỉ Nam cho thừa tác vụ và đời sống linh mục, 31/1/1994, số 43
[3][3] CĐ Vat.II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, số 18
[4][4] Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo, số 874
[5][5] ĐGH. Piô XII, Thông điệp Đấng Trung Gian của Thiên Chúa
[6][6] ĐGH. Gioan Phaolô II, Tông huấn Pastores dabo vobis, số 21
[7][7] “Sit amoris officium pascere dominicum gregem”, Thánh Augustinô, Tract. In Io., 123,5 : PL 35, 1967
[8][8] Bộ Giáo sĩ, Kim Chỉ Nam…, số 44
[9][9] ĐGH. Gioan Phaolô II, Tông huấn Pastores dabo vobis, số 23
[10][10] CĐ Vat. II, Sắc lệnh về Thừa tác vụ và đời sống linh mục, số 4
[11][11] ĐGH Gioan XXIII, Thông điệp Sacerdotii nostri primordia, 1/8/1959 : AAS 51 (1959), 572
[12][12] Bộ Giáo sĩ, Luân thư Linh mục và ngàn năm Kitô giáo thứ ba, 19/3/1999, ch. II, 2
[13][13] De Trinitate, 13, 19, 24
[14][14] Thánh Hiêronimô, Comm. in Is., Prol. : PL 24, 17
[15][15] Thánh Augustinô bảo rằng : “Khi bạn nói : đủ rồi, tức là bạn đã chết (Ubi dixisti : satis, periisti)
[16][16] CĐ Vat. II, Hiến chế về Mạc khải, số 25
[17][17] Tuần Tĩnh tâm Linh mục Giáo phận Đàlạt, 1988, bài 5 : Đổi mới huấn giáo
[18][18] Joseph Ratzinger, Muối cho đời, Bản dịch của Phạm Hồng Lam và Trần Hoành, Phong trào giáo dân Việt Nam hải ngoại ấn hành, 2005, tr. 181
[19][19] Bộ Truyền bá Phúc Âm, Chỉ Nam linh mục, 1/10/1989, số 8, b
[20][20] ibid. ; Giáo luật §§213 và 843
[21][21] Bộ Truyền bá Phúc Âm, Chỉ Nam linh mục, số 8, d
[22][22] Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, Quy chế tổng quát Sách lễ Rôma, số 2 và 3
[23][23] Bộ Giáo sĩ, Huấn thị Linh mục mục tử và người lãnh đạo cộng đồng giáo xứ, 4/8/2002, số 15
[24][24] Bộ Giáo sĩ, Luân thư Linh mục và Ngàn năm Kitô giáo thứ ba, ch. III, 2
[25][25] ibid., ch. III, 3
[26][26] Sự sẵn sàng trên đây cũng cần phải có khi ban bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân, vì thực ra về bí tích này, không thể quy định giờ giấc. Giáo dân có thói quen đi tìm linh mục khi bệnh nhân gần ‘sinh thì’, dù đã chịu đủ các phép không lâu trước đó. Đáng ngại là bệnh nhân hay người cao tuổi thường ‘sinh thì’ vào ban đêm, nhưng không vì vậy mà linh mục thẳng thừng từ chối.
[27][27] ibid.
[28][28] x. Jean-Marie Vianney, curé d’Ars : sa pensée, son coeur, présentés par Bernard Nodet, Le Puy, 1960, p. 100
[29][29] Đức Cha Bartôlômêô có lần đã nhắc nhở các linh mục trong giáo phận, khi nói về việc tiếp đón giám mục : “Hãy đơn giản hóa lễ nghi đón tiếp giám mục theo kiểu ngày xưa. Cuộc rước mở đầu Thánh Lễ như phụng vụ chỉ dẫn đã quá đủ rồi. Những sáo ngữ giới thiệu mũ ngọc gậy vàng không đúng với sự thật để nói về cái mũ và cây gậy của người chăn chiên. Các bài chào nừng với những kiểu nói : Đức Cha bớt thì giờ vàng ngọc, không quản đường xa trắc trở đến thăm giáo xứ chúng con. Ngay cả kiểu nói “Đại diện Thiên Chúa và Đức Kitô” cũng chỉ nên tin khi giám mục, linh mục cử hành những hành vi cứu độ mà Chúa Kitô đã thiết lập, hơn là nhắc đi nói lại mãi trong những bài chào mừng theo nghi thức” (Tuần Tĩnh tâm Linh mục Giáo phận Đàlạt, 1988, bài 7 : Đổi mới lãnh đạo.
[30][30] Bộ Truyền bá Phúc Âm, Chỉ Nam linh mục, số 22, c
[31][31] Trong bản mẫu la tinh Sách Lễ Rôma, phần Phụ lục có in những kinh này. Nhiều kinh rất hay, như kinh của thánh Ambrosiô, thánh Tôma. Tiếc rằng bản tiếng Việt lại không dịch.
[32][32] Ubi humilitas ibi caritas (Aug.,In Io., Epist V, Prologue : PL 35, 1977)
[33][33] Về sự phục vụ, x. Raniero Cantalamessa, L’Eucharistie notre sanctification, éd. Centurion, 1989, pp. 93-112