Web site:www.tinvui.org E-mail : bantreconggiao@yahoo.com
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN NĂM C
CÁC LINH MỤC GIÁO PHẬN PHÚ CƯỜNG TĨNH TÂM NĂM
BẾ MẠC TUẦN LỄ DI DÂN – TỔNG GIÁO PHẬN SÀIGÒN
THÁNH LỄ AN TÁNG ĐỨC CHA PHAOLÔ MARIA NGUYỄN MINH NHẬT
TĨNH TÂM LINH MỤC NĂM 2007 LINH MỤC ĐOÀN GIÁO PHẬN PHAN THIẾT(15-19/01/2007)
CHÚNG CON CẦN HÒA BÌNH! NGƯỜI LỚN ƠI!!!
HÃY ỦNG HỘ BỘ TRƯỞNG GIÁO DỤC!
( Nhân sinh nhật lần thứ tám mươi Đức Cha Bùi Tuần ( 21.01.2007)
Cha Pierre : Chứng nhân của tình yêu thương không biên giới
THÁNH GIOAN TÔNG ĐỒ YÊU MẾN CHÚA GIÊSU THÁNH THỂ
CHIẾN ĐẤU CHỮA TRỊ CON GÁI TÀN TẬT
Tâm lý giáo dục : “Hành trang nào cho con vào đời?” KHÔNG SỐNG CHO RIÊNG MÌNH
(28/01/2007)
Lc 4, 21-30
"Chúa Giêsu, như Êlia và Êlisê, không phải chỉ được sai đến với người Do-thái".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu nói trong hội đường rằng: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe". Mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra, và họ nói: "Người này không phải là con ông Giuse sao?"
Và Người nói với họ: "Hẳn các ngươi sắp nói cho Ta nghe câu ngạn ngữ này: 'Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình!' Điều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông'". Người nói tiếp: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình. Ta bảo thật với các ngươi, đã có nhiều bà goá trong Israel thời Elia, khi trời bị đóng lại trong ba năm sáu tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp trong xứ; dầu vậy, Elia không được sai đến cùng một nguời nào trong các bà đó, nhưng được sai đến bà goá tại Sarepta thuộc xứ Siđon. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, thế mà không người nào trong họ được lành sạch cả, ngoại trừ Naaman, người Syria".
Khi nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi. Đó là lời Chúa.
KHIÊM NHƯỜNG ĐỂ KHÁM PHÁ SỰ THẬT
Tắc… tắc… tắc… cụp! Đêm đã khuya lắm, những âm thanh nghe khô khốc ấy còn vang. Một chú bé dáng nhỏ nhắn, đi mải miết vào lòng con hẻm nhỏ, tiếp theo sau là những tiếng gõ. Chú bé bước nhanh nhưng gật gà gật gù, chắc cậu ta buồn ngủ.
- Ê! hủ tiếu mì…! Bộ điếc hả?
Sực tỉnh vì tiếng gọi giật giọng từ ban-công một căn lầu, chú bé quay bước tiến tới, hỏi:
- Thưa chú, mấy tô?
- Ba!
- Dạ! Chú bé đáp nhanh và chạy vụt đi.
Một lát sau, chú bé khệ nệ bưng cái mâm xếp đầy những tô hủ tiếu đến trước căn lầu khi nảy. Anh thanh niên gắt gỏng:
- Tưởng mày ngủ quên ở ngoài đó rồi.
Chú bé lại cố nở nụ cười để làm dịu lòng người khách khó tính rồi tất tả bưng tiếp những tô mì còn lại đi về cuối hẻm. Vô ý thế nào mà… oạch, chú bé trợt chân vào vũng nước té sóng soài trên mặt sàn xi-măng. Những sợi hủ tiếu trộn lẫn cát bụi, xà lách, giá, thịt nằm vương vãi, tô đũa lăn lóc khắp nơi. Tiếng cười trong đêm vắng của mấy thanh niên kia lại ré lên, đeo lấy chú bé.
Chắc hẳn thằng bé tủi buồn, mà tôi cũng thấy xót xa trong dạ. Xót xa cho chú bé nghèo, phải vất vả lặn lội, bằng ấy tuổi phải cõng trên vai cuộc đời đã vậy. Càng xót xa hơn cho những người giàu tiền của lại nghèo yêu thương, sao nỡ nhẫn tâm cất tiếng cười không đúng lúc, đến mức quá quắc như thế. Một tràn cườI chẳng những không vui cho những ai phải nghe nhưng chẳng muốn nghe, ngược lại còn khắc trong lòng một sự đáng giá chẳng hay ho gì: khả ố. Ai đó hay chăng, nụ cười khả ố là nụ cười đánh mất giá trị của chính con người mình…
Những tràn cười như thế, chắc không bao giờ xuất hiện nơi những anh chị em lấy đức khiêm nhường làm thước đo cho mọi tương quan sống của mình. Chắc chắn chỉ có những kẻ kiêu ngạo, trong lòng chứa đầy nỗi tự phụ, hóng hách… mới có thái độ khiếm nhã đến thế.
Trong cuộc sống thường ngày của bạn và tôi, xét lại bản thân, có lẽ chúng ta đã từng cũng có những kiểu cười khả ố tương tự. thêm một lần nhắc lại những hình ảnh như thế này, để một lần nữa, chúng ta ý thức rằng, mình phải sống đẹp và đừng vô tình trước nỗi bất hạnh của anh chị em. Nhất là hãy loại trừ thái độ kiêu căng, tự phụ để có thể đón nhận và sống Lời Chúa trong cuộc sống thường ngày với anh chị em.
1. GIÊSU TRONG TIN MỪNG.
Đi từ cụ thể của đời thường, ta lại bắt gặp hình ảnh của một Giêsu trong Tin Mừng. Bởi Chúa Giêsu cũng đã từng bị khinh miệt như thế. Đặc biệt bài Tin Mừng hôm nay, người đồng hương của Chúa đã có thái độ coi thường Chúa. Phải chăng đó cũng là biểu hiện của lòng kiêu căng, của thái độ tự phụ, hách dịch? Một mặt nghe những lời giảng dạy, họ khen ngợi nhưng liền sau đó, do lý lịch không mấy nổi nang, có khi còn tầm thường, những người đồng hương của Chúa đã vấp phạm.
Từ lời nhận xét thiếu thiện cảm, thiếu tế nhị: “Người này không phải là con ông Giuse sao?”, cho thấy cả một cái nhìn đầy thành kiến, tiêu cực, có cái gì như xoi mói và thiếu chấp nhận nơi những người đồng hương của Chúa Giêsu. Từ đó phản ánh lòng đầy kiêu căng qua thái độ mà họ dành cho một người con của quê hương của họ là chính Chúa Giêsu. Họ thật đáng trách, vì lẽ ra, khi nhận thấy sự khôn ngoan lạ thường của Chúa, họ phải chân thành ghi nhận, đàng này chỉ vì một chút tự phụ, họ đã để ký ức về gia cảnh của Chúa ngự trị trong tim não: Và như thế, họ chỉ thấy một Giêsu hơn ba mươi năm bình dị đến mức tầm thường. Người có một cuộc sống quá đơn sơ: Một thợ mộc, con của một ông thợ mộc khác. Gốc gác, họ hàng của Giêsu cũng chẳng lạ gì, chẳng hề nổi danh nổi tiếng bao giờ. Chính lòng kiêu ngạo mà đôi mắt của họ bị che mù.
Cũng chính lòng kiêu ngạo ấy đã biến họ thành những kẻ thiệt thòi lớn. Nếu từ xa xưa, vào thời đói kém, tiên tri Êlia đã không thể làm gì cho quê hương ông; Hay tiên tri Êlisêô cũng đã từng không chữa một người cùi nào ở chính nơi chôn nhau cắt rốn của mình, thì hôm nay cũng thế, Chúa Giêsu cũng chẳng làm được gì hơn trên chính nơi mà Người sinh ra và lớn lên.
Lấy tích xưa để nói chuyện mình, Chúa Giêsu như muốn dạy người đồng hương và cả chúng ta nữa, kinh nghiệm ngu dại của thói kiêu căng. Sự kiêu ngạo làm ta bị đánh mất, bị tước mất tất cả những gì là ân huệ, là tốt đẹp. Và cái mất lớn nhấn là mất chính Chúa.
Tưởng chỉ có cha ông mình từ ngàn xưa, vì thiếu hiểu biết mới tự phụ như thế. Nào ngờ, bài học của cha ông đã qua bao nhiêu thế hệ, con cháu vẫn chưa thuộc. Vì thế, bạn và tôi càng đáng trách hơn, trách nhiệm của chúng ta càng nặng hơn. Thật là xót xa và đáng thương, nếu chúng ta thiếu ý thức điều này.
2. GIÊSU TRONG ĐỜI.
Nếu đã có lần Chúa Giêsu khẳng định: Ai cho anh chị em mình, dù chỉ một chén nước lả là làm cho chính Chúa (Mt 10, 40-42), hơn thế, Người đã tự đồng hóa mình với biết bao nhiêu anh chị em nghèo đói, bất hạnh, bị bỏ rơi… (Mt 25, 40), thì hôm nay, Người vẫn hiện diện với ta, trong ta và nơi mọi người cùng ta đang sống, nhất là nơi những anh chị em khổ nghèo.
Bởi đó, nếu một Giêsu trong Tin Mừng bị khinh miệt, thì khi Giêsu ấy hiện diện giữa đời, chắc còn chịu nhiều khinh miệt hơn. Câu chuyện về cậu bé bưng hũ tiếu mì bên trên là một bằng chứng rất thật trong cuộc đời, xung quanh chúng ta.
Chỉ có khiêm tốn mới có thể yêu thương. Và khi yêu thương, người ta sẽ càng khiêm tốn hơn. Chỉ có khiêm tốn và yêu thương, người ta mới trao cho nhau tâm hồn khả ái, chứ không phải những cái cười vô tình đến mức vô tâm và khả ố.
Chỉ có khiêm tốn và yêu thương, người ta mới có thể có lòng chân thành tìm kiếm sự thật. Nhưng sự thật ấy, có khi như ngọc lẫn trong đá, phải bới, phải tìm mới thấy, mới khám phá. Những người đồng hương của Chúa Giêsu vấp phải khuyết điểm này, bởi họ đã không đủ thiện chí để tìm kiếm, ngược lại còn kiêu căng, tự phụ, nên họ chẳng những bị Chúa chê trách, mà còn không nhận được bất cứ điều gì do Chúa ban.
Nguyện xin cho lòng chúng ta luôn khiêm nhường để có thể nhận ra Chúa nơi anh chị em; Và khiêm nhường để nhờ đó, chân thành tìm kiếm những sự thật khác nhau, được khoác những màu sắc khác nhau trong cuộc đời. Có chân nhận như thế, ta mới không lên án, không kỳ thị anh chị em, nhưng luôn sống điều mà trong bài đọc II, thánh Phaolô dạy: khoan dung, nhân hậu, tha thứ, “không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công…” (1Cr 13, 4-7).
Chỉ có một đời sống khiêm nhường, ta mới khám phá được điều mà thánh Phaolô đã khám phá. Đó mới là sự thật mà mỗi một Kitô hữu cần phải sống. Bởi vậy, khiêm nhường thật cần thiết để ta nhận biết Thiên Chúa, nhận biết cuộc đời, và nhận biết anh chị em quanh mình. Nhờ đó, sống cho Thiên Chúa, sống vì cuộc đời và bác ái với anh em.
Lm. Vũ Xuân Hạnh
Lâu nay, người ta nói “chống“ hơi nhiều, như chống bão, chống tham nhũng, chống lãng phí… Tôi cũng “ chống” như mọi người, trong trao đổi. Nhưng tôi còn ‘chống” khi đi đứng. “Chống” này mang nghĩa khác. Đó là chống gậy.
Cái gậy tinh thần.
Cái gậy, đối với tôi là một việc cần thiết. Nó nâng đỡ, khi tôi di chuyển.
Từ cái gậy vật chất, tôi nghĩ đến cái gậy tinh thần Tôi chống gậy này thường xuyên, nhưng nhất là trong những thời gian xác hồn suy thoái. Tôi rất cần nó. Nó đang ở bên tôi như người thân thiết.
Hôm nay, tôi xin chia sẻ về cái gậy tinh thần đó.
Đối với kinh nghiệm riêng tôi, cái gậy tinh thần này gồm hai yếu tố chính : Một phần thiêng liêng và một phần tâm lý.
Yếu tố thiêng liêng
Yếu tố này gồm nhiều chi tiết. Ở đây tôi chỉ xin nêu lên 2 chi tiết quen thuộc nhất.
Những hình ảnh Chúa và Đức Mẹ đỡ nâng chúng ta trong đời sống thì rất nhiều . Nhưng đối với tôi, hình ảnh Chúa Giêsu chịu đau đớn và Đức Mẹ sầu bi đã nâng đỡ tôi nhiều nhất. Khi Chúa Giêsu và Đức Mẹ thường xuyên ở bên tôi dưới hình ảnh thương khó, tôi dễ hiểu thánh ý Chúa. Thánh ý Chúa là khuyên tôi hãy đón nhận tình mến Chúa và yêu các linh hồn từ chính trái tim Chúa Giêsu và Đức Mẹ.
Trái tim Đấng Cứu Thế đã thể hiện sự hiến dâng mình qua những bậc thang hy sinh Đức Mẹ cũng vậy. Nay các môn đệ Chúa và con cái Đức Mẹ cũng được mời gọi đón nhận lửa từ trái tim Chúa và Mẹ của Người. Một khi lửa ấy cháy lên trong tâm hồn ta, ta sẽ cảm thấy một sự nâng đỡ nhiệm mầu trong đời sống dâng hiến. Một đời sống thực sự là “Từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Chúa” ( Mt 16,14).
Nhiều người chuyên giúp các bệnh nhận đã kể cho tôi những chuyện lạ lùng về cây thánh giá. Rất nhiều người trong khi quằn quại với cơn đau, đã chỉ hôn cây thánh giá người ta đặt trên miệng họ. Từ cây thánh giá nhỏ, họ đã nhận được ơn thiêng liêng cứu chuộc. Nhiều chuyện biến đổi đã xảy ra trong tâm hồn họ. Từ đó, cây thánh giá được coi như cây gậy thiêng liêng. Nhờ cây gậy thánh đó, họ bước những bước cuối cùng đời họ, để sang thế giới bên kia, Một cách bình an.
Cùng với sự đồng hành nâng đỡ của Chùa Cứu Thế, còn có những bài học đạo đức sống động, làm cho cậy gậy thiêng liêng dễ được trân trọng.
Bài học nơi những người chịu đau khổ với niềm tin.
Tiếp xúc với những người đau khổ, tôi như nhận được những làn sương mát. Mà sương thì chỉ rơi vào ban đêm. Đêm của những người đau khổ là vô vàn cơ cực. Nhưng nhiều người trong họ đã trải qua những đêm dài, với niềm tin sâu sắc.
Có niềm tin là do đức tin tôn giáo.
Cuốn Tự Thuật của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu cho ta thấy : Thánh nữ chịu đau khổ rất nhiều. Nhưng ngài tin đau khổ của ngài, khi kết hợp với sự đau khổ của Chúa Cứu Thế, sẽ có giá trị cứu nhiều linh hồn. Tình yêu liên đới ấy là một yếu tố khích lệ ngài chịu đau khổ với thái độ phó thác đơn sơ tin tưởng.
Nhưng cũng có những niềm tin không do đức tin. Bởi vì không thiếu những người ngoài Công giáo, đã chịu đựng những thử thách đớn đau một cách cao thượng, nhờ họ tin rằng : Đau khổ mà họ chịu vẫn có một sức thiêng nào đó đỡ nâng những người họ thương yêu.
Chính tôi cũng được chứng kiến những cảnh đó nơi nhiều người ngọai, nhất là trường hợp họ lại túng nghèo cô đơn. Họ rất đau đớn trong cảnh bệnh tật túng bấn. Nhưng họ sống một cách cao thượng , vì nghĩ đến con cháu, gia đình, với tình yêu và với niềm tin đơn sơ tư nhiên. Tôi nghĩ niềm tin tự nhiên đó cũng do Chúa ban cho họ. Nhờ đó, đời họ trở thành có ý ngjhĩa, mở lối cho họ gặp được người Cha giàu tình yêu thương xót đối với mọi người.
Trên đây là vắn tắt yếu tố thiêng liêng của cây gậy, mà tôi chống để đi trên con đường hẹp dẫn về trời.
Ngoài yếu tố thiêng liêng , còn có yếu tố tự nhiên.
Yếu tố tự nhiên.
Xin chỉ ra 2 chi tiết :
Bầu khí tâm lý xung quanh ta là một thứ rất hữu ích cho cuộc đời ta. Nhất là khi đời ta những khủng hoảng, thì bấu khí tâm lý tốt lành càng trở nên cần thiết.
Bầu khí tâm lý tốt lành là bầu khí bình an, ấm áp tình thương, tế nhị, vị tha, chân thành.
Bầu khí tâm lý tốt lành đó nhiều khi chỉ cần một không gian nhỏ về vật lý và số ít nhân sự đơn sơ. Thà nhỏ và ít mà có sức nâng đỡ con người, còn hơn là lớn mà nhẹ về chất lượng.
Vẫn có những người xung quanh ta biết tạo ra cho ta một bầu khí tâm lý tốt lành. Họ là những người chúng ta phải biết ơn
Thời nay, những thăm viếng, liên lạc, trao đổi được coi như một phần của văn hóa. Những thứ đó cũng ảnh hưởng khá nhiều đến tâm trạng con người.
Nhiều nghiên cứu cho thấy : Những người có bề dày về thương cảm, về liên đới , về cọ sát và những cảnh đời khốn khổ, nhưng lại khiêm tốn, thường dễ đem lại cho người khác niềm hy vọng kín đáo.
Với bề dày kinh nghiệm đó, họ đến với ta. Dù chỉ chốc lát, ta cũng cảm thấy lòng mình được nâng lên.
Trên đây là vắn tắt hình ảnh cái gậy vô hình, mà tôi đang chống. Tôi chống cây gậy gỗ để di chuyển. Tôi chống cây gậy tinh thần để sống, nhất là trong những giai đọan khó khăn.
Tôi phải chống gậy. Nói thế, tôi nghĩ nhiều tới những người cũng đang phải chống gậy như tôi. Tôi có cảm tưởng là : Phần đông đồng bào ta tại Việt Nam hôm nay đều phải nương tựa vào nhau mà sống. Người nọ là cái gậy cho người kia chống. Nên coi đó là dấu chỉ của một tiềm năng đạo đức cần vun xới.
Xin Chúa trả ơn bội hậu cho những ai xa gần đang góp phần làm nên những cây gậy tình nghĩa, để những người yếu đuối, được chống mà đi trên đường đời. Đời nay vẫn còn quá nhiều cảnh thương tâm đau xót.
ĐGM. GB Bùi Tuần
(Radio Veritas Asia 21/01/2007) - Quý vị và các bạn thân mến. Ngày 20 tháng Giêng năm 2007, Phòng Báo Chí Toà Thánh đã thông báo chính thức về cuộc Họp Hai Ngày 19 và 20 tháng Giêng năm 2007 tại Dinh Tông Toà, Nội Thành Vatican, để tìm hiểu về hiện tình Giáo Hội Công Giáo tại Trung Quốc. Mục thời sự kính mời quý vị và các bạn theo dõi bản dịch tiếng Việt nguyên văn thông báo này như sau:
Trong ước muốn đào sâu sự hiểu biết về hoàn cảnh của Giáo Hội Công Giáo tại Trung Quốc, Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI đã triệu tập Cuộc Họp đặc biệt tại Dinh Tông Toà, Nội Thành Vatican, trong hai ngày 19 và 20 tháng Giêng năm 2007.
Ðức Hồng Y Tarcisio Bertone, quốc vụ khanh toà thánh, đã chủ sự mọi sinh hoạt của cuộc Họp, với sự tham dự của vài đại diện của Hàng Giám Mục Trung Quốc (Hồng Kông, Macao, Taiwan) và của những ai, từ phía Toà Thánh, theo dõi sát cạnh hơn vấn đề Trung Quốc. Cuộc thảo luận rộng rãi và rõ ràng các chi tiết đã được linh động bởi sự chân thành và tình thân huynh đệ.
Lần theo lịch sử thăng trầm của Giáo Hội tại Trung Quốc và căn cứ vào những biến cố chính của những năm gần đây, Cuộc Họp đã khảo sát những vấn đề trầm trọng nhất và khẩn thiết nhất liên quan đến giáo hội, và là những vấn đề đang chờ được giải quyết cách tương xứng, đúng theo những nguyên tắc căn bản của cơ chế thần thiêng của giáo hội và của sự tự do tôn giáo.
Với lòng biết ơn sâu xa, Cuộp Họp đã ghi nhận chứng tá sáng chói của các giám mục, linh mục và giáo dân, vì đã không chiều theo các thỏa hiệp và đã giữ vững lòng trung thành với Ngai Toà Thánh Phêrô, cả đôi khi phải trả giá bằng những đau khổ nặng nề. Với niềm vui đặc biệt, Cuộc Họp cũng đã ghi nhận rằng ngày nay gần như toàn thể các giám mục và linh mục đều hiệp thông với Ðức Giáo Hoàng.
Ngoài ra, điều ngạc nhiên là sự gia tăng số tín hữu của cộng đoàn giáo hội, một cộng đoàn được mời gọi, cả tại Trung Quốc, hãy làm chứng cho Chúa Kitô, hãy nhìn về phía trước với niềm hy vọng và hãy đáp ứng, trong công cuộc rao giảng Phúc Âm, (hãy đáp ứng) những thách thức mới mà xã hội đang phải đương đầu.
Trong nhiều góp ý của các tham dự viên, được nổi bật ý chí tiếp tục đi trên con đường đối thoại đầy tôn trọng và có tinh thần xây dựng với những Thẩm Quyền cai trị, để vượt qua những điều không hiểu nhau trong quá khứ. Ngoài ra, Cuộc Họp ước mong tiến đến sự bình thường hoá những liên lạc trên nhiều cấp bực khác nhau, nhắm cho phép một cuộc sống đức tin an bình và phong phú hoa trái tốt trong Giáo Hội và nhắm đến việc cùng nhau hoạt động cho điều thiện hảo của dân tộc trung quốc và cho nền hoà bình trong thế giới.
Ðược thông báo rộng rãi về những để nghị đã được chín mùi trong cuộc họp, Ðức Thánh Cha đã vui lòng quyết định sẽ gởi Thư cho những người công giáo tại Trung Quốc.
(Ðặng Thế Dũng chuyển dịch Việt ngữ theo nguyên văn tiếng Ý)
Từ ngày 15 đến ngày 19.1.2007, Đức Giám mục giáo phận Phú Cường và tất cả các linh mục trong giáo phận đã về Nhà Chung giáo phận dự tuần tĩnh tâm năm. Lẽ ra, người giảng tĩnh tâm năm nay cho linh mục đoàn giáo phận Phú Cường sẽ là Đức Giám mục Giuse Vũ Duy Thống, Giám mục Phụ tá giáo phận Sài Gòn. Nhưng rất không may, ngay sáng ngày 15.1.2007, tức là ngày đầu tiên của tuần tĩnh tâm, Đức Cha Giuse Thống đã bị ngã nặng, phải vào bệnh viện Chợ Rẫy để kiểm tra sức khỏe. Dù không thể hiện diện trong tuần tĩnh tâm của các linh mục Phú Cường, nhưng Đức Cha vẫn bình an, tuy khá đau đớn. (Nhân sự kiện này có người nói đùa: Hình như Đức Cha Giuse Thống không có “duyên” với giáo phận Phú Cường. Bởi cách đây vài năm, Đức Cha đã nhận lời giúp tĩnh tâm năm cho các linh mục Phú Cường, nhưng không hiểu vì lý do gì, Đức Cha Giuse đã chẳng đến Phú Cường được. Thời gian gần đây, có tin đồn Đức Cha Giuse Thống sẽ về Phú Cường làm Giám mục Chánh Tòa Phú Cường thay thế Đức Cha Phêrô Trần Đình Tứ sẽ thuyên chuyển đến một Tòa Giám mục khác. Không biết tin đồn này từ đâu mà có, dựa trên cơ sở nào, mấy phần trăm là sự thật, nhưng kết quả là, cho đến nay… không có gì thay đổi khác thường xảy ra).
Vì Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống đau nặng, bảy bài giảng do ngài chuẩn bị, được Đức Cha Phêrô Trần Đình Tứ đọc trong suốt tuần tĩnh tâm. Bảy bài giảng được khai thác từ bảy lời cuối cùng của Chúa Giêsu trên thánh giá. Với những suy tư khá sắc bén, mang hơi thở của một mục tử nhiều trăn trở, phản ánh lòng tin tưởng, đời sống cầu nguyện của chính tác giả, đã làm người nghe không chỉ thấm, mà còn tự tái khám phá lại chính mình cách hết sức sâu lắng.
Đã từ lâu, trong các kỳ tĩnh tâm năm, như một thói quen tốt lành, linh mục đoàn giáo phận dành ngày thứ tư của tuần tĩnh tâm (tức thứ năm 18.1.2007) để nhấn mạnh và cầu nguyện cách đặc biệt cho tác vụ mục tử - linh mục của chính mình. Đồng thời, cũng là dịp nhắc nhớ, biết ơn và cầu nguyện cho các Đức Giám mục, các linh mục trong giáo phận đã qua đời. Kể từ ngày thành lập giáo phận (14.10.1965) đến nay, linh mục đoàn giáo phận Phú Cường gồm 170 linh mục. Trong số này, đã có đến 3 Giám mục và 33 linh mục qua đời. Trong thánh lễ, phần cầu nguyện cho người qua đời, Cha Tổng Đại Diện giáo phận đã xướng danh tất cả 36 Giám mục và linh mục ấy như một tưởng nhớ cụ thể của các linh mục đàn em dành cho đàn anh đã hoàn thành nhiệm vụ, đã ra đi trước. Tuy đã về Nhà Chúa, nhưng hình như các Giám mục, các linh mục ấy vẫn còn hiện diện giữa cộng đoàn linh mục của giáo phận cách sinh động bằng lời chuyển cầu, bằng tất cả những kỷ niệm mà các ngài để lại, bằng những hình ảnh mà các ngài đã lưu dấu nơi giáo phận mẹ.
Dịp này, các linh mục trong giáo phận dâng lên Đức Giám mục Phêrô Trần Đình Tứ, đương nhiệm giám mục chánh tòa giáo phận Phú Cường lời chúc mừng nhân dịp ngài tròn 8 năm Giám mục và 70 năm tuổi đời. Đức Cha Phêrô Trần Đình Tứ sinh ngày 2.3.1937, thụ phong linh mục ngày 29.4.1965 và đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tấn phong Giám mục tại Vaticăn ngày 6.1.1999. Ngài chính thức cai quản giáo phận Phú Cường ngày 26.1.1999. Qua nghĩa cử chúc mừng, các linh mục trong giáo phận bày tỏ lòng biết ơn và sự tùng phục của mình đối với Đức Cha Phêrô, vì trong suốt 8 năm qua, nhờ ơn Chúa, cùng với sự dẫn dắt của Đức Cha, giáo phận tiếp tục sinh sôi nảy nở, tiếp tục phát triển không ngừng.
Ngày cuối cùng của tuần tĩnh tâm, ngày 19.1.2007, buổi sáng, trong thánh lễ, các linh mục lặp lại lời tuyên hứa trung thành với thánh chức linh mục của mình trước Chúa Giêsu Thánh Thể, trước mặt Đức Giám mục và cộng đoàn Hội Thánh mà đại diện là anh em linh mục trong giáo phận. Ngày cuối cùng không có bài giảng tĩnh tâm. Thay vào đó, các linh mục mục đặc trách các ủy ban, cũng như các linh mục có những nhiệm vụ khác trong giáo phận báo cáo tổng kết sinh hoạt trong suốt năm qua. Cuối cùng là huấn từ của Đức Giám mục giáo phận. Sau khi đánh giá sơ lược tuần tĩnh tâm, Đức Cha Phêrô Trần Đình Tứ đã khen ngợi cũng như nhắc nhở nhiều điều. Ngài cũng đưa ra đường lối và vài hướng dẫn cụ thể cho năm Sống Đạo 2007. Đức Cha cũng đã nghiêm khắc với nhiều thái độ xem ra còn chểnh mãn, hoặc dễ dãi trong việc đào tạo tâm linh cho mình, nhằm nuôi dưỡng đời sống đạo đức của chính mình và của đoàn dân Chúa trao cho mình. Đức Cha cũng đã có một bản tổng kết khá dài những việc làm của một năm qua. Qua đó, đánh giá lại những gì còn thiếu sót và định hướng cho năm Sống Đạo 2007, nhằm làm sáng danh Chúa và mưu ích phần rỗi các linh hồn.
Sau cùng, với tâm tình mục tử, lòng độ lượng của người cha chung của giáo phận, Đức Cha Phêrô Trần Đình Tứ đã khuyến khích các linh mục trong giáo phận hãy cố gắng nhiều hơn nữa để giáo phận đi lên. Ngài cũng ngỏ lời cám ơn các linh mục là những cộng tác viên của ngài. Một câu nói mà ngài vẫn lặp đi lặp lại suốt tám năm qua, đó là: “Một mình Giám mục chẳng làm được gì…”, để mời gọi mọi người hăng say cộng tác với ngài.
Ngày cuối cùng của tuần tĩnh tâm kết thúc, các linh mục chia tay nhau về lạI nhiệm sở của mình. Hy vọng rằng, sau một tuần sống vớI Chúa và vớI nhau, mỗI linh mục trong giáo phận Phú Cường lạI kín múc cho mình nhiều năng lực mớI, nhiều ơn Chúa, tràn đầy sức sống của Chúa Thánh Thần để tiếp tục hành trình của mình là dẫn dắt đoàn dân Chúa trao trong tinh thần mục tử của chính Mục Tử Giêsu.
Bế mạc tuần lễ Di Dân của Tổng giáo phận Sài gòn đã khai mạc vào lúc 4 chiều Chúa nhật ngày 21 tháng 1 năm 2007. Lúc tôi có mặt tại Giáo xứ Khiết Tâm – Thủ Đức, nơi đăng cai tổ chức đồng hồ chỉ đúng 3g30, nắng vẫn còn gay gắt, hầm hập thì tại khuôn viên nhà xứ các bạn công nhân khắp nơi đã về tràn ngập khuôn viên giáo xứ.
Ngoài 3 đơn vị nòng cốt là Khiết Tâm, Bình Chánh và Xuân Hiệp thì ngày hôm nay còn có rất đông các anh chị em di dân ở các giáo xứ khác như: Hiển Linh, Tam Hải, Thạch Đà, Bình Thuận, Tân Phú, Bình An Thượng, Bình An Hạ, Mẫu Tâm, Tân Việt thuộc giáo phận Saigòn và hai giáo xứ: Dĩ An và Bình Hoà thuộc giáo phận Phú Cường cũng về tham dự.
4g 15 phút cha Phaolo Phạm Trung Dong – trưởng Ban Mục Vụ Di Dân Giáo Phận tuyên bố khai mạc ngày hội cầu cho anh chị em di dân. Ngài nói: Anh chị em di dân là những người can đảm, dám chấp nhận sự hy sinh xa lìa quê hương trong một khoảng thời gian để xây dựng một cuộc sống mới tốt đẹp hơn cho bản thân và cho gia đình cũng như làm giàu đẹp cho xã hội. Tiếp theo cha phổ biến lá thơ ngày Quốc Tế Di Dân của Đức Thánh Cha với những ý ngắn gọn dễ nhớ: Di dân là một nguồntài nguyên lớn lao trong việc thăng tiến gia đình của nhân loại. Người dân phải lìa xa quê hương hầu như vì lý do kinh tế và Ngài nhấn mạnh: Trong lãnh vục di dân, con người luôn được đặt trọng tâm hàng đầu và Giáo hội mở ra những trung tâm nơi mà tiếng nói của di dân được lắng nghe, nơi mà họ được đón tiếp, nơi mà họ được phục vụ.
5 giờ chương trình Game show tìm hiểu về giáo hội và văn hoá đại phương đã diễn ra hào hứng với 3 đội thi là Xuân Hiệp, Phaolo và Khiết Tâm. Những câu hỏi như Giáo phận nào đông giáo dân nhất? Giáo phận nào ít linh mục nhất? Ba giáo phận đầu tiên được thành lập là những giáo phận nào? Và trò chơi về nguồn với việc lật ô số ráp những câu ca dao với nhau và trò chơi đoán chữ đã làm bầu khí của nhà thờ nóng lên sau những câu trảlời đúng và những câu trả lời …trật lất, nhưng bù vào đó là những tiếng cười giòn tan cùng những bài học nho nhỏ giúp cho các bạn có một cái nhìn chung chung về giáo hội Việt Nam.
5g 45 phút, Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn được các bạn di dân ùa đón nồng hậu từ cổng nhà thờ tiếng reo vang vui tươi chào đón vị cha chung của giáo phận, người luôn đau đáu quan tâm đến mục vụ di dân. Trong phần tâm tình với các bạn công nhân, ngài chia sẻ những chuyến mục vụ xứ người với những buổi gặp gỡ người Việt tha hương. Nơi đâu anh chị em mình cũng quy tụ để trở thành một cộng đoàn để cùng nhau cầu nguyện, dâng lễ và các Giám Mục địa phương đã phải khen ngợi người Việt là muối, là men giữa các quốc gia mà chúng ta đang sống.
Tuy nhiên Ngài chia sẻ tiếp về mối bận tâm khi Ngài đến Mã Lai, nơi mà anh chị em công nhân công giáo người Việt không dễ dàng được bày tỏ niềm tin trong một xã hội mà Hồi giáo là quốc giáo, hay tại Thái Lan nơi Phật giáo là quốc giáo ….Ngài cho anh chị em di dân thấy rằng họ hạnh phúc hơn nhiều so với những anh chị em sống nơi đất khách quê người. Ở Việt Nam, chúng ta được quy tụ trong các lớp giáo lý,các sinh hoạt công giáo, những hỗ trợ của giáo phận …Ngài mời gọi các bạn ý thức được đó là hồng ân Chúa ban và thánh hoá những ân huệ đó bằng cách trở nên muối, là ánh sáng nơi môi trường mà các bạn đang sống.
Đáp lại những lời nhắn gửi, những tâm tình của Đức Hồng Y là tiếng vỗ tay không dứt của hơn 3 ngàn người có mặt trong ngôi thánh đường. Sau đó Ngài trao quà cho các cá nhân, các đơn vị di dân vượt khó.
6g 30 thánh lễ bế mạc tuần lễ cầu nguyện cho những anh chị em xa quê được tổ chức ngoài trời với con số ước lượng khoảng 5 ngàn người, chỉ đứng và ngồi mà vẫn phải nhường nhau bằng cách ngồi bó gối để người bạn bên cạnh có thể chen chân vào. Trong bài giảng Đức Hồng Y lấy ví dụ của thánh Phaolo, của Đức Hồng Y F. X Nguyễn Văn Thuận là những người trong tư cách là một tù nhân, là một người tị nạn, nhưng các Ngài đã trở thành những sứ giả Tin mừng tại Roma. Chúa Thánh thần đã biến những người tị nạn trở nên những công cụ hữu hiệu của Thiên Chúa. Hay nói khác hơn sự hiện diện của các bạn nơi đây là chứng tích của Chúa Thánh Thần. Các bạn hãy sống và bảo trì hồng ân này. Và với cách dùng từ của người rặt Nam bộ, Ngài nói : hiện nay chúng ta đang gặp phải nạn sâu rầy, ở đâu có khu công nghiệp, ở đó có di dân, ở đâu có di dân nơi ấy có phá thai, ly dị và các tệ nạn khác. Nạn sâu rầy là nói theo phong cách nông dân Việt Nam, còn theo cố Giáo hoàng Gioan Phaolo II đó là văn minh sự chết. Chúng ta biết có nạn sâu rầy này thì phải tìm thuốc phòng ngừa. Với toa thuốc đơn giản chỉ có 3 vị là : củng cố đời sống cầu nguyện gia đình, học và giúp nhau sống Lời Chúa và phải sống liên kết với nhau…thì chắc chắn chúng ta sẽ trở thành những cộng đoàn sống niềm tin gần gũi với Thiên Chúa nhất.
Sau thánh lễ các bạn đến các gian hàng ẩm thực đổi phiếu ăn với hơn 40 món tự chọn, và vừa thưởng thức vừa coi văn nghệ…với những phút cuối là chương trình sổ số cuối năm, phần thưởng bao gồm xe đạp, máy quạt, bàn ủi….
Một ngày gặp gỡ nhau,được nghe những huấn từ quý giá và được phục vụ tận tình….đó là một điều không tưởng – Huân- một bạn trẻ công nhân đã nói với tôi như vậy lúc ra về,bạn nói tiếp, nhưng cái được nhiều nhất đó là mình học được bài học phục vụ người khác.
Có lẽ đó cũng là tâm tình của nhiều bạn trẻ di dân khác khi được sự quan tâm của giáo hội địa phương nơi mình cư ngụ và đặc biệt qua các Dòng tu đang trực tiếp với các bạn di dân trong nhiều lãnh vực.
Kết thúc tuần lễ cầu cho di dân không phải là kết thúc việc cầu nguyện cho người di dân, nhưng là một mốc điểm để chúng ta -những người lữ hành về nhà Cha- tiếp tục cầu nguyện cho cuộc lữ hành của chúng ta luôn tràn đầy niềm vui và niềm hạnh phúc trong Tình Yêu Thiên Chúa.
Minh Nguyên
Ngày 23/01/2007, trời còn mờ sáng, đại diện giáo dân từ các giáo xứ trong giáo phận đã tiến về nhà thờ Chánh toà Xuân lộc, nơi những ngày qua từng đoàn đã tiến về ngày đêm kính viếng người Cha. Người Cha ấy đã trở thành điểm qui tụ của cộng đoàn dân Chúa hôm nay. Ngày giờ an táng vị Cha chung không ai muốn nghĩ đến.
Lúc 9 giờ00, hàng ngàn đại diện cho hàng triệu con tim trong giáo phận, hàng ngàn tu sĩ nam nữ hợp cùng 600 Linh mục theo với 15 Đức Cha. Đoàn rước vào nhà thờ hòa khúc tâm ca như một điệu ru: “Từ ngàn xưa Cha đã yêu con, Cha gọi con ………”khơi lên tình yêu và hy vọng, quá khứ và tương lai, hôm qua và mãi mãi, cho dù hôm nay Cha khuất rồi.
Đức cha cố Phaolô Maria tạm biệt Giáo phận để trở về với Cha, Đấng mà suốt đới Đức Cha yêu mến, phụng sự, khao khát kiếm tìm và trọn đời hy vọng:
Hạt lúa mì gieo vào lòng đất để sinh nhiều bông hạt.
Đức Cha từ biệt mùa gieo để đoàn con vào mùa gặt mới.
Đức Cha giã từ cuộc đời trần thế để vào cõi vĩnh hằng.
Lúc này có thể nói, Đức Cha hoàn tất 81 năm cuộc đời dương thế, dâng hiến trọn cuộc đời mình để phục vụ Chúa, phục vụ Giáo hội, phục vụ tha nhân trong hân hoan tin yêu và phó thác.
Bước vào thánh lễ, đoàn con nghẹn ngào nhưng hy vọng vì người Cha xa khuất để gần hơn, vì đoàn con biết rằng Cha yêu thật nhiều, Cha hy sinh tất cả như hạt giống gieo vào lòng đất chịu mục nát đi thì sẽ sinh nhiều bông hạt là chính chúng con, cánh đồng giáo phận cũng như mọi sinh trưởng của cõi nhân sinh. Đó cũng là ý tưởng chính yếu được Đức Cha chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam nảy ra từ cuộc đời của Đức Cha Cố sống cho sứ mạng mục tử tôi trung của Thiên Chúa.
Sau khi chia sẽ cùng một lòng tin đón nhận Mình Thánh Chúa - Bánh hằng sống, Bánh phục sinh. Cộng đoàn phụng vụ được lắng nghe điện văn phân ưu của Hồng Y Tổng Trưởng Bộ Truyền Giảng Phúc Am Cho Các Dân Tộc.
Kính gửi:
ĐỨC CHA ĐAMINH NGUYỄN CHU TRINH,
GIÁM MỤC GIÁO PHẬN XUÂN LỘC.
“Tôi xúc động khi nhận được tin Chúa đã gọi Đức Cha Phaolô Maria Nguyễn Minh Nhật, Giám mục Xuận lộc đã nghỉ hưu. Tôi xin hiệp thông sâu xa trong lời cầu nguyện cùng với Giáo phận, với gia đình của Đức Cha cố, và với những ai đau buồn trước đại tang này. Tôi nguyện xin Chúa là Cha giàu lòng thương xót đón nhận người tôi tớ nhiệt thành và trung tín của Giáo hội vào trong ánh sáng và bình an của Nước Chúa. Tôi tạ ơn Chúa vì Đức Cha Phaolô Maria đã nhiều năm phục vụ trong thừa tác vụ Giám mục, đồng thời tôi cũng tỏ lòng biết ơn vì Ngài đã phục vụ xuất sắc trong tư cách Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và là thành viên của bộ Truyền Giảng Phúc Am Cho Các Dân Tộc ”
Hồng Y bộ trưởng
Ivan Dias.
Sau khi cha Tổng đại diện công bố chúc thư và Đức Cha Đaminh Nguyễn Chu Trinh cảm tạ quí vị cá nhân cũng như các đoàn thể đã phân ưu với giáo phận và cầu nguyện cho Đức Cha cố, Cộng đoàn phụng vụ đã bước thành đoàn rước tang trong lời kinh tiếng hát tiễn linh cữu Đức Cha Cố về đất thánh Tòa Giám mục. Con đường ngắn sao nay thật dài. Trời nắng chói chang sao như ảm đạm. Một người Cha lặng thinh, đoàn con xót xa đau thương lặng tím tâm hồn.
Trước phần mộ.
Đoàn rước tang quây vòng quanh mộ huyệt, lời nguyện tha thiết được dâng lên:
Anh chị em thân mến,
Trong khi thi hành nhiệm vụ chôn cất thi hài này theo truyền thống công giáo, chúng ta biết rằng mọi vật đều phải trung thành sống cho Chúa. Vậy chúng ta nài xin Chúa cho thi hài Đức Cha Cố Phaolô Maria mà chúng ta đang chôn cất vì xác thịt hư nát, nhờ quyền năng Chúa, được sống lại trong hàng ngũ các thánh…..
Hàng ngàn cánh hoa tươi đầy ắp huyệt mộ như tình yêu muốn gửi mãi về người Cha. Đã 12 giờ 30.
Cha an giấc nơi phần mộ
Hôm nay, ngày Cha an giấc nơi phần mộ, cũng là khởi đầu một tuần tĩnh tâm linh mục Giáo phận. Cha chịu mục nát đi, để đoàn con được sức sống mới.
15 giờ 00 Đức Cha Đaminh cùng với 214 Linh mục đã gửi lại Đức Cha Cố 215 nắm cát. Tất cả mong rằng, người Cha yên giấc ngàn thu. Cha ở lại mai con lại đến. Cứ thế, cho tháng ngày qua đi, có ngày Cha con đoàn tụ. Thầm nghĩ thế trong tuần tĩnh tâm.
BAN TANG LỄ
N.B: Chúng tôi chân thành cám ơn quí báo đài đã đăng tải những thông tin tuần tang lễ Đức Cha Cố Phaolô Maria.
Xuân Lộc - 23-01-2007
Đầu lễ:
Lúc này chúng ta cùng hiệp dâng thánh lễ cầu nguyện cho đức Cha Cố Phaolô Maria, được gọi về nhà Cha, sau một thời gian dài đã phục vụ:
Giáo hội toàn cầu, Giáo hội Việt Nam và nhất là Giáo phận Xuân Lộc.
Trong tâm tình thảo kính của những người con trong giáo phận, tâm tình hiệp thông của Hội đồng Giám mục và đoàn dân Chúa tại Việt Nam, tâm tình cảm mến của mọi người thân thuộc.
Trong niềm tin vào mầu nhiệm các Thánh cùng thông công, niềm tin vào sự phục sinh vinh hiển. Chúng ta dâng chính Chúa Giêsu làm lễ hy sinh lên Chúa Cha để cầu nguyện cho Đức Cha Cố Phaolô Maria được đón nhận về quê hương muôn đời hạnh phúc.
(Sau bài tin mừng)
Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa chủ sự và giảng Thánh
lễ an táng Đức Cha Phaolô Maria Nguyễn Minh Nhật
1- Những lời cầu nguyện và lễ tế chúng ta dâng trong thánh lễ hôm nay là để cầu
cho Đức Cha Phaolô Maria, nhưng lời Chúa mà chúng ta vừa nghe lại muốn nhắm nuôi
dưỡng chúng ta là những người đang sống trong xã hội, để tiến tới một cuộc sống
tốt đẹp, sẵn sàng cho một cuộc biến đổi tốt đẹp hơn khi chúng ta bước sang đời
sau.
2- Chúng ta vừa nghe lời Chúa trong sách tiên Isaia: “Thiên chúa sẽ tiêu diệt sự chết đến muôn đời”. “Tiêu diệt sự chết”. Đây thật là một điều hấp dẫn, vì mọi người chẳng ai thích sự chết cả.
3- Tiêu diệt và chiến thắng sự chết.
Trong bài Tin mừng thánh Gioan mà chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu đã cho chúng ta cảm nghiệm điều đó một phần khi quan sát hạt lúc rơi xuống đất, nó thối đi, nhưng từ đó một mầm cây sẽ mọc lên và sinh ra một bông nhiều hạt, theo khả năng được Thiên Chúa phú bẩm.
Chính hạt lúa đã chiến thắng sự chết của nó, bằng cách nẩy sinh một mầm non, và từ mầm non đó sự sống lại tiếp nối, được nhân lên và phát triển mạnh mẽ.
Thật là đơn giản, nhưng cũng thật là kỳ diệu.
4- Vì vâng phục và yêu thương đến cùng, Chúa Giêsu đã chấp nhận sự chết, như hạt lúa gieo xuống đất phải thối đi, nhưng Ngài đã chiến thắng sự chết bằng sự sống lại và đồng thời cũng cho những ai cùng chết với Ngài cũng được sống lại như vậy.
5- Cùng chết với Đức Kitô.
Nhờ phép rửa, người tín hữu được cùng chết với Đức Kitô.
Muốn cùng chết với Đức Kitô, con người phải tránh điều ác, làm điều thiện: Phải hãm mình, Mortification có nghĩa là làm cho chết, khi hãm mình ta làm chết trong ta những ước muốn của đam mê, của dục vọng, của tham lam.
6- Áp dụng vào cuộc sống.
Ở trên đời, chúng ta ai cũng được sinh ra, bình thường sẽ lớn lên, già đi, thế rồi cái chết sẽ xảy đến như là một kết thúc tất nhiên của cuộc sống.
Sau khi chết, con người sẽ không trở lại cuộc đời bằng một cuộc sống trần thế khác, con người sẽ không đầu thai trở lại để rồi lại có một đời sống mới.
Vì thư Do Thái (9,27) viết: “phận con người là phải chết một lần” câu này có ý nhắc chúng ta mấy điều quan trọng sau đây:
a/ mỗi người chỉ sống ở trần thế trong một khoảng
thời gian có hạn, dù cuộc sống có kéo dài bao nhiêu đi nữa.
b/ cái chết thế nào cũng xảy tới, dù cách thế xảy tới có khác nhau.
c/ giá trị việc làm ở đời này sẽ theo chúng ta về đời sau.
Vì thế chúng ta phải biết quí trọng mạng sống, và tận dụng thời giờ quí báu có được để thực hiện các công việc đạo đức trong tâm tình yêu thương và phục vụ.
7- Sống đạo đức là việc ở trong tầm tay chúng ta.
a/ mỗi ngày trên thế giới có khoảng 140.000 người bị thương tích do tai nạn giao thông, trong số đó hơn 3.000 người bị chết và 15.000 người tàn tật suốt đời.
Sống đạo đức là tôn trọng luật lệ giao thông, là tôn trọng quyền ưu tiên của người khác. Là tránh gây ra những thiệt hại về sức khoẻ và mạng sống của mình cũng như của người khác.
b/ sống đạo đức là công minh trong việc xét xử: trọng tài Colliua đầu trọc với hốc mắt sâu trông thật dữ dằn, mặt lạnh như tiền. Nhưng ông đã chinh phục cả thế giới bằng cái tâm trong sáng công minh và cực kỳ nghiêm khắc trong khi làm nhiệm vụ. Không những ông đã chúc mừng người chiến thắng nhưng cũng biết an ủi người thua cuộc. Vì thế trong nhiều năm, ông đã liên tục được bình chọn là trọng tài hay nhất của thế giới (báo Khánh Hòa 5/07/2004 trang 5).
c/ ngày 6-3-2005 em Khánh Duy, một học sinh trường tiểu học Trương Định, thị xã Rạch Giá đã can đảm hy sinh nhảy xuống sông cứu bạn đang chìm dần giữa dòng nước. Nhưng khi vừa đưa bạn vào bờ thì chính Khánh Duy đuối sức bị nước cuốn đi (báo tuổi trẻ 8-3-2005 trang 14).
Còn biết bao nhiêu cuộc đời tốt đẹp khác nnêu lên nhiều gương tốt trong cuộc sống, họ đã biết làm chết đi tính ích kỷ, gian lận, coi thường quyền lợi người khác. Họ chính là những người cùng chết với Đức Kitô và cũng sẽ được sống lại với Người.
8- Đức Cha Phaolô Maria cùng đã từng được nghe những lời Kinh thánh mà chúng ta vừa nghe, và lời Chúa đã nuôi dưỡng Ngài suốt chặng đường trần thế.
Chúng con là những người đang còn sống cuộc đời lữ hành trần thế, là những người sẽ chết, đang cầu nguyện cho Đức Cha là người không chết nữa, mà đã bước vào cõi vĩnh hằng.
Đức Cha đang có tiếng nói quyền thế nơi Chúa xin cầu cho chúng con.
Thánh Đaminh, khi hấp hối đã nói với các anh em mình: “Xin anh em đừng khóc, vì sau khi chết tôi sẽ có ích cho anh em hơn, sẽ giúp đỡ anh em hiệu quả hơn khi tôi còn sống”. Còn Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu thì nói: “Tôi sẽ sống trên trời để làm việc lành dười thế”.
Xin Đức Cha Phaolô Maria cũng bầu cử cho chúng con như vậy.
Ðức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa
Chủ tịch HĐGMVN,
Giám mục Giáo phận Nha Trang
Chủ đề: LINH MỤC VÀ NĂM SỐNG ĐẠO
Giáo phận Phan thiết tổ chức tuần tĩnh tâm cho các linh mục từ ngày đầu năm mới. Đức Cha Phaolô chủ toạ và giảng lễ mỗi ngày.
Có 82 linh mục tham dự. Đức Cha Nicola dù tuổi cao, bệnh tật, sức khoẻ sa sút, nhưng đã hiện diện một đôi lần, thăm hỏi các linh mục.
Đức Ông G.B Lê Xuân Hoa, tổng đại diện, thay mặt linh đoàn giáo phận chào và cám ơn Đức cha Phaolô. Đức cha đã lo lắng cho sự thánh thiện của các linh mục, quan tâm đến tương lai linh mục qua sự đầu tư cho Chủng viện Nicola của giáo phận. Tổ chức tuần tĩnh tâm là bảo vệ và thăng tiến đời sống thiêng liêng các linh mục, cũng cố và phát huy tình nghĩa anh em linh mục. Tĩnh tâm năm là độ dài thời gian giúp anh em cầu nguyện với Chúa, gặp gỡ nhau, đồng thời định hướng những sinh hoạt trong giáo phận trong công tác Tông đồ, hướng về công cuộc truyền giáo trong năm sống đạo. Cám ơn Chúa với những thành tựu của giáo phận trong năm qua: về mặt hành chánh đã có nhiều giáo họ được nâng lên hàng giáo xứ, về xây dựng đã có 5 Nhà thờ mới , 12 nhà thờ đang xây dựng, công trình hành hương Mẹ Tàpao, công trình nhà tĩnh tâm Toà giám mục đang thi công.
ĐGM ban huấn từ khai mạc: Tuần tĩnh tâm là thời gian tạ ơn Chúa, dâng lên Chúa những kết quả, những công lao, những khó khăn trong công tác mục vụ một năm qua đồng thời sống tâm tình cầu nguyện sốt mến. Tĩnh tâm là thời gian thánh, mọi công việc được xếp qua một bên, đặt mình trước sự hiện hiện của Chúa, rà soát lại bản thân. Cần sự thinh lặng, riêng tư và cầu nguyện. Mục đích của tĩnh tâm là: tăng cường đời sống thiêng liêng, tháp nhập con người linh mục vào Chúa Kitô và kiện toàn đời sống phục vụ trong yêu thương.
Thừa tác vụ linh mục là thừa tác vụ thánh được đón nhận từ Chúa Kitô: Như Cha đã sai Thầy, thầy cũng sai anh em…Thầy đã chọn anh em và sai anh em ra đi để anh em mang lại hoa trái…Công tác mục vụ của linh mục là phục vụ vì lý tưởng Tin mừng, công việc phục vụ luôn gắn bó với Chúa Kitô
Tuần tĩnh tâm là thời gian sống tình hiệp thông cao độ nhất. Hiệp thông với Chúa Giêsu qua đời sống cầu nguyện và hiệp thông với anh em qua chia sẽ kinh nghiệm mục vụ.Vì thế Đức Giám mục đã mời gọi các linh mục hãy cố gắng giữ sự thinh lặng tuyệt đối trong các giờ xét gẫm để cầu nguyện và để xét mình.
Giờ Thánh mỗi tối do các Cha Hạt Trưởng chủ sự và suy niệm trước Thánh Thể. Nội dung bao gồm các chủ đề: Linh Mục và chân tính Kitô hữu, linh mục và đời sống phục vụ, linh mục và công việc truyền giáo, linh mục và hy tế đời sống thập giá.
Đức Ông Tổng đại diện giúp nguyện gẫm sau kinh sáng mỗi ngày. Những gợi ý giúp suy gẫm về cuộc sống linh mục cần có sự tĩnh lặng, sống thánh thiện và thực thi bác ái mục tử. Ý nguyện mỗi ngày đều nhớ đến các linh mục đã qua đời.
Chương trình một ngày tĩnh tâm đầy ắp sinh hoạt đạo đức:
Ban sáng: Kinh Sáng, Nguyện Gẫm, Thánh Lễ,
Bài Giảng, Thinh Lặng Xét Gẫm.
Ban trưa: Kinh Sách, Lần Chuỗi
Ban chiều: Kinh Trưa, Bài Giảng,
Thinh Lặng Xét Gẫm, Kinh Chiều.
Ban tối: Chầu Thánh Thể, Kinh Tối.
Các Linh mục tham dự tuần tĩnh tâm thật sốt mến trong các giờ đạo đức, chăm chú lắng nghe các giờ giảng bài, thinh lặng cầu nguyện xét mình trong các giờ riêng tư.
Theo tinh thần của thư HĐGMVN 2006: Sống Đạo Hôm Nay, Đức Giám mục đã chọn chủ đề tĩnh tâm năm nay là: Linh Mục và Năm Sống Đạo. Đức cha giảng phòng triển khai vấn đề sống đạo của Linh mục.
Linh mục thường tổ chức các lớp học trong giáo xứ, soạn nhiều bài giảng cho năm sống đạo, thế nhưng linh mục cũng cần sống đạo. Sống đạo là nhập thế giữa đời. Sống đạo là sống với Chúa, với tha nhân, sống vì Chúa và vì tha nhân.
Sống đạo của Linh mục là điều chỉnh các mối quan hệ. Quan hệ hàng dọc và hàng ngang.
Đức Cha Giảng Phòng nói chuyện tự nhiên, trình bày các mối quan hệ dựa trên nền tảng Tin mừng và giáo huấn giáo hội, đặc biệt là theo mẫu gương Chúa Giêsu.Ngài minh hoạ bằng những câu chuyện đời thường, dí dỏm tạo bầu khí vui tươi thoảI mái.
- Quan hệ hàng dọc: Linh mục với Chúa Giêsu: đây là mối quan hệ căn bản, là thước đo sức khoẻ tinh thần linh mục. Mối quan hệ này tạo sự bằng an và niềm hạnh phúc cho đời linh mục. Cần đặt Chúa Giêsu vào vị trí hàng đầu của cuộc sống linh mục.
- Quan hệ hàng ngang:
+ Linh mục với Giám mục: Đây là mối quan hệ hàng đầu. Giám mục sinh ra linh mục trong chức linh mục và sai Linh mục đi làm vườn nho của Thiên Chúa. Linh mục tin vào tình thương của Giám mục, thông cảm với Giám mục và cùng cộng tác với giám mục để xây dựng giáo phận.
+ Linh mục với Linh mục: là mối quan hệ trong tình hiệp thông. Sống với nhau như anh em một nhà. Tránh sự kỳ thị và phân biệt. Khi linh mục ở lại trong Chúa Giêsu thì sẽ có sự hiệp nhất.
+ Linh mục với giáo dân: Gióa dân là cuộc đời, là gia đình của linh mục. Giáo dân là sự phản ánh thành bại của linh mục giáo phận.Làm Linh mục là cho và vì giáo dân. Theo gương Chúa Giêsu sống đức ái mục tử đối với giáo dân. Linh mục luôn nhớ làm cho ngày chúa nhật trở nên ngày vui tươi của giáo dân. Linh mục thương giáo dân mới là cha xứ.
- Sống các mối quan hệ hàng dọc hàng ngang ấy tốt đẹp, thì cuộc đời Linh mục sẽ hạnh phúc và tràn đầy niềm vui. Như vậy Linh mục sống đạo là sống niềm vui trong các mối quan hệ và làm cho nó tràn đầy tình thương. Đời linh mục không có niềm vui thiêng liêng thì không còn là linh mục.
Ngày cuối tuần tĩnh tâm, thánh lễ đồng tế tại Nhà thờ chính toà với tâm tình tạ ơn Chúa. Mừng ngân khánh linh mục hai cha già, cha J.B Vũ Đình Hiên (87 tuổi), cha Giacôbê Lê Đức Trung(85 tuổi).
Tuần tĩnh tâm giúp nhiều ơn ích thiêng liêng cho các linh mục. Trở về lại giáo xứ với công việc mục vụ, linh mục sống những gì đã nghe Chúa nói, sống những gì đã cầu nguyện.
Dân Chúa bước vào năm sống đạo với những quyết tâm thực tế. Linh mục sống đạo một cách cụ thể qua những mối tương quan với Chúa, với Giám mục, với linh mục, với giáo dân, linh mục sẽ có đựơc hạnh phúc niềm vui và bình an trong cụoc đời mình.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An, lược ghi.
(Trích nhật ký của Teen)
Đêm bão…
Trời đêm cuối năm sao lạnh thế?
Cái lạnh bên ngoài từ những gầm thét của cơn bão số 9 đang về.
Lạnh hơn nữa! Cái lạnh của cơn bão chiều nay mới đổ bộ vào nhà mình!!!
Càng buồn, càng lạnh!!! ngủ không được! nhưng nửa đêm rồi biết làm gì đây?
À! Hình như bữa nào đó cha xứ có nhắc tới những trao đổi của các teen trên diễn đàn của giáo xứ: "làm gì khi cha mẹ cãi nhau?".
Tò mò với một chút hy vọng: biết đâu có ai đó còn đang thức để rỉ rả và biết đâu có ý kiến chia sẻ của ai đó trên diễn đàn làm mình ấm lòng hơn một chút lúc này…
Bực mình thật!!! cái tên web của giáo xứ là gì nhỉ???
Cũng tại mình thôi! hồi nào tới giờ có gắn bó với giáo xứ đâu! học giáo lý thêm sức xong là biến mất dạng.
À! cuối cùng thì cũng thấy chứ! Và gặp may nữa chứ! vẫn còn một cái tên nhấp nháy trong diễn đàn. Mình phải câu độ để "xả căng thẳng" mới được…
Trò chuyện với người cùng niềm tin trên mạng cũng hay thật. Trước giờ mình cứ lang thang ở các web lung tung. Uổng quá! Người bạn này dễ thương ghê. Có lẽ mình có thể hỏi ý kiến về cơn bão gia đình mình lúc này đựơc rồi.
Á! Chúa Mẹ ơi!!! chết con rồi! nãy giờ nói chuyện với cha xứ.
Thôi thì đâm lao phải chạy theo lao thôi. Cha đâu biết mình là đứa nào…
Cũng nhẹ lòng được một chút! Thôi đi ngủ được rồi.
Ngày hy vọng…
Sáng thức dậy...
"Bão gia đình" vẫn chưa tan… nhưng ít ra thì bão lòng đã bắt đầu tan.
Nhưng đêm qua, "bạn chat" đã đề nghị mình viết cho bạn mấy hàng về hoà bình. Biết viết gì đây khi gia đình đang có chiến tranh. Đành phải hỏi ý kiến mấy bạn khác vậy…
Bạn HB bảo rằng: "Hoà bình là khi con người tìm được tiếng nói chung: Chị em đôi khi cãi nhau, nhưng sau đó làm hoà, vậy là gia đình có hoà bình" hay hoà bình đơn giản là khi ta vô tình làm buồn lòng người khác, nhưng biết nở nụ cười xin lỗi và tìm cách khắc phục thì chắc hẳn ta và người đó đã có sự an bình nơi tâm hồn. Dẫu sao thì "thêm bạn bớt thù"!!!...
Cùng ý tưởng với HB. , nhưng nhỏ KT. có vẻ lý sự hơn: "Không phải không có chiến tranh thì mới có hoà bình. Đôi khi trong cuộc sống, bạn bè mâu thuẫn, ba mẹ cãi nhau, gia đình chia rẽ cũng làm cho hoà bình không tồn tại. Theo mình, hoà bình như một cầu nối tình thương giữa người với người, như sự xuất hiện của cầu vồng sau trận mưa tầm tã".
Còn Bé Bự, "Đối với mình, đơn giản thôi: hoà bình là hạnh phúc. Không chỉ là gia đình hạnh phúc mà cuộc sống quanh mình cũng hạnh phúc. Riêng mình thì đã hạnh phúc rồi nhưng mình chưa thấy hoà bình đủ vì bên cạnh mình vẫn còn quá nhiều người không hạnh phúc. Nhiều em bé vẫn chưa phải lăn lộn xin từng đồng lẻ; nhiều cụ già vẫn phải đi ăn xin, đi bán vé số….
Vân Anh và Anh Thư còn thêm: "một xã hội thực sự hoà bình mà tụi mình cần phải là một xã hội không có những con nghiện, không có những ổ cờ bạc, những ổ mại dâm nữa cơ…
Cha xứ ơi!!!
Giữa đêm qua, khi con đang lạnh lẽo vì "chiến tranh giữa các vì sao" bùng nổ trong gia đình con, con đã gặp được một người bạn đồng cảm và chia sẻ với con trên mạng. Có đúng là cha không? Con vẫn cứ gửi những dòng này tới cha như lời "bạn chat" đã đề nghị.
Vâng nếu đúng là cha. Sao lúc trò chuyện trên mạng cha dễ thương, dễ gần thế? Còn trong thực tế, lúc nào cha cũng nhăn nhó vậy? Con đã đọc được đâu đó, có người giải thích "persona": nhân cách cũng đồng nghĩa với mặt nạ. Hay tại cha phải đeo mặt nạ vì cha là cha xứ để chấn chỉnh và điều hành giáo xứ? Hay tại cha đang phải quá tải vì công việc nên lúc nào cũng căng thẳng thế? Dù thế nào, bây giờ con đã hiểu và thông cảm với cha một phần rồi. Nhưng thiếu nhi chúng con vẫn thích thấy cha cười cơ.
Cha cười tươi đi để chúng con cảm nhận được hoà bình.
Cha cười tươi để lỡ ở nhà chúng con có chiến tranh, chúng con có nơi trú ẩn chứ! Hy vọng thật nhiều!!!
Người lớn ơi!
Cha mẹ ơi!
Đừng gây chiến tranh nữa làm chúng con sợ. "Chiến tranh vẫn tiếp diễn nghĩa là trẻ em ở những vùng chiến sự có khả năng mất đi người thân, ba mẹ,… mất đi một gia đình khiến cho chúng trở thành những đưa trẻ mồ côi, không nơi nương tựa. Trong con mắt của trẻ thơ thừa chết chóc và hận thù nhưng thiếu trầm trọng sự quan tâm và yêu thương"… bạn Mashimo đã than thở thế đấy.
Cha mẹ và người lớn có biết bạn bè con còn nói sao khi con hỏi về hoà bình không? bạn QH thì bảo rằng: "Hoà bình là một "thứ của cải" mà ai cũng cần đến…; còn Bạn Mashimo lại nói cách khá căng thẳng: "chiến tranh là một điều ngu ngốc nhất mà con người đã từng làm và cho đến bây giờ vẫn chưa chấm dứt."
Bạn TT. còn trích dẫn cả Lời Chúa Giêsu với vẻ trách cứ Chúa: Tại Chúa cả, Chúa chẳng bảo "Anh em đừng tưởng Thầy đến đem hoà bình cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa người ta với cha mẹ mình, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. kẻ thù mình chính là người nhà." (Mt 10, 34-36).
Chúng con không dám nói bố mẹ và người lớn ngu ngốc đâu. Chúng con cũng chẳng dám trách cứ Chúa đâu. Chúng con hiểu là Chúa muốn nói tới xung đột giữa những giá trị của Tin Mừng. Nhưng chúng con thật sự không hiểu. Vì bố mẹ và người lớn có xung đột với nhau về các giá trị Tin Mừng đâu mà chỉ toàn là cơm áo, gạo tiền,… và nhiều thứ mà chúng con chẳng hiểu nổi.
Chúng con xin bố mẹ và người lớn đừng gây chiến tranh nữa. Đừng làm chúng con sợ nữa bố mẹ ơi!
Chúng con xin mượn tâm tình của Dorothy L. Nolte trong bài "Trẻ thơ học từ những gì trẻ sống?" để thưa với bố mẹ và người lớn rằng:
Khi trẻ thơ sống trong chỉ trích,
trẻ học cách kết tội.
Khi trẻ thơ sống trong thù hằn,
trẻ học cách đánh nhau.
Khi trẻ thơ sống trong sợ hãi,
trẻ học cách e ngại.
Khi trẻ thơ sống trong thương hại,
trẻ học cách hổ thẹn cho bản thân mình,
Khi trẻ thơ sống trong nhạo báng,
trẻ học cách nhút nhát.
Khi trẻ thơ sống trong ghen tị,
trẻ học cách đố kỵ.
Khi trẻ thơ sống trong tủi hổ,
trẻ học cách cảm giác tội lỗi.
Khi trẻ thơ sống trong khoan dung,
trẻ học cách kiên nhẫn.
Khi trẻ thơ sống trong động viên,
trẻ học cách tự tin.
Khi trẻ thơ sống trong khen ngợi,
trẻ học cách hiểu rõ giá trị.
Khi trẻ thơ sống trong tán thành,
trẻ học cách yêu bản thân mình
Khi trẻ thơ sống trong chấp thuận,
trẻ học cách tìm ra tình yêu trên Thế Giới.
Khi trẻ thơ sống trong thừa nhận,
trẻ học cách đặt cho mình một mục tiêu.
Khi trẻ thơ sống trong chia sẻ,
trẻ học cách độ lượng.
Khi trẻ thơ sống trong trung thực và thẳng thắn,
trẻ học thế nào là sự thật và sự công bằng.
Khi trẻ thơ sống trong an toàn,
trẻ học cách tin vào bản thân và những người xung quanh
Khi trẻ thơ sống trong thân thiện,
trẻ học rằng Trái Đất là một nơi thật đẹp để sống.
Khi trẻ thơ sống trong thanh bình,
trẻ học cách có sự yên tĩnh trong tâm trí.
Con của bạn sống trong những gì?
Bố mẹ ơi! bố mẹ có biết khi chiến tranh xảy ra trong gia đình chúng con đã làm gì không?
Có bạn như Oeoeoe, "đã bỏ của chạy lấy người để khỏi bị 'trúng miểng đạn'; nhưng có nhiều bạn như lamhoang, baohan, anhchangmomong_218, Polly,… đã can đảm tìm nơi ẩn nấp ngay trong nhà để lắng nghe và tìm hiểu. Vâng, chúng con thông cảm và yêu mến bố mẹ. Vì không ít lần, chúng con chính là nguyên nhân để cho chiến tranh xảy ra giữa bố mẹ. Chúng con thật lòng xin lỗi bố mẹ. Chúng con hy vọng sẽ không có những cuộc chiến mới vì chúng con trong gia đình mình.
Chúa Giêsu Hài Đồng ơi! Chúa có tên gọi là "Hoàng Tử Bình An" mà! Triều đại của Chúa là triều đại của bình an phải không Chúa? Nhân dịp mừng Chúa giáng sinh, chúng con xin thỏ thẻ với Chúa đôi tâm sự của chúng con. Chúa lắng nghe lời của các bạn nhỏ chúng con nhé!
Chúng con ước gì không còn chiến tranh, không còn đau thương, dịch bệnh và đói kém. Ước gì có nhiều nhà hảo tâm biết quan tâm giúp đỡ người nghèo khổ và các nhà lãnh đạo biết tôn trọng hoà bình, biết nhường nhịn nhau. Nước này không xâm chiếm nước kia nữa. (QH)
Ước gì mọi người cảm nhận hoà bình bằng một cái nhìn mới và sống hoà hợp với nhau để chúng con có thể cảm nhận được niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống (KT).
Mong rằng những người gây ra chiến tranh biết nghĩ đến cảm giác của những người dân đang sống trên đất nước họ (Vân Anh).
Chúa ơi, hãy rọi sáng trên mọi người ánh sáng của Chúa vì chúng con tin rằng:
"Khi có ánh sáng trong tâm hồn,
con người sẽ đẹp lên.
Khi con người đẹp lên,
sẽ có sự hoà thuận trong gia đình.
Khi gia đình hoà thuận,
sẽ có trật tự trong đất nước.
Khi đất nước trật tự,
sẽ có hoà bình trên thế giới." Amen
Nobita
"Cách nay một tháng, tại một bữa tiệc cưới, một người bạn ngồi đồng bàn nói nhỏ với tôi: "Cha quen viết báo, cha hãy viết một bài ủng hộ ông tân Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Thiện Nhân đi!" Hơi ngạc nhiên về đề nghị này, tôi hỏi lại: "Có cần thiết không?" Đáp: "Cần chứ! Rất cần!" Rồi chúng tôi bắt qua đề tài giáo dục và công việc của ông tân bộ trưởng.
Từ khi nhậm chức, ông BT tỏ ra rất năng nổ, xông xáo, đi hết Bắc chí Nam quan sát tận mắt, đánh giá sâu sát tình hình các nơi nhất là những nơi có vấn đề. Ông tỏ ra cởi mở, sẵn sàng nghe các ý kiến, quan tâm tìm sự đồng thuận của xã hội, có khi không ngại viết báo để nêu lên quan điểm, chính kiến của mình. Ông cũng tỏ ra quyết tâm và quyết liệt nhưng vẫn giữ được một phong thái nhẹ nhàng, mềm mỏng, "tình nghĩa" như chúng ta đang thấy trong việc xử lý vụ học sinh Bùi Minh Trí đột nhập phá hoại trang điện tử của chính Bộ GD-ĐT chẳng hạn. Bộ máy ì ạch nặng nề đã nhúc nhích. Một sinh khí mới bắt đầu thổi vào ngành giáo dục.
Trong khối lượng đồ sộ của các việc phải làm, ông đã "đánh" vào khâu nào trước nhất? Trong hội nghị tổng kết năm học 2005-2006 ngày 31-7-2006, ông BT đã cùng với 64 giám đốc Sở GD-ĐT các tỉnh, thành và những giáo viên xuất sắc phát động cuộc vận động nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục. Trong Báo cáo đọc trước Quốc Hội ngày 7-11-2006, ông nói rằng đó là "khâu đột phá trong năm 2006-2007 để lập lại trật tự kỷ cương nền nếp trong dạy và học và quản lý giáo dục, làm tiền đề khai triển những giải pháp khác". Cuộc vận động được dư luận rất quan tâm này quen gọi là cuộc vận động "Hai Không". Sau này sẽ còn tiến tới một không thứ ba nữa là "không đọc-chép" khi dạy và học.
Ông BT làm hay như vậy, thế thì tại sao ông bạn tôi nói trên đây, lại còn bảo tôi nên lên tiếng góp phần ủng hộ ông? Mọi người không ủng hộ hết sao?
Tôi nhớ lại một số ý kiến đã được đưa ra trên
báo chí tỏ ý nghi ngờ về khả năng thành công của cuộc vận động chống tiêu cực
của tân BT Bộ GD-ĐT, coi đó rồi ra cũng chỉ là đóm lửa rơm bùng lên rồi tắt theo
kiểu phong trào thôi. Tôi cũng nhớ lại những vụ tiêu cực vẫn tiếp tục xảy ra
ngay cả từ sau cuộc vận động đó tới nay, như "chạy" trường "chạy" lớp, gian lận
thi cử, học giả bằng thật, chỉ tiêu thành tích phải đạt bằng được cho trường,
cho địa phương, cho tỉnh thành mình. Thậm chí, người ta đã phát hiện một cán bộ
tiêu cực trong một cuộc thi tuyển nhân viên cho ngành ngay tại Bộ. Mới đây nhất
ông Nguyễn Thiện Nhân công khai nhận định rằng tiêu cực ở khối đại học, cao đẳng
hiện còn nhiều hơn ở khối trung học nữa.
Phải công nhận rằng những nổ lực đổi mới của tân bộ trưởng chưa tạo ra được một
biến chuyển triệt để rộng khắp. Mà người ta tỏ ý nghi ngờ cũng là điều dễ hiểu.
Bao nhiêu cuộc gọi là cải cách của các bộ trưởng tiền nhiệm đả chẳng đitới đâu,
thậm chí càng cải cách càng đẻ thêm vấn đề để cải cách! Nhưng ta phải công bằng.
Hỏi trong ngành nào ngoài giáo dục, vốn cũng đầy dẫy tiêu cực, những người đứng
đầu đã làm được một cuộc vận động mà cho đến nay phải nhìn nhận là đầy quyết
tâm, quyết liệt và bền bỉ như thế? Trả lời cho những người nghi ngờ về thành
công của cuộc vận động "hai không", ông nói: "Kết quả bước đầu tuy giản dị nhưng
rất đáng mừng: nhận thức trong ngành, trong xã hội về tiêu cực, gian lận thi cử
có thể thấy khác cách đây một năm rất nhiều. Nhận thức được thay đổi quan trọng
lắm." Đàng khác, thử hỏi ai có phép mầu để thay đổi một sớm một chiều những cơ
chế lỗi thời, những cách nghĩ cách làm, những "lề thói" sai trái nhưng đã trở
nên gần như là máu thịt của cái xã hội này? Và biết đâu có những người cố tình
muốn duy trì tình trạng cũ vì biết mình không còn sức theo kịp những yêu cầu mới
hoặc vì sợ mất đi những mối lợi nào đó? Vì thế tôi thiển nghĩ rằng cần "cảnh
giác" để phân biệt những người góp ý phê bình xây dựng và những người lên tiếng
phê bình với mục đích không trong sáng.
Sau hết, dù ông bộ trưởng và những người chủ chốt khác trong ngành có tài giỏi và quyết tâm đến đâu cũng không thể một mình làm xoay chuyển được tình hình. Phát triển giáo dục và đào tạo là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó vai trò quan trọng đặc biệt thuộc về các nhà giáo và các cán bộ quản lý giáo dục ở mọi cấp. Vậy, bằng cách này hay cách khác, tất cả chúng ta nữa, cũng hãy ủng hộ ông bộ trưởng giáo dục Nguyễn Thiện Nhân!
14. 1. 2007
Lm Nguyễn Hồng Giáo, dòng Phanxicô
Cách đây gần hai năm Đức Cha Bùi Tuần mừng kỷ niệm 50 năm chức Linh mục , 1955. 02.07. 2005. và 30 năm chức Giám mục 1975.30.04.2005.
Năm nay, ngày 21.01.2007, ngài có một kỷ niệm vui mừng nữa: mừng sinh nhật thứ tám mươi.
Xin tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho đức cha, vị ân sư của tôi và của nhiều người, không riêng gì trong giáo phận miền đồng bằng sông Cửu Long, Long Xuyên, mà còn có nhiều cựu học trò đang sinh sống trên khắp nẻo đường quê hương đất nước Việt Nam, cũng như ở nhiều vùng đất nước trên khắp thế giới nữa, được ân đức tuổi trời cao cả.
Xin hân hoan chúc mừng Đức Cha có được ân đức tuổi trời cao cả này, cùng những ân đức trí khôn tinh thần minh mẫn cũng như sức khoẻ thân thể dẻo dai, mà đức cha đã và đang được Trời cao ban tặng. Một trong những ân đức tinh thần đặc biệt mà Đức Cha Bùi Tuần có được là khả năng suy tư chính xác minh bạch theo cung cách bỡ ngỡ thắc mắc, cùng năng khiếu viết diễn tả ra bằng lời nói cũng như chữ viết ngắn gọn, dễ hiểu và súc tích theo lối văn chương triết học.
Theo thói quen phong tục dân gian bên tây phương, ngày mừng sinh nhật, họ thường bày dọn một tấm bánh sinh nhật. Trên đó cắm dựng những cây nến cháy sáng, nhiều ít tùy theo số tuổi trời của người có ngày mừng sinh nhật. Và chính người có sinh nhật thổi tắt những cây nến đó.
Những cây nến cháy sáng tượng trưng cho mỗi năm cuộc sống trên trần gian, như ánh nến cháy lung linh chiếu tỏa ánh sáng sự sống của Đấng Tạo Hóa trong công trình tạo dựng của Ngài.
Trẻ em, Bạn Trẻ vui mừng hân hoan thổi tắt những cây nến trên tấm bánh mừng sinh nhật đời mình. Nhưng, tôi nghĩ, Đức Cha Bùi Tuần có lẽ không thích làm chuyện đó. Lần nhớ lại và đọc lại những suy tư của ngài nơi hằng trăm, có lẽ hăng nghìn bài viết từ mấy chục năm qua, tôi thấy ngài đã thắp sáng không biết bao nhiêu ngọn nến. Những ngọn nến đó đã được châm đốt từ ngọn lửa cây nến tình yêu của Thiên Chúa.
1. Những cây nến đời sống đức tin
1.1. Cây nến Rửa tội.
Đức Cha Tuần mở mắt chào đời ngày 21.01.1927, như ngài cho biết, và có lẽ theo tập quán đạo đức ngày xưa, chắc cha mẹ ngài đã bồng bế ngài, sau đó khoảng một tuần lễ, đến Thánh đường xin cho con mình được nhận lãnh làn nước Bí tích Rửa tội.
Qua làn nước Rửa tội, đức tin vào Thiên Chúa được khắc ghi trong tâm hồn em bé chịu phép rửa tội từ ngày đó.Và không chỉ nhận lãnh làn nước rửa tội, em bé còn nhận được ánh sáng Chúa Kitô qua cây nến Rửa tội.
Cây nến Rửa tội được đốt thắp từ ngọn lửa cây nến Chúa Giêsu phục sinh. Ánh sáng này là ánh sáng đức tin cho đời sống làm người của em bé trên trần gian, như lời Chúa Giêsu đã nhắn nhủ: Các con là ánh sáng trần gian. Ánh sáng ngọn nến này là trung tâm và nguồn cho những ngọn nến khác trong suốt dọc cuộc đời của em bé.
Cha mẹ và người cha đỡ đầu của Đức Cha Bùi Tuần đã tiếp nhận và gìn giữ Cây nến rửa tội cho đời ngài từ 80 năm qua, từ lúc ngài còn thơ bé đến ngày khôn lớn trưởng thành đi vào đời. Ánh sáng cây nến đó soi chiếu cho ngài tìm nhận ra hướng đi làm người, làm con Thiên Chúa trên đường lữ hành trần gian: tránh sự dữ xấu, làm sự tốt lành thánh thiện.
1. 2. Cây nến Bí tích Thêm sức
Có lẽ cũng như bao bạn trẻ khác thời đó, Đức Cha Bùi Tuần cũng đã đón nhận ân đức Bí tích Thêm sức vào lứa tuổi 7 hay 8 tuổi. Có nhiều nơi, mỗi bạn Trẻ, khi lên nhận phép Bí tích này, cầm trong tay cây nến cháy sáng: Cây nến Bí tích Thêm Sức tượng trưng cho Đức Chúa Thánh Thần.
Ân đức Chúa Thánh Thần qua phép Bí tích này gây niềm hào hứng phấn khởi cho tâm hồn bạn trẻ lớn lên tiến bước đi vào đời.
Không biết có qúa đạo đức hay qúa cảm tính hay không, khi suy nghĩ nói: ân đức Chúa Thánh Thần như ánh lửa, như làn gió, như dòng nước tươi mát đem đến cho tâm trí con người sức sống vươn lên, niềm vui tươi can đảm. Ân đức của Ngài gợi hứng cho suy tư, cho việc học hành, nghiên cứu viết lách. Và ân đức này tạo nên cho mỗi người một cách sống, một lối suy tư, cũng như cách đón nhận sự việc riêng biệt.
Không biết ngày xưa khi lãnh nhận phép Bí tích Thêm Sức, đức cha Bùi Tuần có cầm cây nến Thêm Sức cháy sáng trong tay hay không. Nhưng chắc chắn ân đức Chúa Thánh Thần hằng củng cố tâm hồn đức tin ngài trong suốt dọc đời sống. Ân đức đó đã giúp ngài xây dựng không chỉ đời sống đạo đức tâm linh, mà còn giúp ngài phát triển một lối sống văn hóa tình người nơi đời sống con người Bùi Tuần.
Không chỉ đón nhận và sống ân đức Chúa Thánh Thần qua bí tích Thêm Sức. Nhưng trong cương vị Giám mục từ năm 1975 cho đến ngày đi nghỉ hưu 2003, Đức Cha Bùi Tuần đã ban phép Bí tích Thêm Sức cho không biết bao nhiêu Bạn Trẻ trong giáo phận Long Xuyên.
1. 3. Cây nến chức Linh mục
Theo ơn gọi của Trời cao, như Chúa Giêsu kêu mời: Hãy theo Thầy! Người thanh niên Bùi Tuần đã đi tìm đời sống tu trì làm tông đồ trong vườn nho của Chúa nơi Giáo hội của Ngài. Sau thời gian học hành tu luyện, người thanh niên Bùi Tuần được lãnh nhận chức Linh mục.
Một lần nữa ứng sinh linh mục Bùi Tuần cầm Cây Nến cháy sáng ngọn lửa ngày xưa chịu Phép Rửa tội và phép Thêm Sức, ngày 02.07.1955 tiến lên nhận lãnh chức thánh Linh mục.
Là thợ trong vườn nho Chúa và đồng thời cũng là nhân chứng cho ánh sáng của Chúa giữa trần gian qua đời sống Linh mục. Và ngoài ra cha Bùi Tuần còn có nhiệm vụ mang ánh sáng đó đến cho người khác như khi ban Phép Bí tích Rửa tội, dẫn giải giáo lý Lời Chúa cho con người, như ban Bí Tích Giải Tội, Bí tích Xức dầu Thánh, nhất là trong vai trò là thầy dậy, là linh hướng cùng đồng hành với con người bằng lời nói và bằng hàng trăm bài viết suy tư cô đọng từ mấy chục năm nay.
1. 4. Cây nến chức Giám mục
Chắc chắn ngày chịu chức Giám mục cách đây 32 năm cây nến đức tin của đức cha Bùi Tuần được đốt thắp sáng lên. Cây nến đức tin của đức cha được đốt thắp sáng lên không phải để trang trí cho ngày lễ mang mầu sắc đạo đức huyền diệu linh thiêng. Nhưng ánh sáng chiếu tỏa từ cây nến đó nhắc nhở đến sứ vụ là Giám Mục của đức cha: Cuộc đời dấn than hy sinh để ánh sáng Phúc âm của Chúa chiếu tỏa giữa trần gian.
Có lẽ cũng vì thế, đức cha đã chọn vẽ hình cây nến trên huy hiệu đời Giám mục của mình. Đức cha đã muốn đời sống mình như ngọn lửa đốt cháy chất sáp cây nến chiếu tỏa ánh sáng ra chung quanh. Ánh sáng chiếu tỏa từ cây nến đời Giám mục của đức cha là ánh lửa đức tin vào Thiên Chúa, Đấng là tình yêu. Và vì thế đức cha đã lấy lời Chúa Mandatum Novum- Giới luật mới, như ngọn lửa chiếu sáng cho việc mục vụ tông đồ của mình, và như ánh sáng chiếu tỏa làm chứng cho ngọn lửa chiếu tỏa tình yêu từ nơi Thiên Chúa.
“ Cây Nến lớn tuổi trầm ngâm nói thêm: „Điều này thật khó cắt nghĩa bằng chữ nghĩa lời nói. Phải sống trải qua mới có kinh nghiệm hiểu được thôi. Chỉ người nào tự hy sinh, sẽ mang đến thay đổi cho môi trường xung quanh mình. Và trong khi ai mang đến thay đổi cho môi trường xung quanh, họ sẽ nhận ra bản chất của mình hơn. Em không được nguyền rủa bóng tối và sự lạnh lẽo, khi em không sẵn sàng để được đốt thắp sáng lên chiếu tỏa cho xung quanh.“
Giây phút yên lặng nặng nề trôi qua... Thình lình ánh sáng từ Cây Nến nhỏ bừng lên: „ Này Chị, Phải chăng người ta là mình, khi người ta trao tặng người khác điều mình có?“
„Đúng như vậy đó em!“ Cây Nến lớn tuổi nói vọng vào „ Vâng khi hy sinh, như trường hợp chúng ta là Cây Nến, người ta không còn nguyên vẹn hình hài thanh thon, đẹp kiều diễm nữa. Chúng ta sẽ không còn nguyên trạng hình dạng như trước nữa. Nhưng khi được đốt thắp cháy sáng lên, chúng ta sẽ trở nên mạnh mẽ hơn bóng tối ban đêm, và những tàn bóng che phủ âm u trên trần gian nữa.“
Cây Nến nhỏ thanh thon mảnh mai kiều diễm sau cuộc đàm thoại với Cây Nến lớn tuổi, đã từ bỏ ý muốn khăng khăng của mình, và chịu để cho được đốt thắp sáng lên. Ngọn lửa từ Cây nến càng cháy bừng, càng mang lan tỏa ánh sáng đầm ấm thị vị làm thay đổi bầu khí trong căn phòng. Ánh sáng đó như có sức mạnh xua đuổi bóng tối đêm đen cùng sưởi ấm bầu khi lạnh lẽo. Chất sáp và ngọn bấc nến càng dần bị thiêu đốt thu nhỏ lại, nhưng ánh sáng chiếu tỏa tới tận đôi mắt cùng trái tim mọi người. Cây Nến được đốt thắp sáng cho con người.” (Willi Hoffsümmer(hg.), 64 Weihnachtsgeschichten – Eine heilige Zeit, Nr 13.)
2. Những cây nến suy tư
2. 1. Cây nến thầy trò
Trước năm 1967 tôi chưa biết gì về ngài. Nhưng những năm sau đó được là học trò của ngài, tôi ngạc nhiên nhiều về ngài. Vâng, tôi không biết đó có phải một điều mới lạ hay không, nhưng nơi ngài và qua ngài học trò học được cung cách sống tập tự suy nghĩ phát triển óc sáng tạo của mình. Vì cha giáo Bùi Tuần không chỉ truyền thụ lại cho học trò mình mớ kiến thức học để thi đậu lên lớp, học xong để mai kia lên học trường cao hơn ở đại chủng viện chuẩn bị làm “ cụ”, như đã ăn nếp sâu trong cung cách dậy dỗ giáo dục xưa nay. Ngài cũng chẳng dậy theo cung cách “nuốt rập khuôn bắt chước lối” sống đạo đức truyền thống theo khuôn mẫu sẵn có. Nhưng ngài hướng dẫn học trò cách sống làm người, cách suy tư nhìn vào đời sống là con Thiên Chúa cùng là con người trong dòng lịch sử không gian và thời gian.
Cha giáo Bùi Tuần đã viết suy tư về cung cách sống lòng biết ơn: “ Nếu tôi tưởng mình không chịu ơn ai, thì tôi lầm lớn. Vì đời tôi nằm trong những lien đới chập chùng. Tôi chẳng cho đi được bao nhiêu, nhưng đã nhận được qúa nhiều. Thử một ngày ngưng nhận được các giây liên lạc nâng đỡ, cộng tác yêu thương, giúp đỡ cung cấp, tôi sẽ tức trở thành bơ vơ, nghèo nàn khốn đốn.
Nếu tôi tưởng tôi không mắc nợ ai, thì tôi lầm lớn. Con người tôi, từ vật chất đến tinh thần, đã, đang và sẽ được xây dựng bằng biết bao công ơn của biết bao nhiêu bóng người đã ghé lại.
Nếu tôi tưởng tôi đã trả ơn đối với người làm ơn cho tôi, thì tôi lầm lớn. Tiền bạc, đồ vật có thể trả, nhưng ân nghĩa và tình thương làm sao trả đúng được. Những mồ hôi nước mắt và những tận tâm của bao nhiêu người đã làm cho đời tôi đẹp là những gì thiêng liêng cao qúi. Chưa chắc tôi đã hiểu rõ được gía trị của những ơn đó, chứ đừng nói gì đến việc trả đền cho đúng.
Lạy Chúa, xin cho con một tâm hồn biết ơn. Xin xuống phúc lành cho tất cả những ai đã làm ơn cho con” ( Bùi Tuần, Biết ơn, trong tập: Nói với chính mình).
Về đời sống trong dòng lịch sử không gian và thời gian: “ Tôi đang sống trong một thời đại dồn dập nhiều biến cố. Có những biến cố chỉ đụng chạm tới tôi. Có những biến cố làm xôn xao cả nước. Có những biến cố liên hệ đến toàn thể Giao Hội và thế giới.
Sự xuất hiện của những phong trào gây sôi động cũng là những biến cố.
Mỗi biến cố là một dấu chỉ. Mỗi dấu chỉ đều có một ý nghĩa. Nhiều khi Chúa muốn nói với tôi qua biến cố. Nhưng tôi phải khiêm tốn và bình lặng mới nghe thấy được.
Mỗi biến cố đều mang một ẩn số. Ẩn số đó gói một sứ điệp Chúa muốn gởi cho tôi. Nhưng tôi phải chăm chú và vô tư lắm mới khám phá được sứ điệp đó.
Mỗi biến cố là một bài toán. Bài toán đó gài vào đời tôi. Nhưng tôi phải phục thiện lắm mới tìm ra đưọoc giiả đáp.” ( Bùi Tuần, Dấu chỉ thời đại, trong Nói với chính mình).
Đạo đức tình người cùng biết nhìn đón nhận thực tế đời sống hơn nữa, tưởng khó diễn tả hơn được!
2.2. Cây nến nhìn xa trông rộng
Ngày xưa Chúa Giêsu Kitô sai các Thánh Tông lên đường đi rao truyền sứ điệp tình yêu Thiên Chúa với lời nhắn nhủ: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh Chúa Thánh Thần…Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy đến tận cùng trái đất.” ( Cv 1,8).
Tôi không biết, tôi phải hiểu Lời nhắn nhủ sai đi của Chúa thế nào cho đúng. Nhưng tôi vui mừng được học biết suy tư hướng dẫn của đức cha Bùi Tuần về cách diễn dịch Lời Chúa đó cho thời đại truyền giáo ngày hôm nay:
“ Thách đố lớn nhất của các dòng tu thế kỷ XXI là khả năng mở ra, khả năng phân định và khả năng lựa chọn.
Hãy mở rộng cái nhìn để biết mình, biết đời, biết thánh ý Chúa. Nhất là mở rộng cái tâm với tình bao dung của người con Thiên Chúa là Cha chung của mọi người. Cùng với việc mở ra là việc phân định tình hình mình đang sống. Thực tế thường có nhiều phức tạp. Tất nhiên phải phân định dưới ánh sang Phúc Âm nhưng không loại trừ phương cách triết học, khoa học và xã hội học.
Sau phân định là chọn lựa phương án giải quyết khả thi, làm được và được làm. Tiếng nói thích hợp nhất của Tin mừng trong thế kỷ XXI là yêu thương. Yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng ta. Yêu thương nhất là trong phát triển và trong các liên đới.” (Gm. Bùi Tuần, Sự cộng tác của các Dòng Tu tại Việtnam hôm nay, trong Làm chứng cho Đức Kitô tới tận cùng trái đất, Long Xuyên 2000)
Nhiệt thành với việc truyền giáo cùng gần gũi với thực tế thời đại hơn nữa, tưởng khó có thể hơn được nữa!
2. 3. Cây nến sống đức tin giữa dòng đời
Không biết có phải là một cung cách truyền giáo mới lạ hay không, đang khi đời sống ở xã hội như đang đi theo một hướng khác gần như chuộng số lượng hơn phẩm chất. Nhưng tôi thấy nó gây ấn tượng gợi suy nghĩ hướng về tương lai mạnh và nhiều.
Sau khi theo dõi buổi lễ hát kinh cầu nguyện vừa cho tín hữu Tin Lành lẫn Công giáo ở Hànội có tổng thống Hoa kỳ cùng phu nhân tham dự, đức cha Bùi Tuần đã viết lên những suy tư hướng mở ra về tương lai sống đức tin giữa lòng đời:
“1/ Cố gắng nâng cao trình độ trí thức
Theo dõi tình hình thế giới, Đất Nước và Hội Thánh khắp nơi, tôi thấy việc đối thoại và hợp tác đang là những vấn đề lớn đặt ra cho mọi phía. Để việc đối thoại và hợp tác của Hội Thánh ta được trân trọng, chúng ta cần phải có những hiểu biết sâu rộng về nhiều lãnh vực…. Tôi đã nhiều lần được có mặt trong các hội nghị quốc tế về đạo và đời. Tại mọi hội nghị, dù để bàn về một vấn đề nhỏ, trình độ trí thức được coi là yếu tố hết sức quan trọng. Đời sống thường ngày với bao vấn đề luôn đặt ra cho con người, không thể sẽ tự nó giải quyết cho ta một cách nhàn nhã, cũ kỹ, nhưng đòi ta phải có một trình độ trí thức mới, để đi trên con đường mới của lịch sử. Hiện nay, trí thức Công giáo Việt Nam kể như khá hơn trước. Nhưng tôi thấy là chưa đủ đáp ứng cho thời điểm mới.
2/ Cố gắng nâng cao trình độ bén nhạy
Thời nay, con người đối thoại và hợp tác cần có khả năng bén nhạy sâu sắc. Bén nhạy, để biết cách gây thiện cảm, tránh gây ác cảm vô ích. Bén nhạy, để biết có những phong cách tế nhị, lịch thiệp, nhã nhặn trong mọi ứng xử, cả trong những trường hợp xảy ra những bất ngờ rất trái ý ta. Theo dõi những hình ảnh của Apec được truyền đi qua tivi, tôi thấy sự bén nhạy là điều không thể thiếu nơi người tổ chức lẫn người tham dự. Có những hình thức mình cho là trang trọng, nhưng đối với phần đông lại là nặng nề, gây khó chịu. Có những việc mình cho là phải thế mới đầy đủ, nhưng nhiều người khác lại nghĩ là nên vắn gọn mới hay. Có những lời người ta khen ngợi mà mình lại bám vào để tự đắc, nhưng thực ra đó chỉ là những lời khen xã giao, mà chỉ những tinh thần nhạy bén trình độ cao mới thấy được. Trong thời điểm mới này, chắc sẽ có nhiều ý kiến được thành hình trong Hội Thánh Việt Nam ta. Hãy bén nhạy, để biết lắng nghe và phân định.
3/ Cố gắng nâng cao trình độ trung thành với Lời Chúa
Hơn bao giờ hết, Hội Thánh phải trung thành với Chúa, mặc dầu tình hình thay đổi. Trung thành với Lời Chúa nhất là trong những việc sau đây: a) Hãy chiến đấu để "đi qua cửa hẹp" (Lc 13,24). b) Sống trọn vẹn "Tám mối phúc" (Mt 5,3-12). c) Tăng cường sống "giới răn yêu thương "(Ga 14,34). d) Sống hợp tác với ơn Chúa một cách tuyệt đối. Vì Chúa phán "Không có Cha, chúng con không làm gì được" (Ga 15,5). Tôi nghĩ là xã hội Việt Nam cần đổi mới một cách sâu sắc từ guồng máy xã hội cho tới cách suy nghĩ của từng người.” ( Gm. Bùi Tuần, Sống đạo trong thời điểm mới, 2006)
Nhìn diễn biến trong sinh hoạt xã hội với con mắt đức tin và tâm hồn suy nghĩ mong muốn cầu tiến cho đời và cho đạo, mà không xa rời dân tộc cùng đức tin vào Chúa như vậy, là kết qủa của một tâm hồn có lối sống gần với Chúa và gần với những biến chuyển trong đời sống xã hội con người.
2.4. Cây nến sống đức tin giữa lòng thiên nhiên
Không biết có phải là một điều lạ thường ngoại lệ hay không. Vì xưa nay sự thường khi giảng dậy, nhất là nơi các bậc chức sắc vị vọng học hành cao giỏi. Họ thường hay chú trọng xoay quanh đến giáo huấn luân lý, theo lối văn chữ nghĩa khô khan khó hiểu hơn là nói về điều đang xảy ra trong đời sống với lối viết văn chương tươi trẻ dễ hiểu. Điều này không thấy nơi đức cha Bùi Tuần.
Như trong bài giảng nhân ngày Tết Nguyên Đán xuân Bính Tý, đức cha Bùi Tuần đã viết diễn tả: “ Xuân đang đẹp trong thiên nhiên. Xuân đang đẹp trên đất nước. Nhưng Xuân đẹp nhất là xuân trong lòng người. Xuân đẹp trong lòng người mang những đức tính tốt, không ngừng vươn tới mức độ đẹp hơn, và luôn luôn vươn tới những vẻ đẹp mới.” ( Gm. Bùi Tuần, Mùa Xuân trong lòng người, trong Nói với giáo dân).
Lối nhìn, lối diễn tả văn chương đầy mầu sắc hình ảnh tươi trẻ hợp với khung cảnh thiên nhiên, cùng dẫn con người tìm về nguồn sức sống sâu thẳm đầy đủ ý nghĩa, là cung cách diễn dịch rao giảng thiên nhiên cho đời sống con người và đời sống con người hòa nhập vào phát triển trong thiên nhiên, mà vẫn đặt nền tảng trên đức tin vào Thiên Chúa, Đấng là chủ thiên nhiên cùng của con người.
2.5. Cây nến mùa dâng hoa
Không dám và cũng không thể qủa quyết đây là một lối sống đạo đức mới lạ hấp dẫn. Nhưng cách suy diễn về lối sống đạo của đức cha Bùi Tuần không chỉ mới khác lạ, mà hướng vào chiều sâu thâm trầm hơn. Như về cung cách dâng hoa kính Đức Mẹ Maria. Đức cha dựa trên nền tảng kinh Ngợi khen của Đức mẹ, kết thành bó hoa ba sắc:
“ 1. Hoa cảm tạ.
Mẹ cảm tạ Chúa trước hết về bản thân riêng của Mẹ. Mẹ nhìn bản thân Mẹ chỉ là một nữ tỳ. Mẹ coi nữ tỳ này khác với mọi nữ tỳ khác ở chỗ kém cỏi hơn họ, hèn mọn hơn họ. Thế mà Chúa là Thiên Chúa, là Đấng Cứu độ ngự đỉnh chốn cao xa, lại đã thương nhìn xuống nữ tỳ đó: “Phận nữ tỳ hèn mọn, được Chúa thương nhìn đến” (Lc 1,48).
2. Hoa nhận thức.
Chương trình mầu nhiệm của Thiên Chúa trong việc cứu độ nhân loại sẽ rất khác với chương trình của nhân loại. Thánh ý Chúa rất khác sự đánh giá và xếp đặt của con người.
Về đường lối của Chúa, Đức Mẹ nhận thức ba hạng người sẽ bị ném xuống, và ba hạng người sẽ được nâng lên.
Ba hạng người nếu lạm dụng sẽ bị Chúa ném xuống là:
Kẻ kiêu căng, kẻ quyền thế, kẻ giàu sang.
Ba hạng người nếu biết sống tốt sẽ được Chúa nâng lên là: Kẻ khiêm nhường, kẻ
hèn mọn, kẻ nghèo đói.
3. Hoa nhớ lại.
Đức Mẹ nói: “Vì Chúa nhớ lại lòng thương xót, dành cho tổ phụ Ápraham, và cho con cháu đến muôn đời” (Lc 1,55).
Nói là Chúa nhớ lại lòng thương xót của Người, là để chính chúng ta đừng quên lòng thương xót của Chúa. Vì “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1,50).” ( Gm. Bùi Tuần, Đức Mẹ dâng hoa)
Suy diễn ý nghĩa thần học sâu sắc cùng lối diễn tả văn chương hấp dẫn hơn, tưởng khó có thể hơn được!
2.6. Cây nến hướng về ngày mai
Không biết có đúng hay không, khi nhận xét: đức cha Bùi Tuần có tâm hồn cầu tiến đổi mới. Nhưng khi đọc những suy tư của ngài, dù là bài giảng đạo đức, tâm tư hình ảnh đổi mới phát triển luôn hiện rõ nét. Trong bài suy tư đạo đức về Vai trò của đặc sủng, đức cha đã phác họa ra những điểm đổi mới phát triển bản thân cũng như Giáo Hội.:
1. “ Sự thích hợp sống động.
Hội thánh luôn cần đổi mới và phát triển. Mục đích đó sẽ chỉ đạt được qua nhiều trách vụ khác nhau. Các trách vụ khác nhau sẽ được trao cho nhiều người. Mỗi người đảm đang một trách vụ…..
2. Sự mưu tìm ích chung rõ rệt.
Thánh Phaolô dạy: “ Thần linh tỏ minh ra nơi mỗi
người mỗi cách là vì ích chung”( 1 Cor12,7)
Ích chung có thể hiểu là sự đổi mới và phát triển Hội thánh, để danh Cha cả
sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”…
3. Sự thao thức đức ái chân thật.
Đặc sủng nào cũng phải hoạt động trên bác ái. Đây là nền tảng cần thiết…
Đặc sủng là là ân sủng đặc biệt, Chúa ban riêng cho những người Chúa chọn, để họ trở thành thích hợp và thuận lợi cho trách vụ được trao, hầu góp phần một cách hữu hiệu vào ích chung. Ích chung đó là đổi mới và phát triển Hội Thánh trên nền tảng bác ái” ( Gm. Bùi Tuần, Vai trò của đặc sủng, trong Ra khơi thả lưới tình thương)
2.7. Cây nến thao thức
Dịp đầu năm mới 2007, Đức Cha Bùi Tuần đã viết dòng tâm sự suy tư:” Bây giờ, Đạo đang bước vào một giai đoạn mới của lịch sử: Giai đoạn hội nhập và cạnh tranh. Tôi vui, nhưng cũng lo. Với kinh nghiệm của một người, vừa già về tuổi đời, vừa già về tuổi mục vụ, tôi xin phép chia sẻ một nỗi lo như một cảnh báo. Đó là hãy coi chừng về một chứng bệnh nguy hiểm cho Đạo. Chứng bệnh này thường xuất hiện trong thời cạnh tranh giữa các giá trị.” ( GM. Bùi Tuần, Bệnh nguy hiểm, 07.01.2007).
Dù đã bước vào tuổi đời bát tuần đi nghỉ hưu đã từ mấy năm, qua nhưng Đức Cha Bùi Tuần vẫn hằng luôn quan tâm thao thức với sự phát triển nếp sống đạo đời.
Những thao thức chia sẻ kinh nghiệm cùng suy tư của Đức Cha Bùi Tuần không là kiểu cách chỉ ngón tay luân lý kết án. Nhưng là một lối nhìn sự tiến triển trong đời sống theo cung cách đạo giáo, và muốn thử vạch ra một con đường duy trì nếp sống đức tin lành mạnh mà không chối bỏ hay xa tránh đời sống thực tế giữa dòng đời.
2.8. Cây nến tự giáo dục bản than
Vào những ngày sắp mừng sinh nhật thứ tám mươi của mình, đức cha Bùi Tuần đã viết lại những suy tư của mình thành chữ nghĩa đăng trên báo chí. Đọc những lời đó, thoạt tiên tôi có cảm nghĩ là lời dậy bảo huấn đức. Phải, đó lời của một bậc thầy dậy cảnh gíac học trò mình.
Đọc kỹ lại, tôi có cảm nghĩ khác. Dù đã trải qua 80 năm tuổi đời, 52 năm đời Linh mục, 32 năm đời Giám mục, nhưng khi suy nghĩ nhìn lại quãng đường lữ hành đã trải qua, đức cha Bùi Tuần cũng vẫn thấy bản thân tinh thần mình còn yếu kém, dễ bị vấp ngã và còn cần phải tu luyện, học hỏi bồi bổ thêm hơn nữa, trước những thay đổi biến chuyển không ngừng trong cuộc sống xã hội thời đại:
” Đừng chủ quan, đừng dễ dãi với bất cứ thần dữ nào trong bảy quỷ đầu mối tội. Bởi vì bất cứ sự coi thường nào đối với một tên thần dữ cũng sẽ đưa ta vào bẫy. Bị sập bẫy của một quỷ dữ sẽ mở đường cho một chuỗi sập bẫy tiếp theo. Thí dụ khi ai đã sập vào bẫy của quỷ kiêu ngạo, thì các quỷ khác sẽ dễ dàng xâm chiếm tâm hồn kẻ đó. Dần dần toàn thể cuộc đời người đó sẽ bị lôi vào đủ thứ tệ hại. Điều tệ hại nhất là rất khó thức tỉnh, sám hối và trở về đàng lành. Ngoài việc tỉnh thức bằng cầu nguyện, chúng ta cũng cần để ý mở rộng tầm nhìn bằng việc học hành. Học hành sẽ giúp chúng ta rất nhiều trong tư tưởng và cách sống. Thêm vào sự tỉnh thức bằng cầu nguyện và học hành, tôi nghĩ cũng cần biết dè dặt, thận trọng, cân nhắc, vì tình hình chẳng bao giờ đơn giản. Kinh nghiệm cho tôi thấy: Mọi sụp đổ không bao giờ xảy ra đột ngột. Nó đã có những nứt nẻ, nghiêng lún to nhỏ trước rồi. Có chỗ dễ thấy được. Có chỗ khó thấy được. Sụp đổ về đạo đức cũng vậy. Cá nhân hay cộng đoàn sụp đổ về đạo đức là kết quả của một tiến trình lâu dài. Không tỉnh thức, không cầu nguyện, không học hành, không thận trọng, ta sẽ tụt hậu và yếu dần. Ta sẽ không đối phó nổi các phong trào tư tưởng và lối sống hưởng thụ, thực dụng, đắc thắng và ghen ghét.” ( Gm. Bùi Tuần, Ý tứ kẻo tệ hơn trước, 18.01.2007)
Trên đường lữ hành, Đức Cha đã sống trải qua 80 năm
trong khu vườn sáng tạo của Thiên Chúa.
Trên đường lữ hành, đức cha đã sống là chứng nhân cho ánh sáng ngọn lửa Chúa
Giêsu phục sinh, khời đầu từ bản thân đời sống đức cha, và trong suốt dọc đời
Linh mục rồi Giám mục trong vườn nho Hội Thánh Chúa Giêsu ở trần gian.
Trên đường lữ hành, đức cha với khả năng tâm trí và thân thể được Trời cao ban tặng đã thắp lên những Cây Nến với ngọn lửa “Mandatum novum” cho Thiên Chúa giữa dòng đời sống con người.
Trên đường lữ hành, đức cha đã trải qua; vâng nói theo cung cách suy nghĩ loài người: đã đạt được nhiều đích điểm cao cả. Nhưng đức cha vẫn luôn tâm niệm:
“ Cuộc đời là một chuyến đi. Tôi là một lữ khách.
Khi chưa tới đích điểm, thì chỗ nào cũng là nơi tạm trú.
Trên đường về nhà Cha, người con của Chúa sống trong những liên đới trập trùng. Liên đới với nhiều người khác nhau. Liên đới với nhiều tình hình khác nhau. Nhất là liên đới với Thiên Chúa, Đấng yêu thương, Đấng đã gọi tôi, Đấng đã sai tôi. ( Gm. Bùi Tuần, Tâm tình người lữ khách, trong Ra khơi thả lưới tình thương)
Chúc mừng sinh nhật thứ tám mươi ân sư đức cha G.B. Bùi Tuần!
Düsseldorf, mùa Đông 2007
Lm. Nguyễn Ngọc Long
Cậu học trò cũ chủng viện Longxuyên ngày xưa.
Cha Pierre, một người công chính của thế giới vừa từ giả chúng ta để đi vào Thiên Đàng.
Khi báo chí vừa loan tin Abbé Pierre ra đi vào sáng sớm thứ hai ngày 22 tháng giêng năm 2007, tổng thống Chirac của Pháp đã phát biểu ngay sau đó là ‘toàn nước Pháp xúc động từ đáy lòng của mình. Nước Pháp mất đi một khuôn mặt cao cả, một tiếng nói của lương tâm, một hiện thân của lòng nhân ái’.
Kỳ thực không phải chỉ nước Pháp, nhưng toàn thế giới đang nghiêng mình trước con người đã thực hành cụ thể ý nghĩa cao quí của nhân tính nơi sức mạnh của bác ái. Chứng nhân dấn thân cho lòng yêu thương vô chấp, đặc biệt đối với những người bị khinh khi, những người nghèo, những người bị bắt bớ, ngược đãi……... của Abbé Pierre còn rạng ngời hơn nữa giữa lòng của một thực tại lịch sử thế kỷ 20 muốn lấy hận thù và quyền lực làm hứng khởi để cổ súy đấu tranh giai cấp, tôn vinh mù quáng chủng tộc, quốc gia của mình và giết hại kẻ khác.
Abbé Pierre tên thật là Henri Brouès, sinh ngày 5 tháng 8 năm 1912 tại Lyon, Pháp, trong một gia đình trung lưu và đông con (tám người con). Năm lên 19 tuổi, Henri Brouès trao hết phần gia tài của mình có được cho các hội từ thiện, và xin gia nhập Dòng Phanxicô . Nhưng vào năm 1938, khi chịu chức linh mục, Ngài đổi qua làm linh mục triều, và năm sau làm phó xứ tại Grenoble. Thế chiến xảy ra, Ngài được lệnh gọi động viên vào quân đội với cấp bậc hạ sĩ quan. Nhưng năm sau, vì bị sưng phổi, Ngài trở lại cuộc sống dân sự . Năm 1942, tại Isère, ngài gia nhập kháng chiến chống Quốc Xã với bí danh Abbé Pierre, và tạo ra một đường giây giúp cứu những người Do Thái trốn thoát qua Thụy Sĩ. Tháng 5 năm 1944, quân đội Đức Quốc Xã bắt giam, nhưng Ngài sớm trốn được ra khỏi Pháp, đến Tây Ban Nha; tháng 6 năm ấy Ngài đến Alger. Sau chiến tranh, linh mục Pierre dấn thân chính trị làm dân biểu của vùng Meurthe-et-Moselle (1945-1951) trong khuôn khổ của Đảng MPR (Dân chủ Thiên Chúa giáo), nhưng Ngài rút lui liền sau đó. Năm 1949, một mấu móc quan trọng trong đời Ngài: linh mục Pierre biến căn nhà nhỏ bé của mình tại Neuilly-Plaisance thành nơi trú ngụ cho giới trẻ quốc tế lấy tên là ‘EMMAUS’. Từ đấy, cuộc đời của linh mục Pierre hiến trọn cho cuộc chiến yêu thương, đồng hành với những kẻ sống bên lề xã hội. Những cộng đoàn Emmaus nhân tăng qui tụ những người gặp khó khăn sẳn sàng cải biến những đồ người ta cho để giúp lại kẻ khác đang gặp khó khăn như mình. Sau gần 60 năm, ngày nay tại Pháp có 161 cộng đoàn Emmaus; và trên 41 quốc gia (tại Mỹ châu, Á Châu, Phi Chậu và Âu châu) có đến 421 cộng đoàn Emmaus như thế.
Năm 1954, trước hiện tượng đau lòng của những người lây lất vô gia cư, có người chết vì lạnh, linh mục Pierre đã lên tiếng và huy động dân chúng và chính phủ. Toàn dân Pháp đáp trả lời kêu gọi cứu tế; nhà nước phải cấp khẩn cấp 12.000 căn nhà được cho những người xấu số. Năm 1984, những ‘người nghèo của thời đại mới’ tràn lan, linh mục Pierre tổ chức phân phối bánh, xúp và tiếp nhận những người vô gia cư có nơi tạm trú ; và đến năm 1988, ‘Fondation Abbé Pierre’ được thành lập để huy động nhà ở cho những người đang gâp khó khăn...
Khi người ta hỏi, nếu mai đây Ngài mất đi, người ta nên ghi lại điều gì về cuộc đời Ngài. Ngài trả lời liền không ngần ngại: “Xin đề trên mộ tôi câu nầy: nơi đây yên nghỉ con người đã cố gắng yêu thương”.
Cũng như Mẹ Têrêxa Calcutta, linh mục Pierre không những chỉ là hình ảnh của con người dân thân phục vụ người nghèo, nhưng hơn thế nữa, họ là những ngọn hải đăng của hy vọng hướng dẫn bước đi của thế giới ngày nay, một thế giới hoang mang mất hướng đi khi các giá trị làm người trong văn hóa xã hội đang đảo lộn.
Nguyễn Đăng Trúc
Định Hướng số 49
“Người môn đệ Chúa yêu”. Đó là danh xưng mà chính thánh Gioan Tông Đồ, Thánh sử đã tự nhận cho mình trong các tác phẩm của ngài. Trong Tin Mừng thứ tư – đặc biệt trong ba lá thư – ngài đã triển khai rất nhiều về tình yêu Thiên Chúa mà chính ngài đã cảm nhận trong hành trình tông đồ của ngài. Dưới một góc nhìn khác, xuyên qua các tác phẩm của ngài, chúng ta cùng chiêm ngắm ngài như một khuôn mặt yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể. Nói cách khác, chúng ta cùng chiêm ngắm vị Tông đồ – thần học gia về Bí tích Thánh Thể theo nghĩa, Gioan là người đã khởi đi từ kinh nghiệm “đụng chạm đến Ngôi Lời Nhập Thể” đến việc “tựa đầu vào ngực Chúa” để rồi “đứng lặng im dưới chân hiến tế thập giá” và đã làm công việc “cầm lấy mà ăn” , “cầm lấy mà uống” “mà “nhớ đến Ngài”.
1. Từ cảm nghiệm đã “nghe, thấy, chiêm ngưỡng, và chạm đến...”
Trong tiếng việt, chữ “Mình ” vừa chỉ “thân xác ”, vừa chỉ chính “chủ thể ”. Trong lời truyền phép, linh mục đọc: “Này là Mình Ta ” không chỉ là lời làm nên bí tích nhưng còn là cả một huyền nhiệm về Bí tích Thánh Thể. Chúa Giêsu Thánh Thể đang hiện diện cách đích thực bằng chính máu thịt của Người.
Nói cách khác, Mầu Nhiệm Thánh Thể gắn liền với Mầu Nhiệm Nhập Thể của Chúa Giêsu. Đây chính là điều mà Thánh Gioan Tông Đồ đã cảm nghiệm. Trong lời mở đầu thư thứ nhất, ngài viết : “Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống ” (1Ga 1,1) – “Lời đã thành xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta ” (Ga 1,14).
Chính xác phàm ấy, máu thịt ấy đã được Đức Giêsu loan báo trong bài giảng về “Bánh Hằng Sống” mà chỉ mình Gioan cảm nghiệm và ghi lại : “Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu Ta thì có sự sống đời đời ” (Ga 6,53-54).
Nếu như, đối với Gioan, Mầu Nhiệm Nhập Thể đòi phải tin thì Nhiệm Tích Thánh Thể cũng phải có cùng tâm tình như thế. Nếu như Gioan đã tuyên bố rằng việc ngài đã “nghe, thấy, chiêm ngắm và sờ tận tay ” đã làm cho ngài tin và yêu cách trọn vẹn đối với Mầu Nhiệm Nhập Thể thì đối với Nhiệm Tích Thánh Thể, Gioan cũng đã tin và yêu cùng cách thức đó.
2. Đến việc “tựa đầu vào Thánh Thể”
Đối với Gioan, “nghe, thấy, chiêm ngắm và sờ tận tay ” đối với “Ngôi Lời đã thành xác phàm” chưa đủ. Gioan còn đi xa hơn, sâu hơn vào trong tình yêu đối với Chúa Giêsu : “tựa đầu vào ngực Chúa” (Ga 13,25). Nói cách khác, Gioan đã tựa đầu vào chính xác thịt của thầy mình; xác thịt mà Thầy đã mang lấy khi nhập thể làm người và cả xác thịt Thầy vừa cử hành bí tích trước mặt Gioan và các bạn.
Gioan đã tựa đầu vào Thánh Thể để có thể nhỏ to thưa chuyện với thầy cách sâu lắng hơn. Chính khi tựa đầu vào “con tim” Thánh Thể Chúa Giêsu mà Gioan đã có thể lắng nghe và hiểu rõ hơn về tình yêu của Thầy đối với mình và với nhân loại. Đồng thời, cũng chính khi đó, Gioan đã hiểu hơn bao giờ hết tâm tư đau khổ nơi con tim mục tử của Thầy vì sự phản bội của học trò.
Gioan không phải là dân trí thức, trái lại, như lời nhận xét của các vị trong Thượng hội đồng Do Thái, ông là người “không có chữ nghĩa, lại thuộc giới bình dân ” (Cv 4,13). Chính kinh nghiệm “tựa đầu vào ngực Chúa” đã làm cho ông trở thành một thần học gia giới thiệu cho chúng ta một cách tuyệt hảo về Mầu nhiệm Thánh Thể khởi đi từ Mầu nhiệm Nhập thể và tiếp nối trong Mầu nhiệm Hy tế Thập giá.
3. Để đứng lặng im dưới chân tình yêu
Cho tới hôm nay, các thần học gia và các nhà chú giải Thánh kinh vẫn đang còn tranh cãi về mối liên hệ giữa tiệc vượt qua và bữa tiệc ly. Nhưng đối với chúng ta, điều đó không quan trọng. Bởi lẽ, khi sống cùng tâm tình của Gioan, chúng ta sẽ cảm nghiệm được rằng: hy tế thập giá của Chúa Giêsu mà Gioan đang lặng im dưới chân đã được Người thực hiện từ hôm qua trong bữa tiệc ly.
Nói cách khác, với Gioan, Hiến tế Thập giá và Hiến tế Thánh Thể chỉ là một nhưng được diễn tả với một cách thức khác. Ai cảm nghiệm được tình yêu Thánh Thể Chúa Kitô trao ban sẽ đứng vững được dưới chân thập giá. Ai tiếp tục can đảm đón nhận Thánh giá người đó sẽ cùng đi vào trong sâu thẳm của Nhiệm Tích Thánh Thể tình yêu.
Nếu như Đức thánh Cha Gioan Phaolo II đã gọi Mẹ Maria là Người Nữ Thánh Thể (femme eucharistique) vì Ngài đã khám phá ra nơi con người và cuộc đời Mẹ một tương quan rất sâu sắc và mật thiết với Chúa Kitô Thánh Thể; thì hôm nay, khi chiêm ngắm hình ảnh Gioan tông đồ dưới chân thập giá chúng ta cũng có thể gọi Gioan với tên gọi: Gioan – Tông Đồ Thánh Thể, vì Gioan đã tin, đã yêu và đã cùng với Mẹ hiến dâng và đón nhận dưới chân thập giá.
4. Và “làm việc này để nhớ đến Ngài”.
“Làm việc này ”, dưới cái nhìn của Gioan chính là “cầm lấy mà ăn ” và “cầm lấy mà uống ”. “Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi không có sự sống nơi mình các ngươi ” (Ga 6,53).
Đi xa hơn, với Gioan, không chỉ đơn thuần là ăn uống như những bữa tiệc đơn thường mà là những bữa Tiệc Hiến Tế. Nói cách khác, “làm việc này ” chính là cử hành Hiến Tế. Đây chính là điều mà Gioan đã cùng với Mẹ Maria, các tông đồ khác và cộng đoàn giáo hội sơ khai đã cử hành.
Chính khi “làm việc này” trong tâm tình cử hành Hy tế, nơi Gioan, việc “làm việc này ” còn đi tới chỗ “nhớ đến Ta ” như lời Thầy dặn dò. Trước tiên, Gioan đã thực hiện đến việc nhớ đến Thầy bằng chính việc cảm nghiệm và ghi lại cho chúng ta bài giảng tuyệt vời về bánh Hằng Sống của Thầy. Kế đến, Gioan – người được Chúa yêu – luôn nhắc nhở cho mọi thế hệ giáo huấn yêu thương của Thầy : “Anh em hãy yêu thương nhau như thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34). Và hơn nữa, giáo hội ngày nay, vẫn đang cùng với Gioan cảm nghiệm sâu sắc rằng: “làm việc này để nhớ đến Ta” chính là xác tín cách mạnh mẽ Chúa Giêsu Thánh Thể vẫn đang sống, đang hiện diện, đang yêu thương, đang trao ban Sự Sống thần linh của Ngài cho con cái mình.
Cùng suy nghĩ:
Mỗi cử hành Thánh Thể là mỗi lần đụng chạm với Chúa Giêsu. Tôi có đủ sức để tin và yêu như Thánh Gioan Tông đồ?
Tôi có cảm nghiệm được sự cần thiết của việc ngồi lại bên Thánh Thể Chúa để “tựa đầu vào Ngài ” lắng nghe, cảm nghiệm tình yêu của Người?
Tôi có ý thức được việc phải sống sự hiệp nhất và yêu thương như một đòi buộc của Chúa Giêsu : “hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”?
Lm. Giuse Maria Trần Anh Thụ
1.
Chớ có đi tìm của cải xa hoa, bởi vì nó chỉ đánh lừa
bạn
Chớ có đam mê vẻ bề ngoài, bởi vì nó sẽ chóng tàn phai
Hãy đi tìm người khiến bạn mỉm cười
Bởi vì chỉ có nụ cười mới có thể thắp sáng một ngày tăm tối
Hãy cứ hy vọng, rằng bạn sẽ sớm tìm thấy người khiến bạn mỉm cười.
2. Cầu chúc cho bạn có đủ hạnh phúc để trở nên đáng yêu, đủ gian nan để
khiến mình mạnh mẽ, đủ nỗi buồn để có lòng nhân ái, đủ hy vọng để biết mình hạnh
phúc và đủ tiền để mua những món quà tặng nhau.
3. Khi cánh cửa hạnh phúc đóng lại, cái khác sẽ mở ra
Nhưng chúng ta lại thường nhìn quá lâu vào cánh cửa đóng để rồi không thể nhìn
thấy cánh cửa nào đang mở sẵn cho ta.
4. Chúng ta không biết có gì chỉ đến khi đánh mất nó
Chúng ta cũng chẳng biết đã bỏ lỡ điều gì cho đến khi điều ấy trở lại
5. Hãy luôn đặt ta vào vị trí của người để biết rằng nếu ta đau thì chắc
chắn người cũng đau như ta vậy.
6. Khởi nguồn của tình yêu là hãy để người ta yêu được sống như chính họ
và đừng cố uốn nắn họ theo hình mẫu của ta
Nếu không, ta chỉ yêu hình ảnh phản chiếu của ta trong chính họ mà thôi
7. Có lẽ Chúa muốn ta gặp vài người “khác” trước khi gặp người “ấy” để
rồi cuối cùng khi gặp được người “ấy” ta mới biết “món quà” Chúa ban có ý nghĩa
biết bao.
8. Chỉ mất một phút để cảm thấy say đắm ai đó, một giờ để thích và một
ngày để yêu. Nhưng ta sẽ mất cả cuộc đời chỉ để quên một người
9. Khi bỏ qua tất cả cảm xúc, niềm si mê, sự lãng mạn mà ta vẫn thấy còn
yêu thì đó chính là tình yêu.
10. Đáng buồn thay, khi bạn gặp được người rất có ý nghĩa đối với đời bạn
thì lại nhận ra người ấy chẳng cùng cảm xúc như bạn.
Và bản thân bạn sẽ phải chọn lựa
Hoặc ngồi đó mà gặm nhấm nỗi buồn
Hoặc để cho điều đó trôi qua mãi mãi
11. Tình yêu bắt đầu bằng một nụ cười, tiến triển bằng một nụ hôn, kết
thúc với một giọt nước mắt hay với vòng tay ôm xiết bất tận
12. Tình yêu sẽ đến với những ai vẫn nuôi hy vọng cho dù đã có lần bị
phản bội, với những ai vẫn ấp ủ tình yêu cho dù đã có lúc bị chôn sâu trong
những vết thương lòng.
13. Sẽ là khổ đau khi yêu ai mà không được đáp lại.
Nhưng có gì đớn đau bằng yêu một người mà không tài nào để người ấy biết cảm xúc
của ta.
14. Có những điều muốn nghe lại chẳng bao giờ nghe được từ người ta yêu mến
Nhưng xin chớ có làm thinh trước những gì mà một người nói với bạn bằng cả con
tim
15. Khi sinh ra, bạn khóc trong lúc mọi người xung quanh mỉm cười
Hãy sống để khi chết, bạn mỉm cười trong khi những người xung quanh thì khóc
Họ khóc vì niềm vui được biết đến bạn.
Một ngày đẹp trời tháng 5 năm 1988, gia đình bà Annabel Stehli sung sướng tham dự buổi lễ phát văn bằng cho các sinh viên ra trường tại Manhattan (New York), Hoa Kỳ.
Georgie - cô gái cưng 23 tuổi của bà Annabel - vừa lãnh văn bằng vừa lãnh giải thưởng ”Regents Honor Award”, giải thưởng cao nhất của đại học, về thành quả xuất sắc nhất trong bộ môn hội họa.
Buổi lễ chấm dứt, Georgie tiến về phía gia đình, ôm chầm lấy mẹ và nói:
- Má à, hôm nay là ngày đẹp nhất trong cuộc đời con!
Câu nói là phần thưởng quý báu nhất dành cho bà Annabel, người mẹ can đảm, quyết chí không đầu hàng trước chứng bệnh tàn tật kỳ lạ của con. Bao năm trường chiến đấu để đưa đến kết quả diệu kỳ của ngày hôm nay! Diễn tiến câu chuyện được bà Annabel Stehli kể lại trong cuốn ”Làm sao cứu giúp Georgie?” Bà viết:
Georgie chào đời ngày 24-5-1965, non một tháng trước hạn kỳ. Lý do là vì tôi bị xuất huyết, bác sĩ quyết định mổ và đưa bào thai ra. Cô bé chỉ cân nặng hai kílô. Georgie bé bỏng đến nỗi, Bill - chồng tôi - có thể đặt con nằm gọn trong lòng bàn tay.
Những tuần lễ đầu tiên, khi ẵm con trong vòng tay, tôi có cảm giác mơ hồ bé Georgie không bình thường. Bé không nhìn tôi, không nép vào người tôi, khi tôi ôm bé vào lòng. Bé cũng không mĩm cười bao giờ.
Tôi lo lắng và ngơ ngẩn buồn - nói ra thì sợ bị cười, nhưng sự thật là như thế - vì cảm thấy bị xua đuổi, loại trừ bởi chính con ruột mình!
Càng lớn, Georgie càng có cử chỉ và hành động kỳ lạ, bí ẩn.
Bé không nói, không cười, không chơi với Dotsie - chị ruột bé - hơn bé hai tuổi. Bé có thể đứng nhún nhẩy hoặc đong đưa hai tay hàng giờ mà không chán. Hoặc đập đầu nhè nhẹ vào thành giường hoặc vào vách tường, theo nhịp điệu bí ẩn nào đó, với nụ cười lạ lùng trên môi.
Chưa hết, có những tiếng động, tiếng nhạc mà bé không thể chịu được. Một ngày, tôi mở máy cho bé nghe một bài hát con nít. Đang nghe đến giữa bài, bé bỗng tiến lại gần máy quay đĩa, và nếu tôi không kịp thời ngăn chặn, hẳn bé đã dùng tay gạt máy rơi bể tan tành!
Trước thái độ mỗi ngày mỗi kỳ lạ của Georgie, chồng tôi và tôi, cả hai cảm thấy bất lực và hụt hẫng, không biết phải xử sự ra sao và phải làm gì để giáo dục con ..
Cho
đến một ngày, chồng tôi quyết định từ bỏ 3 mẹ con tôi, vì chàng không chịu được
lối sống kỳ lạ của con.
Cái ra đi bất ngờ của chồng, giữa lúc 3 mẹ con tôi cần chàng hơn bao giờ hết,
khiến tôi đau khổ vô cùng. Chồng tôi có thể bỏ rơi chúng tôi, nhưng tôi, đâu có
thể nào lại bỏ rơi được hai đứa con nhỏ của tôi, khi mà lòng tôi yêu thương
chúng vô vàn??? Mạng sống hai con tôi, quý báu hơn mọi của cải tôi có trên trần
gian này. Và tôi nguyện đem hết sức lực để dưỡng dục hai con nên người.
Tôi bắt đầu dò hỏi các bác sĩ chuyên môn và tìm phương thuốc chữa trị cho
Georgie..
Trong thời gian này, tôi gặp và quen với người đàn ông ly dị vợ và sống với ba đứa con, tuổi từ 9 đến 13. Anh tên Peter. Cuộc quen biết đưa đến việc tái hôn giữa tôi với chàng. Người chồng thứ hai tận tình giúp đỡ và hết lòng yêu thương cả 3 mẹ con tôi. Tôi hoàn toàn nương tựa nơi chàng, và trọn gia đình chúng tôi cùng đặt Đức Tin nơi THIÊN CHÚA. Peter nói với tôi:
- Hãy tha thiết cầu xin Chúa ban cho em sức mạnh và chúng ta cùng sống ngày qua ngày. Sống trong hiện tại mà thôi. Dĩ vãng và tương lai phó thác trong tay THIÊN CHÚA!
Theo lời khuyên của bác sĩ chuyên về bệnh thần kinh, tôi gửi Georgie vào học viện dành cho trẻ em tàn tật tâm trí. Nhờ phương pháp chữa trị của học viện, Georgie tiến triển đôi chút, tuy vẫn còn rất xa lạ với xã hội và với gia đình.
Rồi cuộc đời biến chuyển, chồng tôi chuyển sang làm việc ở Âu Châu tại Genève, bên Thụy Sĩ. Nơi đây, tôi may mắn tìm được thầy chữa đúng căn bệnh của Georgie. Thì ra căn bệnh thường phát sinh lúc sinh nở, nhất là đứa bé chào đời bằng phương pháp giải phẫu, giống trường hợp Georgie.
Lần đầu tiên trong cuộc đời làm mẹ, tôi cảm thấy sung sướng đến khóc ròng. Bao nhiêu lo âu sầu khổ, bao nhiêu ray rứt dằn vặt dần dần tan biến.
Sau đó chúng tôi trở lại Hoa Kỳ sinh sống. Georgie tiếp tục chữa trị và tiếp tục trở lại với nếp sống bình thường. Rồi Georgie vào đại học và ra trường với một điểm đậu thật cao! Nhưng tôi, tôi phải đánh đổi điểm cao với bao năm trường chiến đấu, bằng mồ hôi nước mắt và bằng trọn Đức Tin tôi đặt nơi THIÊN CHÚA, Đấng Nhân Ái Từ Bi vô ngần!!!
(”Reader's Digest Sélection”, Janvier/1993, trang 147-168).
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
Khi dạy về bí tích hôn phối. Có một câu hỏi tôi thường đặt ra cho các đôi hôn phối là : Ai là người ban bí tích hôn phối cho các bạn ?
Câu trả lời hầu hết đều là : Thưa Cha, do các linh mục.
Câu hỏi ấy, nếu bây giờ được đặt ra ở đây, với những người lớn. Đang hiện diện trong nhà thờ lúc này. Có lẽ, tôi cũng sẽ nhận được những câu trả lời tương tự.
Đó là một câu trả lời sai.
Vì
bí tích hôn nhân, là một giao ước, giữa hai con người công giáo trưởng thành, vì
bình thường một nam một nữ, để chung sống với nhau cho đến trọn đời; cho nên,
chính hai người, là người trao ban bí tích cho nhau.
Chính Ba Ngôi Thiên Chúa chứng giám lời thề hứa. Linh mục chỉ là người thay mặt Chúa và Hội Thánh, để chứng kiến mà thôi.
Nói tới đây, tôi nhớ lại một câu chuyện, do một người bạn kể lại, không biết có
thật không.
Có một cha xứ kia, đang chứng hôn cho một đôi hôn phối. Sau phần thề hứa, đến
phần trao nhẫn. Làm phép xong rồi, mà cô dâu, chú rể, cứ đứng yên, chẳng thấy
làm gì. Cha nhắc “ xỏ nhẫn”. Chú rể cằm lấy chiếc nhẫn, đôi mắt ngơ ngác. Cha
đưa ngón tay, vừa chỉ vừa nhắc “ Xỏ nhẫn vào ngón tay cho nhau”
Ngon quá rồi, đây có sẵn ngón tay đang giơ ra. Hoảng hốt. Chú rể chụp vội lấy
ngón tay cha, và xỏ chiếc nhẫn vào đấy. Cha sở giẫy nẫy: “Không phải, xỏ vào tay
cô dâu cơ mà, không phải xỏ vào tay tôi”.Cả nhà thờ cười vui vẻ.
Thưa ông bà anh chị em.
Trong bí tích hôn phối, có nghi thức xỏ nhẫn. Xỏ nhẫn, là một hành động, nói lên
sự tự hiến của mình; một sự tự ý, tự nguyện hoàn toàn trong tự do, mà tự do chỉ
có giá trị, khi người ta có đủ ý thức.
Cho nên, hôn nhân phải là một giao ước giữa hai con người.
Trưởng thành trong quyết định.
Khi ký kết hôn với nhau, là chấp nhận trao phó cuộc đời mình cho người khác.
Khúc quẹo đời mình rẽ từ đây. Đây là một quyết định vô cùng hệ trọng. Phần lớn,
cuộc sống sướng. khổ nằm ở chỗ này. Bởi vậy, không ai được liều mạng, thả nổi
cuộc đời trong quyết định này.
Do đó, người ta phải cầu nguyện suy nghĩ rất nhiều và bàn hỏi thật kĩ với những
người khôn ngoan trước khi quyết định.
Lập gia đình với mục đích để trở thành kỹ sư đào mỏ, không cần tình yêu, sẽ trở
thành một kẻ tự đào huyệt để chôn đời mình.
Lập gia đình để chạy trốn một hoàn cảnh cô đơn buồn bã ở gia đình mình, là một
liều lĩnh đáng sợ.
Trưởng thành trong đơn vị.
Lập gia đình, là bắt đầu thành một đơn vị mới, một đơn vị riêng tư, trưởng
thành, có tư cách pháp nhân và có giá trị biệt lập.
Bởi thế, phải đối xử bằng cung cách người lớn, một người biết điều. Với nhau,
đành rồi, nhưng nhất là, với cha mẹ, nội ngoại, họ hàng hai bên. Phải đối xử một
cung cách chững chạc, trong lời nói, cũng như trong hành động.
Người đàn ông, hãy đối xử với vợ bằng cung cách của người chồng có văn hoá, và
ngược lại, người đàn bà hãy đối xử với chồng, bằng cung cách của một người vợ
hiền.
Ăn nói xấc xược, liều mạng, hành động vũ phu, hay giận dỗi là những ổ gà trên
đường, sẽ làm giập mặt tình
yêu.
Là những con người trưởng thành, phải biết giúp nhau thăng tiến.
Giúp nhau thăng tiến về đạo đức, đó là mối ưu tiên hàng đầu. Giúp nhau xây dựng
những thói quen đạo đức
tốt. Giúp nhau biết về giáo lý, Phúc âm
Giúp nhau thăng tiến về trí thức, về cung cách đối xử.
Giúp nhau thăng tiến khuôn mặt tình yêu sẽ ngày càng rạng rỡ, và hạnh phúc trong
tầm tay.
Lm. Đaminh Đỗ Văn Thiêm
“Chúng ta không thể chỉ sống cho bản thân.
Có hàng ngàn sợi dây buộc ta với đồng loại ”.
Herman Melville
Bài học từ các cô cậu bé bỏng:
Một em bé học sinh tiểu học. Cậu đã rất hào hứng và nôn nóng được tham gia vào hội thi thể thao của trường. Trên khán đài, ba mẹ cậu theo dỏi đầy hy vọng. Dưới đường đua. Cậu bé đã chạy và đã thắng cuộc. Cậu bé rất tự hào về dải “ruybăng” deo chéo ngực và những tiếng chúc mừng từ đám đông.
Đến chặng đua thứ hai, cậu vẫn dẩn đầu, nhưng khi đến sát đích, cậu bé đột nhiên dừng lại, đứng vào một bên đường đua. Ba mẹ cậu sau đó đã hỏi rất nhẹ nhàng: “Kelly, sau lúc đó con làm vậy? Nếu con tiếp tục chạy, con sẽ thắng nữa mà!”
Cậu bé trả lời hết sức ngây thơ: “Nhưng mẹ ơi, con đã có một dải ruy-băng rồi, Billy thì chưa có!”
Lại một câu chuyện dễ thương khác làm các bậc phụ huynh phải suy nghĩ. Một bà mẹ đã kể:
“Hôm ấy tôi đang dọn sạch mấy túi áo lạnh của con gái sáu tuổi, thì phát hiện ra ở mỗi túi có hai đôi găng tay. Nghĩ rằng một đôi thôi cũng đủ giữ ấm tay rồi, tôi hỏi con vì sao mang tới hai đôi trong túi. Con tôi trả lời: “Con làm vậy từ lâu rồi, mẹ, mẹ biết mà, có nhiều bạn con đi học mà không có găng. Nếu con mang thêm một đôi, con có thể cho bạn mượn và tay các bạn sẽ ấm.”
Trẻ con là thế đó, chúng không nghĩ đến lợi riêng, thắng-thua không quan trọng, chúng rất nhạy cảm với nhu cầu của người khác. Cái Tâm của chúng còn trong suốt để có thể nhìn thấy và rung cảm với niềm vui hay nỗi đau của người thân cận. Khi làm người lớn, kinh nghiệm bon chen với cuộc sống, con tim chúng ta mất đi độ nhạy bén, có khi vì những trăn trở, vật lộn với đời, lòng chúng ta dễ trở nên chai cứng chăng?
Với tuổi thanh thiếu niên, con em chúng ta vào đời với lòng nhiệt tình, trong sáng và quảng đại … Xin phụ huynh giúp chúng bảo tồn được nét đẹp này , hay ít ra là kéo dài thêm trong cuộc sống. Quý vị đã cho con em cuộc sống trên đời, cho chúng của ăn, cái mặc, vốn liếng học thức, đạo đức … Nhưng nếu giúp chúng có một cuộc sống đầy ý nghĩa, với những niềm vui thanh cao, thì tình yêu con của quý vị thật đúng nghĩa và trọn vẹn.
Phải, chỉ những ai biết cống hiến chân tình và vị tha mới trải nghiệm niềm vui sâu xa của cuộc sống và sự tràn đầy thật sự … (Theo Lưu Dung)
“Xã hội này thật có nhiều điều, nhiều nơi để cống hiến. Ngoài những vật hữu hình, chúng ta còn cung cấp cho mọi người sự cổ vũ, khích lệ tinh thần khiến cho thế giới này đâu đâu cũng tràn đầy niềm vui.”
Hiện thời đời sống vật chất ở thành thị hay thôn quê, đâu đâu ít nhiều điều được cải tiến, nhưng đời sống tinh thần lắm khi lại bị tụt hậu. Bao nhiêu người nhận xét về sự băng hoại trong thực tế về mặt đạo đức và giá trị tinh thần sa sút, một tác giả vô danh đã đề nghị chúng ta “Nên suy nghĩ lại” vì:
“… Chúng ta ngày càng có nhiều cao ốc hơn, và nhiều xa lộ rộng hơn, nhưng lòng khoan dung lại thấp đi và tinh thần hẹp hòi hơn …
Chúng ta nói năng nhiều hơn, nhưng yêu mến ít và lòng thù ghét quá nhiều …
Chúng ta có của cải tăng nhiều lần, nhưng giá trị mình giảm lại …
Chúng ta có thu nhập cao hơn, nhưng luân lý đạo đức kém đi …
Chúng ta đã lên mặt trăng và trở về trái đất, nhưng lại cảm thấy khó khăn khi băng qua đường để thăm người hàng xóm …”
Niềm vui thanh nhã và sâu lắng chính là những lúc chúng ta quên mình và sống cho người khác. Quý phụ huynh cần giúp con em mở lòng mình, mở cửa nhà để chia sẻ, và để làm sao cho:
“Hương thơm trong nhà nho nhỏ của mình lan tỏa đến nhà bên cạnh và đến nhiều người càng tốt.
Niềm vui chật hẹp của mình lan rộng tới mọi ngõ ngách của xã hội;
Lò lửa trong nhà chúng ta sưởi ấm mọi trái tim lạnh giá;
Ngọn đèn trước thềm nhà chiếu sáng đường đi cho người về khuya.”
(Lưu Dung)
Sống cho người khác lại làm cho cuộc sống chúng ta trở nên sung mãn hơn, nhẹ nhàng hơn, ý nghĩa và phong phú hơn.
“Chính lúc hiến thân là lúc nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân …” (Francis Assis)
Chúng ta cần chia, cần cho, cần cống hiến những gì chúng ta có, và rồi chúng ta sẽ nhận lại niềm vui tinh thần. Người ta thường nói khi rắc nước hoa cho người khác, chúng ta cũng được thơm lây. Thật ra, đây không phải là điều chúng ta tìm kiếm, không phải vì lợi lộc của chính mình, nhưng thực tế đã cho thấy, người đầu tiên nhận hoa trái của sự tốt lành, quảng đại chính lại là bản thân người đã cho đi.
“Từ nụ cười của người khác, ta nhìn thấy nụ cười của chính ta.”
(Lưu Dung)
Theo Đạo Đức Kinh, Thầy Khổng Tử đã nhắc nhở chúng ta rằng:
“Sở dĩ trời đất trưỡng cửu được là vì chúng không sống cho riêng mình, mà sống cho vạn vật nên mới trường cửu.”
Các Thánh hiền xưa đã răn dạy chúng ta rất nhiều, ngay cả trong bổn phận và nghề nghiệp chúng ta luôn để ý đến cái ích lợi cho người khác trong những gì chúng ta làm:
“Làm quan cốt để giúp đời, phải đâu riêng hưởng một đời ấm no.”
Tinh thần vì người khác, vì ích chung luôn được chú trọng trong giáo dục của các đạo, các nhà hiền triết. Tuy thế, dường như trong xã hội ngày nay, điểm son của tính vị tha và hướng tha bị phai mờ vì chủ trương lợi nhuận của kinh tế thị trường. Cá nhân chủ nghĩa cũng đã và đang ảnh hưởng lên cách sống, cách ứng xử của nhiều người, nhất là giới trẻ. Ước mong phụ huynh và nhà giáo tìm cách chuyển tải và duy trì những giá trị truyền thống cao cả này cho thế hệ con cháu chúng ta. Những người sống cho người khác đều đáng kính, và nhất là đáng tin.
“Người nào coi trọng sự hy sinh cho thiên hạ, thì có thể giao thiên hạ cho người đó được. Người nào đem thân mình vui vẽ phục vụ thiên hạ, thì có thể gởi thiên hạ cho người đó được” – Luận ngữ
Tuổi trẻ chưa có bạc vàng hay của cải gì, nhưng chúng ta có tấm lòng. Lòng tốt luôn có phản hồi. Vì những gì chúng ta đã gieo, chúng ta sẽ gặt hái, cái gặt đầu tiên là sự kính trọng, niềm vui sâu xa và an bình nội tâm của kẻ không sống chỉ cho riêng mình.
“Người ta kính trọng bạn không phải vì những gì bạn đã nhận được, sự kính trọng là phần thưởng dành cho những gì bạn đã cho đi.”
(Lưu Dung)
Thật vậy,
Khi chúng ta tạo cho người khác cơ hội, thì đừng cho rằng đó chỉ là đem lại lợi ích cho người khác, mà kỳ thực cũng là đem lại một cơ hội cho bản thân ta.”
(Lưu Dung)
Sau đây, xin được chia sẻ cùng quý phụ huynh câu chuyện đơn sơ nhưng đầy sự khuyến khích, giúp nhau hết mình và hết tình.
Một thanh niên nhà nghèo, vừa học vừa đi làm thêm. Một hôm chàng gần như kiệt sức vì vừa đói lại vừa khát, chàng đã ghé nhà một người xin chút gì để uống. Đấy là một gia đình nghèo, bà mẹ vui vẻ dặn các con lấy cho chàng một ly sữa thật đầy, chàng thanh niên ấy hết sức cảm kích vì thái độ này. Mấy chục năm sau, chàng ra trường và làm bác sĩ ở một bệnh viện.
Một hôm mắt chàng gặp phải một cái tên và con người quen thuộc, dần dần nhớ lại hình ảnh người mẹ năm xưa với ly sữa đầy … Lúc ấy, bà đang mang bệnh nan y và thiếu phương tiện chữa chạy, chàng đã trấn an người phụ nữ đồng thời chăm nom hết sức tận tình. Khi đã điều trị xong, gia đình đang lo lắng sẽ nhìn thấy cái hóa đơn khủng khiếp, nhưng khi mở ra thì hóa đơn lại ghi:
Chi phí điều trị = giá bằng môt ly sữa.
Niềm vui lại tràn ngập những con tim, người cho cũng như kẻ nhận, bắt đầu bằng cho đi, kết thúc bằng nhận lại một cách tràn đầy không ngờ!
Với sự sẻ chia, về mặt tinh thần cũng như vật chất, chúng ta không trở nên nghèo đi, trái lại, chúng ta lại trở nên giàu có, phong phú hơn. có khi gieo tinh thần chúng ta gặt hái của cải, và ngược lại …
Trí tuệ giàu lên nhờ cái nó nhận được.
Con tim giàu lên nhờ cái nó cho đi.
Không sống chỉ cho riêng mình mà thôi! Chúng ta cùng sẻ chia cho nhau những gì tốt, đẹp, hay, vui … cho người xa, kẻ gần, chúng ta không ngại chia sẻ cái hay mà còn cả những điều nhỏ mọn, tính yếu hèn của mình nữa, “của ít lòng nhiều” có khi còn quý hơn, xin phụ huynh giúp con em chúng ta vào đời với một tấm lòng nhân hậu, bàn tay mở rộng để giúp đở và sẻ chia với người quanh mình, dù những gì chúng ta có chỉ là những điều rất nhỏ bé, tầm thường. Thiên Chúa yêu thích những món quà nhỏ bé, và đánh giá rất cao hai đồng xu của bà góa. Quan trọng nhất vẫn là tâm tình gói ghém bên trong:
Của trời như hạt sương sa,
Ai ơi lãnh nhận để mà cho đi.
Lòng nhiều của ít ngại chi,
Sương muôn hạt nhỏ nhiều khi mát trời.
(Vô Danh)
NT. M. Thécla Trần Thị Giồng
TS Tư Vấn Tâm lý
Gioan
Gioan lặng lẽ đi sau lưng Đức Giêsu, Anrê cùng đi với anh. Họ muốn ngỏ lời mà không dám. Họ ngong ngóng chờ đợi Thầy lên tiếng.
Các anh tìm ai ?
Thưa thầy, Thầy ở đâu ?
Ở đàng đó. Đến mà xem.
Ba người khom lưng chui vào căn lều nhỏ hẹp. Chủ và khách ngồi sát bên nhau, tâm tình nhỏ to. Chẳng biết họ nói gì với nhau. Chỉ biết chắc một điều là sau đó họ trở thành thầy trò của nhau.
Riêng Gioan thì tự nhận mình là môn đệ ưu ái của Thầy. Từ hồi còn rất trẻ, anh đã nuôi cao vọng gầy dựng sự nghiệp lón. Cũng chính vì thế anh đã xin làm môn đệ của Gioan Tẩy giả, vì cứ ngỡ rằng Gioan Tầy Giả là Đấng Cứu Thế. Khi Gioan Tầy giả quyết liệt từ chối sứ mạng ấy và khẳng định Đức Giêsu mới là Đấng Mêsia, thì anh chuyển hướng ngay lập tức.
Anh muốn làm lớn và anh có khả năng làm lờn. Là một thanh niên ngư dân ở tận miền Bắc mà anh lại ngó xuống thủ đô quen thân với ông Thượng tế, một nhân vật có quyền hành lớn nhất nước. Quả vậy, khi thầy bị trói thúc dẫn ra toà, khi các đệ tử kia đều trốn mất dạng, thì anh vẫn đi nhởn nhơ trong dinh Thượng tế. Anh còn vận động để Phêrô cũng được vào trong dinh nữa.
Anh được Thầy yêu tha thiết và anh cũng yêu Thầy tha thiết. Nhưng tình yêu của anh vẫn còn trần tục, vẫn còn vẩn đục, trong suốt ba năm truyền đạo của Thầy, anh vẫn yêu Thầy và vì yêu Thầy anh đã phạm nhiều điều sai lầm.
Anh đến một thành thuộc xứ Samari để kiếm chỗ cho Thầy nghỉ đêm. Thế là anh nổi giận. Anh xin Thầy cho anh quyền lấy lửa trời xuống thiêu rụi thành ấy. Anh yêu Thầy, nhưng yêu sai. Anh bị Thầy quở trách nặng nề. Anh cúi đầu làm thinh, suy nghĩ giáo huấn của Thầy: ? Thầy đến không phải để tiêu diệt mà để cứu độ”. Những lời của Thầy vẫn không thấm vào tâm tư của anh.
Anh thấy một người nào đó nhân danh Thầy của anh để trừ quỷ. Chỉ vì người ấy không phải là đệ tử của Thầy, nên anh cấm người ấy không được làm như vậy nữa. Chắc chắn là người ấy kiềng mặt anh. Anh khoái trí về kể công với Thầy. Anh lại bị Thầy chỉnh :” Một người nhân danh Thầy mà trừ quỷ, thì không thể sau đó lại chống đối Thầy ? Anh lại yêu sai nữa rồi.
Cha anh là Dê bê đê có một cơ sở làm ăn khá lớn. Gia đình có ba lao động chính, ông vẫn phải mướn thêm nhiều người làm công nữa. Vậy mà anh vẫn bỏ hết để theo Thầy. Anh mơ ước một sự nghiệp lớn lao hơn. Anh đã lẽo đẽo theo Thầy ba năm, ngong ngóng chờ Thầy phất cờ khởi nghĩa, để kiếm chút đỉnh chung. Chờ mãi, mòn mỏi vào cuối năm thứ ba, anh linh cảm là Thầy sẽ làm vua. Nếu Thầy làm vua, thì anh sẽ làm thủ tướng, ai sẽ làm tổng tư lệnh quân đội ? Anh tự cảm thấy mình rất xứng đáng để làm thủ tướng, nhưng vẫn nơm nớp lo sợ có ai đó sẽ phỗng tay trên… Phải chăng ? Có thể lắm. Anh hối hả xin mẹ dẫn anh và ông anh là Giacôbê đến gặp Thầy. Ba mẹ con quỳ thụp xuống, xá lia lịa. Tưởng có chuyện gì ghê gớm lắm. Ai ngờ ba mẹ con xúi nhau xin Thầy cho hai anh em được ngồi bên tả, bên hữu của Thầy, tức là một đứa làm thủ tướng, một đứa làm tổng tư lệnh quân đội. Một sai lầm tồi tệ !.Xôi thịt qúa chừng ! Xấu hổ qúa lẽ ! Thầy chọc quê :
- Các anh có dám uống “chén đắng” với Thầy không ?
“Chén đắng” thì Thầy cho uống “ còn ngồi bên tả bên hữu” thì phải xin Chúa Cha…
Dù yêu thầy và hiểu Thầy một cách sai lầm. Gioan vẫn một lòng chung thuỷ với Thầy. Anh theo Thầy, theo mãi cho tới lúc. Thầy tắt thở trên khổ gíá… Và chỉ có một mình anh đứng dưới chân thập giá thôi, chẳng sợ bất cứ người nào, từ Thượng tế cao cả, cho tới tên lý hình quèn.
Cũng chính vì thế mà anh đã trúng quả, trúng đậm. Trước khi gởi hồn cho Chúa Cha. Thầy đã trối mẹ của Thầy cho anh. Từ đó anh gọi mẹ của Thầy là mẹ của mình. Và cũng từ hôm ấy, mẹ của Thầy về ở với anh. Ôi một vinh dự lớn lao !Một vinh dự ngàn năm một thuở ! Cả loài người ganh tỵ với anh. Sướng ơn là sướng !
Người ta truyền tụng rằng sau gần ba phần tư thế kỷ loan báo Tin Mừng. Gioan chỉ còn yêu và chỉ rao giảng một chữ yêu. Tình yêu bây giờ không còn vấn đục như xưa nữa. Nó trong trắng, nó tinh tuyền đến mức độ nếu Thầy trở lại và chứng kiến tình yêu ấy, thì Thầy sẽ mãn nguyện vô cùng. Có lẽ lời nói sau đây la lời nói cuối cùng về tình yêu mà Gioan đã để lại cho hậu thế ?” Tình yêu hoàn hảo loại trừ nỗi sợ và ai còn sợ hãi là chưa có tình yêu hoàn hảo” ( Ga 4, 18 )
Lời nói tuyệt với ấy kết thúc một đòi đi theo Thầy
Lm. Piô Ngô Phúc Hậu