TIN VUI
Tuần san Bạn trẻ Công Giáo - Số 72 CN 01.02.2007
Web site:www.tinvui.org E-mail : bantreconggiao@yahoo.com
Hoặc : tinvuivietnam@gmail.com
Mục Lục
CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN - NĂM C Ngày 11/02/2007
CHÚA NHẬT VII THƯỜNG NIÊN - NĂM C Ngày 18/02/2007
Sứ Điệp của Thánh Cha Biển Đức XVI cho Ngày Truyền Thông Thế Giới 20/5/2007
Các khó khăn và hy vọng của Giáo Hội Công Giáo tại Thổ Nhĩ Kỳ
Bài Phỏng Vấn ÐHY GB Phạm Minh Mẫn về Hội nghị Giáo Huấn của Giáo Hội về Xã Hội
Xây dựng cộng đoàn đức tin Khu Xóm.
TÀI LIỆU TĨNH TÂM LINH MỤC GIÁO PHẬN LONG XUYÊN 2007:
GƯƠNG THA THỨ CỦA MỘT ĐÔI VỢ CHỒNG NGƯỜI ITALIA
Chợ Tình - Một Thực Trạng Trẻ Việt
KÍNH BÁO:
Kể từ Tuần San Tin vui 71 chúng tôi đã đăng tải tài tài liệu Tĩnh Tâm Linh mục Giáo phận Long Xuyên. Đó là những bài viết được thư ký TGM Long Xuyên đánh máy từ những băng nói nghi âm trong tuần cấm phòng nên chính tả và câu chữ hành văn có nhiều sai sót. Mong quý vị độc giả gần xa thông cảm.
Lc 6, 17. 20-26
"Phúc cho những kẻ nghèo khó. Khốn cho các ngươi là kẻ giàu có".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu từ trên núi xuống cùng với mười hai tông đồ, và dừng lại trên một khoảng đất bằng; ở đó có đông môn đệ và một đám đông dân chúng từ Giuđêa, Giêrusalem, miền duyên hải Tyrô và Siđon kéo đến để nghe Người giảng và xin Người chữa bệnh tật. Bấy giờ Người đưa mắt nhìn các môn đệ và nói: "Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười. Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ tên các ngươi như kẻ bất lương. Ngày ấy, các ngươi hãy hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời. Chính cha ông họ cũng đã đối xử với các tiên tri y như thế.
"Nhưng khốn cho các ngươi là kẻ giàu có, vì các ngươi hiện đã được phần an ủi rồi. Khốn cho các ngươi là kẻ đã được no nê đầy đủ, vì các ngươi sẽ phải đói khát. Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu khóc lóc. Khốn cho các ngươi khi mọi người đều ca tụng các ngươi, vì chính cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với các tiên tri giả". Đó là lời Chúa.
Cuộc đời con người thành công hay thất bại, hạnh phúc hay đau khổ đều tùy thuộc vào sự chọn lựa thái độ sống của chính mình. Thực ra, nếu được hỏi, ai cũng muốn được hạnh phúc, nhưng không phải ai cũng có một đời sống hạnh phúc. Đó là lý do để chúng ta cần lắng nghe lời Chúa dạy hôm nay để biết thực hiện những mối phúc và tránh được những mối họa. Nơi Tin Mừng Matthêu có 8 mối phúc. Còn nơi Tin Mừng Luca có bốn lời chúc phúc và bốn lời chúc dữ đối chiếu nhau, nghèo khó và giầu có, đói khát và no đủ, khóc lóc và vui cười, bị oán ghét và được ca tụng. Nếu mỗi người chúng ta được tự do chọn lựa thì chắc chắn không ai trong chúng ta lại chọn cuộc sống nghèo khó, đói khát, khóc lóc và bị oán ghét; trái lại, ai cũng thích chọn đời sống giầu có, no đủ, vui cười và được ca tụng. Như thế, phải chăng ý muốn của con người và thánh ý của Thiên Chúa hoàn toàn mâu thuẫn nhau? Hay chúng ta cần phải điều chỉnh thái độ sống của mình như thế nào để có thể làm nhân chứng đức tin cho con người trong xã hội đang tục hóa hiện nay?
1. Phúc cho người nghèo khó, khóc lóc và bị oán ghét
Nếu không có đức tin, dù chúng ta đang là những người nghèo đói, khóc lóc và bị oán ghét, chúng ta cũng thực sự khó chịu với lời giảng dạy của Đức Giêsu vì nó quá nghịch lý! Nhưng trong đức tin, dưới ánh sáng của Lời Chúa, chúng ta mới nhận ra thế nào là mối phúc của người nghèo khó cả về vật chất lẫn tinh thần, hoàn toàn bất lực và không biết nương tựa vào ai. Hạnh phúc của người nghèo theo Thánh Kinh là được nghe loan báo Tin Mừng cứu độ như lời sách ngôn sứ Isaia đã được Đức Giêsu công bố là ứng nghiệm khi Người đọc tại hội đường Nadarét: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn”. Và cả bốn Tin Mừng đều chứng minh điều này khi kể lại từng đoàn lũ dân chúng, những người nghèo khổ, bệnh tật luôn vây quanh Đức Giêsu, say mê nghe Người giảng dạy về Nước Thiên Chúa và Người đã làm nhiều phép lạ chữa lành họ như Người đã nói: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được lành sạch, kẻ điếc được nghe, người chết chỗi dậy, kẻ nghèo được nghe tin mừng…” (Lc 7,22). Và Tin Mừng tuyệt vời nhất chính là Đức Giêsu, Đấng đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi (Mt 9,13). Vì thế tất cả những người thu thuế và những người tội lỗi thường đến gần Đức Giêsu (x. Lc 15,1).
Trong khi đó, khi Đức Giêsu chúc phúc cho các môn đệ là những người nghèo đói hay bị oán ghét vì Danh Người. Người không chúc lành cho sự khốn khổ, bất công của cảnh nghèo, nhưng Người đón nhận lòng khao khát của họ về một thực tại khác, xa hơn những gì thấy trước mặt. Chính trong lúc ý thức được sự nghèo nàn của mình, họ đã hoàn toàn đặt tin tưởng vào Đức Giêsu, tựa nương vào Người hơn bất cứ một điểm tựa nào khác. Vì theo niềm tin Kitô giáo, con người được dựng nên để phục vụ Thiên Chúa, yêu mến Thiên Chúa và được hưởng hạnh phúc Thiên Đàng. Nên hạnh phúc đích thực không ở nơi của cải tiện nghi, không ở trong vinh quang trần thế hay quyền lực, không ở trong bất cứ một công trình nào của con người như khoa học kỹ thuật hay nghệ thuật, nhưng chỉ ở nơi Thiên Chúa, nguồn mạch mọi thiện hảo và tình yêu (x. sách GLCG 1721,1723). Hạnh phúc đích thực này được ban cho người nghèo – đó là trọng tâm của Lời Chúa hôm nay vì họ sống phó thác nơi Chúa như nguồn sự sống (x. Tv 1,1)
2. Khốn cho người giàu có, no đủ, vui cười và được ca tụng
Từ những ý nghĩ đã được trình bày ở phần trên, chúng ta có thể dễ hiểu hơn lời Đức Giêsu nói về những mối họa mà những người giàu có, no đủ, vui cười và được ca tụng thường hay mắc bẫy. Mặc dù cuộc sống Nước Trời luôn khởi đi từ cuộc sống hạnh phúc đời này, nhưng khi chúng ta cảm thấy an vui, phấn khởi vì đã có điểm tựa nơi tiền của, vật chất và những lời ca tụng về những thành tích trong xã hội, chúng ta cũng thường có xu hướng hưởng thụ, thần tượng mình và dửng dưng với lời mời gọi của Đức Giêsu. Những mẫu người như thế, chúng ta đã nhìn thấy trong Tân Ước qua hình ảnh anh thanh niên giầu có, buồn rầu bỏ đi, vì không thể bán của cải bố thí cho kẻ khó rồi đi theo Chúa. Tiếp đến là nhóm Pharisêu, thượng tế và luật sĩ, những người luôn tự phụ nơi sự giầu có kiến thức, hay đạo đức của mình, nên đã khước từ và chống đối lại Đức Giêsu. Xã hội hiện nay cũng thế, mỗi ngày một nhiều hơn những bi kịch gia đình bất hạnh vì mối họa giầu có và thành tích như lời cảnh giác của Đức Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, để trở nên môn đệ của Chúa, con luôn phải đứng trước những chọn lựa từ bỏ mình để tin vào Chúa. Xin cho con nhận ra sự thật nghèo khó của chính mình để con biết mở lòng ra đón nhận chính Chúa là nguồn sống yêu thương và hạnh phúc duy nhất của con.
Nữ tu Têrêsa Phạm Thị Oanh
Dòng Đaminh Tam Hiệp
PHÚC ÂM: Lc 6, 27-38
"Các con hãy tỏ lòng thương xót như Cha các con hay thương xót".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy bảo các con đang nghe Thầy đây: Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình. Ai vả má con bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì con hãy cho và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại. Các con muốn người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy. Nếu các con yêu những kẻ yêu các con, thì còn ân nghĩa gì nữa? Vì cả những người tội lỗi cũng yêu những ai yêu họ. Và nếu các con làm ơn cho những kẻ làm ơn cho các con, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng làm như vậy. Và nếu các con cho ai vay mượn mà trông người ta trả lại, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng cho những kẻ tội lỗi vay mượn để rồi được trả lại sòng phẳng.
Vậy các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn, và cho vay mượn mà không trông báo đền. Phần thưởng của các con bấy giờ sẽ lớn lao, và các con sẽ là con cái Đấng Tối Cao, vì Người nhân hậu với những kẻ bội bạc và những kẻ gian ác.
Vậy các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ. Đừng xét đoán, thì các con sẽ khỏi bị xét đoán; đừng kết án, thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được tha thứ. Hãy cho, thì sẽ cho lại các con; người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy". Đó là lời Chúa.
Sống trên trần gian này yêu kẻ yêu ta thì dễ mà ghét kẻ ghét ta thường là khuynh hướng tự nhiên của mọi người. Người ta thường có cảm tình với kẻ có thiện cảm với ta và ác cảm, thù hận với những kẻ tranh chấp, hận thù và xấu với ta. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại nói khác: “ Hãy yêu thương cả kẻ thù…Hãy yêu mến cả kẻ không có chút thiện cảm với ta “.
THA THỨ LÀ MỘT CỬ CHỈ ANH HÙNG, KẺ CẢ :
Cuộc đời là một cuộc hành trình đầy gian khó. Con người phải vất vả, cố gắng, phấn đấu hy sinh và khó nhọc để sinh sống, để tương quan với nhiều người khác. Yêu kẻ yêu thương mình là khuynh hướng quá tự nhiên, quá bình thường với mọi người. Do đó, cử chỉ tha thứ, thái độ thông cảm, tấm lòng yêu thương đối với những người ta không hề thiện cảm quả thực thật khó khăn. Chính vì thế, tha thứ là một hành động đáng khen ngơi, một cử chỉ anh hùng, cao quí, vượt lên những gì là tầm thường, là đời thường để vượt lên trên bình diện cao hơn, siêu nhiên hơn để sống yêu thương, từ tốn và nhân hậu như Chúa đã nói trong Tin Mừng :” Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương chúng con” “ Tha thứ tới bảy mươi lần bảy, tha thứ không ngừng”. Chúa Giêsu dậy con người là tha thứ mãi mãi, tha thứ không thôi vì tha thứ là trao ban cho chính kẻ mình ghét cay, ghét đắng.Chúa Giêsu đã nói :” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người thí mạng sống vì người mình yêu” ( Ga 15, 13 ). Chúa đã yêu thương mọi người, tha thứ cho mọi người, nên tha thứ là trao ban hai lần, là trao ban cử chỉ yêu thương cho chính kẻ thù của mình. Chúa Giêsu đã mời gọi :” Hãy yêu kẻ thù “. Kẻ thù là người đối kháng với ta, là kẻ không có gì là thiện cảm, là yêu thương ta. Do đó, Chúa kêu gọi yêu kẻ thù là một mệnh lệnh thật khó. Tuy nhiên, khó nhưng không phải là khôg thực hiện được vì chính Chúa đã làm gương cho ta khi cúi mình rửa chân cho các môn đệ và tha thứ cho những kẻ làm hại mình, những kẻ giết mình. Đây là gương tha thứ cao độ nhất mà người đời không dễ thực hiện.
Chúa chỉ cho mọi người thấy gương cao vời của người: Chúa đến để yêu thương, để tha thứ chứ không phải để giết chết và óan hận.
TẠI SAO CHÚNG TA PHẢI YÊU THƯƠNG KẺ THÙ ? :
Cứ thường tình kẻ mến ta, kẻ giúp đỡ ta là những kẻ được ta lưu tâm, được ta giúp đỡ lại. Tội gì lại thương yêu kẻ ghét và hận thù với ta. Chúa đã làm gương để ta soi khi Chúa tha thứ cho những kẻ không biết việc họ làm, treo Ngài lên thập giá. Chúa tha thứ và phong thánh cho kẻ trộm lành. Chúa truyền dạy ta phải theo gương Chúa :” Các con hãy học cùng ta, vì ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”( Mt 11, 29 ). Thánh Phaolô cũng nói:” Anh em hãy bắt chước Thầy, như là Thầy đã bắt chước Chúa Kitô “( 1 Co 11, 1 ).
Giới luật mới của Chúa xem ra trái nghịch hòan tòan với những luật lệ của người biệt phái, Pharisiêu vv…Đức ái của Chúa buộc con người yêu thương hết cả mọi người kể cả kẻ thù nữa ( Lc 6, 27-35 ). Do đó, Chúa Giêsu dạy các môn đệ và mọi người phải yêu thương tất cả không trừ một ai. Đây là một nhân đức siêu nhiên vượt trên mọi nhân đức ở thế gian này. Ta thử tìm đọc dụ ngôn của thánh Luca 10, 25-37 về người Samaritanô nhân hậu. Chúa bảo chúng ta phải yêu thương mọi người vì mọi ngừoi được dựng nên đều giống hình ảnh Thiên Chúa, vì mọi người không phân biệt bất cứ ai được cứu chuộc bởi giá máu cứu chuộc của Thiên Chúa. Vì mọi người đều là con một Cha trên trời.
Vâng, đối với người Kitô hữu, chúng ta được mời gọi yêu thương kẻ thù chính là lời Chúa dậy :” Anh em hãy yêu thươ ng kẻ thù. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng tối cao”( Lc 6, 35 ). Lời Chúa tra vấn ta nếu ta không yêu kẻ thù, tha thứ cho họ và không cầu nguyện cho những kẻ bách hại, ngược đã ta thì ta chưa xứng đáng là con đích thực của Chúa.
Yêu người sẽ gặp Chúa và yêu Chúa sẽ gặp người.
Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn biết yêu thương và tha thứ cho những kẻ đã sống không tốt với chúng con.
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Những ngày cuối năm, người ta thường sửa sang, dọn dẹp con đường trước nhà mình, sao cho sạch đẹp. Đó là con đường địa lý, con đường vật chất, con đường hữu hình.
Còn có một con đường khác thuộc về tâm hồn, ẩn khuất trong cõi vô hình. Nó càng cần được ta xem lại, sửa sang lại. Bởi vì chính con đường đó sẽ đón ơn Chúa ngày đầu Xuân.
Có nhiều cách dọn dẹp con đường thiêng liêng đó. Như cầu nguyện, tĩnh tâm, sám hối, làm việc từ thiện, thực thi các việc hiếu thảo, tình nghĩa trong các tương quan mà mình có bổn phận.
Ở đây, tôi xin nhắc đến một việc thiết tưởng rất nên làm. Đó là nhân dịp cuối năm, ta hãy nhìn kỹ xem: Đời ta đang đi trên con đường nào?
Trên thực tế, có nhiều con đường đang thu hút các cuộc đời. Còn chúng ta, những người sống Lời Chúa phải đi con đường nào?
Thưa: Con đường Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu là đường Chúa Giêsu khẳng định: "Chính Thầy là con đường, là sự thực và là sự sống" (Ga 14,6). Đặc tính của con đường Chúa Giêsu là:
- Vâng phục thực thi thánh ý Chúa Cha một cách khiêm nhường.
- Yêu thương phục vụ nhân loại một cách khiêm nhường.
Khiêm nhường nói đây là chấp nhận nhiều thứ khổ đau suốt đời, để minh chứng cho tình yêu cứu độ dẫn tới phục sinh.
Chúa Giêsu đã báo trước về chính Người: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại" (Lc 9,22).
Lời Chúa Giêsu nói trên đây về chính mình chỉ là một chi tiết về cuộc đời của Người. Còn toàn thể cuộc đời ấy là một chuỗi dài những hy sinh cao cả.
Hãy liếc qua chuỗi dài yêu thương phục vụ trọn đời Người. Từ hang đá Belem nghèo khổ, cuộc đi trốn âm thầm sang Ai Cập, 30 năm lam lũ ở Nagiarét, 3 năm đi rao giảng với bao cực nhọc, sau cùng đến Núi Sọ, để bị treo lên thập giá một cách nhục nhã.
Tất cả đều vì vâng phục ý Chúa Cha. Tất cả đều để minh chứng Thiên Chúa là Tình Yêu. Tất cả đều để cứu rỗi nhân loại.
Cuộc đời đó của Chúa Cứu thế chính là con đường, mà Người dạy các môn đệ Người hãy bước vào, hãy cùng đi.
Chúa Giêsu phán: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Thầy.
"Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.
"Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì" (Lc 9,23-25).
Các tông đồ đi theo con đường Chúa Giêsu
Những đòi hỏi trên đây rất rõ ràng. Các môn đệ Chúa đã đi vào con đường đó không? Thưa các ngài đã đi đến tận cùng. Chúng ta có thể nhìn thấy cuộc hành trình yêu thương phục vụ của các ngài qua bài ca bác ái dưới đây của thánh Phaolô tông đồ:
"Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu
không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc,
không làm điều bất chính, không tìm tư lợi,
không nóng giận, không nuôi hận thù,
không mừng khi thấy sự gian ác,
nhưng vui khi thấy điều chân thật.
Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả,
hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả.
Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến,
cả ba đều tồn tại,
nhưng cao trọng hơn cả là đức mến" (1 Cr 13,4-13).
Các tông đồ của Chúa Giêsu xưa đã đi trên con đường yêu thương phục vụ của Chúa Giêsu như thế đó.
Hội Thánh mọi thời đi theo con đường Chúa Giêsu
Còn sau thời các tông đồ thì sao?
Thưa, tuy nhiều nơi lòng đạo ngả mạnh về phía đền thờ hơn về phía con người. Nhưng nói chung, các tín hữu vẫn cố gắng sống tinh thần yêu thương phục vụ một cách tin tưởng, theo kinh Tám mối phúc Chúa đã dạy:
"Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó,
Vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay ai hiền lành, '
vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
Phúc thay ai sầu khổ,
Vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
Phúc thay ai khát khao nên người công chính,
Vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.
Phúc thay ai xót thương người,
Vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch,
Vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
Phúc thay ai xây dựng hoà bình,
Vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính,
Vì Nước Trời là của họ (Mt 5,3-10).
Trên đây là những nét lớn của con đường Chúa Giêsu, mà ngày đầu Xuân hay nhắc tới.
Hiện nay, nhiều người vẫn trung thành với nội dung của con đường đó. Đang khi nhiều người chỉ theo con đường đó một cách hình thức.
Tại Việt Nam hôm nay
Còn người công giáo tại Việt Nam hôm nay thì sao?
Mong mỗi người hãy tự xét mình xem: Lúc này mình đang thực sự đi trên con đường nào?
Tôi thấy các phong trào văn minh đủ thứ đang phân hoá đồng bào. Bên cạnh một số người còn giữ được tâm lý quân bình, tôi thấy đang xuất hiện ba loại người sau đây:
Loại người rất gắn bó với quá khứ, nghi ngờ hiện tại và tương lai.
Loại người sống hết mình với hiện tại, dứt lìa quá khứ, bất cần tương lai.
Loại người sống như ảo tưởng với tương lai đầy hứa hẹn, quên hẳn quá khứ, hững hờ với hiện tại.
Nếu trong Hội Thánh cũng như thế, thì quả là đáng buồn. Bởi vì Con Đường Chúa Giêsu phải được liên tục từ quá khứ, với hiện tại và hướng về tương lai. Tất cả đều mang dấu ấn yêu thương phục vụ một cách khiêm nhường.
Mong dấu ấn ấy được toả sáng từ chính bản thân người môn đệ Chúa.
Mẩu tin vắn sau đây là một chứng từ thuyết phục:
Sau sự kiện Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng viếng thăm Toà ThánhVatican, tôi được may mắn gặp Thủ Tướng qua điện đàm trực tiếp. Trong cuộc điện đàm, tôi được biết: Đức Giáo Hoàng Bênêdictô XVI đã để lại nơi Thủ Tướng một cảm tình thiêng liêng tốt đẹp, do con người của Đức Giáo Hoàng toát ra một vẻ đẹp đạo đức, nhã nhặn, hiền từ, chân tu, cao thượng.
Tôi coi đây là một chứng từ rất đáng suy nghĩ về con đường Chúa Giêsu. Đức Giáo Hoàng đã giới thiệu con đường đó bằng thái độ, cách sống của Ngài hơn là bằng lý thuyết.
Còn chúng ta thì sao?
ĐGM GB Bùi Tuần
Trẻ em và Truyền Thông: Một Thách Đố cho Vấn Đề Giáo Dục”
Anh Chị Em thân mến,
1. Đề tài cho Ngày Thế Giới Truyền Thông lần thứ 41, “Trẻ Em và Truyền Thông: Một Thách Đố cho Vấn Đề Giáo Dục”, là những gì kêu mời chúng ta hãy suy tư về hai vấn đề liên hệ có tính cách quan trọng cả thể. Việc huấn luyện cho trẻ em là một. vấn đề khác, có lẽ ít hiển nhiên hơn song không kém phần quan trọng, đó là việc huấn luyện truyền thông.
Những thách đố phức tạp mà ngày nay vấn đề giáo dục đang phải đương đầu thường liên quan tới cái ảnh hưởng bại hoại của truyền thông trên thế giới chúng ta đây. Là một khía cạnh của hiện tượng toàn cầu hóa, và trở thành tiện lợi dễ dàng nhờ việc nhanh chóng phát triển về kỹ thuật, truyền thông đang sâu xa hình thành môi trường văn hóa (cf. Pope John Paul II, Apostolic Letter The Rapid Development, 3). Thật vậy, có một số người cho rằng ảnh hưởng chính yếu của truyền thông là những gì nghịch lại với ảnh hưởng của học đường, của Giáo Hội và thậm chí của cả gia đình nữa. ‘Đối với nhiều người thì thực tại là những gì truyền thông nhìn nhận là thực’ (Pontifical Council for Social Communications, Aetatis novae, 4).
2. Mối liên hệ giữa trẻ em, truyền thông và vấn đề giáo dục có thể được cứu xét theo hai chiều kích, chiều kích trẻ em bị chi phối bởi truyền thông; và chiều kích huấn luyện trẻ em để đáp ứng thích đáng với truyền thông. Một thứ hỗ tương nẩy sinh nhắm tới những trách nhiệm của truyền thông như là một ngành kỹ nghệ cũng như nhắm tới nhu cầu tham dự một cách chủ động và kiểm thức của thành phần độc giả, khán giả và thính giả. Trong khuôn khổ ấy thì vấn đề huấn luyện việc sử dụng thích đáng truyền thông là những gì thiết yếư cho việc phát triển trẻ em về văn hóa, luân lý và tinh thần vậy.
Làm thế nào để thứ công ích này được bảo vệ và cổ võ đây? Việc giáo dục trẻ em trong vấn đề phân biệt việc các em sử dụng truyền thông là trách nhiệm của cha mẹ, của Giáo Hội và của học đường. Vai trò của cha mẹ có một tầm vóc quan trọng tối yếu. Họ có quyền hạn và nhiệm vụ bảo đảm việc khôn ngoan sử dụng truyền thông bằng việc huấn luyện lương tâm con cái mình trong việc thể hiện những phán đoán lành mạnh và khách quan là những gì sẽ hướng dẫn họ chọn lựa hay bỏ đi những chương trình sẵn có (cf. Pope John Paul II, Apostolic Exhortation Familiaris consortio, 76). Để làm như thế, cha mẹ cần phải được khích lệ và hỗ trợ bở I học đường và giáo xứ để bảo đảm rằng khía cạnh khó khăn cho dù thỏa đáng của việc làm cha mẹ này là những gì được cộng đồng nâng đỡ.
Việc giáo dục truyền thông phải là việc giáo dục có tính cách tích cực. Trẻ em là thành phần hướng về những gì tuyệt vời về thẩm mỹ và luân lý cần được giúp để phát triển việc cảm nhận, khôn ngoan và những khả năng nhận thức. Ở đây cần phải nhìn nhận giá trị hệ trọng từ gương mẫu của cha mẹ và những thiện ích trong việc đưa giới trẻ đến với những tác phẩm cổ điển của trẻ em về văn chương, đến với những nghệ thuật tạo hình và đến với c a nhạc nâng cao tâm hồn. Vì văn chương phổ thông bao giờ cũng có được vị thế của mình nơi văn hóa mà không được chấp nhận một cách thụ động khuynh hướng cảm tình hóa thay thế cho việc học hỏi. Nếu vẻ đẹp, một thứ phản ánh thần linh, là những gì làm hứng khởi và sống động các con tim và khối óc trẻ trung, thì cái xấu xí và thô tục lại có một ảnh hưởng bại hoại đối với những thái độ và hành vi cử chỉ.
Như vấn đề giáo dục nói chung, vấn đề giáo dục truyền thông đòi phải huấn luyện về việc hành sử quyền tự do nữa. Đó là một công việc gay go. Bởi thế tự do mới thường được gợi lên như là một cuộc không ngừng tìm kiếm thỏa mãn hay những cảm nghiệm mới mẻ. Tuy nhiên, đó là một thứ lên án chứ không phải là một cuộc giải phóng! Tự do thật không bao giờ lên án con người hết – nhất là một con trẻ – về một thứ tìm cầu thiếu lành mạnh những gì là mới mẻ. Theo chiều hướng chân thực thì tự do chân chính được cảm nghiệm thấy như là một đáp ứng dứt khoát với ‘việc ưng thuận’ của Thiên Chúa đối với loài người, kêu gọi chúng ta hãy chọn không phải một cách bừa bãi mà là chủ ý tất cả những gì là thiện hảo, chân thực và mỹ lệ. Bởi vậy mà cha mẹ, thành phần là bảo quản viên của quyền tự do ấy, trong khi từ từ cho con cái mình được tự do hơn, hãy đưa chúng tới niềm vui sâu xa của cuộc sống (cf. Address to the Fifth World Meeting of Families, Valencia, 8 July 2006).
3. Ước muốn chân thành này của cha mẹ và thày cô trong việc giáo dục trẻ em theo những đường lối mỹ lệ, chân thực và thiện hảo cần phải được kỹ nghệ truyền thông hỗ trợ chỉ cần ở chỗ nó cổ võ phẩm vị căn bản của con người, giá trị đích thực của đời sống hôn nhân và gia đình, cũng như những chiếm đạt tích cực cùng với những mục tiêu của con người. Bởi thế mà nhu cầu cần truyền thông dấn thân cho việc huấn luyện cách hiệu nghiệm cũng như cho những tiêu chuẩn về đạo lý chẳng những được cha mẹ và thày cô mà còn được tất cả những ai có cảm thức về trách nhiệm dân sự đặc biệt để ý quan tâm và thậm chí cảm thấy khẩn trương.
Vì tin tưởng rằng nhiều người dự phần vào các phương tiện truyền thông xã hội muốn thực hiện những gì là đúng đắn (cf. Pontifical Council for Social Communications, Ethics in communications, 4), mà chúng ta cũng cần phải công nhận rằng những ai hoạt động trong lãnh vực này đang phải đối đầu với ‘các thứ áp lực đặc biệt về tâm lý cũng như các thứ nan giải đặc biệt về đạo lý’ (Aetatis novae, 19), những gì có những lúc chứng kiến thấy việc ganh đua về thương mại đã thúc đẩy các nhà truyền thông hạ thấp những tiêu chuẩn xuống thấp hơn. Bất cứ khuynh hướng nào muốn cung cấp những chương trình và những sản phẩm – bao gồm cả những phim hoạt họa và những trò chơi diễn ảnh – những gì nhân danh vấn đề chơi giải trí đề cao việc bạo động và gợi lên hành vi chống xã hội hoặc làm tầm thường hóa tính dục của con người, đều là bại hoại, lại càng ghê tởm hơn nữa khi những chương trình ấy nhắm đến thành phần trẻ em và thanh thiếu niên. Làm sao người ta có thể cắt nghĩa thứ ‘giải trí’ như thế với vô số giới trẻ vô tội thực sự chịu đựng bạo động, khai thác và lạm dụng đây? Về vấn đề này, tất cả mọi người sẽ cảm thấy rõ ràng khi suy nghĩ về cái tương phản giữa Chúa Kitô, Đấng ‘ôm lấy trẻ em đặt tay trên chúng và chúc lành cho chúng’ (Mk 10:16) với kẻ ‘dẫn đường chỉ lối sai lạc … những trẻ nhỏ này’, thành phần ‘tốt hơn… bị cột đá vào cổ’ (Lk 17:2). Một lần nữa, tôi kêu gọi các vị lãnh đạo kỹ nghệ truyền thông hãy giáo dục và khích lệ những ai sản xuất trong việc bảo toàn công ích, trong việc tuân hành chân lý, trong việc bảo vệ phẩm vị làm người của cá nhân và trong việc cổ võ vấn đề tôn trọng các nhu cầu của gia đình.
4. Chính Giáo Hội, theo chiều hướng của sứ điệp cứu độ được ký thác cho mình, cũng là một vị thày của nhân loại và lợi dụng cơ hội để cống hiến việc hỗ trợ cho cha mẹ, các giáo dục viên, những nhà truyền thông và giới trẻ. Các chương trình học đường và giáo xứ của Giáo Hội cần phải đi tiên phong trong việc giáo dục truyền thông ngày nay. Nhất là Giáo Hội mong muốn chia sẻ một nhãn quan về phẩm vị con người là tâm điểm c ho tất cả mọi thứ truyền thông xứng đáng của con người. ‘Nhìn bằng đôi mắt của Chúa Kitô, tôi có thể cống hiến cho những người khác nhiều hơn là những nhu cầu bề ngoài của họ; tôi có thể trao tặng họ cái nhìn yêu thương họ thèm khát’ (Thông Điệp Thiên Chúa là Tình Yêu, 18).
Tại Vatican ngày 24/1/2007, Lễ Thánh Pahnxicô Salêsiô,
Giáo Hoàng Biển Đức XVI
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn
cầu của Tòa Thánh
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/messages/communications/documents/hf_ben-xvi_mes_20070124_41st-world-communications-day_en.html
Mùng 5 tháng 2 hôm nay là đúng một năm, kể từ khi Linh Mục Andrea Santoro bị ám sát đang khi cầu nguyện trong nhà thờ giáo xứ Trebzon bên Thổ Nhĩ Kỳ. Cái chết của cha cũng như vụ ám sát nhà báo Hrant Dink gốc Armeni ngày 19 tháng Giêng vừa qua, khiến cho các quan sát viên quốc tế càng xác tín rằng Thổ Nhĩ Kỳ cũng đang bị các tổ chức hồi giáo cực đoan xâm nhập và ảnh hưởng nặng.
Nhà báo Dink đã tự định nghĩa mình là ”công dân Thổ Nhĩ Kỳ có nguồn gốc Kitô Armeni”, nhưng công khai tranh đấu để nhà nước Thổ phải thú nhận các lỗi lầm và trách nhiệm của mình đối với cuộc diệt chủng Armeni. Vì trong các năm từ 1914 đến 1917 chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ đã sát hại 1 triệu rưỡi người Armeni.
Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận định của Đức Cha Luigi Pavese, Giám Quản Tông Tòa Anatolia, về các khó khăn và niềm hy vọng của Giáo Hội Công Giáo tại Thổ Nhĩ Kỳ.
Hỏi: Thưa Đức Cha, từ nhiều phía người ta ghi nhận sự tương tự giữa vụ ám sát Linh Mục Andrea Santoro ngày mùng 5 tháng 2 năm ngoái và vụ ám sát nhà báo Kitô Hrant Dink ngày 19 tháng Giêng vừa qua. ”Lữ đoàn báo oán Thổ”, một nhóm của ”Lực Lượng Chó Sói Nâu” là phong trào ái quốc quá khích hồi giáo Thổ, đã thú nhận là thủ phạm của cả hai vụ ám sát. Trong một điện thư gửi trên hệ thống Internet nhóm này viết: ”Sau Linh Mục Santoro, chúng ta đã loại trừ một kẻ thù khác nữa của Thổ Nhĩ Kỳ”. Đức Cha nghĩ gì về các sự kiện này?
Đáp: Tôi không muốn thay thế giới thẩm
phán, nhưng chắc chắn là có các lý do để âu lo. Sự kiện nhà báo Dink cũng đã bị
ám sát trong vùng Trebzon, nơi có các nhóm ái quốc hồi cực đoan hoạt động mạnh,
là một sự kiện ý nghĩa chứng minh cho điều này. Cách đây mấy ngày thân nhân của
nhà báo Dink có nói với tôi rằng: nếu người ta đã làm sáng tỏ vụ ám sát Linh Mục
Santoro, thì có lẽ ông Dink đã không chết. Và tôi cũng nghĩ như thế. Rõ ràng là
có việc dưỡng nuôi thái độ thù hận và chống đối các Kitô hữu, chống lại người
Armeni và tất cả những ai, mà các nhóm này cho rằng chống lại ”các lợi lộc của
quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ”.
Hỏi: Liên quan tới điều này ngày 29 tháng Giêng vừa qua, thủ tướng Erdogan
của Thổ Nhĩ Kỳ tuyên bố rằng ông muốn xét lại, nhưng không hủy bỏ khoản 301 của
hình luật, phạt ”các xúc phạm đến căn tính Thổ”. Đây là luật thường được dùng để
bịt miệng mọi chống đối, có phải thế không thưa Đức Cha?
Đáp: Dư luận đang gây áp lực rất mạnh liên quan tới điều này. Dân
chúng đòi hỏi nhiều tự do tư tưởng và tự do phát biểu hơn. Cả Liên Hiệp Âu Châu
cũng lên tiếng yêu cầu chính quyền Thổ có các biện pháp theo chiều hướng này.
Chúng ta đợi xem có các thay đổi nòng cốt hay không, hay chỉ là những thay đổi
bề ngoài mà thôi.
Hỏi: Sự kiện đông đảo dân chúng đã tham dự đám táng nhà báo Dink có là dấu hiệu cho thấy có sự thay đổi nào đó trong xã hội dân sự Thổ Nhĩ Kỳ hay không thưa Đức Cha?
Đáp: Trong đám táng nhà báo Dink, tôi bị đánh động mạnh bởi các biểu ngữ viết: “Chúng tôi tất cả là người Armeni”, và bởi sự hiện diện của rất đông người hồi giáo. Và đó là các dấu chỉ của ước muốn có sự thay đổi đích thực giữa đa số dân chúng. Tôi cũng bị đánh động bởi quyết định của Bộ Nội Vụ Thổ Nhĩ Kỳ thay đổi ông thị trưởng và cảnh sát trưởng vùng Trebzon, vì họ đã tìm cách giảm thiểu tầm quan trong của vụ ám sát nhà báo Dink và các liên hệ giữa các tay sát nhân và các nhóm quốc gia qúa khích. Như qúy vị thấy đó, chúng ta đang đứng trước các dấu chỉ trái nghịch nhau. Số dân chúng đông đảo tham dự đám táng chứng minh cho thấy, nói chung, xã hội Thổ Nhĩ Kỳ là một cái cây lành mạnh và có khả năng phản ứng cả trên bình diện công cộng chống lại các đe dọa nhằm chia rẽ và phân tán họ. Nhưng cũng không được coi thường một số rễ bệnh hoạn ung thối của cái cây đó, và chúng có thể lây sang các rễ cây khác.
Hỏi: Như thế có thể làm gì để ngăn chặn việc lây bệnh này thưa Đức Cha?
Đáp: Các chính quyền dân sự cần phải hành động một cách quyết liệt hơn. Ngoài việc tìm ra tông tích các thủ phạm, cũng còn phải nhận diện các môi trường làm nảy sinh ra các hành động giết người nữa. Có các thầy dậy xấu xa giáo huấn người trẻ sống thù hận và bất khoan nhượng, và ảnh hưởng của họ ngày càng lớn đối với giới trẻ. Từ phía hàng lãnh đạo hồi giáo, cần phải mạnh mẽ công khai lên án phong trào qúa khích và những người lạm dụng tôn giáo để biện minh cho bạo lực. Báo chí Thổ Nhĩ Kỳ đã đăng lời kinh khủng của người ám sát nhà báo Dink nói rằng: ”Tôi đã cầu nguyện ngày thứ sáu và rồi tôi đã giết ông ta”.
Hỏi: Đức Cha nghĩ gì về vụ xử án thủ phạm ám sát cha Santoro, một thanh niên 16 tuổi; tòa đã kết án anh ta 18 năm tù?
Đáp: Riêng cá nhân tôi, tôi cảm thấy cay đắng và không được thỏa mãn, vì vụ án đã không đưa ra ánh sáng các lý do và truy tầm các người chủ mưu giết cha Santoro, mà chỉ lên án một mình thanh niên bất bình thường tâm trí như vậy. Vụ xử án đã diễn ra kín đáo, vì bị can là một người trẻ vị thành niên. Chúng tôi chỉ biết những gì báo chí tường thuật. Hiện nay người ta vẫn chờ đợi văn bản viết của bản án. Nó vẫn chưa được chuyển tới cho giới chức thẩm quyền Italia, để có thể lượng định các bước cần làm trong lãnh vực tư pháp. Sự thật toàn vẹn không chỉ là điều đòi buộc đối với một phía, mà là thiện ích của toàn dân nước Thổ Nhĩ Kỳ.
Hỏi: Tình hình nhà thờ giáo xứ Trebzon hiên nay ra sao thưa Đức Cha?
Đáp: Hiện nay giáo xứ có một Linh Mục Ba Lan và một gia đình cộng sự viên người Rumani giúp việc. Cuộc sống của giáo xứ khó khăn. Số Kitô hữu ít ỏi, và họ bị cô lập hóa. Nhưng mọi người tiếp tục con đường mà cha Santoro đã vạch ra, và con đường đó đã đem lại hoa trái: họ chia sẻ cuộc sống thường ngày trong tinh thần đơn sơ và khiêm tốn, làm chứng tá cho Tin Mừng và tiếp đón mọi người tới gặp vì tò mò hay vì ước mong tìm hiểu Kitô giáo thực sự.
Hỏi: Chuyến viếng thăm mục vụ tại Thổ Nhĩ Kỳ của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã để lại những gì thưa Đức Cha?
Đáp: Bầu khí xã hội Thổ Nhĩ Kỳ có thư giãn hơn, và ít thù nghịch với Kitô giáo hơn. Sự qúy mến mà Đức Thánh Cha đã biểu lộ đối với dân nước Thổ Nhĩ Kỳ và lòng qúy trọng đối với người hồi giáo và lòng tin của họ, sự đơn sơ và thân tình mà Đức Thánh Cha bầy tỏ đối với họ khi gọi họ là ”các bạn”, đã là những yếu tố định đoạt giúp vượt thắng nhiều thành kiến, được chuyền tai nhau trước khi Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đến Thổ Nhĩ Kỳ. Cả thái độ của chính quyền cũng giúp cho chuyến viếng thăm diễn tiến tốt đẹp và không bị quấy rầy. Ngoài ra tôi cũng xin nói thêm rằng: có biết bao lời cầu nguyện của tín hữu trên toàn thế giới đã tháp tùng Đức Thánh Cha trong chuyến viếng thăm xem ra nguy hiểm này. Nhiều người đã nói với tôi là họ phó thác chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha cho Chúa Quan Phòng. Và tôi tin là Chúa Quan Phòng đã làm việc rất là tốt đẹp.
Hỏi: Đâu là những khó khăn chính mà Giáo
Hội phải đương đầu tại Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay thưa Đức Cha?
Đáp: Chính quyền đã tịch thu rất nhiều cơ sở của Giáo Hội như: các nhà
thờ, nhà thương, trường học, trung tâm giáo dục vv... Cần phải thành lập một Ủy
Ban song phương để giải quyết vấn đề trao trả lại cho Giáo Hội các cơ sở này và
tìm ra giải pháp và phương thế tốt đẹp duy trì danh dự cho cả hai bên. Sự kiện
Giáo Hội không có tính cách thể nhân khiến cho mọi sự trở thành khó khăn hơn.
Chính vì thế nên cách đây mấy hôm trong buổi tiếp kiến tân đại sứ Thổ Nhĩ Kỳ
cạnh Tòa Thánh, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã yêu cầu chính quyền Thổ chính thức
thừa nhận tính cách thể nhân của Giáo Hội. Thế rồi còn có các vấn đề gắn liền
với kiểu trình bầy Kitô giáo trong các sách giáo khoa, sự thù nghịch hiện diện
trong một phần của xã hội, nó thường nảy sinh từ sự dốt nát và các thành kiến.
Hỏi: Như thế có thể làm gì để thắng vượt tình trạng này thưa Đức Cha?
Đáp: Trước hết là xây dựng các liên hệ tình bạn trong cuộc sống thường ngày, để cho thấy cái hay đẹp của lòng tin Kitô và ước mong cùng nhau xây dựng tương lai Thổ Nhĩ Kỳ. Tiếp đến là trình bầy Kitô giáo một cách trung thực, với sự trợ giúp của các phương tiện truyền thông do Giáo Hội thăng tiến. Năm ngoái chúng tôi đã thành lập một địa chỉ trên Internet, và chúng tôi đang cố gắng thành lập một đài phát thanh, phát các chương trình thông tin. Chuyến công du của Đức Thánh Cha cũng đã giúp thay đổi lập trường của các phương tiện truyền thông Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng chúng tôi phải làm sao để tiếng nói của Giáo Hội Công Giáo trực tiếp đến với các gia đình, mà không bị lựa lọc và làm cho méo mó đi.
Hỏi: Đức Cha không sợ bị tố cáo là chiêu dụ tín đồ hay sao?
Đáp: Chiêu dụ cái gì đâu! Chúng tôi chỉ muốn nói cho biết chúng tôi là ai, mà không nhắm mục đích nào khác, và cũng không sợ hãi, khúm núm. Dầu sao đi nữa thì Thỗ Nhĩ Kỳ cũng phải chấp nhận đương đầu với thách đố của sự tự do tôn giáo. Nó là bước tiến cần thiết cho việc gia nhập Liên Hiệp Âu Châu. Các vụ ám sát Linh Mục Santoro và nhà báo Kitô Sink chứng minh cho thấy có người chống lại tiến trình gia nhập này, nhân danh sự hiểu lầm về căn tính hồi giáo của quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ. Chúng tôi nghĩ rằng Liên Hiệp Âu Châu phải đưa ra các đòi hỏi đối với Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng không khép kín đối với việc gia nhập Liên Hiệp. Các thảo luận kinh tế thôi không đủ, cần phải có các dấu chỉ tiến bộ cụ thể liên quan tới việc tôn trọng các quyền con người và quyền tự do tôn giáo và tự do tư tưởng nữa.
Linh Tiến Khải
Radio Vatican
Bài Phỏng Vấn Ðức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn về Hội nghị Giáo Huấn của Giáo Hội về Xã Hội và chuyến thăm di dân Việt Nam ở Thái Lan.
Saigòn, Việt Nam (3/02/2007)
Hỏi 1: Thưa Ðức Hồng Y, tuần vừa qua, Ðức Hồng Y đi dự Hội nghị ở Thái Lan, xin cho chúng con biết chủ đề của Hội nghị và các thành phần tổ chức và tham dự Hội nghị.
Ðức Hồng Y Phạm Minh Mẫn: Hội Ðồng Giáo Hoàng về Công Lý và Hoà Bình cùng với Liên Hội Ðồng Giám Mục Á châu và Hội Ðồng Giám Mục Thái Lan tổ chức Hội nghị về Giáo Huấn của Giáo Hội về Xã Hội tại Trung Tâm Huấn Luyện Mục Vụ "Baan Phu Waan" cách Bangkok lối một giờ xe về hướng Tây Nam. Có trên 150 tham dự viên, đại diện cho Vatican và 17 Hội Ðồng Giám Mục Á châu. Ðức Hồng Y Martino, chủ tịch Hội Ðồng Giáo Hoàng về Công Lý và Hoà Bình trình bày Bản Tóm Giáo Huấn của Giáo Hội về Xã Hội. Một số chuyên viên Á châu trình bày về việc ứng dụng vào bối cảnh xã hội, kinh tế, chính trị, văn hoá của Châu Á. Ðại diện 17 Hội Ðồng Giám Mục tại Châu Á trình bày và thảo luận về việc áp dụng tại mỗi Giáo Hội địa phương. Tôi có bài tham luận đính kèm.
Hỏi 2: Nhân việc Ðức Hồng Y đi thăm di dân Việt Nam tại Mã Lai và Thái Lan, xin Ðức Hồng Y cho biết vài nét về tình hình di dân Việt Nam trong thế giới toàn cầu hoá hôm nay, Giáo Hội Công giáo Việt Nam phải chăm lo mục vụ cho người công giáo di dân như thế nào?
Ðức Hồng Y: 1. Tình hình di dân Việt Nam trong thế giới hôm nay:
a. Di dân nội địa. Tôi không rõ con số trong cả nước. Riêng TP. Saigòn đã có trên 2 triệu người trẻ và một số gia đình nhập cư tìm việc làm, hoặc học tập. Ða số (70%?) tìm được công ăn việc làm. Một số còn lại (nhiều trăm ngàn?) được thu nhận vào những đường dây buôn ma túy, buôn phụ nữ và trẻ em, tổ chức mãi dâm. Và từ đó phát sinh những tệ nạn xã hội cùng dịch HIV/AIDS ngày càng lan rộng đến độ, theo báo cáo của Bộ Y Tế vào cuối năm 2006, 92% làng xã trong cả nước có người nhiễm HIV?
b. Di dân ra nước ngoài. Có 3 loại:
(1) trên 3 triệu di dân Việt Nam đi lập nghiệp sinh sống ở lối 90 nước và vùng lãnh thổ khắp cả 5 châu. Trong số đó, có hơn 1 triệu 3 ở Hoa Kỳ, 245,000 ở Úc, 200,000 ở Canada, 100,000 ở Ðức, 100,000 ở Nga...
(2) loại 2 là trong thập niên vừa qua, nhiều trăm ngàn đi lao động, nhiều chục ngàn đi kết hôn, ở Ðài Loan, Hàn Quốc, Mã Lai...
(3) loại 3 là nhiều chục ngàn đi du học ở nhiều Châu khác nhau...
2. Nhu cầu của người di dân Việt Nam
Thoát ra khỏi nếp sống truyền thống văn hoá, gia đình và xã hội Việt Nam, bước đầu người di dân Việt Nam, đặc biệt những người đi lao động hay lập gia đình nói chung, cảm thấy hụt hẫng, lạc lõng, mất hướng trong môi trường xa lạ. Vì chưa quen ngôn ngữ và văn hoá địa phương, họ cảm thấy như bổng nhiên mình trở nên điếc, câm, mù, què trong xã hội mới. Họ cần được giúp đỡ để có thể hội nhập cách lành mạnh vào đời sống xã hội mới. Di dân công giáo cần chỗ dựa, cần người hướng dẫn và giúp đỡ để sống và củng cố niềm tin, để hội nhập vào đời sống và các sinh hoạt tại Giáo Hội địa phương. Tại một số nơi, may là có những linh mục, tu sĩ cũng di dân, nhưng để du học, hoặc để dạy học. Những vị nầy có thể góp phần lo mục vụ di dân cho các bạn công giáo di dân... Nhu cầu hiện tại, đặc biệt tại một số nước Á Châu, thì mênh mong, Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam hôm nay lại chưa đủ nhân sự để lo mục vụ di dân ở các nơi... Tôi đang cố gắng tìm cách tìm người và kêu gọi một số dòng tu tiếp tay lo mục vụ di dân tại một số nơi có nhu cầu cấp thiết...
Hỏi 3: Biến cố ngày 25.1.2007 vừa qua Thủ Tướng Việt Nam gặp gỡ Ðức Giáo Hoàng Bênêđitô XVI đã gây nhiều chú ý nơi mọi thành phần trong giáo phận, Ðức Hồng Y nhận định ra sao về biến cố nầy?
Ðức Hồng Y: Ngay ngày 25.1. 2007, tôi đang dự Hội nghị ở Thái Lan, Ðức Khâm Sứ Toà Thánh tại Thái Lan, đến ngồi cạnh bên tôi, và nói rằng ngài rất quan tâm đến biến cố nầy. Hôm sau, ngài lại tìm tôi và trao cho các bản tin từ internet... Sau đó, có người phỏng vấn tôi với những câu hỏi tương tợ. Tôi có trả lời rằng biến cố trên là dấu hiệu báo tin vui: (1) Việt Nam và Vatican cùng đồng hành trên một con đường đối thoại; (2) đôi bên điều bày tỏ thiện chí muốn hợp tác nhằm phục vụ cho sự sống và phẩm giá của dân tộc Việt Nam cũng như của Giáo Hội tại Việt Nam.
Hỏi 4: Người ta đồn rằng vấn đề bang giao giữa Toà Thánh và Việt Nam sắp sửa được thiết lập?
Ðức Hồng Y: Ở Thái Lan, có phóng viên cũng hỏi tôi câu hỏi tương tợ. Tôi có trả lời rằng trong bối cảnh mới, tôi hy vọng như thế. Bối cảnh mới là Việt Nam gia nhập WTO, Giáo Hội tại Việt Nam không còn bị coi như một thế lực chống Nhà Nước cộng sản Việt Nam, song được nhìn như người góp phần xây dựng và phát triển lành mạnh và vững bền đất nước Việt Nam. Về đến nhà, tôi được tin đoàn Vatican sắp sang Việt Nam vào đầu tháng 3.2007, và muốn biết ý kiến Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam về một số vấn đề, trong đó có việc lập bang giao với Việt Nam. Tôi cũng nghe tin không chánh thức từ Thành Phố (Saigòn) hình như trong nội bộ Nhà Nước vấn đề đang được bàn luận. Ðồng thời tôi cũng nghe tin khác dè dặt hơn, cho rằng có lẽ nên tìm hiểu thêm quan điểm lập trường của người bạn láng giềng Trung Quốc?
Hỏi 5: Những kiến nghị Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam gởi đến Nhà Nước, như về Toà Khâm Sứ ở Hà Nội, đất La vang tại Huế, Giáo Hoàng Học viện tại Ðà Lạt, cũng như miếng đất của giáo phận ở phía sau Trung tâm Mục vụ... đã giải quyết đến đâu?
Ðức Hồng Y: Hôm tháng 11.2007, Chủ Tịch Nước có hứa từng bước giải quyết. Riêng về miếng đất của giáo phận ở phía sau Trung Tâm Mục vụ, tôi chưa có văn bản đề nghị giao lại cho giáo phận. Tôi dự kiến đề nghị giao lại trước cơ sở nhà thờ Bình Triệu phía ngoài đường, hiện trường Luật đang sử dụng. Sau đó mới có văn bản về miếng đất sau Trung Tâm Mục Vụ, nhằm xây dựng Thư viện cho Giáo Hội Việt Nam. Có một bà lão đến gặp tôi và góp ý rằng, trước khi làm gì, Ðức Hồng Y hãy kêu gọi mọi thành phần dân Chúa trong giáo phận cầu nguyện cho. Vậy nhân đây, tôi xin bà con giáo dân, tu sĩ, linh mục trong giáo phận hãy kiên trì cầu nguyện theo ý đó. Chân thành cám ơn mọi thành viên trong gia đình giáo phận.
BGCN
Họ hàng và người thân thích cùng sống chung trong một xóm. Người ta gọi là hàng xóm, nhiều hàng xóm họp lại có một tổ chức, một luật lệ, người ta gọi là làng xã. Từ những ý niệm ấy chúng ta cùng tìm hiểu hơn về tính làng xóm Việt Nam để xây dựng khu xóm thành cộng đoàn đức tin.
1. Làng xã Bắc bộ:
Luỹ tre làng ngày xưa gắn chặt với đời sống tình cảm của người Việt, bởi vì trong luỹ tre làng ấy, người Việt còn gắn bó với nhau bằng họ hàng huyết thống. Mối tương quan mật thiết căn bản là gia đình, nhiều gia đình liên kết với nhau bằng huyết thống gọi là gia tộc hoặc gọi là họ. Gia tộc là một tổ chức khá đầy đủ bao gồm: Tộc trưởng, nhà thờ họ, từ đường, gia phả, ruông kỵ, giỗ tổ, giỗ họ,…Làng có thể là một nơi của một họ hay hai hoặc ba họ cùng sống với nhau: Ví dụ Làng Cao Xá, Lê Xá, Trần Xá là làng của những người dòng họ Cao, họ Trần, họ Lê sinh sống.
Từ quan niệm làng nuớc, họ hàng đến đố kị và khó hợp tác.
Một giọt máu đào hơn ao nước lã là một quan niệm ruột thịt của người Việt Nam , chung nhau một giọt máu đào nên họ gắn kết với nhau trong chuyện vui cũng như chuyện buồn. Có khi chỉ vì giọt máu đào mà cả họ có thể bênh vực ngay cho cả việc sai traí của thành viên nào đó trong gia đình. Không để tới vấn đề đúng sai nhưng điều quan trọng là phải bênh vực cho giọt máu đào trong đại gia đình của mình. Mỗi một họ sống trong làng là một đơn vị toàn vẹn, không những chỉ bảo vệ quyền lợi vật chất mà còn bảo vệ thanh danh cho nhau. “Một người làm quan cả họ được nhờ” là biểu hiện quan niệm ấy.
Cũng từ quan niệm giọt máu đào, dù họ có đi đến đâu, sống xa quê, họ cũng gắn lại với nhau bằng một cộng đoàn, được gọi là đồng hương. Tính cách này nếu đạt tới việc gắn bó với nhau để xây dựng một cộng đoàn lớn hơn thì quá tốt, nhưng sự thường cũng theo nghĩa chặt ngày xưa “làng nước” , có nghĩa là mỗi làng đều uống một nguồn nước khác nhau, nên phải giữ lấy chứ không đem chia cho người khác. Chính vì tư tưởng cục bộ của nền văn minh nông nghiệp “làng nước” xưa kia mà những người đồng hương hôm nay cũng chia rẽ nhau bằng những hơn thua. Sự đời hơn thua nhau, từ ấy sinh ra lòng ghen ghét, đồng hương này chê bai đồng hương khác, có khi bôi lọ lẫn nhau để đạp nhau mà đi lên, những ngày hội họp đồng hương trở thành biểu dương lực lượng, đánh mất đi truyền thống tốt lành yêu thương đùm bọc lẫn nhau: “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống mà chung một dàn”.
Văn minh làng xã, do nhu cầu đi lại không thuận tiện, hơn nữa tính cách căn bản của ngành nghề nông nghiệp là định cư, nên cũng tồn đọng một quan niệm bất hợp tác. Làng nào biết làng nấy, “ Trống làng nào, làng nấy đánh, Thánh Làng nào, làng nấy thờ” hôn nhân thường là với những người trong làng, mỗi làng có một nghành nghề nhất định, chỉ có tính cách gia truyền chứ không có tính cách mở rộng có tính khoa học. Chính yếu tố này làm cho người Việt khó làm việc chung với nhau được.
Óc gia trưởng: “sống lâu lên lão làng” là một quan niệm xưa kia và nay vẫn còn, già thì kinh nghiệm, lấy kinh nghiệm cản trở những đột phá của tuổi trẻ và thường người lớn lấy quyền của mình lấn át kẻ bé. Gia tộc là có tôn ti trật tự nên ít nhiều gì cũng không thể bình đẳng tạo nên một não trạng gọi là :”óc gia trưởng”. Người cầm quyền là người mạnh thế, nên cái đúng cái sai cũng tuỳ theo tình cảm của người trên xem xét, cho nên mọi người đều ép mình vào trong cái luật lệ ấy, người ta nói: “Phép vua thua lệ làng” là như thế.
Gia đình trị: “Con Vua thì lại làm Vua”, mỗi khi có quyền hành trong tay, thường lại theo tình cảm con ông cháu cha, mà xếp đặt cho nhau những chỗ tốt trong các vai vế trong làng. Mang tính cách gia đình trị, thì khó phát triển, có những người tài giỏi thường bỏ xứ mà đi vì không có chỗ trong gia đình trị. Có ai ngờ đâu cuộc sống nông thôn bình dị, mộc mạc, mà cũng nhiều điều phức tạp đến thế.
Tính cách nước đôi của văn hoá làng xã cũng là kết quả của lối tư duy tổng hợp: “Người Việt đồng thời vừa có tinh thần đoàn kết tương trợ vừa có óc tư hữu, ích kỷ và thói cào bằng; vừa có tính tập thể hoà đồng lại vừa có óc bè phái, địa phương, vừa có nếp sống dân chủ bình đẳng lại vừa có óc gia trưởng tôn ti; vừa có tinh thần tự lập vừa có sự thủ tiêu vai trò cá nhân; vừa có tính cần cù và nếp sống tự cấp tự túc lại vừa có thói dựa dẫm, ỷ lại.” (Trần Ngọc Thêm).
2. Làng Nam Bộ.
Thời Nhà Nguyễn, Đồng bằng Nam Bộ được phát triển, được thiên nhiên ưu đãi người thưa đất rộng, người dân thường sống ven sông, bởi vì ngày ấy sông rạch là phương tiện di chuyển chính yếu. Các làng xã không rõ nét như các làng xã Bắc bộ. Tính cách làng xã của miền Nam cũng khác, do thiên nhiên ưu đãi, cuộc sống cũng không mấy khó khăn, nên cũng phóng khoáng hơn. Cuộc sống có thể cứ thanh nhàn vài ba con cá, dăm ba chén rượu là đủ thoải mái. Những yếu tố đó làm cho người miền Nam có tính dễ dãi, dễ thích nghi, dễ hoà hợp, ít bảo thủ và có khi cũng chẳng quan tâm lắm về việc cất giữ.
3. Xây dựng khu xóm sống hiệp nhất và yêu thương.
Tính truyền thống làng xóm xây dựng một căn bản cho đời sống chung là sự Hiệp Nhất, Hiệp Nhất có nghĩa là trở nên Một, Một trong sự đa dạng, phong nhiêu, làm dồi dào cho sự sống. Có những cản trở bế tắc trong khung làng xóm trước đây, nên khi xây dựng làng xóm theo đức tin, các yếu tố bất lợi kia cần được thanh tẩy trong thời đại mới. Tôn trọng nền văn hoá, có nghĩa là bảo tồn và phát triển những giá trị tốt đẹp của nền văn hoá ấy, những trái sâu cần nhặt bỏ đi, để có thể tạo nên môi trường sống chung thuận lợi và phát triển cho phẩm giá của con người . Đức Giáo Hoàng gửi tới các bạn trẻ lời mời gọi trong sứ điệp ngày cầu nguyện cho thế giới hoà bình 1- 1- 2001 :“Hỡi các bạn trẻ thuộc mọi ngôn ngữ và văn hoá, một trách nhiệm cao cả và phấn khích đang chờ đợi các con: trở nên những người nam và nữ có khả năng xây dựng tình liên đới, hoà bình và tình yêu sự sống, trong sự kính trọng nhau. Chúng con hãy trở nên những nhà sáng tạo một nhân loại mới, nơi mà anh chị em, thành viên chung một gia đình, có thể sống trong hoà bình ! ” .
Tính làng xóm còn là một môi trường tốt để xây dựng đời sống thân hữu, tương trợ lẫn nhau để hình thành nên một cộng đoàn Đức Ai. Làng xóm, là nơi mà con người có thể gặp gỡ và chia sẻ với nhau trong niềm tin. Ngày xưa, các gia đình trong khu xóm thường tụ họp với nhau đọc kinh, chia sẻ Lời Chúa, khung cảnh ấy cần được khôi phục lại trong bối cảnh nhiều cái xấu đang ảnh hưởng như ngày hôm nay. Chúng ta không cần tìm xa xôi ở đâu hơn cả, ngay giữa cộng đoàn chúng ta, chúng ta vẫn nghe lại lời Chúa Giêsu: "Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn" (Mt 14, 16; Mc 6, 37).
Đời sống đức tin của khu xóm dồi dào động lực truyền giáo, khi khu xóm liên kết với nhau trong yêu thương, trong kinh nguyện. Thời kỳ đầu của Giáo Hội Việt Nam, người ta vẫn thường gọi đạo Công Giáo là “Đạo của những người yêu thương nhau”. Tình làng nghĩa xóm có một giá trị đích thực như vậy khi theo đúng lối mở của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu được gọi là người Nazaret (x Mt 2, 23), và làng xóm vẫn là nơi Chúa Giêsu được lớn lên trong thời thơ ấu của các em thiếu nhi hôm nay. Xin Chúa giúp chúng con có thể tạo dựng được môi sinh khu xóm tốt lành, để con cháu chúng con được lớn lên trong ân sủng của Chúa.
Lm Giuse Hòang Kim Toan
Lc 6: 17, 20-26
“Em đi hạnh phúc hồng tươi,
Anh nhìn tận mắt cuộc đời đẹp sao.”
(thơ Nguyễn Bính)
Vâng. Cuộc đời bao giờ mà chẳng đẹp. Đời vẫn đẹp, chẳng phải vì anh “nhìn tận mắt thấy em đi”. Nhưng đúng hơn, đời rất đẹp là vì cả em lẫn anh và nhiều người khác, vẫn cứ ra đi. Tất cả đã ra đi thực hiện lời dặn dò của Đức Chúa. Ra đi, để truyền đạt hạnh phúc hồng tươi, Chúa đã hứa. Hạnh phúc rất hồng và mãi mãi cứ tươi vui, nếu người người biết lắng nghe lời Ngài dặn dò. Biết thực hiện điều Ngài dạy bảo, lúc ra đi.
Lời dạy của Đức Chúa hôm nay, có lẽ tạo nhiều xúc cảm cho hầu hết con dân đi Đạo, kể cả chúng ta. Thoạt nghe sơ, hẳn nhiều người đều tỏ ý đồng thuận, không mảy may thắc mắc. Chẳng có gì phải bận tâm. Nhưng, ra đi thực hiện đúng Lời Ngài, vẫn không là chuyện dễ làm. Chuyện không dễ, là bởi cả em lẫn anh và tất cả mọi người, vẫn coi đó là chuyện nghiêm túc, rất nên chuyên.
Chuyện nghiêm túc hôm nay, là: ta thường có thói quen tách rời cuộc sống thực tế với niềm tin đi Đạo. Quả là, khi được chia sẻ lời Ngài từ miệng một vị linh mục hay phó tế, ta đều thấy đúng. Đều có quyết tâm. Nhưng, khi rời khỏi nguyện đường ra về với cuộc sống thực tế, dường như ta đã để trôi vào dĩ vãng những lời vàng ngọc ngàn năm về trước:
“Phúc cho anh em là những kẻ nghèo, đói và đang khóc than, vì Thiên Chúa là của anh em”; và: Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, no nê, đang vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ, những khóc than.”
“Hạnh phúc hồng tươi” Ngài tặng, vẫn khác với những gì lâu nay ta nghe biết. Nghe từ phương tiện truyền thông. Biết do mọi người truyền đạt. Với xã hội loài người, đời chỉ đẹp khi ta giàu có, sang trọng. Giàu sang, là mức đo hạnh phúc hồng tươi, với con người. Giàu sang, là thực trạng của cuộc sống có những ganh đua vật chất. Có những ghét ghen hờn giận, hơn thua.
Chính vì chỉ muốn giàu và sang, nên người người dễ có thói quen “ngồi mát ăn bát vàng”. Ung dung hưởng thụ, chứ không thích vất vả như người nghèo. Phần đông, huởng thụ rất nhiều. Đã huởng thụ tối đa, nhưng lúc nào cũng như vẫn còn thiếu. Vì thế, người người vẫn muốn giàu hơn nữa. Hưởng nhiều hơn. Lâu hơn.
Giàu và sang, là trạng thái sống rất bon chen. Thích hưởng lạc và chẳng cần biết đến nguời cận thân và cận lân, nghèo đói ra sao. Chẳng bận tâm gì những người nghèo đang chực chờ các mẩu thặng dư “cơm thừa canh cặn” do người giàu bỏ mứa. Chực chờ để kiếm chút độ thân. Sống qua ngày. Với thế giới đương đại đầy ắp phương tiện kiến tạo hạnh phúc hồng tươi hôm nay, tỷ lệ người nghèo vì thế vẫn mãi gia tăng. Tăng đến độ quay cuồng, gây kinh ngạc.
Về với cảnh đời cơ cực của người nghèo ở khắp nơi, ta nào thấy “cuộc đời đẹp” như tranh vẽ, để nhìn tận mắt. Nhìn như người anh, người em đã ra đi với hạnh phúc, rất hồng tươi. So sánh với thời lúc trước, ta chẳng thấy gì khác lạ đổi thay với lớp nghèo thành thị, thời của Chúa. Có khác chăng, chỉ là khoảng cách vời vợi giữa những người giàu sụ với đa số giới nghèo. Phương tiện tạo hạnh phúc hồng tươi, vẫn nằm trong tay đám thiểu số sống trong tháp ngà. Họ là những người chẳng ngó ngàng chuyện giùm giúp bố thí. Dù chỉ phần nhỏ gia tài để làm đẹp cuộc đời mọi dân đen.
Thực tế cho thấy: “hạnh phúc hồng tươi” chính là lời chúc Đức Kitô dành để cho những người nghèo hèn, kém may mà thôi. Nơi đây thấy rõ, “hạnh phúc hồng tươi” Ngài tặng ban cho người nghèo, chẳng phải vì họ có lòng Đạo hơn đám khá giả, dư ăn. Sở dĩ, người cùng đinh - mạt hạng được chúc phúc, là vì Đức Chúa thật lòng yêu thương họ. Thương yêu đến độ hy sinh chính mạng sống của Ngài, để mọi người được nhìn tận mắt cuộc đời đẹp tươi.
Lại nữa, Chúa yêu người nghèo, chẳng phải vì họ thuộc giống giòng hào kiệt hoặc tốt bụng hơn ai. Nhưng, vì họ quá nghèo và quá sầu khổ để nghĩ được rằng mình có thể đạt thứ “hạnh phúc hồng tươi”, Ngài dành sẵn. Thành thử, nghèo đói còn là tình trạng sống đốn mạt của những nguời không sở hữu được điều tối thiểu trong nhận thức, nữa. Nói khác đi, cuộc sống của người luôn ở dưới mức tiêu chuẩn, cả về tinh thần lẫn vật chất, để sống cho ra sống. Sống đúng phẩm cách con người.
Với ngôn ngữ đời thường, nghèo và khổ là tình trạng sống còn của những người đang đắm chìm trong biển sầu, bể khổ. Những người đang kéo dài những ngày tháng thiếu thốn tài nguyên tối thiểu để có được cuộc sống hợp nhân cách. Hiển nhiên, đây không là hình phạt hoặc sự bất ưng Chúa gửi đến. Nhưng, chính là hệ quả của những đối xử giữa loài người, với nhau.
Ở đây nữa, lời dặn Chúa gửi đến không là lời hứa cho một tương lai sáng lạn. Cũng chẳng là lời khích lệ vẫn nghe quen từ các chính-trị-gia-mong-kiếm-phiếu. Lời Ngài, đích thực là một khẳng định về sự thật mà mọi người cần biết.
Khẳng định Đức Kitô đưa ra hôm nay là sự thật mà những người không đến nỗi nghèo như chúng ta, cần quan tâm. Bởi, chúng ta là những người được vinh dự nghe biết về sự thật Chúa trao ban. Và, chúng ta đều được mời gọi để trở thành tác nhân cho tình yêu của Thiên Chúa. Quả thật, người nghèo rất cần kinh nghiệm về tình yêu thương cứu độ của Thiên Chúa. Họ chỉ có được điều đó qua trung gian các tác nhân là chúng ta, mà thôi.
Đằng khác, để làm tác nhân cho tình yêu cứu độ, ta chẳng thể đổ lỗi cho Thiên Chúa về tình trạng nghèo - khổ xảy ra trên thế giới, được. Ngược lại, tình trạng này xảy ra là do thái độ của những người giàu có, chỉ biết hưởng thụ. Chỉ ăn trên ngồi chốc. Ăn trên đầu trên cổ đám cùng đinh, mạt hạng là người cận lân của ta. Vì nghèo và mạt, họ chẳng bao giờ biết bon chen. Chẳng khôn ngoan lanh lợi tranh đua lại người giàu sang, xảo quyệt.
Về phần mình, chúng ta không thể tự gọi là môn đồ bước theo chân Chúa, nếu cứ đua đòi lam sang. Hoặc, tìm cách khai thác triệt hạ người nghèo. Là môn đồ theo chân Chúa, ta phải biết ra đi đem hạnh phúc hồng tươi đến với mọi người. Ra đi, nếu không xóa bỏ được, thì cũng giảm thiểu tình trạng đói nghèo trên thế giới. Ra đi, để chuyển đổi hệ cấp phân chia giàu – nghèo. Có ra đi nghe theo lời dặn của Chúa, ta mới mong cất bỏ được gánh sầu buồn đang đè nặng hai vai những kẻ vẫn còn đầm mình trong nỗi bất hạnh, trầm kha.
Tham dự tiệc thánh hôm nay, cầu mong sao dân con Đức Chúa, bất luận giàu nghèo, sướng khổ, biết ra đi đem hạnh phúc hồng tươi đến với mọi người. Nhất là những người đang nghèo đói, khóc than. Ra đi, nhìn tận mắt cuộc sống của những người nghèo khổ. Cầu và mong sao mọi người hiểu được rằng: những gì mình có chính là quà tặng CHA ban cho. Và biết như thế, ta mới san sẻ quà tặng ấy với những ai đang có nhu cầu hơn.
Với quyết tâm ấy, ta hân hoan tiến vào Vương Quốc Nước Trời. Hân hoan, để cùng với người nghệ sĩ tươi vui đã khuất, hát bài ca “ra đi”, mà rằng:
“Từ thành đô ra đi muôn phương
Hòa niềm vui trong bao yêu thương
Reo rắc khắp nơi nguồn vui sống” (Văn Phụng – Ta vui ca vang)
Bởi, nếu khắp nơi có được nguồn vui sống. Nguồn “hạnh phúc hồng tươi” như thế, cả anh và em sẽ “nhìn tận mắt cuộc đời đẹp sao”.
Lm Phan Đỗ Thục Linh
Mai Tá diễn dịch.
Kính thưa Quí Đức Cha, Quí Cha và Quí Thầy,
Con xin được chia sẻ ba cảm nhận riêng tư của con về Sống và Chia Sẻ Lời Chúa trong chức linh mục mà con cảm nhận được.
Cảm nhận thứ nhất: Lời Chúa là để sống , để hiểu chứ không phải chỉ để đọc và nhất là không phải chỉ để giảng dạy. Vì Chúa trả lời cho những người nói với Chúa: “mẹ và anh em của Thầy đang tìm Thầy ”; Chúa đã hỏi lại: "Ai là người anh chị em và là mẹ của Ta. Đó là những người thi hành ý muốn của Thiên Chúa ". Linh mục, bản thân con dễ bị cám dỗ là khi đọc bài Phúc Am chỉ lo tìm ý tưởng để giảng cho dân mà không lo sống trước. Có lẽ bị ảnh hưởng theo tiêu chí cho một bài giảng tốt là: ý tưởng mới và lời văn hay . Trong suy gẫm thì con nhận ra rằng những cái được gọi là mới chưa hẳn hoàn toàn đến do suy luận, nhưng những ý tưởng mới hợp ý Chúa phải đến từ suy gẫm, cảm nghiệm và sống Lời Chúa.
Có những ý tưởng rất mới nhưng không có yếu tố mời , thành ra người ta không quyết tâm sống. Chúng có mới không? Có mới lạ thật không, hay là quá xa lạ ! Lâu lâu có dịp đọc lại những bài chia sẻ trước đây lúc con thực tập, cũng như những bài chia sẻ mà anh em cùng lớp soạn, mới thấy rõ những điểm được coi là mới lạ hoá ra quá xa lạ. Xa lạ đến độ chính bản thân mình giảng mà không dám sống, không sống nổi, thì hỏi làm sao giáo dân sống được và sinh ích gì cho người nghe. Bình tâm suy niệm và nhìn lại, nhìn vào cuộc sống, con xác tín rằng: Mới thì phải có yếu tố mời gọi ở trong đó. Hay cũng vậy, không phải hay là do lời văn trau truất, cho bằng còn cái gì đọng lại trong người nghe và người ta còn nhớ để người ta sống đạo. Hay mà không có yếu tố lay động tâm hồn thì cái hay đó cũng chỉ là xáo rỗng, chỉ đưa đến chỗ hư vô, xáo động. Con cảm nghiệm rõ rằng: mới phải có yếu tố mời, hay phải có yếu tố lay, phải mời gọi người ta, giúp người ta sống Lời Chúa. Nhờ đó, mỗi khi con suy gẫm và trước khi chia sẻ Lời Chúa, con vẫn thầm hỏi Chúa: “Chúa muốn nói với con điều gì? Chúa muốn con nói gì?”
Cảm nhận thứ hai : Lời Chúa giúp con sống cầu nguyện , Lời Chúa giúp con sống đời cầu nguyện, từ khi làm linh mục thì có nhiều người tin tưởng gọi điện thoại đến hoặc khi gặp thì xin: Cha cầu nguyện cho con, cầu nguyện cho gia đình con và nhiều lúc cũng cao hứng lên, con cũng hứa: để tôi cầu nguyện cho, tôi hứa, tôi biết gia đình anh chị, tôi biết gia đình bạn gặp khó khăn, tôi cầu nguyện cho , nhưng rồi con lại quên mất. Con rất thấm thía và suy nghĩ nhiều về câu chuyện con được nghe. Câu chuyện đó được kể rằng: Một buổi cầu nguyện đại kết, trong đó có linh mục, có mục sư, có tu sĩ và có giáo dân; mục sư, tu sĩ và giáo dân thì mọi người đều bắt đầu: Lạy Chúa, xin Chúa ngự đến giữa chúng con, Lạy Chúa Giêsu-Christ xin Ngài đến cùng con . Riêng linh mục thì lại: chúng ta hãy cầu nguyện . Lời bình câu chuyện có đoạn viết: phải chăng đó là bệnh nghề nghiệp! Để rồi linh mục chỉ biết kêu gọi người khác cầu nguyện, chỉ nhớ nhắc người khác cầu nguyện, còn chính bản thân mình không cầu nguyện, không biết và không yêu thích cầu nguyện. Con tự nhắc con rằng: nếu mình muốn chia sẻ, trước tiên mình phải sống, phải đón nhận. Nhờ ý thức như thế, con chỉ dám chia sẻ những gì con đã cầu nguyện, và đã cảm nhận được. Con dễ dàng kêu mời người khác đọc kinh cầu nguyện, nhưng chính bản thân con lại quên cầu nguyện trong những tình trạng giống hệt như họ, tương tự như họ.
Cảm nhận thứ ba : Lời Chúa biến đổi nếp sống của con. Trong thinh lặng, trong từng giây phút của cuộc đời, Chúa luôn nhắc nhở con, con tin như vậy: Như lúc mới vào chủng viện, thì Cha sở Vinhsơn đã nhắc con: cố gắng đọc Kinh Thánh để rồi đến một lúc nào đó, Thầy nói và Thầy nghĩ gì cũng dựa trên tinh thần Tin Mừng. Thỉnh thoảng, có những bài chia sẻ hơi dài, thì con cũng băn khoăn: tại sao mình lại rơi vào tật không hay này. Để giúp con giải quyết vấn nạn này, Chúa đã gởi đến cho con một giải pháp bằng một ý tưởng trên VTV1, qua một nhận xét về phục vụ trong kinh doanh: "thời nay là thời kinh tế thị trường, không còn là thời bao cấp nữa: chúng ta không còn bán những cái chúng ta có, mà chúng bán những cái người khách cần ". Khi xét mình, con thấy rõ: đôi lần giảng dài đó, là vì con chỉ nói những cái muốn nói, con chỉ muốn chia sẻ những cái mình muốn chia sẻ, mà quên rằng phải biết nhu cầu của giáo dân: muốn nghe gì, cần gì.
Một nhắc nhở khác, Chúa dùng qua người thân: Chuyện là con quen với một gia đình đạo Tin Lành, ông bà mục sư mỗi lần gặp gỡ, dù chỉ qua điện thoại thì họ luôn kết thúc cuộc gặp gỡ bằng lời: "xin Chúa chúc phước cho Thầy, xin Chúa chúc phước cho Cha ". Còn con! Trong khiêm tốn con tự nhủ và được nhắc nhở rằng: là linh mục mà từ miệng con không phát ra những lời cầu chúc nhân danh Chúa, từ miệng linh mục mà không có những lời thánh thiện, đạo đức thì thật là thiếu sót. Con còn thiếu sót thật!
Trên đây là ba cảm nghiệm rất riêng tư của con. Con ước mong rằng trên hành trình theo Chúa. Con được gặp nhiều người có cùng cảm nghiệm với con, để cùng nâng đỡ con, cùng sống Lời Chúa tốt hơn, để Sống Đạo Hôm Nay.
Xin Chúa chúc lành cho Qúi Đức Cha, Quí Cha và Quí Thầy.
Lm. GB, Trần Kim Tuyến
Ngày 23 tháng 01 năm 2007
(Lc 10,1-9)
Kính thưa Quý Cha và Anh em!
Kết thúc tuần tĩnh tâm, nhận được chỉ thị sai đi của Đức Giêsu qua bài Phúc Âm hôm nay là một sự trùng hợp hữu lý. Đọc chỉ thị này, con thấy Chúa Giêsu nhắn nhủ, dạy bảo rất nhiều điều. Tuy nhiên, tâm trong tình của những ngày cuối năm và trong bầu khí của Mùa Xuân sắp đến, con chỉ muốn dừng lại một khía cạnh mà con được đánh động nhất: đó là lời chúc bình an.
Khi cầu nguyện với bài Phúc Âm này, con nhận ra rằng: sự bình an mà Chúa Giêsu sai các môn đệ mang đến cho con người không phải là một câu cầu chúc suông, một danh từ tĩnh mà phải là một sự hiện diện sống động. Sự hiện diện sống động này là gì? Thưa đó là Thánh Thần. Con người sống trong bình an đích thực phải là người có Thánh Thần. Đức Giêsu là mẫu gương sống động sống trong bình an của Thánh Thần.
Khi coi bộ phim Đức Giêsu con người tuyệt vời... cảnh Đức Giêsu được Thánh Thần đẩy vào trong hoang địa để chịu cám dỗ. Con thấy ma quỷ cám dỗ Chúa bằng một hình ảnh rất nhân văn: đó là chúng cho Chúa xem cảnh người ta đang đói khát, cần bánh ăn. Chúng bảo Chúa rằng: ông là người có sứ mạng đến trần gian để đồng lao cộng khổ với con người thì hãy biến những hòn đá này thành bánh đi để nuôi dân chúng và nuôi ông nữa. nếu con có quyền năng như Chúa, chắc con sẽ thực hiện lời yêu cầu này vì thấy hợp lý quá. Còn Chúa Giêsu, Ngài có Thần khí nên Ngài có bình an. Chính sự bình an giúp Ngài có khôn ngoan và sáng suốt để chiến thắng được cơn cám dỗ.
Nhìn vào Đức Maria: ngày Mẹ nhận được lời truyền tin của Sứ thần, Mẹ lo âu, bồi hồi, run sợ. Run đến nỗi khi nhà thờ Hàn Mạc Tử chiêm ngắm lại khung cảnh nàycon thốt lên rằng: Maria linh hồn con ớn lạnh! Run như run thầy tử thấy long nhan. Vậy mà khi được bình an của Thánh Thần bao phủ, Mẹ vững dạ thưa hai tiếng Xin vâng, dù biết chắc rằng khi thực hiện sứ mạng này sẽ không thiếu những đắng cay và nước mắt. Các tông đồ khi chưa nhận được bình an của Thánh Thần, thì dù có cửa đóng then cài, các ông vẫn sợ người Do Thái đến lùng bắt. Nhưng khi được Đức Giêsu đem bình an đến, các ông tông cửa ra đi làm chứng cho Chúa phục sinh mà chẳng sợ bất cứ điều gì ngay cả cái chết đang chờ đợi ở cuối con đường. Với Đức Giáo Hoàng Bênêdictô XVI, nếu không có bình an của Thánh Thần thì chắc hẳn Ngài không thể thực hiện được chuyến viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ trong bối cảnh các nước Hồi giáo đang chống đối và lên án kịch liệt.
Nghĩa thứ hai của lời chúc bình an là mang niềm tin đến cho con người: tin vào Thiên Chúa và tin vào con người. Một gia đình, một họ đạo muốn sống trong bình an đích thực phải sống trong niền tin Kitô giáo. Cách đây 1 năm, lớp chúng con được xuống vùng Cái Rắn - Cà Mau để học hỏi mục vụ, khi vừa bước chân lên nhà thờ Cái Rắn, con hỏi cha Piô Hậu: Cuộc sống người dân ở đây làm sao hả cha? Ngài trả lời: Rất bình an. Con nói: Họ nghèo quá. Ngài đáp: Nghèo nhưng họ có niềm tin. Chẳng cần giải thích gì thêm thì con cũng hiểu rằng: Khi họ có niềm tin là họ có tất cả. Khi có niềm tin vào Chúa Quan Phòng thì con người sẽ biết phó thác. Mà khi biết phó thác thì chắc chắn con người sẽ tìm được bình an. Họ không chỉ tin vào Thiên Chúa mà còn tin vào những sứ giả của Thiên Chúa. Boởi họ biết chắc rằng: Dầu cho xã hội, con người có bỏ rơi họ nhưng những sứ giả của Thiên Chúa sẽ không bao giờ cách xa họ. Nhìn vào những con người sống trên thế giới này, con thấy họ thật sự khát khao niềm tin. Khi kinh tế phát triển, của cải vật chất dư thừa thì con người lại có chiều hướng đi tìm vào cõi tâm linh. Tại sao vậy? Thưa vì họ biết rằng: Của cải vật chất không mang lại sự bình an nên họ thường tìm đến các tín ngưỡng, các tôn giáo để tìm sự an bình cho tâm hồn. Nhưng buồn thay! Vì không có ai dẫn lối chỉ đường nên họ thường không đặt được niềm tin của mình nơi Thiên Chúa nên họ cũng không hưởng được sự bình an đích thực.
Nghĩa thứ ba của lời chúc bình an là làm cho lời chúc này thành sự: Nghĩa là phải loại bỏ những nhân tố gây chia rẽ, gây bất hoà trong gia đình và họ đạo, giúp xây dựng cuộc sống hoà thuận và yêu thương. Về vấn đề này, chắc chắn Quý Cha và Anh Em có nhiều kinh nghiệm cả cảm nghiệm hơn con, con chỉ muốn gợi mở để nhắc nhớ và tạo ý thức cho chính bản thân mình.
Thưa Quý Cha và Anh Em! Để kiến tạo bình an, để đem bình an đến cho người khác thì ngoài ba yếu tố con vừa chia sẻ, còn có một yếu tố khác cũng rất quan trọng đó là người đi kiến tạo sự bình an phải là người có bình an đích thực. Ta không thể cho người khác điều gì mà ta không có. Vậy làm sao để có sự bình an? Là người sinh sau đẻ muộn, và cũng chỉ bước vào đời tu 8 năm, con chỉ muốn chia sẻ điều con đã làm: Đó là khi thấy lòng mình lo âu, mất bình an, con cầu nguyện với Chúa Thánh Thần bằng lời nguyện tắt: Xin Chúa Thánh Thần hãy ban cho con bình an của Ngài. Con đọc 100, 1000 lần và con đã có bình an. Mặt khác, con cũng biết ký thác đường đời cho Chúa và để Người hành động. Con luôn tự chủ nhủ rằng: Đừng quá băn khoăn ở tương lai bởi tương lai là của Chúa. Cũng đừng lo cho mạng sống vì ta đâu làm chủ được mạng sống. Sợi tóc trên đầu rơi xuống tưởng vô tình ư? Không, chẳng có chi ngoài ý Cha quyền linh.
Kính thưa Quý Cha và Anh Em! Mỗi người trong chúng ta cần đến sự bình an của Thiên Chúa ban tặng để ta sống, phục vụ, rao giảng và đem bình an đến cho người khác. Vậy xin Chúa hãy gởi xuống trên chúng con bình an của Thần Khí Chúa. Và xin Ngài cũng hãy dùng chúng con như khí cụ bình an của Ngài.
Phó tế Nguyễn Văn Kiệt
Ngày 26 tháng 01 năm 2007
Trọng kính Hai Đức Cha,
Kính thưa Quí Cha, Quí Thầy và Các Chú thân mến,
Cắm phòng năm nay, chúng ta cùng với Cha giảng phòng học hỏi và kiểm điểm về tác phong lãnh đạo của linh mục dưới nhiều góc cạnh:
- Linh mục như là người quản trị cộng đoàn
- Linh mục như những nhịp cầu hiệp thông
- Linh mục như dấu chỉ của Thiên Chúa
- Linh mục như người tôi tớ của anh em
- Linh mục như là môn đệ Đức Kitô .
Ngày hôm nay, ngày thứ ba của tuần phòng với chủ điểm là: “cầu nguyện cho việc rao giảng Tin Mừng ”. Con xin được khai triển chính ý tưởng mà Đức Cha Giuse đã gợi trước lễ:
- Linh mục đối với cộng đoàn: là anh nông dân có nhiệm vụ gieo giống lời Chúa, và chăm sóc những mảnh ruộng tâm hồn được trao phó cho mình.
- Còn đối với chính mình thì linh mục là mảnh ruộng mà chính mình là anh nông dân gieo giống và chăm sóc.
Cái nhìn lưỡng diện này, chính là linh đạo của linh mục mà Cha giảng phòng đã nhấn mạnh từ chiều thứ hai(22/01/2007) và cũng chính là lời tâm sự của Thánh Augustinô: “Đối với anh em tôi là mục tử có những bổn phận của một chủ chăn. Đối với bản thân, tôi là một Kitô hữu, có những bổn phận đối với phần rỗi của tôi ”. Thế nhưng, cho dù là anh nông dân hay là mảnh ruộng thì cái đích cuối cùng phải nhắm tới là mùa gặt bội thu: Lời Chúa sinh sôi gấp trăm, tám mươi hay năm chục nơi bản thân mình hoặc trên bình diện toàn cầu thì là hàng trăm, hàng ngàn, hàng triệu người tôn thờ Chúa. Bởi thế, con xin chia sẻ hai điều mà con hằng thao thức mặc dù con chưa làm được: Thứ nhất là nghệ thuật làm ruộng tâm hồn và thứ hai là đức tính cần thiết của anh nông dân khi làm ruộng tâm hồn.
Điều chia sẻ thứ nhất: Nghệ thuật làm ruộng
Ông bà chúng ta, từ xưa đã liệt kê bốn yếu tố tuyệt đối cần thiết trong nghệ thuật làm ruộng: Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống .
Trước hết là Nước : lúa tuyệt đối cần nước, thế nhưng lượng nước nhiều hay ít phải tuỳ tuổi cây lúa mà cũng đòi hỏi phẩm chất của nước phải tốt.
Để chuẩn bị kỷ niệm “70 năm Chúa Giêsu hiện diện tại Đông Hòa” vùng U Minh, con có làm một công viên với tượng đài người gieo giống. Con trồng kiểng và mua kiểng cũng gần đến hai triệu. Con đã đóng một cây nước. Con xin lúa giống 75 ngày ở chỗ Cha Thận mang về xạ, nhưng cho đến hôm nay (qua hơn một tháng): những cây kiểng mà con mua mắc tiền đang chết dần; còn lúa thì vàng hoài, mặc dầu con bón phân dữ lắm. Tìm hiểu nguyên nhân, con nhận ra là do con đã lấy nước trực tiếp từ giếng nước nhiễm phèn. Vì thế mà cây cối của con sắp chết cả, có lẽ, sắp tới con phải làm cái bồn chứa để cho nó hả phèn. Trong khi đó, bà phước cũng trồng rau, nước cũng phèn y như vậy nhưng vì bà phước chứa nước trong cái hồ mà con dự định làm Đài Đức Mẹ, thì rau của bà lại tốt. Đó là vì nước giếng của bà phước đã được cải tạo. Ngoài ra sau ngày khánh thành tượng đài người gieo giống khoảng một tuần, bất thần trời mưa to, kéo dài khoảng một tiếng đồng hồ. Hậu qủa là lúa ở vùng con sập hầu hết. Chỗ nào lúa không sập, thì bị lép vì nắng bốc phèn làm lúa háp. Cuối cùng, thay vì một công được hai chục thì nay chỉ còn mười lăm, mười ba thôi. Như vậy, nước cần, nhưng phải biết lúc cần nhiều, lúc cần ít. Linh mục cũng vậy, Ngài phải bơm nước vào ruộng của mình, cũng như ruộng của anh em bằng lời cầu nguyện liên lỉ và nhất là việc cử hành Thánh lễ. Nhờ đó, ơn Chúa tràn đầy trong tâm hồn anh em và của chính mình. Linh mục tuyệt đối không được như Cha giảng phòng kể với chúng ta: một Cha sở nọ khi Ngài đến giảng phòng, thì Cha sở ấy chỉ về dâng lễ trước ba phút mà thôi. Bơm nước chính là thi hành chức vụ tư tề thừa tác của linh mục.
Yếu tố thứ hai là Phân : trong thuật làm ruộng thì phân cũng phải tuỳ tuổi lứa, tuỳ từng loại giống, tuỳ đất mà bón Kali, NPK hay Urê. Phân chính là ơn ban do việc lãnh nhận các bí tích, tuỳ lứa tuổi, và tuỳ nhu cầu. Không lãnh nhận bí tích thì cũng như ruộng không bón phân. Công việc này chính là sứ vụ tư tế và cũng là ngôn sứ thừa tác của linh mục chúng ta.
Yếu tố thứ ba là Cần : linh mục phải chuyên cần chăm sóc, làm cỏ, xịt thuốc sâu, diệt ốc bươu vàng, là các thói hư tật xấu. Không những làm cho chính mình mà còn cho anh em của mình nữa. Đó chính là sứ vụ ngôn sứ mà Thánh Phaolô đã khuyên bảo Timôthê: Gặp thơì thuận tiện hay không? Anh cũng phải đem hết sức mình mà khuyên bảo, sữa trị, dạy dỗ…
Yếu tố thứ tư là Giống : lời Chúa chắc chắn là giống tốt, như Thánh Phaolô dạy: “người ta không được nghe giảng, nếu không có người được sai đi ”. Linh mục là người được sai đi để gieo giống. Tuy nhiên, có một điều đặc biệt là: linh mục nhận giống lời Chúa, nhưng hột giống đó phải được nhân lên trong chính thửa ruộng của mình. Tự bản thân linh mục phải là ngươì sản xuất ra lúa giống. Linh mục là người nhân giống để đem giống lúa tốt gieo vào tâm hồn của người khác. Chỉ có hột lúa do chính linh mục nỗ lực sản xuất ra mới là giống tốt. Anh nông dân xứ Ars, Cha Gioan Maria Vianney là một điển hình. Ngài đã kiên trì từ những công việc: bơm nước, bón phân, nhổ cỏ, lượm đá, xịt thuốc sâu và cuối cùng thì Ngài đã làm cho mảnh ruộng xứ Ars và cả một vùng đất khô cằn, gai góc, sỏi đá, đã trở nên những mảnh đất phì nhiêu. Sinh nhiều hoa trái.
Linh đạo của linh mục là linh đạo lưỡng diện: Thánh hoá mình để thánh hoá anh em và nhờ thánh hoá anh em thì mình lại được thánh hoá. Câu mẹo LaTinh Fabricando fit faben: “Nhờ làm thợ mới thành thợ ”, áp dụng vào đây rất đúng.
Điều chia sẻ thứ hai: Đức tính của nhà nông
Người ta thường nói về đức tính của anh nông dân, là lao động cần cù, có kỹ thuật và có khoa học. Trong thơ Mục vụ 2006 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam ỏ phần thứ ba khi nói về “trách nhiệm trong việc sống đạo ”, là trách nhiệm đầu tiên Hội Đồng Giám Mục giao cho các linh mục chánh xứ, Chính tập hướng dẫn tĩnh tâm 2007 trang số 3 cũng nhắc lại cho các linh mục cái đức tính của linh mục chúng ta là: “kiên trì và nỗ lực dấn thân ”. Làm ruộng đất nếu có đủ bốn yếu tố cần thiết, và thời tiết không khắc nghiệt lắm, thì chắc chắn trúng mùa. Nhưng làm ruộng tâm hồn khó vô cùng. Vì “bá nhân, bá tánh ”, mỗi một mảnh ruộng phải có kiểu cách riêng, chăm sóc riêng. Chính vì thế mà đòi linh mục chúng ta phải kiên trì và nỗ lực, liên lỉ, từ ngày này qua ngày khác.
Giáo xứ Đông Hoà chúng con, năm nay tròn 70 tuổi. Năm 1936 Cha Emille Dalle cùng với các Thầy dòng Thánh Gia đã đến gieo giống. Các Thầy Thánh Gia chỉ ở đó có 9 năm (từ 1936 - 1945) nhưng thú thật, con phải nhận rằng: cái gieo và nhất là cái chăm sóc của Cha Dalle và các Thầy Thánh Gia thật kỹ lưỡng. Cho nên, qua 30 năm chiến tranh, khi Đức Cha Gioan Bùi Tuần và Cha Giuse Vũ Tuấn Tú ngày 25 tháng 12 năm 1970, nhân ngày hưu chiến lễ giáng sinh đã đi tìm đoàn chiên lạc, thì hạt giống không chết. Sau đó, nhờ sự nhờ sự chăm sóc tiếp theo của Đức Cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ, Đức Cha Gioan Bùi Tuần, Cha Giuse Vũ Tuấn Tú và các Thầy. Cỏ, rác được nhổ sạch, hạt giống lại hồi sinh. Con là người đến sau hưởng được những hoa trái. Từ công gieo trồng và chăm sóc đó. Con số ban đầu khoảng 160 - 200 thì hôm nay đã lên đến 1.600. Con thấy rằng: cái gieo giống thì tương đối dễ nhưng cái chăm sóc thì khó vô cùng, đòi hỏi chúng ta phải luôn nhiệt tình, nỗ lực và kiên trì. Một linh mục muốn nhàn thì rất nhàn , nhưng một linh mục mà sống cho ra một linh mục làm tròn được nhiệm vụ loan báo tin mừng thì khó vô cùng.
Con cầu nguyện, kính chúc và ước mong: tất cả mọi người chúng ta luôn là mảnh ruộng bội thu gấp trăm, gấp tám chục; và chính chúng ta cũng là anh nông dân cần cù chăm sóc những thửa ruộng tâm hồn được trao phó cho chúng ta. Riêng con, con xin Quí Đức Cha, Quí Cha và anh em cầu nguyện nhiều cho con, và cho vùng U Minh chúng con. Bởi vì, con nhận thấy thửa ruộng của mình, bước sang năm 32 đời linh mục, càng ngày càng thiếu nước, nhiều cỏ và sỏi đá hơn. Con chân thành cảm ơn Hai Đức Cha, Quí Cha và anh em.
LM. ISIĐÔRÔ BÙI VĂN TĂNG
Ngày 24 tháng 01 năm 2007)
Đêm 22 rạng ngày 23 tháng 12 năm 1998, một bọn bất lương đã gài một trái lựu đạn rồi nổi lửa đốt một cửa tiệm bán điện thoại di động tại Udine, Italia. Vụ hỏa hoạn làm còi báo động nối kết với sở cảnh sát hú vang và hai xe cảnh sát đã chạy gấp đến tận nơi. Trong khi đó, hai người chủ trung tâm bán điện thoại lưu động cũng vừa đến nơi. Nhưng khi họ tìm cách dập tắt hỏa hoạn, thì trái lựu đạn phát nổ tung, khiến hai cảnh viên chết liền tại chỗ, một người khác chết trên xe cứu thương trên đường về khu cấp cứu. Nhân viên cảnh sát thứ tư cùng với một trong những người chủ tiệm có mặt lúc đó bị mảnh lựu đạn gây thương tích nặng nề.
Hai nhân viên cảnh sát chết liền tại chỗ là Paolo Cragnolin, 33 tuổi và Adriano Ruttar 41 tuổi. Người chết trên xe cứu thương là cảnh sát viên Giuseppe Zannier 34 tuổi. Cuộc điều tra sau đó cho biết là trái lựu đạn nói trên được sản xuất tại cựu Yugoslavi và nhiều người đã nhìn nhận rằng họ nhiều lần chứng kiến những cuộc cãi cọ sôi nổi giữa hai người chủ tiệm và các khách hàng đại đa số là người các nước Đông Âu.
Đúng một tháng sau vụ khủng bố đớn hèn nói trên, hơn 500 người đã đến dự thánh lễ cầu nguyện cho ba nhân viên cảnh sát đã bỏ mình vì công vụ nói trên. Nhân dịp này hàng trăm lá thư và sứ điệp người dân Udine để lại tại nơi ba nhân viên cảnh sát thiệt mạng đã được đóng thành sách và gửi tặng thân nhân của họ. Cùng ngày hôm ấy, ông bà Ermes và Lina Cragnolino, cha mẹ của cảnh sát viên Paolo, đã viết một lá thư gửi đăng trên nhật báo Il Gazzettino, trong đó, ông bà xác tín rằng: ”Chúng tôi không đòi hỏi trả thù, vì oán thù không làm cho con chúng tôi sống lại và trở về với chúng tôi được. Chúng tôi chỉ muốn kêu gọi những người đã gài trái lựu đạn giết chết con chúng tôi hãy hồi tâm hối hận về lỗi phạm của họ và cầu xin ơn tha thứ của Thiên Chúa. Còn về phần chúng tôi, chúng tôi đã thực tâm tha thứ cho họ rồi.”
Cũng trong lá thư nói trên, ông bà Cragnolino đã gợi lại hình ảnh của người con trai. Ngay từ ngày còn nhỏ, Paolo đã cương quyết đi theo con đường làm cảnh sát vì yêu thích sự ngay chính và lý tưởng phục vụ. Ngày đậu cuộc thi tuyển vào trường huấn luyện cảnh sát, Paolo sung sướng đến gần chảy nước mắt vì đang thành toàn mộng ước ôm ấp từ bao lâu nay trong tâm hồn. Nhìn nét sung sướng hạnh phúc trên mặt con trai, ông bà Cragnolino cũng vui sướng lây. Rồi sau đó, khi hoàn tất công cuộc huấn luyện và trở thành một cảnh sát viên thực thụ, Paolo đã tận tụy làm việc không hề từ nan điều gì.
Mới 31 tuổi đời, Paolo tràn đầy sức sống và yêu thương cuộc sống cũng như công việc phục vụ của mình. Ông bà Cragnolino nhắc lại lần cuối cùng nói chuyện với con trai yêu quý ngày hôm trước khi trái lựu đạn oan trái nổ tung, làm tắt lịm nụ cười trên khuôn mặt tươi trẻ của Paolo. Lúc ấy, Paolo đang ở sở làm bản báo cáo về một vụ bắt giam chàng mới thực hiện. Vì phải làm thêm giờ và về trễ, nên Paolo điện thoại về báo cho cha mẹ biết để đừng lo lắng gì. Như thường lệ, sự yêu đời và lạc quan của Paolo đã làm cha mẹ vui lây. Thêm vào đó, là bầu khí tưng bừng của ngày vọng lễ Giáng Sinh. Paolo hẹn gặp bố mẹ trong bữa cơm trưa để chung vui vào đúng ngày lễ Giáng Sinh, sau khi làm xong phiên trực đêm. Nhưng Paolo đã lỡ hẹn với cha mẹ vì một trái lựu đạn do bọn bất lương cài bẫy đã phát nổ khi người cảnh sát viên trẻ tuổi thi hành công vụ, đưa chàng về trời hưởng Giáng Sinh với Thiên Chúa. Trong những lá thư để lại trên địa điểm xảy ra vụ nổ, có một lá thư do vài trẻ em viết như sau: Tâm tư của mọi con tim người dân vùng Friuli đều hướng về các anh: trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa, hẳn các anh sẽ được hưởng một mùa Giáng Sinh vĩnh cửu”. (Ansa 23-1-1999)
Mai Anh
Đừng đợi phải nhìn thấy một nụ cười rồi mới mỉm cuời lại
Đừng đợi đến khi được yêu thương rồi mới yêu thương
Đừng đợi đến khi cô đơn rồi mới nhìn thấy hết giá trị của những người bạn
Đừng đợi một công việc thật vừa ý rồi mới bắt đầu làm việc
Đừng đợi đến khi có thật nhiều rồi mới sẽ chia đôi chút
Đừng đợi tới khi vấp ngã rồi mới nhớ lại những lời khuyên
Đừng đợi đến khi có nhiều thời gian rồi mới bắt đầu một công việc
Đừng đợi đến khi làm người khác buồn lòng rồi mới cố xin lỗi
Đừng đợi, vì bạn không thể biết mình sẽ
phải đợi bao lâu…!
Giáo dục con cái
Không ai phủ nhận con cái ngày nay có nhiều cơ hội học hỏi hơn cha mẹ. Lãnh vực học hỏi mở rộng, phương tiện thu thập kiến thức tràn đầy và nhanh chóng. Thế hệ ngày nay bằng cấp nhiều hơn thời cha chú. Nhưng có một điều thế hệ gọi là “lỗi thời” của cha chú nắm chắc trong tay một điều mà thế hệ con cháu ngày nay hầu như không có. Đó là một nền tảng đạo đức được tôi luyện từ gia đình và được bồi đắp bởi xã hội. Giữ được những gì do gia đình dạy bảo và đem thực hành trong một xã hội “chỉ biết có vật chất” thật không dễ.
A và B là hai người cùng xuất thân từ hai gia đình có nền tảng giáo dục tốt. Anh A thì nghèo hơn và thường phải còng lưng đạp xe đi học mỗi ngày. Kể cả khi đã ra trường và đi dạy. Anh B khá hơn vì là con út trong một gia đình có tới chín anh chị em. Anh B cũng tốt nghiệp đại học và cũng đi dạy. Ngày mới ra trường, ông bố dẫn anh B đến một ông thầy “thuộc thế hệ đi trước”. Dĩ nhiên là ông thầy này già hơn chừng một phần tư thế kỷ.
Ong thầy sắp xếp chỗ cho anh dạy học. Vui vẻ cả làng.
Câu chuyện tiếp tục. Xã hội mở cửa. Trường học mở cửa. Ngôi trường chuyên dạy cán sự nông nghiện nơi A và B dạy trở thành trường đại học. Vì là trường đại học nên chỉ có thành phần giảng dạy phải dồn lên. Mọi người được học lên để lấy bằng thạc sĩ và tiến sĩ.
Thời gian cứ thế trôi qua. Lần lượt A và B cùng đi học và cùng lấy xong bằng tiến sĩ. Trở lại trường cũ, cả hai anh mời ông thầy già ngày xưa, giờ đã về hưu, trở về dạy cho trường của mình. Anh A tiếp tục cố gắng và được đưa sang giữ một chức vụ cao hơn. Anh B lên làm lãnh đạo. Ong thầy già ngày nào bây giờ làm việc dưới quyền anh B. Mọi việc vẫn diễn ra bình thường với những thăng trầm và thay đổi chung của xã hội và của ngành giáo dục.
Một hôm, ông thầy già không còn giảng dạy được như xưa nữa vì sức khỏe không cho phép. Các con ông đã lớn, đã ra trường và đi làm. Họ không muốn ông phải còng lưng ngày ngày đi dạy nên ông xin nghỉ. Việc nghỉ dạy của ông hơi đột xuất. Ong cũng không muốn phiền bạn bè nên lẳng lặng thông báo gọn nhẹ cho trường để về hưu thực sự. Nghe tin một người đã gắn bó với anh em gần 20 năm nghỉ dạy, anh A từ xa lặn lội về tổ chức một số bạn bè để anh em hàn huyên tâm sự. Những bức anh chụp 20 năm trước: Những bạn bè giờ đã chia tay mỗi người mỗi hướng, có những người đã không còn trên cõi thế. Nói chung tình cảm thắm thiết, tình nghĩa tràn trề, ân nghĩa đâu vào đó. Anh B thì khác hẳn. Sau một lời chúc mừng cá nhân qua điện thoại của anh B khi ông thầy già thông báo nghỉ việc, ngày cuối cùng của ông thầy già, người đã gắn bó với trường từ 20 năm trước, không có dịp để chào từ giã anh em một cách chính thức với một tách trà tình nghĩa. Gặp người nào, anh chào người đó. “Xếp của anh” (là anh B) ngồi trong văn phòng kín không bước ra để có một cái bắt tay từ giã. Các thầy cô khác ngỡ ngàng. Họ chờ đợi dăm ba phút để tạm biệt nhau, để nói dăm ba lời chúc như vẫn thường xảy ra mỗi khi có một thày cô nào nghỉ việc hay chuyển sang nơi khác hoặc tạm thời về nước nghỉ mùa giáng sinh.
Đạo đức gia đình Đông Phương đang bị xói mòn. Anh A và anh B là những người cùng trang lứa, cùng được giáo dục về học vấn như nhau, nhưng sự xói mòn của trào lưu xã hội, của địa vị chức quyền không làm anh A mất gốc. Brian Clowes, trong một bài viết đã đăng trên Lửa Mến năm trước về những “Cuộc Tấn Công vào Gia đình” đã cảnh báo hiện tượng vật chất hóa và say mê quyền lực làm cho nền tảng đạo đức được chăm bón từ gia đình không còn chỗ đứng một khi con người đã nắm trong tay một chút quyền hành trần thế. Điều đó cũng dễ hiểu khi đạo đức làm người không còn phải là thước đo cách hành xử của một con người, nhất là khi con người không còn tin vào Thượng Đế, một Đấng Tối Cao, khi con người bỏ mất tôn giáo để chỉ biết chạy theo thế lực trần tục. Trong tình cảnh đó, sự xuống dốc của những gì thuộc về lãnh vực trừu tượng như nghĩa tình chắc chắn sẽ khốc liệt và không còn thuốc chữa. Hội Nghị Truyền Giáo Á Châu (AMC 1) tháng 10 vừa qua tại Thái Lan cũng đã cảnh báo việc chạy theo trào lưu về mặt xấu của Phương Tây với chủ nghĩa duy vật chất và chủ nghĩa tiêu thụ làm cho con người băng hoại không phương cứu vãn. Nền tảng gia đình chỉ có thể giữ được khi gia đình biết bảo tồn nền văn hóa Phương Đông với gia đình là nền tảng, với đối thoại và hiệp thông là phương thuốc.
Trần Bá Nguyệt
Giảng lễ Hôn Phối :
Nhìn cô dâu lộng lẫy trong bộ Jupe Soirée sáng nay, bỗng dưng, tôi nhớ tới câu chuyện độc đáo của nữ hoàng Cléopatre.
Câu chuyện được bắt đầu, khi Antôniô, khoát tay ra lệnh cho đoàn quân viễn chinh của ông dừng lại. Phía trước mặt là đất nước Ai Cập, điểm tấn công của đoàn quân Roma. Phải nghĩ ngơi dưỡng sức trước khi khởi chiến.
Bất chợt, Antôniô được khẩn báo. Có một đoàn xe, với 12 con tuấn mã rất đẹp, chở đầy lễ vật, do nữ hoàng Cléopatre gởi đến. Antôniô vui ra mặt. Sự lịch lãm và sang trọng của Cléopatre, ông đã nghe đồn thổi từ lâu. Nay ông sắp sửa được chứng kiến tận mắt.
Chiếc xe chở tặng vật dừng lại trước doanh trại của Antôniô. Tặng vật được chuyển vào. Đi đầu là 12 cô thiếu nữ, với những dĩa vòng vàng ngọc trai, đầy ứ. Nét mặt Antôniô bình thản: chả có gì là đặc biệt. Rồi lại đến những chiếc bình cổ quý giá. Nhưng với Antôniô, một kẻ bách chiến bách thắng, những điều ấy, với ông ta, cũng chẳng mang nhiều ý nghĩa.
Tặng phẩm cuối cùng, do 4 tên lính lực lưỡng khiêng vào, là một cuộn lụa màu hồng quyến rủ. Antôniô hơi ngạc nhiên. Bởi cuộn lụa ấy, được chăm chút rất cẩn thận. 4 người lính khiêng vào, đặt giữa doanh trại, nơi trang trọng nhất.
Rồi hai tên lính lăn nhẹ cuộn lụa. Cuộn lụa được mở dần, mở dần. Antôniô chép miệng: tấm lụa đào có gì đặc biệt. Nhưng rồi, Antôniô giật mình. Sao trong cuộn lụa có gì động đậy? Antôniô mở to đôi mắt. Cuốn lụa được mở vừa hết, thì lõi giữa xuất hiện một người con gái. Vâng, đó chính là nữ hoàng Cléopatre, một trang giai nhân tuyệt sắc, nàng mặc một chiếc áo màu thiên thanh, trang trí tuyệt vời. Vội vã, Antôniô cúi xuống, đưa tay dìu nàng đứng dậy. Diện đối diện. Antôniô bàng hoàng, trước món tặng vật lạ lùng này.
Thưa ông bà và anh chị em,
Quà tặng của nữ hoàng Cléopatre, không phải là vàng bốn số 9, không phải là hột xoàn, kim cương, nhưng vượt lên trên tất cả những thứ đó, là một con người, chính là nữ hoàng Cléopatre.
Món quà này cao quý nhất, bởi làm gì có loại vật chất nào cao quý hơn một con người: với một thân xác tinh tuyền và một tâm hồn vô giá.
Hôm nay, vì yêu thương, Chúa gọi K. và H. đến đây để ban quà tặng.
K. chính là món quà tặng quý báu nhất, mà Chúa đã lựa chọn giữa bao người con trai trên thế giới, để trao ban cho H.
H. chính là món tặng vật vô giá thích hợp nhất, mà Chúa đã tìm kiếm giữa những người con gái, để trao ban cho K.
Trong giây phút linh thiêng nhiệm mầu và cảm động này, bằng tất cả tâm tình, hai đứa chúng con hãy cúi đầu tạ ơn Thiên Chúa.
Hãy trân trọng với tặng phẩm này, hơn bất cứ mọi thứ gì khác: hơn cả địa vị, hơn cả tiền bạc, hơn cả công ăn việc làm.
Trân trọng với tặng phẩm này, bởi đây không phải chỉ là một con người, mà còn là người con của Thiên Chúa. Là những người con của Thiên Chúa, phải đối xử với nhau như cung cách của Thiên Chúa: mà cách đối xử của Thiên Chúa, là yêu đến cùng đường, và chết cho người mình yêu.
Đừng vì những cùng khốn, cay đắng của kiếp nghèo, rồi đâm ra ghét bỏ, hành hạ và hất hủi tặng vật.
Đừng vì những đớn đau của bệnh tật, tặng vật yếu đuối đi, xấu xí đi, mà trở thành kẻ phản bội tình yêu.
Đừng vì những lời ru ngủ ngọt ngào, dụ dỗ, mồi chài, đừng vì cái vẻ hào nhoáng, mới lạ bên ngoài, kèm theo những tặng phẩm đắt tiền, mà trở thành một kẻ tệ bạc.
Đừng vì những khuyết điểm của tặng vật, rồi chấp nhất, thổi phồng to lên, rồi
chối bỏ lẫn nhau.
Có một sự thật mà ta cần lưu ý.
Không có ai là hoàn hảo trên mặt đất này. Mình có khuyết điểm, người kia cũng có khuyết điểm. Bởi vậy, hãy biết thông cảm và tha thứ. Luôn biết cắt nghĩa tốt cho nhau. Đừng chỉ nhìn vào những khuyết điểm, để rồi buồn lòng. Hãy nhìn vào bao nhiêu ưu điểm nơi người ấy, để rồi phấn khởi, vui tươi.
Và cũng có một điều bất ngơ,mà chúng ta phải quan tâm.
Là trong khi giơ tay đón nhận tặng phẩm, thì mình cũng chính là tặng phẩm của người kia.
Hãy là TẶNG PHẨM QUÝ GIÁ.
Nếu lòng mình ước mong, tặng phẩm mình nhận được, sẽ là một tặng phẩm đẹp, quý giá; thì mình cũng hãy trang điểm cho mình luôn rực lên trong giá trị.
- Nước hoa đầu tiên phải xức, là hãy làm cho mình thành một con người đạo đức. Có tất cả, mà không có đạo đức sẽ thành vô nghĩa.
Việc phải làm đầu
tiên, của một người đạo đức, là phải biết hiếu thảo với Thiên Chúa; người Cha đã
cho mình sự sống, đã chết để cứu mình, và đã dành nơi cư ngụ trong cõi hạnh phúc
vĩnh cửu cho mình.
Rồi bước thứ hai phải làm: Hãy làm thế nào, để cả hai bên, đều hân hoan, bởi gia
đình ta vừa có thêm được một đứa con, dễ thương, ngoan ngoãn.
Hãy là TẶNG PHẨM HIẾN DÂNG.
- Nước hoa thứ hai phải xức, để cho tặng phẩm đời mình được luôn giá trị: là hãy biết hy sinh. Hãy như Đức Kitô, hy sinh tất cả những gì mình có, cho người yêu là Giáo Hội. Và hãy như Giáo Hội, luôn làm tất cả những gì có thể, để cho hiền phu của mình là Chúa Kitô được vui.
- Đừng để sự nóng nảy ngự trị, bởi sự nóng nảy, rất nhiều lúc, sẽ là kẻ sát nhân đâm chết tình yêu. Nhưng hãy cố gắng luôn là người dễ thương, biết thông cảm với những yếu đuối thân phận kiếp người.
- Đừng để sự ghen tương chi phối. Hãy tin tưởng nơi nhau, bởi rất nhiều khi, sự ghen tương vô lối, sẽ thành tên đao phủ đưa người yêu lên đoạn đầu đài.
Lm. Đaminh Đỗ Văn Thiêm
"Chợ Tình"
Từ thông tin về những khu chợ Biên mậu – mà thực chất là những khu nhà thổ tồn tại công khai tại Hà Khẩu, thị trấn biên giới Trung Quốc chỉ cách thành phố Lào Cai của tỉnh Lào Cai (Việt Nam) một con sông, chúng tôi đã có chuyến đi thực tế để tìm hiểu thân phận của những cô gái Việt bị đẩy vào các "ổ chứa" nơi đất khách.
Chỉ mất chưa tới một tiếng đồng hồ lo thủ tục, tôi đã có trong tay tấm “Giấy thông hành xuất nhập cảnh”, kèm theo phiếu tiêm chủng quốc tế với chi phí bao gồm cả vé xuất cảnh là 93.000 đồng Việt Nam. Người dẫn đường đưa tôi sang Hà Khẩu tên Long mặc dù mù tịt tiếng bản địa, nhưng lại khá rành rẽ các khu nhà thổ nơi đất khách.
Khác với cánh hướng
dẫn viên ở Lào Cai chuyên dẫn khách sang Hà Khẩu kiếm thù lao mỗi ngày 100.000
đồng, Long chỉ yêu cầu được “đi tàu nhanh” với một em tùy theo ý thích chọn lựa.
Nơi đầu tiên Long dẫn tôi đến là một khu nhà 3 tầng, phía ngoài đề tấm bảng “Kim
Minh Trung – Việt Biên mậu thương trường Hà Khẩu”.
Đây là khu chợ do một công ty của Trung Quốc xây dựng và cho các chủ hàng - phần
lớn là người Việt sang thuê buôn bán giày dép, điện tử, quần áo và dịch vụ.
Ngay tầng trệt gần
cầu thang lên xuống, tôi kinh ngạc khi thấy nhiều gian hàng bày bán công khai
các bộ phận sinh dục của nam lẫn nữ được làm bằng chất liệu cao su tổng hợp với
đủ màu sắc, kích cỡ trông rất khiêu gợi. Chỉ tay lên các tầng trên, Long nói:
“Lên đi rồi ông sẽ thấy thế nào là thế giới ăn chơi tự do. Mấy thứ “dụng cụ” này
ông muốn mua bao nhiêu cũng được và có người xách về đến Việt Nam mới lấy tiền”.
Đúng như lời giới thiệu của Long về “thế giới ăn chơi tự do” ở cái khu chợ này.
Tự do ở đây được hiểu theo nghĩa: tự do ăn chơi, tự do thỏa mãn nhục dục trên
thân xác của các cô gái Việt – mà không ít cô chỉ mới 15 - 16 tuổi nhưng không
bị cho là phạm pháp. Tại đầu cầu thang lên xuống các tầng lầu, hàng chục cô gái
Việt trẻ ăn mặc hở hang túa ra mời chào mỗi khi có khách bước lên. Do biết Long
là người Việt và cũng quá quen mặt nơi “chợ người” này, nên các cô vây chặt lấy
chúng tôi và chào mời.
Nằm ngay đầu cầu thang tầng 3, khi chúng tôi bước vào gian hàng, bà Vĩnh - một “mối” quen của Long, bà chủ và các cô gái tiếp đón không vồn vã nhưng rất “thực tế”. Ngay trước cửa ra vào, một cô vạch áo ra “tiếp thị”… Thấy tôi có vẻ lưỡng lự, “má mì” Vĩnh nói: “Khách quen, không “đi” cũng được. Gái ở đây đều đồng giá 50 nghìn đồng/suất. “Hàng” chọn phải thêm 10 nghìn nữa. Không chịu thì ngày mai sang, có con Phương khỏi chê luôn. Nó xin nghỉ mấy ngày về quê ăn rằm. Nó mới 16, vừa xinh, vừa thơm tho, lại biết chiều khách”. “Thế có đứa nào mới sang không?” – tôi hỏi. “Má mì” Vĩnh thản nhiên: “Hàng đó ngày nào mà chả có, nhưng dây vào thứ đó là dễ dính đến chính quyền, mệt lắm!”.
Theo giới thiệu của bà Vĩnh, “hàng” của bà đều đi thuê các chủ “sạp” trong khu thương mại với giá từ 5.000 nhân dân tệ (NDT) đến 7.000 NDT/cô/tháng (1 NDT bằng 1.900 đồng Việt Nam). Cũng theo lời “má mì” Vĩnh, “kinh doanh” theo phương thức này chắc ăn ở chỗ những cô gái thuê đều đã có “thâm niên”, quen “nghề” và không đòi về như thời gian đầu mới được đưa sang. Khi tôi hỏi: “Có em nào bị lừa bán sang không?”, trước ánh mắt sắc lẻm của “má mì”, cô gái tên Ngọc vội nói: “Bọn em dễ gì mà lừa được. Đều tự nguyện hết cả đấy anh ơi!”.
Nhân lúc “má mì”
xuống nhà dưới nhặt rau chuẩn bị bữa trưa, Nhàn, cô gái tôi đoán chỉ 17 - 18
tuổi nói nhỏ: “Con Ngọc mới 19 nhưng cũng “thâm niên” 2 năm rồi đó anh. Bị đưa
sang đây rồi là tụi em coi như hết. Chỉ khi nào bị chủ quỵt tiền, hoặc đối xử,
hành hạ thậm tệ, mới có đứa dám tố cáo với công an Trung Quốc…”.
Cuộc trò chuyện của tôi với các cô gái bị dừng lại khi Long từ trên gác xuống,
kéo xoẹt tấm ri-đô và nói với vẻ mãn nguyện: “Xong! Ông không chịu “hàng” này,
đi với tôi sang “hàng” nhà bà Mỹ “sệ”, đảm bảo ông sẽ hài lòng!”. Đi một vòng
các tầng 2 và 3 của khu thương mại, tôi đếm được có đến hơn 40 gian hàng. Cách
bố trí các tầng và các gian hàng đều thông với nhau, có thể quan sát được cả khu.
Đón chúng tôi tại hàng bà Mỹ “sệ” là 5 cô gái trẻ măng. Các gian hàng tại đây đều giống nhau ở cách bày trí, diện tích sử dụng và các phòng “đi” khách. Mỗi gian chỉ chừng 25m2– 30m2, phía sau là cầu thang gỗ chỉ cao hơn 1m, lúc lên xuống phải khum lưng lại.
Mỗi “phòng” trải vừa tấm chiếu, được ngăn bởi tấm ri-đô mỏng dính, cáu bẩn. Khách làng chơi đến đây gồm nhiều hạng, sang có, bình dân có. Nhiều khách có tiền, “kéo” vài em đi khách sạn theo kiểu thuê giờ (mỗi giờ 50 - 70 NDT), khi nào chán lại trả về cho “má mì”.
Khách ban ngày phần nhiều là người Việt, còn đêm chỉ toàn người Trung Quốc. Có
nhiều khách tận Vân Nam xuống chơi. Nhẩm tính, chỉ riêng khu Kim Minh Trung –
Việt Biên mậu thương trường Hà Khẩu đã có hơn 300 cô gái Việt sống bằng cái nghề
nhơ nhớp nơi đất khách.
Chỉ tay về phía đường chạy dọc theo nhánh sông đầu nguồn sông Hồng – mà bên kia là đất Việt Nam, Long cho tôi biết, còn gần một chục khu ăn chơi như thế. Tất cả đều núp dưới cái tên “Khu chợ Biên mậu”, nào là chợ Biên mậu Trung – Việt, nào là Trung – Việt Biên mậu thương trường…
Hàng trăm cô gái Việt đang “hành nghề” nơi miền biên ải đều bị sa chân từ những lời ngon ngọt của những kẻ lừa phỉnh, để rồi phải chấp nhận một công việc đầy ô nhục trên đất khách, không biết ngày nào trở về quê hương.
Lm. Martinô Nguyễn Bá Thông