TIN VUI
Tuần san Bạn trẻ Công Giáo - Số 76 CN 15.04.2007
Email : bantreconggiao@yahoo.com
ĐỨC THÁNH CHA CHỦ SỰ CÁC LỄ NGHI THỨ NĂM TUẦN THÁNH TẠI ROMA
ĐỨC THÁNH CHA CHỦ SỰ LỄ TƯỞNG NIỆM CUỘC KHỔ NẠN CỦA CHÚA KITÔ
Bài Giảng ĐTC Biển Đức XVI trong thánh Lễ Vọng Phục Sinh 2007 tại Đền Thờ Thánh Phêrô
Sứ Điệp Phục Sinh 2007 của ĐTC Biển Đức XVI
Tuần Thánh và Phục Sinh: 3,000 anh chị em lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy tại Giáo Phận Kontum
Bề Trên Tổng Quyền Dòng Salêdiêng Don Bosco thăm Tỉnh Dòng Salêdiêng Don Bosco Việt Nam.
Họp mặt anh em linh mục các giáo phận miền Bắc Việt Nam khóa 2005
Tài liệu tĩnh tâm Linh mục Giáo phận Phú Cường ( tiếp theo)
LỜI THỨ NĂM “TA KHÁT” (GA 19,28)
Tâm lý Giáo dục : HIỂU NHAU LÀM SAO HIỂU ĐƯỢC SỰ KHÁC BIỆT?
( 15.04. 2007)
Ga 20, 19-31
"Tám ngày sau Chúa Giêsu hiện đến".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con". Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại". Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Điđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa". Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin".
Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Đoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin!"
Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người. Đó là lời Chúa.
Con người Tôma.
Đây là một con người có óc thực tiễn. Ông phán đoán dựa trên lương tri bình thường. Ông được nhắc đến nhiều lần trong Tin mừng Gioan.
Khi Đức Giêsu báo tin Ladarô đã chết và kêu gọi các môn đệ hãy trở lại viếng Ladarô ở Giuđê ( Ga 11, 7, 15), nơi Người mới suýt bị ném đá ( 10, 11), thì Tôma có vẻ nghi ngại. Ông nói : “nào, cả chúng ta nữa, hãy đi và chúng ta sẽ cùng chết với Người “( 11, 16). Theo Tôma, trở lại Giuđê là mạo hiểm đến một nơi đe doạ mạng sống của Thầy lẫn trò. Vào một lần khác, khi Đức Giêsu bảo : “Còn về nơi Thầy đi, các con đã biết đường rồi’, Tôma liền buông một câu hơi khó nghe : “Thưa Thầy, ngay cả chuyện Thầy đi đâu, chúng con cũng không biết, làm sao chúng con biết đường mà đi” ( 14, 5)
Chúng ta không rõ vì lý do gì mà Tôma đã hụt gặp Đức Giêsu Phục Sinh. Chỉ biết lúc Người đến với các môn đệ thì ông “không ở với họ” ( 20, 24). Một cách nào đó, có sự xa cách giữa ông và cả nhóm. Sự xa cách này trở nên rõ rệt hơn khi ông từ chối tin vào lời chứng của các bạn ông : “Chúng tôi đã thấy Chúa”. Phải chăng ông sợ bị đánh lừa hay đối với ông chuyện thấy Chúa sống lại là chuyện hão huyền, không thể xảy ra được ? Dù sao ông cũng không tin lời các bạn nói, ông không tin vào cộng đoàn. Ngược lại, ông rất tin vào chính mình, vào sự chính xác của các giác quan : “Nếu tôi không thấy dấu đinh nơi bàn tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay tôi vào lỗ đinh và nếu tôi không thọc bàn tay tôi vào cạnh sườn Người, tôi sẽ chẳng tin đâu”.
Thầy Giêsu đã bị đóng đinh trên thập giá, với cạnh sườn bị đâm thủng, đó là hình ảnh cuối cùng của ông về Thầy, một sự thực mà ông không dám nghi ngờ. Vậy nếu quả Thầy Giêsu đã sống lại như các bạn nói thì ông phải kiểm tra xem người đó có thật là Thầy cũ của mình không, kiểm tra bằng mắt và cả bằng tay để xem những dấu vết của cuộc Tử nạn có in hằn trên thân xác người đó không. Đối với Tôma, Đức Giêsu Phục Sinh phải là một với Đức Giêsu bị treo trên thập giá.
Đòi hỏi của Tôma có quá đáng ? Các môn đệ khác đã được Đức Giêsu Phục Sinh cho xem bàn tay và cạnh sườn Người ( Ga 20, 20). Còn Tôma lại đòi hỏi hơn : Ông muốn đụng chạm đến các vết thương và ông coi đó là điều kiện để ông tin. Có thể nói Tôma đáng trách vì ông muốn đích thân tiếp xúc với Đấng Phục Sinh để rồi đi đến đức tin, chứ không phải chấp nhận một đức tin dựa trên lời chứng của bè bạn, của những người bảo rằng mình đã chứng kiến.
Cũng may cho Tôma, Đức Giêsu Phục Sinh là Đấng không muốn cho một ai phải hư mất ( x Ga 17, 32), nên Người chiều ý Tôma. Người thỏa mãn những yêu sách rất táo bạo và cụ thể của ông, để rồi đưa ông trở về với đức tin. Một tuần sau, Người đến với Tôma khi ông đang “ở với” các môn đệ ( 20, 26). Đức Giêsu hiện đến như thể cho riêng Tôma mà thôi. Người lưu tâm đến tập thể nhưng Người không quên từng người, đặc biệt những ai đang gặp khó khăn, Đức Giêsu biết rõ những đòi hỏi sâu kín của một con người mang óc thực nghiệm như Tôma và Người tôn trọng cái tính khí riêng của ông. Chính Người đi bước trước đến với Tôma, mời gọi ông hãy kiểm chứng, hãy xem bằng mắt, sờ bằng tay và hãy trở lại với đức tin của cộng đoàn. Chẳng biết Tôma có dám thực hiện điều ông đã đòi hỏi không, nhưng chắc chắn thái độ yêu thương và bao dung của Đấng Phục Sinh đã chinh phục được quả tim Tôma và khiến môi ông bật lên lời tuyên xưng đức tin : “Lạy Chúa tôi và Thiên Chúa của tôi”.
Qua lời tuyên xưng này, Tôma đã đi xa hơn những gì ông đã thấy, đã đụng chạm. Trước đây Đức Giêsu đã được gọi bằng những tước hiệu khác nhau như Rabbi, Ngôn sứ, Vua Israel, Con Thiên Chúa. Sau Phục Sinh, Maria Mácđala gọi Người là Chúa và các môn đệ cũng vậy. Nhưng Tôma mới là người gọi Đức Giêsu là Thiên Chúa như Israel xưa đã xưng hô với Giavê. Lời tuyên xưng của Tôma đã được Đức Giêsu mặc nhiên chuẩn nhận ( câu 29a). Đây là lời tuyên tín phản ánh một nền Kitô học đã phát triển đến mức cao nhất của Tân ước.
Phúc cho ai không thấy mà tin.
Nếu Tin mừng Thánh Gioan kết thúc ở chương 20 thì câu nói trên là câu nói cuối cùng của Đức Giêsu. Người hướng tầm mắt về chúng ta, những con người sống sau Người hằng bao thế kỷ, những kẻ chưa một lần giáp mặt Người. Người tuyên bố rằng phúc cho chúng ta vì đã tin, dù chỉ được nghe về Người thôi. Xưa Tôma đã tin vì được thấy, còn ngày nay chúng ta tin nhờ được nghe lời chứng của các môn đệ ( 17, 20) là những người đã thấy. Như thế người không thấy cũng có phúc ngang với người thấy, và thậm chí còn có công hơn. Cả hai đều đến với đức tin bằng những con đường khác nhau. Thánh Phêro đã viết một câu thật đẹp : “anh em yêu mến Ngài tuy đã không thấy Ngài; dầu giờ đây không thấy Ngài, anh em vẫn tín thác vào Ngài, và hân hoan vì niềm vui chất ngất khôn tả” ( 1P 1, 8).
Có lần Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: “Phúc cho mắt được thấy những điều các con thấy” (Lc 10, 23).Nhiều khi chúng ta ước ao được thấy Đức Giêsu đang cầu nguyện trên núi, đang gọi Ladarô ra khỏi mồ, hay đang giảng cho đám đông chen lấn ở biền hồ Galilê. Ngày nay người ta vẫn còn bàn cãi, nghiên cứu về tấm khăn liệm ở Turinô: người ta muốn nhìn thấy khuôn mặt thật của Chúa. Tuy khao khát được thấy Đức Giêsu, nhưng nay chúng ta đã bước vào thời đại mới, thời đại chúng ta cảm nghiệm sự hiện diện vô hình của Chúa Giêsu, nhờ Thánh Thần ( Ga 14, 19).
Sống đạo hôm nay.
Ngay giữa lòng Giáo hội, giữa giáo xứ, trong từng gia đình, từng nhóm bạn, vẫn có những người đang buồn chán, đang gặp khố khăn như Tôma, những người dường như không còn tiến chung một nhịp với tập thể. Họ có thể làm chúng ta khó chịu vì sự hoài nghi, bướng bỉnh của họ. Họ không ở với tập thể, nhưng vẫn không hoàn toàn cắt đứt liên lạc với tập thể. Thái độ của Đấng Phục Sinh dạy ta không lên án hay khai trừ. Trái lại, sự bao dung nhẫn nại sẽ đưa họ trở lại chẳng những với Chúa mà cả với cộng đoàn.
Quanh chúng ta vẫn còn nhiều người chưa tin Chúa hay đã mất đức tin. Như Tôma, họ cũng đòi thấy và đụng chạm đến Thiên Chúa, đến linh hồn và đời sau. Chắc chắn Thiên Chúa chẳng phải là Đấng có thể nhìn bằng mắt, sờ bằng tay. Thế nhưng nếu hiểu “thấy và đụng chạm” theo nghĩa là “có cảm nghiệm” , thì đòi hỏi trên lại rất chính đáng. Đòi hỏi của Tôma cho ta thấy ông không phải là hạng người ngây thơ, dễ tin vào chuyên Chúa Phục Sinh. Niềm tin của chúng ta vào Chúa Phục Sinh( dưạ trên niềm tin của các tông đồ) có thể nói trở nên vững vàng hơn nhờ sự cứng lòng của Tôma…
“Nếu tôi không thấy…thì tôi không tin”. Câu nói của Tôma ngày xưa, chúng ta vẫn nghe hôm nay. Câu nói ấy là một thách đố nghiêm chính. Chúng ta phải có khả năng giúp con người hôm nay” thấy và đụng chạm” được Thiên Chúa qua việc SỐNG ĐẠO của mình, qua đời sống của một chứng nhân. Nhưng trước hết, chính chúng ta phải có cảm nghiệm sâu xa về Thiên Chúa trong cầu nguyện và trong đời thường. Chính chúng ta phải nói được như Maria Mácđala : “Tôi đã thấy Chúa’ ( Mt 20,18).
Theo Bài Giảng Chúa Nhật
Giáo phận TP.HCM
Trong tuần Phục sinh và trong mùa Phục sinh, chúng ta có nhiều đề tài để suy
niệm về Chúa Phục sinh.
Có đề tài do các bài Sách Thánh gợi lên.
Có đề tài do hoàn cảnh xã hội đặt ra.
Có đề tài do cuộc sống bản thân đưa tới.
Có đề tài do Chúa gởi vào lương tâm ta.
Riêng đối với tôi, đề tài tôi đang suy niệm là đổi mới. Đề tài này đến với tôi
một cách tự nhiên. Tôi không muốn tìm hiểu nó từ đâu tới. Chỉ biết rằng: Đổi
mới, đối với tôi, vừa là suy tư, vừa là cảm nghiệm. Nó giúp tôi rất nhiều trong
việc sống đạo theo hoàn cảnh của tôi, tại Việt Nam hôm nay.
Với tâm tình phục vụ, tôi xin chia sẻ vắn gọn.
1/ Đổi mới cái nhìn về Chúa Giêsu
Càng thêm tuổi, tôi càng cảm thấy Chúa Giêsu đến với con người một cách linh
động.
Linh động về nơi hiện ra, linh động về hình dáng hiện ra, linh động về thời giờ
hiện ra, linh động về những người Chúa muốn chọn để hiện ra thăm hỏi. Thực vậy,
trong Phúc Âm, đã có những bất ngờ về việc Chúa hiện ra. Như:
Hiện ra tảng sáng với bà Maria ở vườn Cây Dầu, nơi có mộ chôn xác Chúa (x. Ga
20,14).
Hiện ra ban tối với nhiều môn đệ đang sợ hãi trong phòng đóng kín (x. Ga 20,19).
Hiện ra buổi rạng đông với mấy môn đệ đánh cá ở hồ Tiberia (x. Ga 21,4).
Hiện ra ban chiều với hai môn đệ đang trên đường đi Emmau (x. Lc 24,13-35).
Nơi Chúa hiện ra đều bất ngờ. Thời giờ Người đến cũng bất ngờ. Hình dáng Người
tỏ hiện cũng bất ngờ. Những người được gặp Chúa cũng bất ngờ.
Điều bất ngờ nhất trong mọi bất ngờ là Chúa phục sinh đến như một Đấng Cứu thế,
giàu tình yêu thương xót, đồng hành với những người đang sống trong lo buồn, sợ
hãi, chán nản, băn khoăn, bế tắc. Người không tự đóng khung.
Chỉ cần bằng cách nào đó họ gọi Người, tìm Người, đợi chờ Người, lắng nghe
Người.
Người hiện ra bất ngờ, rồi lại biến đi bất ngờ. Những kẻ được Chúa hiện đến
viếng thăm phải sống với Người bằng niềm tin. Tin tuyệt đối vào tình yêu thương
xót của Người. Tin như thế là phó thác cậy trông không bờ bến.
Mùa Phục sinh đã đổi mới cái nhìn như thế về Chúa Giêsu nơi nhiều người, trong
đó có tôi.
Cùng với sự đổi mới trên đây, mùa Phục sinh đã đổi mới cái nhìn của tôi về thánh
giá.
2/ Đổi mới cái nhìn về thánh giá
Tôi gọi thánh giá là cây thập tự, mà Chúa Giêsu đã bị đóng đinh vào, dựng cao
lên nơi công chúng, chính trên đó Người đã tắt thở vì đau đớn thể xác và đau khổ
tâm hồn.
Cái chết của Chúa Giêsu là như thế. Đâu có chút gì giống những cái chết lẫy lừng
vang dội của bao người quyền chức trên thế giới. Trước đó, Chúa Giêsu đã chịu
biết bao đau khổ trong cuộc đời. Tất cả những đau khổ ấy cũng gọi được là thánh
giá.
Thực quá khó hiểu. Nhưng Chúa Giêsu đã nói với hai môn đệ trên đường Emmau rằng:
"Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thực là chậm tin vào lời các ngôn
sứ: Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh
quang của Người sao?" (Lc 24,25-26).
Được Chúa Giêsu giải thích và được ơn Chúa đổi mới tâm hồn, các môn đệ Chúa đã
có một cái nhìn mới về đau khổ. Ai muốn được chia sẻ vinh quang của Chúa phục
sinh sẽ phải vượt qua một số khổ đau xác hồn. Hiểu như thế, con người sẽ thấy
nhiều khổ đau mình chịu có một ý nghĩa thiêng liêng cao quý.
Sự hiểu biết thấu đáo chân lý đó sẽ được thực hiện không phải chỉ qua các lý
thuyết, nhưng phải qua các kinh nghiệm thực tế của đời mình. Đau khổ là một
trường đào tạo. Những đau khổ biết vượt qua vì tình yêu cao cả sẽ gặp được Chúa
phục sinh.
Do đó, đổi mới cái nhìn về thánh giá luôn đi kèm với việc đổi mới đời mình. Đời
ta phải là cuộc phấn đấu sống theo thánh ý Chúa trong mọi hoàn cảnh, nhất là
hoàn cảnh được sai đi.
3/ Đổi mới cái nhìn về sứ mạng được sai đi
Khi Chúa phục sinh hiện đến với các môn đệ, Người phán: "Như Chúa Cha đã sai
Thầy, thì Thầy cũng sai các con" (Ga 20,21).
Bấy giờ, các môn đệ hiểu sự Chúa Giêsu sai các ngài đi là một sứ mạng vinh
quang. Bởi vì sứ mạng được sai đi của các ngài gắn liền với sứ mạng của Chúa
Giêsu, và bắt nguồn từ chính Chúa Cha. Hơn nữa sứ mạng đó được hỗ trợ bởi chính
Chúa Thánh Thần: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần" (Ga 20,22).
Các ngài được sai đi, để làm gì? Chúa Giêsu xác định: "Phải nhân danh Đức Kitô
mà rao giảng cho mọi người sự sám hối để họ được ơn tha tội" (Lc 24,47). Rao
giảng trước hết bằng chính mình khiêm nhường sám hối. Gương sám hối của thánh
Phêrô là một bài giảng thuyết phục.
Những lời Chúa phục sinh nói với các môn đệ đã đổi mới cái nhìn về sứ mạng được
sai đi của bao người chúng ta.
Khi hiểu đúng sứ mạng đó, chúng ta sẽ có nhiều sáng kiến do Chúa Thánh Thần soi
dẫn, để đi vào dân. Dân gần chúng ta, dân xa chúng ta.
Chúng ta không được Chúa hứa sẽ nhìn thấy kết quả của sứ mạng Chúa sai chúng ta.
Nhưng chúng ta được Chúa hứa là: "Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận
thế" (Mt 28,20).
Với sự đổi mới cái nhìn về Chúa Giêsu, về thánh giá, về sứ mạng được sai đi,
biết bao môn đệ Chúa đang được Chúa phục sinh đồng hành tại quê hương Việt Nam.
Điều đáng mừng nhất là họ đổi mới sâu sắc chính mình thực sự.
Dù âm thầm, họ vẫn là hy vọng cho một Giáo Hội đang phục vụ trong tình yêu và
chân lý cứu độ. Do đó, đổi mới trong phục vụ đang trở thành một vấn đề nhạy cảm
cho việc sống đạo tại Việt Nam hôm nay.
+ GM JB Bùi Tuần
..
VATICAN. Sáng 5-4-2007, ĐTC Biển Đức 16 đã chủ sự thánh lễ làm phép dầu nhân ngày thứ 5 tuần thánh tại Đền thờ Thánh Phêrô.
Đồng tế với ĐTC trong thánh lễ lúc 9 giờ 30 sáng còn có 60 vị Hồng Y, GM thuộc các cơ quan trung ương Tòa Thánh và 1.500 linh mục, trước sự hiện diện của gần 7 ngàn tín hữu.
Trong bài giảng, ĐTC đã nhắc đến sự kiện Chúa Kitô cởi bỏ thiên tính của Ngài để mặc lấy thân phận đau khổ của con người, để chúng ta có thể nhận được những gì là của Chúa, trở nên giống Thiên Chúa. Như thánh Phaolô đã nói: ”Khi chịu phép rửa trong Chúa Kitô, anh chị em cũng được mặc lấy Chúa Kitô” (Gal 3,27). ĐTC nói: ”Chúa Kitô đã mặc lấy áo của chúng ta: đau khổ và vui mừng của con người, đói khát, mệt nhọc, hy vọng và thất vọng, sợ hãi sự chết và mọi lo âu của chúng ta cho đến cái chết. Và Ngài đã cho chúng ta các ”áo” của Ngài..”
ĐTC cũng
quảng diễn ý nghĩa các phẩm phục linh mục và những lời nguyện LM đọc khi mặc các
phần của bộ áo lễ, và ngài khẳng định rằng: ”Sự kiện chúng ta ở bàn thờ, mặc
phẩm phục phụng vụ, phải tỏ cho mọi người hiện diện thấy rõ ràng chúng ta ở đó
”trong cương vị của một Đấng Khác”. Các phẩm phục linh mục, như được phát triển
qua dòng thời gian, là một biểu tượng sâu xa về ý nghĩa của chức linh mục”.
ĐTC quảng diễn chi tiết ý nghĩa của khăn choàng vai, tượng trưng kỷ luật về giác
quan và tư tưởng cần phải có để cử hành Thánh Lễ một cách đúng đắn; áo chùng
trắng và dây các phép (stola) gợi lại áo đại lễ mà người cha tặng cho người con
hoang đàng trở về. Ngài nói: ”Khi đến gần phụng vụ để hành động trong cương vị
Chúa Kitô, chúng ta thấy tất cả chúng ta xa cách Người, bao nhiêu điều nhơ bẩn
trong đời sống chúng ta.. Và chúng ta cần được thanh tẩy bằng Máu Chiên Con là
Tình Yêu của Chúa Kitô chịu đóng đanh. Sau cùng là áo lễ tượng trưng cái ách của
Chúa, gợi lại lời Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy mang lấy ách của Ngài và học
hỏi cùng Ngài là Đấng hiền hành là khiêm nhường trong lòng.”
Sau bài giảng của ĐTC, các HY, GM và LM hiện diện đã lập lại những lời đã hứa khi chịu chức linh mục: sống kết hiệp sâu xa với Chúa Giêsu, mẫu gương của các linh mục, từ bỏ mình và tái quyết tâm thi hành những nhiệm vụ thánh, trung thành phân phát các mầu nhiệm Thiên Chúa, nhờ việc cử hành Thánh Lễ và các hoạt động phụng vụ khác, chu toàn sứ vụ lời cứu độ noi gương Chúa Kitô, không để cho những lợi lộc phàm nhân hướng dẫn, nhưng theo sự hướng dẫn của tình yêu đối với anh em đồng loại.
Tiếp đến, ĐTC đã làm phép dầu dự tòng, dầu bệnh nhân và dầu thánh hiến (Crisma). Các dầu này do hãng Arte Alimentación ở Castelserár bên Tây Ban Nha tặng cho ĐTC.
LỄ CHIỀU
Lúc 5 giờ rưỡi chiều cùng ngày 5-4-2007, ĐTC đã cử hành thánh lễ tại Đền thờ Thánh Gioan Laterano là nhà thờ chính tòa của Giáo phận Roma, để mừng kính biến cố Chúa Giêsu lập phép Thánh Thể trong bữa tiệc ly.
Đế với ĐTC còn có đông đảo các HY, GM và đại diện hàng Linh mục giáo phận Roma, và lối 5 ngàn người, đặc biệt là ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh.
Trong bài giảng, ĐTC đã nhấn mạnh ý nghĩa lễ Vượt Qua mới so với lễ Vượt Qua của dân Do Thái. Chiên con trong Lễ mới này chính là Chúa Giêsu, như đã được thánh Gioan Tẩy Giả báo trước vào đầu sứ vụ công khai của Chúa: ”Đây là Chiên Thiên Chúa, đây là Đấng gánh tội trần gian!” (Gv 1,29). Máu của Người, tình yêu của Đấng vừa là Con Thiên Chúa vừa là người thật, một người trong chúng ta, chính máu ấy có thể cứu độ. Tình yêu của Ngài là tình yêu cứu vớt chúng ta.. Vì thế Lễ Vượt Qua của các tín hữu Kitô trở thành lễ tưởng niệm hoạt động cứu độ của Thiên Chúa, trở thành lễ tưởng niệm thập giá và sự phục sinh của Chúa Kitô, một lễ tưởng niệm không phải chỉ gợi lại quá khứ nhưng còn thu hút chúng ta đi vào sự hiện diện của tình yêu Chúa Kitô”.
Sau bài giảng, ĐTC đã cử hành nghi thức rửa chân cho 12 thanh niên giáo dân. Trong lúc đó cũng tiến hành việc lạc quyên nơi các tín hữu tham dự thánh lễ để trao cho ĐTC và ngài sẽ chuyển tới tổ chức bác ái Caritas Somali để cứu trợ dân chúng nước này đang chịu đau khổ vì nội chiến từ nhiều năm nay, cụ thể là giúp bệnh xá Baidoa ở nước này.
Đức Cha Giorgio Bertin, Giám quản Tông tòa giáo phận Mogadiscio, thủ đô Somali, và cũng là Chủ tịch Caritas nước này, cho biết tin về cuộc lạc quyên này thực là một điều an ủi cho nhân dân Somali từ lâu ở trong tình trạng rất bất an về chính trị. Tại nước này có 400 ngàn người tị nạn, ngoài ra có hàng chục ngàn người tị nạn khác chạy ra nước ngoài.
Đức Cha Bertin không thường trú tại Mogadiscio. Ngài nhắc đến các cuộc giao tranh hôm 29-3-2007 giữa các nhóm phiến quân Hồi giáo và lực lượng chính phủ do Etiopi ủng hộ, làm cho hàng trăm người chết, bị thương và người tị nạn, đồng thời gây nguy hiểm cho tiến trình hòa bình tại nước này. Đức Cha cũng nhắc đến sự hy sinh của nữ tu Leonella, 66 tuổi, thừa sai người Italia bị sát hại tại Mogadiscio ngày 17-9 năm 2006 tại nhà thương nhi đồng nơi chị phục vụ. (SD 5-4-2007)
G. Trần Đức Anh OP
VATICAN. Lúc 5 giờ chiều Thứ Sáu Tuần Thánh 6-4-2007, ĐTC Biển Đức 16 đã chủ tọa nghi thức trọng thể tại Đền thờ Thánh Phêrô để tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, trước sự hiện diện của gần 10 ngàn tín hữu, 30 Hồng Y và nhiều GM tại Tòa Thánh.
Hai vị tháp tùng ĐTC là ĐHY Francesco Marchisano, nguyên Giám quản Đền thờ Thánh Phêrô và ĐHY Javier Lozano Barragan, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh mục vụ y tế.
Sau bài Thương Khó, Cha Raniero Cantalamessa, dòng Capuchino, Giảng thuyết viên tại Phủ Giáo Hoàng từ 26 năm nay, đã diễn giảng về đề tài ”Đứng gần thập giá cũng có một số phụ nữ”.
Cha Cantalamessa đề cao sự kiện các phụ nữ ấy là những người duy nhất đã không vấp phạm vì Chúa Giêsu, và theo các trình thuật Tin Mừng, không một phụ nữ nào đã can dự vào việc lên án Chúa; cả phụ nữ ngoại giáo duy nhất được nhắc tới là vợ quan Tổng Trấn Philato, cũng không đồng thuận với việc kết án Chúa (Mt 27,19). Các phụ nữ cũng là những người không bỏ rơi Chúa, họ là những đầu tiên được thấy Chúa Phục Sinh và được ủy thác sứ mạng mang tin này cho các tông đồ.”
Vị Giảng Thuyết tại Phủ Giáo Hoàng đã tìm cách trả lời câu hỏi: tại sao các phụ nữ đã không vấp phạm vì thập giá? Tại sao họ ở gần thập giá giữa lúc mọi sự dường như chấm dứt và cả các môn đệ thân tín nhất cũng bỏ rơi Chúa và trở về nhà? Chính Chúa Giêsu đã trả lời trước cho những câu hỏi đó khi ngài trả lời cho ông Simon và nói về người phụ nữ tội lỗi đã rửa và hôn chân Ngài: ”Bà đã yêu nhiều” (Lc 7,47). Các phụ nữ đã theo Chúa Giêsu vì chính Chúa, vì biết ơn đối với những gì đã lãnh nhận từ Ngài chứ không phải vì muốn được công danh sự nghiệp nhờ theo Chúa.
Từ những nhận xét trên đây, Cha Cantalamessa đã rút ra những bài học cho thời đại văn minh kỹ thuật ngày nay và nói rằng: ”Nền văn minh của chúng ta, bị kỹ thuật thống trị, cần có một con tim để con người có thể sống còn trong văn minh ấy mà không bị mất đi tính người. Chúng ta phải dành nhiều chỗ hơn cho những ”lý lẽ của con tim”.
Vị Giảng Thuyết đặc biệt bác bỏ thành kiến sai lầm đã có từ xa xưa do thuyết ngộ giáo, theo đó để được cứu thoát, phụ nữ phải ngưng là phụ nữ và biến thành đàn ông. Thành kiến đó phổ biến đến độ để khẳng định phẩm giá của mình, nhiều phụ nữ nhiều khi đã tin rằng cần phải có những thái độ giống như nam giới, hoặc coi nhẹ sự khác biệt phái tính, và coi đó chỉ là một sản phẩm của văn hóa. Một người đại diện nổi tiếng của nhóm này, bà Simone de Beauvoir, đã nói ”Người ta không sinh ra là phụ nữ, nhưng người ta trở thành phụ nữ” (Le Deuxième Sexe, 1949).
Và Cha
Cantalamessa kết luận rằng: ”Hỡi các phụ nữ Kitô, hãy tiếp tục mang Tin Mừng cho
những người kế vị các Tông Đồ, cho các LM chúng tôi là những cộng sự viên của
các vị rằng: ”Thầy đang sống! Thầy đã sống lại rồi! Người đi trước các ông đến
miền Galilea, nghĩa là bất cứ nơi nào các ông đi tới! Các ông đừng sợ!”.
Lễ nghi được tiếp nối với 10 lời nguyện cho các nhu cầu của Công Giáo và mọi
thành phần trong nhân loại. Kế đến là nghi thức tôn thờ Thánh Giá và phần hiệp
lễ. 90 LM đã phân phát Mình Thánh Chúa cho các tín hữu.
Lúc 9 giờ 15 phút tối cùng ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, ĐTC Biển Đức 16 đã chủ sự buổi đi đàng Thánh Giá trọng thể tại hý trường Colosseo ở Roma. Nghi thức này được 67 đài truyền hình tại 41 quốc gia năm châu truyền đi trên hệ thống Mondovisione. Hàng chục ngàn tín hữu đã đến tham dự nghi thức này.
ĐTC đã vác Thánh Giá chặng đầu tiên và chặng thứ 14 của Đàng Thánh Giá. Những người vác thập giá tại các chặng còn lại lần là ĐHY Camillo Ruini, Giám quản Roma, một thiếu nữ thuộc giáo phận Brazaville bên Congo, một gia đình thuộc giáo phận Roma, một thanh nữ thuộc giáo phận Talca bên Chile, một thanh nữ khác thuộc giáo phận Incheon Nam Hàn, một thanh nữ người Hoa, 2 tu sĩ dòng Phanxicô ở Thánh Địa, một thanh nữ thuộc tổng giáo phận Luanda, thủ đô Angola.
Bài suy niệm đàng Thánh Giá năm nay do Đức Ông Gianfranco Rasavi, Giáo sư Kinh Thánh tại giáo phận Milano, bắc Italia, biên soạn. Đức Ông là tác giả của 50 cuốn sách về Kinh Thánh. Các chặng được chọn là những biến cố được trình bày rõ rệt trong Kinh Thánh, và bỏ qua những chặng không được nói đích thị như bà Veronica trao khăn cho Chúa lau mặt, hoặc Chúa Giêsu ngã xuống đất 3 lần. Việc thay đổi các chặng này cũng đã xảy ra trong cuộc đi đàng thánh giá trọng thể tại hý trường Colosseo hồi năm 1991.
Giống như năm ngoái, các bài suy niệm này được phổ biến rộng rãi trước đó từ ngày thứ hai tuần thánh 2-4-2007.
G. Trần Đức Anh OP
Theo Radio Vatican
Anh Chị Em thân mến!
Từ thời cổ xưa, phụng vụ ngày Lễ Phục Sinh đã được bắt đầu bằng những lời này: Resurrexi et adhuc tecum sum – Con đã sống lại và vẫn ở với Cha; tay của Cha đã chạm đến Con. Phụng vụ thấy rằng đó là những lời đầu tiên do Người Con nói cùng Cha sau cuộc phục sinh của Người, sau khi Người từ đêm tối của sự chết trở về với thế giới của kẻ sống. Tay của Cha ở trên Người cho dù vào đêm ấy, nhờ đó Người đã sống lại.
Những lời này được trích từ Thánh Vịnh 138 là nơi những lời ấy mang một ý nghĩa khác. Bài Thánh Vịnh này là một bài ca ngỡ ngàng trước sự toàn năng và toàn hữu của Thiên Chúa, một bài thánh ca tin tưởng vào Vị Thiên Chúa không bao giờ để cho chúng ta buông khỏi bàn tay của Ngài. Mà tay của Ngài là bàn tay tốt lành. Thánh Vịnh Gia tự mình mường tượng thấy cuộc hành trình tiến tới những nơi xa thẳm nhất của vũ trụ càn khôn – và những gì xẩy ra cho ông? ‘Nếu tôi lên trời thì Ngài ở đó! Nếu tôi xuống âm phủ thì Ngài cũng có đó! Nếu tôi cất cánh bay đến ở những hải đảo xa xăm nhất thì cho dù là ở đó bàn tay của Ngài cũng vẫn dẫn dắt tôi, và tay Ngài sẽ gìn giữ tôi. Nếu tôi nói rằng chung quanh tôi chỉ có tối tăm… thì cho dù tăm tối cũng không tối tăm trước nhan Ngài…; vì tối tăm là ánh sáng đối với Ngài’ (Ps 138[139]:8-12).
Vào ngày Lễ Phục Sinh, Giáo Hội nói với chúng ta rằng Chúa Giêsu Kitô đã thực hiện cuộc hành trình này cho tới tận cùng vũ trụ vì chúng ta. Trong Thư gửi cho Giáo Đoàn Êphêsô, chúng ta đọc thấy rằng Người đã xuống sâu trong lòng đất, và Đấng đã xuống này cũng là Đấng đã lên trên các tầng trời, để Người có thể hoàn thành tất cả mọi sự (x 4:9ff). Bởi thế, nhãn quan của bài Thánh Vịnh này đã trở thành thực tại. Trong cái bóng tối bất khả thấu của sự chết Chúa Kitô đã xuất hiện như ánh sáng – đêm đã trở thành rạng rỡ như ban ngày và tối tăm trở nên như ánh sáng. Bởi vậy mà Giáo Hội mới có lý để coi những lời tạ ơn và tin tưởng này như là những lời được Chúa Kitô Phục Sinh thưa cùng Cha của Người: ‘Vâng, Con đã hành trình cho tới tận cùng trái đất, cho tới vực thẳm của sự chết, và đã mang đến cho họ ánh sáng; giờ đây Con đã sống lại và Con vĩnh viễn được bàn tay Cha gìn giữ’ Thế nhưng, những lời này của Chúa Kitô Phục Sinh thưa cùng Cha cũng đã trở thành những lời Chúa Kitô muốn nói với chúng ta: ‘Thày đã sống lại và giờ đây Thày vẫn ở với các con’, Người đang nói với từng người chúng ta. Bàn tay của Thày gìn giữ các con. Bất cứ các con sa ngã ở chỗ nào thì các con cũng vẫn luôn rơi vào bàn tay của Thày. Tôi hiện diện thậm chí ở ngay cả ngưỡng cửa sự chết. Nơi nào không có ai hộ tống con xa hơn nữa, và ở đâu con chẳng mang lại gì, thì ngay ở đó Thày đang đợi chờ con, và vì con mà Thày biến tối tăm thành ánh sáng’.
Những lời này của bài Thánh Vịnh ấy, đọc như là một cuộc đối thoại giữa Chúa Kitô Phục Sinh và chính chúng ta, cũng giải thích cho thấy những gì xẩy ra nơi Phép Rửa. Phép Rửa không phải chỉ là một bể nước , một cuộc thanh tẩy. Nó không phải chỉ là trở thành phần tử của một cộng đồng. Nó là một cuộc tái sinh. Một khởi điểm mới trong cuộc đời. Đoạn Thư gửi Giáo Đoàn Rôma chúng ta vừa đọc nói bằng những lời đầy huyền nhiệm rằng nơi Phép Rửa chúng ta đã được ‘tháp nhập’ vào Chúa Kitô nhờ nên giống như cái chết của Người. Nơi Phép Rửa, chúng ta hiến mình cho Chúa Kitô – Người đã liên kết chúng ta với Người, để chúng ta không còn sống cho chính mình mà là sống nhờ Người, với Người và trong Người; để chún g ta sống với Người và nhờ đó cho kẻ khác. Nơi Phép Rửa, chúng ta kký thác bản thân mình, chúng ta phó mặc sự sống của chúng ta trong tay Người, và do đó chúng ta có thêånói như Thánh Phaolô là ‘không phải tôi là người sống nữa mà là Chúa Kitô sống trong tôi’. Nếu chúng ta hiến thân mình như thế, nếu chúng ta thực sự chấp nhận chết đi cho chính mình, thì có nghĩa là biên giới giữa sự chết và sự sống tuyệt đối biến mất. Thánh Phaolô đã nói rất rõ ràng với chúng ta về điều này trong Thư gửi Giáo Đoàn Philiphê rằng: ‘Đối với tôi sống là Chúa Kitô. Để được ở với Người b ằng cách chết đi là một thắng lợi. Thế nhưng, nếu tôi vẫn còn sống trong cuộc đời này thì tôi vẫn còn lao nhọc một cách tốt đẹp. Và tôi bị dồn ép giữa hai điều. Một là ra đi – bằng việc bị xử quyết – và một đàng được ở với Đức Kitô; đằng nào tốt hơn. Thế nhưng ở lại trên trần gian này thì cần thiết cho anh em hơn’ (cf 1:21ff). Về cả hai mặt của biên giới sự chết, Thánh Phaolô ở với Chúa Kitô – không còn một sự khác biệt thực sự nào hết. Phải, thật thế: ‘Đằng sau và đằng trước Ngài vây lấy tôi, bàn tay của Ngài chạm đến tôi’ (Ps 138[139]:5). Thánh Phaolô đã viết cho Tín Hữu Rôma rằng: ‘Không ai… sống cho chính mình và không ai chết cho chính mình… Dù chúng ta sống hay dù chúng ta chết, chúng ta đều thuộc về Chúa’ (Rm 14:7ff).
Quí ứng sinh lãnh nhận Phép Rửa thân mến, đây là những gì mới mẻ về Phép Rửa: đời sống của chúng ta giờ đây thuộc về Chúa Kitô và chúng ta không còn sống cho chính mình nữa. Bởi thế chúng ta sẽ không bao giờ bị cô độc, ngay cả trong sự chết, thế nhưng luôn ở với Đấng hằng sống đến muôn đời. Nơi Phép Rửa, cùng với Chúa Kitô, chúng ta đã làm cho cuộc hành trình vũ trụ này tiến tới tận đáy vực của chết chóc. Ở bên cạnh Người, đúng hơn được tình yêu Người lôi kéo, chúng ta được thoát khỏi sợ hãi. Ngài đang bao bọc chúng ta và chở chúng ta đến bất cứ nơi nào chúng ta tới – Người là chính Sự Sống.
Một lần nữa chúng ta hãy trở về với đêm Thứ Bảy Tuần Thánh. Trong Kinh Tin Kính chúng ta đọc về cuộc hành trình của Chúa Kitô là Người ‘đã xuống ngục tổ tông’. Những gì đã xẩy ra vào lúc ấy? Vì chúng ta không biết gì về thế giới xủa kẻ chết, chúng ta chỉ có thể tưởng tượng việc Người vinh thắng sự chết bằng sự giúp đỡ của các hình ảnh là những gì vẫn rất ư là thiếu hụt. Tuy nhiên , dù có thiếu hụt đi nữa, chúng vẫn có thể giúp chúng ta hiểu được một điều gì đó về mầu nhiệm này. Phụng vụ áp dụng cho việc Chúa Giêsu đi xuống bóng đêm của sự chết những lời này của bài Thánh Vịnh 23[24]: ‘Ôi các cổng, hãy ngẩng đầu lên; Ôi cửa ngàn xưa hãy nâng mình lên nữa!’ Các cổng của sự chết đã đóng lại, không ai có thể từ đó trở lại được nữa. Không có chìa khóa nào cho các cửa sát ấy. Thế nhưng Chúa Kitô lại có chìa khóa. Thánh Giá của Người mở rộng cánh cửa sự chết, những cửa kiên cố. Chúng không còn bị cửa đóng then gài nữa. Thán h Giá của Người, tình yêu trọn vẹn của Người, là chìa khóa mở chúng. Tình yêu của Đấng mặc dù là Thiên Chúa cũng đã hóa thân làm người để chết đi – tình yêu ấy c ó quyền lực để mở các cửa ấy ra. Tình yêu này mạnh hơn sự chết. Những hình ảnh Phục Sinh của Giáo Hội Đông Phương cho thấy Chúa Kitô đã làm thế nào để tiến vào thế giới của kẻ chết. Người đã mặc ánh sáng, vì Thiên Chúa là ánh sáng. ‘Đêm sáng như ban ngày, tối tăm như ánh sáng’ (x Ps 138[139]:12). Khi tiến vào thế giới của kẻ chết, Chúa Giêsu mang các dấu thánh, những dấu hiệu khổ nạn của Người: các vết thương của Người, nỗi khổ đau của Người, đã trở nên quyền uy mãnh lực: chúng là tình yêu chế ngự sự chết. Người đã gặp Adong cùng với tất cả mọi con người n am nữ đang đợi chờ trong đêm tối chết chóc. Khi chúng ta nhìn vào họ, chúng ta có thể nghe thấy âm vang của lời tiên tri Giona cầu nguyện rằng: ‘Từ lòng âm phủ tôi kêu lên, và Chúa đã nghe tiếng tôi’ (Jon 2:2). Trong việc nhập thể, Con Thiên Chúa trở nên một với loài người – với Adong. Thế nhưng, chỉ vào lúc bấy giờ, lúc Người làm trọn tác động cao cả yêu thương bằng việc xuống với đêm tối tử vong, mà Người đã đưa cuộc hành trình nhập thể đến chỗ hoàn thành. Bằng việc tử nạn của mình, giờ đây Người siết lấy bàn tay của Adong, của hết mọi người nam nữ đang đợi chờ Người để mang họ tới với ánh sáng.
Thế nhưng, chúng ta có thể hỏi rằng: đâu là ý nghĩa của tất cả những hình ảnh này? Đâu là những gì mới mẻ nơi những gì đã xẩy ra cho Chúa Kitô? Linh hồn con người được dựn g nên bất tử – thì đâu là chính những gì mới mẻ do Chúa Kitô mang đến? Linh hồn thực sự là bất tử, vì con người đặc biệt ở trong ký ức và tình yêu thương của Thiên Chúa, cho dù cả sau khi sa ngã. Thế nhưng các quyền năng riêng của họ vẫn không đủ để nâng họ lên tới Thiên Chúa. Chúng ta thiếu những cánh cần thiết để đưa chúng ta tới những chóp đỉnh ấy. Tuy nhiên, cũng không có gì khác có thể thỏa đáng con người một cách vĩnh hằng ngoại trừ được ở với Thiên Chúa. Một cõi vĩnh hằng mà lại thiếu cuộc hiệp nhất với Thiên Chúa ấy sẽ là một trừng phạt. Con người không thể đạt được những tuyệt đỉnh ấy tự mình, tuy nhiên họ khát khao chúng. ‘Từ đáy lòng tôi kêu lên Chúa…’ Chỉ có duy một mình Chúa Kitô Phục Sinh mới có thể mang lại cho chúng ta mối hiệp nhất trọn vẹn với Thiên Chúa, tới nơi mà khả năng riêng của chúng ta không thể mang chúng ta tới n ổi. Thực sự là Chúa Kitô đã vác con chiên lạc trên vai mình mà mang nó về. Gắn bó với Thân Thể của Người chúng ta có sự sống, và hiệp thông với Thân Thể của Người chúng ta tiến tới chính cõi lòng của Thiên Chúa, sự chết có bị chế ngự như thế, chúng ta mới được giải phóng và đời sống của chúng ta mới có hy vọng.
Đó là niềm vui của Lễ Vọng Phục Sinh: ở chỗ chúng ta được giải phóng. Trong cuộc phục sinh của Chúa Giêsu, tình yêu đã tỏ ra mạnh hơn sự chết, mạnh hơn sự dữ. Tình yêu làm cho Chúa Kitô đi xuống, và tình yêu cũng là quyền năng làm cho Người đi lên. Quyền năng Người mang chúng ta đến với Người. Hiệp nhất với tình yêu của Người, được mang trên những cánh yêu thương, như những con người của yêu thương, chúng ta hãy cùng Người đi xuống bóng tối của thế giới, biết rằng nhờ đó chúng ta cũng sẽ được đi lên với Người. Bởi vậy, vào đêm này, chúng ta hãy nguyện cầu: Lạy Chúa, xin tỏ cho chúng con thấy rằng tình yêu mạnh hơn hận thù, tình yêu mạnh hơn chết chóc. Xin Chúa hãy xuống tới bóng tối và vực thẳm của thời đại tân tiến của chúng con đây, và hãy nắm lấy tay của những ai đang đợi chờ Chúa. Xin hãy mang họ về với ánh sáng! Trong những đêm đen của riêng con, xin hãy ở với con để mang con lên! Xin hãy giúp con, giúp tất cả chúng con, để cùng với Chúa chúng con xuống với tối tăm của tất cả những ai vẫn đang đợi chờ Chúa, thành phần kêu lên Chúa từ vực sâu! Xin hãy giúp chúng con mang lại cho họ án h sáng! Xin hãy giúp chúng con thưa ‘vâng’ với tình yêu, một tình yêu làm cho chúng con xuống với Chúa, và nhờ thế cũng lên với Chúa. Amen!
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/homilies/2007/documents/hf_ben-xvi_hom_20070407_veglia-pasquale_en.html
Anh Chị Em thân mến trên khắp thế giới,
Những con người nam nữ thiện tâm!
Chúa Kitô đã sống lại! Bình an cho anh chị em! Hôm nay chúng ta cử hành một mầu nhiệm cao cả, nền tảng của đức tin và niềm hy vọng Kitô Giáo, đó là Đức Giêsu Thành Nazarét, Đấng Tử Giá, đã sống lại từ trong kẻ chết vào ngày thứ ba theo lời Thánh Kinh. Hôm nay chúng ta cảm thấy lại xúc động lắng nghe lời loan báo của các vị thiên thần vào rạng đông của ngày thứ nhất sau Ngày Hưu Lễ với Maria Maiđệliên cũng như với những phụ nữ tại ngôi mộ rằng: ‘Tại sao các bà lại tìm kiếm nơi kẻ chết người còn sống chứ? Người không còn đây, Người đã sống lại rồi!’ (Lk 24:5-6).
Không khó khăn cho lắm khi mường tượng ra những cảm giác của những người phụ nữ này vào lúc ấy: những cảm giác buồn thảm trước cái chết của Chúa, những cảm giác không thể nào tin nổi và bàng hoàng trước một sự kiện có thật cũng đầy kinh hồn nữa. Thế nhưng ngôi mộ đã mở toang và trống không: thân thể không còn ở đó nữa. Phêrô và Gioan, được những người đàn bà này báo tin, đã chạy ra mộ và thấy các bà nói đúng. Đức tin của các vị Tông Đồ nơi Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai được trông chờ, đã phải trải qua một cuộc thử thách trầm trọng trước cái ô nhục của thập giá. Các vị đã tản mát khi Người bị bắt giam, bị kết án và tử nạn. Giờ đây các vị qui tụ lại một lần nữa, hoang mang bối rối. Thế nhưng, chính Đấng Phục Sinh xuất hiện để đáp lại nỗi khát khao cho một niềm tin mạnh mẽ hơn. Cuộc gặp gỡ ấy không phải là một giấc mơ hay một ảo tưởng hoặt một thứ tưởng tượng chủ quan; nó là một cảm nghiệm thực sự, cho dù là không ngờ, mà càng thế lại càng đặc biệt. ‘Chúa Giêsu đã đến đứng giữa các ông mà nói cùng các ông rằng: bình an cho các con!’ (Jn 20:19).
Trước những lời ấy, đức tin của họ, một đức tin hầu như mất tiêu nơi họ, lại được bừng lên. Các vị Tông Đồ bảo Tôma là người đã vắng mặt vào lần gặp gỡ đầu tiên ấy rằng: Đúng thế, Chúa đã làm trọn tất cả những gì Người đã nói trước; Người thực sự đã sống lại và chúng tôi đã thấy và chạm đến Người! Tuy nhiên, Tôma vẫn nghi ngờ và cảm thấy hoang mang. Khi Chúa Giêsu hiện đến lần thứ hai, 8 ngày sau ở Căn Thượng Lầu, Người đã nói cùng ông rằng: ‘Hãy xỏ ngón tay con vào tay của Thày, và hãy thọc bàn tay vào cạnh sườn Thày, đừng cứng lòng, nhưng hãy tin!’ Lời đáp ứng của vị tông đồ này là một lời tuyên xưng đức tin đầy cảm kích: ‘Lạy Chúa tôi và lạy Thiên Chúa của tôi!’ (Jn 20:27-28).
‘Lạy Chúa tôi và lạy Thiên Chúa của tôi!’ Cả chúng ta nữa cũng lập lại lời tuyên xưng đức tin này của tông đồ Tôma. Tôi đã chọn những lời này cho lời chào mừng Phục Sinh của tôi năm nay, vì ngày nay nhân loại trông đợi nơi Kitô hữu một chứng từ mới mẻ về cuộc phục sinh của Chúa Kitô; cần phải gặp gỡ Người và nhận biết Người là Thiên Chúa thật và là người thật. Nếu chúng ta có thể nhận thấy nơi vị Tông Đồ này những mối ngờ vực và bất định của rất nhiều Kitô hữu ngày nay, những nỗi sợ hãi và những niềm thất vọng nơi những người đương thời của chúng ta, thì với ngài chúng ta cũng có thể tái khám phá niềm tin tưởng vào Chúa Kitô tử nạn và phục sinh, bằng một niềm xác tín mới. Đức tin này, được truyền lại qua các thế kỷ bởi các vị thừa kế các Tông Đồ, tiếp tục thể hiện vì Chúa Kitô không còn chết nữa. Người đang sống trong Giáo Hội và mạnh mẽ hướng dẫn Giáo Hội hướng tới tầm vóc viên trọn của dự án cứu độ muôn đời.
Tất cả chúng ta đều bị thử thách bởi niềm bất tín như tông đồ Tôma. Đau khổ, sự dữ, bất công, sự chết, nhất là khi xẩy ra cho thành phần vô tội, như trẻ em nạn nhân của chiến tranh và khủng bố, của bệnh tật và đói khổ, chẳng phải là tất cả những gì thử thách đức tin của chúng ta hay sao? Ngược đời thay, niềm bất tín của tông đồ Tôma lại là những gì đáng giá nhất cho chúng ta trong những trường hợp ấy, vì nó giúp thanh tẩy tất cả những quan niệm sai lầm về Thiên Chúa và dẫn chúng ta tới chỗ khám phá ra chân dung của Ngài: chân dung của một Vị Thiên Chúa, Đấng, trong Đức Kitô, đã mang trên mình các thương tích của nhân loại bị thương. Tông đồ Tôma đã lãnh nhận từ Chúa, và chính ngài đã truyền đạt cho Giáo Hội, tặng ân của một đức tin bị thử thách bởi cuộc khổ nạn và tử nạn của Chúa Giêsu, và được củng cố bởi cuộc hội ngộ với Người. Đức tin của ngài hầu như đã chết song đã tái sinh nhờ việc ngài chạm tới các vết tích của Chúa Kitô, những vết thương mà Đấng Phục Sinh không giấu diếm song tỏ ra, và tiếp tục tỏ ra cho chúng ta trong các cơn gian nan thử thách và khổ đau của hết mọi người.
‘Nhờ thương tích của Người mà anh em được chữa lành’ (1Pt 2:24). Đó là sứ điệp được Thánh Phêrô ngỏ cùng thành phần tân tòng ban đầu. Những thương tích ấy, những thương tích ban đầu đã là chứơng ngại vật cho niềm tin của tông đồ Tôma, là dấu hiệu hiển nhiên thua bại của Chúa Giêsu, thì cũng những thương tích này đã trở thành những dấu hiệu của một tình yêu vinh thắng nơi cuộc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh. Những thương tích Chúa Kitô đã chịu vì yêu thương chúng ta giúp chúng ta hiểu được Thiên Chúa là ai và lập lại rằng: ‘Lạy Chúa tôi và lạy Thiên Chúa của tôi!’ Chỉ có duy một mình Thiên Chúa là Đấng yêu thương chúng ta đến nỗi hứng chịu các thương tích và đớn đau của chúng ta, nhất là khổ đau vô tội, mới đáng chúng ta tin tưởng mà thôi.
Biết bao nhiêu là thương tích, bao nhiêu là khổ đau đang xẩy ra trên thế giới này! Không thiếu những tai ương thiên nhiên và những thảm cảnh nhân loại gây ra cho vô số nạn nhân và hủy hoại vật chất vô vàn. Tôi đang nghĩ đến các biến cố mới đây tại Madagascar, thuộc Hải Đảo Solomon, ở Mỹ Châu Latinh, cũng như ở các miền khác trên thế giới. Tôi đang nghĩ đến nạn đói khát, các thứ bệnh tật bất trị, đến nạn khủng bố và bắt cóc con người, đến hằng ngàn hình thức bạo động được một số người cố gắng biện minh nhân danh tôn giáo, về việc khinh khi sự sống, về việc vi phạm đến nhân quyền và về việc khai thác con người ta. Tôi e ngại nghĩ đến các điều kiện đang chi phối ở một số miền Phi Châu. Ở Darfur cũng như ở các xứ sở lân bang đang xẩy ra một tình trạng nhân đạo thảm khốc nếu không muốn nói là coi thường. Ở Kinshasa t huộc Cộng Hòa Dân Chủ Congo, vấn đề bạo động và hôi của trong những tuần qua gây ra âu lo cho tương lai của tiến trình dân chủ hóa người Congo và tái thiết xứ sở này. Ở Somalia, cuộc chiến tái diễn hủy hoại viễn tượng hòa bình và làm tồi tệ hơn cuộc khủng hoảng trong vùng, nhất là về việc phân tán dân chúng và việc buôn bán các thứ vũ khí. Zimbabwe đang bị khốn đốn với một cuộc khủng hoảng trầm kha nên các vị giám mục của xứ sở này, trong một văn kiện mới đây, đã xin cầu nguyện và cùng dấn thân cho công ích như là đường lối duy nhất để tiến lên.
Cũng thế, nhân dân ở Đông Timor cần hòa giải và an bình khi nước này sửa soạn thực hiện các cuộc tuyển cử. Cả các nơi khác nữa, hòa bình hết sức cần thiết như ở Sri Lanka thì chỉ cần giải quyết thương thảo là có thể chấm dứt cuộc xung khắc đã gây ra đổ máu rất nhiều; A Phú Hãn được đánh dấu bẳng tình trạng gia tăng hỗn độn và bất ổn; ở Trung Đông, ngoài một số dấu hiệu hy vọng trong cuộc đối thoại giữa Do Thái và thẩm quyền Palestine, không có gì là tích cực ở Iraq cả, một quốc gia bị tan nát bởi cuộc tàn sát liên tục trong lúc thành phần dân sự tháo chạy. Ở Libăng, tình trạng tê liệt của các cơ cấu chính trị nơi quốc gia này đang đe dọa tới vai trò mà quốc gia ấy được kêu gọi để đóng tại Trung Đông và đưa tương lai của nó đến một nguy cơ trầm trọng. Sau hết, tôi không thể quên được những khốn khó hằng ngày gây ra cho các cộng đồng Kitô hữu và cuộc xuất hành của các Kitô hữu khỏi Mảnh Đất phúc lành là cái nôi đức tin của chúng ta. Tôi thiết tha lập lại với những thành phần dân chúng này niềm bày tỏ gắn bó thiêng liêng của tôi.
Anh Chị Em thân mến, qua các vết thương của Chúa Kitô Phục Sinh, chúng ta có thể thấy các thứ sự dữ đang hành hạ nhân loại bằng con mắt hy vọng. Thật vậy, bằng việc phục sinh của mình, Chúa Kitô đã không cất đi khổ đau và sự dữ khỏi thế giới này, mà là khống chế chúng tận gốc của chúng với dồi dào ân sủng của Người. Người đã đương đầu với cái ngạo mạn của sự dữ bằng uy quyền của tình Người yêu thương. Người đã để lại cho chúng ta một tình yêu không sợ tử thần, như đường lối dẫn đến hòa bình và niềm vui. ‘Như Thày đã yêu thương các con thế nào – Người đã nói với các môn đệ của mình trước khi chết – thì các con cũng hãy yêu thương nhau như thế’ (x Jn 13:34).
Những anh chị em trong niềm tin, những người đang nghe tôi ở khắp nơi trên thế giới! Chúa Kitô đã sống lại và Người đang sống giữa chúng ta. Người chính là niềm hy vọng cho một tương lai tốt đẹp hơn. Với tông đồ Tôma chúng ta hãy thưa rằng: ‘Lạy Chúa tôi, lạy Chúa Trời tôi, chớ gì chúng ta nghe nó một lần nữa trong tâm can của chúng ta những lời tuyệt vời song đòi hỏi của Chúa là: ‘Nếu ai phụng sự Tôi thì hãy theo Tôi; Tôi ở đâu thì tôi tớ Tôi cũng ở đó; ai phụng sự Tôi thì Cha sẽ tôn vinh họ’ (Jn 12:26). Hiệp nhất với Người và sẵn sàng hiến đời mình cho anh chị em của chúng ta (x 1Jn 3:16), chúng ta hãy trở nên những tông đồ của hòa bình, những sứ giả của một niềm vui không sở đớn đau – niềm vui của Phục Sinh. Chớ gì Mẹ Maria, Mẹ của Chúa Kitô Phục Sinh, xin cho chúng ta được tặng ân Phục Sinh này. Chúc mừng Phục Sinh cho tất cả mọi anh chị em.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/messages/urbi/documents/hf_ben-xvi_mes_20070408_urbi-easter_en.html
Theo Web site thoidiemmaria.net
Giáo phận Kontum, Việt Nam (8/04/2007) - Những ngày cao điểm mừng trọng thể Mầu Nhiệm Kitô giáo tại giáo phận Kontum năm 2007 có nhiều biến chuyển và tốt đẹp.
Biến chuyển và tốt đẹp là anh chị em giáo dân đã tham dự Tuần Thánh và Phục Sinh cách sốt sắng, đông đảo, và có gần 3,000 anh chị em được lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy.
1- Giáo hạt Kontum:
Tại nhà thờ Chính Tòa Kontum, từ Lễ Thứ Năm Tiệc Ly đến đêm Canh thức Vượt Qua đông nghẹt người như những năm trước, mặc dầu đã có thêm gần 20 địa điểm dâng lễ thuộc các huyện. Năm nay Ðức cha Phêrô Trần Thanh Chung chủ tế Tuần Thánh tại Nhà thờ Chính Tòa Kontum; có Cha sở Phaolô Nguyễn Ðức Hữu và Cha Giacôbê Nguyễn Tấn Ðường cùng đồng tế và hơn 10,000 anh chị em Bahnar trong thị xã và các huyện lân cận về tham dự.
Ðặc biệt năm nay, các huyện thuộc Tỉnh Kontum đều có 2,3 địa điểm các linh mục tới dâng lễ Tuần Thánh. Tại huyện Ðắk Glei, Cha Tổng Ðại Diện Giuse Nguyễn Thanh Liên; Huyện Ngọc Hồi, Cha Phêrô Trần Công Minh và Cha Hiêrônimô Lê Ðình Hùng; Huyện Tu Mơ Rông, Cha Giuse Võ văn Dũng; Huyện Ðắk Tô, Cha Bá Năng Lý; Huyện Ðắk Hà Cha Bênêđíctô Nguyễn văn Bình, Cha Phaolô Tống Viết Hảo và Cha Giacôbê Trần Tấn Việt; Huyện Sa Thầy, Cha Gioan Nguyễn Ðức Trường. Huyện Kon Braih (Kon Rẫy), Cha Gioan Nguyễn Ðức Hoà.
2- Giáo hạt Pleiku:
- Tại các nhà thờ trong giáo hạt Pleiku tổ chức lễ canh thức vọng Phục Sinh rất trang nghiêm và sốt sắng, rất đông đảo bà con giáo dân đến tham dự.
- Tại Nhà thờ Plei Ngol Khop, huyện Ðức Cơ, Tỉnh Gia Lai: Ðức Cha Micae Hoàng Ðức Oanh, Giám mục Giáo phận, về cử hành Tam Nhật Thánh cùng cha Bartôlômêô Nguyễn Ðức Thịnh, CSsR, phụ trách trung tâm này. Trong đêm Canh thức Phục sinh có khoảng 3,000 người tham dự và 65 anh chị em Jrai được chịu phép thánh tẩy. Hợp thức hoá 37 đôi hôn phối. Nhà thờ Plei Ngol Khop thuộc huyện Ðức Cơ, giáp với biên giới Campuchia, theo thống kê năm 2005 thì huyện có diện tích là 717.20 km2, dân số là 51,188 người và anh chị em tín hữu là 1,600 người đã rửa tội gần 100 năm, được biết năm nay kỷ niệm 100 năm truyền giáo tại đây. Riêng ngày Phục Sinh, Ðức Cha Micae đã đi dâng lễ tại các địa điểm làng Plei Pua, Xã Ia Pơnôn, làng Plei Sung Tung, Xã Ia Kla và làng Plei Pơnuk, Xã Ia Kriêng.
Ngoài ra, được biết tại các Trung Tâm Truyền Giáo trong giáo hạt Pleiku đã có thêm gần 2,300 tín hữu được rửa tội trong đêm Canh thức vọng Phục Sinh này.
Tại trung tâm truyền giáo Plei-chuét (Cha Giuse Trần Sĩ Tín, CSsR; Cha Phaolô Nguyễn Ðình Thi, CSsR phụ trách) có thêm 140 anh chị em Jrai được rửa tội. Trung tâm truyền giáo Plei-kly (Cha Marcô Bùi Duy Chiến, CSsR phụ trách) có 420 anh chị em Jrai được rửa tội, trung tâm truyền giáo Cheo-reo Tơ-lúi (Cha Antôn Lê Ngọc Thanh, Cha Ða Minh Phạm Mạnh Niệm, Cha Micae Hoàng Quý Ân phụ trách) có thêm 550 anh chị em Jrai được rửa tội. Trung tâm truyền giáo Krét-Krót - Châu Khê (Cha Phaolô Nguyễn Văn Công, CSsR phụ trách) có 120 anh chị em Bahnar được rửa tội. Nhà thờ Ninh Ðức (Cha Phanxicô Assidi Phạm Ngọc Quang phụ trách) có 300 anh chị em Jrai được rửa tội. Tất cả số anh chị em tân tòng này đã được chuẩn bị thời gian dự tòng là từ 3 năm đến 5 năm hoặc hơn nữa. Ngoài số anh chị em tân tòng hôm nay còn có một số lớn anh chị em dự tòng sẽ lãnh nhận các bí tích gia nhập đạo vào các Chúa nhật Mùa Phục Sinh. Cũng còn nhiều anh chị em dự tòng đang tìm hiểu, học giáo lý chuẩn bị cho các năm tới.
Nhiều địa sở khác trong giáo phận cũng có nhiều anh chị em dự tòng đã lãnh nhận các bí tích gia nhập Giáo hội, nhưng chưa nhận kịp các thống kê.
Ðây là tin vui cho Giáo phận Kontum. Tạ ơn Chúa đã ban cho giáo phận Kontum trong đêm Canh Thức Phục Sinh gặt hái được nhiều bông hạt cho Chúa, cho Giáo Hội. Nhưng cánh đồng lúa chín còn bao la bát ngát, xin Chúa gửi thêm nhiều tay thợ gặt lành nghề đến Giáo phận Truyền Giáo Tây Nguyên chúng con.
Phước Nguyên, tổng hợp tin
Saigòn, Việt Nam (9/04/2007) -- Ngày 9 tháng Tư năm 2007, Cha Pascual Chavez, Bề Trên Cả Tu Hội Salêdiêng Don Bosco, Bề Trên Gia Ðình Salêdiêng đã bắt đầu chuyến viếng thăm Việt Nam trong khoảng một tuần, từ ngày 9 đến 15 tháng 4 năm 2007. Theo chương trình, Ngài sẽ viếng thăm một số cộng thể Salêdiêng, đặc biệt các cộng thể đào luyện và một số trung tâm dậy nghề.
Vào lúc 10:40 ngày 9 tháng 4 năm 2007, cùng với cha thư ký Bartolomez, ngài đã được cha giám tỉnh Gioan Baotixita Nguyễn Văn Thêm đón tiếp, với sự hiện diện của nhiều anh em Salêdiêng trong thành phố Saigòn, một số đại diện của các chị em nữ tu Con Cái Ðức Mẹ Phù Hộ (tổng cộng khoảng 50 người). Cả nhóm đã chụp hình và di chuyển về cộng thể văn phòng Tỉnh.
Tại đây, cha Bề Trên Cả đã dùng bữa trưa và sau đó đã nghĩ trưa lấy lại sức sau chuyến bay khá dài từ Rôma quá cảnh Bangkok để đến Việt Nam. Chắc hẳn ngài phải hy sinh nhiều vì khí hậu nóng bức của Việt Nam đang chuyển sang mùa Hè.
Cuộc tiếp đón chính thức được diễn ra trong Nhà Nguyện Nhà Thần Học Rinaldi. Như cha Giám Tỉnh diễn tả, toàn thể gia đình Salêdiêng tại Việt Nam đã ngóng chờ biến cố này từ rất lâu, Cha Giám Tỉnh đã hân hoan và tri ân chào đón cha Bề Trên Cả, không những như là Bề Trên, người kế vị Don Bosco và như là chính Don Bosco tại Việt Nam.
Ðáp lời, cha Bề Trên Cả đã nói lên những lời rất khích lệ đến anh em Salêdiêng. Ngài trân trọng sự hiện diện kiên định của anh em trên đất Việt. Như ngài khẳng định, Tỉnh dòng Việt Nam là tình dòng sung mãn, nhiều hoa trái nhất, không những trong khu vực mà còn trong toàn Tu Hội khi nhìn đến con số tập sinh, hội viên mới tuyên khấn, tỉ lệ bền đỗ rất cao.
Ðược biết ngày thứ Tư 12/04/2007 Cha Bề Trên Cả sẽ đến thăm viếng các Anh Em và Cộng thể Salêdiêng tại vùng Lâm Ðồng Ðà Lạt.
Fx. Ðức Thịnh, SDB
BẮC NINH -- Ngày 10.4.2007- Thứ Ba Tuần Bát nhật Phục sinh- 36 linh mục từ các
giáo phận Bùi Chu, Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Hóa, Phát Diệm, Thái Bình và chủ nhà
Bắc Ninh, đã qui tụ về Tòa giám mục Bắc Ninh gặp gỡ họp mặt, hiệp dâng Thánh lễ
và cùng ăn bữa cơm huynh đệ. Đây là buổi gặp gỡ thường niên của những linh mục
năm xưa học chung một lớp tại Đại chủng viện Thánh Giu-se Hà Nội niên khóa
1988-2005. Điều đặc biệt của lớp học này là họ được chính Đức Hồng Y Crescenzio
Sepe, Tổng Trưởng Bộ Truyền giảng Tin Mừng cho các Dân tộc, long trọng truyền
chức linh mục tại Nhà thờ Chính tòa Hà Nội vào ngày 29.11.2005. Buổi lễ truyền
chức đó là một sự kiện lịch sử chưa từng có ở Việt Nam. Trong số họ hiện có 5
linh mục đang du học ngoại quốc: linh mục Giuse Trần Đình sơn (giáo phận Hà
Nội), Gioan Baotixita Nguyễn Văn Hào ( giáo phận Phát Diệm), Đaminh Trịnh Văn
Thục, Giuse Mai Văn Diện và Giuse Đỗ Trọng Huy (giáo phận Thái Bình).
Sau những tháng ngày cách xa đầy nhung nhớ, nay anh em gặp lại nhau xiết chặt những vòng tay thân ái, mừng rỡ ôm chầm lấy nhau tràn trề tình huynh đệ. Linh mục nào cũng lộ rõ niềm hân hoan phấn khởi trên những khuôn mặt rạng rỡ niềm vui. Niềm vui anh em gặp mặt nhau cộng với niềm vui Phục sinh càng làm cho bầu khí ngày hôm nay thêm rạo rực nồng ấm, đầy ắp tình Chúa, tình người.
Trong buổi họp mặt tại hội trường Tòa giám mục, anh em cùng chia sẻ những kinh
nghiệm mục vụ, những kỉ niệm vui buồn trong những năm tháng đầu đời linh mục. Họ
là những linh mục trẻ cả tuổi đời lẫn tuổi linh mục nên lòng hăng say nhiệt
huyết rất cao. Đại đa số là những cha xứ có nhiều sáng kiến trong công việc mục
vụ như tạo lập các hội đoàn, các phong trào trong giáo xứ, đào sâu đời sống đức
tin của tín hữu qua các khóa học Kinh Thánh, Giáo lí và bài giảng, cùng thúc đẩy
mạnh mẽ các hoạt động Tông đồ giáo dân. Các linh mục trăn trở khá nhiều về việc
làm thế nào để giúp người tín hữu sống đức tin Công giáo sinh động trong những
hoàn cảnh xã hội đổi thay hết sức nhanh chóng. Họ cùng nhau nhìn lại xem sứ vụ
linh mục của họ có mang lại sức sống, niềm vui trong Chúa Ki-tô cho tín hữu của
họ hay không. Toàn lớp cũng đã nhất trí đóng góp thành lập quỹ trợ giúp những xứ
nghèo của các thành viên.
Đúng 10 giờ cùng ngày, các linh mục đã hiệp dâng Thánh lễ tạ ơn Chúa và cầu
nguyện cho các ân nhân, thân nhân tại Nhà thờ Chính tòa Bắc Ninh. Cha phó xứ Nhà
thờ Chính tòa Giuse Nguyễn Hoàng Ân cùng đồng tế. Có khá đông giáo dân họ nhà xứ
và cộng đoàn Tu Hội Đức Mẹ Hiệp Nhất cũng như các thành viên trong gia đình Tòa
giám mục Bắc Ninh tham dự Thánh lễ. Cha Vinhsơn Lại Văn Quynh, thuộc Giáo phận
Bùi Chu, linh mục niên trưởng của lớp đã chủ tế Thánh lễ.
Trong bài chia sẻ sau Tin Mừng, cha Phêrô Nguyễn Văn Hiện, thuộc giáo phận Phát
Diệm, đã đề cập đến những quan niệm khác nhau về đời sống con người: Chủ nghĩa
vô thần duy vật coi chết là hết; có tôn giáo lại cho rằng đời con người là những
vòng luân hồi khác nhau... còn Kitô giáo xác tín đời con người là một hành trình
trên con đường thẳng đi về với Thiên Chúa là Cha yêu thương, là Đấng đã tạo dựng
nên con người giống hình ảnh Ngài. Con đường đó chính là con đường Giêsu Kitô -
Đấng là Con Thiên Chúa làm người, đã yêu đến nỗi chết để đền tội và cứu độ con
người và nay Ngài đã Phục sinh vinh hiển. Sự Phục sinh của Ngài là niềm hi vọng
cho những kẻ tin Ngài. Ngài đã chiến thắng thần chết, điều ấy chứng tỏ chết
không phải là hết nhưng là bước ngoặt để đi vào một đời sống mới...
Cha cũng nhấn mạnh đến việc sống giây phút hiện tại như một lời ca: ngày mai bắt
đầu từ ngày hôm nay. Ngày mai tôi có đi về với Chúa hay không hệ tại vào ngày
hôm nay tôi có sống theo ý Chúa, có đi trên con đường mà Chúa Giê-su đã vạch ra.
Chúa Giê-su đã phục sinh và lời hoan ca Alleluia vang lên khắp nơi. Ước gì những
lời hoan ca ấy không chỉ là những âm thanh thốt ra từ miệng chúng ta, nhưng nó
chính là kết quả của đời sống theo sát bước chân Chúa Giê-su, là niềm vui thực
sự của những tâm hồn tha thiết tin yêu vào Chúa và những người anh em xung
quanh.
Cuối bài chia sẻ, cha xin cộng đoàn cầu nguyện cho tất cả các anh em linh mục để
chính mỗi linh mục là người đi và hướng dẫn, đồng hành với người khác đi đúng
hướng con đường dẫn về Nhà Cha yêu thương cho dù có phải trải qua những gian
nan, thử thách.
Cuối Thánh lễ, toàn thể các linh mục và cộng đoàn tín hữu thành tâm thắp nén
hương trầm và cầu nguyện cho Đức cố Giám mục Giuse Maria Nguyễn Quang Tuyến. Một
điều hết sức thú vị là chính bà cố 91 tuổi của Đức cố Giám mục cũng có mặt trong
Thánh lễ hôm nay.
Sau Thánh lễ, các linh mục và gia đình Tòa giám mục cùng chung vui bữa tiệc thắm
tình huynh đệ. Các chị em thuộc Tu hội Đức Mẹ Hiệp Nhất đã dùng những làn điệu
dân ca quan họ Bắc Ninh mượt mà đằm thắm để diễn tả tình cảm của Giáo phận chủ
nhà qua những bài ca: Mời nước mời trầu, Trống cơm, Mười nhớ, Người ở đừng về...
Những lời ca quan họ đằm thắm với những ca từ chứa đầy nghĩa tình thân mật đã
thực sự làm rung động lòng các linh mục trong ngày họp mặt này.
Ngày họp mặt ngắn ngủi qua mau, nhưng những tình cảm thân thiết anh em linh mục
dành cho nhau, những sẻ chia kinh nghiệm mục vụ quí báu và cả sự đón tiếp niềm
nở, nồng hậu của chủ nhà Bắc Ninh chắc chắn còn đọng lại mãi nơi trái tim mỗi
người. Thật lòng, Bắc Ninh cứ muốn hát mãi lời ca quan họ: Người ơi người ở đừng
về với các linh mục, nhưng không thể giữ chân các ngài được vì sứ vụ linh mục
nơi các giáo xứ đang réo gọi các ngài mau mau trở về. Nguyện xin ánh sáng, niềm
vui, tình yêu và sức sống của Chúa Ki-tô Phục sinh tràn ngập các ngài, để rồi
các ngài luôn sống và yêu như Giêsu qua việc sẻ chia và làm chứng về Tin Mừng
Phục sinh.
Nguyễn Xuân Trường
NGƯỜI PHẢI SỐNG LẠI TỪ CÕI CHẾT (Ga 20,9)
Cuộc đời của mọi người đều kết thúc bằng cái chết. Cho dù là các bậc vua chúa quan quyền hay thứ dân, các bậc vị vọng chức tước phẩm hàm hay người giáo dân bình thường rốt hết trong Giáo hội. Tất cả đều mang thân phận “bụi tro trở về với bụi tro”! Sau khi đã mồ yên mả đẹp rồi, thế là xong. Bao nhiêu bài điếu văn, video chụp hình, bao nhiêu vòng hoa tươi, hoa cườm, kèn tây kèn ta, khóc than mấy ngày đêm làm hàng xóm mất ngủ cũng chẳng níu kéo được gì. Nếu còn lại chăng chỉ là tên tuổi ghi khắc trên bia mộ, hoặc có quyền thế thì níu kéo bằng những bảng tên đặt trên đường trên phố hay cái bằng tri ân. Nhưng sự thật không chối cãi được nổi cộm lên vẫn là: nấm mồ nằm đó, u buồn bất động, mà con người nằm trong nấm mồ ấy thì không bao giờ chỗi dậy được nữa.
Phận người chúng ta là như thế, nhưng cái chết trên thập giá của Đức Giêsu lại đem cho chúng ta một hậu kết khác hẳn với tất cả loài người. Đó là sự sống lại. Nói rõ hơn, cái chết đau thương thập giá của Đức Giêsu là sự sống lại. Việc này là ý định của Thiên Chúa theo đuổi từ khi tạo thiên lập địa. Y định cứu tất cả loài người thoát khỏi cái án chết đã mang trên bản thân con người từ khi nguyên tổ phạm tội. Việc Đức Giêsu sống lại là kết quả của một lời hứa đã được loan báo trong Kinh Thánh. Khi xảy ra, nghĩa là khi con người Giêsu phục sinh từ cõi chết thì Người có mãnh lực làm đảo lộn tất cả sự chết của nhân loại. Nghĩa là làm sống lại tất cả những kẻ tin và khao khát ơn cứu độ đã chết từ Adam cho đến hôm nay, và từ hôm nay cho tất cả những kẻ sẽ có mặt trên trần gian này mãi đến tận thế nữa.
Trong bài Tin Mừng Luca ở chương 20, câu 8 và câu 9 còn nhắc lại một lần nữa như thế này: “Bấy giờ môn đệ kia (ý nói Gioan), người đã tới mộ trước tiên, cùng đi vào. Ong đã thấy và ông đã tin”. Là vì họ chưa hiểu lời Kinh Thánh là “Ngài phải sống lại từ cõi chết. Kinh Thánh muốn nói, nếu họ hiểu lời Kinh Thánh thì họ đã tin rồi, khỏi phải thấy tận mắt.
Việc một người tên là Giêsu quê làng Nazarét đã chết trên thập giá mà sống lại là một việc khó tin, có thể nói là không thể tin được. Đến các môn đồ Đức Giêsu đã ở với Thầy hàng mấy năm trời, thấy những dấu lạ Đức Giêsu làm, nghe những lời từ chính miệng Người loan báo là Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại (Mt 16,21) thế mà họ vẫn không tin. Chính vì thế, khi Đức Giêsu bị bắt, các ông trốn chạy hết. Khi Người sống lại rồi, được những người phụ nữ như bà Maria Mađalêna đến báo tin mà các ông vẫn còn nghi ngờ. Thậm chí ngay chính Đức Kitô Phục Sinh đến ở giữa họ, mà các ông còn hoảng hồn, tưởng là một hồn ma bóng quế nào đó hiện về.
Vì thế không lạ gì, ngày hôm nay hầu như tất cả nhân loại vẫn hờ hững dững dưng với Tin Mừng Đức Kitô Phục Sinh, kể cả chúng ta những người mang danh là tín hữu Đức Kitô. Tin Mừng Đức Kitô Phục Sinh vẫn không đủ để cuốn hút chúng ta bằng sức hút của tiền bạc của cải. Vẫn không lôi cuốn được cả chục ngàn bạn trẻ thức ngày thức đêm để được tham dự buổi trình diễn “Rain’s coming” của siêu sao ca nhạc Hàn Quốc Bi-Rain trong mấy ngày qua ở thành phố, dù họ phải nhịn tiền ăn sáng, mua sắm, chi tiêu để mua được tấm vé cao ngất ngưởng cả triệu đồng. Vẫn không đủ khả năng lấp đầy những khó khăn đau khổ vật chất tinh thần đang đè nặng chúng ta hằng ngày. Bi đát hơn nữa, không làm cho người ta say mê tin tưởng vào Đức Kitô Phục Sinh cho bằng say mê những việc đạo đức, những việc cố gắng ăn ngay ở lành bằng sức riêng mình, rồi cho rằng như thế là mình trở nên tốt lành thánh thiện trước mặt Thiên Chúa và hãnh diện trước mặt người đời.
Bởi vậy việc tin vào Đức Kitô Chết - Phục Sinh để được tha tội và khỏi chết đời đời là một ân huệ của Chúa Thánh Thần, không phải là khám phá của những người thông thái, hay của những bộ óc siêu việt khoa học điện tử của nhân loại. Thế nên Lời Chúa ban bố ra là để cho người ta chịu lấy, không phải để cho người ta tranh cải lý luận chứng minh, như giải đáp một bài toán, hòng thỏa mãn sự hiếu kỳ của con người.
Khi Đức Giêsu thấy những kẻ chỉ thích Người chứng minh Lời Người bằng phép lạ, họ mới tin, thì như Kinh Thánh nói: “Người thở dài não nuột và nói: Sao thế hệ này lại xin một dấu lạ? Tôi bảo thật cho các ông biết: thế hệ này sẽ không được một dấu lạ nào cả” (Mc 8.12) và Người nhấn mạnh: “Thế hệ gian ác ngoại tình này đòi dấu lạ, nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giôna (Mt 16,4). Có nghĩa là dấu lạ bản thân Đức Giêsu chết ba ngày sống lại.
Và hôm nay sau khi ơn cứu độ đã hoàn tất, thì những người ra đi rao giảng Tin Mừng, trong ân huệ Thần khí chỉ nói lên một dấu lạ ấy; nói lên một biến cố lịch sử đã xảy ra như lời hứa của Thiên Chúa, đó là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người đã chết trên thập giá đời Phongxiô Philatô và Người đã sống lại. Ai tin vào Đức Giêsu Kitô ấy sẽ được cứu rỗi.
Hội Thánh lãnh nhận đi rao giảng Tin Mừng cho thế giới, thì từ Phêrô, Phaolô cho đến hôm nay, chỉ nói cho mọi người về một con người đó: Đức Giêsu Kitô Chết-Thập giá-Phục sinh. Hội Thánh không loan báo về một nhân vật nào khác, không loan báo một lý thuyết nào khác. Thần Khí của Thiên Chúa chỉ có thể thi thố quyền năng cứu độ và lòng thương xót của Ngài khi Hội Thánh trung thành với Đấng Phục Sinh, và chỉ rao giảng về một mình Đức Kitô Phục Sinh mà thôi.
Thánh Phêrô trong lời rao giảng của ngài cũng chỉ nói những điều như thế. Phêrô nói: “Đức Giêsu người Nadarét, Thiên Chúa đã xức dầu cho Ngài bằng quyền năng Thánh Thần. Chúng tôi là chứng nhân về mọi điều Ngài đã làm: Đức Giêsu mà người Do Thái đã treo lên cây gỗ mà giết đi, thì Thiên Chúa đã làm cho Ngài sống lại ngày thứ ba. Ngài đã hiện ra cho chúng tôi là những chứng nhân Ngài đã chọn trước, chúng tôi đã được cùng ăn cùng uống với Ngài, sau khi Ngài đã sống lại từ cõi chết. Vậy ai tin vào Ngài thì sẽ được lĩnh ơn tha thứ” (Cv 10,34tt). Kinh Thánh còn nói thêm: “Phêrô còn đang nói các điều ấy thì Thánh Thần đã xuống trên mọi kẻ nghe Lời”.
Nói, rao giảng, làm chứng về Đức Giêsu Phục Sinh cho người ta chịu lấy, thì Thánh Thần được ban xuống trên kẻ nghe. Nói về đạo đức hoặc khuyên dạy những điều khác thì người nghe không nhận được ơn cứu độ.
Vì nếu những điều đạo đức ăn ngay ở lành cứu được thế gian thì không cần sự có mặt của Hội Thánh hôm nay, và Thiên Chúa đã không phải cho Con Một của Ngài xuống để chết tủi nhục thập giá, và sống lại để cho chúng ta sự sống đời đời làm chi nữa. Và lễ Phục Sinh hôm nay còn ý nghĩa gì?
Đức Giêsu sống lại không phải như Ladarô, như con bà góa thành Naim, ra khỏi áo quan, rồi lại trở vào đó một lần nữa.
Đức Giêsu sống lại là thân xác và linh hồn Đức Giêsu đựơc sát nhập vào giới Thiên Chúa, được tôn vinh là Giavê Thiên Chúa. Lạ lùng đến độ hôm nay ở trên trời có một con người thể chất yếu đuối như chúng ta mà người đó lại là Thiên Chúa. Vì thế quyền năng sống lại của Đức Giêsu Kitô đã mở tung đời sống trần gian bế tắc hạn hẹp của Người đến vô cùng tận của Thiên Chúa. Quyền năng Phục sinh đó bao gồm cả vũ trụ cho muôn loài, và cho cả nhân loại, để ai tin vào Đức Giêsu, chịu lấy Người, phó thác tất cả cho Người, thì chính Người sẽ dẫn dắt kẻ ấy bước đi bình an, hoan lạc trong đời sống đau khổ trần gian hôm nay, và nắm chắc đã được Nước Thiên Chúa trong cuộc sống ngày mai. Điều mà đạo đức, luân lý của thế gian vô phương đạt tới.
Vì thế, khi tôi tin vào Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, thì sự viên mãn thánh thiện tinh tuyền cảu Người sẽ thanh luyện tôi bằng sức mạnh Thánh Thần. Một khi tôi thấm nhuần sự sống đích thực của Đấng Sống Lại trong tôi, thì tôi trở thành sự bình an cho gia đình, cho cộng đoàn, cho giáo xứ tôi. Tôi trở thành sự yêu mến ấm áp cho gia đình tôi, sự tin tưởng yên tâm cho những người xung quanh tôi, và ánh sáng của Đức Kitô, ánh sáng của yêu thương bình an sung mãn từ cuộc sống của tôi tỏa ra những người xung quanh. Chỉ với một cuộc sống như thế tôi mới là một Kitô hữu đích thực, vì tôi đang rao giảng và làm chứng nhân cho Đấng Sống Lại bằng quyền năng của Người, chứ không phải bằng đạo đức của tôi, vì tôi đã thuộc về Người, ở trong Người, và được Người chiếm lấy tôi hoàn toàn rồi.
Mừng lễ Phục sinh không chỉ là cử hành những lễ nghi long trọng huy hoàng, đôi khi còn rườm rà, để gọi là ca ngợi Thên Chúa và ca ngợi quyền phép của Đức Kitô. Những nghi thức đó sẽ qua đi, và bản thân tôi còn lại được những gì nếu trong lòng tôi, trong đời sống tôi, trong gia đình tôi, trong cộng đoàn và trong giáo xứ tôi không có Đấng Sống Lại ở với, ở trong và ở cùng.
Lạy Đức Giêsu Phục Sinh, hôm nay con xin mở lòng ra đón nhận Người vào làm chủ đời con, làm chủ gia đình, cộng đoàn và giáo xứ con. Xin Người đổi đời chúng con, vì có Người trong lòng con, trong gia đình con, thì chúng con có sự yêu mến, ấm áp, no đủ, bình an. Không có Người thì chỉ có sự xao xuyến, bất an tràn ngập, vì khả năng chúng con dù đạo đức kinh lễ đến đâu, thì cũng vẫn chỉ là khả năng của con người tối tăm, thích làm khổ, làm khó cho mình và cho những người khác mà thôi.
Lạy Đức Giêsu Phục Sinh chỉ có một mình Người mới là sự yêu mến, sự yên vui, sự bình an, sự no đủ cho tất cả những ai đón nhận Người.
Lm. Giuse Trần Đình Long, SSS
Chén một dụng cụ chứa đựng mang hình thái của con thuyền và có khi vòm cung theo dạng bầu trời, chứa đựng trong đó Máu Hiến Tế của Chúa Kitô. Có nhiều ý nghĩa được đặc tả trong Chén Thánh Thể của chiều Thứ Năm Tuần Thánh, chúng ta cùng tìm hiểu:
Chén Chúc Tụng:
Hình ảnh của Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly: “Người cầm lấy Chén chúc tụng và Tạ Ơn” nhắc đến một ý nghĩa tràn đầy “Chén sự sống”. Với hình thái bên ngoài của chiếc chén mang hình con thuyền, gợi nhắc con thuyền cứu độ của Nôe, con thuyền này chứa đựng trong đó từng cặp đôi của tất cả muông thú, che chở và cứu thoát mọi sinh linh trong chiếc thuyền được an toàn khỏi giông bão, lũ lụt dâng cao. Con tàu cứu thoát gợi nhắc đến hình ảnh con tàu Giáo Hội do Chúa Kitô thiết lập trên trần gian này, hiện diện hữu hình của con tàu cứu độ dựa vào điểm chính yếu của lệnh truyền: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Nghĩa là tiếp tục tái hiện chén chúc tụng Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã nâng lên để chúc tụng thay cho cả nhân loại. Chúa Giêsu Kitô, Ngài vẫn đang sống và hiện diện qua mỗi Thánh Lễ, và dâng chén chúc tụng lên Chúa Cha không ngừng. Chỉ mình Chúa Giêsu Kitô mới đủ xứng đáng dâng lời chúc tụng bởi vì Ngài là chủ tế duy nhất thánh thiện, vô tỳ ố, nên lời chúc tụng Thiên Chúa luôn ở mức độ tốt lành nhất mà nhân thế “Nhờ Ngài, trong Ngài, cùng với Ngài” dâng lên lời chúc tụng của toàn thể nhân loại cách xứng đáng nhất.
Hình ảnh con thuyền theo hình ảnh chiếc chén được mở rộng ra hướng về trời, giống như hình ảnh đôi bàn tay đưa cao làm nên khúc ca tạ ơn cùng là niềm vui của những đón nhận. Chúa Giêsu cầm lấy chén đưa lên cao và đọc lời chúc tụng. Ngài chúc tụng không chỉ vì Ngài mà vì toàn thể nhân loại, một nhân loại thể hiện nơi những con người nhỏ bé đón nhận: “Lạy Cha là Chúa tể Trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều ấy mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn”. Chén chúc tụng không chỉ là chén chứa đựng mà còn có ý nghĩa của chén mạc khải, Thiên Chúa đã mạc khải cho con người biết dự định yêu thương của Người trong Chúa Kitô Giêsu, Ngài là sự mạc khải toàn vẹn của Thiên Chúa Cha. Nơi Chúa Giêsu, một nhân loại mới được khai sinh nhờ chén chúc tụng.
Chén Tạ Ơn: hình dáng chiếc chén với nửa vòng tròn hướng về trời, hình dáng này nhắc đến giao ước được Thiên Chúa kí kết với loài người: Với Abraham, Noê, qua Môisê và sau cùng trong Chúa Giêsu Kitô. Giao ước bao giờ cũng có hai phía, bầu trời rộng lớn phía trên chỉ về Thiên Chúa Đấng thiết lập giao ước, chén với vòm cung nhỏ chỉ về phía nhân loại. Sứ điệp của giao ước bao giờ cũng là sứ điệp bảo đảm cho con người sống trong hạnh phúc và đi trong yêu thương. Thế nên, đó cũng chính là chén tạ ơn, tuy chén tạ ơn mang kích thước nhỏ bé so với bầu trời nhưng lại luôn gợi đến hình ảnh “số còn sót lại” của tiên tri Amos, với tầm quan trọng của con số ít và Thiên Chúa thực thi công trình kỳ diệu của Người dựa vào con số ít này. Chúng ta thấy điều này tạ ơn thật rõ trong kinh nguyện Magnificat: “Chúa nâng cao phận người bé nhỏ”. Với tâm tình tạ ơn khi dâng chén, Chúa Giêsu đã đưa cả nhân loại này vào trong chính mình Ngài để trở thành một lời Tạ Ơn. Trong công thức Phụng vụ luôn ở trong tâm điểm Chúa Giêsu để dâng lên Chúa Cha: “Chính Nhờ Người với Người và trong Người”. Lời tạ ơn không bao giờ thay đổi nữa bởi vì trong Chúa Giêsu, lời tạ ơn đã tràn đầy mọi lời chúc tụng Thiên Chúa. Nhân loại luôn sống trong sự dồi dào phong phú của Cúa Giêsu Kitô, kinh tiền tụng chung IV nhắc tới: “Việc tạ ơn Cha chẳng thêm gì cho Cha nhưng cho chúng con được hưởng ơn cứu độ đời đời nhờ Chúa Giêsu Con Cha”. Tạ ơn hồng ân cứu độ mà Cha đã ban cho nhân loại một Adam mới : Vì tội của một người mà cả nhân loại phải chết và cũng nhờ sự vâng phục của một người mà cả nhân loại được cứu thoát khỏi chết. Từ đó, tâm tình của thánh Augustine đã gợi lên một tâm tình tạ ơn tuyệt diệu trong bài ca Esultet: “Ôi! Tội hồng phúc, vì cho chúng ta Đấng Cứu Chuộc rất cao sang”.
Chén Cứu Độ: Là chén của hy tế, chén chứa đựng máu của sự sống. Trong chén Chúa Giêsu dâng lên chính là thân mình Ngài sẽ đổ máu trên Thánh Giá để nhân loại được cứu thoát. Máu thuộc về sự sống và chính Thiên Chúa là nguồn của mọi sự sống. Trong nhiều truyền thống văn hoá, người ta trích máu từ tay của nhiều người vào trong một chén để “uống máu ăn thề”. Máu được hoà chung ấy vừa nói lên tính huyết thống của nhóm mà cũng là một sự cam kết sống chết cùng có nhau. Máu Chúa Giêsu trong chén dâng lên không mang theo hình thức ấy nhưng cũng cho thấy một đảm bảo “Ai uống Chén này sẽ được sống đời đời”. Chúa Giêsu, Ngài đã đổ máu như máu đã đổ ở chiên sát tế, đó là một cuộc trao đổi: “Con hiến thánh Con, để họ cũng được thánh hiến trong chân lý”. Máu trong chén là máu của sự biến đổi từ chén rượu nho mà chính Chúa Giêsu Ngài đã thực hiện, khi Ngài phán: Đây là Máu Thầy, Máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu sẽ đổ ra cho các con, và nhiều người được tha tội”. Chúa Giêsu trong hy lễ chính Ngài là chủ tế, chính Ngài là Bàn Thờ và cũng chính Ngài là Của lễ là Hy lễ. Bởi đó, không còn là máu của phàm nhân hay máu của chiên sát tế mà là chính Máu của Chúa Kitô đã đổ ra để rửa sạch muôn vàn tội khiên. Sách Khải Huyền chép: “Một đoàn người mặc áo trắng tinh, họ được tắm trong Máu Chiên Con”. Con người đổ máu Con Thiên Chúa và chính máu đã đổ của Con Thiên Chúa lại trở thành Máu Cứu Độ. Thiên Chúa đã biến đổi tận cùng sự dữ trở nên nguồn ân cứu rỗi. Thập hình xưa để xử tử con người tội phạm và Con Người Vô Tội đã bị liệt vào hạng tội nhân để cùng chịu án phạt thập hình, từ điểm Con Người Vô Tội phải mang lấy án phạt của các tội nhân đó mà Thập hình đã trở nên Thánh Giá. Máu của Người Công Chính đã đổ ra và từ Máu đó, đã trở nên Máu cứu độ. Khi nâng chén “Cứu Độ”, Chúa Giêsu đã muốn cho tông đồ cử hành lại mãi hành vi này để qua mọi thời đại, mọi thế hệ, được sát nhập vào trong Hy lễ duy nhất là chính Chúa Giêsu. “Cùng chết với Người để cùng sống lại với Người”.
Khi nâng chén tạ ơn chúng ta được tham dự vào chén cứu độ mà chính Con Thiên Chúa đã chết thay cho chúng ta, Máu của Chúa Kitô đã ký kết giao hoà vĩnh viễn với Thiên Chúa. Một nhân loại mới được khai sinh từ nơi cạnh sườn Chúa Giêsu, mỗi lần tham dự Thánh Lễ là mỗi lần được sinh lại trong Chúa Giêsu cho đến khi ở hẳn trong Ngài.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Gm. Giuse Vũ Duy Thống
“TA KHÁT”
(GA 19,28)
I. TỪ NỖI KHÁT CỦA CHÚA GIÊSU
Khát tình yêu
Khát hợp nhất
Khát hòa bình
II. ĐẾN NỖI KHÁT TRONG ĐỜI MỤC TỬ
Hợp nhất giữa GH địa phương và GH toàn cầu.
Hợp nhất LM đoàn.
Hợp nhất với cộng đoàn được trao phó cho mình
***
LỜI THỨ NĂM
“TA KHÁT”
(GA 19,28)
Trong phim thần thoại “Chúa tể của những chiếc nhẫn”, đã được đề nghị giải Oscar thời gian gần đây, có một trường đoạn nói về hai nhân vật chính là Prodon và Sam, sau khi đã bị thử thách nhiều giai đoạn và bước đến giai đoạn cuối cùng trước khi phá hủy được chiếc nhẫn thần. Hai nhân vật ấy nằm sóng xoài trên mặt núi đá khát khô cả cổ, líu lưỡi không nói được một tiếng nào. Cơn khát ấy được xem là thử thách cuối cùng trước khi họ đạt đến mục đích của mình. Trong văn viết, người ta mô tả tỉ mỉ về đoạn này, nhưng trong điện ảnh, bằng nghệ thuật riêng với những cận cảnh, đạo diễn cũng cho thấy những nỗi quằn quại của người bị vật lộn bởi cơn khát.
Giờ này, chúng ta được mời gọi để đối diện với lời thứ năm của Chúa Giêsu trên Thánh giá cũng chính là lời phát ra từ cơn khát: “Ta khát” (Ga 19,28). Đây là lời ngắn nhất trong bảy lời của Chúa Giêsu trên Thánh giá, nhưng xem ra tâm sự ẩn chứa ở trong đó, những nỗi thao thức được truy tìm trong lời này lại thật sự rất dài. Mặc kệ cho những nhà khoa học có thể lý giải tại sao Chúa Giêsu lại phát lên lời khao khát lúc ấy và cũng mặc kệ những nhà linh đạo có thể suy diễn xem Chúa Giêsu khát những gì. Ví dụ như Mẹ Têrêsa thành Calcutta cho rằng: “Ngài khát ơn cứu rỗi cho các linh hồn”; hay như nhãn giới chung chung có thể nói: Ngài khát Nước Trời được thể hiện. Vậy Chúa Giêsu khát gì? Thưa, Ngài khát sự cộng tác. Tại sao thế? Thưa, vì khi bị đóng đinh cánh tay vào Thập giá, Ngài chẳng còn cánh tay nào khác để thi thố ơn cứu rỗi ngoài cánh tay của những người cộng sự, trong đó có tất cả các Linh mục là những người đã hiến thân thuộc về Ngài một cách trọn vẹn hơn. Một khi chân bị đóng đinh vào Thập giá. Ngài cũng chẳng còn đôi chân nào khác ngoài đôi chân của các cộng sự viên, những môn đệ của Ngài được phát triển theo dòng thời gian, trong nhịp sống của Giáo hội để đi đây đi đó trên mọi nẻo đường thế giới mà loan báo Tin Mừng. Một khi trái tim bị lưỡi đòng đâm thâu, Ngài chẳng còn trái tim nào khác ngoài trái tim của những người thuộc về Ngài là chính chúng ta mở rộng ra để yêu thương và để phân phát ơn cứu rỗi, ơn thánh, phúc trường sinh.
Vâng, chính bởi vì nhìn như thế nên để trả lời cho câu hỏi Chúa Giêsu khát gì từ lời thứ năm hôm nay, chúng ta sẽ cùng nhau nhìn vào điều cốt lõi nhất của sự sống để cùng chia sẻ nỗi khát của Chúa Giêsu. Và mong rằng khi soi bóng từ những nỗi khát ấy, mỗi người có thể đặt ra câu hỏi cho chính mình, hôm nay mình có thể làm gì để cộng tác làm dịu nỗi khát của Đấng Cứu Thế?
I. TỪ NỖI KHÁT CỦA CHÚA GIÊSU
Trước hết Chúa Giêsu khát gì? Trên đường từ TpHCM đi các tỉnh, thỉnh thoảng người ta gặp một bảng quảng cáo lớn của hảng thép Pomina. Không biết các cha xây dựng nhà thờ có quen với hảng thép này không, nhưng một vài nhà thờ ở Sàigòn đang xây cũng có bảng như vậy với khẩu hiệu “thép Pomina, cốt lõi của sự sống”, thép là “cốt lõi của sự sống”. Ơ đây, Chúa Giêsu đang khao khát những điều cốt tủy, những điều cốt yếu của sự sống không liên quan gì đến thép Pomina cả, mà trước hết là Ngài khát tình yêu.
Nhà văn Lev Tolstoi có một truyện ngắn cảm động tựa đề là “Người ta sống bằng gì?”. Truyện kể một Thiên thần đã dám can ngăn Thiên Chúa đừng cất đi sinh mạng của một thiếu phụ trẻ mới cho ra đời cặp song sinh nữ rất khôi ngô. Bởi vì theo ông: nếu cất đi sinh mạng người mẹ thì hai đứa bé sẽ không thể sống nổi! Và Thiên Chúa đã đầy sứ thần xuống thế để tìm ra giải đáp cho câu hỏi “Người ta sống bằng gì?”. Thiên sứ bị đầy xuống thế hóa thân thành một ông thợ đóng giày tên là Simon. Hai mươi năm trời lầm lũi ở một ngôi làng, không cười, không nói, ruồi đậu cũng không đuổi, chỉ chăm lo làm việc, mở rộng đôi mắt để quan sát, đôi tai để lắng nghe và trí óc để tìm hiểu mong trả lời cho câu hỏi đánh đổi cuộc đời. Một hôm vào năm cuối cùng, anh ta thấy một mệnh phụ đến đưa mẫu một đôi giày và đặt làm hai đôi thật đẹp với kích cỡ như nhau. Anh làm. Hai tuần sau, giày xong đến hẹn trao hàng, mệnh phụ kia đưa khách đến thử và lạ lùng làm sao, hai người khách lấy giày lại là hai thiếu nữ tuyệt đẹp. Lấy giày xong, hai cô rất hài lòng. Và với đôi tai thính của anh, qua câu chuyện trao đổi, anh thợ đóng giày hiểu rằng: hai thiếu nữ này chính là cặp song sinh 20 năm trước của người thiếu phụ xấu số, và hai cô gái đó đã được bà giàu sang kia bảo trợ, nuôi nấng. Anh phá lên cười một tràng thật lớn. Kết thúc câu chuyện, anh thợ đóng giày nhìn đôi cánh từ từ mọc ra và tâm đắc: “Người ta sống không phải bằng cơm bánh mà sống bằng tình yêu”. Đôi cánh mọc dài. Thiên sứ trở về trời. Vâng! Tác giả muốn gửi gấm ở đó rằng tình yêu chính là điều “cốt lõi của cuộc sống”, không phải thực phẩm hay là thép Pomina hoặc là điều gì khác.
1. Chúa Giêsu khát tình yêu
Tình yêu là một điều người ta đã đào bới và nói tới rất nhiều. Có lẽ ở đây chúng ta không cần phải vật lộn với từ ngữ làm gì. Ai cũng biết “Tình yêu xưa như trái đất”. Từ thuở Adam ngủ vùi đã có Eva bên mình rồi và cứ thế tình yêu đến, tình yêu sinh sôi nảy nở. Cỏ cây hoa lá chim muông cũng có tình. Nói như Trịnh Công Sơn thì đến như sỏi đá cũng có chút gì để gọi là yêu thương bên nhau. Ơ đây, mọi nền văn hóa Đông Tây, Kim Cổ cũng đã nói đến, nhắc đến tình yêu một cách trân trọng. Tứ hải giai huynh đệ không phải là chuyện của Phương Đông mà cả Phương Tây nữa. Có điều rằng khi Chúa Giêsu trên Thánh giá khát tình yêu, là Ngài khát tình yêu đã trở thành giới luật trên hết và trước hết cho trần thế. Ngài nói với các môn đệ của mình: “Thầy để lại cho anh em một giới răn mới” (Ga 18,34). Thực ra giới răn này cũng chẳng mới hoàn toàn, bởi vì nền tảng của nó đã có sẵn, tất cả những điều cơ bản cũng đã được Chúa Giêsu vận dụng lại. Nhưng điều mới ở đây là Ngài đăt giới luật ấy lên một tầm cao mới. Tầm cao mới ấy như thế nào?
Thưa, trứơc hết là yêu thương không phải như bất cứ khuôn mẫu gì mà yêu như Chúa yêu. Chúa Cha yêu Chúa Con lắm, nhưng một khi thể hiện tình yêu thì Ngài cũng dẫn Chúa Con vào nẻo ý định cứu độ để rồi sẵn sàng đẩy Chúa Con đến với ranh giới của sự chết, mong mở ra sự sống cho nhiều người. Thiên Chúa yêu con người vốn là thụ tạo của Ngài, sẵn sàng làm tất cả, làm hết cách để cho thụ tạo được hạnh phúc, cho dẫu thụ tạo ấy ngay từ bước đầu đã có những lỗi phạm, nhưng Ngài không ngừng quên đi những lầm lỗi của họ, mà nếu có một nỗi nhớ nào như chúng ta đã chia sẻ, thì nỗi nhớ ấy là nỗi nhớ về tình thương xót, lòng chạnh thương dành cho các thụ tạo của mình. Vì thế mới có công trình sáng tạo đi liền với công trình cứu độ. Chúa Con khi bước xuống trần thế cũng đã yêu hết tình, yêu hết mình và yêu đến nỗi như kiểu nói vui của chúng ta hôm nay, yêu chết bỏ, yêu liều mạng. Chúa Con đã sẵn sàng hy sinh tấm thân để diễn tả tình yêu của người dám chết cho người mình yêu. Tình yêu lớn nhất. Tình yêu cao ngất. Tình yêu cứu độ. Đó là nét độc sáng đặt giới luật yêu thương lên một tầm cao mới như Chúa Giêsu mong muốn. Nói theo kiểu Đức Beneditô trong thông điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu” số 10 và số 12 thì nơi Thiên Chúa, eros-tình nhận về và agape-tình cho đi cũng chỉ là một để trở thành tình yêu tha thứ làm cho Thiên Chúa quay ra đối nghịch với chính Ngài, tình yêu của Ngài nghịch lại với công lý của Ngài.
Điều ghi nhận thứ hai nữa, tình yêu trong giới răn mới ở đây là yêu người như yêu Chúa . Thưa chuyện với các cha về giới luật yêu thương có lẽ cũng bằng thừa. Nhưng nhắc đến ở đây cho đầy đủ, bởi vì giới luật yêu thương Chúa Giêsu để lại cho môn đệ của mình vốn gồm tất cả mọi giới luật. Giới luật xuyên suốt là Mến Chúa và Yêu Người. Mỗi ngày Chúa nhật, không biết ở các xứ đạo của chúng ta còn đọc những kinh quen thuộc, những kinh tóm tắt về giáo lý hay không, nhưng ngày xưa còn bé người ta vẫn đọc thuộc lòng kinh mười điều răn: “Mười điều răn ấy tóm về hai điều này mà chớ: trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau là yêu người như mình ta vậy. Amen”. Vâng, kinh ấy mỗi người trong đời đã đọc nhiều lần, gồm tóm giới luật yêu thương và đã đặt việc yêu người dường như ngang tầm với việc yêu Chúa. Nếu có dịp đọc lại trình thuật về việc phán xét chung trong Mt 25, ta thấy Chúa phân định một bên là chiên, một bên là dê mà bên nào cũng ngẩn tò te không biết tại sao mình được hoặc bị như thế. Những người làm việc tốt cho người khác chẳng biết rằng mình làm việc ấy cho Chúa để đáng được phần thưởng, cứ như là trúng số độc đắc. Còn những người bị phạt cũng chẳng hiểu sao mình lại bị phạt, chẳng biết rằng những điều mình không làm cho những anh chị em bé mọn lại là không làm cho Chúa, để rồi hôm nay mới gặp cái cảnh ngỡ ngàng bị đứng về phía bên trái (x. Mt 25,31-46).
Một điều ghi nhận nữa, là trong tầm cao của giới luật mới, tình yêu là một thứ tình không biên giới về quốc gia, quốc tịch, chủng tộc, giới tính, tuổi tác về điều kiện sống. Tất cả đã được quan niệm và tất cả đã được gồm tóm trong giới luật yêu thương. Càng gần Thiên Chúa, người ta càng biết cách để gần gũi nhau trong yêu thương. Người ta yêu nhau và cứ thế người ta thực thi ý định Thiên Chúa. Biên giới của tình yêu là một tình yêu không biên giới. Yêu những người lành, người thiện cảm không nói làm gì. Tự nhiên thôi, vì như thế là chấp nhận dừng lại trong lãnh vực nhân sinh. Nhưng khi tình yêu đã tỏa rộng ra ngoài biên cương để đến với những kẻ không yêu, những kẻ không biết yêu, đến với những kẻ không đáng yêu, thì ở đây một tình yêu hoàn hảo đã được ghi dấu. Bởi vì tha thứ cũng là yêu một cách hoàn hảo. Đức Beneditô XVI chia sẻ: “Tôi nhìn tha nhân không phải với đôi mắt và cảm xúc của mình nhưng từ quan điểm của Đức Giêsu Kitô. Bạn Ngài là bạn tôi” (TĐ. TCLTY, số 18). Rõ ràng là những nét chấm phá vừa gợi lên cũng cho thấy Chúa Giêsu trên Thánh giá, khi lượng giá việc thực thi giáo lý yêu thương vẫn còn dở dang, nên luôn cần có sự cộng tác của các thế hệ tương lai trong đó có tất cả mọi người. Vì thế Ngài luôn thốt lên lời: “Ta khát”.
Tác giả Khôi Vũ có một cuốn truyện cỡ 100 trang tựa đề là “Lời nguyền 200 năm”. Kể lại: hai làng người thiểu số chỉ vì một lời nguyền đã có 200 năm nay rồi, cứ tranh nhau con suối, tranh nhau cánh đồng, để rồi đánh nhau, giết nhau hết thế hệ này sang thế hệ khác. Nước thì vẫn cứ chảy đi, nhưng lòng hận thù của hai dân làng không chịu thay đổi, vẫn cứ giữ lời nguyền 200 năm thù ghét bên nhau. Và kết thúc cuốn chuyện ấy, tác giả đề ra một câu hỏi: “Tại sao người ta không sống yêu thương nhau, mà cứ phải đối phó, đề phòng lẫn nhau?” Câu hỏi ấy cũng một phần nào nói lên tâm sự ngổn ngang mà hôm nay vẫn còn gặp 20 thế kỷ sau khi Chúa Giêsu đã chịu đóng đinh, nhưng cũng một phần nào cho thấy nỗi khát của Ngài năm xưa trên Thập giá. Ngài khát tình yêu được thể hiện.
2. Chúa Giêsu khát sự hợp nhất
Nỗi khát thứ hai Chúa đã thốt lên đó là khát sự hiệp nhất. Ai trong chúng ta cũng biết “hợp quần thì gây sức mạnh, đoàn kết thì sống, còn chia rẽ thì dẫn đến cái chết”. Chuyện bó đũa, để cả bó thì chẳng ai bẻ được, nhưng phân ra bẻ từng cái thì đến những trẻ em cũng có thể làm được. Chuyện ấy ai cũng biết và chỗ nào người ta cũng có thể chia sẻ với nhau, dường như là chuyện lâu đời, chuyện cổ tích, chuyện tự nhiên. Nhưng bời vì Chúa sinh ra mỗi người có một cuộc đời độc lập, tự do kiểu đó, nên thay vì người này với người kia trở thành thân hữu, đối thoại lại trở thành đối kháng, đối mặt hay phát âm theo kiểu Nam Bộ, đối thoại thành đối thọi, làm ăn đối tác thành đối tát gây thương tích cho nhau.
Chính vì vậy, trên Thánh giá, bất giác Chúa Giêsu thốt lên lời “Ta Khát”. Ngài khát là khát khao sự hiệp thông, khát khao sự hiệp nhất. Chính nỗi khát này Ngài đã có dịp nêu lên trong Kinh Nguyện hiến tế, Kinh Nguyện mà ngày xưa các tác giả vẫn gọi là Kinh Nguyện Linh mục, nhưng thật ra là Kinh Nguyện hiến tế dành cho mọi thành phần. Ơ đây Ngài nêu lên lời thỉnh cầu với Chúa Cha “Xin cho chúng nên một như Cha
Con Ta là một để thế gian tin”. Tin rằng Cha đã sai Ngài và tin trong hành trình cứu rỗi. (x. Ga 17,21).
Xin cho chúng nên một . Ơ đây nói lên đối tượng nỗi khát của Chúa Giêsu là sự hiệp nhất. Lời kinh hiến tế phát ra trước lúc Chúa Giêsu dấn bước trên đường Thương khó, khi các Tông đồ bắt đầu phân tán. Chữ nên một hôm nay dùng trong ngôn ngữ hằng ngày để ám chỉ tình yêu vợ chồng: nam nữ nên một với nhau là đã gần gũi trở thành vợ chồng rồi. Nên chữ nên một trong Kitô giáo thì muốn mượn nghĩa bóng của tình yêu hôn phối để diễn tả về một sự nên một còn sâu đậm hơn giữa mầu nhiệm của Thiên Chúa trở thành khuôn mẫu cho mầu nhiệm nên một của cuộc sống nhân sinh, cách riêng những tông đồ dấn bước theo Chúa.
Xin cho chúng nên một như Cha Con Ta là một . Vâng, sự hiệp thông giữa Ngôi Cha và Ngôi Con đã trở thành khuôn mẫu rất bền chặt cho tất cả sự hiệp nhất làm thành nỗi khát của Chúa Giêsu trên Thập giá hôm nay. Chúa Cha và Chúa Con đồng bản thể với nhau. Chúa Cha và Chúa Con lại khác nhau về Ngôi vị. Đồng bản thể để hiệp thông, để hiểu nhau. Khác Ngôi vị để yêu nhau, để cần đến nhau. Cái éo le xảy ra và các bi kịch cũng xảy ra khi người ta đẩy chữ khác thành chữ Khắc. Chỉ có một vầng trăng non đặt trên chữ khác là bỗng dưng những cái khác biệt thay vì kêu gọi nhau, bổ sung cho nhau lại trở thành loại trừ nhau và gây nên những thảm kịch đau lòng. Ơ đây giữa Cha và Con, khuôn mẫu hiệp thông, Ngôi vị khác nhau nhưng đã vươn lên tầm cao để chung chia cùng một Bản thể Khác nhau. Cha Con yêu nhau, nói theo kiểu tôn sư Eckhart thế kỷ 14 là Cha Con cười với nhau, và từ tình yêu đó chúng ta có Ngôi vị hiệp thông chính là Chúa Thánh Thần, Ngôi Ba. Một khuôn mẫu hiệp thông vừa bền chặt, vừa yêu đời và cũng thật thánh thiện để có thể thánh hóa được tất cả những ai tìm đến với khuôn mẫu ấy.
Và niềm hiệp nhất mà Chúa Giêsu khao khát không phải chỉ để trở thành một cảnh đẹp cho người ta chiêm ngưỡng mà chính là để cho thế gian tin . Dấu chỉ hiệp nhất rất quan trọng. Đây là dấu chỉ khả tín dành cho những ai tiếp cận với Tin Mừng. Nếu như gương sáng đẹp nhất là gương của các môn đệ yêu thương nhau, thì gương mù lớn nhất chính là sự chia rẽ giữa các Giáo Hội cùng tin vào một Thiên Chúa, cùng đón nhận một ơn cứu rỗi. Ngày nay các Đức Giáo Hoàng gần gũi với chúng ta cũng phải đau lòng nói lên điều ấy trong các hội nghị về vấn đề đại kết. Ơ đây, nói hay nhưng mà chẳng hiệp nhất thì Tin Mừng được rao giảng cũng mất hết tác dụng. Bởi vì lời nói chỉ có khả năng làm lung lay, nhưng chính khi có gương bày mới có thể lôi kéo được người ta đến với giáo lý, đến với ơn cứu độ.
Tuần lễ cầu nguyện cho hiệp nhất trong Giáo Hội trải dài từ ngày 18 đến ngày 25 tháng 1 mỗi năm, chính là thời khắc đi vào trong nỗi khát của Đấng Cứu Thế. Trong khát thứ Thánh Thể, sau Kinh Lạy Cha, có lời cầu xin hiệp nhất và bình an, không phải theo như ý chúng ta, mà là theo “thánh ý Chúa”. Đó mới là điều hiệp nhất mang màu cứu độ. Nhiều khi chúng ta chỉ mới bó lại với nhau mà đã dễ dàng tuyên bố là hiệp nhất như Liên Hiệp Quốc chẳng hạn. Còn trong nỗi khát của Đức Giêsu trên Thánh giá, Ngài mong muốn người ta được hiệp nhất như Chúa Cha và Chúa con là một. “Sự hiệp thông này không đơn thuần là một tổng hợp, một nhận chìm trong biển cả không tên của Thần tính, mà là một hiệp nhất tạo ra tình yêu trong đó cả Thiên Chúa và con người vẫn giữ nguyên chính mình nhưng lại trở nên một. (B. XVI, TĐ. TCLTY số 10) Đây chính là nỗi khát thứ hai.
3. Chúa Giêsu khát bình an
Và nỗi khát thứ ba là nỗi khát khao bình an. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy”. Có lẽ trên Thánh giá, khi tay chân đã bị đóng đinh, Chúa Giêsu vẫn nhớ đến bình an mà Ngài để lại cho các môn đệ. Bình an này vẫn chưa thành hiện thực. Vì thế mà Ngài khát. Ngày hôm nay, trong các cuộc thi, nhất là cuộc thi người mẫu, người ta hay đặt ra câu hỏi: “Bạn có hoài bão gì? Bạn có ước mơ gì?” Và các thí sinh được quyền tự do trả lời câu hỏi này. Nhớ lại chuyện ngày xưa có một anh chàng được ba điều ước. Tưởng là ước điều gì lớn lao. Nào ngờ điều ước thứ nhất là: Có được khúc dồi để ăn cho sướng miệng. Rồi ngồi gãi tai nghĩ rằng: Tội gì mình phải dùng tay để cầm miếng dồi để đưa lên miệng ăn, nên ước điều thứ 2 là miếng dồi tự bay lên miệng mình. Miếng dồi bay lên thật và cứ dính vào miệng, cười không nổi, nói không được và ăn cũng không được. Đành phải ước điều thứ ba cho miếng dồi rớt xuống. Hết chuyện! Rõ ràng là hoài bão nó tùy theo, và cũng lớn theo từng thời đại. Ngày hôm nay trong các cuộc thi người mẫu người ta không có những điều ước như vậy. Ngay từ lần đầu tiên tổ chức cuộc thi người mẫu, người đoạt giải là người có câu trả lời: ước mơ hòa bình.
Vâng, bình an vẫn là ước mơ, và là ước mơ chính đáng của mọi thời đại. Nhưng bình an trong nỗi khát của Đấng Cứu Thế là bình an mang thuộc tính Kitô . Chính vì vậy, bình an này thế gian không thể ban tặng. Bình an của thế gian như trong Hiến chế Gaudium et Spes nói là một thứ bình an không tiếng súng, bình an không còn chiến tranh. Cũng đúng thôi, nhưng dừng lại ở đó thì chưa phải là bình an của Đức Kitô. Bỡi vì bình an ngày nay như người ta nói: số lượng hoặc chất lượng đều tùy thuộc vào thương lượng hết. Đều do dàn xếp giữa các phe cánh. Chính trường trải ra như bàn cờ và người mạnh nhất là người đi những nước cờ quyết định để ấn định thái độ cho phe đối nghịch. Israel và Palestine cho đến hôm nay vẫn chưa tìm thấy hòa bình. Mặc dù Shalôm là lời chào cửa miệng Israel. Giêrusalem vẫn là kinh đô của sự bình an, nhưng bình an vẫn chưa tỏ hiện. Bình an của Đức Kitô là một thứ bình an đề nghị một cách toàn diện cho con người và cho toàn thể mọi người. Con thú ăn no mà không bị săn đuổi thì đã đẹp kiếp thú và có thể gọi đó là con thú đang được hưởng sự bình an. Nhưng con người dù có an toàn, an ninh, an sinh, an cư lạc nghiệp đi nữa, nếu như thiếu bình an nội tâm thì vẫn chưa thể an giấc. Bình an vẫn chưa trọn vẹn, đến nỗi Đấng Cứu Thế phải bộc lộ ra bằng niềm khao khát. Ngày hôm nay trong các phe cánh, người ta thường chia ra phe cấp tiến, phe bảo thủ, cánh tả, cánh hữu, chiếu trên chiếu dưới đấu đá dài dài. Nhưng bình an của Đức Kitô là một bình an dưới dạng một vết thương rộng mở, dù rằng sau này Ngài đã bước vào vinh quang phục sinh. Ơ đây, người ta ghi nhận dường như thế giới hôm nay là toàn cầu hóa mọi sự nhưng chỉ toàn cầu hóa thương mại là nhiều, còn toàn cầu hóa bình an vẫn còn mở ngỏ như một chờ đợi.
Vẫn còn đó nỗi khát của Đấng Cứu Thế. Và bình an của Đấng Cứu Thế vẫn còn là một nỗi khát. Ơ đây là thứ bình an đi liền với ơn cứu rỗi. Có thể nói bình an là một từ khác của ơn cứu rỗi Đức Kitô đem lại cho loài người. Chả thế mà trong đêm Giáng Sinh, các Thiên sứ đã hát lên ca khúc “Vinh danh Thiên Chúa, bình an cho thế trần”. Thiết nghĩ, ca khúc này các Thiên sứ đã hát nhuần nhuyễn lắm để có thể nối kết thành một định nghĩa nho nhỏ: Vinh danh Thiên Chúa cũng là một bình an cho thế giới. Và một khi thế giới xây dựng sự bình an đúng với ý Thiên Chúa cũng là làm vinh danh cho Ngài. Vì thế mà có ngày cầu cho bình an thế giới vào ngày đầu mỗi năm. Thứ bình an như thế năm nay Đức Thánh Cha kêu gọi xây dựng một cách cụ thể dựa trên nhân vị, như không lãng phí, không hủy hoại môi trường.
II. ĐẾN NỖI KHÁT CỦA LINH MỤC
Chia sẻ như thế để thấy rằng trên Thánh giá khi Chúa Giêsu bị bó chân bó tay, miệng của Ngài vẫn có thể thốt lên trong tâm sự dài nhất. Ngài khát khao tình yêu được tỏ hiện. Ngài khát khao hiệp nhất được dựng xây. Ngài khát khao bình an được thực hiện cho tất cả mọi người. “Ta khát”. Vì thế nhà thần bí Julienne de Norwich đã ghi nhận: lòng khát mong cũng là một trong những thuộc tính của Thiên Chúa. Chia sẻ về nỗi khát khao của Đấng chịu đóng đinh để rồi cũng muốn tập trung vào một điều duy nhất là sự hiệp nhất vốn là hiệu quả của tình yêu và là tiền đề cho niềm bình an. Đây chính là cánh cửa mở ra cho sự cộng tác của từng Linh mục trong Giáo phận. Vậy thì Linh mục Giáo phận cộng tác xây dựng sự hiệp nhất như thế nào?
1. Hiêp nhất giữa Giáo Hội địa phương và Giáo Hội toàn cầu
Nói thì lớn lao như thế, nhưng trên thực tế, mỗi người vẫn đang thực hiện cụ thể trong tuần tĩnh tâm này. Ngày nào trong Kinh Nguyện Tạ Ơn ta cũng cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng, ngày nào trong giờ Chầu Thánh Thể ta cũng cầu nguyện cho Đức Thánh Cha, và ngày nào trong Kinh Nguyện cá nhân cách này hay cách khác ta vẫn hợp lời cầu chung cho Giáo Hội. Ngày nay người ta kêu gọi: hãy suy tư bằng một nhãn giới rất rộng của toàn cầu, nhưng hãy làm việc tùy theo địa phương của mình (Think globalby, work locally). Ơ đây cho thấy rằng, mỗi người tùy theo địa phương của mình, tùy theo chức vụ của mình, gắn bó với một địa chỉ nhất định, nhưng một khi mở rộng nhãn giới, gắn với nhu cầu của Hội Thánh toàn cầu, lúc ấy một cách nào đó, ta cũng chia sẻ cảm nghĩ cùng với Giáo Hội và cũng đang thực hiện việc hiệp nhất của Giáo Hội địa phương với Giáo Hội toàn cầu. Nếu cựu Thủ tướng Phan Văn Khải đã có lần chia sẻ với các doanh nghiệp trẻ về 4 chữ T: chữ Tiền , chữ Tài , chữ Tâm , chữ Thuế , nghĩa là làm doanh nghiệp hôm nay phải có tiền, cá nhân phải có tài, có tâm với các bạn đồng nghiệp và cũng đừng quên nhiệm vụ đóng thuế với nhà nước, thì cũng có những chữ T như thế dành cho chúng ta đối với Giáo Hội toàn cầu, mỗi người cũng vừa có tâm, cũng vừa có tầm, vừa có khả năng của mình, vận dụng tài năng của mình, thậm chí vận dụng cả khả năng vật chất của mình để đóng góp không phải thuế má vật chất mà là thuế má tinh thần theo lẽ công bình của những kẻ cùng uống nước ở nguồn mạch đức tin để cho Hội Thánh được triển nở.
2. Xây dựng sự hiệp nhất Linh mục đoàn
Nếu Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II có lần kêu gọi các Linh mục “đừng hát solo mà phải hát ở trong ca đoàn”, thì ngài muốn nhắn gửi: không phải mình có tài, mình giỏi mình đứng ra múa may một mình mà làm nên Giáo Hội, nhưng chính khi hát trong ca đoàn, hát bè với những người khác, lúc bấy giờ Linh mục đoàn mới trở thành một ca đoàn hấp dẫn, đem lại những bài hợp xướng làm phát triển đức tin. Có lẽ chúng ta chỉ nói với nhau một cách rất đơn giản rằng: cách khẳng định tình huynh đệ trong Linh mục đoàn là một cách mỗi người chúng ta được mời gọi làm mới luôn luôn. Bởi vì đây không chỉ là một hình bóng mà là một mối tình. Trước hết là do chức thánh: do chức thánh mà chúng ta trở thành anh em với nhau. Thứ hai là do Giáo luật qui định: những Linh mục thuộc về một Giáo phận dưới quyền lãnh đạo của một Đức Giám Mục trở thành anh em với nhau. Gà cùng một mẹ, bí bầu cùng giàn, triều và dòng cùng làm việc trên một cánh đồng thánh hóa giữa gia đình Giáo phận. Và ở đây người ta cảm nghĩ với Giáo hội địa phưong, với Linh mục đoàn không phải chỉ là “cùng với”, mà là “ở trong” Linh mục đoàn. Vì nếu không ở trong mà lại nhảy ra ngoài hay ở trên thì dễ dàng có những lời phê bình này nọ. Nhưng chính khi vị trí hóa mình ở giữa Linh mục đoàn, ta dễ dàng đồng tâm nhất trí với nhau để có thể xây dựng sự hiệp nhất tại địa phương mình. Mấy ngày nay, bản thân tôi cũng rất cảm động khi được đọc chung với Đức Cha Giáo Phận và quý cha lời kinh phụng vụ. Có cái gì đó rất đặc biệt, mặc dù mỗi người có những khác biệt nhưng mọi người cùng tìm đến một nguồn mạch duy nhất là sự sống Chúa Kitô. Cầu nguyện như thế cũng là một cách để thể hiện tinh thần hiệp nhất.
3. Mỗi một chủ chăn được hiệp nhất với cộng đoàn được trao phó cho mình
Mỗi cha xứ là một “chủ chăn riêng của một nơi”, cần hiệp nhất với xứ đạo được Đức Giám Mục trao phó cho mình. Ỏ đây chính là địa bàn để mình thi thố tinh thần hiệp nhất. Nghĩa là chính mình phải là người chủ động để làm sao cho tinh thần hiệp nhất của Giáo hội được thể hiện tại địa phương mình. Nếu như cuộc sống gia đình “thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn”, thì cuộc sống của một gia đình giáo xứ thuận cha thuận con thiết nghĩ điều khó khăn đến đâu cũng có thể làm được và công trình lớn lao đến đâu cũng có thể hoàn thành. Xây dựng giáo xứ hiệp nhất, hội đoàn trong giáo xứ dưới sự lãnh đạo của cha sở cũng xây dựng thành những quỹ đạo của những cộng đoàn hiệp nhất. Và như thế có thể xuất phát lại từ Đức Kitô – một Đức Kitô khát khao hiệp nhất trên Thánh giá, để rồi từ đó diễn tả rộng đẹp tình yêu mong đạt đến sự hiệp nhất và bình an.
Rõ ràng mỗi một Linh mục trong giáo phận đã góp phần tạo nên cả một vết dầu loang, cả một làn sóng xanh, cả một thứ bệnh truyền nhiễm H5N1 ở giữa Giáo phận về tinh thần hiệp nhất. Nói H5N1 là có những gợi ý. H5 trước hết là chữ Hiện: hiện diện. Thứ hai là chữ Hòa: hòa bình. Thứ ba là chữ Hảo: thiện hảo. Thứ bốn là chữ Hiệu: hiệu quả. Thứ năm là chữ Hiệp. Và chữ N1 tức là chữ Nhất để diễn tả và mời gọi mỗi người chúng ta “xuất phát lại từ Đức Kitô” để có sự hiệp nhất giữa lòng Giáo hội của mình.
Trong ti vi trong dịp đầu năm có chương trình quảng cáo của bột giặt Omo với khẩu hiệu: “Tết làm điều phúc, sung túc cả năm”. Không biết các cha có để ý? Ơ đây thấy một anh xe lam chở đồ cồng kềnh, đồ bị rớt xuống được một bà bán hàng rong lượm lên, áo của bà bị dơ: Omo sẽ làm sạch. Rồi anh xe lam gặp chiếc xe tải đằng trước, bị sa lầy, anh nhảy xuống giúp đẩy xe đi được, và tất nhiên xe của anh cũng tiến theo sau đó: quần dơ Omo sẽ tẩy. Có điều thú vị là ỡ đây, người chọn quảng cáo đã nói lên một thứ tình yêu vị tha mà người ta gọi là “làm phúc”, mong rằng những đợt sóng làm phúc từ người này đến người kia cũng trở thành những vết dầu loang của sự xây dựng hiệp nhất, tình yêu và bình an. Không phải ta làm phúc đầu xuân để mong được sung túc cả năm. Nhưng ta làm thành một phong trào gắn bó, tiếp nối và cộng tác với toàn thể Giáo hội làm cho nỗi khát của Đức Kitô được mỗi ngày mỗi được dịu bớt.
Kết:
Vâng, để kết thúc xin nói lên chính khát vọng của Giáo phận chúng ta là một Giáo phận trẻ. Trẻ vì chính khát vọng của những Mục tử là chúng ta hôm nay đối với nhiệm vụ Đức Cha phân bổ cho mình. Mong rằng với tố chất trẻ ấy, sẽ tăng cường sức mạnh để xây dựng tình yêu, xây dựng hiệp nhất, xây dựng bình an rực rỡ cho Giáo phận của mình và cho tất cả những người mà mình có trách nhiệm. Nếu thánh Augustinô có thốt lên lời nguyện “Chúa dựng nên con không cần đến con, nhưng cứu độ con Ngài cần con đáp lời” thì cũng chỉ muốn nhấn mạnh đến khía cạnh hợp tác với hồng ân Thiên Chúa để công trình cứu độ được hoàn thành. Gerard Bessiere có lần phát biểu về Chúa Giêsu rằng: Ngài chết ở tuổi 33, còn quá trẻ để làm một Thiên Chúa. Ta cũng có quyền tiếp nối ông để nghĩ về sức trẻ của Thiên Chúa nơi những thừa tác viên có tâm hồn trẻ trung hôm nay trong Giáo hội đang hăng say khát vọng điều tốt điều lành cho đời người và người đời trong ơn cứu rỗi. Khát vọng là một thuộc tính của Thiên Chúa, mong rằng khát vọng cũng trở thành thuộc tính của mỗi người chúng ta.
Trong gia đình, dù sống dưới một mái nhà, dù cùng chung huyết thống, dù cùng lớn lên cùng chia sẻ một bầu khí và ảnh hưởng cùng một nền giáo dục, nhưng mỗi người vẫn luôn duy nhất: chúng ta rất khác nhau, khác từ quan điểm, tính tình cho đến sở thích ước mơ… ngay cả anh chị em sinh đôi, sự khác biệt vẫn luôn rõ nét. Đó là chưa nói đến sự khác biệt vợ chồng, mỗi người đến từ một cảnh sống riêng. Hay sự khác biệt giữa cha mẹ và con cái. Duy chỉ tuổi tác cũng để chúng ta thấy biết bao sự khác biệt rồi.
Lần này, chúng ta thử tìm hiểu sơ qua về sự khác biệt của hai anh em của người cha nhân hậu trong Tin Mừng thánh Luca, đồng thời phân tích một số điểm tạo nên sự khác biệt giữa chúng ta, đặc biệt giữa những người sống trong cùng một nhà.
Thoạt nhìn chúng ta có thể nhận định tổng quát: “Con ngoan” là nét đặc biệt của người anh và “Con hư” là của người em. Trước hết xin được đề cập:
Sự khác biệt về cá tính
Người anh : an phận, ngoan ngoãn theo nếp nhà, vâng lời, siêng năng, tiết kiệm, chăm làm, bổn phận chu toàn nghiêm túc. Khép kín, chẳng dám bày tỏ ước muốn riêng của mình, ngại ngùng, có thể nói là xa cách cha. Thích vui chơi với bạn bè quanh đó. Có lẽ còn hay so bì ghen tương nữa chăng?
Người em : thích phiêu lưu, ham chơi, hưởng thụ, tự do, phóng khoáng, sống vô kỷ luật, bốc đồng, chẳng lo cho ngày mai, quy về mình. Nhưng ngay thẳng, nhận trách nhiệm việc mình làm và nêu lý do trở về vì đói chớ không vì thương nhớ cha. Mặt khác, trong khốn cùng vẫn còn tự trọng, chịu làm công việc nhục nhã chớ không trộm cắp. Biết nghĩ lại.
Ngoài cá tính, chúng ta thấy quan điểm chi phối rất nhiều đến cách sống của chúng ta. Ở đây xin được nhấn mạnh đến quan điểm về tình yêu.
Người con cả : yêu là lo chu tất bổn phận, lo phục vụ, lo làm việc. Yêu là vâng lời, không trái lệnh, bày tỏ và đòi hỏi cha thương theo cách của mình.
Người con thứ : yêu là không sợ sệt, ngại ngùng, dám nói lên điều mình muốn. Tin và hy vọng vào tình thương, tin vào sự tha thứ và chấp nhận, dù biết lỗi, và nhận trách nhiệm, nên chỉ xin làm công
Dựa trên hai lãnh vực ấy, sự khác biệt đã khá rõ nét. Còn chúng ta, những người cùng chung sống, cùng một huyết thống hay dưới một mái nhà thì sao?
Điều gì đã tạo nên sự khác biệt giữa chúng ta?
“Cha mẹ sinh con, trời sinh tính”. Đó là sự khác biệt đầu tiên. Ngoài ra, chúng ta là người như thế nào bây giờ còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa:
Sức khỏe : chúng ta là người thường yếu đau hay là người khỏe mạnh.
Ngoại hình : chúng ta là người dễ coi hay khó coi, điều này cũng còn tùy cái nhìn mình có về bản thân.
Kinh nghiệm sống : nhất là tuổi thơ – Chúng ta được yêu thương hay thiếu sự quan tâm săn sóc? Quan trọng đối với người thân hay thừa thải? Thành công hay thất bại trong những gì mình làm? Được chấp nhận dù mình có sao đi nữa hay bị từ khước? Được quý trọng hay bị coi thường?
Nền giáo dục đã nhận được trong gia đình, trong xã hội và trong tôn giáo. Cách giáo dục: khắt khe, dễ dãi, thúc ép hay tôn trọng, được giải thích hay bắt nhắm mắt vâng lời? Được khen thưởng động viên, hoặc thường xuyên bị la mắng, dọa nạt và phạt nặng, đánh đập?
Hoàn cảnh sống : Có đủ cha mẹ hay sống với ai? Đời sống vật chất thoải mái, hay chật vật, vất vả… ?
Tuổi thơ : An toàn hay bất an lo sợ? Đầy đủ, hay thiếu thốn tình cảm, vật chất? Được quan tâm hay bỏ bê? Gia đình được bình an hay sóng gió? Nồng ấm hay lạnh lùng…?
Tất cả những yếu tố trên, nhất là kinh nghiệm sống và nền giáo dục đã tạo nên cho chúng ta một quan niệm, một cái nhìn về bản thân, về người khác và về cuộc đời. Tạo cho chúng ta một chuẩn mực để chúng ta đánh giá chính mình và người khác. Chuẩn mực ấy được gọi là “khung quy chiếu”.
Chúng ta có thể xem đây như là một hình thức của tiếng nói bên trong, tiếng lòng… Có khi còn được gọi là quan điểm hay “nhân sinh quan”.
Nhân sinh quan hình thành do những gì mình đã học, đã nghe, đã thấy, đã kinh nghiệm, nhất là thời thơ ấu. Tất cả những gì đã góp phần hình thành quan điểm, nếp nghĩ và nhận thức của chúng ta. Và rồi chúng ta tin đó là điều đúng, và chúng ta lấy đó làm thước đo, làm chuẩn mực để phán đoán hay đánh giá bản thân và người khác cùng những biến cố, sự việc mình gặp.
Một ví dụ cụ thể về: Anh hưởng của giáo dục :
Một người nữ sẽ cảm thấy hối hận, ái ngại cũng như kết án bản thân cùng các bạn gái khác khi thấy mình hay các bạn ngủ nướng, ăn uống thô bạo, nói năng cười giỡn to tiếng ngoài đường… vì người ấy đã được mẹ dạy rằng theo khuôn mẫu:
“Con gái chưa nói đã cười, chưa đi đã chạy là người vô duyên”.
Hoặc
“Khoan ăn, bớt ngủ, nhịn nằm, giữ ba điều ấy mới là nên thân”.
Khi mình hay ai sống không ngay thật thì trong lòng lên án, vì trong đạo đã được nghe dạy rằng:
“Điều gì có nói có, không nói không…”
Hoặc
“Thứ bảy chớ lấy của người…”
Khi những gì xung quanh xảy ra theo hướng nghĩ ấy, là hướng khớp với cái “khung” có sẵn đó, thì chúng ta hài lòng, vui vẻ, nếu không thì chúng ta sẽ khó chịu, khổ sở, lo lắng, bất an… Chúng ta đừng quên rằng: Nhận thức của chúng ta là điều rất chủ quan, vì chính chúng ta thêu dệt, hình thành nó theo “ý riêng ” của mình. Rồi chúng ta tự đặt mình vào trong cái “khung” hay cái nhìn đó, để ứng xử, để cảm nhận, để nhìn và phán đoán mọi sự.
Cuộc sống chúng ta bị chính bản thân mình “điều kiện hóa ”. Đầu óc chúng ta ví như một chương trình đã được cài đặt sẵn, và chúng ta cứ thế mà hành động theo chương trình ấy.
Khi sự việc không xảy ra như chương trình đã cài đặt sẵn đó, sự xáo trộn bên trong sẽ xảy ra và làm cho chúng ta bực bội, khốn khổ.
Nói đúng hơn, chúng ta yêu thích và hài lòng với những gì hợp với khung sẵn có đó, chứ chưa hẳn chúng ta yêu con người hay sự việc thật đang có hay đang diễn ra… Trở về với đời sống gia đình. Chúng ta sẽ bực bội, khó chịu khi người khác không ứng xử theo quan điểm của mình.
Để hiểu nhau, chúng ta không đặt người khác vào cái “khung quy chiếu” của mình, mà cố gắng đi vào cái “khung” của người khác, có nghĩa là nghỉ đến hoàn cảnh sống và tất cả những gì đã tạo nên con người ấy bây giờ. Bị giới hạn bởi cái “khung quy chiếu” đó, nên mỗi người chúng ta chỉ nhìn thấy một số góc độ của vấn đề thôi, vì vậy nếu khi nào chúng ta cũng cho mình đúng và có lý, khi đó chúng ta có rất nhiều khả năng hiểu sai sự việc. Câu chuyện “Năm tiên tri mù đi coi voi” giúp ta hiểu thêm về vấn đề này:
Khi một người sờ đụng cái bụng thì ông bảo con voi như cái trống. Người khác sờ đụng cái tai thì bảo con voi như cái quạt. Người khác nữa sờ đụng cái chân thì bảo rằng con voi như cái cột đình… Ai đúng? Ong nào cũng đúng và có lý cả? Ai sai? Ong nào cũng sai cả.
Có lẽ câu chuyện này giúp chúng ta tỉnh thức hơn để không quá cố chấp trong nhận định, để hiểu người khác hơn khi chúng ta đứng trong chỗ đứng của người khác, của vợ, hay chồng, hoặc con cái, nhân viên… của mình. Vì mỗi người có hoàn cảnh, kinh nghiệm sống khác nhau nên nhìn sự việc cũng rất khác nhau.
Với con em. Chúng ta lại càng cẩn trọng hơn. Vì bối cảnh lớn lên về nhiều mặt cũng như giáo dục và cảnh sống của chúng ta rất khác những gì con em mình trải qua, vì thế cố gắng hiểu con, cũng như hiểu nhau là đòi buộc cho cuộc sống chung hài hòa. Xin được đan cử một sự kiện khác cho thấy sự khác nhau là điều tất yếu:
Cả gia đình cùng đi chơi xa. Trên chuyến xe có hai thế hệ. Tôi và ba má các cháu cũng tuổi xấp xỉ nhau. Trên đường chúng tôi để nhạc dân ca với những tiếng đàn tranh, đàn bầu réo rắc, và chúng tôi thích thú tận hưởng những giai điệu êm ái ấy. Chừng một giờ sau, một trong đám trẻ từ 13 đến 18 tuổi lên tiếng: “Sao nhạc gì giống đám tang quá vậy, buồn quá…!”Khi đó chúng tôi nhường cho bọn trẻ nghe băng của chúng. Mở nhạc chừng mười phút là chúng tôi, giới phụ huynh, đã thấy nhức đầu, mười phút sau đã có người phải bóp trán cho đỡ căng thẳng, nhìn lại băng ghế sau thì thấy bọn trẻ phấn khởi, tươi tắn hẳn lên. Nhạc Rock hay Rap gì của chúng chiều hôm ấy đã làm cho chúng tôi chiều hôm ấy nhức đầu khủng khiếp.
Cái hạnh phúc của tuổi trẻ làm chúng tôi khó ở. Nhạc nào hay, nhạc nào dỡ? Khó có thể xác định được. Đúng thế, khác nhau không có nghĩa là sai hay xấu, mà khác là do sở thích, quan điểm…
Để hiểu nhau, người Việt chúng ta vẫn khuyên “đặt mình vào vị trí người khác”. Nói theo tâm lý là đi vào thế giới riêng tư của người kia để hiểu họ trong chính hoàn cảnh và vị trí cùng những gì tạo nên con người họ bây giờ.
Hiểu và được hiểu làm cho cuộc đời nhẹ nhõm, ấm áp, giúp chúng ta cảm thấy an toàn và tự tin hơn khi đứng trước các tình huống khác nhau của cuộc sống.
Hiểu và được hiểu là hạnh phúc. Chúng ta ai cũng mong muốn cho những người thân yêu của mình được sống hạnh phúc, an bình và vui tươi… Sao chúng ta không cố gắng thử suy nghĩ và tìm cách để hiểu nhau nhỉ?
M. Thécla Trần Thị Giồng – Dòng Đức Bà
TS Tư Vấn Tâm lý
Giáo dục con cái
CẤM ĐOÁN CON CÁI HAY ĐỂ TỰ DO?
Hồi còn học trung học, chúng tôi thường rất nể thầy giáo của mình. Có vị còn rất trẻ, chỉ hơn chúng tôi năm bảy tuổi. Thầy trò nhiều khi nói chuyện đời với nhau tương đắc lắm vì tuổi tác chẳng hơn kém nhau bao nhiêu. Chúng tôi có một thầy dạy tiếng Anh đẹp trai, nho nhã, chưa có gia đình. Thầy thường bảo ở trường dạy mấy em vậy chứ ở nhà bị “ông bà bô” nẹt hoài, chẳng dám nói gì…
Tôi có một đứa cháu. Ơ trường và ở ngoài gia đình khi gặp bạn bè hay khi gặp cô bác ở ngoài cháu nói huyên thuyên, hết chuyện này đến chuyện khác. Nhưng khi về đến nhà cháu im như hến. Họa hoằn lắm mới dám hé miệng nói ít câu với cha mẹ.
Nhiều cha mẹ thấy con ù lì nói như vậy ở nhà là rầy con, là nạt nộ con “Sao không chịu mở miệng! Mai mốt ra đời làm sao?” Hậu quả là con cái càng ít nói. Nhiều cha mẹ thấy con đi học về nói huyên thuyên cũng nạt con khiến cô bé, cậu bé im re. Nhiều khi trẻ em thắc mắc lại bị kê ngay “Làm gì mà hỏi dữ vậy?”
Nếu trừ những giờ ở trường ra, trẻ em còn bao nhiêu giờ “tự do ăn nói” ở nhà với ông bà, cha mẹ, anh chị em? (Nếu may mắn trong nhà còn hai ba anh chị em) Chẳng còn bao nhiêu, bởi vì sáng đi học, chiều đi học, tối đi học, về nhà cũng học, còn giờ ăn, giờ ngủ, vệ sinh tắm rửa nữa. Mà những giờ giấc ấy trẻ con nói gì, nói với ai? Cứ nhìn vào lớp học ở trường. Ngoài những bài học dài học trò phải ngồi im ghi chép, những giờ học ôn tại lớp lặng lẽ như những nhà tu trên đỉnh núi Tibet, chúng chẳng có dịp để hỏi và nêu thắc mắc. Việc “phát biểu” tại lớp hạn chế đến mức tối đa. Giáo án thầy cố đã có sẳn rồi đó. Câu hỏi thế nào, nội dung trả lời ra sao, tất cả đã là… “pháp lệnh”. Sách giáo khoa là pháp lệnh, không được nói ra ngoài, không được hỏi ra ngoài. Phải trả lời đúng y chang trong sách để được điểm cao. Mọi chuyện sắp sẵn. Đó là lý do tại sao một bài văn được điểm cao nhất nước trong kỳ thi tuyển sinh đại học 2006 là một bài văn chép y như “đáp án” (bài giải sẵn), không sai một chữ !!! Phát biểu ý kiến hả? – Không được! Thắc mắc hả? - Không được! Thầy cô cháy giáo án sao? Hỏi ra ngoài bài hả? - Không bao giờ! Suy luận thực tiễn hả? – Ngồi xuống!!! Riết rồi học trò học như con vẹt, không còn suy nghĩ và chỉ cố làm sao đọc viết y chang như “đáp án” để… được trước hết là yên thân, sau là được điểm cao và cha mẹ không bị rầy rà kêu lên kêu xuống. Miễn phê bình và phát biểu ý kiến. Ngay cả sinh viên đại học được nuôi dưỡng và thuần hóa như thế suốt bảy năm trung học nên chẳng mấy ai phát biểu ý kiến trong lớp. Thầy dạy hay là thầy cho chép nhiều, đầy tập, đầy vở. Thầy dạy hay là thầy có gì cho sinh viên chép lại để lỡ có nghỉ học thì có chỗ mượn bài của bạn chạy ra góc phố photo là xong. Coi như đã đi học rồi.
Có một ông thầy được coi là dạy giỏi vì trong 45 phút ông đã cho học trò xóa tấm bảng có chiều dài 2 thước tới tám lần để viết cho học trò chép lại.
Nhưng ngược lại, thử bước chân ra khỏi lớp học, thanh thiếu niên được dạy dỗ ứng xử như thế nào? Ngoài gia đình, ngoài lớp học, giới trẻ có hai nơi: tập thể và những nhóm tự do. Những nhóm tự do kết hợp theo thị hiếu, thói quen, và những gì chúng thích làm, thích ăn, thích nghịch ngợm. Trong tập thể đoàn đội, chúng được tập nói chuyện tự do. Nhưng so với nhà trường, cả hai lãnh vực này có vẻ tương phản. Trong những nhóm tự do, thanh thiếu niên ăn nói thả cửa, không kềm chế. Trong những nhóm đoàn đội (không phải các hội đoàn tôn giáo hay thanh niên), người ta lại thường dạy cho thanh niên tự do quá mức. Cứ nghĩ rằng có ý kiến hay phản bác ý kiến là hay rồi. Bởi vậy có nhiều chuyện xảy ra đầy “hỉ nộ ái ố”.
Một lần tham dự một buổi sinh hoạt giảng dạy có sự tham dự của nhiều người, nhiều lớp tuổi khác nhau, một thanh niên khoảng gần 30 tuổi dõng dạc tuyên bố “Những người mới ra trường bao giờ cũng dạy hay hơn những người ra trường đã lâu bởi vì… họ còn nhớ những bài học trong trường!!!” Ở nhiều cuộc họp hội nho nhỏ khác, người ta thấy mấy thanh niên nói những chuyện “đội đá vá trời”, những chuyện mà nghe ra y như những tuyên bố của các lãnh tụ thế giới, những chuyện nghe như có thể thay đổi cả vận mệnh nhân loại này. Mới hai ba mươi tuổi mà mở miệng lúc nào cũng bắt đầu bằng câu “Tôi đã từng… Tôi cũng biết rồi”.
Những câu tuyên bố đại loại như vậy xuất phát từ những người còn thiếu kinh nghiệm sống. Tuổi trẻ thường chỉ mới thấy một ít sự việc xảy ra ngoài mặt nhưng chưa có dịp từng trải với những kinh nghiệm sống trong cuộc đời.
Nhưng giữa hai thái cực – cấm nói và cho nói tự do – không lẽ cha mẹ và người lớn lặng thinh hay nghiêng về bên nào. Thực sự giữa hai thái cực đó cách hay nhất vẫn là dung hòa. Lắng nghe và sửa chữa những gì chưa đúng và phát huy thúc đẩy những gì đang diễn ra đúng đường. Mọi chuyện đều phải học “học ăn, học nói, học gói, học mở”. Không nạt nộ bắt im re, nhưng cũng không cho phép muốn nói gì thì nói.
Tại một hội đồng thành phố bên Uc Châu, người ta tổ chức cho những người trẻ đưa ra những quyết định về cộng đồng tại các cuộc họp. Mục tiêu đã rõ ràng, nhưng vấn đề là làm thế nào để người trẻ ý thức chuyện đó và phát biểu ý kiến của giới mình về những vấn đề của cộng đồng. “Chúng tôi không áp đặt lời nói đối với các em. Chúng tôi muốn tạo cho các em một cơ hội để thử thách chính mình”. Điều quan trọng trước nhất là đặt các thanh thiếu niên vào vị trí là những thành viên có giá trị trong cộng đồng để tránh lối phát biểu kiểu băng nhóm tự do và để cho người trẻ ý thức được việc tham gia của họ là có giá trị cho mục tiêu chung. Chính các học sinh được tự do đưa ra những nguyên tắc. Tha hồ bàn cãi và không sợ mất thì giờ. Họ có quyền không đồng ý với những ý kiến của người lớn. Họ có quyền quyết định, tỷ như cần phải làm gì trong một buổi cắm trại, một buổi sinh hoạt ngoài trời chung với nhau. Cánh cửa mở rộng cho các em. Dĩ nhiên đòi hỏi các em phải tính toán hoàn hảo và cân nhấc đủ mọi khía cạnh là điều vượt ra khỏi tầm tay của các em. Chẳng hạn việc xin phép, việc tài chánh, việc tiếp xúc với nơi này nơi nọ… Nhưng “giáo dục bằng hành động” có hướng dẫn vẫn là cách giáo dục hiệu quả nhất cho thanh thiếu niên. Phải mà một ngày nào đó học sinh sinh viên sẽ “có ý kiến” về việc trong một lớp mà ai cũng xuất sắc, trong một trường mà chỉ có những người muốn rớt mới “được rớt”, trong một hoàn cảnh mà học sinh phải học chính khóa, phải học thêm nhà thày cô chủ nhiệm, và còn phải ở lại trường cho đến chín mười giờ đêm để ôn tập… Phải chăng đó là một giấc mơ không bao giờ có.
Tập cho các em chơi với nhau ngoài gia đình, ngoài nhà trường, ngoài khu xóm, trong các nhóm nhỏ, các hội đoàn có nề nếp sẵn bằng những phương cách có điều khiển từ xa sẽ giúp các em thoát khỏi sự e lệ rụt rè và cũng giúp các em cân nhấc khi cần “phải ăn, phải nói” và phải đưa ra những quyết định.
Trong một xã hội mới, nơi mà những truyền thống đạo đức, lương tâm, những giá trị ngàn xưa cũng như lòng trắc ẩn không được rèn luyện và nhắc nhở, việc dạy cho con em biết tôn trọng sự thật, biết nói lên ý kiến của mình vì lợi ích của tập thể, vì lương tâm chung, biết cân nhấc để dung hòa lợi ích của cá nhân và của chung không phải là điều dễ dàng. Nhưng không lẽ ngồi nhìn con em chúng ta trôi đi theo những đợt sóng thủy triều. Cha mẹ phải làm công việc ấy trong và từ gia đình. Hãy lấy câu chuyện của ca sĩ người Việt Cardin Trần Bình Trọng làm thí vụ: Anh thanh niên tuổi 20 này sang Phần Lan lúc mới 4 tháng tuổi. Vậy mà nhờ gia đình, anh lớn lên là một người Việt nói tiếng Việt rất thành thạo và lại còn là một ca sĩ nổi danh nơi đất lạnh lẽo Bắc Au nữa .
Trần Bá Nguyệt
Nhiều người thường nghĩ, trước giờ chết, xưng tội xong thì chết lên thiên đàng ngay. Họ lý luận đơn giản là Chúa tha tội, hết tội là ta được lên thiên đàng. Tôi đã đặt vấn đề trong suy bài suy niệm về nhân quả. Thí dụ, tôi xưng tội nói xấu, tội tôi được tha. Nhưng hậu quả của việc nói xấu là cả cộng đoàn cứ đinh ninh người đó xấu, họ dè bửu, họ coi thường, khinh chê, tránh xa người ấy. Bí tích Giải Tội tha tội cho tôi nhưng không có năng lực thay đổi lối suy nghĩ của cộng đoàn về người tôi gây bất công. Như thế hậu quả tội tôi gây ra vẫn còn.
Nếu Chúa nhận việc đền tội bằng mấy kinh tôi đọc, cho tôi lên thiên đàng rồi cứ để người khác chịu oan ức thì đâu là vẻ đẹp của bí tích Giải Tội. Tội thì giải mà không giải được hậu quả của tội thì tôi định nghĩa thế nào về cách tôi nhận ơn sủng của bí tích này. Một lý luận đơn sơ, một người ăn cắp của tôi hàng trăm ngàn, chỉ cần xưng tội, Chúa tha! Rồi tôi lại đi lấy cắp của người khác hàng trăm ngàn, chỉ cần xưng tội, Chúa tha! Ai dám khẳng định giáo lý của Chúa là như thế?
Tôi đã đưa thí dụ. Một người không chịu học hành, ăn gian nối dối, trộm cắp, xì ke ma túy, bệnh hoạn, vào tù. Khi được tha tù, họ sám hối, mọi người tha tội cho anh ta. Tội anh ta không còn. Nhưng vì không học nên vẫn dốt, hết tội không có nghĩa là tự động thông minh. Hậu quả vẫn còn. Anh ta phải đi học lại. Tha tội không có nghĩa là anh ta hết bệnh hoạn. Anh ta phải uống thuốc, phải tập thể thao. Tội thì hết nhưng hậu quả không hết.
Tôi được tha tội, nhưng tôi phải “học” mới lấy lại được kiến thức nơi học đường. Tôi được tha tội, nhưng tôi phải “tập dượt” mới lấy lại được sức khỏe. Vì có như vậy thì các “việc lành” mới có giá trị hiện hữu.
Người trộm lành
Có thể có người đặt vấn đề. Thế còn người trộm chết bên Chúa thì sao. Anh ta đâu có đền tội mà cũng được tha, chết lên thiên đàng ngay! Trong lối suy nghĩ ấy, nhiều người cổ súy một nền tu đức “mì ăn liền”. Chỉ cần tích tắc xưng tội là Chúa cho lên thiên đàng ngay. Ta hãy nghe lại những gì xảy ra ở vùng đất Jerusalem hai nghìn năm xưa theo Phúc Âm:
Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Ðấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!” Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống và nói: “Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!” Phía trên đầu Người, có bản án viết: “Ðây là vua người Do Thái.”
Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: “Ông không phải là Ðấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” Nhưng tên kia mắng nó: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” Rồi anh ta thưa với Ðức Giêsu: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” Và Người nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Ðàng”(Lc. 23:34-43).
Phúc Âm cho thấy toàn cảnh bấy giờ như sau:
- Dân chúng đứng nhìn.
- Thủ lãnh buông lời cười nhạo.
- Lính tráng chế giễu.
- Một tên trộm nhục mạ.
Trong ba năm, Chúa chữa biết bao nhiêu người bệnh tật. Những người này bây giờ ở đâu. Không ai lên tiếng bênh vực Chúa.
Tôi xin đặt vấn đề. Anh ta là tên trộm, tại sao không nói như người trộm bên cạnh: “Ông không phải là Ðấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” Trái lại anh ta mắng ngược lại tên trộm kia: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!”
Qua cuộc đối thoại này ta thấy hai tên trộm không nói cùng một ngôn ngữ của kẻ trộm:
- Một người biết kính sợ Thiên Chúa, một người không.
- Một người biết chịu hình phạt là đích đáng, một người không.
- Một người biết cuộc đời của Chúa không làm gì sai trái, một người không.
- Một người biết Chúa Giêsu bị đóng đinh là sự bất công, một người không.
- Một người lội ngược dòng với đám đông, một người ùa theo.
Tâm đức người trộm lành
Sự khác biệt lớn lao là một người trộm có “tâm đức”, một người không. Cái tâm đức này không phải bây giờ anh ta mới có. Nó phải là lòng thao thức từ lâu. Những ngày đi ăn trộm anh ta phải biết về Ðức Kitô rồi, nên mới xác định được là “Ông này đâu có làm điều gì trái.” Ăn trộm mà biết về Chúa rõ như thế sao? Ăn trộm mà còn lương tâm nhận là mình đáng tội, có nghĩa là lúc ăn trộm, lương tâm anh ta cũng đã ngời sáng rất rõ ràng. Một người như thế không có “tâm” sao. Bởi đó, ta mới có truyền thống gọi anh ta là người “trộm lành”. Trong lối sống “trộm lành” này rất có thể anh ta không ăn trộm chuyên nghiệp. Biết đâu bị bắt ăn trộm trong lúc quá túng nghèo của một sa cơ? Và biết đâu trong lối sống đó anh ta đã làm nhiều việc lành đền tội rồi.
Lời chứng trong bão tố
Nguyên việc trước công chúng mà anh ta dám xác nhận Ðức Kitô vô tội thì anh cũng đáng bị người Do Thái đánh gẫy ống chân. Trong khi Phêrô chạy trốn, bao nhiêu người được Chúa chữa lành, được Chúa thi ơn không dám bênh Chúa còn anh ta có được hưởng ơn gì của Chúa đâu mà dám bênh Chúa? Việc tuyên xưng Chúa vô tội trên thập giá của một tên trộm lại là lời tuyên xưng duy nhất của nhân loại. Toàn thể bấy giờ im lặng. Tất cả thế lực tôn giáo, chính quyền đều chảy xuôi một chiều là nhạo báng Chúa.
Người tuyên xưng Chúa duy nhất lại là tên trộm. Sự tuyên xưng này mang một ý nghĩa rất sâu là anh xác tín vào đời sau. Như thế có nghĩa là tất cả xã hội kia đang đánh mất ân sủng của mình. Toàn thể đám đông kết án Chúa là sai. Anh ta đi ngược lại đám đông, người trộm này dám xưng mình tin Chúa là Ðấng vô tội. Một người bình thường không thể tuyên xưng như thế. Chúa đang chết rất nhục nhã, bởi đó người ta mới cười. “Nó đã cứu người khác thì tự cứu mình đi.” Lời đó đối với con mắt người thường là đúng thôi. Vậy tại sao tên trộm lại không tin như thế. Làm cách nào tên trộm này tin Chúa sẽ vào Nước Thiên Chúa? Làm cách nào tên trộm này tin Chúa sống lại? Ai dạy anh ta có sự sống đời sau? Ai dạy anh ta tin rằng Chúa đang chết kia là Thiên Chúa thật? Người khôn ngoan thì đến với kẻ quyền năng chứ đến với một người cũng chết như mình thì được gì?
Cái sám hối của anh không đến từ một “tâm đức nhất thời” mà nó phải có căn tính bằng cả một cuộc sống của quá khứ. Anh phải biết về lời rao giảng của Chúa lúc đương thời. Anh phải theo Chúa trong tâm đức của anh từ lâu lắm rồi. Giáo lý và niềm tin không thể đến bất ưng không vun trồng. Cuộc trở về của tên trộm tương tự như quá khứ tìm kiếm lề luật của người thu thuế Dakêu.
Tư cách thay cả nhân loại tuyên xưng Chúa vô tội. Tư cách xin chấp nhận bị đóng đinh vì xứng với tội của mình để làm tương phản đảo lộn việc đóng đinh Chúa là sai trái, không là bài giảng hùng hồn nhất giữa trời đất trước mặt toàn quyền thượng tế và chính quyền hay sao? Ðấy không phải là cách đền trả công lý của anh sao?
Ðền trả là tuyên xưng đức tin
Hậu quả tội lỗi của anh có đó chứ. Nhưng anh đã đền. Không phải một tích tắc ăn năn, Chúa tha tội là lên thiên đàng. Anh ta đã đền. Cái đền anh dũng trên thập giá của anh cho tôi tin rằng anh cũng đã nhiều lần đền trong lương tâm của một thời quá khứ băn khoăn thao thức. Vấn đề đặt ra ở đây không phải là anh ta không đền. Anh ta đã đền. Cuộc tuyên xưng này không những là đền trả bây giờ mà thôi nhưng nó là kết quả của những trăn trở trong quá khứ rồi. Chỉ có vấn nạn là, đền như thế mà đủ sao? Lỗi đức công bình sao anh không đền trả cho người? “Sao các người không tự mình xét xem cái gì là phải? Thật vậy, khi anh đi cùng đối phương ra toà, thì dọc đường hãy cố gắng giải quyết với người ấy cho xong, kẻo người ấy lôi anh đến quan toà, quan toà lại nộp anh cho thừa phát lại, và thừa phát lại tống anh vào ngục” Tôi bảo cho anh biết: Anh sẽ không ra khỏi đó trước khi trả hết đồng kẽm cuối cùng” (Lc. 12: 58-59). Phải trả đến đồng kẽm cuối cùng. Theo mạch văn thì không phải là trả cho Thiên Chúa mà cho đối phương. Ta cũng nên lưu ý một suy nghĩ, đây là ý tưởng Phúc Âm Luca. Phúc Âm Luca được mệnh danh là Phúc Âm của lòng thương xót. Luca luôn luôn đề cao lòng thương xót. Tại sao ở đây Luca viết bằng ngôn ngữ mạnh như thế.
Tất cả hậu quả của tội đều phải đền. Chỉ có vấn nạn là đền ít hay nhiều, đền bao nhiêu mới đủ, đền không đủ thì sao, làm cách nào đền. Tôi sẽ đề cập tới đền như thế nào mới đủ trong đề tài Chúa làm phép bánh hóa ra nhiều ở biển hồ Galilê.
Rồi anh ta thưa với Ðức Giêsu: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” Và Người nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Ðàng.” Lời cầu xin của anh ta là:
- Anh tin có Nước Thiên Chúa và sự sống đời sau.
- Anh tin người ta sẽ sống lại.
- Anh không là người vô thần. Anh kính sợ Thiên Chúa.
- Anh tin Ðức Kitô là Thiên Chúa, có sự sống nơi Chúa.
- Anh tin vào Ðấng Cứu Ðộ. Ðức Kitô là Ðấng có thể cứu anh.
- Anh tin có sự cứu chuộc. Con người cần được cứu chuộc.
- Anh tin vào luân lý có đúng, có sai.
- Anh tin những người kết án Chúa, họ là kẻ là sai lầm.
- Anh tin Thiên Chúa có thể sửa sai. Anh tin một niềm hy vọng.
Sự tuyên xưng này anh phải trả giá vì nó đi ngược lại những người đang kết án Chúa. Ðây không là lời tuyên xưng dễ dãi biếng nhác. Sự đền trả của người mù ở đây mang một ý nghĩa khác nữa. Nó làm trọn Lời rao giảng của Đức Kitô: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời” (Mt. 10:32).
Hành trình thiêng liêng
“Tên trộm,” mà hôm nay người ta thường gọi danh xưng như thế đã là nhân chứng của niềm tin giữa giờ vô cùng bão tố. Bão tố nhất. Ta có thể nói, trước khi có Kinh Tin Kính thì anh trộm đã tuyên xưng trước chúng ta rồi. Một lời tuyên xưng công khai trước toàn thể quyền thế nhân loại. Lời tuyên xưng sau cùng trước khi Chúa giã từ trần gian. Trong lúc cả nhân loại im tiếng thì một người duy nhất tuyên xưng lại là anh. Hành trình thiêng liêng của người trộm này không là tích tắc được Chúa cho vào Nước Chúa, nhưng là một hành trình đã chuẩn bị từ tháng ngày trong quá khứ.
Ta nên nhìn con đường trưởng thành thiêng liêng của người mù không đến từ ngẫu hứng “mì ăn liền.” Không nên dễ dãi kết luận, chỉ cần tích tắc nói với Chúa vài câu là được lên thiên đàng. Ta nên nhìn con đường trưởng thành thiêng liêng của người trộm này trong cái nhìn tìm hiểu đoạn Kinh Thánh tường thuật về anh. Có thể nói cách khác, chính lời tuyên xưng của “tên trộm” viết thành lời đoạn Kinh Thánh này.
NGUYỄN TẦM THƯỜNG
Trích tập suy niệm KẺ ÐI TÌM, sẽ xuất bản năm 2010.