TIN VUI
Tuần san Bạn trẻ Công Giáo - Số 81 CN 22.04.2007
Email : bantreconggiao@yahoo.com
CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH C ( 22.04.2007)
"Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta” (CV5,29)
Chúa nhựt kính Lòng Chúa Thương Xót tại Vatican
ĐỨC THÁNH CHA BIỂN ĐỨC 16 MỪNG SINH NHẬT THỨ 80
Buổi họp báo giới thiệu cuốn sách của Đức Thánh Cha ”Đức Giêsu thành Nagiarét”
GIÁM MỤC GIUSE NGUYỄN VĂN YẾN TỪ CHỨC
Hội Dòng Đa Minh Rosa Lima họp mặt 3 lớp khấn 2004, 2005, 2006
Vài thống kê và nhận xét về Giáo Hội Công Giáo tại Trung Quốc
Phỏng vấn ĐHY Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn sau chuyến viếng thăm Nhật Bản
LỄ CƯỚI TẠI NHÀ THỜ ĐƯỢC TỔ CHỨC VÀO THỜI GIAN NÀO ?
Tài liệu tĩnh tâm Linh mục Giáo phận Phú Cường ( tiếp theo)
SỐNG LỜI CHÚA
Ga 21, 1-14 {hoặc 1-19}
"Chúa Giêsu đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu lại hiện đến. Công việc đã xảy ra như sau: "Simon-Phêrô, Tôma (cũng gọi là Điđymô), Nathanael quê tại Cana xứ Galilêa, các con ông Giêbêđê, và hai môn đệ khác nữa đang ở với nhau. Simon Phêrô bảo: "Tôi đi đánh cá đây". Các ông kia nói rằng: "Chúng tôi cùng đi với ông". Mọi người ra đi xuống thuyền. Nhưng đêm ấy các ông không bắt được con cá nào. Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: "Này các con, có gì ăn không?" Họ đồng thanh đáp: "Thưa không". Chúa Giêsu bảo: "Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được". Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá. Người môn đệ Chúa Giêsu yêu liền nói với Phêrô: "Chính Chúa đó". Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo lưới đầy cá theo, vì không còn xa đất bao nhiêu, chỉ độ hai trăm thước tay.
Khi các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa than, trên để cá và bánh. Chúa Giêsu bảo: "Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây". Simon Phêrô xuống thuyền kéo lưới lên bờ. Lưới đầy toàn cá lớn; tất cả được một trăm năm mươi ba con. Dầu cá nhiều đến thế, nhưng lưới không rách. Chúa Giêsu bảo rằng: "Các con hãy lại ăn". Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi "Ông là ai?", vì mọi người đã biết là Chúa. Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế. Đây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại.
[Vậy khi các Ngài đã điểm tâm xong, Chúa Giêsu hỏi Simon Phêrô rằng: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?" Ông đáp: "Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy". Người lại hỏi: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy". Người hỏi ông lần thứ ba: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?" Phêrô buồn phiền, vì thấy Thầy hỏi lần thứ ba: "Con có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến". Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời ấy đoạn, Người bảo ông: "Con hãy theo Thầy".] Đó là lời Chúa.
Theo dõi chu kỳ Phụng Vụ, từ Lễ Chúa Phục Sinh cho tới Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, xuyên suốt các Chúa Nhật Phục Sinh, các bài đọc 1 được trích trong sách CVTĐ.
Sách CVTĐ là một trong những tài liệu lịch sử quý giá nhất của Thánh Kinh. Đó là lịch sử hiện hữu duy nhất của Ki-tô giáo được viết ra trước thế kỷ thứ III. Nhờ đó chúng ta biết rõ sự lớn dậy của Ki-tô giáo ở Palestina hay về công cuộc Truyền Giáo tại Syria, Tiểu Á, Hy-lạp và Rô-ma. Bình minh của một kỷ nguyên mới bắt đầu ló dạng.
Sách TĐCV được trích đọc trong mùa Phục Sinh trình bày cho chúng ta thấy Hội Thánh Chúa Kitô đã thiết lập từ những buổi sơ khai cho tới lúc trở thành một Tôn Giáo Quốc Tế, được lan tràn khắp các dân tộc, không phân biệt mầu da tiếng nói... Đó là công trình của Chúa Thánh Thần, "Đấng được sai đến để làm chứng về Chúa Kitô" (Ga 16,26).
Bối cảnh của bài đọc I hôm nay là câu chuyện phép lạ người què, vốn ngồi ăn xin của bố thí tại Cửa Đẹp Đền Thờ mà ai cũng biết, nay được chữa lành, khiến mọi người bỡ ngỡ, cảm phục và đổ xô đến với Phêrô và Gioan. Thánh Phêrô đã thẳng thắn tuyên bố với họ: "Tại sao anh chị em ngạc nhiên về việc đó, và tưởng như chúng tôi dùng quyền năng hay lòng đạo đức riêng mà làm cho người què này đi được? Thiên Chúa của Abraham, Isaac, Giacob đã làm vinh danh Đức Giêsu Kitô Con của Ngài, Đấng anh chị em đã nộp và chối bỏ trước mặt Philatô, trong khi Philatô xét là phải tha cho Người. Anh chị em đã chối bỏ Đấng Thánh, Đấng Công Chính, và xin tha cho tên sát nhân, còn Đấng ban sự sống thì anh chị em lại giết chết. Nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại. Điều đó chúng tôi xin làm chứng. Chính lòng tin vào Người đã chữa anh què này hoàn toàn được lành mạnh".
Kết quả thứ nhất của việc chữa lành người què và bài giảng của Phêrô về Chúa Giêsu Phục sinh là ông và Gioan bị bắt do lệnh của các thế lực đền thờ: tư tế, lãnh binh, và nhóm Sađucêo. Hai ông bị tống ngục qua một đêm. Ngày hôm sau bị giải ra toà án tôn giáo Do thái. Phêrô lại có cơ hội rao giảng Chúa Giêsu Phục sinh. Sự thông thái uyên bác của ông làm cho hội đồng ngạc nhiên. Công vụ ghi lại: "Họ ngạc nhiên khi thấy ông Phêrô và Gioan mạnh dạn, và biết rằng hai ông là những người không có chữ nghĩa, lại thuộc giới bình dân. Họ nhận ra hai ông là những người đã từng theo Đức Giêsu" (CV 4,13).
Kết quả thứ hai là nhiều thính giả đã tin vào sứ điệp của hai ông: "Nhưng trong đám người nghe lời giảng, có nhiều kẻ đã tin theo, chỉ riêng số đàn ông đã lên đến chừng 5.000." (CV 4,4) Trong một thành phố chỉ khoảng 40.000 dân thì số 5.000 quả là ấn tượng. Tỷ lệ là 1/8. Tức cứ 8 người thì đã có một người tin theo lời của Phêrô và Gioan. Tỷ lệ này ngày nay chúng ta không thể đạt được.
Như thế việc Đức Kitô sống lại đã biến đổi các Tông đồ một cách ngoạn mục. Mới mấy ngày trước các ông còn run sợ người Do thái, đóng kín cửa khi hội họp cầu nguyện. Bây giờ tuyên bố mình là nhân chứng. Các Tông đồ rao giảng Chúa Giêsu Phục sinh với tất cả sự can đảm. Các Tông đồ loan truyền giáo lý của Người bất chấp mọi đàn áp. Những người cầm quyền Do thái không cho, bắt các ngài bỏ tù, lấy cớ rằng các ngài loan truyền điều mê tín và khuấy rối trị an. Sau đó, có người đã lén cứu các ngài ra khỏi tù, nhưng ra khỏi tù các ngài không chạy trốn, không đầu hàng theo họ mà lại còn mạnh mẽ rao giảng giáo lý của Chúa Giêsu. Nhà cầm quyền thẳng tay làm việc với các ngài, chỉ vào mặt các ngài và bảo : "Ta đã ra lệnh cấm các ngươi không được nhân danh ông Giêsu mà giảng dạy, thế mà các ngươi đã giảng dạy giáo lý đó khắp cả Giêrusalem" (Cv 5,28).
Bấy giờ Phêrô và các tông đồ thưa : "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta" (Cv 5,29). Bực tức, họ ra lệnh đánh đòn các tông đồ và tuyệt đối cấm không được nhân danh Chúa Giêsu mà giảng dạy nữa. Dầu bị nhục nhã như thế, nhưng các ngài nói rõ là lòng các ngài cảm được sự hân hoan, vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì danh Chúa Giêsu.
Bài học quí giá đó của các tông đồ đáng nêu gương cho chúng ta trước mọi thế lực cố ý tiêu diệt, hạn chế, gây khó khăn cho đời sống đức tin của chúng ta. Các tông đồ đã trả lời và đã dạy dứt khoát : "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta". Và khi bị thế lực của bóng tối, của sự dữ, của ma quỉ bách hại, lòng các ngài cảm thấy hân hoan, vì thấy mình được danh dự chịu sỉ nhục vì danh Chúa Kitô, đường lối của các tông đồ thật rõ ràng.
Bóng tối là bóng tối, ánh sáng là ánh sáng. Khi phải vâng lời Thiên Chúa để rao giảng Tin Mừng, các ngài cương quyết không nhượng bộ mọi thế lực thâm độc cản trở những bước chân rao giảng của các ngài.
"Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta". Khi phải vâng lời Thiên Chúa đến phục vụ anh chị em mình, các ngài sẵn sàng quên mình, hy sinh để bênh vực cho anh chị em được tự do tôn thờ Chúa, được sống trọn vẹn quyền làm người và làm con Chúa.
"Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta". Nhất là khi người đó lại là cáo già đội lốt cừu non đến cùng đoàn chiên, như Chúa Giêsu đã chỉ dạy trước. Trong công việc phụng thờ Chúa, phục vụ anh chị em của mình và giả như có bị đàn áp, bị bách hại, người vâng lời Thiên Chúa phục vụ luôn cảm thấy hân hoan tận cõi lòng. Vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì danh Chúa Giêsu, và không bao giờ cảm thấy mặc cảm, hèn nhát của người hùa theo sự dữ, để được yên thân, để hưởng những đặc quyền đặc lợi. Các Tông Đồ đã trở nên nhân chứng Tin mừng Phục sinh vì vâng lời Thiên Chúa.
"Chính anh em là chứng nhân về những điều này" (Lc 24,48). Khi hai môn đệ trở về từ Emmaus kể lại việc họ đã gặp Chúa sống lại và đã nhận ra Ngài lúc bẻ bánh và đang được mọi người nói cho hay Chúa cũng hiện ra với Simon thì bỗng nhiên Chúa xuất hiện, cắt ngang câu truyện của họ. Mọi người ngạc nhiên, sửng sốt và sợ hãi. Chúa khiển trách họ cứng lòng tin. Ngài cho họ xem các thương tích để minh chứng Ngài đã sống lại và đang sống bằng thân xác mà họ đã thấy khi họ theo Ngài. Cũng thân xác ấy đã chịu đóng đinh. Tuy nhiên sự bất ngờ quá sức họ chịu đựng và hiểu được. Ngài thấy rõ tình thế, cho nên ăn một mẩu cá nướng để họ vững tin hơn: Chính Ngài chứ không phải bóng ma. Cuối cùng thì họ vui mừng vì được gặp lại Thầy. Rồi Chúa Giêsu đã giải thích Kinh thánh và bẻ bánh để mở mắt cho các ông. Chúa Giêsu sai họ đi làm chứng "về những điều họ thấy tận mắt".
Tất cả các Tông đồ ra đi tuyên xưng mình chính là nhân chứng về cái chết và sống lại của Chúa trước đám đông. Vậy thì một nhóm người, quê mùa, dốt nát, nhát đảm, đóng kín cửa vì sợ, bỗng nhiên trở nên mạnh dạn, liều thân làm chứng Chúa đã phục sinh, không phải là dấu chỉ hay sao? Từ thái độ ẩn trốn, rút lui, lúc này họ bước ra công khai và can đảm đó không phải là một sự thay đổi lớn hay sao?
Vì vậy, chúng ta phải tin rằng ở Giêrusalem, hơn hai ngàn năm trước, đã xảy ra một phép lạ lớn lao, biến đổi các môn đồ Chúa Giêsu từ những người mà hội đồng Do thái tuyên bố là "không chữ nghĩa, thuộc tầng lớp cùng đinh" thành những con người can đảm và uyên bác. Họ bung ra rao giảng và ăn nói mạnh bạo, thông thái không kém các kinh sư, triết gia. Quyền năng họ nhận được ở "căn phòng trên lầu" thúc đẩy họ công bố sứ điệp biến đổi toàn thể loài người. Đức Giêsu đã chết, nay còn đang sống và ơn tha thứ được ban cho "mọi quốc gia".
Bằng lời nói, các ngài rao giảng mà không sợ bất cứ một áp lực hay một sự đe dọa nào. Mỗi khi rao giảng, các ngài thường hiên ngang tuyên bố : "Chúng tôi xin làm chứng". Dù đứng trước tòa án cấm đoán, dọa nạt, các ngài vẫn khẳng khái thưa : "Xin quí vị xét cho, phần chúng tôi, chúng tôi không thể không nói về những điều đã thấy, đã nghe".
Không những làm chứng bằng lời nói, các ngài còn làm chứng bằng việc làm, bằng chính đời sống của mình : sẵn sàng chịu vất vả, khổ cực, đòn vọt, tù ngục, và sẵn sàng chết vì Chúa Giêsu.
Sau 12 tông đồ, đã có biết bao lớp tông đồ khác, trải qua các thời đại, tiếp nối sự nghiệp loan báo Tin Mừng và làm chứng nhân cho Chúa Giêsu. Đến lượt chúng ta hôm nay, mỗi người cũng phải là một chứng nhân. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói : "Mỗi người giáo dân, trong bản chất, là một chứng nhân". Bởi vì khi chúng ta lãnh nhận phép rửa tội, nhất là phép thêm sức, là chúng ta đã được Chúa Kitô trao sứ mệnh làm chứng cho Chúa. Và tất cả chúng ta đã biết : cách thức làm chứng tốt nhất là đời sống tốt đẹp của chúng ta. Anh chị em nghĩ sao về câu nói : "Tôi đã đọc Tin Mừng, cuốn sách hay quá. Đức Giêsu là một vị đáng khâm phục. Nhưng tôi sẽ không bao giờ trở nên người tín hữu của ông ta, vì nhiều người Công giáo tôi gặp, họ không thực hiện bác ái Đức Kitô, họ không tuân giữ những điều Ngài dạy, và họ chỉ mang danh là Công giáo chứ không phải là người Công giáo thực sự". Chúng ta có vào số những người Công giáo đó không? Chúng ta có phải là một tông đồ, một chứng nhân cho Chúa không?
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
TU ĐỨC
Đất nước Việt Nam đã bước vào giai đoạn mới. Giai đoạn này được gọi là hiện đại hoá. Hiện đại hoá ví như ngọn gió làm tươi mát đồng bào. Giáo hội Công giáo trên đất nước Việt Nam cũng theo đó mà hiện đại hoá.
Có nhiều dấu chỉ cho thấy hiện tượng hiện đại hoá trong Giáo hội Việt Nam như :
- Nâng cao vẻ đẹp của các cơ sở tôn giáo.
- Nâng cao trình độ văn minh của các nhân sự tôn giáo.
- Nâng cao các tổ chức tôn giáo lên tầng cao mới.
- Nâng cao các phương tiện phượng tự lên những giá trị nghệ thuật hiện đại.
Những đổi mới đó giúp cho bộ mặt Hội Thánh tại Việt Nam có một chỗ đứng đáng nể trong giai đoạn mới này.
Nhưng, nếu chỉ nhắm duy mục đích đó, thì chưa đáp ứng nhu cầu sứ mạng thiêng liêng của mình.
Để nhắc nhở về sứ mạng thiêng liêng Chúa trao cho, thư mục vụ của Hội đồng Giám mục Viện Nam đã nhấn mạnh đến phục vụ. Có thể hiểu là mọi việc của hiện đại hoá đều phải nhắm vào mục tiêu phục vụ.
Phục vụ nói đây phải thế nào ?Thưa phải thực hiện trong yêu thương. Đây không phải là một dạy bảo mới. Nó chỉ là một nhắc nhở cần để ý cách riêng trong việc sống đạo thời hiện đại.
Suy gẫm nhắc nhở trên đây theo lý thuyết và kinh nghiệm, tôi có vài nhận định sau đây:
Hiện đại hoá là một giai đoạn khám phá.
Thực tế cho thấy người nỗ lực khám phá đủ mọi giá trị. Như :
- Giá trị kinh tế.
- Giá trị khoa học.
- Giá trị nghệ thuật.
- Giá trị văn hoá.
- Giá trị luân lý.
- Giá trị trí thức.
Tất cả những khám phá đó đều tương đối. Chính các giá trị đó cũng là tương đối.
Nhưng có một thực tại luôn tuyệt đối, đó là Thiên Chúa. Người không phải là một giá trị, mà là một hiện diện giữa mọi giá trị.
Khi khám phá các giá trị, để hiện đại hóa cuộc sống, người ta thường nhìn ra ngoài. Còn khi tìm sự hiện diện của Chúa giữa các giá trị, người ta cần có cái nhìn hướng vào nội tâm. Chúa hiện diện ở đó với sự tuyệt đối đời đời. Người không phải là một lý tưởng của hiện đại hoá, mà là một sự sống đời đời kêu gọi ta tham dự.
Ai gặp được Người, Người sẽ giúp cho mọi việc hiện đại hoá của họ có những giá trị mang sự sống thực. Trong giai đoạn hiện đại hoá của xã hội, Hội Thánh phải nêu gương trung thành với Thiên Chúa tuyệt đối của mọi tạo vật.
2. Yêu thương trong phục vụ cần biết lựa chọn nền văn hoá sự sống
Có những hiện đại hoá mang đến sự chết, bởi vì nó bị cuốn hút vào những mê hoặc dẫn con người đến tội lỗi. Thực tế cho thấy có những con đường hiện đại hoá, tuy có phần nào tốt cho nền văn minh vật chất, nhưng lại tàn phá nếp sống vô luận. Còn tệ hơn là thời mọi rợ. Hiện nay, cảnh buôn người, phá thai, khủng bố, đề cao hận thù, cạnh tranh bất chính, đó là một báo động về một nền văn minh sự chết. Xem như một thời mọi rợ kiểu mới đang hình thành.
Nhận thức như thế, việc hiện đại hoá đất nước và Hội Thánh đòi một tinh thần cảnh giác cao. Nhất là đừng quên việc hiện đại hóa đời một thái độ sáng suốt can đảm trong cuộc chiến giữa sự thiện và sự ác, giữa sự sống và sự chết.
Khi được hỏi về ưu tiên nên chọn để đáp ứng nhu cầu mục vụ trong giai đoạn hiện đại hoá này, nhiều người trong Hội Thánh Việt Nam đã có những chọn lựa khác nhau.
- Người thì chọn việc xây cất các cơ sở tôn giáo sao cho đẹp.
- Người thì chọn việc các giáo sĩ phải học tiếng Anh sao cho giỏi.
- Người thì chọn việc quy tụ giáo dân sao cho đông.
- Người thì chọn việc dấn thân vào các sinh hoạt xã hội, sao cho Hội Thánh có mặt và phục vụ rộng rãi.
- Người thì chọn việc đào tạo nhân sự, sao cho có đức có tài.
Tôi nghĩ việc chọn ưu tiên sẽ tuỳ theo tình hình cụ thể của mỗi nơi và mỗi lúc. Nhưng trong bất cứ hình thức nào, việc phục vụ vẫn phải chuyển tải tình yêu, bình an và sự thực. Nhờ vậy, người phục vụ luôn là người của Chúa, luôn phục vụ do động lực mến Chúa yêu người.
Thời nay, con người được đánh giá ở các tương quan của họ. Ai xây dựng được những tương quan tình yêu, sự thực và bình an, sẽ được gọi là người phục vụ có giá trị.
Những người tin theo Chúa, muốn đời mình trở nên có ý nghĩa nhờ phục vụ, nên chọn những ưu tiên có khả năng diễn tả tình yêu, bình an và sự thực trong đời sống của mình. Họ sẽ được Chúa chúc phúc và đồng hành.
Trong giai đoạn hiện đại hoá của Việt Nam hôm nay, Hội Thánh Việt Nam có thể đóng góp nhiều cho quê hương.
Cần có những người làm được và được làm. Không phải mọi người Công giáo chúng ta đều là thế. Nên những ai làm được và được làm đáng được chúng ta khuyến khích và trân trọng.
Họ sẽ khôn ngoan mở rộng phục vụ. Họ sẽ vui mừng được thấy Hội Thánh có nhiều người dấn thân phục vụ. Nhiều người phục vụ, với nhiều cách khác nhau, trong nhiều lãnh vực khác nhau, trong đạo cũng như ngoài đời.
Vì thế, tinh thần phe phái, cục bộ, thành kiến cần phải dẹp bỏ. Trái lại, tinh thần hiệp thông, cởi mở, bao dung, hợp tác rộng rãi rất cần được quan tâm khuyến khích.
Chia sẻ trên đây của tôi là một tâm sự rất chân thành. Nó rút ra phần lớn từ nhiều kinh nghiệm của tháng 4. 1975. Tháng Tư ấy với những chuyển biến của Đất Nước, với những chuyển mình của Giáo hội, với những thao thức của riêng tôi.
Lịch sử tháng 4.1975 là một bài học lớn cho việc đổi mới phục vụ. Nhờ đó mà tôi nghĩ tới việc đổi mới phục vụ trong giai đọn hiện đại này. Một đổi mới quan trọng nhờ ơn đổi mới của Chúa Thánh Thần.
GM. GB Bùi Tuần
HIỆP THÔNG GIÁO HỘI
Trải qua lịch sử, Chúa nhựt sau lễ Phục sinh đã được gọi bằng nhiều danh xưng khác nhau: chúa nhựt tám ngày sau lễ Phục sinh, chúa nhựt “Áo trắng” (in Albis), bởi vì các tân tòng cởi chiếc áo trắng mà họ đã lãnh nhận khi lãnh các bí tích khai tâm vào đêm Vọng Phục sinh, đánh dấu việc kết thúc giai đoạn huấn giáo khai tâm. Tại vài Giáo hội bên Ấn độ (tục truyền do thánh Tôma tông đồ thành lập), chúa nhựt sau lễ Phục sinh được gọi là chúa nhựt thánh Tôma, bởi vì bài Phúc âm thuật lại cuộc gặp gỡ của Người với Chúa Kitô. Gần đây, Đức Gioan Phaolô II muốn thêm một danh xưng nữa, đó là “Chúa nhựt kính lòng Chúa thương xót”, và ngài qua đời cách đây 2 năm vào đêm hôm trước ngày lễ. Năm nay, giáo phận Rôma dành ngày chúa nhựt hôm qua để mừng đức Bênêđictô XVI nhân ngày thượng thọ bát tuần và kỷ niệm 2 năm được bầu vào chức vụ kế vị thánh Phêrô. Lúc 10 sáng, chính đức thánh cha đã chủ sự thánh lễ tại thềm đền thờ thánh Phêrô, với sự tham dự của hơn 50 ngàn tín hữu. Cùng dâng lễ với ngài là các hồng y, các tổng giám mục đứng đầu các cơ quan giáo triều, các giám mục phụ tá và đại biểu linh mục của giáo phận Rôma. Mở đầu thánh lễ, đức hồng y Angelo Sodano, niên trưởng hồng y đoàn đã phát biểu đôi lời chúc mừng đức thánh cha. Thánh lễ diễn ra như thường lệ, với các lời nguyện bằng tiếng Ý, còn các bài đọc và ý chỉ lời nguyện phổ quát được xướng bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Bài giảng là một lời tạ ơn lòng thương xót Chúa được cảm nhận suốt 80 năm qua, sẽ được tóm lại ở cuối bài tường thuật này. Bây giờ xin mời quý vị theo dõi nguyên văn bài huấn dụ đọc ở cuối Thánh lễ trước khi xướng kinh Lạy Nữ Vương thiên đàng và ban phép lành Toà thánh.
Anh chị em thân mến,
Tôi xin lặp lại lời chúc mừng lễ Phục sinh đến tất cả mọi người, vào chúa nhựt
kết thúc tuần Bát nhật, được mang tên là Chúa nhựt Áo trắng. Vị tiền nhiệm đáng
kính của tôi, đầy tớ Chúa Gioan Phaolô II, qua đời vào kinh Chiều Một của lễ
này, đã muốn rằng chúa nhựt này cũng được mang tên hiệu là “Lòng Chúa thương
xót”.Sáng nay, tôi đã mừng dịp trọng đại này một cách đặc biệt tại quảng trường
thánh Phêrô, một thánh lễ với sự tham dự của các Hồng y, giám mục, linh mục và
các tín hữu tại Rôma cũng như từ các nơi khác đến: tất cả muốn quây quần chung
quanh đức thánh cha vào ngày áp sinh nhật 80 tuổi. Tôi xin lặp lại lời cám ơn
thành thực tự đáy lòng, đến hết mọi người, và tôi muốn mở rộng đến toàn thể Giáo
hội, như một gia đình bao bọc tôi với tâm tình quý mến cách riêng trong những
ngày này.
Như đã nói, chúa nhựt hôm nay kết thúc tuần lễ, hay nói cách chính xác hơn, tuần
Bát nhật Phục sinh, mà phụng vụ coi như một ngày duy nhất, ngày mà Thiên Chúa đã
dựng nên (Tv 117,24). Đây không phải là một ngày tính theo thời khắc của đồng
hồ, nhưng là theo nghĩa tinh thần, ngày mà Thiên Chúa đã mở ra trong chuỗi những
ngày tháng, khi Chúa cho đức Kitô sống lại từ cõi chết. Khi Thần khí sáng tạo
phú ban sức sống mới và vĩnh cửu vào thân xác của đức Giêsu được an táng trong
mộ, thì Ngài đã hoàn tất công trình tạo dựng, mở ra một “trái đầu mùa” cho một
nhân loại mới cũng như cho một thế giới mới và một kỷ nguyên mới. Việc canh tân
đổi mới này có thể tóm lại trong một lời mà Chúa Giêsu phục sinh đã nói lên như
lời chào hỏi, hơn nữa, như lời loan báo chiến thắng cho các môn đệ: “bình an cho
các con” (Lc 24,36; Ga 20,19.21.26). Bình an là một ân huệ mà Chúa Kitô để lại
cho các bạn hữu của mình (xc Ga 14,27) như là lời chúc lành cho hết mọi người và
mọi dân tộc. Bình an không theo nghĩa của “thế gian”, một thế quân bình giữa các
lực lượng, nhưng bình an như một thực tại mới, hoa trái của Tình Yêu của Chúa,
của lòng Thương xót của Chúa. Đó là bình an mà Chúa Giêsu đã thủ đắc bằng giá
của máu mình, và được thông ban cho những ai tin tưởng vài Người, “Lạy Chúa
Giêsu, con tin tưởng vào Chúa”: những lời này gói ghém đức tin của người Kitô
hữu, tin vào quyền năng của Tình yêu lân tuất của Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến, tôi xin cám ơn tất cả một lần nữa vì anh chị em đã gần gũi
tôi nhân dịp sinh nhật của tôi và kỷ niệm được bầu vào chức vụ kế vị thánh
Phêrô, tôi xin ký thác tất cả anh chị em cho Đức Maria, người mẹ của lòng thương
xót (mater misericordiae), thân mẫu của Chúa Giêsu hiện thân của lòng
thương xót của Thiên Chúa. Nhờ Mẹ giúp đỡ, chúng ta hãy để cho Chúa Thánh Thần
đổi mới, hầu cộng tác vào công cuộc hoà bình mà Thiên Chúa đang thực hiện trong
thế giới, hoà bình không rầm rộ, nhưng được thể hiện qua vô vàn cử chỉ yêu
thương bác ái của các người con của Chúa.
Sau khi đọc kinh “Lạy Nữ vương thiên đàng”, Đức Thánh Cha còn thêm những lời chào thăm các phái đoàn hành hương bằng tiếng Pháp, Anh, Đức, Tây ban nha, Ba lan, và ngài đã ban phép lành kết thúc Thánh lễ. .
Trong bài giảng Thánh lễ, Đức Bênêđictô XVI đã giải thích những ý nghĩa của những danh xưng của chúa nhựt hôm qua, cách riêng là danh xưng “Chúa nhựt kính lòng Chúa thương xót”. Tên gọi này đã được đức Gioan Phaolô II ghi vào sách phụng vụ. “Lòng Chúa thương xót” là một tư tưởng tóm tắt toàn thể mầu nhiệm Cứu chuộc. Đức Gioan Phaolô II đã sống dưới hai chế độ độc tài, và khi tiếp xúc với cảnh nghèo túng, chật vật, bạo lực, ngài đã cảm thấy thấm thía sức nặng của tối tăm, đè nặng trên thế giới ngày nay. Nhưng đồng thời, ngài cũng cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa đối kháng với các lực lượng đó bằng sức mạnh hoàn toàn khác biệt: quyền năng của lòng thưong xót. Chính lòng thương xót ngăn chặn sự dữ. Nơi lòng thương xót, Thiên Chúa đã cô đọng bản tính của mình, nghĩa là sự thánh thiêng, sự thật và tình yêu.
Tiếp đó, đức Bênêđictô XVI đã đọc lại cuộc đời 80 năm của mình dưới ánh sáng
của lòng Chúa thương xót, để cảm tạ biết bao hồng ân đã lãnh nhận, từ khi mở mắt
chào đời, được tái sinh trong Giáo hội, được cảm nhận tình thương trong gia
đình, trong chức vụ linh mục, giám mục. Và ngài đã kết luận như sau: Lòng thương
xót Chúa kèm theo chúng ta mỗi ngày. Chỉ cần biết để cho trái tim tỉnh thức thì
ta có thể nhận ra. Chúng ta thường dễ cảm nhận gánh nặng hàng ngày mà chúng ta
phải gánh vác. Nhưng nếu chúng ta biết mở rộng trái tim thì chúng ta có thể nhận
rõ rằng Thiên Chúa tốt lành như thế nào đối với chúng ta. Ngài lo lắng đến những
câu chuyện nhỏ nhặt, nhờ đó giúp chúng ta đạt đến những chuyện lớn lao. Với việc
đặt thêm gánh nặng của trách nhiệm, Thiên Chúa cũng mang thêm sự giúp đỡ cho
tôi. Tôi sung sướng nhận ra được biết bao nhiêu người đã giúp tôi thi hành chức
vụ, bao nhiêu người thông cảm với sự yếu đuối của tôi. Vì thế giờ đây, tôi muốn
hết lòng tạ ơn Chúa và tất cả anh chị em.
Bình Hoà
VATICAN. Hôm 16-4-2007, ĐTC Biển Đức 16 đã mừng sinh nhật thứ 80 với
một loạt các hoạt động.
Lúc sáng sớm, ngài cử hành thánh lễ tại nhà nguyện dinh Tông Tòa với bào huynh là Đức Ông Georg Ratzinger, với hai vị bí thư và những người giúp việc.
Lúc 11 giờ trưa, ĐTC tiếp kiến các vị trưởng phái đoàn về Roma mừng sinh nhật thứ 80 của ngài, đứng đầu là thủ tướng bang Bavière, Ông Edmund Stoiber và phu nhận, thủ tướng bang Schleswig-Holstein và đoàn tùy tùng, Đức TGM Ioannis Zizioulas, Đại diện Đức Thượng Phụ Giáo Chủ Chính Thống Constantinople, Bartolomaios I, sau cùng là phái đoàn 50 kinh sĩ của Tổng giáo phận Munich gồm 50 vị do ĐHY Friedrich Wetter, Giám quản Tông Tòa giáo phận này hướng dẫn.
Lúc 1 giờ trưa, ĐTC đã dùng bữa với Hồng y đoàn gồm khoảng 60 vị cư ngụ tại Roma và một số nơi khác đến Roma trong dịp này, và lúc 6 giờ chiều tại Đại thính đường Phaolô 6, ngài đã tham dự buổi hòa nhạc do Đài phát thanh Tây Nam Đức ở thành phố Stuttgart, cùng với chính quyền bang Baden Wuerttemberg thực hiện để tặng ĐTC. Ban nhạc đã trình diễn các tác phẩm của các nhạc sư Mozart và Antonin Dvorák, cùng một số người khác. Tham dự buổi hòa nhạc còn có hàng ngàn người gồm các HY, GM, LM và đông đảo tín hữu, không kể các khán thính giả các nơi theo dõi qua truyền hình.
Trong lời cám ơn nhiệt liệt sau buổi hòa nhạc, ĐTC đặc biệt đề cao vai trò của âm nhạc như ngôn ngữ thẩm mỹ phổ quát liên kết mọi người thiện chí ở các nơi với nhau, âm nhạc có khả năng hướng cái nhìn của họ lên Đấng là Sự Thiện và Vẻ Đẹp tuyệt đối là chính Thiên Chúa.
ĐTC cũng
khẳng định rằng: ”Khi nhìn lại cuộc đời của tôi, tôi cảm tạ Chúa vì đã đặt âm
nhạc cạnh tôi như một người bạn đồng hành, luôn mang lại cho tôi an ủi và vui
mừng. Tôi cảm tạ những người đã đưa tôi lại nguồn mạch gợi hứng và thanh thản,
ngay từ khi tôi còn ở tuổi thơ ấu. Tôi cảm tạ những người đã liên kết âm nhạc
với kinh nguyện trong sự ca tụng hòa hợp đối với Thiên Chúa và các công trình
của Người”.
Điện văn từ các nơi đã được gửi về Tòa Thánh để chúc mừng ĐTC nhân dịp này.
Đức Ông Georg Gaenswein, bí thư của ĐTC, cho biết ngài không muốn nhận các quà tặng cho cá nhân ngài, nhưng những ai muốn tặng ngài quà gì, có thể tặng cho những mục đích bác ái mà ngài sẽ công bố, như giúp đỡ dân nghèo tại Phi châu, các nạn nhân thiên tai hoặc các tín hữu Kitô tại Thánh Địa. (SD 16-4-2007)
G. Trần Đức Anh OP
VATICĂNG: Chiều ngày 13 tháng 4 vừa qua Đức Hồng Y Christoph Schoenborn, Tổng Giám Mục Vienne, đã chủ sự buổi họp báo giới thiệu cuốn sách ”Đức Giêsu thành Nagiaret” của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, tại phòng họp mới của Thượng Hội Đồng Giám Mục trong nội thành Vaticăng.
Cuộc họp báo đã do Linh Mục Federico Lombardi, Giám đốc đài Vaticăng kiêm phát ngôn viên Tòa Thánh, điều hợp. Cùng hiện diện trên bàn chủ tọa với Đức Hồng Y Schoeborn còn có giáo sư Daniele Garrone, phân khoa trưởng phân khoa thần học Valdese Roma, và giáo sư Massimo Cacciari, dậy môn Mỹ thuật tại đại học Sự Sống Sức Khỏe thánh Raffaele Milano. Tham dự buổi hóp báo đã có nhiều giới chức của các cơ quan trung ương Tòa Thánh và mấy trăm ký giả Italia và quốc tế.
Ngỏ lời với cử tọa Đức Hồng Y Schoenborn nói: cuốn sách ”Đức Giêsu thành Nagiarét” là tinh hoa toàn cuộc sống kiếm tìm tinh thần của một tín hữu, trước khi là cuộc kiếm tìm của một thần học gia, một nhà chú giải Kinh Thánh trở thành một Giáo Hoàng. Đây là phần một của tác phẩm suy tư về gương mặt của Chúa Kitô, từ biến cố chịu phép rửa trong sông Giordan cho tới khi hiển dung trên núi Tabor. Cuốn hai của các phẩm sẽ suy tư về cuộc đời thơ ấu, mầu nhiệm cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô, mà Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI sẽ hoàn thành trong thời gian tới đây. Cuốn sách ”Đức Giêsu thành Nagiaret” dầy 400 trang giới thiệu Chúa Kitô như là ”một gương mặt có ý nghĩa và có sức thuyết phục trên bình diện lịch sử”. Cuộc sống và tâm trí của tín hữu tác giả tác phẩm này là Đức đương kim Biển Đức XVI, đã luôn luôn và tiếp tục tập trung vào điểm cần thiết nhất: đó là hiểu biết và lắng nghe Đức Giêsu để bước vào trong tương quan sống động sâu thẳm với Người; hiểu biết Đức Giêsu đã muốn đem đến cho chúng ta điều gì: đó là sự hiểu biết Thiên Chúa.
Đề cập đến các kiểu giới thiệu gương mặt Đức Giêsu thành Nagiarét, mà người ta rao bán trên thị trường truyền thông ngày nay, ĐHY Schoenborn nói: Khi đọc cuốn ”Đức Giêsu thành Nagiarét”, người ta ”có thể xếp gọn vào trong hộp đựng xương của lịch sử các hình ảnh tưởng tượng về Đức Giêsu như là một nhà cách mạng, một người canh cải xã hội khiêm tốn, như là người yêu của bà Maria Madalena vv... Nhưng câu hỏi lớn vẫn luôn luôn còn đó: Đức Giêsu có phải là người trung thực không? Điều Đức Giêsu hiểu biết về mình, về căn tính của mình lại không phải là một sai lầm vĩ đại, mà Kitô giáo tin theo từ 2000 năm nay hay sao? Do thái giáo và Hồi giáo coi yêu sách đó là gương mù gương xấu. Trả lời cho câu hỏi này là một thách đố đích thực, mà người ta đặt ra cho người kế vị Thánh Phêrô, trong hội trường của công chúng ngày nay.
Đức Hồng Y Schoenborn nói tiếp trong buổi họp báo giới thiệu cuốn sách của Đức Giáo Hoàng: Qua phương pháp phê bình lịch sử và trong nhãn quan thần học và mục vụ, thần học gia Joseph Ratzinger cho thấy sự hiểu biết nhân tính và thiên tính của Đức Giêsu không chỉ là một cử chỉ của lòng tin, mà cũng còn là cử chỉ của luận lý nữa. Và nó có chiều kích cách mạng. Chẳng hạn với dụ ngôn người Samaritano nhân hậu, Đức Giêsu lật ngược ý niệm ”tha nhân”, và mời gọi con người không chỉ định nghĩa tha nhân như là người đồng hương, đồng đạo, mà có can đảm coi mọi người khác là người lân cận. Khi dậy đặt để Thiên Chúa lên trên nhu cầu vật chất, dù là nhu cầu quan trọng, Chúa Giêsu cho thấy nơi đâu trật tự này không được tôn trong mà bị đảo ngược, thì không có công lý nữa, thì người ta không chú ý tới con người đau khổ nữa, trái lại người ta lại tạo ra sự pháà sản và hủy hoại cả trong lãnh vực của cải vật chất. Sự thất bại của chủ nghĩa mác xít muốn ”biến sa mạc thành cơm bánh” hay những bất công trong các trợ giúp của tây âu cho các nước nghèo chứng minh cho thấy điều đó.
Và tới đây thì tác gia đưa ra một câu hỏi khác sẽ theo độc giả trong suốt lộ trình cuốn sách: đó là nếu Đức Giêsu đã không đem hòa bình đến cho thế giới, đã không đem hạnh phúc cho tất cả moi người, đã không đem đến một thế giới tốt lành hơn, thì Ngài đem đến cho con người cái gì? Câu trả lời rất đơn sơ: Thiên Chúa. Ngài đem Thiên Chúa đến. Tất cả chi có thế thôi sao? Chỉ có sự chai cứng con tim mới khiến cho chúng ta coi điều đó là ít ỏi... Đây chính là giả thiết cho các giới răn yêu thương tha nhân. Nếu Thiên Chúa không chiếm chỗ cao nhất, phẩm giá con người sẽ không đứng vững được lâu...
Bên cạnh vẻ đẹp của các phân tích và các trực giác và viễn tượng phong phú của nó, toàn cuốn sách chỉ xoay quanh một tư tưởng ”Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”. Điều duy nhất tác giả mong muốn đó là tương quan sinh động với Đức Giêsu thành Nagiarét lớn mạnh nơi từng người.
ĐHY Schoenborn cho biết 350 ngàn ấn bản tiếng Ý, cũng như các ấn bản tiếng Ba Lan và tiếng Anh sẽ bắt đầu được bầy bán ngày thứ hai 16 tháng 4, là ngày sinh nhật thứ 80 của ĐTC. Cuốn sách sẽ được dịch ra 30 thứ tiếng trên thế giới (RG 14-4-2007)
Linh Tiến Khải
Thứ Bảy 14/4/2007, phòng báo chí Toà Thánh thông báo ĐTC Bênêđíctô XVI đả nhận đơn từ chức của Đức cha Giuse Nguyễn Văn Yến, Giám mục giáo phận Phát Diệm, chiếu theo Giáo luật số 401, triệt 2.
Đức cha Giuse Nguyễn Văn Yến năm nay 65 tuổi, sinh ngày 26- 12-1942, tại Vĩnh Trị, Tổng giáo phận Hà Nội, thụ phong linh mục ngày 25-6-1977 và được chọn làm Giám mục phó với quyền kế vị Đức cha Phaolô Bùi Chu Tạo ngày 16-12-1988. Mười năm sau đó, sau khi Đức cha Phaolô Bùi Chu Tạo qua đời, ngài đã thành Giám mục chính toà Phát Diệm ngày 3-11-1998.
Hiện nay, Đức cha Giuse Nguyễn Chí Linh, Giám mục chính toà Thanh Hoá được Toà thánh cử làm Giám quản Tông toà giáo phận Phát Diệm trong khi chờ đợi bổ nhiệm giám mục mới. Như vậy hiện nay Giáo hội tại Việt Nam đang có 4 giáo phận trống toà giám mục là Lạng Sơn, Bắc Ninh, Ban Mê Thuột và Phát Diệm
Khoản Giáo luật 401, triệt 2 viết: Nếu vì đau yếu hoặc vì lý do trầm trọng nào khác khiến cho khả năng chu toàn chức vụ bị suy giảm, thì Giám mục giáo phận được khẩn khoản yêu cầu đệ đơn từ chức.
Theo Radio Vatican
VŨNG TẦU -- Ngày 14 và 15 tháng 4 năm 2007, các chị em đã khấn trọn từ 1 đến 3 năm của Hội dòng Đaminh Rosa lima đã có ngày họp mặt sinh hoạt. Đây là lần đầu tiên,theo tinh thần Công vụ của Dòng chị Giám đốc học vụ Têrêsa Vũ Thị Ngọc Bảo tổ chức cho các chị em được gặp gỡ trao đổi và nhất là được sống cùng nhau, chia sẻ vui buồn đời Dâng hiến và phục vụ.
Các chị em đang làm mục vụ tại các giáo phận Saigon, Xuân lộc, Đà Lạt, Bà Rịa, Phú Cường hầu như đầy đủ, nhưng một số chị em ở giáo phận Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Phòng và một số chị em đang du học thì không thể về được.
4g chiều ngày 14, chị em đã có mặt tại Bãi Dâu, sau khi nhận phòng tại nhà nghỉ
Bêtania của các chị Mến Thánh Giá Gò Vấp, tất cả đã có mặt dưới biển. Mọi âu lo,
vất vả, công việc, mệt nhọc…tan theo những tiếng cười giòn giã hoà với những đợt
sòng của biển làm thành một thanh âm trong trẻo dội vào lòng từng chị em. Lúc
này mọi chức tước của bề trên hay chị giáo không còn nữa, chỉ còn những trò tạt
nước cho ướt, nhảy sóng, cười nói huyên náo mặt biển.
Trong hai ngày gặp gỡ, sẻ chia. chị em được cha Lorenxô Bùi Công Huy dòng Đaminh
chia sẻ đề tài “người tu sĩ hôm nay”. Bằng những câu chuyện rất thật trong đời
thường cha lưu ý chị em điều quan trọng trong đời tu đó là sống trung thành với
Đấng trung tín. Trong bài chia sẻ của mình cha đã dùng một hình ảnh rất quen
thuộc của các em nhỏ để nói lên sự chở che của Thiên Chúa. Em nhỏ thường hay sợ
ma, nên khi ngủ một mình thường bắt thắp nến, nhưng em cũng không ngủ được dù có
đốt rất nhiều nến. Cuối cùng người lớn đành dỗ giấc ngủ của em và của mình bằng
cách ẵm em vào lòng, chỉ vài phút sau em đã ngủ say. Hình ảnh này nhắc cho chúng
ta thấy rằng trong vòng tay yêu thương, ta chẳng còn sợ gì bóng đêm, bóng ma,
sấm sét hay bất cứ một điều gì đó đe doạ. Ngài kết luận, nếu chúng ta phó thác
trong tay Chúa như thế thì dù cuộc sống có ba chìm bảy nổi chín cái lênh đênh
thì đời ta vẫn hoàn toàn an vững trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa. Trong
dịp này Cha cũng mời chị em hãy khao khát chân lý, khi nào ta còn khao khát trở
nên đẹp hơn trong tình thân hữu với Thiên Chúa với anh chị em thì lúc đó chân lý
sẽ ngời sáng và thúc giục chị em sống yêu thương hơn.
Với bài chia sẻ về người tu sĩ sống đạo trong các mối tương quan, cha Giuse
Nguyễn Minh Phú đã tái định vị cho chị em về cách làm người là sống theo lẽ phải
và có tấm lòng yêu thương, làm người Kitô hữu là sống theo ý Chúa. Với kinh
nghiệm của một linh mục quản xứ thâm niên, cha đã chia sẻ với chị em những câu
chuyện của những mối tương quan và đặc biệt là cách hành xử như thế nào. Với kết
luận ngắn gọn dễ nhớ cha đã trao cho chị em chìa khoá vàng về cách đối xử với
người trên và người dưới là hai nguyên tắc tự trọng và tôn trọng. Mỗi người sẽ
tự tìm cho mình một lối đi và một mật mã riêng để sống lời khuyên ấy.
Hai ngày một đêm chưa đủ để chị em kịp trao cho nhau những kinh nghiệm mục vụ,
những khó khăn và hạnh phúc đã trải nghiệm, nhưng những ánh mắt, những cái xiết
tay ân tình cũng đủ cho chị em cảm nhận được sự cảm thông và sẻ chia của người
bạn đồng hành.
Hai ngày một đêm, chưa đủ để chị em hàn huyên, nhưng cũng đủ để chị em cảm nhận
được sự quan tâm của Hội Dòng, sự nâng đỡ của những người đi trước để trong hành
trình sứ vụ, những bước chân sẽ bước đi trong tin yêu, trong yêu thương và trong
sự đồng hành của Dòng và đặc biệt là của tình yêu của Thiên Chúa.
Nữ tu Minh Nguyên
Trung Tâm Dạy Nghề TÂN TIẾN thị xã Bảo Lộc là một trong những điểm thăm viếng của Cha Bề Trên Cả Dòng Don Bosco, Cha Pascual Chavez nhân chuyến viếng thăm Việt Nam.
Hôm ngày 11 tháng 4 năm 2007, với bandrôle chào mừng và cờ xí mang đậm nét dân tộc Việt Nam, các thành viên Salésien xếp hàng hai từ cổng vào. Đầu tiên là Ban Giám Hiệu và Ban Giáo Sư nhà trường, tiếp đến là các Soeurs Dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ trong tu phục Salésienne cùng với các em nhà trẻ trong đồng phục hóa trang lính thú ngày xưa. Tưng bừng là đội cồng chiêng của đoàn Dân Tộc Koho, lực lượng đông đảo nhất vẫn là các học viên đang theo năm chuyên ngành của Trường hướng nghiệp trong đồng phục công nhân. Ngoài ra còn có khá đông các cựu học viên Salésien .... Hiện diện trong buổi tiếp đón này có Cha Gioan Bosco Trần văn Điện, đặc trách Giới Trẻ ....đại diện các Cha trong miền Bảo Lộc .
Khoảng 11 giờ, xe đã tiến vào cổng của trung tâm. Cùng đi với Cha Bề Trên Cả còn có Cha thư ký, Cha Bề Trên miền. Tháp tùng phái đoàn còn có đủ mặt các Cha Giám Tỉnh, Cha Phó Giám Tỉnh, Cha Quản Lý, các Cha Giáo.....
Sau nghi thức nghênh đón, tất cả được mời vào Hội trường, Cha Bề Trên Cả và quí Cha vào nhà nguyện và tiến ra trong những tràng pháo tay thật nồng nhiệt.
Sau bài phát biểu của Cha Giuse Nguyễn văn Chính, Bề Trên cộng thể Salésien Tân Hà là phần tặng quà của các đơn vị , độc đáo là bộ áo tấc, quốc phục Việt Nam do Ban Giám Đốc và các học viên trung tâm Tân Tiến thực hiện. Cha Bề Trên mặc quốc phục Việt Nam phác một cử chỉ rất hồn nhiên. Trong bài phát biểu, ngài muốn tiếp nối ước mơ của Cha Thánh Don Bosco là mang lại hạnh phúc cho các Bạn Trẻ. Ngài cũng thuật lại những cảm nghỉ sau cuộc tiếp xúc với anh em công nhân tại Thành Phố Hồ Chí Minh, ngài thương cảm vì các bạn trẻ đó phải lao vào vòng xoáy cuộc đời để kiếm sống mà không hề được chuẩn bị. Ngài vui mừng vì các thành viên của gia đình Salésien đã tiếp nối giấc mơ của Cha Thánh Don Bosco, hiện diện trên mọi miền của thế giới và hôm nay ngay tại Trung Tâm Tân Tiến. Ngài tin tưởng những người trẻ hôm nay sẽ được yêu thương nhiều hơn, được hướng dẫn bởi một Đấng duy nhất đã chiến thắng sự chết để mang lại Niềm Vui và Hy Vọng của Mầu Nhiệm Phục Sinh, Đức Giêsu Kitô.
Sau bài đáp từ của Cha Bề Trên Cả, các đơn vị lần lượt chụp hình lưu niệm với Ngài. Cùng với Cha Bề Trên Cộng thể, thầy F.X. Trần Hoàng Long, Giám Đốc trung tâm hướng dẫn phái đoàn tham quan các cơ sở của trường, đồng thời báo cáo các sinh hoạt của Trung tâm và các dự án tương lai .... đầy hứa hẹn.
Cuộc đón tiếp được kết thúc với bữa tiệc thân mật cùng với các tiết mục giúp vui của các đơn vị....
Được biết phái đoàn lại tiếp tục hành trình thăm viếng các Cộng thể Salésien dọc tuyến đường về Dalat như K'Long.
Ngày mai, chắc hản tại Học viện sẽ có buổi gặp gỡ đặc biệt và trang trọng hơn nữa .
Cát Hạnh
TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO
Nhân dịp phái đoàn các linh mục Việt Nam thăm viếng Trung quốc, chúng tôi xin ghi lại đây một vài con số thống kê và nhận định về tình hình Giáo Hội Công giáo tại Trung Quốc như sau:
Tình hình Giáo phận Bắc Kinh hiện nay như sau:
Giáo phận Bắc Kinh có:
Tình hình Giáo phận Thượng Hải :
Giáo phận Thượng Hải chia thành:
Trung Quốc tuyên bố hiện nay có
khoảng 4 triệu Kitô hữu nhận Đức Giáo Hoàng là vị lãnh tụ tinh thần, nhưng Trung
Quốc không cho rằng ĐTC Bênêđitô XVI là lãnh tụ của Giáo hội Công Giáo Trung
Quốc. Được biết : Ở Trung Quốc có trên 10 triệu Kitô hữu thầm lặng nhận ĐGH là
lãnh tụ giáo hội của mình.
Những năm gần đây, Toà Thánh đã tiến hành gặp gỡ Bắc Kinh trong việc thiết lập
mối quan hệ thì tình trạng Giáo hội Công Giáo trong nước có cải thiện, đôi bên
đã có cơ chế bổ nhiệm giám mục, ứng viên giám mục do ĐGH chọn, rồi nhà nước cũng
cho ý kiến, hai bên đi tới thống nhất cho một ứng viên. Nhưng tình trạng này
được duy trì không bao lâu thì bị Hội Yêu Nước lật lọng, bằng chứng là trong năm
vừa qua, Hội Yêu Nước đã tiến hành 3 vụ truyền chức không thông qua sự đồng ý
của Đức Giáo Hoàng. Những vụ truyền chức này đều do Phó chủ tịch Lưu Bách Niên
và Diệp Tiểu Văn, Cục trưởng Cục Tôn Giáo đích thân giám sát.
Theo tin : Chúng đã tận dụng hết mọi cách cùng tột để đạt đến cuộc truyền chức này. Thông tấn xã Á Châu loan tin : Hội Yêu Nước đã bắt cóc 2 vị giám mục, buộc các ngài tham dự nghi lễ, đồng thời uy hiếp ứng viên và các giám mục đồng tế, thậm chí phát tiền đáp lễ cho những giáo dân đi dự lễ, lại còn lường gạt bảo việc truyền chức đã được Toà Thánh chấp nhận.
Được biết : Trong 97 Giáo Phận
của Giáo hội Nhà nước toàn quốc, ít nhứt có 45 Giáo Phận không có giám mục hoặc
các ngài đã già yếu, trong đó có Fu Tieshan (tức Phó Thiết Sơn, Đức Giám mục này
là vị giám mục đầu tiên được truyền chức bởi Hội Yêu Nước sau Cách Mạng Văn Hoá,
ngài chưa được Toà Thánh nhìn nhận), Đức Giám mục nổi tiếng của Bắc Kinh, Toà
Thánh lo ngại Hội Yêu Nước tiếp tục truyền chức giám mục bất hợp pháp, để từng
bước đưa người theo ý mình vào các nơi trống toà. Trong khi đó, Hội Yêu Nước
càng tăng cường đả kích Giáo hội Thầm Lặng, điềm chỉ các nơi của đoàn thể thầm
lặng, dẫn công an bắt bớ giáo dân. Ngày 27/12 năm rồi, 9 linh mục Giáo hội Thầm
Lặng của tỉnh Hà Bắc bị bắt, 5 vị đến nay vẫn còn bị giam, 4 vị được thả. Theo
tin Thông tấn xã Á Châu : Hiện nay ít nhứt có 17 giám mục của Giáo hội Thầm Lặng
mất tích, bị bắt hoặc bị cách ly và 20 linh mục bị giam cầm.
Ngoài ra, có tin quan hệ giữa Giáo hội Công Giáo, Hội Yêu Nước và Cục Tôn Giáo
đã lâm vào rạn nứt, nguyên nhân là vì họ đã chiếm đoạt khá nhiều tài sản của
giáo hội. Theo luật Trung Quốc, tài sản của giáo hội bị quốc hữu hoá trong thời
gian Cách Mạng Văn Hoá, thì phải trả về Giáo hội Công Giáo. Nhưng các quan chức
của Hội Yêu Nước và Cục Tôn Giáo đã chiếm đoạt không ít tài sản nói trên, rồi
đem bán hoặc xây lại thành khách sạn, số tiền thu nhập chiếm làm của riêng. Theo
báo cáo của Trung tâm Nghiên Cứu Thánh Thần Hongkong, tổng giá trị tài sản của
giáo hội bị Hội Yêu Nước và Cục Tôn Giáo chiếm đoạt phi pháp khoảng 130 tỷ nhân
dân tệ.
Hội Yêu Nước được thành lập vào năm 1957, có nhiệm vụ điều hoà giữa lý tưởng của
Đảng Cộng Sản và sự tín ngưỡng của Công Giáo. Nhưng bấy lâu nay, Hội Yêu Nước đã
lộng quyền, luôn luôn bằng thủ đoạn tàn bạo thống trị và át chế cuộc sống của
người Kitô hữu.
Những năm gần đây, một số Giáo hội Công Khai đã đến lúc không thể chịu đựng được
nữa đối với Hội Yêu Nước và Cục Tôn Giáo, từng bỏ qua Hội Yêu Nước mà trực tiếp
đến với Toà Thánh xây dựng mối quan hệ “hiệp thông”, do đó, Toà Thánh nhận định
điều kiện xoá bỏ Hội Yêu Nước đã đến lúc chín muồi rồi.
Hơn nữa, Toà Thánh xét thấy Bắc Kinh có thành ý lập mối quan hệ với Vatican,
chính phủ Trung Quốc, nhứt là Bộ Ngoại Giao đã nhận định Hội Yêu Nước là một
phương thức lỗi thời, trở nên gánh nặng cho việc Trung Quốc bày tỏ với thế giới
sự nghiệp hiện đại hoá và chính sách mở cửa của mình, Toà Thánh cũng nhận thấy
Bắc Kinh rất mong muốn thiết lập quan hệ ngoại giao với Vatican trước khi mở Thế
Vận Hội Olympic năm 2008, hầu tiến thêm một bước đẩy mạnh hình ảnh Trung Quốc
trên diễn đàn quốc tế.
Mặc dù có thể cách nghĩ của hệ thống ngoại giao Trung Quốc là thế, nhưng các bộ
ngành nắm giữ ý thức tình huống thì không có cùng cách nghĩ, nếu không có những
nhân vật cao cấp chở che, thiết nghĩ bọn Lưu Bách Niên và Diệp Tiểu Văn nào dám
tung hoành, ngang nhiên đi ngược chống lại hiệp thương giữa chính phủ với Toà
Thánh ?
Sau khi trải qua trên 20 năm cải cách, Trung Quốc quả thật đã cởi mở nhiều rồi,
song Trung Quốc vẫn chẳng phải là một quốc gia tự do, các bộ ngành về ý thức
tình huống vẫn là guồng máy quan trọng của nhà nước, có sức ảnh hưởng quan
trọng.
Trong lúc các tôn giáo có tổ chức như Pháp Luân Công và Hương Công vẫn bị đàn áp gay gắt, thì chúng ta chớ nên vội đặt hy vọng Trung Quốc sẽ an tâm đưa13 triệu Kitô hữu của Giáo hội Nhà Nước và Giáo hội Thầm Lặng đặt dưới sự quản lý của Toà Thánh La Mã xa xôi mà có địa vị của một quốc gia đâu.
Vatican cương quyết phát động tín hữu chống Hội Ai Quốc, nhằm gạt nó ra rìa,
nghe nói : Thậm chí có rất nhiều người trong phiên họp mong muốn mục tiêu tối
hậu củaToà Thánh nên là hy vọng “Bắc Kinh sẽ xoá bỏ Hội Yêu Nước”. Liệu Toà
Thánh có đạt được điều mình mong muốn không ? Chúng ta hãy chờ xem, nhưng trước
khi bụi bặm nằm im, chắc chắn đôi bên phải trải qua những cú ác đấu.
Ngày 25/7-1979, Cha Phó Thiết Sơn đắc cử làm giám mục Giáo Phận Bắc Kinh, ngày
21/12, Thánh Lễ truyền chức được cử hành long trọng tại Nam Đường, do Đức Cha
Dương Cao Kiên, Giám mục Giáo Phận Thường Đức chủ lễ, các Đức Cha Trương Gia
Thụ, Vương Học Minh phụ tế. Đức Cha Phó Thiết Sơn là vị giám mục đầu tiên được
truyền chức sau cuộc “Cách mạng văn hoá”, cũng là vị giám mục được truyền chức
có quyền chính đầu tiên của Giáo Phận Bắc Kinh sau cuộc “Cách mạng văn hoá”.
Việc truyền chức cho ngài là do Giáo hội Công Giáo Trung Quốc, kể từ thập niên
50, tự chọn tự truyền chức trong thời kỳ mở cửa.
Sau khi đảm nhiệm giám mục Bắc Kinh, điều Đức Cha Phó Thiết Sơn quan tâm nhứt là
thành lập chủng viện. Ngày 02/11-1982, chủng viện của Giáo Phận Bắc Kinh chính
thức khai giảng tại Tây Bắc Vượng, phía tây Bắc Kinh, quy chế học là 6 năm. Năm
1989 dời đến Bắc Đường. Tháng 9 năm 1992 dời về số 87 đường chính Bình Phòng,
khu Triều Dương. Năm 1999, dưới sự nâng đỡ hết mình của chính quyền Bắc Kinh,
tài trợ 15 triệu đồng, được 15 mẫu đất tại hương Đông Thăng, khu Hải Điện, xây
cất được Đại Chủng Viện với phong cách kiến trúc hiện đại, gồm toà nhà dạy học,
ký túc xá, trung học huấn giáo và thư viện, tổng diện tích xây cất là 6700 m2.
Bảng thiết kế kiến trúc này đoạt giải nhì của giải “Mười thiết kế kiến trúc của
Bắc Kinh năm 1999”. Tháng 9 năm 2001, toàn bộ công trình xây cất chủng viện hoàn
tất, nay đã đưa vào sử dụng. Chủng viện của Giáo Phận Bắc Kinh, từ ngôi nhà đơn
giản, từng 3 lần di dời, giờ đây đã phát triển thành một chủng viện quy mô hiện
đại hoá, nói lên sự nỗ lực hết sức mình của các giáo sĩ và giáo dân trong Giáo
Phận Bắc Kinh. Tính đến tháng 9 năm 2000, Chủng viện của Giáo Phận Bắc Kinh
trước sau đã đào tạo được trên 70 linh mục trẻ.
Sau Đại hội Đảng lần thứ 11, nối gót giải toả nhà thờ Nam Đường, đến các nhà thờ Đông Đường, Bắc Đường và Đông Giao cũng lần lượt được mở cửa. Phần mộ của 3 vị giáo sĩ Matteo Ricci, Johann Adam Schall Von Bell và Ferdinand Verbiest cũng được tu bổ vào năm 1980. Năm 1984, đất thánh này cùng với Bắc Đường và địa chỉ cũ của Trường Đại học Phụ Nhơn được kể vào danh sách đợt 3 thuộc đơn vị văn hoá được bảo hộ của thành phố Bắc Kinh.
Căn cứ tài liệu lịch sử, thế kỷ thứ X đã có giáo dân cư ngụ tại Bắc Kinh. Sau năm 1949, là một thử thách lớn cho giáo hội, đa số nhà thờ đều bị đóng cửa. Năm 1966 thì toàn bộ bị niêm phong. Năm 1971, nhà thờ Nam Đường được mở cửa đầu tiên cho người hải ngoại, và bắt đầu năm 1978, giáo dân có thể bày tỏ niềm tin của mình công khai, nhà thờ tại Bắc Kinh cũng dần dà được bãi bỏ lịnh cấm, cho mở cửa lại. Ngày nay, tổng số giáo dân của Giáo Phận Bắc Kinh khoảng 40 ngàn, đã mở cửa 5 nhà thờ trong thành phố và ít nhứt 6 nhà thờ ở ngoại ô. Trong khu phận có một Đại Chủng Viện với tính cách toàn quốc và một với tính cách Giáo Phận.
LM Stêphanô Huỳnh Trụ
Sau đây là cuộc phỏng vấn với ĐHY Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn sau chuyến thăm viếng Nhật Bản từ ngày 25 tới 31 tháng 3 năm 2007 vừa qua:
BGCN: Thưa Đức Hồng y, được biết ĐHY vừa viếng thăm Nhật Bản, xin ĐHY vui lòng cho chúng con biết mục đích của chuyến đi là gì?
ĐHY trả lời: Tôi cùng đoàn đi Nhật với nhiều mục đích như sau:
BGCN: Xin ĐHY cho chúng con biết ngài đã đi thăm những nơi nào và gặp gỡ những ai?
ĐHY trả lời: 1/ Sáng sớm thứ Hai 26/3/2007, đoàn chúng tôi (gồm có cha Tổng Đại diện, cha Hương, cha Nghị từ Mỹ sang, và gia đình ông bà Tango và hai cháu) được Đức TGM Osaka – Leo Jun Ikenaga -, một số nữ tu và người Công giáo Việt Nam, ra sân bay đón. Trưa, tất cả dùng cơm trưa với 3 gia đình anh em họ hàng của gia đình Tango. Chiều thăm một số dòng tu Nhật, dâng thánh lễ và gặp gỡ cộng đồng Công giáo Việt Nam gồm hơn 100 người.
2/ Sáng thứ Ba 27/3/2007, đi thăm thành phố Kobê, cạnh Osaka, tham quan Viện bảo tàng triển lãm về địa chấn tháng 1/1995, gây thương vong cho hơn 6.000 sinh mạng, nhưng không ai trong số 700 người Việt Nam sinh sống ở Kobê bị thương tích. Nhà thờ Kobê bị cháy thành đống tro tàn. Nay sau 12 năm, công việc tái thiết sắp hoàn tất. Sau đó đoàn đến thành phố lân cận Himeji có nhà thờ, dâng thánh lễ và gặp gỡ cộng đồng Công giáo Việt Nam hơn 100 người và nhiều tu sĩ Nhật, Việt Nam từ Kobê và Himeji.
3/ Sáng thứ Tư 28/3/2007, đoàn rời Himeji đi Hiroshima bằng tàu hỏa siêu tốc (300 km/giờ). Sau khi gửi hành lý ở khách sạn, đoàn tham quan Viện bảo tàng với nhiều tang vật về thành phố Hiroshima bị quả bom nguyên tử (6/8/1945) tàn phá toàn bộ nhà cửa và gây thương vong cho lối nửa dân số lúc bấy giờ là 350.000. Cạnh Viện bảo tàng là Công viên Hòa Bình rộng bao la tưởng niệm các nạn nhân của bom nguyên tử. Trưa, tham quan thắng cảnh Miyajama với ngôi đền Itsukushima được xây dựng từ năm 593, được tái thiết năm 1168, gồm 20 tòa nhà với hành lang dài 280 mét. Một di tích văn hóa thu hút khách du lịch từ Nhật và từ nhiều nước trên thế giới. Khách thập phương vãng cảnh giữa đàn nai vàng ngơ ngác nhưng rất gần gũi với mọi du khách. Chiều, đoàn đến chào thăm Đức Giám mục Hiroshima – Joseph Atsumi Misue -, dùng cơm với ngài và một số Bề trên dòng tu Nhật, tại một khách sạn.
4/ Sáng thứ Năm 29/3/2007, đoàn rời Hiroshima bằng tàu hỏa siêu tốc, đi Nagasaki ở cực Nam nước Nhật. Trước tiên, đoàn đến thăm Tu viện Franciscan Conventual do Thánh Maximilian Kolbe sáng lập năm 1930, nay có mấy tu sĩ Việt Nam tu học tại đó. Sau đó tham quan Viện bảo tàng các Thánh Tử Đạo Nhật Bản. Từ đó chúng tôi được biết Thánh Phanxicô Xaviê đã đặt chân đến Nagasaki trước năm 1582, thời điểm ngài biên thư tường trình cho Rôma về tình hình đạo lúc bấy giờ. Nagasaki là nôi sinh Kitô giáo tại Nhật Bản. Chúng tôi được biết con đường Nagasaki, Hiroshima, Himeji, Kobe, Osaka, là con đường Đạo Kitô và các Thánh Tử Đạo đã đi, đi bộ, đi thuyền, mất nhiều tháng. Nay ngẫu nhiên, chúng tôi đi lại con đường đó, nhưng chỉ mất mấy giờ.
Chiều, đoàn đến thăm Nhà thờ Chánh tòa và Đức TGM Nagasaki – Joseph Mitsuaki Takami. Nhà thờ Chánh tòa năm 1945, là nhà thờ duy nhất ở Nagasaki, bị bom nguyên tử biến thành một đống gạch vụn hoang tàn. Nay mọc lại và thêm ba nhà thờ khác trong thành phố Nagasaki. Trước sân tiền đường, có nhiều pho tượng Chúa, Đức Mẹ, một số các thánh Tông đồ, mất đầu, mất mặt, mất tay chân, chứng tích của sự tàn phá của bom nguyên tử năm 1945. Tôi có nói với Đức TGM Nagasaki rằng ở Nagasaki Chúa Giêsu phải chịu nạn lần thứ hai, và lần này không phải một mình, song có Đức Mẹ và các Tông đồ cùng chung một số phận. Đức TGM Nagasaki ý thức tình liên đới hiệp thông giữa hai Giáo hội Nhật Bản và Việt Nam, và thấy có nhiều việc có thể hợp tác với nhau. Chúng tôi thống nhất mở ra con đường hiệp thông và hợp tác cách cụ thể hơn trong tương lai gần. Cuộc gặp gỡ kéo dài và kết thúc bằng bữa ăn tối chung tại một khách sạn gần nhà, cùng với một số Bề trên dòng nữ Nhật Bản, trong số đó có vị đã từng đến Việt Nam.
5/ Sáng thứ Sáu 30/3/2007, đoàn rời Nagasaki, bay lên thủ đô Tokyo, ở phía Bắc. Có cha Hiếu – đặc trách lo mục vụ cho cộng đoàn Công giáo Việt Nam ở Nhật -, và một số giáo dân Việt Nam, ra đón tại sân bay, đưa về khách sạn Cuore ở trung tâm Thành phố Tokyo với 12 triệu dân, cạnh Đại học Sophia của Dòng Tên. Sau đó là theo chương trình dày đặc và khít khao, đi chào thăm, gặp gỡ, trao đổi, mời gọi một số nơi:
BGCN: Xin vui lòng cho chúng con biết cảm nhận của Đức Hồng y trong chuyến viếng thăm này.
ĐHY trả lời: :
1/ Những nơi chúng tôi đã đi qua, nhà cửa cao tầng, những ngôi làng truyền thống, phố xá, tất cả đều khang trang, gọn gàng, rất sạch sẽ. Con người Nhật Bản, đâu đâu cũng thấy họ lịch sự, hiếu khách, chu đáo, tận tình... Hình như trong xã hội cũng như Giáo hội Nhật Bản, người già đông hơn người trẻ. Người già nói chung được chăm sóc chu đáo. Ở các đường phố đều có nhiều hàng cây hoa anh đào. Ngày 30/3, hoa anh đào ở Tokyo nở rộ, trắng xóa cả một khung trời.
2/ Giáo hội, nhất là các dòng tu Nhật, quan tâm đến Giáo hội Việt Nam, mong có
giao lưu nhiều hơn, hỗ trợ nhau nhiều hơn. Tôi sẽ tìm cơ hội thuận lợi để thực
hiện điều đó.
3/ Gồm 4.000 trong tổng số 20.000 người Việt Nam định cư, lao động, du học, tu
học tại Nhật, cộng đồng Công giáo Việt Nam được Giáo hội Nhật cùng với 17 linh
mục Việt Nam tận tình chăm sóc, nâng đỡ. Đâu đâu cũng vui mừng tiếp đón đoàn đến
thăm. Họ mong có nhiều cuộc viếng thăm và gặp gỡ hơn.
Nói chung họ luôn hướng về Giáo hội Mẹ Việt Nam và giữ vững niềm tin của mình.
Lúc đến thăm nhà thờ Kobê đang tái thiết, tôi thấy có pho tượng Thánh Tâm Chúa
Giêsu cao lối 1 mét, đứng giữa sân. Người Việt Nam giải thích cho tôi rằng họ
mang tượng Chúa từ Việt Nam sang hơn 20 năm nay. Pho tượng vẫn nguyên vẹn đứng
giữa nhà thờ bị cháy rụi và đổ nát trong trận động đất 1/1995. Gặp ông người
Nhật, được giới thiệu là Chủ tịch Cộng đoàn Giáo xứ Kobê, tôi hỏi ông có bí
quyết nào giữ pho tượng nguyên vẹn. Sau ít giây suy nghĩ, ông trả lời bí quyết
đó là lòng tin của người Công giáo Việt Nam.
BGCN: Về mặt đức tin, người Kitô hữu Nhật Bản phải vượt qua những thách đố
nào để bảo tồn niềm tin và loan truyền niềm tin trong xã hội văn minh tiên tiến
ngày nay?
ĐHY trả lời: Đó là điều tôi muốn học hỏi kinh nghiệm của Cộng đồng Dân
Chúa tại Nhật Bản.
Rất tiếc là chuyến đi vừa rồi ngắn ngủi không cho phép tôi tìm hiểu xem coi trong thực tế, sự phát triển kinh tế với những tiến bộ khoa học duy vật chất ảnh hưởng đến lòng đạo truyền thống đến mức nào.
Tôi chỉ thấy thoáng qua hai điểm này:
1/ Về mặt nhân bản và xã hội, trên những đường phố tôi đi qua – Tokyo, Osaka, Kobê, Himeji, Hiroshima, Nagasaki – tôi không thấy sự có mặt của trẻ đường phố, bụi đời, khất thực lang thang. Qua tiếp xúc với người làm các dịch vụ ở hàng quán, sân ga, sân bay, khách sạn, taxi v.v..., tôi thấy họ thanh lịch và hiếu khách, tự trọng, trung thực và tận tình...
2/ Về mặt đạo, tôi thấy nhà thờ Nagasaki, năm 1945 đã bị bom nguyên tử xóa sổ, nay đã được xây dựng lại to lớn không kém nhà thờ Chánh tòa Sàigòn. Ngoài ra, Nagasaki có thêm ba nhà thờ mới mọc lên sau năm 1945.
Nhà thờ Kobê, năm 1995 bị động đất xóa sổ với nhiều ngàn ngôi nhà khác, nay công
cuộc tái thiết sắp hoàn tất. Nghe nói kinh phí lên đến nhiều triệu mỹ kim, vượt
lên trên khả năng tài chánh của Giáo phận. Điều này nói lên sự trân trọng cao độ
của Bản quyền Giáo phận đối với niềm tin của cộng đoàn tín hữu Kobê.
Ngoài ra, Giáo hội tại Nhật Bản có nhiều cơ sở giáo dục, bác ái xã hội chăm lo
cho người già, khuyết tật, bệnh nhân... Có lẽ đây chính là cách Giáo hội nơi đây
làm chứng cho niềm tin, loan truyền Tin mừng Chúa yêu thương và phục vụ cho dân
tộc Nhật Bản.
BGCN : Chúng con cám ơn Đức Hồng y.
BGCN
Bài trình thuật Tin Mừng theo Thánh Gioan trong thánh lễ Chúa Nhật III Phục Sinh năm C kể lại chuyện Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ ở biển hồ Tibêria làm chúng ta liên tưởng đến chuyện tuơng tự trước đó ba năm : Một mẽ cá lạ lùng do bởi cách đánh cá nghịch thường ( x.Lc 5,4-11; Ga 21,1-19 ). Nét tương đồng của hai câu chuyện đều nói lên quyền năng của Chúa Giêsu. Mách bảo cho các ngư phủ thả lưới ban ngày quả là kiểu vừa “múa rìu qua mắt thợ” vừa xúi trẻ thơ làm chuyện dã tràng xe cát. Thế mà kết quả thu được thật bất ngờ và dường như không tưởng. Trước đây là hai thuyền đầy cá, nặng gần chìm. Giờ đây là lưới đầy cá lớn đếm được 153 con. Một kiểu ví von là đủ các loại cá dưới biển, theo quan niệm thời bấy giờ. Tuy nhiên có điểm khác biệt đáng lưu ý là thái độ của Phêrô trước uy quyền của Thầy Giêsu.
Kinh sợ và xa lánh :“Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” ( Lc 5,8
). Trước uy quyền của vị tôn sư bấy lâu nay nghe tiếng, giờ thị mục tỏ tường,
Phêrô bàng hoàng kinh sợ. Có phải Phêrô hành xử kiểu “ tránh voi chẳng hổ mặt
nào” hay không nhưng một điều chắc chắn là ông đang kinh sợ trước một Đấng đầy
quyền uy. Phận người chúng ta cũng chẳng hơn gì Phêrô. Cảm giác sợ hãi là thường
thấy khi đối diện với một uy quyền nào đó. Thưở ấu thơ thì ta sợ “kẹ” sợ “ma”
nếu bị ai đó nhát ta. Dù có khôn lớn thì người ta cũng khó mà tự tại ung dung
khi vào cửa quan nếu phận ta chỉ là dân thường.
Tâm tình sống của Kitô hữu đã một thời miệt mài trong sự kính sợ. Biết rằng là
thụ tạo, chúng ta phải kính sợ Thiên Chúa, thế nhưng tâm tình ấy không xứng với
tình của Chúa dành cho loài người chúng ta. Đặc biệt khi mà Thiên Chúa đã yêu
thương thế gian đến nỗi ban chính Con Một cho thế gian…( Ga 3,16 ). Đến thế gian
Đức Giêsu đã làm trọn hảo chân dung Thiên Chúa bằng hình ảnh của một nguời cha
nhân hậu, Đấng cho mưa rơi đều trên người lành lẫn kẻ bất lương, cho mặt trời
mọc lên soi sáng người công chính lẫn tội nhân ( x. Mt 5,45 ). Và đặc biệt Chính
Chúa Giêsu đã truyền lại cho chúng ta một lời kinh duy nhất là kinh “lạy Cha”.
Chính vì thế, tâm tình tốt đẹp nhất Chúa muốn ta sống trước nhan Người là tâm
tình của người con. Đã là con cái thì không còn sự sợ hãi. Như thé sự kính sợ
dẫu rằng phải đạo và chính đáng nhưng cần phải vượt qua để tiến đến chỗ kính
mến.
Kính mến và kết hiệp : Vừa nghe “người môn đệ Chúa yêu nói : Chúa đó, Phêrô vội
khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển” ( Ga 21,7 ). Phêrô nhảy xuống
biển để đến với Thầy chí thánh. Phải chăng sau ba năm gần gủi Thầy, chung sống
với Thầy trên các nẻo đường Palestina, Phêrô đã khám phá ra tấm lòng của Thầy.
Đúng hơn chính Phêrô đã dần yêu mến Thầy, yêu mến Thầy hơn cả các môn đệ khác (
Ga 21,15-17 ). Tình yêu thúc bách ta đến gần nhau. Tình yêu đã loại bỏ dần những
ngại ngần, sợ hãi. Phêrô giờ đây không còn giữ kính sợ như trước đây mà là kính
mến.
Lòng kính mến của Phêrô đã lộ rõ trước đó. Khi Thầy bị bắt, bị điệu vào sân
Thượng Tế thì chính Phêrô dù có sợ quan quyền nhưng vẫn âm thầm dõi theo chân
Thầy. Khi nghe Maria Mađalêna báo tin người ta đã lấy mất xác Thầy khỏi mộ thì
Phêrô đã tức tốc chạy ra mộ và chính ông đã vào tận trong mộ quan sát. Sự kính
sợ nói lên việc ta dán mình vào chính sự dũng mãnh của uy quyền. Trái lại lòng
kính mến lại khiến ta chăm chú và gắn bó với Đấng có uy quyền chứ không phải là
uy quyền của Đấng ấy.
Thiên Chúa là Đấng quyền năng vô
cùng và Người cũng là Tình Yêu tuyệt hảo. Qua Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa muốn tỏ
bày quyền năng của mình bằng tình yêu hơn là bày tỏ tình yêu bằng quyền năng.
Mầu nhiệm Thập giá và Phục Sinh chính là đỉnh cao của sự tự mạc khải của Thiên
Chúa cho loài người.
Trong ba năm rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu cũng đã bị ma quỷ cám dỗ làm điều
ngược lại. Đó là chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa bằng quyền năng. Ba chước cám
dỗ Chúa Giêsu chịu mà Tin Mừng tường thuật nói lên điều này. Hãy hóa đá thánh
bánh, hãy thỏa hiệp với sức mạnh thần dữ, hay hãy biểu dương kỳ công trước mặt
muôn dân quả là những cách thế dùng quyền năng để chinh phục lòng người hữu
hiệu. Cách thế này hình như dễ gặt hái hiệu quả tức thời và to lớn. Chúa Giêsu
đã chiến đấu với chước cám dỗ này để rồi chọn con đường ngược lại. Ngài đã chọn
con đường Tử nạn – Phục sinh. Chữ uy được biểu lộ bằng chữ tình. Chữ quyền được
biểu lộ bằng chữ yêu.
Vấn nạn muôn thưở dù không mới nhưng mãi vẫn cần đặt ra : Nên giáo dục cho Kitô
hữu tâm tình kính mến hay sự kính sợ ? Nên dùng quyền năng của Hội Thánh để bày
tỏ tình yêu cứu độ của Chúa hay dùng tình yêu của Hội Thánh để làm cho Nước Chúa
trị đến ?
Như đã nói trên, là tạo vật thì ta phải kính sợ Thiên Chúa. Đó là điều chính đáng và phải đạo. Tuy nhiên sự chính đáng và phải đạo ấy mới chỉ dừng lại với tâm tình người tôi tớ, kẻ nô lệ. Chúa Giêsu không còn muốn gọi chúng ta là tôi tớ mà là bạn hữu ( x.Ga 15,15 ). Trong Đức Giêsu Kitô Thiên Chúa đã nhận chúng ta làm dưỡng tử. Thánh Thần được ban cho chúng ta khién chúng ta có thể kêu lên Abba, Cha ơi. Đến với Thiên Chúa như Người là Cha thì chúng ta sẽ nhận được gia tài của người con. Lòng kính mến vừa thúc bách ta làm rạng rỡ gia phong vừa khiến lòng ta mở rộng với tha nhân như là huynh đệ một nhà. Còn đến với Người như Người là một ông chủ thì ta sẽ chỉ nhận được phần của kẻ tôi tớ. Chưa kể trường hợp nếu ta xem Thiên Chúa là một ông chủ hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không phát thì số phận của ta cũng dễ rơi vào cảnh tình của kẻ biếng nhác, tồi tệ ( x. Lc 19,11-26 ). Nguời giữ sự kính sợ thì thường ích kỷ lo cho bản thân mình. Và lắm khi ngay cả cái nó đang có cũng sẽ bị lấy mất. Bởi chưng ai mong kiếm tìm sự sống thì sẽ mất còn ai đành mất mạng sống mình thì sẽ giữ được nó.
Là Kitô hữu, chúng ta dễ bị cám dỗ muốn phô trương thanh thế của đạo mình. Một
cách nào đó, lòng ta muốn Hội Thánh có thế có lực trước mặt người ta. Thỉnh
thoảng nghe có phép lạ xảy ra đây đó thì không chỉ thỏa trí tò mò mà còn thấy
sung sướng và hãnh diện về quyền năng Chúa ta. Dù rằng tâm tình ấy không xấu và
rất có thể là tốt đẹp nhưng ta dễ bị rơi vào chước cám dỗ “thị uy” trước mặt
thiên hạ, trước bà con khác đạo hay vô tín. Ta cần chân nhận sự thật này : Các
tổ chức sinh hoạt tôn giáo rầm rộ bên ngoài như lễ lạc, rước xách, hội hè…đã góp
một phần củng cố niềm tin cho tín hữu, nhất là bà con quê nghèo, xa xôi… Tuy
nhiên sự tác động của những kiểu dáng uy quyền bên ngoài ấy dễ nhất thời và hời
hợt. Hơn nữa con đường dùng uy quyền để mở mang Nước Chúa không phù hợp với con
đường thập giá, con đường tự hủy mà Đức Kitô đã chọn.
Là hiện thân của Đức Kitô, là Thân Thể huyền nhiệm của Người, Hội Thánh không có
con đường nào hơn con đường Thầy Chí Thánh đã đi. Đó là dùng tình yêu của mình
để làm vương quyền của Chúa hiển trị. Không phải do bởi quyền lực nhưng chính
bởi tình yêu mà người ta nhận biết chúng ta là môn đệ Đức Kitô. Một tình yêu tự
hiến, một tình yêu dấn thân, một tình yêu sẵn sàng đón nhận những ngược đãi, bắt
bớ… mới là sức mạnh của người con cái Chúa. Chúa đã phục sinh, nhưng mầu nhiệm
thập giá vẫn mãi còn đó. “Lạy Chúa, con tuyên xưng Chúa đã chịu chết và tuyên
xưng Chúa đã sống lại cho tới khi Chúa lại đến”. Câu tuyên xưng sau nghi thức
truyền phép khẳng định với ta chân lý này.
Tình yêu hay quyền lực ? Thống trị hay tự hủy ? Cuộc chiến đấu mãi còn đó không
những với thế lực bên ngoài mà nhất là trong chính chúng ta.
Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
I- Chúng ta đang ở năm “Sống đạo” với chủ đề “Yêu thương và phục vụ,” do
HĐGMVN, dịp họp thường niên 2006, đề ra.
“Đạo” nghĩa là “Đường.” Đường của linh mục và tu sỹ, nhất định phải có những nét
đặc thù, chứ không hoàn toàn giống như giáo dân được. Bởi vì chúng ta là những
người độc thân, là nhà tu, là người lãnh đạo, có trách nhiệm chủ tọa trong nhiều
lãnh vực. Vì thế, phải là người tỏa sáng.
Đạo là đường và đường của chúng ta có những nét riêng. Vậy “Sống đạo,” với chúng ta, chính là thực hiện con đường đó, với một hướng tiến đặc thù.
Khuôn khổ một bài suy niệm, trong vòng vài chục phút, không cho phép chúng ta “bàn dài, bàn rộng”, mà chỉ có thể tập chú vào một hai điểm nòng cốt.
Chủ đề “Yêu thương,” chúng ta muốn qui về Chúa. Hướng về Chúa, thì căn bản phải có lòng tin. Chủ đề “Phục vụ”, xin dành cho người khác. Muốn đi tới người khác và để người khác dễ dàng đi tới mình, chúng ta cần một nếp sống giản dị.
Cụ thể, chúng ta xin dừng lại ở hai khúc đường “Đức tin và nếp sống,” để cùng
suy nghĩ và chia sẻ với nhau.
Suy nghĩ và chia sẻ hoàn toàn với tính cách cá nhân. Đã là cá nhân thì không
thể: “Thập toàn”, cũng như khó mà tránh hết được bệnh chủ quan “phóng to thu
nhỏ”. Thực sự, những suy nghĩ trong bài này chỉ là bản xét mình của chính người
viết. Chỉ khác một điều, nó được nhân bản ra, chia sẻ với bạn bè. Nó không hề
mang tính “Khuôn mẫu”. Xin quí cha rộng tình thông cảm.
Trước tiên, chúng ta đề cập tới:
II- Đức Tin
A- Linh mục vẫn được hiểu là con người của đức tin. Đức tin là cách thế nắm bắt
những gì chưa tới, chưa thấy, chưa cảm nghiệm được. Vì thế, nó cũng luôn có
những thăng trầm như những lý tưởng khác: Có lúc mạnh như khả năng dời núi, có
lúc lại leo lét như ngọn đèn trước gió. Nói rõ hơn, nó cũng có:
1- Khủng hoảng riêng cuả nó.
Đức giám mục George J. Gottwald, Phụ tá Tổng giáo phận St. Louis, thuộc khu vực
đồi Ozark, miền Nam, bang Missouri, vào đầu mùa Xuân năm 1968, đã được mời đến
chủng viện Kenrick, để giải quyết vấn đề khủng hoảng, đang xẩy ra ở đó: 1/4 ban
giảng huấn đã rời bỏ chức linh mục. Các chủng sinh hoang mang, xuống tinh thần,
vì sự ra đi của các linh mục đó và vì việc giảng dạy thần học đã ra ngoài truyền
thống của Giáo Hội. Những linh mục giảng huấn còn lại, cũng chủ trương: Thần học
Công Giáo truyền thống sau Công Đồng Vatianô II, không còn tồn tại nữa.
Cuộc họp gay cấn trên, có cả sự tham dự của Đài Truyền Hình. Phát ngôn viên của
Đại chủng viện đã đặt cho Đức Cha một câu hỏi, có vẻ như diễu cợt: “Thưa Đức
Cha, Đức Cha có thể cho con biết: Chúng con có thể dạy các sinh viên điều gì, đã
và sẽ không thay đổi, điều mà được nói lên với tất cả sự xác tín! Thưa Đức Cha,
được không ạ?.”
Trước khi trả lời, Đức Cha có vẻ trầm tư, miệng ngài như khô lại. Trong khi đó,
mọi con mắt đổ dồn vào ngài, tiếng lách cách từ những chiếc microphones, được
chuyển sang chế độ “Mở,” vang lên, những chiếc cameras, đẩy volume quá cỡ, cũng
bắt đầu hú….Tất cả đều chờ đợi câu trả lời của ngài.
Và không ai ngờ được, ngài đã trả lời bằng đọc lên kinh Tin Kính của các Tông
Đồ, để tuyên xưng niềm tin của riêng ngài, của Giáo Hội và của mọi thời đại.
Cách trả lời của ngài đã nói lên: Dù có những vấn đề, những thăm dò của Công
Đồng, thì vẫn còn những chân lý rõ ràng, bền vững, mà mọi linh mục tương lai
phải được truyền dạy.
Vào năm 1968, một linh mục, đang là giáo sư dạy Triết ở đại học Văn Khoa Sàigòn,
đã đệ trình Đức TGM. Phaolô Nguyễn Văn Bình một văn thư xin hồi tục, trong đó,
ngài nêu lên lý do: “khủng hoảng đức tin.”
Như thế, là linh mục mà
2- Thiếu đức tin,
Thì thật đáng thương. Một linh mục đã “Défroqué,” viết một lá thư cho một thầy
Đại chủng sinh, xác nhận: “Tôi đã đánh mất ơn gọi linh mục, nhưng tôi phải thú
nhận: tôi đã mất đức tin nhiều năm cách đây và chẳng có sự khốn nạn nào lớn hơn,
là một linh mục không có niềm tin.”
Thiếu đức tin, đời linh mục không những đáng thương, mà còn lâm nguy nữa. Thánh
Augustinô đã cho biết: “Bao lâu đức tin còn tỉnh thức, con tim chúng ta sẽ được
bình an. Nhưng nếu nó ngủ, chúng ta sẽ lâm nguy.”
3- 7 bí tích đều là bí tích của đức tin.
Bởi đó, thiếu đức tin, mọi bí tích sẽ trở thành trống rỗng, vì nó đã mất ruột,
chỉ còn vỏ. Việc cử hành bí tích trở thành bộ xử lý “On-off.” Vì chúng ta đâu có
tin việc mình đang làm. Mình là máy mà! Giảng dạy, thay vì sống động, chỉ còn
buồn thảm, vì mình đâu có tin điều mình đang nói. Không tìm được niềm vui trong
những việc trên, thì những bữa tiệc, những chung rượu, con trai, con gái, phụ
nữ, xe cộ, điạ vị, tham vọng… sẽ trở thành hấp dẫn đến độ gay gắt với chúng ta,
(X. Priest for third millenium, của ĐMG Dolan).
Thiếu đức tin, còn biến chúng ta thành một gói mì, chỉ có nước sốt, mà không có
mì. Không có mì, thì no bụng sao được. Đói thì chỉ còn nước “Thở dốc,” chứ sức
đâu mà làm việc. Và chúng ta sẽ lâm vào thế:
4- Buông xuôi,
“Tin,” trong ngày thụ phong, thì thật dễ. Nhưng thật “khó trôi,” khi bị bề trên
khiển trách. Lúc đang khỏe mạnh cường tráng, đức tin sẽ là bình minh. Nhưng ốm
đau, liệt giường, thì đức tin chỉ còn là “đám ma chiều tiễn đưa.”
Tôi đã có dịp tới thăm một cha bạn đồng hương. Ngài bị tai biến mạch máu não,
làm tê liệt một phần thân thể. Cuộc sống ngài, từ đó, như bị đóng đinh vào
giường thập giá. Biết tôi tới thăm, ngài bật khóc: “Cha Thống ơi! mình chết mất
thôi!”
Trên đỉnh Tabo, 3 vị tông đồ đầy sáng kiến: Phải cấp thời làm 3 lều. Và quên
mình hết cỡ, đến độ không cần làm cho mình. Nhưng trong vườn Cây Dầu, 3 ngài chỉ
còn biết ngủ vùi, cuối cùng, biến hết. Quả thực, không có đức tin, đời linh mục
chỉ còn biết trôi theo dòng nước.
Tuy nhiên, chính lúc chúng ta thất bại, buồn phiền, lo âu, bận bịu…,mới cần đến
đức tin, như thánh Giacôbê đã quả quyết: “Chính trong thử thách, đức tin của
chúng ta được vững mạnh.” (Gc 1,2-3) Thánh vịnh 118 cũng đồng quan điểm: “Đau
khổ qủa là điều hữu ích, để giúp con học biết thánh chỉ Ngài.” (118,71)
Một sự thực, chúng ta cũng phải đau đớn xác nhận:
B- Đức tin của mình có khi thua kém cả giáo dân.
Trong tình trạng đó, anh chị em giáo dân sẽ phải đối đầu với một bóng tối. Họ sẽ
sống đức tin thế nào, nói gì, làm gì, khi chủ chăn cũa họ thua sút niềm tin?
Trước những chủ chăn ngang nhiên chế nhạo đức tin bình dân của họ, công khai phê
phán Huấn quyền và gạt bỏ những chân lý lâu đời của Giáo Hội, họ sẽ xử lý thế
nào? Theo hay không theo?
Bởi thế, chúng ta hãy là
C- Gương mẫu đức tin cho người khác
Anh chị em giáo dân luôn nhìn chúng ta như những con người của đức tin. Trên bục
giảng, trong toà hoà giải, ở lớp giáo lý, bên giường bệnh, tại nghĩa trang…,
chúng ta vẫn kêu gọi niềm tin nơi anh chị em giáo dân.. Nhưng thực sự, chúng ta
đã sở hữu được nó chưa? Đã là người của đức tin chưa? Chẳng ai cho cái mình
không có, Chúa đã bảo thế. Đầy trong lòng mới có thể trào ra bên ngoài. Lời Chúa
dạy phải là động lực, thôi thúc chúng ta tăng tiến lòng tin của mình, để từ đó,
toả sáng ra, hầu người khác nhờ nó, thấy được đường đi.
Hãy thể hiện lòng tin của mình cách đơn sơ, trong sáng như:
D- Một đứa trẻ tin cậy vào mẹ nó,
Nó tin rằng khi nó khóc, mẹ nó sẽ đến dỗ dành. Khi nó hoảng sợ, mẹ nó sẽ ôm chặt
nó vào lòng. Khi nó đói, mẹ nó sẽ đút cơm cho nó. Khi nó cô đơn, mẹ nó sẽ là
người bạn.
Niềm tin của ta đặt vào Chúa, cũng nên mặc những thuộc tính đó.
Từ những nhận định trên, chúng ta bước sang giai đoạn:
E- Phục hồi niềm tin của mình:
Sống đạo của linh mục chính là ở chỗ đó.
Trước tiên, phải đặt trọng tâm vào việc cử hành Thánh Lễ. Bởi vì, Thánh Lễ là
mầu nhiệm đức tin.
Đề cập tới cử hành Thánh Lễ, chúng ta muốn nêu ra:
5- Gương sáng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2:
Một tờ tuần san ngoài đời, tôi không nhớ tên, nhưng nội dung bài viết thì vẫn nhớ. Bài viết đề cập tới việc dâng lễ cuả Đức Thánh Cha vớí một ngôn từ rất kính cẩn: “Mỗi khi ông dâng lễ, người ta thấy ông như xuất thần.”
Đức tổng giám mục Dolan cũng cho biết: “Nếu có dịp tham dự Thánh Lễ riêng của
ĐTC, người ta sẽ thật cảm kích, khi thấy ngài chìm đắm trong nguyện cầu, trước,
trong và sau Thánh Lễ. Những ai muốn tìm hiểu động lực nào, giúp ngài có được
sức mạnh, quyết định và hy vọng mạnh mẽ vào con người, thì chỉ cần nhìn ngài
dâng lễ là thấy rõ.”
Cha Piô năm dấu là một minh hoạ thứ hai. Ngài dâng lễ rất lâu. Đặc biệt sau phần
Truyền Phép, người ta thấy, dường như ngài không còn xác. Dưới trời Đông, tuyết
phủ, người ta vẫn chờ ngoài cửa, để khi mở, chen vào, hầu được tham dự Thánh Lễ
của ngài. Không phải tham dự kiểu “đạo gốc,” mà càng gần Bàn Thánh bao nhiêu,
càng thỏa lòng bấy nhiêu.
Nêu lên hai tấm gương, để chúng ta có thể nhìn vào đó, hầu thấy mình phải
6- Dâng Thánh Lễ thế nào?
Dâng Lễ không chỉ là sự diễn lại, mà là một thực hiện. Sắc lệnh về “Đào tạo linh
mục” đã kêu gọi chúng ta: phải thể hiện trong cuộc sống, những gì đang diễn ra
trên Bàn Thờ. Như thế, không phải chỉ là “Diễn,” mà là “Sống”. Diễn có kiệt xuất
mấy đi nữa, cũng vẫn là kịch. Người đóng kịch có “tròn vai” thế nào đi nữa, cũng
chỉ là màn ảnh, là sân khấu, chứ không phải đời thực.
Nếu quá đặt nặng về “Diễn,” mình có thể khóc, có thể thêm bớt cử chỉ, có thể mấm
môi, mấm lợi để tăng kịch tính. Việc làm đó, dù tài tình mấy, cũng vẫn nằm trong
phạm trù “Diễn.”
Trái ngược với thái độ trên, là cách làm qua lần. Làm vì bổn phận, chứ không
phải vì tầm quan trọng của nó. Cử chỉ, lúc đó, sẽ trở thành nhạt nhẽo, thiếu
chất sống, thậm chí cả bất kính. Bất kính với Chuá và bất kính cả với cộng đoàn.
Làm qua lần, làm cho chóng xong, vì là một bổn phận, chứ không phải một nhu cầu
cấp thiết, cho mình cũng như cho mọi người, nên nhiều lúc mình đã như cỗ máy. Có
người đã hài hước cách dâng lễ đó là “lễ máy.” Nghĩa là lễ rất nhanh, nhanh như
máy. Bởi vì, chỉ có máy mới xử lý nhanh được. Máy càng tốt, càng đạt tốc độ. Còn
đã là người, những gì cần truyền đạt, phải có thời gian mới có thể thấm vào hồn.
Nhanh quá là điều chẳng nên. Nhưng chậm quá cũng là một thái cực cần tránh. Một
Thánh Lễ có tới 3 bài giảng, sau phần Truyền Phép, thêm một danh sách thật dài
cầu cho người quá cố nữa, thì rất có thể sẽ có người kêu: “Hết đứng nổi rồi.”
Khi cha Đaminh Nguyễn Đức Sự, chánh xứ Ngọc Đồng, Hố Nai, qua đời, Đồng Hương
chúng tôi đến dâng lễ cầu nguyện cho ngài. Lễ xong, một cha, đã cao tuổi, ghé
vào tai tôi, đùa: “Năm chục ngàn, ba bài giảng.”
Đề cập tới việc dâng lễ, Đức cha Dolan đã khuyên: Hãy làm cách cung kính, chăm
chú, chân thành và hằng ngày. Hãy biến Thánh Lễ không phải chỉ là một phần, mà
là “Con tim” của ngày sống. Không bao giờ nên tự tiện thêm thắt, thay đổi một
phần nào trong Thánh Lễ. Vì mình chỉ là quản lý, Giáo Hội mới là chủ nhân. Đã là
quản lý, thì phải làm đúng ý muốn của chủ.
Đức tổng giám mục Trung Quốc, Dominic Tang, đã 21 năm ngồi tù, không vì một tội
danh nào, ngoài việc trung thành với Chúa Kitô và Giáo Hội Người. Sau 5 năm bị
biệt giam, trong một căn phòng ẩm ướt, không có ngay cả cửa sổ, những người cai
tù đến cho ngài biết: Ngài được phép ra ngoài khoảng vài giờ và có thể làm một
trong những việc: Tắm nước nóng, thay đổi quần áo, đi dạo, viết thư hoặc gọi
điện về gia đình…. Liệt kê xong, họ hỏi lại: “Ông muốn điều nào?”
Đức cha trả lời: “Tôi muốn Dâng Lễ.”
Cha John Clifford, linh mục Dòng Tên, người Mỹ, đã trải qua 3 năm trong nhà tù Shanghai, đã viết một tác phẩm, nhan đề: “Trước sự hiện diện cuả kẻ thù.” Trong đó, ngài xác nhận: “Tôi đã không được Dâng Lễ, Rước Lễ trong vòng 888 ngày. Nỗi đau khổ, do sự tước đoạt này đem lại, không ai, trừ linh mục, có thể cảm nhận được đầy đủ.”
Trong dịp mừng 50 năm linh mục, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong bài giảng,
đã thổ lộ tâm sự: “Suốt 50 năm linh mục, giây phút thánh thiêng nhất, quan trọng
nhất cho tôi, vẫn là việc cử hành Thánh lễ. Việc cử hành nhân danh Chuá Kitô,
nơi Bàn Thờ, với tôi, là một việc làm trên hết mọi việc. Nó là tâm điểm tuyệt
đối cuả đời tôi và của mỗi ngày trong đời tôi.”
Nhìn vào những tấm gương trên, chúng ta, ít nhiều, đều thấy, mình có những điểm
không được như các ngài.
Muốn nối bước các ngài để sống cái “đạo linh mục,” chúng ta cần biến Thánh Lễ
thành con tim của ngày sống. Để làm được điều đó, chúng ta hãy làm theo lời
khuyên của Đức cha Dolan: “Trước khi dâng lễ, phải chuẩn bị bằng suy niệm, bằng
cầu nguyện và hồi tâm. Trong khi cử hành, phải cung kính chân thành. Sau lễ, cần
có một thời khoảng dành cho việc cám ơn.”
Thánh Gioan Vianney, mẫu gương tuyệt vời của linh mục, cũng đã quả quyết: “Mọi
việc thiện hảo trên thế giới, so với Hy Lễ thánh, đều chẳng đáng gì. Vì thiện
hảo mấy, cũng là việc của con người, còn Thánh Lễ là công việc của Thiên Chuá.
Ngay cả việc tử đạo cũng không thể sánh ví. Vì tử đạo chỉ là hy lễ của con người
dâng lên Thiên Chúa, còn Thánh Lễ là hy tế của Thiên Chúa dành cho con người.”
Chúng ta vừa chia sẻ với nhau khúc đường của niềm tin, bây giờ chúng ta chuyển
sang khúc đường thứ hai là
III- Nếp sống giản dị.
A- Nếp sống trên, chúng ta phải công nhận, đã có những vi phạm và vi phạm lại
khá tinh tế, nên rất khó nhận ra.
Thế giới, chúng ta đang sống, là một thế giới tràn đầy tiện nghi. Những thiết bị
tạo thư giãn, bầy bán la liệt. Thông tin, đi lại, ăn uống… cũng thật mau chóng
tiện lợi. Bởi đó, người ta rất vô tư chủ trương: Phải tận dụng để duy trì sức
khỏe. Trong khi đó, lãnh vực tinh thần, thì xem ra có vẻ ế ẩm. Người ta nghĩ:
Tâm linh là một loại xa xỉ. Đại lễ mới cần trưng ra, còn hàng ngày, cơm áo trước
đã. Cách suy nghĩ đó, dần dần, hình thành tâm trạng: Sợ hy sinh và khổ chế. Thế
quân bình giữa tâm và vật, vì thế, không còn. Qủa thực, con người đã bị điều
khiển, bởi chính những gì, mình đã làm ra.
Anh em chúng ta, rất có thể, cũng đã bị cuốn hút vào cơn lốc hưởng thụ đó, đến
độ trở thành nô lệ của tiện nghi, thay vì làm chủ nó. Trong tình trạng này, đời
sống chúng ta không còn giản dị nữa, vì đã tự tạo ra quá nhiều nhu cầu để thỏa
mãn. Nhiều nhu cầu, thì cần phải nhiều thời gian, mới tìm kiếm được. Lúc đó,
thơì gian dành cho việc tâm linh, làm sao có thể tìm được chỗ, để đưa vào lập
trình?
Có những vi phạm tinh tế, nhưng cũng có
B- Những nguy cơ cần cảnh giác.
Chỉ việc đơn giản như phục sức, cũng có thể tạo ra nguy cơ. Phục sức của chúng ta, đành rằng, phải xứng kỳ đức, nhưng cũng chẳng nên vượt quá chỉ tiêu hợp lý. Một thầy Đại chủng sinh, nếu chẳng ngần ngại chi 600.000$ để mua chỉ một chiếc chemise, thì khi đã là linh mục, có tiền, việc bỏ ra vài “tê” để kiếm một chiếc quần thời thượng, là điều có thể xẩy ra. Phục sức, như thế, cũng đã tạo một nguy cơ cho cuộc sống giản dị.
Ngược lại, nếu vì chủ trương giản dị, nên xề xòa quá, cũng chẳng đáng khích lệ.
Thái quá, bất cập đều không tốt. Trung dung là hay hơn cả.
Thứ đến là xe cộ. Nó là phương tiện di chuyển không thể thiếu. Nhưng từ nhu cầu
chính đáng, bước sang lãnh vực cạnh tranh “nhãn hiệu,” cũng chẳng xa xôi gì. Tại
Tòa Khâm Xứ ở Washington, có một bản chỉ dẫn, trong đó ghi chú: Đại diện ĐGH,
không nên đi những chiếc xe, được xếp vào loại sang trọng, chẳng hạn: Cadillac,
Lincoln, Mercedes, vì nó có thể phát sinh gương xấu. Đại diện ĐGH đi những xe
loại trên, còn bị coi là gương xấu, thì linh mục, nếu xử dụng, sẽ thế nào?
ĐGH Gioan Phaolô II, khi thực hiện chuyến công du tới Xilanca, trên đường từ phi
trường về Tòa Khâm Xứ, xe của ngài bị trục trặc giàn lạnh, khí hậu bên ngoài quá
nóng, ngài lại cao tuổi, không thích ứng kịp. Ngài yêu cầu vào một nhà thờ gần
đó, để nghỉ ít phút. Đề nghị của ngài gây khó xử cho nhân viên công lực, có
trách nhiệm bảo vệ an ninh. Họ liền liên lạc, xin một xe khác thay thế. Chiếc xe
này, chỉ ít phút sau, đã tới, sang trọng và lộng lẫy. Sau khi nghỉ đôi chút, ĐTC
trở lại xe và thản nhiên vào xe cũ, chứ không xử dụng chiếc mới.
Những chuyến du lịch tốn kém, có lẽ, chúng mình ít người có khả năng thực hiện.
Nhưng những cuộc du lịch ngắn hạn đây đó, thì đại đa số chúng ta đều có thể. Tuy
nhiên, nếu thực hiện nhiều quá, cũng tạo nên những khó khăn cho nếp sống giản
dị. Căn phòng riêng của mình không còn là nơi đáng yêu nữa. Nó đã bị những địa
danh khác hạ “knock out.” Cuộc sống chúng ta biến thành động đạc, đến độ, không
còn chỗ dừng, để suy nghĩ, đọc sách và học hỏi.
Tiệc tùng, cũng thế, ở mức độ vừa phải, nó sẽ là một cơ hội tốt để bồi bổ, cả
thể xác lẫn tình thân hữu. Nhưng liên tục quá, thì lại là ngăn trở. Đức Cha
Phêrô, đã có lần nhắc nhớ: Chúng ta có 3 cái nhiều: Nói nhiều, đi nhiều và uống
nhiều. Như vậy, tiệc tùng, nếu ở tần số cao, cũng không hợp với đời sống giản
dị.
Nhà ở, cũng nằm trong phạm trù “nguy.” Một nhà xứ quá đầy đủ tiện nghi, so với
nếp sống giáo dân tại chỗ, sẽ tạo nên một xa cách, đến độ có thể trở thành mục
tiêu cho một số người, vẫn dị ứng với đời tu, phê phán.
Tiện nghi máy móc, cũng là một cơn cám dỗ dấu mặt. Thời đại của máy móc, mà
không tận dụng máy móc, nhất định sẽ lạc hậu. Tuy nhiên, nếu ở ngoài phạm vi cần
thiết, thì từ bất cập, chúng ta đã nâng cấp thành thái quá. Một giàn máy tối
tân, có thể, cần thiết cho ban Truyền Thông giáo phận, nhưng lại là một lãng phí
cho một linh mục ở miền quê. Một chiếc cell phone trung bình, là cần thiết cho
việc thông tin liên lạc, nhưng một chiếc “Mo bồ” (mobile) đa năng, có cả hệ
thống bluetooth, với giá từ 15 tê trở lên, thì chất giản dị không còn nữa. Và
rất có thể chúng ta đã lây nhiễm một trong 3 thị hiếu của lớp trẻ hiện nay:
“ngồi xế hộp, nộp thuế ba (bar), ca di động.”
Việc nâng cấp liên tục máy móc và xử dụng quá nhiều giờ vào việc đó, cũng tạo sự
mất quân bình cho nhiều lãnh vực khác.
Cuối cùng, nguy cơ lớn nhất cho nếp sống giản dị là tiền của. Đức cha Dolan đã
xếp tiền của vào loại nguy hiểm, hơn cả rượu và sex.
Nếu đặt tiền vào vị trí ưu thắng, chúng ta sẽ đánh mất rất nhiều uy tín. Xin
tiền làm nhà thờ là một việc chính đáng, thế mà nhiều lúc, chúng ta đã phải hứng
chịu rất nhiều mũi dùi công kích. Có người trong chúng ta chịu không nổi, đành
chào thua luôn. Ngân sách cần cho Nhà Chúa, trả lại cho Chúa.
Việc nợ nần, chúng ta cũng chẳng nên dính dáng vào, kể cả nợ để làm nhà thờ. Bởi
vì, ngoài những trục trặc tình cảm có thể phát sinh, nó còn tạo khó khăn cho Tòa
Giám Mục, trong việc điều hành nhân sự.
Cha ông mình vẫn khuyên con cháu: “Đừng vung tay quá trán,” chỉ nên vung trong
tầm tay thôi. Không đủ khả năng du lịch ngoại quốc, thì “nội quốc” cũng đủ chỗ
để tìm sự nghỉ ngơi được phép và được khuyến khích. Đó là dịp đi vacation. Một
năm, một lần là đúng luật. Nhưng mỗi tháng một lần, thì lại là ngoại luật.
Chúng ta cũng chẳng nên làm việc này việc nọ, chỉ vì áp lực của thần mammon. Có
một câu nói cửa miệng, rất thông thường, thế mà có người đã châm biếm hóa nó ra,
khá dí dỏm: “Vào gập cha, vừa mới chào, cha đã hỏi ngay: có gì không?” Câu hỏi
chỉ thiếu một chữ “việc”, Có việc gì không? Vậy mà đã biến thành một câu trào
phúng. Trào phúng và hài hước, nhưng nó cũng kín đáo tố cáo một bệnh trạng: “Tốt
lễ dễ kêu.” Một Việt kiều vào nhà xứ, xem ra, khác xa với một bang chủ Cái Bang.
Có người còn rỉ tai nhau: “Thời buổi kinh tế thị trường, thì phải nhuần nhuyễn
luật chơi: Trao đổi hai chiều.”
Nhiều nhà xứ quá dư vật dụng. Đã “quá” là nhất định mất thăng bằng. “Bien,”
tiếng Pháp, có nghĩa là tốt, nhưng “Trop bien,” thì hết tốt rồi. Bởi đó, nếu
“qúa,” thì rất nên “cho đi.” Nhưng “nhận” thì dễ. Còn “cho” thì chẳng dễ tí nào.
Đồng tiền bao giờ cũng liền khúc ruột. Cắt ruột ra, ai lại chả đau? Quyên tiền
làm việc nghĩa, anh em mình động viên rất đạt, nhưng “động túi mình,” thì lại
rất yếu.
Lời nguyện kết thúc:
Lạy Chúa, Chúa muốn chúng con phải là con người của đức tin, nhưng cũng như các Tông Đồ, trên con thuyền chao đảo giữa phong ba cuồng loạn, chúng con đã đánh mất niềm tin của mình, mặc dù Chúa vẫn hiện diện bên cạnh, đến độ, Chúa phải lên tiếng phiền trách: “Tại sao các con yếu tin đến thế?” Vâng lạy Chúa, đức tin của chúng con qủa là yếu ớt, xin hãy tăng thêm lòng tin cho chúng con.
Chúa cũng đã dạy chúng con, phải đặt trọn niềm tin vào Chúa, nhưng chúng con chỉ
sở hữu được đức tin ở đỉnh Tabo, còn trong vườn Cây Dầu thì mất hết, chẳng còn
gì cả. Tín thư của chúng con, trong những giờ phút đó, đã mất địa chỉ của Chúa
và lạc vào những địa chỉ khác, không những không giải quyết được gì, mà còn đẩy
sâu chúng con vào hỏa mù lầm lạc. Lạy Chúa, xin thương tình giải cứu chúng con!
Lm Đào Nguyên Thống
Giáo phận Phú Cường
Giải đáp thắc mắc
Con nghe nói có luân hồi, có kiếp trước kiếp sau, như vậy có đúng không ? Và nếu thật sự có như thế, tại sao những gì mình gây ra hồi kiếp trước không chịu quả báo luôn đi, mà để cho đến kiếp này mình lại phải chịu mọi đau khổ như thế ?
Giải đáp
Đối với người Công Giáo chúng ta tin rằng “Chết là kết thúc cuộc lữ hành trần thế, kết thúc thời gian Thiên Chúa gia ân và thương xót để con người sống cuộc đời trần thế theo ý Chúa và quyết định số phận tối hậu của mình. Khi chấm dứt "cuộc đời trần thế duy nhất này" (x. LG 48), chúng ta sẽ không trở lại với những cuộc sống trần thế khác. "Con người chỉ chết một lần" (Dt 9,29), không "đầu thai" sau khi chết”.(Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo số 1013)
Ngay khi lìa khỏi xác, linh hồn bất tử sẽ chịu phán xét riêng để được thưởng hay bị phạt đời đời; tùy theo đời sống của mình trong tương quan với Đức Ki-tô, linh hồn hoặc phải trải qua một cuộc thanh luyện hoặc được hưởng phúc trên trời hoặc sa địa ngục vĩnh viễn (Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo 1022).
Còn với những người theo Phật Giáo họ tin vào thuyết luân hồi, vào sự tái sinh giữa kiếp này và kiếp khác. Sau khi chết ở kiếp này không phải là chấm dứt mà sẽ có thể đầu thai vào một kiếp khác.
Gần đây, có một số hiện tượng của những người nhìn thấy, nhớ lại những gì được coi là đã xẩy ra từ “kiếp trước”. Có các bác sĩ, các nhà khoa học nghiên cứu về những trường hợp này. Dẫn đầu là một nhóm giáo sư thuộc Trường đại học Yale ở Mỹ từng thu thập khắp thế giới các bằng chứng liên quan đến “kiếp trước” hoặc sự “đầu thai vào kiếp sau”. Điển hình là trường hợp bé gái Roberta Morgan, sinh ngày 28/8/1961 ở tiểu bang Minnesota (Mỹ) kể về “kiếp trước” của mình trong thời còn là một bé gái. Em còn kể về cha mẹ, về trang trại đã từng sống, những món ăn khoái khẩu và có thể tả lại cách thức nấu các món đó hoàn toàn chính xác. Tới năm 9 tuổi, Roberta Morgan đột nhiên quên hẳn quãng đời “kiếp trước” của mình và không bao giờ nhớ lại được nữa (?!).
Còn Samlini Permac sinh đầu năm 1962 ở Colombo (Sri Lanka) đã mô tả “quãng đời trước đây” của mình một cách tỉ mỉ. Em kể: “Một hôm cha mẹ “kiếp trước” sai em đi mua bánh mì. Phố xá đang bị lụt, chiếc xe buýt đi sát bên cạnh, hất em xuống đồng nước. Em cố giơ tay quá đầu cầu cứu và hét lên: “Mẹ ơi!”. Sau đó, em bị chìm hẳn vào giấc ngủ vô biên”.
Hai trường hợp tiêu biểu trên được bác sĩ tâm lý học nổi tiếng người Mỹ John Stevenson - người đã nghiên cứu các hiện tượng về “kiếp trước” suốt nửa thế kỷ nay - ghi lại. Cuối cùng, Bác sĩ J.Steveson cùng các đồng nghiệp đi tới quyết định chỉ tồn tại một khả năng duy nhất: giống như “ảo giác” - nếu nói về khả năng phân tích khoa học hiện nay. Còn một nhà phân tâm học người Mỹ, Bác sĩ Scot Rogo. cũng đã từng dày công nghiên cứu các trường hợp liên quan tới sự “đầu thai” hoặc “kiếp luân hồi” hơn ba thập niên gần đây, cũng mới chỉ đưa ra các giả thuyết, chứ chưa nêu lên một kết luận khoa học chắc chắn nào cả.
Tới giờ, giới khoa học vẫn chưa có sự đồng nhất về thực chất của tiến trình này, đó là cơ sở gây nên sự hoài nghi về khả năng “đầu thai” trong “vòng xoay luân hồi” của mỗi người.
Qua những thông tin trên, chúng ta thấy rằng khoa học vẫn chưa thể kết luận về những hiện tượng đã được ghi nhận. Kiếp luân hồi vẫn chỉ là vấn đề của niềm tin. Để giải thích những hiện tượng trên chúng ta cũng đã từng biết có những người gọi là những nhà ngoại cảm có thể mô tả được những điều đã diễn ra ở những nơi họ chưa đến bao giờ và những người họ chưa gặp lần nào.
Điều mà chị phải nhận rằng cho đến nay chúng ta không hề biết gì về “kiếp trước” của mình cũng như không thấy dấu chứng nào của bản thân trong hiện tại về kiếp ấy. Vậy tại sao mình lại phải chịu trách nhiệm về những điều mình chẳng hề ý thức, không thể nhận thức ? Cội nguồn của luân hồi từ đâu ? Ai điều khiển vòng luân hồi ấy ? Những câu hỏi này đã từng được nêu lên và hẳn là sẽ không có câu trả lời. Còn đức tin Kitô giáo xác tín vào sự thưởng phạt công minh của Thiên Chúa dựa vào những gì mình sống hôm nay với tất cả ý thức và tự do chứ không dựa vào những điều mình không thể thấy và không hề biết.
Lễ cưới tại nhà thờ sẽ không được tổ chức vào thời gian nào ? Có phải là thời gian bắt đầu từ Lễ Lá cho đến ngày Lễ Phục Sinh không ?
Giải đáp
Về việc cử hành Thánh lễ Hôn Phối thì Lịch Công Gíao năm 2007 đã nói rõ như sau :
A- Không được cử hành Thánh Lễ Hôn Phối trong những ngày sau đây :
- Các lễ trọng buộc cũng như không buộc.
- Các Chủ nhật Mùa Vọng, Mùa Chay, Mùa phục Sinh.
- Lễ Tro và các ngày trong Tuần Thánh.
- Lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời (2-11)
- Các ngày trong tuần Bát Nhật Phục Sinh.
Gặp những ngày trên, phải cử hành Thánh lễ theo ngày Phụng Vụ và đọc tất cả các bài đọc Sách Thánh của ngày lễ đó. Vẫn đọc lời nguyện cho đôi tân hôn trong Thánh Lễ, và cuối lễ có thể ban phép lành cho đôi tân hôn. Nếu không phải là Tam nhật Vượt Qua hay lễ trọng buộc, thì cũng có thể đọc một bài Sách Thánh về Hôn Phối.
B. Các ngày Chúa Nhật Mùa Giáng Sinh và Thường Niên : Cử hành thánh lễ Chúa Nhật, nhưng trong các bài Sách Thánh, có thể đọc một bài về Hôn Phối; Nếu cử hành thánh lễ không có cộng đồng giáo xứ tham dự, thì có thể cử hành toàn bộ thánh lễ Hôn Phối.
Tuyệt đối tránh cử hành Hôn Phối ngày thứ Sáu và thứ Bẩy Tuần Thánh.
Tuy nhiên, nên phân biệt cử hành thánh lễ Hôn Phối và nghi thức Hôn Phối. Trừ Thứ Sáu và Thứ Bẩy Tuần Thánh thì không được cử hành Hôn phối còn các ngày khác được qui định trong mục A và B thì không cử hành thánh lễ Hôn Phối nhưng vẫn có thể cử hành nghi thức Hôn Phối.
Gm. Giuse Vũ Duy Thống
Ned Kelly, một tên cướp nhà băng khét tiếng người Uc, sau nhiều năm tung hoành, tưởng rằng có thể khẳng định được danh tánh của mình để bước sang một tương lai sung túc, nhưng hắn đã sa lưới pháp luật. Trước lúc bị xử tử hắn đã buồn bả thốt lên: “Thế là hết, thế là toi đời”. Thất vọng và hoàn toàn sụp đổ, tưởng rằng danh tánh mình sẽ được nhắc đến như một người hùng, thế mà người ta chỉ nhắc đến hắn như một nỗi ám ảnh kinh hoàng. Chấm hết.
Chúa Giêsu trên Thánh giá sau khi đã tỏ lộ nỗi niềm thao thức của mình qua chữ “Ta khát”, một chữ rất ngắn nhưng tâm tình thật dài, Ngài đã nói lên lời thứ sáu: “Thế là đã hoàn tất”. Phải chăng lời Chúa Giêsu trên Thánh giá cũng chỉ là lời thất vọng của một người tử tội sắp chết hay là lời thất bại chán chường của một người hùng cô đơn, hay còn có điều gì khác hơn nữa đàng sau những ngôn từ?
Đó sẽ là điều chúng ta truy tìm hôm nay, đồng thời cũng đặt ra vấn nạn cho mỗi Linh mục: cuộc đời chúng ta đã có thể nói lên lời: “Thế là đã hoàn tất” hay chưa?
I. SỰ HOÀN TẤT CỦA CHÚA GIÊSU
Tại Seagame 23 vữa rồi, có một cô gái mù 19 tuổi, gốc Thái Bình ở mái ấm Thiên An, đoạt 2 huy chương vàng về bơi lội. Trong thánh lễ dành cho người khuyết tật vào sáng lễ Giáng Sinh 2005, các anh chị em khuyết tật đã mời cô lên để nhận những bó hoa tán thưởng. Và cùng với những bó hoa, người ta có đặt ra cho cô câu hỏi: Cô nghĩ gì khi thấy mình bị giới hạn hơn những người khác nhưng lại được những huy chương rất đẹp đem lại niềm vui cho nhiều người? Cô trả lời vắn gọn: “Em chỉ là người hoàn thành nhiệm vụ và em cảm thấy vui, thế thôi”. Rất đơn giản, nhưng rõ ràng là trong câu trả lời của cô gái cũng có chữ hoàn thành nhiệm vụ. Vì thế cũng có thể nhìn vào lời thứ sáu của Chúa Giêsu trên Thánh giá như một lời thở phào nhẹ nhỏm, như một lời thanh thản nhất trong 7 lời phán ra từ Thập giá. Nhưng thế nào là hoàn tất?
Ong kính vạn hoa là một cái ống trong đó đặt 3 miếng gương hình trụ tam giác bịt một đầu bỏ vào mấy mẩu giấy nhỏ rồi thả cửa lắc, thấy xuất hiện đủ thứ hình thù ngoạn mục. Hình như thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu cũng biết đến trò chơi này thì phải. Vâng, đó là một trò chơi thuở ấu thơ, nhưng hôm nay cũng xin mời các cha thử chơi trò chơi ấy với lời “Thế là đã hoàn tất” của Chúa Giêsu, mong khám phá ra được những ý nghĩa đặc biệt của lời này.
1. Hoàn tất là hoàn thành
Ơ một góc nhìn dựa trên hình thức của ngôn từ, “hoàn tất” có nghĩa là hoàn thành. Nói thì xem ra chẳng có gì khác nhau cả vì quý cha cũng đã có kinh nghiệm, nhất là những cha đang xây dựng thánh đường hay nhà xứ. Bản thân tôi cũng được mời đi khánh thành nhà thờ khá nhiều. Mới dựng được mấy cái kèo cũng mời khánh thành đợt một. Đổ được một tấm lại khánh thành đợi hai, mãi tới khi trang trí nội thất xong xuôi mới gọi là hoàn thành. Nếu hỏi sao chưa có gì cả mà đã khánh thành thì tất nhiên câu trả lời thực tế là phải làm thế mới có tiền làm tiếp, không thì biết đến bao giờ mới xong. Rõ ràng là có cái gì đã hoàn tất nhưng chưa hoàn thành. Hoàn tất một công đoạn, nhưng vẫn chưa hoàn thành cả một công trình. Vì thế ở đây, nghĩa trước hết của chữ “hoàn tất” trong lời thứ sáu của Chúa Giêsu được xem là hoàn thành công trình cứu độ.
Lịch sử cứu độ có thể được đúc kết lại trong mấy công đoạn chính, thể hiện qua mấy động từ này: Sáng tạo, sa ngã, hứa cứu độ, loan báo cứu độ, thực thi và cuối cùng là hoàn tất. Cũng chỉ có sáu công đoạn và chữ “hoàn tất” cũng lại tình cờ rơi vào lời thứ sáu của Chúa Giêsu trên Thánh giá. Những công trình ấy, công đoạn ấy đã được Chúa Cha phác vẽ, nhưng ai là người thực hiện? Đó mới là điều chính yếu và đó cũng là điều sáng lên chân dung của Đấng Cứu Thế. Bởi vì tội của con người phạm đến Đấng Tối Cao nên cầu đến nhân vật trung gian hòa giải phải mang cả hai yếu tố vừa Thiên Chúa vừa nhân loại, vừa là Chúa vừa là người mới có khả năng thực hiện chương trình này, vì thế mà Con Chúa đã xuống thế làm người. Và công trình cứu độ đã do Ngài thực hiện. Vâng, đơn giản chỉ có thế nhưng cũng đủ toát lượt cho thấy cả một công trình do Chúa Cha sáng kiến và do Chúa Con xuống thế làm người thực hiện.
Bởi vì lời thứ sáu xem ra chẳng có chủ từ và đối tượng là một nhân vật rõ rệt. Cứ như lời không không giữa mênh mông trời đất, thế nên mở ngỏ cho suy tư. Chính vì mở ngỏ như thế nên dọi bóng và đặt vào trong chương trình cứu độ ta có thể suy đoán. Trước hết, đây được xem là lời Chúa Cha nói trong Chúa Con. “Thế là đã hoàn tất”, công trình đã hoàn thành. Nhớ lại biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa và trong biến cố biến hình trên núi Tabor cũng đã có lời Chúa Cha phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, Con đẹp lòng Ta” (Mt 17,5). Có lẽ trong Chúa Con đang chịu treo trên Thánh giá lời ấy cũng vọng lại và chuyển thành lời. “Con ơi! Thế là đã hoàn tất. Công trình đã hoàn thành. Cha hài lòng về Con”.
Một góc độ khác ta cũng có thể suy nghĩ đó còn được xem là lời của Chúa Con nói trong Chúa Cha . Ơ bước đầu của công trình nhập thể có chữ FIAT của Đức Trinh Nữ Maria, nhưng cũng có chữ FIAT của Chúa Con nói với Chúa Cha. Xin vâng. Này Con xin đến để thực hành thánh ý Cha (x. Dt 10,5-7). Và thế là một khi dấn bước vào trong chương trình nhập thể theo nhãn giới của thư Do Thái, người ta thấy Chúa Con luôn luôn mở rộng tấm lòng, mở rộng đôi tay, sẵn sàng ứng trực, sẵn sàng bước vào công cuộc Vượt qua khổ nạn, sẵn sàng uống cạn chén đắng Chúa Cha gọi mời và hôm nay đã đến bước đường chót. Ngai nhìn lại thấy công trình đã hoàn thành, với tâm hồn thanh thản, Ngài thốt lên: ““Cha ơi! Thế là đã hoàn tất”. Thế là đã hoàn thành.
Một góc độ khác nữa ta cũng có thể truy tìm, lời này còn được xem là lời của Đấng chịu treo trên Thánh giá ngỏ lời về nhân loại và với nhân loại. Với công cuộc khổ nạn bao gồm cả phục sinh của Chúa Giêsu coi như chương trình cứu độ của Thiên Chúa dành cho con người đã hoàn thành. Nói theo ngôn từ của thần học, đó là nghĩa khách quan của chữ cứu độ nơi cá nhân Chúa Giêsu. Ngài đã xuống thế làm người, Ngài đã đón nhận đau khổ và cứu thoát nhân loại. Công trình của Ngài đã hoàn thành. Cũng theo từ ngữ của thần học, về phương diện chủ quan áp dụng ơn cứu độ cho từng người thì đây mới chính là bước khởi đầu. Khách quan đã hoàn thành nhưng chủ quan thì mới khởi sự cho những ai sẵn sàng mở lòng đón nhận niềm hạnh phúc. Hạnh phúc như ơn ban của trời. Chắc quý cha cũng biết bài hát “Ngọc trong đá”, bài hát chủ đề của cuốn phim cùng tên. Trong đó có điệp khúc: “Hạnh phúc như ngọc trong đó, không đến với ai đi qua hững hờ. Hạnh phúc như mật trong hoa, không có cho ai không nhọc nhằn tìm kiếm”. Ơn cứu độ là hạnh phúc, nhưng không phải hạnh phúc bất ngờ từ trời “rơi xuống cho ta nhằm chỗ tốt”, nhưng là hạnh phúc mà con người phải nỗ lực để mở lòng ra đón nhận. Hạnh phúc ấy chính là hạnh phúc theo nghĩa chủ quan áp dụng công trình cứu độ. Nghĩa chủ quan ấy khởi sự cho tất cả những ai tin nhận, theo ngôn từ của thánh Phaolô “tin vào danh Đức Giêsu Kitô, danh duy nhất dưới gầm trời này có thể đem lại sức cứu độ.
Tin, tiếng Latinh = Credere, nguyên ngữ là Cor (trái tim) + dare (cho), nghĩa là phải mở rộng tấm lòng ra, trao tặng trái tim cho người khác mình tin kính. Ơ đây có nghĩa là mỗi người khi nhìn lại đời sống của mình cũng cần phải thú nhận tội lỗi để đón nhận lấy ơn cứu rỗi, mở rộng con tim của mình ra để mà đón lấy ơn Thiên Chúa đã sẵn sàng trao ban. “Và con tim đã vui trở lại”, là một điệp khúc giới trẻ hôm nay rất thích hát, mặc dù chẳng dính dáng gì đến tôn giáo, nhưng ngôn từ của điệp khúc ấy cũng mang những âm hưởng của ơn cứu rỗi mà chúng ta đang chia sẻ ở đây để mỗi người bất giác cũng có thể nghĩ rằng con tim của mình đã vui trở lại bởi vì ta đang hân hoan đón nhận ơn cứu rỗi. Và chính ở đây, Đức Giêsu với lời thứ sáu đã xuất hiện trong dung mạo của một Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người để hoàn thành công cuộc cứu độ và trao gởi ơn cứu độ ấy cho tất cả mọi người. Chừng như Chúa Giêsu nói: “Với Ta thế là đã hoàn tất, còn với anh em, đây chính là khởi đầu”.
Trong Thánh Kinh, có 3 lời hoàn tất. Lời hoàn tất trước hết dành cho chương trình sáng tạo. Lời hoàn tất thứ hai là lời của Đấng chịu treo trên Thánh giá. Lời hoàn tất thứ ba là lời của sách Khải huyền. Nếu đặt vào tiến trình từ sáng tạo qua cứu độ đến cánh chung thì ơn cứu rỗi quả là cây Thánh giá được dựng lên ở trung điểm và một khi Đấng Cứu Thế thốt lên lời thứ sáu Thế là đã hoàn tất là Ngài đã hài lòng. Ngài đã hoàn thành được công trình Chúa Cha đã gầy dựng và hoàn thành được công trình mà Ngài đã dấn bước vào để rồi từ đây nhân loại có thể nhận lấy ơn cứu rỗi ấy trong niềm tin kính dạt dào niềm vui. Xây dựng bất cứ công trình nào ngày nay người ta cũng kết thúc bằng một lễ gọi là lễ hoàn công. Có sự bắt tay giữa bên đầu tư và bên thi công để rồi bên thi công trao chìa khóa công trình ấy lại cho bên đầu tư và công trình xây dựng coi như chấm dứt để mở đầu cho một công trình khác. Đó là công trình hạnh phúc của những người sống trong công trình xây dựng hoàn thành ấy. Hôm nay lời thứ sáu của Chúa Giêsu trên Thánh giá cũng được xem như là lời của một lễ hoàn công. Hoàn tất có nghĩa là hoàn thành. Vâng, đó là góc thứ nhất của ống kính vạn hoa.
2. Hoàn tất là hoàn chỉnh
Xoay ống kính vạn hoa sang một góc độ mới dựa trên sứ điệp của lời thứ sáu, người ta thất hoàn tất ở đây lại là Hoàn chỉnh, nghĩa là điều chỉnh lại cho hoàn bị những gì đã bị dở dang, những gì đã bị trục trặc ở trên bước đường thực hiện chương trình của Thiên Chúa. Do đó hoàn tất cũng là khởi đầu một công cuộc sáng tạo mới, mở ra một kỷ nguyên mới.
Nếu nhìn toàn bộ cuộc sống nhân loại được hình dung trong con người của Adam cũ với tội bất tuân thì hôm nay với lời “Thế là đã hoàn tất” của Đấng Cứu Chuộc, Adam mới đã xuất hiện . Điều chỉnh lại tất cả những gì gọi là bất tuân. Điều chỉnh lại tất cả những gì con người làm lệch lạc trong chương trình Thiên Chúa đã thiết định. Ơ đây, Adam cũ đã chết đi để cho Adam mới vực dậy một cuộc sống mới trong một cuộc sáng tạo mới. Giao ước cũ trong máu của thú vật đã bị gạt bỏ để nhường bước cho Giao ước mới được ký kết trong máu của Đức Kitô và ơn cứu độ tuôn trào đến tất cả mọi tâm hồn. Bóng tối tội lỗi trước đây hoành hành trong vũ trụ bây giờ phải nhường bước cho thánh ân soi chiếu chứa chan trên tất cả những ai chân thành đón nhận.
Trong mùa Giáng Sinh chắc ai cũng quen với câu chuyện tựa đề: “Vị khách cuối cùng” kể lại: Ngày Giáng Sinh sau khi đã đón tiếp 3 vua, hang đá vắng lặng. Chả ai đến nữa. Vào lúc trời nhá nhem tối, có một bà lão lưng còng da nhăn nheo hỏi đường tìm đến hang đá. Bà vào cúi sát mình xuống trên máng cỏ, chẳng nói chẳng rằng, khẽ móc ra trong túi hành trang cũ kỹ từ thuở hồng hoang chỉ một trái táo, nhẹ nhàng đặt vào tay Chúa Hài Đồng. Và người ta kể: Chúa Hài Đồng mỉm cười nhận trái táo ôm vào lòng, còn cụ bà kia thì quày quả bước ra, lưng bỗng thẳng ra, da hết nhăn nheo như trẻ lại. Nhân loại mới bắt đầu khai mầm. Evà mới đã có mặt. Bà lão Evà cũ nhăn nheo với tội đè nặng trên mình theo năm tháng sau khi đã gặp gỡ Đấng Cứu Thế đã trở thành Evà mới, mẹ của một nhân loại mới sinh ra trong ơn cứu độ. Thế nên, lời hoàn tất của Chúa Giêsu trên Thánh giá đã là lời hoàn chỉnh lại những gì là lỗi điệu trên đường thực hiện để hôm nay nhân loại có được những bước đường mới, khuôn mặt mới trong thánh ân.
Và nếu chuyển ánh nhìn vào trong cuộc sống của Giáo hội, có lẽ chúng ta cũng gặp thấy ở đây những nét rất mới mẻ. Nếu năm xưa Israel cũ là một Israel lưu lạc, lưu lạc xét theo cả hai nghĩa trên địa hình và trên tinh thần. Lưu lạc trong hoang địa và tinh thần cũng là xa lìa, xa lạc giáo lý tình thương của Thiên Chúa, thì hôm nay, một Israel mới trong ơn cứu độ đã bắt đầu hình thành , đã được quy tụ. Ta gọi là Hội Thánh, là Giáo Hội. Với ơn cứu độ, Đức Giêsu hoàn thành và Ngài hoàn chỉnh lại những gì lỗi điệu để những ai xa xôi hôm nay trong ơn cứu rỗi được gần gũi, những người xa lạ bỗng dưng tay bắt mặt mừng trở thành thân quen và những ai vì hoàn cảnh này hoàn cảnh khác xa cách, xa rời tình thương Thiên Chúa thì hôm nay gặp thấy được kết liền. Mối giao duyên trời đất chính là mối giao duyên cứu độ và Đấng Cứu Thế cảm thấy hài lòng, Ngài thốt lên lời “Thế là đã hoàn tất”. Thế là đã hoàn chỉnh được những bước đường mà Thiên Chúa đã thiết định mang ơn cứu rỗi đến cho mọi người.
Như thế, khi nhìn chữ hoàn tất có nghĩa là hoàn chỉnh, một nhãn giới mới rất tự nhiên hình thành trong đời sống tín hữu. Nhãn giới ấy cũng chính là khẩu hiệu Đức Giáo Hoàng Piô X đã chọn cho mình là quy tụ và “canh tân mọi sự trong Đức Kitô”. Chương trình cứu độ với tất cả những mức độ cân chỉnh đã xong, Đấng Cứu Độ đã hoàn tất công việc của mình, không cần một ai khác đến cứu độ chúng ta nữa và chính ở đây, nguồn cứu độ, danh cứu độ duy nhất là Đức Giêsu Kitô, Ngài chính là Đấng Cứu Độ duy nhất trong cuộc đời kẻ tin. Mặc kệ, thần học vẫn có những khoảng trời tự do để đặt mình trong nền văn hóa Á châu với những cố gắng diễn tả đa dạng, nhưng Đấng trung gian có đủ bản lĩnh, đủ uy quyền, đủ tư cách con người và Thiên Chúa đã giao hòa và đặt chúng ta vào bước đường cứu độ, Đấng ấy chỉ có thể là Đức Giêsu Kitô. Và một khi hiểu hoàn tất là hoàn chỉnh, ta cảm nhận được rằng mình đang ngụp lặn ở trong dòng chảy cứu độ ấy.
Hình như ở miền Tây, trong năm thánh cứu độ các nhà thờ có dựng bảng chữ “năm thánh cứu độ”. Một vài cán bộ hỏi chữ cứu độ ở đây nghĩa là gì, có ẩn ý gì không? Cứu độ có phải là cứu ra khỏi chế độ này không? Các cha ở đây cũng rất khôn khéo trả lời: ở đây không phải là cứu ra khỏi chế độ này, mà chế độ tinh thần của tội lỗi, ở đây cứu độ là được Thiên Chúa giải cứu khỏi tình trạng tội lỗi và Ngài đặt vào đường ân sủng. Đấng Cứu Độ là Đấng cứu nhân độ thế. Vâng, đó là ống kính vạn hoa ở góc độ thứ hai.
3. Hoàn tất là hoàn hảo
Và góc độ thứ ba của ống kính vạn hoa: hoàn tất ở đây có nghĩa là hoàn hảo, xét trong nhãn giới con đường tình yêu Đấng Cứu Thế đã bước vào. Trong thánh lễ, trước phần truyền phép, ta cũng gặp thấy chữ tương tự như vậy, “Khi tự nguyện nộp mình chịu khổ hình”. Bị nộp là một chuyện, nhưng tự nguyện nộp mình vì tình yêu lại là chuyện giàu ý nghĩa cho chữ hoàn tất trở thành hoàn hảo. Ơ đây đặt vào góc độ tâm tình của Chúa Giêsu trên Thánh giá, người ta gặp thấy một tình yêu thật lớn.
Tình trước hết là tình tự hiến . Ngài tự nguyện nộp mình chịu khổ hình. Ngài tự nguyện dấn mình vào con đường nhập thể cứu chuộc. Tự nguyện dâng cuộc đời của mình như là tình yêu hoàn hảo thỏa lòng Chúa Cha và để trao ban ơn cứu độ cho con người. Vì thế, hơn lúc nào hết, khi thốt ra lời “Thế là đã hoàn tất”, Chúa Giêsu xuất hiện trong dáng dấp của con Chiên Vượt Qua gánh tội trần gian, phù hợp với lời Gioan Tẩy Giả giới thiệu năm nào: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian, và cũng phù hợp với lúc Linh mục dâng Mình Thánh công bố trước cộng đoàn: Đây Chiên Thiên Chúa. Đây Đấng xóa tôi trần gian. Tình tự hiến của Chúa Giêsu trên Thánh giá đã đạt tới mức độ hoàn hảo khi trao hiến chính bản thân mình làm giá cứu chuộc cho con người.
Tình ấy cũng là tình tận hiến , nghĩa là một khi đã mở ra thì không đóng lại nữa, một khi đã cho đi là cho tới mức tận cùng, một khi đã trao ban là trao ban đến hết. Cho đi hết, cho đến chết, cho đến cùng. Sau những lời cuối cùng trên Thánh giá khi Chúa Giêsu đã tắt thở, một tên lính lấy lưỡi đòng mở rộng cạnh sườn Người , máu và nước chảy ra. Truyền thống đức tin Công giáo vẫn nhìn đây như là hình ảnh của một mối tình tận hiến, nghĩa là cho đi tất cả, trao hiến tất cả không giữ lại một điều gì nũa. Trao đi đến giọt máu, giọt nước cuối cùng của sự sống mình để ơn cứu độ được nẩy mầm nơi những người đón nhận.
Và ta cũng có thể bảo đây là tình thánh hiến , bởi vì hơn lúc nào hết, khi nói lời “Thế là đã hoàn tất”, Chúa Giêsu giới thiệu về một tình yêu hoàn hảo. Tình yêu ấy có sức lan tỏa, có sức cứu độ, giao hòa trời đất và ngay từ phút đầu đã đem lại hiệu quả cứu độ cho những ai biết cúi đầu đón nhận. Trong trình thuật cuối bài Passio, người ta gặp thấy ông đại đội trưởng trong khi nghe những lời cuối cùng của Chúa Giêsu trên Thánh giá đã quay về đấm ngực ăn năn và thốt lên: “Người này quả thật là Con Thiên Chúa”. Đó chính là hình ảnh sống động minh họa cho tình thánh hiến mà chính Chúa Giêsu đã diễn tả trong ơn cứu độ của Ngài trên Thánh giá. Hoàn tất ở đây là hoàn tất một mối tình, nên cũng là hoàn hảo lộ trình cứu thế. Một lộ trình rất đẹp cho dù không thiếu những gian truân, không thiếu những hy sinh, và nhất là không thiếu hiến dâng đến nỗi trao ban chính mạng sống.
Bỗng dưng tôi nhớ đến một vần thơ của tác giả Raxun Gamzatop về đường tình yêu, rất đẹp. Một bài thơ tình tất nhiên có thể hiểu theo nghĩa này, nghĩa khác. Và nói về tình yêu của Đấng Cứu Thế cũng vẫn ám hạp. Xin đọc lại khổ thơ ấy để thưởng thức: “Trên trái đất đường đi không kể xiết. Đường dài lâu gian khổ cũng rất nhiều. Nhưng anh hiểu khó và dài hơn hết. Là con đường ta vẫn gọi tình yêu.”
Tình yêu nào vậy? Thưa, hôm nay ở đây chính là tình yêu của Đấng Cứu Thế trên Thánh giá dành cho loài người. Đường tình yêu thật dài và thật khó, nhưng Đức Giêsu đã hoàn tất, và như thế, hoàn tất chính là hoàn hảo lộ trình Đấng Cứu Thế đã thực hiện.
II. LINH MỤC SỐNG LỜI
“THẾ LÀ ĐÃ HOÀN TẤT”
Vâng, với trò chơi của ống kính vạn hoa, ta đã xoay ba góc độ để hiểu trước hết hoàn tất có nghĩa là hoàn thành. Sau đó. hoàn tất có nghĩa là hoàn chỉnh. Và cuối cùng, hoàn tất có nghĩa là hoàn hảo. Thiết nghĩ, với những góc độ ấy, ống kính vạn hoa cũng giúp chúng ta thưởng thức được những hình ảnh đẹp về lời của Đấng Cứu Thế trên Thánh giá. Thế nhưng, nếu Đấng Cứu Thế thanh thản nói lên những điều ấy ở bước cuối cùng đời sống nhân sinh của Ngài, thì hôm nay Linh mục có thể nói lên lời ấy trong đời mình chưa? Không biết các cha sẽ chọn câu trả lời thế nào, nhưng riêng tôi trong những ngày nay cũng tự cật vấn mình và nhận ra câu trả lời chính xác là chưa. Lý do tại sao? Tất nhiên có nhiều lý do. Nếu như hiểu Linh mục vẫn còn là kẻ đi trên đường thánh hiến, thì lời “Thế là đã hoàn tất” một cách khách quan nơi Chúa Giêsu đã rất đẹp, nhưng một cách chủ quan nơi từng người vẫn còn phải vận dụng, vẫn còn phải đón lấy và vẫn còn phải phát triển hằng ngày. Thôi thì trong khi chờ đợi để có thể nói lên lời hoàn tất trong đời của mình, mỗi Linh mục được mời hãy sống đời “hãy nên hoàn thiện” từng ngày. Trong khi chưa có chiến thắng, hãy khởi đầu bằng cách chiến đấu. Bài vị chiến thắng chỉ là quà tặng cho những ai đã cật lực, thành tâm chiến đấu và chiến đấu đến cùng. Hãy nên hoàn thiện là lời dành cho chúng ta hôm nay khi sống lời thế là đã hoàn tất của Đức Kitô trên Thánh giá.
1. Trong tư cách là người phân phát các mầu nhiệm thánh
Mời tất cả chúng ta trước hết hãy đặt mình trong tư cách là người phân phát các mầu nhiệm thánh. Với tư cách ấy, mỗi Linh mục được mời gọi sống lộ trình thánh hóa. Thánh hóa bản thân, thánh hóa những người mình được trao gởi trong sứ vụ và thánh hóa ngay trong lời giảng dạy bằng đời sống của mình nữa. Bởi vì tự bản chất, mỗi Linh mục là người thuộc về Đức Kitô, hướng về Đức Kitô và nếu như có những lỗi điệu vẫn cứ tiếp tục tìm về với Đức Kitô để sáng lên chân dung của chính Ngài trong ta. Và cũng khởi đi từ ngày ta mới có một dáng đứng kiên cường. Thuộc về Đức Kitô, hướng về Đức Kitô, tìm về Đức Kitô mọi lúc mọi nơi. Nhưng Đức Kitô thế nào? Thưa, một Đức Kitô bị đóng đinh. Một Đức Kitô đang nói những lời của Ngài trên Thánh giá. Và ở đây, có lẽ chúng ta cũng vận dụng lời của ĐGH GP II trong dịp phong thánh cha Piô Năm Dấu. Ngài nói: “Nếu không quy chiếu vào mầu nhiệm Thánh giá, người ta chẳng bao giờ hiểu được thế nào là sự thánh thiện trong đời của mình”. Những lời cuối cùng của Đức Kitô trên Thánh giá đã là một bản xét mình, một cơ hội soi bóng cho mỗi một Linh mục. Nhưng hôm nay trong tư cách là người phân phát các mầu nhiệm thánh, người thuộc về Đức Kitô một cách hoàn hảo, cũng xin lập lại với Linh mục đoàn về một đề nghị đã được nhiều người coi như kim chỉ nam trên bước đường thánh hóa. Kể ra những bước đường bằng 6 chữ cái xếp lại thành danh xưng CHRIST để mỗi người khi thực hiện cũng soi bóng Đức Kitô mong tìm ra ý nghĩa cho bước đường Kitô hữu, cách riêng bước đường Linh mục của mình:
C |
: |
Cross |
= |
Thánh giá |
H |
: |
Humanity |
= |
Nhân bản |
R |
: |
Reconciliation |
= |
Hoà giải |
I |
: |
Interiority |
= |
Nội tâm |
S |
: |
Servanthood |
= |
Phục vụ |
T |
: |
Teacher |
= |
Thầy dạy |
Sáu bước đường lại trùng hợp với lời thứ sáu “Thế là đã hoàn tất”. Danh xưng Kitô / Christ làm thành những bước đường thánh hóa mà một Linh mục được mời gọi để trải ra trong đời của mình. Gắn bó với Thánh giá, hoàn thiện lãnh vực nhân bản, luôn sống tinh thần hòa giải với nội tâm phong phú, dấn thân phục vụ và ngay trong tác vụ là thầy dạy của mình, Linh mục cũng được mời gọi để hoàn thiện hằng ngày. Đó là những chữ tôi đọc thấy trong cuốn Linh Mục Thiên Niên Kỷ mới của Đại Chủng Viện Xuân Bích Huế, năm 2000. Nếu như thánh Augustinô có lần thốt lên một ý tương tự: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn con mới được nghỉ ngơi yên hàn” (diễn thơ của XLB) thì mỗi một Linh mục khi quy chiếu vào Đức Kitô trên Thánh giá cũng chịu đóng đinh dài dài với Đức Kitô trong tư cách là người phân phát các mầu nhiệm thánh, lúc ấy Linh mục mới có được những bước tiến trên đường hoàn thiện. Chả thế mà George Weigel, người viết nhiều sách về giai đoạn khủng hoảng của nước Mỹ vừa qua đã có một nhận định: sở dĩ Giáo hội ngày nay gặp nhiều khủng hoảng là vì Giáo hội đang thiếu vắng những thánh nhân. Tức là, càng có nhiều thánh nhân, thế giới này sẽ thánh đức hơn. Mỗi một thánh nhân là người thắp lên ngọn lửa sẽ xua đi bóng tối tội lỗi. Mỗi một Linh mục thắp lên ngọn nến nhân đức trong đời của mình, nhất là trong chức vụ của mình, Linh mục ấy cũng thắp sáng cho cộng đoàn mình phục vụ. Vâng đó là nét thứ nhất, bởi vì đời sống Linh mục chưa hoàn tất nên ta được mời gọi nên hoàn thiện trong tư cách là người phân phát các mầu nhiệm thánh.
2. Trong cương vị là mục tử cho cộng đoàn
Nét thứ hai xét như là mục tử của một cộng đoàn, Linh mục cũng được mời gọi để hoàn thiện hơn từng ngày qua việc thường huấn, từ những bước cơ bản tiến sang những bước nâng cao và để rồi những ai được mời gọi, hoặc là khả năng Chúa trao ban cho mình thì sẽ tiến xa hơn vào con đường chuyên sâu. Nhiều lần đi dự lễ mở tay, tôi vẫn thấy các Đức cha nhắc nhở cho tân linh mục rằng: Ngày chịu chức là kết thúc của 6 năm ĐCV, nhưng cũng là khởi đầu một sứ mạng mới. Trong kết thúc, có cái gì đó đã hoàn tất, nhưng cũng có cái gì đó mở ra đẩy người ta bước lên con đường mới. Trong Tông huấn Pastores Dabo Vobis, ĐGH JP II đề nghị: những năm tháng của ĐCV chỉ là khai huấn, khởi huấn; còn sau khi chịu chức là bước vào giai đoạn thường huấn, huấn luyện trường kỳ. Trong khai huấn người ta có thầy dạy rõ ràng, có khuôn đúc kỹ luật, có môi trường anh em, có không gian chủng viện, có thời gian chủng viện và có cả một bầu khí chủng viện. Còn thường huấn lại là lúc mở ra cánh cửa tự do. Chức vụ đòi buộc. Kim chỉ nam Linh mục đã nhắc rõ, thế nhưng nhiệm vụ này được trao vào lương tâm của mỗi một Linh mục phải tự ép mình thực thi việc thường huấn. Tự huấn luyện để nâng cao nghiệp vụ. Không bao giờ lời “Thế là đã hoàn tất” trở thành lởi thỏa mãn cho cá nhân Linh mục trên bước đường thường huấn. ĐGH JP II đã lấy hình ảnh Phêrô để minh họa cho việc thường huấn, từ lúc trẻ đến lúc già, từ khi tự mình thắt lưng cho đến khi phải nhờ người khác thắt cho và dẫn tới nơi không muốn đến. Hồi còn học ở Paris, tôi đã có dịp ghé thăm ĐHY Yves Congar, lúc bấy giờ ngài không còn khả năng hoạt động nữa, thấy mấy bà Xơ dỗ dành ngài ăn uống như trẻ thơ. Đại để có câu: “Ngoan nào, há miệng to nghe, ầm!” nghĩ cũng tội. Linh mục ví như những viên ngọc, nếu không năng lau chùi sẽ khó có thể tỏa sáng. Cũng vậy, những khả năng Chúa ban cho Linh mục, nếu không biết chăm chút một cách trân trọng, cũng khó có thể cho giáo dân mình thấy những giá trị của Tin Mừng.
Về phương diện phục vụ, mỗi một Linh mục không phải cứ cho giáo dân của mình ăn hoài một món, ngày nào cũng như ngày nào, vì thế cần phải chuẩn bị sao cho Lời Chúa trong ngôn từ của con người có thể hợp với khẩu vị của giáo dân. Dẫu rằng bá nhân bá tánh, có người tính nọ tính kia, họ không có thể ăn kết được những món ăn Linh mục dọn sẵn nhưng ít ra họ lượm lặt được chút gì đó bổ dưỡng cho cuộc sống tâm hồn. Các bà rất sợ mập, dù đã thấy có hoa hậu béo, vậy mà nhiều khi các bà mẹ phải ăn nhiều chẳng phải vì các bà mà vì những người con do bà sinh ra. Mẹ tròn con vuông là thế. Mong rằng mỗi mục tử đều có trái tim, tấm lòng của người mẹ sẵn sàng đón nhận những món ăn bổ dưỡng mong có thể trao lại những chất bổ dưỡng ấy cho con cái trong trách vụ Đấng Cứu Thế trao gởi cho chính mình. Không ai có thể cho con cái mà mình không có.
Đó là về góc độ mục tử trong cương vị phục vụ, nhưng trong cương vị tự nhiên, Chúa trao cho mỗi người chúng ta những khả năng dường như ở dạng của một hạt lúa mới nảy mầm và bổn phận của mỗi người là phải hoàn thiện làm sao cho hạt lúa đó mục lên thành mạ non lúa tốt, có đòng đòng rồi vào mẩy, để tháng Chạp sau cùng khi Chúa đến sẽ bắt gặp chúng ta lớn thành những cây tốt đem lại những bông lúa trĩu hạt. Đó là cả một trách nhiệm được đề ra cho mỗi mục tử về phương diện tự nhiên, nghĩa là được mời gọi để nâng cao nghiệp vụ của mình, để cập nhật kiến thức của mình, để gọt dũa kiến thức cho phù hợp với thời đại của mình. Thời đại hôm nay, thời đại của vi tính, thời đại của @. Người ta bảo trên ti vi, chỉ cần nhấp chuột, bấm một cái là có thể hoàn thành công việc, nếu như chúng ta không kịp cân chỉnh cho những kiến thức của mình trong cương vị mục tử, có lúc chúng ta sẽ bị đẩy lùi, bị tụt hậu.
Tôi vẫn nghĩ mỗi người lúc nào cũng ở trên trường cả. Ngày xưa còn nhỏ đi học ở trường, vào ĐCV cũng là trường thôi: trường thử, trường latinh, trường philo, trường lý đoán; đến khi làm Linh mục cũng vẫn bám sát hiện trường mục vụ; và nếu như tới tuổi về hưu, người ta rút vào hậu trường. Luôn luôn ở trong trường, chẳng lúc nào mà không cần hoàn thiện. Xét như mục tử cộng đoàn, ta được mời gọi và thúc đẩy để hoàn thiện mình luôn cho đoàn chiên của mình được sống dồi dào.
3. Xét như thành viên của Linh mục đoàn
Và cuối cùng, xét như thành viên của Linh mục đoàn, mỗi một Linh mục hôm nay khi soi bóng mình trong lời thứ sáu của Chúa trên Thập giá cũng được thúc đẩy để vươn lên trong sự hoàn thiện, ngày từng ngày hiệp thông trong Giáo hội địa phương. Để làm gì? Thưa trước hết là để hòa mình vào trong lịch sử và kinh nghiệm của Giáo hội địa phương, khởi đi từ đó mà phát huy tình huynh đệ, khởi đi từ đó mà phát động lòng nhiệt thành, và cũng khởi đi từ đó mà phát triển tinh thần truyền giáo, cho tất cả môi trường chúng ta đang hiện diện. Ai có máy, mỗi lần nâng cấp chiếc máy của mình, người ta gọi là lên đời. Lên đời cho phù hợp với tầm vóc, kích thước của môi trường sống, nơi mình đang hiện diện phục vụ. Linh mục mới ra trường, ở đây trong tư cách là thành viên của Linh mục đoàn, ta hiệp thông với Giáo hội địa phương như là một bước đường hòa mạng vào sự sống của Giáo hội nơi mình được trao gởi sứ mạng. Với các cha đã gần hoặc đã mừng ngân khánh, đây là một dịp để các cha chia sẻ lại những kinh nghiệm mục vụ, những kinh nghiệm đời sống, kinh nghiệm thánh hóa cho đàn em của mình, Linh mục trẻ tuổi hơn. Và ngay cả các cha bước vào tuổi kim khánh hay sau kim khánh, thường gọi là kim tỉnh, thì vẫn còn đó bước đường gắn bó với Linh mục đoàn của mình: các ngài đang là một bài học sống động, di động cho tất cả thế hệ đàn em, là những Linh mục trẻ tuổi. Trong văn hóa Việt Nam, người ta bảo “70 học 71”, tuổi nào cũng cần học cả. Chính sự hiện diện của các cha lớn tuổi trong tuần phòng là một hình ảnh cảm động, không phải chỉ cho ĐGM giáo phận thấy an ủi, mà còn cho các Linh mục trẻ ở đây nhìn vào như là một bài học bất tận trong sứ vụ của mình.
Kết:
Và để kết thúc, xin ghi lại lời của một vận động viên điền kinh người Tin lành Scotland trong lần nhận huy chương địa phương, được hỏi là chạy có mệt không? Ong trả lời: “Tôi không chạy một mình, có Chúa Kitô chạy với tôi, vì thế tôi vượt qua được những giới hạn tưởng rằng không thể vượt qua như là những nhức nhối về khớp, về đầu gối”. Thế vận hội Olympic mùa đông lần thứ 20 được diễn ra tại Turino từ ngày 10 đến 26 tháng 02/2006 với khẩu hiệu truyền thống “cao hơn, xa hơn, nhanh hơn”. Mỗi người chúng ta trên bước đường hoàn thiện cũng là một vận động viên, chúc quý cha mỗi ngày sẽ tiến cao hơn, xa hơn, nhanh hơn trong đời hoàn thiện. Trong khi chưa có huy chương của chiến thắng, hãy bắt đầu bằng cách trở thành những chiến sĩ lao vào cuộc chiến đấu, và trong khi chưa nói được lời “Thế là đã hoàn tất” như Chúa Kitô trên Thánh giá, ta bắt đầu bằng nỗ lực hoàn thiện đời mình.
CÙNG ĐỌC & SUY GẪM
Biến đổi kinh tế - kỹ thuật đang diễn ra ở nước ta như vũ báo. Điều này đáng mừng, nhưng cũng thật đáng lo lắng bởi đang có sự lệch pha giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội, mà ta sẽ phải trả một giá rất đắt.
Thời sự xã hội mấy ngày nay thật đáng lo âu. Khủng khiếp nhất là tin bé gái ba tuổi bị hãm hiếp một cách man rợ, nhưng được xử quá nhẹ, trong khi ở một số nước ngày nay, cha mẹ chỉ cần đánh con cũng đã phải ra hầu toà. Đáng lo là những người có trách nhiệm không xót xa, phẫn nộ mà giải quyết sự việc bằng cái phong cách hành chính tà tà muôn thuở.
Vì sao có sự vô cảm này ? Trước tiên là sự thiếu hiểu biết về con người, về quy luật phát triển và nhu cầu tâm lý của trẻ em. Ở một lớp học, khi chuyên gia nước ngoài nhắc đến sự “đau khổ” của trẻ em, một học viên là phó chủ nhiệm UBDS- GĐ- TE thuộc loại xuất sắc nhận định “ Trẻ em còn nhỏ không biết gì, không có đau khổ”
Thực tế, trẻ sơ sinh khi thiếu mẹ đã biết “khổ” . Khổ theo kiểu của nó và cái khổ càng khó lý giải, cũng không diễn đạt được thì khi lớn lên sẽ gây một vết thương càng sâu sắc nơi trẻ. Với không ít người, trẻ chỉ là “ một khúc gỗ biết đi” nên họ có thể tha hồ la mắng, sỉ vả nó để hả dạ mình ! Không ít cha mẹ thương con một cách sai lầm, vì không biết tâm sinh lý của trẻ. Nói chi đến các ông chính quyền điạ phương xa lắc xa lơ. Nếu ở các nước cha mẹ phải ra toà khi đánh con, thì hành vi man rợ kia phải bị xử bắn hay tù chung thân.
Không ít người còn vô cảm khi không bức xúc trước việc hàng triệu công dân đánh mất tính người vì rượu, dẫn đến vô số trường hợp phản nhân quyền như bạo hành đối với phụ nữ trẻ em, người già yếu. Trường hợp vừa kể trên cũng do ma men. Lẽ ra phải xã hội hoá công tác cai rượu cho những người tự nguyện. Lẽ ra dân phải tiếp cận được với các dịch vụ y tế, tâm lý, xã hội, giáo dục… ở cấp cộng đồng để thoát khỏi tệ nạn khủng khiếp này.
Không ít người cũng vô cảm trước những hoàn cảnh bi đát đã xô các bạn gái dại dột vào tay những kẻ buôn người, cũng mất tính người khi nhẫn tâm buôn bán đồng loại của mình như những đồ vật. Chờ tới khi chuyện xảy ra mới can thiệp bằng biện pháp hành chánh là quá trễ. . Lẽ ra phải phòng ngừa từ xa bằng các dịch vụ xã hội, tham vấn giáo dục, dạy nghề để giúp các em nhận thức về giá trị hôn nhận và biết lựa chọn đúng đắn. Tuyên truyền suông thôi không đủ.
Chuyện phụ nữ bị lừa gạt lấy chồng ngoại là một đặc điểm của sự chậm phát triển. Các nước lân cận đã trải qua và giải quyết nó không chỉ bằng biện pháp tâm lý xã hội.Không thể thực hiện chúng nếu không được đào tạo để có những kiến thức và kỹ năng chuyên môn hiện đại.
Nhưng biết đến bao giờ những nhân viên xã hội, tham vấn tâm lý mới có thể sát cánh cùng những phụ nữ và trẻ em thiệt thòi ở vùng sâu vùng xa, để cụm từ vì con người không chỉ là khẩu hiệu.
Bao giờ đây, các bậc cha mẹ được học tâm lý để biết cách chăm sóc và bảo vệ con mình, các cán bộ địa phương không còn vô cảm, vì thiếu hiểu biết và sự tà tà hành chánh.
Nguyễn Thị Oanh
Theo Báo Phụ Nữ TPHCM
TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH
Đọc Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêu 22,35-40
Có đôi vợ chồng già kia, đã sống với nhau gần 100 tuổi, con cái cháu chắt đầy đàn. Lúc dau nặng gần chết, ông kêu vợ lại và nói:
- Tôi sắp phải xa bà. Khi tôi chết đi, bà sẽ làm gì cho tôi?
Bà vợ trả lời:
- Khi ông chết, tôi sẽ nằm vật vã bên xác ông khóc lóc thảm thiết làm cho mọi người nhìn thấy phải cảm động xót xa.
Ông lão thều thào đáp lại:
- Tôi biết bà thương tôi lắm, nhưng bà khóc lúc đó, cũng chẳng giúp ích gì cho tôi. Khi ấy, tôi đâu còn nghe được tiếng khóc của bà nữa!
- Vậy tôi sẽ ra tiệm đặt cho ông một cỗ quan tài thật đẹp, mua hoa xếp đầy trên quan tài đó.
- Tôi cảm ơn bà, nhưng khi đã chết, quan tài và hoa đẹp cũng trở nên vô ích vì tôi đâu có nhìn thấy và ngửi được mùi thơm của chúng?
- Vậy thì… vậy thì, tôi sẽ mua thật nhiều nến cắm đầy quan tài của ông.
- Cùng vô ích nữa, vì lúc đó, tôi đã nhắm mắt rồi đâu còn chiêm ngắm được ánh sáng của những ngọn nến.
- Đã vậy, khi chôn xác ông xuống đất, tôi sẽ ở lại nơi mộ, khóc lóc thảm thiết, cố làm sao cho các giọt nước mắt tràn trề của tôi thấm vào lòng đất và thấm vào thân xác ông.
- Cũng vô ích luôn, vì khi đó tôi không còn biết gì nữa.
Bà vợ kêu lên với giọng thất vọng:
- Ôi cái chết thật quái ác và dễ sợ!
Ông lão bình tĩnh đáp lại, thật nhỏ nhe :
- Nhưng cái chết cũng thật đẹp, nếu người sắp chết thấy được rằng trong suốt cuộc đời, mình đã sống trọn thánh ý Chúa trong bậc vợ chồng và đã làm được nhiều việc lành phúc đức cho mình, cho người bạn trăm năm của mình.
Nói xong, ông lão tắt thở bình an trong tay người vợ suốt đời chung thủy.
* * *
Kể lại câu chuyện của đôi vợ chồng già, suốt đời chung sống và hoàn thành cuộc đời đôi bạn, tôi muốn nhắc đến lời Công Đồng Vatican II trong Hiến Chế Vui Mừng và Hy vọng đã căn dặn tất cả chúng ta là "Các đôi vợ chồng công giáo được củng cố và cung tiến bằng một bí tích đặc biệt, giúp họ hoàn thành một cách xứng đáng các bổn phận theo chức phận của mình. Khi hoàn thành nhiệm vụ và sứ mạng Chúa trao phó trong đời sống gia đình và đôi bạn, nhờ ơn sức mạnh của bí tích này và được thấm nhuần Thánh Thần của Chúa Kitô tràn lan trong đời sống tin cậy mến, đôi vợ chồng tiến tới đích hoàn thiện của mình và giúp nhau nên thánh mỗi ngày một hơn. Như thế, họ cùng nhau góp phần vào việc tôn vinh danh Chúa".
Quả thật, nếu trước kia người ta lầm tưởng rằng việc nên thánh dường như là bổn phận và độc quyền của những người hiến thân cho Chúa trong bậc tu trì, thì ngày nay, Công Đồng soi sáng cho chúng ta thấy rõ hơn lời Chúa truyền: "Các con hãy nên thánh như Cha chúng con trên trời là Đấng Thánh". Như vậy, không ai còn hồ nghi được về lời Chúa dạy phải nên thánh. Nhưng, nên thánh trong bậc vợ chồng là gì? Tôi xin gợi lên ba điều sau đây:
1/ Hãy giữ nghĩa với Chúa
Giữ nghĩa với chúa là thực hiện giới răn đầu tiên và hết sức quan trọng: "Các con hãy yêu mến Thiên Chúa là Chúa các con hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn". Nghĩa là Chúa phải ở trên hết, phải ưu tiên trong mọi sinh hoạt của đời sống gia đình. Làm gì, lo lắng chuyện chi, tính toán điều gì, dù to hay nhỏ, trước khi bàn hỏi với người đời hoặc với ông bà cha mẹ họ hàng đôi bên, Anh Chị đã phải bàn hỏi và trình bày với Chúa trước rồi.
Phải biết lắng nghe tiếng Chúa thúc giục, cụ thể là Anh Chị hãy nhớ mãi lời này: "Phúc cho đôi bạn nào, gia đình nào biết kính sợ Thiên Chúa". Người biết kính sợ Thiên Chúa là người biết sợ tội, nhất là tội trọng. Người biết kính sợ Thiên Chúa là người có hạnh phúc đích thực của Chúa ban, vì họ đã biết giữ nghĩa với Chúa.
2/ Hãy ăn ở có tình với mọi người.
Ăn ở có tình với mọi người là khía cạnh thứ hai của một giới răn quan trọng trong đạo công giáo: "Các con phải yêu thương hết mọi người như chính mình".
Đôi bạn nào, gia đình nào ăn ở có tình với mọi người là đôi bạn và gia đình biết kẻ trên người dưới, trên kính dưới nhường, biết người biết ta, biết chỗ đứng của mình trong cộng đoàn xã hội và Giáo Hội. Ăn ở có tình với mọi ngưòi là khi có tiền cũng không kiêu, có quyền cũng không vênh, có sắc đẹp cũng không nhìn người khác bằng nửa con mắt. Lúc nào cũng vậy, quý mến mọi người, kính trọng mọi người, lễ phép hòa nhã với mọi người. Bởi biết rằng, tiền tài cũng hết, danh vọng cũng tan, sắc đẹp cũng phai mờ, chỉ có tình chân thật với mọi người là còn mãi. Đi đâu cũng sống được, ở đâu cũng có người thương, làm gì cũng có người giúp đỡ khi Anh Chị biết ở có tình với mọi người.
3/ Hãy trọn tình chung thủy với nhau .
Sau cùng nên thánh trong bậc vợ chồng còn phải do trọn tình chung thủy khắng khít yêu thương giữa Anh Chị. Thật vậy, tình nghĩa vợ chồng là một cách thế diễn tả tình Thiên Chúa yêu thương loài người và lòng người mến yêu Thiên Chúa. Vợ chồng kết nghĩa trăm năm với nhau là hình ảnh sự kết hiệp mật thiết giữa Chúa và linh hồn mỗi người, giữa Chúa Kitô và Giáo Hội.
Chung thủy với nhau, với người bạn đời của mình là điều rất cần thiết, nhất là trong thế giới đề cao cá nhân chủ nghĩa như hiện nay. Anh chị rất dễ chung thủy với nhau trong ít tháng năm đầu đời hôn nhân, khi thịnh vượng vui vẻ, khi còn thanh xuân tuổi trẻ, đúng như người ta đã ví von:
"Đôi ta như thể con tằm,
Cùng ăn một lá cùng nằm một nong,
Đôi ta như thể con ong,
Con quấn con quýt con trong con ngoài".
Thế nhưng, tình chung thủy xinh đẹp ấy sẽ bị nhiều cám dỗ chao đảo sau một thời gian dài chung sống, sau khi đãkhám phá ra những khuyết điểm của nhau. Cho đến một hôm lại phải thở dài:
"Tình chỉ đẹp khi còn dang dở,
Đời mất vui khi đã vẹn câu thề" (Xuân Diệu)
* * *
Trong Thánh lễ này, tôi nguyện chúc cho gia đình Anh Chị và tất cả mọi gia đình công giáo trong xứ đạo chúng ta được nên thánh, để khi tất cả chúng ta kết thúc cuộc sống gia đình nơi trần gian, sẽ được thanh thản trước mặt Chúa, vì trong suốt cuộc sống, đã giữ trọn được ba điều này: một là giữ nghĩa với Chúa, hai là ăn ở có tình với mọi người và ba là trọn tình chung thủy với nhau.
Lm. Bùi Văn Khiết Tâm
ĐỌC SÁCH
Những tập tục, những niềm tin được giữ gìn và lưu truyền qua nhiều thời đại thì được gọi là truyền thống. Truyền thống thì bao giờ cũng được tôn trọng vì nó tồn tại lâu dài mà không bị đào thải. Nhưng truyền thống không thể đồng nghĩa với chân lý vì có rất nhiều truyền thống dù tồn tại lâu dài cũng vẫn có ngày bị đào thải. Cũng có không thiếu những niềm tin rất phi lý mà vẫn tồn tại lâu dài. Điều ấy không chỉ đúng ở ngoài đời mà đúng cả ở trong đạo nữa.
1. Những truyền thống ở ngoài đời đang được tôn trọng qua nhiều thế kỷ bỗng dưng mai một.
*Răng đen: Có một lịch sử lâu dài có lẽ vài ngàn năm. Nó được tôn vinh là văn hóa dân tộc Việt Nam. Nó ngự trị trên ngai như một bà chúa. Nó khống chế từ mỹ thuật đến đạo đức.
Trải qua nhiều ngàn năm, trăm người như một, ngàn người như một đều bảo rằng răng đen là tuyệt đẹp. Người con gái yếm thắm, váy lĩnh, tóc bó đuôi gà, mà răng không đen thì không thể là gái đẹp được. Người con gái có mười cái thương thì răng đen là cái thương thứ bốn.
“Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương răng ánh hạt huyền kém thua”.
Răng đen không những đẹp mà còn đạo đức nữa. Cũng bằng bao nhiêu ngàn năm, răng đen là răng của người đạo đức nết na. Răng trắng bị coi là răng của loài trâu loài ngựa.
Răng đen có một lịch sử oai hùng như thế đó, thế mà nó đã bị đào thải một cách không tiếc xót.
*Trầu cau: cũng là một truyền thống được duy trì và truyền tụng từ một lịch sử lâu dài dường như đồng thời với lịch sử dân tộc Việt Nam.
Có một huyền thoại về trầu cau: Hai anh em ruột cùng yêu một cô gái. Nhưng người anh may mắc được kết duyên với nàng. Người em buồn, bỏ làng đi lang thang, nhảy xuống sông tự vẫn, biến thành tảng đá. Anh đi tìm em, ngồi trên tảng đá mà chết, biến thành cây cau. Người vợ đi tìm chồng, ngồi trên tảng đá ôm cây cau mà chết biến thành dây trầu… Đá vôi, lá trầu, quả cau kết với nhau tạo ra quết trầu màu đỏ. Đỏ thắm là tình vợ chồng.
Vì thế đám cưới nào cũng phải có mâm trầu cau. Đố ai dám phá lệ.
Trong xã giao thì “miếng trầu là đầu câu chuyện”, Đố ai dám coi thường.
Vậy mà “trầu cau” chỉ còn sống gượng gạo trong đám cưới. Trầu cau tươi được thay thế bằng trầu cau giả. Trong xã giao thì “miếng trầu” chỉ còn là trò đùa.
*Cái váy của người đàn bà được coi là căn cước của phụ nữ Việt Nam. Ong cha chúng ta rất hãnh diện về điều đó. Bởi thế nên mới có câu đố sau đây:
“Cái thúng mà thủng hai đầu
Bên ta thì có bên Tầu thì không”.
Cái váy là một truyền thống lâu dài. Nó kiên cường tới mức luật của vua Gia Long cấm mặc váy thì chỉ có đàn bà miền Nam tuân giữ, đàn bà miền Bắc cứ mặc váy vì “phép vua thua lệ làng”. Thế rồi cuối cùng cái tục mặc váy truyền thống ấy chết lần chết mòn. Khởi đầu từ cuộc cách mạng tháng Tám và chấm dứt vào khoảng thập niên sáu mươi của thế kỷ trước.
2. Những truyền thống trong đạo cũng có một số phận như truyền thống ngoài đời.
* Từ ngày Môsê viết luật vào thế kỷ 13 trước Công nguyên. Luật ấy trở thành thánh và lưu truyền từ đời này qua đời khác. Người ta tin nó là chân lý tuyệt đối tưởng như muôn đời không thể thay đổi. Thế mà Đức Giêsu đã nhiều lần nói không với Luật thánh ấy.
* Chương 11 của sách Lêvi phân biệt thức ăn thành hai loại: thanh và uế. Luật ấy thấm vào tư tưởng, thấm vào máu của người Do Thái. Thế mà Đức Giêsu đã tuyên bố “Mọi thức ăn là thanh hết” (Mc 7,19).
* Thánh luật của Môsê cho phép ly dị (Đnl 24,1). Mười ba thế kỷ ai nấy cứ thế mà thi hành. Nhưng Đức Giêsu lại bảo rằng: “Vì lòng dạ lì lợm của các ngươi mà Môsê đã viết ra điều đó, chứ thuở ban đầu không phải là thế” (Mt 19,8). Lại một truyền thống hụt hẵng sau mười ba thế kỷ vững như bàn thạch.
* Theo thánh luật của Môsê thì người ngoại tình phải bị ném đá. Chẳng ai dám cãi, chẳng ai dám làm ngược vì đó là truyền thống thánh, truyền thống lâu đời. Thế nhưng Đức Giêsu đã thách thức với luật ấy. Ngài tuyên bố “Ai sạch tội thì lấy đá ném trước đi”. Một truyền thống thánh rơi tõm xuống sông.
* Luật Môsê gồm sách Lêvi, Đệ nhị luật, một phần sách Xuất hành và Dân số. Người Do Thái trung thành giữ luật ấy qua mọi thời. Nhóm Qumran bảo rằng càng giữ luật chi li chừng nào thì càng thánh chừng nấy. Người Kitô hữu thời Giáo hội sơ khai cũng giữ luật Môsê cặn kẽ như thế. Giữ mãi cho tới lời tuyên bố của thánh Phêrô ở Công đồng Giêrusalem: “Chúng ta không được quyền thách thức Thiên Chúa mà quàng trên cổ anh em tín hữu cái ách mà cả ông cha chúng ta và chúng ta vác không nổi” (Cv 15,10). Oi một truyền thống lâu đời!
* Từ thời Đavít, có một niềm tin lưu truyền suốt 10 thế kỷ. Từ cha đến con, từ ông đến cháu, cứ nhắc nhở nhau rằng: Đấng Cứu Thế là con vua Đavít. Thậm chí sứ thần Gabrien cũng báo tin cho Maria rằng: “Cô sẽ thụ thai một cháu trai, đặt tên là Giêsu. Người sẽ ngồi trên ngai Đavít cha của Người. Người sẽ cai trị nhà Giacóp cho đến muôn đời”.
Người hành khất mù ở Giêrikhô cũng gọi Đức Giêsu là con vua Đavít.
Đoàn người cầm cành lá rước Chúa vào Giêrusalem cũng tung hô Người là con vua Đavít.
Thế rồi khi Đấng Cứu Thế đến. Người chẳng hề là con vua Đavít. Người cũng chẳng hề làm vua. Một truyền thống nữa lại hẵng.
Truyền thống cũng chẳng phải là đức tin. Nó cần được duyệt lại để giữ hay để hủy bỏ. Thời gian không đủ để minh chứng một sự thật.
Lm. Piô NGÔ PHÚC HẬU