TIN VUI
Tuần san Bạn trẻ Công Giáo - Số 83 CN 29.04.2007
Web site : www.tinvui.org
E-mail : bantreconggiao@yahoo.com
ĐỨC THÁNH CHA HÁT KINH CHIỀU VỚI CÁC LINH MỤC TU SĨ TẠI PAVIA
Chuẩn bị mở đầu hồ sơ Phong Chân Phước cho Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận.
Sứ Ðiệp của Ðức Thánh Cha Beneđitô XVI
cho Ngày Quốc Tế lần thứ 44 cầu nguyện cho ơn gọi
vào Chúa Nhật Chúa Chiên Nhân Lành (29/4/2007)
CÁM ƠN CÁC THÁNH TÔNG ĐỒ ĐÃ CỨNG LÒNG TIN!
CHA GIOAN NGUYỄN VĂN ĐÍCH THỪA SAI TẠI SINGAPORE
GIÁO HỘI CÓ ĐỘC TÀI KHÔNG TRONG VẤN ĐỀ NGỪA THAI ?
Tài liệu tĩnh tâm Linh mục Giáo phận Phú Cường ( tiếp theo)
SỐNG LỜI CHÚA
Tin Mừng : Ga 10, 27-30
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta cho chúng được sống đời đời; chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta. Điều mà Cha Ta ban cho Ta, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Ta. Ta và Cha Ta là một".
Đó là lời Chúa
Hình ảnh người chăn chiên, dẫn đàn chiên đi từ đồi này tới đồi nọ, tìm những cánh đồng cỏ xanh tươi bên những suối mát luôn thôi thúc con người hướng về một Vị Mục Tử nhân hiền:” Đức Kitô “. Ở Việt Nam, chúng ta ít thấy những đàn chiên, đàn cừu được người chăn đưa tới những cánh đồng cỏ, những hồ nước trong lành để chiên cừu ăn cỏ và uống nước thỏa thê. Tuy nhiên, qua nhiều bức tranh, chúng ta thấy hình ảnh người mục tử nhân lành vác chiên trên vai hoặc đang chăn, đang dẫn đàn chiên tới những cáh đồng cỏ xanh tươi, vượt đồi, vượt núi, gây nhiều ấn tượng khó phai cho những người chiêm ngắm tranh ảnh đó. Chúa nhật thứ IV phục sinh gợi lên rõ nét vai trò của vị mục tử nhân hiền là Đức Kitô:” Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi”( Ga 10, 27 ).
CHIÊN CỦA TÔI THÌ NGHE TIẾNG TÔI :
Một lần đi Nha Trang, xe tôi dừng ở Phan Rang, trên một cánh đồng, tôi thấy có một bầy chiên đang kíếm ăn trên một cánh đồng, đàng trước bầy chiên, một người chăn đang cầm một cây gậy để hướng chúng. Tôi ngắm nghía bầy chiên và lấy máy chụp hình ghi lại vài bức ảnh lưu niệm. Sau này, lâu lâu, tôi lật giở Album và nhìn ngắm những bức hình ấy. Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay thuật lại Thiên Chúa là chủ chiên nhân lành, Người biết rõ từng con chiên và con chiên cũng biết rõ Người. Thực ra, Thiên Chúa yêu thương từng con chiên nghĩa là từng người chúng ta bằng một tình yêu riêng biệt, Người không yêu chúng ta bằng một tình yêu chung chung, nhưng Người thương yêu mỗi người bằng con tim, bằng tình yêu vô biên của Người:” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống cho người mình thương mến”( Ga 15, 13 ). Mỗi người, mỗi con người đều có một chỗ đứng trong trái tim của Người. Như đàn chiên đi ăn cỏ, uống nước luôn lắng nghe tiếng của chủ chiên dẫn dắt, hướng dẫn. Những con chiền cuối đàn và giữa đàn luôn chăm chú đi theo con đầu đàn. Chúng ta là chiên của Chúa, chúng ta nghe tiếng Chúa, biết Chúa và theo Chúa. Nghe Chúa là nghe lời Chúa nói trong Kinh Thánh, qua Giáo Lý, qua các lời giáo huấn của Hội Thánh và tiếng nói thiêng liêng tự tận cõi lòng của con người. Nghe Chúa là tạo nên mối giây thân tình mật thiết với Chúa, và tin vào Người. Biết Chúa không có nghĩa là biết qua loa, sơ sơ, bên ngòai nhưng là đi vào cõi lòng, đi vào mối thâm sâu tình yêu của Người. Theo Chúa là bước đi con đường của Người, là từ bỏ con người cũ, mặc lấy Đức Kitô.
NGHE CHÚA, BIẾT CHÚA VÀ THEO CHÚA ĐỂ ĐƯỢC NHỮNG GÌ ?:
Như bầy chiên đi trên những đồi núi đến những cánh đồng cỏ xanh tươi, đến những suối nước mát trong lành để ăn cỏ, uống nước và nghỉ ngơi. Tất cả những con chiên trong đàn đều lắng nghe tiếng chủ chăn dắt, biết rõ lệnh của chủ và đi theo sự hướng dẫn của chủ. Thiên Chúa là vị mục tử duy nhất, nhân hậu đã trả lời cho những ai muốn đi theo Người:” Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi”( Ga 10, 28 ). Vâng, đòan chiên đi theo chủ chiên, chắc chắn những đồng cỏ xanh và những dòng suối mát trong lành sẽ là đích điểm để chiên đi tới, vì vị mục tử Giêsu, chủ chiên duy nhất đã tự giới thiệu:”Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”. Chúa Giêsu ban cho nhân lọai, ban cho con người, ban cho mỗi người sự sống vĩnh hằng, nhưng còn bảo đảm sự sống ấy không ai có thể giựt mất được.
Chúa Con là Chúa Giêsu ban cho ta sự sống đời nhưng cả Chúa Cha cũng bảo đảm, giữ gìn chúng ta trong bàn tay và con tim yêu thương của Người:” Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một”( Ga 10, 29-30 ).Chúa Cha và Chúa Con luôn bảo vệ, giữ gìn và che chở chúng ta.
MỖI NGƯỜI CHÚNG TA ĐƯỢC MỜI GỌI YÊU MẾN CHỦ CHIÊN:
Thiên Chúa là Cha tình thương đã trao cho Con của Ngài là Đức Giêsu đòan chiên yêu quý. Chúa Giêsu đã yêu thương đòan chiên của mình như Chúa Cha đã yêu thương từng con chiên. Bổn phận của mỗi người chúng ta là phải yêu mến, tôn kính và hiếu thảo với Chúa Cha và Chúa Con. Đức Giáo Hòang, các Giám Mục, các Linh Mục là những vị lãnh đạo tôn giáo Chúa trao ban sứ mạng coi sóc đòan chiên của Chúa dưới trần gian này. Chúng ta phải hết lòng tôn kính, mến yêu và cầu nguyện cho các Ngài. Đặc biệt các Cha Sở và Cha phó là những vị mục tử trực tiếp coi sóc đòan chiên của Giáo Xứ. Các Ngài luôn muốn đòan chiên và từng con chiên của mình được ăn uống no nê để có sức phục vụ và sống tốt đẹp làm tôi Chúa. Chúng ta phải hết lòng yêu mến, hiếu thảo, giúp đỡ các Ngài và cầu nguyện cho các Ngài.
Hình ảnh Chúa chiên nhân từ vác con chiên lạc trên vai đang khi những con chiên khác ngoan ngõan bước theo chân Người, luôn là mẫu gương sống động giúp ta tiến trên đường đức tin, dẫn ta tới những đồng cỏ xanh rì và những dòng suối mát trong lành là Quê Trời mai sau. Chúng ta sốt sắng cầu nguyện xin Chúa ban cho có nhiều thanh niên, nam nữ quảng đại dấn thân tận hiến cho Chúa trong sư mạng mục tử coi sóc đàn chiên và sứ mạng làm chứng cho Chúa trong đời sống tu dòng. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT
TU ĐỨC
Sự gì phải đến sẽ đến. Sự thinh lặng là điều tất nhiên phải đến với bất cứ ai.
Tôi đón chờ nó. Thánh ý Chúa muốn vậy.
Tôi đón chờ bằng tâm tình tạ ơn.
Tôi ta ơn Chúa về mọi ơn lành Chúa đã ban cho tôi. Một trong những ơn tôi phải tạ ơn đặc biệt, đó là ơn sống đức tin.
Đức tin mà tôi đã lãnh nhận cũng giống đức tin Chúa ban cho mọi con cái Chúa. Nhưng tôi sống đức tin ấy trong nhiều tình tiết khó khăn. Những khó khăn ấy xem ra nhiều tín hữu cũng đã trải qua. Nhưng họ không nói ra.
Nếu hôm nay, tôi nói ra đôi chút, thì thiết tưởng đó cũng là tiếng nói chung của sự thinh lặng. Sự thinh lặng như một hiện diện làm chứng và hiệp thông của tôi và của nhiều người.
Nhìn lại con đường sống đức tin trong lòng Quê Hương và Hội Thánh, tôi thấy đức tin của tôi và của nhiều người đã mang mấy điều sau đây.
Sự sợ hãi trong đời sống đức tin của nhiều người chúng tôi là một sự thật nên nói ra. Bởi vì tin trong sợ hãi là điều xấu.
Ta hãy nhớ lại sự sợ hãi của tiên tri Êlia. Vì sợ bà hoàng hậu Ideven, tiên tri Êlia đã đi đi trốn. Ban đầu ông trốn vào sa mạc, rồi đi suốt 40 ngày đêm cho tới núi Khôrep. Lúc thì ông ngủ dưới gốc cây, lúc thì ông ngủ trong hang ( x 1V 19, 3- 9). Êlia là tiên tri, mà còn sợ hãi đến mức đó.
Nếu cần thêm một minh chứng nữa về sự sợ hãi trong đức tin, chúng ta có thể nhìn lại các tông đồ Chúa Giêsu. Ở vườn cây dầu, khi thấy Thầy mình bị bắt, các ngài quá sợ, đã chạy thoát thân ( x Mc 14, 50). Sau khi Chúa phục sinh, các tông đồ vần còn sợ. Họ họp nhau trong phòng đóng kín cửa ( x Ga 20, 19).
Còn chúng ta, khi gặp nhiều trường hợp khó khăn, có người như cảm thấy mất hết các điểm tựa quen thuộc. Đức tin bấy giờ như chiếc xuồng nhỏ trôi giữa biển cả sóng cao gió mạnh. Trong sợ hãi đức tin chúng tôi đã chỉ còn biết tìm về một mình Chúa mà thôi. Và Chúa đã đến như Đấng Cứu độ đầy tình thương xót.
Đức tin của chúng tôi không những đã trải qua nhiều sợ hãi, mà cũng đã nếm nhiều đau khổ. Những đau khổ lớn nhất là do thử thách về sự vâng phục ý Chúa.
Để dễ hiểu khía cạnh này, chúng ta có thể nhắc đến trường hợp ông Abraham. Ngài được Chúa dạy phải sát tế con mình là Isaac ( x St 22, 1-19). Một gương vâng lời nữa gây nhiều đau khổ là trường hợp Đức Mẹ Maria. Mẹ vâng lời Chúa, nhưng vâng lời đó sẽ là một lưỡi gươm đâm thâu tâm hồn Mẹ ( x Lc 2, 35).
Vâng lời của nhiều người chúng tôi cũng đã gây nên những mất mát. Chúng tôi vâng lời, mà không biết sự gì sẽ xảy ra, và mình sẽ được lợi gì. Phép lành của Chúa không được hứa hẹn. Cái hợp lý không xuất hiện với những lý luận tự nhiên. Sự vâng lời như dồn mình tới tận cùng giới hạn sự am hiểu, mà mình cho là sáng suốt.
Nhưng khi đức tin chịu vâng phục ý Chúa với sự chấp nhận hy sinh, thì con người chúng tôi đã khám phá ra rằng : Đời sống đức tin không thể tách rời khỏi sự vâng phục ý Chúa. Đó là một mầu nhiệm. Chính ở điểm đó mà nhiều người chúng tôi mới trở thành chứng nhân âm thầm của đức tin.
Ngoài đau khổ và sợ hãi, đức tin của chúng tôi còn mang dấu ấn của sự cô đơn.
Hình ảnh sống động nhất về sự cô đơn là hình ảnh Chúa Giêsu trên thánh giá. Lời Người kêu thảm thiết : “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con”( x Mc 15, 34) diễn tả một sự cô đơn khủng khiếp.
Trong các người tin theo Chúa, không thiếu người đã trải qua những trường hợp cô đơn ghê sợ. Hoài nghi tiếp nối hoài nghi. Nhưng hoài nghi lại nuôi đức tin. Rồi đức tin lại nở sinh những hoài nghi mới. Con người sống đức tin như bị rơi vào con đường hầm tăm tối. Họ cầu nguyện, nhưng cảm thấy quá khô khan. Họ tìm Chúa, nhưng cảm thấy như Chúa vắng mặt. Họ nhìn xung quanh xem có ai tin được, nhưng hình như mọi người đều dửng dưng xa tránh.
Nếu ai hỏi họ tại sao đức tin họ lại cô đơn, thì họ không cắt nghĩa được. Và đó là cảnh cô đơn mênh mông rùng rợn. nếu hỏi họ cô đơn nào nguy hiểm nhất ? Thì đôi khi họ chỉ nói trống là : Từ nội bộ. Và đó là sự nghịch lý chua chát, mà thánh Gioan đã nói ngay ở đầu Phúc âm của Ngài ( x Ga 1,11).
Xã hội và Giáo hội là chiến trường giữa thiện và ác. Khi não trạng coi trọng của cải danh vọng hơn đức tin đức ái phát triển mạnh ở đó, thì những ai đi ngược lại sẽ bị cô đơn. Sự cô đơn của đức tin thường hay bén nhạy. Nó cũng dễ đưa con người tới những suy tư về ý nghĩa cuộc đời và các biến cố. Những suy tư như thế là cửa mở ra về cõi đời đời.
Với “Tiếng nói của sự thinh lặng” trên đây, tôi muốn nói lên cảm tưởng này của tôi là : Đức tin ví được như một viên ngọc quý Chúa ban. Viên ngọc quý này sẽ phải được giữ gìn, và sẽ được sáng lên nhờ những thử thách. Có nhiều thử thách, nhưng nên để ý nhiều hơn đến sợ hãi đau khổ và cơ đơn. Vì thế, việc mà Chúa muốn chúng ta thực hiện không phải là tránh được những thử thách đó. Hành trình sống đức tin như thế sẽ phác hoạ lại lời thánh tông đồ Phaolô xưa :
“ Kho tàng ấy, chúng ta lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi. Chúng tôi bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang, nhưng không tuyệt vọng; bị ngược đãi, nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt.
Chúng tôi luôn mang trong thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống cũng biểu lộ nơi thân mình chúng tôi” ( x 2 Cr 4, 7- 10).
Với nhận thức trên đây, tôi xin tạ ơn Chúa vì hành trình đức tin. Dù trong thing lặng, hành trình ấy chính là những vượt qua, nhờ cuộc thương khó của Chúa Giêsu là mục tử nhân lành. Người luôn ở trong đời sống chúng ta.
Xin âm thầm tạ ơn Chúa trong cõi thinh lặng.
Xin âm thầm tạ ơn Chúa với những người thinh lặng.
GM GB. Bùi Tuần
HIỆP THÔNG GIÁO HỘI
PAVIA. Chiều chúa nhật 22-4-2007, trong giai đoạn chót của chuyến viếng thăm mục vụ tại giáo phận Pavia, bắc Italia, ĐTC Biển Đức 16 đã kính viếng hài cốt thánh Augustino và chủ sự buổi hát kinh chiều trọng thể với các LM, tu sĩ nam nữ và chủng sinh của giáo phận này.
Pavía cách Milano, bắc Italia, 30 cây số về hướng nam. Giáo phận này hiện có 170 ngàn tín hữu Công Giáo, với 99 giáo xứ, do 140 LM triều và dòng phụ trách, 32 tu huynh, ngoài ra có 190 nữ tu và 9 đại chủng sinh. Tại đây có lưu giữ hài cốt thánh Augustino, người mà ĐTC Biển Đức 16 có lòng gắn bó đặc biệt. Ngài đã hoàn thành luận án tiến sĩ thần học năm 1953 về đạo lý của thánh nhân.
Lúc quá 5 giờ chiều chúa nhật 22-4-2007, khi đến Vương cung thánh đường Thánh Phêrô ở trên Trời Vàng, ĐTC đã dừng lại tại khuôn viên tu viện của dòng Augustino để làm phép viên đá đầu tiên xây cất Trung Tâm Văn Hóa Augustino ”Biển Đức 16”. Tiếp đó, ngài đã tiếng vào thánh đường trong sự tiếp đón nồng nhiệt của hàng trăm LM, tu sĩ và chủng sinh.
Trong Vương cung thánh đường, trước Mình Thánh Chúa và chiếc hòm quí giá đựng hài cốt Thánh Augustino được trưng bày trong dịp này, ĐTC đã chủ sự buổi hát kinh chiều trọng thể. Trong bài giảng, ĐTC tâm sự rằng:
”Trong lúc kết thúc này, cuộc viếng thăm của tôi tại Pavía có hình thức một cuộc hành hương. Đó là hình thức ban đầu tôi đã quan niệm, khi mong muốn đến đây để viếng hài cốt thánh Augustino, để bày tỏ sự tôn kính của toàn thể Giáo Hội Công Giáo đối với một trong các giáo phụ lớn nhất, cũng như để bày tỏ lòng sùng mộ của bản thân và lòng biết ơn của tôi đối với vị đã ảnh hưởng rất lớn đới cuộc sống của tôi như một nhà thần học và một mục tử, nhưng trước hết, như một ngừơi và một linh mục.”
”Chúa Quan phòng muốn cho cuộc hành trình của tôi có tính chất mục vụ đích thực, vì thế, trong buổi cầu nguyện này, cạnh mộ của vị Tiến Sĩ Ơn Thánh, tôi muốn tóm lại đây một sứ điệp ý nghĩa cho hành trình của Giáo Hội. Sứ điệp này đến từ gặp gỡ giữa Lời Chúa và kinh nghiệm bản thân của vị đại GM thành Hippone.”
ĐTC cũng nhấn mạnh rằng: ”Anh chị em thân mến, tại đây, trước mộ của thánh Augustinô, tôi muốn tái phó thác cho Giáo Hội và toàn thế giới thông điệp đầu tiên của tôi, trong đó có chứa đựng sứ điệp nòng cốt này của Tin Mừng: Deus caritas est, Thiên Chúa là tình thương (1 Gv 4,8.19). Thông điệp này, nhất là trong phần thứ I, phần lớn chịu ảnh hưởng của tư tưởng thánh Augustino, là người đã cảm mến Tình Yêu Thiên Chúa, và ca tụng, suy niệm, rao giảng trong tất cả các tác phẩm của Người, và nhất là đã làm chứng trong sứ vụ mục tử của Người.
”Sứ điệp mà ngày nay thánh Augustino còn lập lại cho toàn thể Giáo Hội, và đặc biệt là cho cộng đồng giáo phận này, đang kính cẩn bảo tồn hài cốt của thánh nhân, đó là: Tình Yêu chính là linh hồn của đời sống và hoạt động mục vụ của Giáo Hội”.
Và ĐTC nhắn nhủ rằng: ”Theo vết thánh Augustino, anh chị em cũng hãy trở thành một Giáo Hội chân thành loan báo Tin Mừng của Chúa Kitô, đề nghị của Ngài về đời sống, sứ điệp hòa giải và tha thứ của Ngài. Tôi đã thấy rằng mục tiêu mục vụ đầu tiên của anh chị em là dẫn đưa con người đến sự trưởng thành theo Kitô giáo. Tôi đánh giá cao ưu tiên này được dành cho việc đào tạo nhân sự, vì Giáo Hội không phải chỉ là một tổ chức với những hoạt động tập thể, hay là một tập thể những cá nhân sống đạo đức riêng tư. Giáo Hội là một cộng đồng những người tin nơi Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô và dấn thân sống giới răn yêu thương mà Chúa đã để lại cho chúng ta, giữa lòng thế giới. Vì thế, Giáo Hội là một cộng đồng trong đó có sự giáo dục về tình yêu, và sự giáo dục này được thực thi qua những biến cố của cuộc sống”.
Sau buổi hát kinh chiều, ĐTC còn chào thăm cộng đoàn thánh Augustino, các đại diện chính quyền và các ân nhân của các cha dòng Thánh Augustino. Ra khỏi tu viện, ngài còn dừng lại chào thăm các em bé và tươi cười nói rằng: ”Các con thân mến, thật là một niềm vui lớn đối với Cha được thấy các con ở đây, cầu nguyện cho cha, và cha cũng cầu cho các con nữa”.
G. Trần Đức Anh OP
Rome (Zenit ZE07042405 - 24/04/2007) - Ðức Giám Mục Tổng Thư Ký Hội Ðồng Tòa Thánh về Công Lý Hòa Bình cho biết, đã có thể mở đầu lập Hồ Sơ Phong Chân Phước cho Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, vì thời gian đã đủ 5 năm theo quy định của Giáo Hội, kể từ ngày ngài qua đời.
Ðức Cha Giampaolo Crepaldi đã thông báo như trên trong buổi giới thiệu tập sách của Ðức Hồng Y Camillo Ruini với tựa đề: "Sự Thật của Thiên Chúa và Sự Thật của con người: Ðức Beneđitô XVI và những thắc mắc lớn lao trong thời đại của chúng ta".
Tập sách này được xuất bản như là một phần trong những loạt bài của Tạp Chí Quan Sát Quốc Tế mang tên Ðức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận (Cardinal Van Thuan International Observatory Journals).
Ðức Cha Crepaldi giải thích: "Tập sách này làm cho tôi nghĩ đến từ ngữ Sự Thật - của Thiên Chúa và của con người - mà Ðức Hồng Y Ruini đã nhắc đến trong tập sách của ngài; và cũng làm cho tôi nghĩ đến từ ngữ Hy Vọng, mà Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận thân yêu của chúng ta thường nói đến, qua đời sống tu đức của ngài và như một chứng nhân sống động trong suốt đời sống Kitô hữu của ngài."
Ðức Cha Crepaldi, người đã từng làm việc với Ðức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, và cũng là chủ tịch của Tổ Chức Quan Sát Quốc Tế mang tên Ðức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận (Cardinal Van Thuan International Observatory), đã giải thích như sau: "Sự Thật và Hy Vọng có một liên kết sâu sắc với nhau. Sự thông hiểu về Ðức Tin làm cho tôi nhận ra cách chắc chắn về sự thật, cho dù là từ chối hay chấp nhận, đều nói lên một ơn gọi và nhờ đó mang đến hy vọng."
Ðức Cha Crepaldi cũng nói nhiều đến những liên hệ giữa nội dung của tập sách và cuộc đời của Ðức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, ngài nói rằng, "Thật là có ý nghĩa vào dịp này vì năm nay là năm kỷ niệm 5 năm ngày qua đời của ngài, thời gian đã đủ để bắt đầu hồ sơ phong chân phước cho ngài. Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận qua đời ngày 16 tháng 9 năm 2002".
Ðức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, sinh ngày 17/04/1928 tại Phú Cam, Huế. Thụ phong Linh Mục ngày 11/06/1953 tại Huế. Ðược bổ nhiệm làm Giám Mục Giáo Phận Nha Trang ngày 13/04/1967 và được thụ phong Giám Mục vào ngày 24/06/1967 tại Nha Trang.
Năm 1975, Ðức Thánh Cha Phaolô VI bổ nhiệm ngài làm Tổng Giám Mục Phó của Tổng Giáo Phận Saigòn.
Sau khi Miền Nam Việt Nam bị chiếm đóng bởi chế độ Cộng Sản, ngài bị nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam bắt giữ và bị giam tù 13 năm. Trong thời gian này, ngài bị biệt giam 9 năm trong phòng giam kín.
Năm 1988 ngài được trả tự do và sau đó được đi Rôma viếng Tòa Thánh, nhưng sau đó nhà nước Việt Nam không cho phép ngài trở về lại Việt Nam. Ngày 9/04/1994 Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã bổ nhiệm ngài giữ chức vụ Phó Chủ Tịch Hội Ðồng Tòa Thánh về Công Lý Hòa Bình và ngày 24/06/1998 bổ nhiệm ngài giữ chức vụ Chủ Tịch Hội Ðồng Tòa Thánh về Công Lý Hòa Bình.
Vào tháng 3 năm 2000, Ðức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận đã giảng phòng Mùa Chay cho Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II và Giáo Triều. Ngài đã chia sẻ với mọi người về đời sống chứng nhân của ngài ở trong tù. Những bài giảng này đã được xuất bản thành tập sách với tựa đề "Chứng Nhân Hy Vọng".
Vào Ngày 21 tháng 2 năm 2001, ngài đã được Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II thăng tước Hồng Y.
Hơn một năm sau, vào ngày 16 tháng 9 năm 2002, ngài đã qua đời, hưởng thọ 74 tuổi.
Joseph Trương
Chư Huynh đáng kính trong hàng giám mục,
Anh chị em thân mến,
Hằng năm ngày Quốc Tế Cầu Nguyện cho Ơn Gọi là dịp tốt để làm nổi bật tầm quan
trọng của ơn gọi trong đời sống và sứ mạng của Giáo Hội, và là dịp thuận tiện để
gia tăng cầu nguyện cho các ơn gọi được thêm nhiều và có phẩm chất. Vào ngày cử
hành sắp tới, tôi muốn toàn thể dân Chúa chú ý đến chủ đề thật thời sự như sau:
Ơn Gọi là để phục vụ cho Giáo Hội Hiệp Thông.
Năm vừa qua, mở đầu loạt bài giáo lý mới trong những buổi tiếp kiến chung sáng thứ Tư, nói về tương quan giữa Chúa Kitô và Giáo Hội, tôi đã lưu ý rằng cộng đoàn kitô đầu tiên đã được thiết lập, nơi nhóm nhỏ nguyên thuỷ, khi vài người thuyền chài ở miền Galilêa, gặp Chúa Giêsu và để cho cái nhìn của Người thu phục, và để cho giọng nói của Người thuyết phục và chấp nhận lời mời gọi khẩn thiết: "Hãy theo Ta, và Ta sẽ làm cho anh em trở thành những kẻ lưới cá con người!" (Mc 1,17; x. Mt 4,19). Thật vậy, Thiên Chúa đã luôn chọn vài người để cộng tác trực tiếp hơn với Ngài, trong việc thực hiện ý định cứu rỗi của Ngài. Trong Cựu Ước, vào khởi đầu, Chúa đã chọn Ông Abraham để thành lập một "dân tộc đông đúc" (Stk 12,2); và tiếp đó, Ngài đã chọn Ông Môisen để giải phóng dân Israel khỏi cảnh làm nô lệ bên Aicập (x. Xh 3,10). Sau đó, Thiên Chúa đã chỉ định vài nhân vật khác nữa, đặc biệt là các tiên tri, để bảo vệ và duy trì giao ước với dân Ngài được luôn sống động. Trong Tân ước, Chúa Giêsu, Ðấng Thiên Sai được hứa trước, đã mời gọi cách riêng những tông đồ hãy ở lại sống với Người (x. Mc 3,14) và chia sẻ sứ mạng của Người. Trong bữa tiệc ly, khi trao phó cho các ông trách vụ tiếp tục cử hành việc tưởng niệm cái chết và sự sống lại của Người, cho đến khi Người trở lại trong vinh quang vào lúc kết thúc lịch sử, thì Chúa Giêsu đã khẩn cầu tha thiết Thiên Chúa Cha cho các tông đồ như sau: "Con đã làm cho họ biết được Danh Cha và con sẽ làm cho họ biết thêm nữa, ngõ hầu tình yêu mà Cha yêu thương Con được hiện diện trong họ và Con trong họ" (Gn 17,26). Sứ mạng của Giáo Hội được thiết lập trên sự hiệp thông sâu xa và trung thành với Thiên Chúa.
Hiến Chế về Giáo Hội, Ánh Sáng Muôn Dân, của Công Ðồng Vaticanô II, mô tả giáo hội như là "một đoàn dân được quy tụ lại nên một do bởi sự hiệp nhất của Ba Ngôi Thiên Chúa, Cha, Con và Thánh Thần" (số 4); và trong đoàn dân này có phản chiếu chính mầu nhiệm Thiên Chúa. Ðiều nầy đòi buộc rằng trong Giáo Hội, hiểu như là Dân Thiên Chúa, có phản chiếu Tình Yêu Ba Ngôi và cũng đòi buộc rằng, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, tất cả mọi thành phần giáo hội kết thành "một thân thể và một tinh thần duy nhất" trong Chúa Kitô. Nhất là khi Dân Chúa này quy tụ lại để cử hành Thánh Thể, một đoàn dân được tổ chức chặt chẽ dưới sự hướng dẫn của các chủ chăn, một đoàn dân sống mầu nhiệm hiệp thông với Thiên Chúa và với anh chị em. Bí Tích Thánh Thể là nguồn mạch của sự hiệp nhất giáo hội mà Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho, vào lúc sắp bước vào cuộc thương khó: "Lạy Cha,... ước chi họ được nên một trong chúng ta, ngõ hầu thế gian tin rằng Cha đã sai Con vào thế gian" (Gn 17, 21). Sự hiệp nhất sâu xa này cổ võ trổ sinh nhiều ơn gọi quảng đại, để phục vụ Giáo Hội: một khi có đầy tràn tình yêu Thiên Chúa, thì tâm hồn người tín hữu được thôi thúc dấn thân hoàn toàn cho công cuộc Nước Chúa. Ðể cổ võ ơn gọi, điều quan trọng là có một mục vụ biết chú ý đến mầu nhiệm Giáo Hội - như Hiệp Thông, bởi vì ai nào sống trong một cộng đoàn giáo hội hoà thuận, đồng trách nhiệm, biết tiên liệu chăm sóc cho nhau, thì chắc chắn người đó sẽ dễ dàng học biết cách phân định lời mời gọi của Chúa. Việc chăm sóc cho các ơn gọi đòi hỏi "một sự huấn luyện" liên lỉ để lắng nghe tiếng Chúa, như tiên tri Êli đã làm, để giúp cho cậu bé Samuel hiểu điều Thiên Chúa muốn nơi cậu, và giúp cho cậu thực hiện nó một cách mau mắn (x. 1 Samuel 3,9). Giờ đây sự lắng nghe đầy vâng phục và trung thành chỉ có thể có được trong bầu khí hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa. Và điều nầy được thực hiện nhất là trong việc cầu nguyện. Theo mệnh lệnh rõ ràng của Chúa, chúng ta cần phải khẩn cầu Thiên Chúa thương ban những ơn gọi, trước tiên bằng việc cùng nhau cầu nguyện không mệt mỏi với Ðấng là "chủ mùa gặt". Lời mời gọi được nói lên trong hình thức số nhiều: "Chúng con hãy cầu xin vị Chủ Mùa Gặt, xin Ngài sai đến những thợ đến gặt lúa" (Mt 9,38). Lời mời gọi này của Chúa quả thật tương xứng với cách thức của lời kinh "Lạy Cha chúng con" (Mt 6,9), lời cầu nguyện mà Chúa đã dạy chúng ta, và là lời "tổng hợp trọn cả Tin Mừng", theo cách nói rõ ràng của giáo phụ Tertullianô (x. De Oratione, 1,6: CCL 1,258). Trong chìa khóa để đọc hiểu điều này, còn có lời nói đầy ý nghĩa khác nữa của Chúa Giêsu như sau: "Nếu hai người trong chúng con trên mặt đất này đồng ý với nhau để xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy trên trời sẽ ban điều đó cho chúng con" (Mt 18,19). Ðấng chăn chiên nhân lành mời gọi chúng ta hãy cầu xin Cha trên trời, hãy cầu nguyện hiệp nhất với nhau và cách khẩn thiết, ngõ hầu Cha trên trời sai đến những ơn gọi để phục vụ Giáo Hội Hiệp Thông.
Thu nhận kinh nghiệm mục vụ của những thế kỷ đã qua, Công Ðồng Vaticanô II đã
làm nổi bật tầm quan trọng của việc huấn luyện những linh mục tương lai sống sự
hiệp thông giáo hội đích thực. Về điểm này, chúng ta đọc trong sắc lệnh về Huấn
Luyện Linh Mục, Presbyterorum Ordinis, như sau: "Khi thi hành tác vụ của
Chúa Kitô, Thủ lãnh và Mục Tử, và theo quyền được trao ban cho, các linh mục,
nhân danh Giám Mục, quy tụ gia đình của Thiên Chúa, như một cộng đồng huynh đệ
sinh hoạt trong sự hiệp nhất; nhờ qua Chúa Kitô, các linh mục hướng dẫn gia đình
Thiên Chúa này đến với Thiên Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần" (số 6). Tông huấn
hậu thượng hội đồng giám mục về các chủ chăn, "Pastores Dabo Vobis", đã làm vọng
lại quả quyết trên của Công Ðồng; tông huấn nhấn mạnh rằng linh mục là "kẻ phục
vụ cho giáo hội hiệp thông, bởi vì - trong sự hiệp nhất với giám mục và trong
tương quan chặt chẽ với linh mục đoàn - linh mục xây dựng sự hiệp nhất của cộng
đoàn giáo hội trong sự hoà hợp của nhiều ơn gọi khác nhau, của nhiều đoàn sủng
và nhiều việc phục vụ khác nhau." (số 16). Ðiều cần thiết là bên trong nội bộ
của Dân Kitô, mọi thừa tác vụ và đoàn sủng đều hướng đến sự hiệp thông trọn vẹn;
đức giám mục và các linh mục có trách nhiệm cổ võ sự hiệp thông này, trong sự
hoà hợp với mỗi ơn gọi và việc phục vụ khác nhau trong giáo hội. Ðời tận hiến,
chẳng hạn, trong tính cách riêng biệt của nó, cũng là để phục vụ cho sự hiệp
thông này, như được làm nổi bật trong Tông Huấn hậu thượng hội đồng giám mục về
Ðời Tận Hiến (Vita Consecrata) của vị tiền nhiệm tôi, Ðức Gioan Phaolô
II, như sau: "Ðời tận hiến chắc chắn có công vì đã đóng góp hữu hiệu để giữ luôn
sống động trong giáo hội sự đòi buộc của tình huynh đệ, như là lời tuyên xưng
Chúa Ba Ngôi. Với việc liên lỉ cổ võ cho tình thương huynh đệ, cả trong hình
thức đời sống chung, đời tận hiến mạc khải cho biết rằng sự tham dự vào sự hiệp
thông Ba Ngôi Thiên Chúa có thể làm thay đổi những tương quan giữa con người,
vừa sáng tạo ra một kiểu mẫu mới của tình liên đới" (số 41).
Trung tâm của mọi cộng đoàn kitô là Bí Tích Thánh Thể, nguồn mạch và chóp đỉnh
của đời sống giáo hội. Nếu sống nhờ qua Bí Tích Thánh Thể, thì kẻ dấn thân phục
vụ Tin Mừng sẽ tiến tới trong tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với anh chị em,
và góp phần xây dựng giáo hội như sự hiệp thông. Chúng ta có thể quả quyết rằng
"tình yêu thánh thể" thôi thúc và thiết lập nền tảng cho hoạt động mục vụ ơn gọi
trong toàn thể giáo hội, bởi vì, như tôi đã viết trong thông điệp Thiên Chúa là
Tình Yêu, Deus Caritas Est, ơn gọi linh mục và ơn gọi cho những thừa tác vụ và
những việc phục vụ khác, trổ sinh phong phú trong Dân Chúa, tại bất cứ nơi nào
có những con người mà trong đó Chúa Kitô được biểu lộ ra qua Lời Chúa, trong các
bí tích, và nhất là trong bí tích Thánh Thể. Và điều này, là bởi vì "trong phụng
vụ của Giáo Hội, trong lời cầu nguyện của Giáo Hội, trong cộng đoàn sống động
các tín hữu, chúng ta cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa, chúng ta nhận ra sự
hiện diện của Chúa và chúng ta học biết cách nhận ra sự hiện diện này trong cuộc
sống thường ngày. Thiên Chúa là Ðấng trước tiên đã yêu thương chúng ta và tiếp
tục yêu thưong chúng ta trước; vì thế chúng ta có thể đáp lại bằng tình yêu."
(số 17).
Cuối cùng chúng ta chạy đến với Mẹ Maria, Ðấng đã nâng đỡ cộng đoàn đầu tiên
trong đó tất cả đều hiệp nhất với nhau và họp nhau thường xuyên để cầu nguyện"
(x. TDCV 1,14), xin Mẹ giúp cho Giáo Hội trở nên trong thế giới hôm nay một
"hiện ảnh của Ba Ngôi Thiên Chúa", trở nên dấu chỉ hùng hồn của tình yêu Thiên
Chúa đối với tất cả mọi người. Nguyện xin Ðức Nữ Ðồng Trinh, Ðấng đã mau mắn đáp
lại lời mời gọi của Thiên Chúa Cha khi thưa: "Này Tôi đây là nữ tì của Chúa" (
Lc 1,38), xin Mẹ khẩn cầu cho chúng ta ngõ hầu không bao giờ bị thiếu đi trong
Dân Chúa những kẻ phục vụ cho niềm vui thần thiêng: không bao giờ bị thiếu đi
những linh mục, trong sự hiệp thông với giám mục của họ, biết trung thành rao
giảng Tin Mừng và cử hành các bí tích, biết chăm sóc Dân Chúa và sẵn sàng rao
giảng Phúc âm cho toàn thể nhân loại. Xin Mẹ hãy làm sao cho trong thời đại
chúng ta được gia tăng con số những kẻ tận hiến, những kẻ sống ngược dòng đời,
sống những lời khuyên phúc âm khó nghèo, khiết tịnh và vâng lời, và làm chứng
một cách tiên tri cho Chúa Kitô và cho sứ điệp cứu rỗi của Chúa, một sứ điệp đầy
sức giải phóng.
Anh chị em thân mến mà Chúa đã gọi theo những ơn gọi khác biệt nhau trong giáo
hội, tôi muốn phó dâng đặc biệt anh chị em cho Mẹ Maria, bởi vì, hơn ai hết, Mẹ
hiểu rõ ý nghĩa của Lời Chúa Giêsu: "Mẹ Ta và anh em Ta, chính là những ai lắng
nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành Lời đó" (Lc 8,21), xin Mẹ dạy anh chị em
biết lắng nghe Con Thiên Chúa và là Con của Mẹ. Nguyện xin Mẹ trợ giúp anh chị
em nói lên bằng chính đời sống mình lời thưa: "Lạy Chúa, này con đây, con xin
đến để thi hành thánh ý Chúa" (x. Dt 10,7). Với những ước mong trên, tôi bảo đảm
nhớ đến mọi người trong lời cầu nguyện và chân thành ban Phép lành cho tất cả.
Từ Vatican, ngày 10 tháng 2 năm 2007
+ Bênêđitô XVI Giáo Hoàng.
Lm Đặng Thế Dũng
THÁNG NĂM VỚI GIÁO PHẬN PHAN THIẾT
1. Hai ngày đặc biệt
Trong bức THƯ CHUNG ngày 17 tháng 4 năm 2007, gởi toàn thể Giáo phận, Đức Cha Phaolô Nguyễn Thanh Hoan, Giám Mục Phan Thiết đã viết:
Chúng ta sắp bước qua tháng Năm với hai ngày đặc biệt của giáo phận: ngày sinh nhật Đức Cha NICOLAS và ngày lễ tạ ơn Đức Mẹ Tà Pao.
- Ngày 01 tháng 5 năm 2007 là ngày sinh nhật thọ Bát tuần của Đức Cha NICOLAS (01.5.1927 – 01.5.2007). Đức Cha NICOLAS vừa là vị Giám Mục tiên khởi của giáo phận, vừa là người có công đặt nền móng cơ sở tinh thần và vật chất cho giáo phận. Công lao của vị cha chung thật lớn lao đối với giáo phận. Mặt khác, với hình ảnh đức độ - tài cao, với bản chất hiền lành, kiên nhẫn chịu đựng của vị mục tử nhân lành nơi ngài chính là tấm gương sán lạn để chúng ta noi theo.
Nhân dịp này, tôi cùng quý Cha trong giáo phận muốn tổ chức một ngày biết ơn để tỏ lòng hiếu thảo, yêu mến với vị cha chung. Nhưng vì sức khoẻ của ngài quá giới hạn, ngài cảm thấy không thể tham dự một ngày nhiều lễ nghi; và ngài chỉ bằng lòng cho chúng ta cầu nguyện cho ngài cách đặc biệt là đủ.
Vậy, đề nghị quý Cha, quý Tu sĩ, Chủng sinh và toàn thể anh chị em trong giáo phận dành một tuần lễ từ ngày 23.4.2007 – 01.5.2007 để cầu nguyện cho ngài. Anh chị em hãy siêng năng tham dự Thánh lễ, các giờ Chầu và dâng những việc hy sinh bác ái hằng ngày, nguyện xin Chúa ban cho ngài được một tuổi già bình an và phó thác.
Riêng vào ngày 01 tháng 5 năm 2007, xin mời quý Cha, quý Tu sĩ nam nữ, Chủng sinh trong giáo hạt Phan Thiết và những nơi xa hơn nếu có thể đến tham dự Thánh lễ đồng tế lúc 05 giờ 00 tại nhà nguyện Tòa Giám Mục để cầu nguyện và mừng lễ Đức Cha trong tinh thần đơn sơ như ý ngài.
- Ngày quan trọng thứ hai là ngày tạ ơn Đức Mẹ Tà Pao: 13 tháng 5 năm 2007.
Từ ngày khởi công xây dựng công trình Đức Mẹ Tà Pao (08,01.2007) đến nay, mọi công việc diễn tiến rất tốt đẹp và chúng tôi dự kiến ngày 13 tháng 5 năm 2007 sẽ hoàn tất và cũng lấy ngày này làm lễ tạ ơn Mẹ, trùng vào ngày hiện ra lần đầu tiên với ba trẻ ở Fatima năm 1917.
Cũng xin nhắc lại đôi nét về tình hình xây dựng trong thời gian qua để anh chị em được chia sẻ: tượng đài Đức Mẹ cách mặt đất 70m theo chiều thẳng đứng tính từ chân núi đến tượng; chiều dài từ chân núi (bậc cấp thứ 1) lên tới tượng Mẹ khoảng 237m với 429 bậc cấp.
Tổng số công (chính và phụ) đến ngày khánh thành là trên 15,000 công. Trong đó hơn một nửa số công do anh chị em của các giáo xứ trong giáo phận, gần nửa kia là công tự nguyện của anh chị em dân tộc K Ho vùng Bảo Lộc Lâm Đồng. Đặc biệt, trong số những anh em này có nhiều người không phải là Công giáo. Nhưng trong thời gian giúp xây dựng công trình Mẹ đã có trên 100 người xin gia nhập giáo hội Công giáo; số người tìm hiểu còn nhiều nữa. Họ gọi Đức Mẹ là “Bà Chúa” rất thương họ.
Để tỏ lòng con thảo biết ơn Mẹ đã dành cho giáo phận một hồng ân đặc biệt, Mẹ dùng Tà Pao như trường học đức tin và là nơi Mẹ tiếp tục chuyển lòng thương xót Chúa đối với những ai đau khổ trên đời; chúng ta tổ chức lễ tạ ơn vào lúc 9 giờ 00 ngày 13 tháng 5 năm 2007, dưới chân núi Tà Pao, nhằm ngày Chúa Nhật VI Phục sinh.
Vậy kính mời quý Cha, quý Tu sĩ nam nữ, Chủng sinh và anh chị em tới tham dự.
Chương trình lễ như sau:
Ngày 12.5.2007
-16 giờ 00 – 18 giờ 00: Suy niệm Đường Thánh Giá, lần Chuỗi Mân Côi.(trên đường từ chân núi đến tượng Mẹ)
- 20 giờ 00 – 22 giờ: Diễn nguyện canh thức tại lễ đài
Ngày 13.5.2007
- 9 giờ 00: Thánh lễ đồng tế (tại lễ đài)
2. Tâm tình dâng Mẹ Tàpao.
Xưa nay Giáo hội vốn tôn kính Đức Mẹ dưới nhiều tước hiệu, đi liền với những đặc ân Chúa ban cho Đức Mẹ:
Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa
Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội
Đức Mẹ đồng trinh trọn đời
Đức Mẹ hồn xác l ên trời
Ngoài ra, lại có những danh hiệu gắn liền với những địa danh, Đức Mẹ muốn dùng để làm nơi gặp gỡ con cái của Mẹ một cách đặc biệt như:
Đức Mẹ La Sa-Lét 1846 (Pháp)
Đức Mẹ Lộ Đức 1858 (Pháp)
Đức Mẹ Fatima 1917 (Bồ Đào Nha)
Đức Mẹ Gua Đa Lu-Pê 1900 (Mỹ Châu)
Ở Việt Nam chúng ta có:
Đức Mẹ La Vang (1798)
Đức Mẹ Trà Kiệu (1898)
Riêng Giáo phận Phan thiết được vinh dự đón nhận Đức Mẹ với một tôn danh Đức Mẹ là Mẹ Tàpao.
Thánh tượng Đức Mẹ Tàpao là một trong năm thánh tượng Đức Mẹ được đặt tại những địa điểm khác nhau từ Miền Trung, Miền Nam và Cao nguyên Trung phần vào năm 1959.
Ngày 8.12.1959, Đức Cha Marcello Piquet, Giám mục Giáo phận Nha trang, đã làm phép trọng thể và Khánh thành tượng đài Đức Mẹ Tàpao, với sự hiện diện của đông đảo linh mục, tu sĩ và hàng chục ngàn tín hữu, phần lớn gốc di cư từ Huế, Nha Trang, Ban Mê Thuột, đồng bằng sông Cửu long.
Từ năm 1964 đến năm 1975, vì chiến tranh, dân chúng di tản, nên Tượng đài Đức Mẹ Tàpao không ai chăm sóc và dường như bị lãng quên…
Sau năm 1975, vào tháng 10 năm 1980, một số bà con giáo dân thuộc vùng Kinh tế mới xã Đức Tân và xã Huy Khiêm đã tiến hành việc kiếm tìm lại Tượng Đài Đức Mẹ Tàpao. Khoảng Phục Sinh năm 1989, một số giáo dân xứ Nghị Đức và Huy Khiêm âm thầm thăm viếng Tượng Đài Mẹ và phát hiện thaáy: đầu, tay, chân, Thánh Tượng không còn nguyên vẹn. Khoảng cuối tháng 6 năm 1991, nhận dịp lễ kính hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô, những anh em này được sự cho phép và cổ vũ của Đức Giám Mục Phan Thiết bấy giờ là Đức Cha Nicolas Huỳnh Văn Nghi, đã đến đắp vá và sửa sang lại Thánh Tượng Mẹ. Công trình hoàn tất ngày 30.7.1991.
Kể từ ngày 01.8.1991, Thánh Tượng Mẹ Tàpao lại được thượng tôn trên núi Tàpao, thuộc Huyện Tánh Linh, Tỉnh Bình thuận, để ai ai cũng có thể chiêm ngắm và được Mẹ ban nhiều ơn lành hồn xác.
Khoảng đầu năm 2000, sau thời gian theo doõi và được biết ở Tàpao thuộc huyện Tánh Linh, Tỉnh Bình thuận có tượng đài Đức Mẹ trên núi Tàpao, đoàn người từ nhiều nơi đổ xô về Đức Mẹ Tàpao để chiêm ngắm, cầu nguyện và xin ơn…Và rồi cuõng từ đó, biết bao ơn lạ - hầu như phép lạ nào được thuật lại như những chứng từ ân sủng Thiên Chúa ban qua lời chuyển cầu của Đức Mẹ Tàpao. Ơn lạ đáng kể nhất là : nhờ lòng kính mến và thành tâm khẩn nguyện cùng Mẹ Tàpao mà bao nhi êu linh hồn được ơn sám hối ăn năn, đổi mới cuộc đời quay về chính đạo, bao gia đình tan vỡ được hàn gắn hoà thuận, bao bệnh nh ân được lành mạnh, bao kẻ âu lo thất vọng được an ủi và lấy lại niềm tin yêu.
Điều đáng ngạc nhiên hơn cả phải chăng đó là:từ một địa điểm trước đây hầu như vô danh nay Tượng Đài Đức Mẹ Tàpao đã hiển nhiên trở thành một trung tâm hành hương chính thức, hàng ngày hàng tháng có hàng ngàn người từ khắp nơi đến với Mẹ để xin ơn cho bản thân, gia đình, xã hội giáo hội.
Đường hành hương kính viếng Đức Mẹ Tàpao quả là đường thánh giá. Từ chân núi lên tượng Mẹ biết bao là khó khăn vất vả. Đường lên dốc dác, đất đá trơn trượt phải bám từng bước mà leo. Đường xuống núi trơn tuột phải ghì từng bước chân mà bước. Dù mưa gió, dù tối tăm khách hành hương vẫn đến với Mẹ ngày đêm.
Lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng công trình Mẹ Tàpao ngày 13.8.2006. Và được khởi công ngày 8.1.2007. Đây là công trình của lòng tin và tinh thần đoàn kết trong và ngoài giáo phận. Tính đến ngày 13.4.2007, đã có 13.478 công lao động, trong đó có 7.247 công do các gia trưởng trong Giáo phận, 6.240 công do sự tham gia tự nguyện của anh chị em Dân tộc K ho từ Di linh, Bảo Lộc.
Công trình đợt I đã được hoàn thành: một con đường tam cấp dẫn lên tượng đài Mẹ có 429 bậc-rộng 2m, một lễ đài có mặt bằng 200m2, sẽ được khánh thành vào ngày 13.5.2007. Công trình Mẹ Tàpao vẫn còn được tiếp tục.
Quả thật Tàpao không phải là địa điểm do con người tạo ra. Tàpao là nơi Mẹ chọn để mọi người từ muôn phương đến được Mẹ bồi dưỡng bằng ơn lành hồn xác. Một khi đã đón nhận những ân ban, người ta được Mẹ mời gọi siêng năng lần chuỗi Mân Côi, cải thiện đời sống, tận hiến cho Mẹ, sống và loan bao Tin Mừng.
Đến với Mẹ Tàpao,hực hiện lời Mẹ dạy, sẽ không thất vọng bao giờ vì Mẹ Tàpao cũng là Mẹ Hằng cứu giúp
Lm Giuse Nguyễn Hữu An,
Phan thiết
ĐGM PHAOLÔ NGUYỄN VĂN HOÀ NÓI VỀ HIỆN TÌNH GIÁO HỘI VIỆT NAM
Los Angeles -- Vào trưa ngày Chúa Nhật hôm qua 22.4.2007, Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã dành cho VietCatholic một cuộc phỏng vấn để Ngài có dịp trả lời những câu hỏi liên quan tới: Mục đích chuyến đi thăm viếng Hoa Kỳ lần này của Ngài, về hiện tình giáo phận Nha Trang, đường lối của Hội Đồng GMVN trước những vấn đề như tự do tôn giáo, đất đai, cơ sở, và việc đào tạo chủng sinh, nhân sự cho Giáo Hội, những dự án tương lai..., đặc biệt những vấn đề nóng bỏng như vụ LM Nguyễn văn Lý bị xử và bị tù, cảm nghĩ của Đức Cha chủ tịch trước vấn đề tham gia chính trị, v.v...
Lm Nghị: Kính thưa Đức Cha chủ tịch, con rất hân hạnh ngày hôm nay được có dịp cho chúng con tiếp kiến với Đức Cha, nhân đây chúng con xin kính chào Đức Cha. Vậy trước hết xin Đức Cha cho chúng con biết mục đích của chuyến viếng thăm lần này là gì, thưa Đức Cha?
ĐC Hòa: Thưa cha, tôi được tổ chức Lòng Thương Xót Chúa mời tôi sang nhân dịp lễ Chúa Nhật Phục Sinh thứ 2. Lễ được tổ chức ở dòng Saint Patrick. Tôi đến để chủ sự thánh lễ và chia sẻ những điều, những tâm tình của chúng tôi đáp lại Lòng Thương Xót của Chúa. Tôi thấy đây là dịp rất tốt, cho nên tôi đã nhận lời và đã sang Hoa Kỳ lần này.
Lm Nghị: Cám ơn Đức Cha. Nhân dịp này Đức Cha có thể cho chúng con con biết qua về hiện tình của giáo phận Nha trang nơi Đức Cha đang làm việc có những gì tiến triển mới không thưa Đức Cha?
ĐC Hòa: Thưa cha, năm nay Giáo phận Nha trang mừng 55 thành lập Giáo phận cho nên cũng có những tổ chức đặc biệt, tỉ dụ như chúng tôi tổ chức triển lãm, bây giờ vẫn còn đang tiếp diễn và sẽ kéo dài cho đến tháng 7, là ngày chính thức tổ chức đỉnh cao Năm Thánh, mừng Kim khánh Giáo phận. Song song với công việc đó, sẽ hình thành cuốn kỷ yếu, rồi có các cuộc hành hương viếng nhà thờ chính tòa, để có dịp biết được đời sống chung của Giáo phận. Cùng với công việc về vật chất đó, chúng tôi cũng đã chuẩn bị cho biến cố 55 năm Giáo phận này, tôi đã gởi người đi học các nơi để có đủ nhân sự cho đại chủng viện cũng như các nhu cầu mục vụ khác trong Giáo phận. Có thể nói cho tới nay, theo tỉ lệ thì có lẽ là Giáo phận Nha Trang đã chuẩn bị nhiều nhất về phương diện nhân sự cho Giáo phận.
Lm Nghị: Thưa Đức Cha, Đức Cha có thể cho biết hiện nay có bao nhiêu linh mục hoặc nữ tu của Giáo phận đã du học và có trở ngại gì cho những tu sĩ này được đi ngoại quốc để du học không?
ĐC Hòa: Tôi gởi như vậy số linh mục cũng nhiều lắm. Hiện nay chúng tôi đã có một số linh mục học ở Paris, học ở Rôma, học ở Hoa kỳ, ở Philiphine. Một số linh mục đã về, một số còn đang tiếp tục học. Cùng với việc gởi linh mục du học, chúng tôi cũng gởi tu sĩ nam nữ đi nhiều nơi. Số chủng sinh cũng gởi đi, tất nhiên khi gởi đi chúng tôi gởi đi với tư cách sinh viên. Bây giờ những người đó tiếp tục, có người thì đã lãnh chức linh mục và ở lại làm việc hay được sai đi truyền giáo ở nuớc này, nước khác. Hiện nay có gởi đi Nhật, Hàn quốc, Pháp, Hoa kỳ. Về số tu sĩ, Giáo phận Nha trang có gởi đi Na Uy, có gởi sang Pháp, Hàn quốc và Nhật.
Lm Nghị: Riêng nói về linh mục, Giáo phận Đức Cha có bao nhiêu linh mục và bao nhiêu linh mục đã được gởi đi để du học?
ĐC Hòa: Hiên nay, Giáo phận có khoảng 190 linh mục cho Giáo phận Nha trang. Số gởi đi du học có lẽ trên 20, và một số đã về làm việc.
Lm Nghị: Thưa Đức Cha, bây giờ con muốn sang một viễn tượng khác có vẻ rộng lớn hơn. Thưa Đức Cha đã làm chủ tịch của Hội Đồng Giám mục Việt Nam trong 2 nhiệm kỳ thì phải. Trong những năm gần đây Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã tiếp cận và trao đổi nhiều với các Hội Đồng Giám Mục thế giới, đặc biệt là Hội Đồng Giám Mục Á Châu. Các Đức Cha đã thường xuyên đi tham dự các đại hội tại Á Châu, vậy xin Đức Cha cho biết đây có phải là bước tiến mới hay không? và các Đức Cha có gặp trở ngại gì khi đi tham dự các đại hội này không?
ĐC Hòa: Vào những năm đầu khi chúng tôi đi tham dự các cuộc họp của Giáo hội tại Á châu thì chúng tôi vẫn được đi và khi đó chỉ đi với tính cách cá nhân. Vài năm gần đây, chúng tôi đi với tính cách là thành viên của liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu. Hai tư cách đó có khác nhau. Khi khác nhau như vậy chúng tôi gặp phải cái điểm chưa thực hiện được, tức là mình phải đảm nhận các công việc người ta sẽ phân phối cho mình. Hiện nay, mình chưa đủ điều kiện để đảm nhận công việc đó. Tỉ dụ như người ta muốn luân phiên đi họp ở nước này, nước kia mà họ cũng muốn tới Việt Nam để họp vì họ nghe biết rằng là sức sống đạo ở Việt Nam rất mạnh mẽ. Thế thì chúng tôi thấy ngay một cản trở vì chúng tôi chưa có cơ sở nào đủ phương tiện để đón tiếp một cuộc họp tầm cỡ là Á châu như vậy. Như chúng tôi thấy các cơ sở ở bên Thái lan hay bên Philipine, Hàn quốc. Chúng tôi thấy họ có phương tiện để dùng cho cuộc họp tầm cỡ quốc tế như vậy. Việt Nam chúng tôi chưa có được.
Lm Nghị: Mới đây con cũng có dịp sang tham dự cuộc họp ở bên Á Châu, trong đó có Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn thì ngài cũng đã nói lên cái tư tưởng là bây giờ Việt Nam rất bối rối vì đã nhiều lần Hội Đồng Giám Mục Á Châu xin được họp ở Việt Nam nhưng chưa có một nơi nào để có thể họp tầm cỡ như Đức Cha vừa mới nói. Con biết rằng tháng 10 vừa qua khi họp ở Huế, thì trụ sở ở Huế trong tương lại hy vọng có thể làm trung tâm to lớn để mà tiếp đãi các phái đoàn ngoại quốc đến tham dự cuộc họp. Và gần đây Đức Cha cũng có ý định rằng trong địa phận của Đức Cha, một cách nào đó cũng muốn có một trung tâm. Bởi vì với tư cách là chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam thì cần có một nơi để tiếp đãi phái đoàn ngoại quốc, vậy tiến trình đó đi như thế nào và bây giờ có những dự án nào cụ thể chưa, thưa Đức Cha?
ĐC Hòa: Tại Huế thì tôi được biết rằng là từ trước đến nay Hội Đồng Giám Mục có tổ chức những cuộc họp về văn hóa tại Huế. Trước đây không có đủ cơ sở, họ cũng tìm đủ mọi cách có một cơ sở để dung nạp số người cần thiết để họp cấp tầm cỡ quốc gia. Hiện nay cở sở đó đã xong. Đây cũng là một cố gắng đặc biệt. Tất nhiên là cơ sở có thể dùng ở tầm cỡ quốc gia thì cũng có thể dùng cho tầm cỡ của Á châu, với cái nghĩa là họp từng ban một của Á châu, chứ không phải là họp toàn thể. Cũng theo cái mẫu đó, tòa Giám mục Nha trang chúng tôi nhiều năm rồi, ban phụng tự của Hội Đồng Giám Mục tới Nha trang họp hằng năm, và ban Giáo lý đức tin cũng đã họp mấy lần. Tôi thấy cái nhu cầu họ muốn tới Nha trang là vì trung tâm có điều kiện tốt về khí hậu cho sức khỏe, nhất là trong mùa hè nóng bức, là mùa thuận tiện cho các cuộc họp của Giáo hội. Vì lý do có nhu cầu trong giáo phận và vì có nhu cầu nữa trong Hội Đồng Giám Mục, đôi khi có những cái ban của Hội Đồng Giám Mục Á châu cũng muốn tới cho nên chúng tôi cũng muốn xây một cơ sở cho xứng đáng có những phương tiện cần thiết cho các cuộc họp. Các nước Á châu rất là mong biết Việt Nam, họ muốn tới và mình lúng túng không biết làm cách nào. Chúng tôi ở trong tình trạng như vậy.
Lm Nghị: Vâng, chúng con mong mỏi như vậy và hy vọng rằng tất cả anh em Công Giáo các linh mục và toàn thể các cộng đồng Công Giáo ở Việt Nam hải ngoại vì đại cuộc của Giáo hội Việt Nam, chúng con nguyện sẽ cố gắng hết sức, để giúp các Đức Cha Việt Nam, đặt biệc Đức Cha chủ tịch có thế sớm hoàn thành được nhu cầu rất là quan trọng đối với thế giới bên ngoài, để có một trung tâm có khả năng dung nạp các cuộc họp quốc tế như vậy. Bây giờ con xin phép Đức Cha để sang một vấn đề khác. Đã từ nhiều năm nay, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam mỗi một năm có những cuộc họp định kỳ vào tháng 10 như vậy và cũng đưa ra một số bàn thảo rất là quan trọng, thế thì Đức Cha có thể chia sẻ với chúng con hiện nay đối với Hàng Giám Mục Việt Nam thì đâu là những quan tâm hàng đầu ở Việt Nam?
ĐC Hòa: Thưa cha, vấn đề chúng tôi quan tâm ở Việt Nam là nhân sự cho Giáo hội. Thế thì phải đào tạo chủng sinh như thế nào, để mở các chủng viện ra sao và cũng quan tâm tới bồi dưỡng cho các tu sĩ, bồi dưỡng cho giáo dân, cho giới trẻ, cho hội đoàn có thể hoạt động. Riêng Giáo phận Nha trang, việc quan tâm tới đào tạo này tôi đã tổ chức sớm. Hằng năm vào tháng 7, tôi có những khóa cho giáo dân, khóa hội đồng giáo xứ, khóa cho giáo lý viên, khóa cho ca đoàn, rôì cũng có khóa cho các tu sĩ. Chúng tôi mở các đại hội giới trẻ. Chúng tôi vẫn làm được những sinh hoạt như vậy cỡ khá lớn. Đó là đối với vấn đề bên trong, còn đối với nhà nước thì hằng năm chúng tôi vẫn có cuộc gặp gỡ hoặc có những đề nghị với nhà nước về các vấn đề tự do tôn giáo, văn hóa, đạo đức, luân lý, giáo dục giới trẻ, vấn đề công bằng sự thật. Có khi chúng tôi là đơn vị duy nhất dám nói lên điều đó với nhà nước và chúng tôi vẫn còn tiếp tục nói những điều như vậy.
Lm Nghị: Kính thưa Đức Cha, Đức Cha vừa nhắc đến vấn đề tự do tôn giáo, công bằng xã hội và Giáo hội Việt Nam có thể nói là một Giáo hội đã có những đòi hỏi cụ thể với chính quyền Việt Nam. Vậy xin Đức Cha có thể chứng dẫn một vài việc cụ thể để chúng con biết rõ như thế nào được không, thưa Đức Cha?
ĐC Hòa: Cụ thể về vần đề đất đai, thì có những đơn để dòi tòa khâm sứ tại Hà nội, đơn để dòi đất tại Lavang và trong tương lai chúng tôi còn thêm những đơn khác trên bình diện tất cả các Giáo phận. Riêng ở Nha trang, thì có hai việc đòi đất, đất nhà thờ chính tòa và đất dòng Giuse. Đất nhà thờ chính tòa tôi là người làm đơn chính và hiện nay nhà nước đã trả lại đất đó. Còn đất dòng thánh Giuse thì tôi giao cho linh mục Lưu Minh Hoàng để nhân danh tòa Giám mục đứng lên đòi lại đất đó. Về vấn đề tự do tôn giáo, chúng tôi có nêu thẳng với chủ tịch nước về tự do tại Hưng Hóa, tự do tại Kontum thì tôi thấy cũng có một số biến chuyển. Chuyện nó được ngay thì chưa được ngay, nhưng tôi thấy có biến chuyển.
Lm Nghị: Thưa Đức Cha, có một vấn đề tế nhị hơn, mà trong ngày tháng vừa qua chắc Đức Cha đã nghe về tin cha Lý bị kết án 8 năm tù mới đây, và rất nhiều người Việt ở hải ngoại đã xôn xao về tình trạng này. Nhiều người đã tố cáo Hội Đồng Giám Mục Việt Nam muốn bảo vệ thế đứng riêng tư của mình, lợi ích về vật chất cho nên đã không có phản ứng, vậy Đức Cha suy nghĩ như thế nào về trường hợp của cha Nguyễn Văn Lý?
ĐC Hòa: Thưa cha, việc cha Lý hay bất cứ ai bị ra tòa và bị đi tù thì đó là trường hợp thương tâm. Riêng hình ảnh bịt miệng thì tự nó nói lên rất nhiều điều.
Cha Nghị: Câu hỏi này con xin lỗi Đức Cha trước vì nó hơi tế nhị, một số người ở bên này cũng như tổ chức này tổ chức kia, hay thành phần này, thành phần kia đang là có những cao trào nói rằng, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam hèn nhát không dám nói lên tiếng nói lương tâm của mình hoặc bị cái lợi thế trần gian, hoặc là muốn xây dựng nhà cửa hoặc chuyện nọ chuyện kia mà không dám lên tiếng để bênh vực cho những người không có tiếng nói. Đấy là những dư luận, một số báo chí hay cá nhân ở hải ngoại đã nêu ra tiếng nói như vậy, thưa thế có đúng không ạ?
ĐC Hòa: Tôi xin nói trường hợp cụ thể của tôi. Nhiều người đã biết rằng tòa thánh chỉ định tôi về Hà nội nhưng cuối cùng điều đó không được chấp nhận. Sự kiện ấy cũng nói lên là lập trường của tôi như thế nào. Tôi đã phải tranh đấu làm sao, kiên trì trong lập trường đó như thế nào.
Lm Nghị: Vậy, thưa Đức
Cha nghĩ gì về vấn đề linh mục làm chính trị hay Giáo hội dấn thân vào vấn đề
chính trị, thì sự suy nghĩ của Đức Cha như thế nào? Đức Cha có thể chia sẻ với
chúng con được không?
ĐC Hòa: Theo chúng tôi, ai cũng có quyền phát biểu về công bằng, về sự thật, về
các quyền lợi xã hội, nhưng (các linh mục) tham gia vào chính trị đảng phái đó
thì sẽ gây chia rẽ. Lý do là thế này vì đó chỉ một phần thôi, đảng tức là một
phần thôi, theo phần này bỏ phần kia và mỗi một phần đó lại thay tuỳ theo cái
nhu cầu tuỳ theo trường hợp, mà chân lý của Chúa thì không có thể xoay như cái
chong chóng như vậy được đâu. Chúa muốn sai linh mục tới làm việc cho mọi người,
chứ không phải cho nhóm này chống lại nhóm kia. Thành ra, nếu linh mục làm chính
trị thì thay vì gây sự đoàn kết, thì gây thêm sự chia rẽ. Tôi cũng được biết
thêm nữa là linh mục Nguyễn Văn Lý, sau khi ra tù lần thứ hai, thì cha Lý được
Đức tổng Giám mục Huế đưa tới xứ An truyền giới thiệu với cộng đồng dân Chúa ở
đó, và trong khi đáp từ thì cha Lý đã xin lỗi và cũng nói lên ý rằng sẽ vâng lời
Đức Tổng trong mọi sự ngoại trừ công việc chính trị thì cha Lý xin phép là không
vâng lời Đức Tổng. Đây là điều không những tôi mà nói chung là các Giám mục
không thể hiểu được. Như cha, cha cũng biết đó, cha sống ở bên Hoa kỳ này nếu
một linh mục không vâng lời Giám mục thì cha thấy cái gì sẽ xảy ra.
Lm Nghị: Con xin cám ơn Đức Cha rất nhiều đã chia sẻ với chúng con cách rất thành tâm về những vấn đề Giáo hội đang phải đối diện. Vậy trước khi kết thúc buổi phỏng vấn này, Đức Cha còn điều gì nhắn nhủ chia sẻ với chúng con ở hải ngoại không, thưa Đức Cha?
ĐC Hòa: Thưa cha, tôi thấy nhiều người có thiện chí là muốn cho Giáo hội thăng tiến mọi mặt nhưng mà có điểm mà chúng ta cần ngồi lại với nhau trao đổi, lắng nghe thì tôi thấy nó mới có kết quả tốt được. Bởi vì trong việc gì thì việc, phải tìm hiểu sự thật đến nơi đến chốn, nhất là những người lo việc truyền thông là phải cân nhắc điều mình viết ra, nói ra. Một điều sai thì dẫn tới nhiều tai hại lắm. Tôi thấy những người nào nghiên cứu mà biết được điều thật đi chăng nữa thì khi phát biểu điều thật mà mình đã biết chắc rồi cũng phải phát biểu trong tình bác ái nó mới có kết quả. Còn nói trong sự giận tức thì nói chỉ gây tai hại thêm thôi. Mặt khác chúng ta phải có đời sống thế nào quy tụ mọi cố gắng của mọi người trong một đời sống hiệp nhất. Nếu không có hiệp nhất, nếu người này chống đối người kia, người ở ngoài chống đối người ở trong v.v... thì tất cả những thế lực chống đối giáo hội, người ta mừng lắm. Người ta chỉ mong có bấy nhiêu thôi. Vô tình mình tiếp tay cho những người như vậy.
Lm Nghị: Chúng con cám ơn Đức Cha rất nhiều. Chúng con cầu chúc cho Đức Cha thành công và nhất là cho Giáo hội Việt Nam ngày càng được phát triển, nhất là với sự soi sáng của Chúa Thánh Thần sẽ luôn tiến bước trên những bước đường mà Chúa mong muốn cho Giáo hội Việt Nam.
Theo Vietcatholic News
TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO
Ngày ấy, khi lớp chúng tôi có gần một nửa lớp chịu chức linh mục, linh mục Nguyễn Duy, (lúc đó cũng đang là chủng sinh, dù thuộc lớp đàn anh, nhưng được phân bổ vào lớp chúng tôi để hợp thức hóa và bổ túc chương trình học), đã cảm tác bài hát “Nhân loại vẫn cần” để tặng cả lớp.
Bài hát ấy, tôi vẫn nhớ, vẫn hát. Mỗi lúc nhớ thầy, nhớ trường, nhớ bạn, hoặc mệt mỏi vì rong ruổi trong suốt dọc dài con đường phục vụ, tôi đã nhiều lần hát đi hát lại, để vừa cầu nguyện cho mình, cho thầy, cho anh em, cho sứ vụ của từng người trong lớp chúng tôi, cho cả những gương mặt thân yêu của cộng đoàn mà mình sống và làm việc hôm nay, vừa tìm cách củng cố sức lực do năm tháng đã không ít hao mòn.
Đối với riêng tôi, bài hát ấy hay, nó gợi lại trong tôi cả khung trời kỷ niệm, đồng thời giúp tôi hiên ngang nhìn về phía trước mà thực hiện chính sứ mạng của Chúa Kitô, được Chúa Kitô trao cho mình… Cứ thế, mà tôi hát: “Nhân loại vẫn cần người biết sống ơn gọi của Chúa. Nhân loại vẫn cần người làm chứng tình Chúa yêu thương. Nhân loại vẫn cần người mục tử dẫn đường chỉ lối, cùng đoàn chiên đêm ngày đi tới, về nhà Cha mến yêu muôn đời…Nhân loại vẫn cần người đi tiếp con đường của Chúa. Nhân loại vẫn cần người dám sống cuộc sống Giêsu. Nhân loại vẫn cần người nhiệt tâm trong đời ngôn sứ, chỉ truyền rao những lời của Chúa để trần gian sống trong sự thật…Nên Chúa đã sai từng người chúng con, những linh mục bước đến cùng thế giới. để đáp ứng những khát vọng khắp nơi. Để tô thắm những ước mơ con người. Nghe tiếng Chúa nay từng người chúng con quyết lên đường loan Tin Mừng Cứu Rỗi. Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng con được nên thánh trong cuộc đời chứng nhân…”.
Trong những ngày này, chuẩn bị mừng lễ Chúa Chiên lành, ngày Hội Thánh cầu nguyện và cổ võ cách đặt biệt đối với ơn gọi tận hiến, tôi càng ý thức hơn vai trò và trách nhiệm mục tử của mình. Sau mỗi thánh lễ sáng xong, tôi đóng cửa phòng rồi cứ thế mà cất lên cung điệu Nhân loại vẫn cần… để cầu nguyện, để tạ ơn Chúa, để đánh thức mình hãy nên mục tử nhân lành.
Sau bài hát, tôi lại đọc đi đọc lại bài Tin Mừng theo thánh Gioan để nguyện gẫm: “Chúa Giêsu nói với người Dothái rằng: ‘Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10, 27-30). Ước mong một điều chính đáng rằng, ngày nào tôi còn thi hành chức vụ mục tử, và Hội Thánh còn tiếp tục tin tưởng trao cho tôi sứ mạng mục tử, ngày ấy, tôi vẫn cứ xông vào trận chiến với thế gian, với tội lỗi và với mọi cơn cám dỗ trong đời một cách không mệt mỏi để làm cho từng con chiên của Chúa Kitô thực sự yêu mến Chúa Kitô, nghe Lời Chúa Kitô. Nhờ đó họ không bị diệt vong, không bị bất cứ thế lực nào của sự dữ cướp khỏi ơn cứu chuộc của Chúa Kitô và lãnh nhận sự sống đời đời mà Chúa Kitô ban cho họ.
Để hoàn thành xuất sắc vai trò mục tử như Mục Tử Giêsu, một hình ảnh mục tử mà mãi mãi nhân loại vẫn cần, vẫn tha thiết trông chờ, vẫn hoài hy vọng, tôi nghiệm ra rằng, trước hết mình phải là chiên xuất sắc của Mục Tử Giêsu. Một khi đã là chiên tốt, chắc chắn, tôi cũng sẽ là mục tử tốt như Chúa Giêsu.
1. Cùng anh chị em, linh mục là thành phần của đoàn chiên Chúa.
Trước khi là mục tử, người linh mục đã thuộc về đàn chiên. Biết mình là chiên, cũng mang thân phận con người đầy khiếm khuyết, có khi đã nhiều lần, do chủ quan, do mải ngụp lặn trong biển đời nhiều sóng dữ, đã để xảy ra nhiều thương tật cho đời sống tâm linh của bản thân.
Biết mình là chiên như mọi con chiên trong đoàn chiên của Chúa, người linh mục luôn luôn học lấy lòng khiêm nhường, hiền từ như Mục Tử Giêsu. Cùng là người như mọi anh chị em của mình, người linh mục không bao giờ được phép coi thường những điều kiện căn bản để vươn lên trong ơn thánh Chúa như: cầu nguyện, nguyện gẫm, xét mình, đọc Lời Chúa, viếng Thánh Thể, thường xuyên lãnh bí tích hòa giải…
Người linh mục càng phải ra sức cộng tác với ơn Chúa để sống một đời sống gương mẫu, mực thước, tự chủ, biết sống lành mạnh, không xa hoa, không tìm danh lợi, không mưu cầu cách ích kỷ sự giàu có cho bản thân… nhưng luôn biết từ chối tất cả mọi nguy hiểm có thể đánh đổi ơn gọi của mình là thứ quý giá trên hết mọi thứ quý giá.
Ngoài ra, dù là mục tử, người linh mục sẽ không ít lần bắt gặp những mẫu gương rất tốt nơi anh chị em mà mình có thể học lấy. Chẳng hạn, nhiều anh chị em quyết không bước vào con đường gian tham, tội lỗi, dù rất nghèo. Hoặc nhiều người đau khổ đến cùng cực, nhưng đức tin vẫn lung linh cháy sáng. Nhiều anh chị em tham gia phục vụ người nghèo, phụ vụ nhà thờ, phục vụ cộng đoàn hết sức miệt mài, nhiệt tâm y như việc họ làm là làm cho chính gia đình, cho chính bản thân của họ vậy… Tất cả những hình ảnh ấy, càng làm cho người linh mục khám phá ra một chân lý rất bình thường, nhưng rất đỗi quang trọng: Dù là mục tử, người linh mục vẫn là thành phần của đoàn chiên Chúa. Nhận ra mình cũng là chiên như anh chị em, người linh mục sẽ không bao giờ dám coi chức linh mục của mình là quan chức, là hướng nhắm của sự thành công, để khi đạt được rồi, sẽ hưởng thụ, tệ hơn, vơ vét mọi thứ cho cá nhân mình…
Tắt một lời, khi biết rèn giũa cho hình ảnh “chiên” nơi mình càng đẹp, càng sáng, thì khi làm mục tử, người linh mục cũng sẽ là mục tử tốt lành mang lấy và phản chiếu hình ảnh tốt lành của Mục Tử Giêsu.
2. Là mục tử của đoàn chiên Chúa.
Rất nhiều lần, và ngay chính lúc này, tôi cảm nhận rõ ràng, thánh chức linh mục mà Chúa ban cho mình quý giá vô cùng. Bởi nó là danh dự, là sự điểm tô lộng lẫy cho chính người linh mục đã vậy, quan trọng hơn, nó chính là sự cần thiết của đời sống tâm linh con người. Chức linh mục vẽ thêm vào cuộc đời, vốn vàng thao lẫn lộn, những nét tươi mới của tin yêu, của niềm an úi, của hy vọng. Bởi không có ai khác nhưng linh mục, đã gắn bó với từng anh chị em mà Hội Thánh trao cho mình, gắn bó suốt đời mình để phục vụ, để hiến thân.
Chính linh mục mới là người biết rõ, biết nhiều về tâm tư con người. Cả trong tòa giải tội, lẫn ngoài đời thường, không biết bao nhiêu lần người linh mục chia sẻ những tâm tư, những bức xúc, những bí mật rất thật về chính bản thân của anh chị em. Dường như chỉ có linh mục mới có thể giải tỏa nhiều chông chênh, ngang trái mà anh chị em gặp phải trong một lòng thương mến thật, thông cảm thật. Anh chị em đến với linh mục bằng một niềm tin tưởng thật, vì thế họ cũng sẽ nhận được từ người linh mục một trái tim rung cảm thật, nhằm tiếp thêm ngọn lửa của sức mạnh chịu đựng, tiếp thêm sức nóng xóa tan băng giá của cả một đời đầy dông bão.
Vì trót cả cuộc đời của những người mang lấy đức tin, là cả cuộc đời mang dấu ấn của thánh chức linh mục. Bởi không ai khác, nhưng là chính bàn tay linh mục, trong bí tích rửa tội, đã đưa một con người từ thưở bé thơ vào cộng đoàn Hội Thánh để làm Con Thiên Chúa. Dù trong anh chị em, có người không nhìn nhận, thậm chí chống đối cá nhân linh mục này, linh mục khác, thì anh chị em cũng không thể chối từ ảnh hưởng của thánh chức linh mục trên cuộc đời mình. Chỉ nhờ linh mục, anh chị em được lãnh nhận ân sủng từ kho tàng bí tích mà Chúa trao cho Hội Thánh. Những khi anh chị em muốn tìm lại bình an nội tâm sau những lần ngã quỵ vì cám dỗ, vì tội lỗi, cũng chính linh mục nhân danh Chúa ban ơn Thánh Thần tha thứ cho anh chị em. Đến tuổi trưởng thành, cũng nhờ chính bàn tay linh mục, mà mỗi một người chính thức bước vào đời sống gia đình cách hợp pháp. Có thể nói, trong bí tích hôn phối, người linh mục đã liên tục sinh ra các gia đình mới cho Hội Thánh. Hay suốt cả một đời làm Kitô hữu của mình, từng anh chi em đã không thể đếm hết bao nhiêu lần đã cậy nhờ thánh chức linh mục, và chính bản thân người linh mục mà lãnh nhận hết hồng ân này đến hồng ân khác, hết hy tế thánh lễ này đến hy tế thánh lễ khác, hết lời giảng dạy này đến lời giảng dạy khác… Và giây phút quan trọng nhất, nhưng cũng kinh hoàng nhất, đáng sợ nhất của đời người là giây phút sắp lìa đời, thì sự hiện diện lần cuối cùng của linh mục lại ấm áp, thiêng liêng, ý nghĩa vô cùng. Nó mang lại niềm an ủi, mang lại sự xoa dịu nỗi sợ hãi, xoa dịu cơn đau đớn không thể tả để anh chị em thanh thản lìa đời. Và cuối cùng, cũng chính bàn tay linh mục đưa lên ban phép lành lần cuối thay lời từ biệt trao gởi anh chị em về với Đấng Hằng Hữu, Đấng mà từ đó, đã làm phát sinh sự sống của không biết bao nhiêu sinh linh trong cõi đời này.
Như vậy, linh mục rất cần vai trò làm chiên cùng với đoàn chiên của Chúa. Làm con chiên như anh chị em, người linh mục sẽ hiểu nhiều hơn, sẽ dễ thông cảm hơn với từng mảnh đời, từng hoàn cảnh của anh chị em. Là chiên của Chúa, thấu hiểu nỗi lòng của đoàn chiên, để khi đứng trong vai trò mục tử, người linh mục sẽ dẫn đưa anh chị em của mình đến sự sống, một sự sống hoàn thiện, sự sống dồi dào…
Đúng là nhân loại vẫn cần, mãi mãi cần những mục tử của Chúa, những mục tử thay thế Chúa săng sóc đoàn chiên Chúa. Nhân loại vẫn cần những con người dám hiến thân vì người khác giữa cuộc đời mênh mông và biến động. Nhân loại cần lắm những bàn tay nâng đỡ lòng người, cần lắm những con người luôn luôn thao thức vì hạnh phúc của loài người, cần lắm những bóng mát làm dịu cơn khát tình yêu, xua đi nỗi buồn chán, lấp đầy những khoảng trống cô đơn của con người. Nhân loại vẫn cần vô cùng những tấm lòng từ ái, những con người của ơn hòa bình, những dấu chỉ của niềm hy vọng, những hiện thân của hạnh phúc trường cửu, mà chính người mục tử ghi dấu, để mỗi anh chị em luôn cảm nhận tình yêu, luôn tìm ra một chỗ dựa mỗi khi cần, luôn thấy mình được an ủi vỗ về khi đau đớn…
Nhân loại vẫn cần, cần lắm những linh mục thánh thiện, những linh mục nhân lành. Bởi họ chính là những mục tử như lòng mong ước…
Lm. VŨ XUÂN HẠNH
Mỗi khi nghĩ tới niềm hạnh phúc được có đức tin công giáo, tôi cảm tạ Chúa và thầm cám ơn cha mẹ tôi, ông bà tổ tiên tôi, các cha xứ và những giáo lý viên đã khởi sự giáo dục tôi trong đức tin; tôi cám ơn Giáo Hội Việt Nam, cám ơn các thánh tử đạo và biết bao chứng nhân đức tin khác đã anh dũng hy sinh mạng sống để cho hạt giống Tin Mừng trổ sinh hoa trái dồi dào trên mảnh đất quê hương; và ngược xa hơn nữa, tôi cám ơn các nhà thừa sai nước ngoài đã đem đạo Chúa đến cho dân tộc tôi. Nhưng cuộc hành trình tìm về nguồn cội đức tin của tôi không dừng lại ở đó. Tôi phải tiếp tục đi lùi lại, lùi lại mãi ngược dòng lịch sử hai mươi thế kỷ cho đến lúc gặp cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi tại Giêrusalem, rồi gặp chính các thánh Tông Đồ là những người đã gầy tạo nên cộng đoàn đó. Đức tin của tôi hôm nay và đức tin của các Tông Đồ xưa cũng là một đức tin, hơn nữa đức tin của tôi dựa trên lời rao giảng và sự làm chứng của các ngài.
Trong cuộc sống đời thường, chúng ta học biết vô số những điều mà bản thân ta không tự tìm ra hoặc trực tiếp kinh nghiệm, nhưng nhờ dựa trên lời của kẻ khác. Dĩ nhiên, nếu gặp những điều quan trọng, nhất là những điều có liên quan tới mình hay bà con mình, thì chúng ta tỏ ra thận trọng, tự hỏi những người thuật lại kia có đáng tin cậy hay không? họ có thành thạo trong vấn đề họ nói đó hay không? họ trực tiếp chứng kiến hay chỉ nghe lại? họ có lợi lộc gì trong chuyện này không? Nghĩa là không phải nghe gì ta cũng đều tin và tin như nhau cả.
Với tôi, vấn đề đức tin (tôn giáo) là vấn đề hệ trọng số một vì liên quan tới ý nghĩa và hạnh phúc cuộc đời tôi. Mà đức tin của tôi là đức tin "tông truyền", nghĩa là do các thánh Tông Đồ truyền lại, vậy các ngài có đáng tin không? Câu hỏi rất quan trọng vì đức tin không phải là một cảm nghĩ hay một cảm xúc mà dựa trên sự kiện lịch sử nền tảng là Đức Giêsu đã sống, chịu chết và phục sinh.
Phụng vụ lễ Phục Sinh và tuần bát nhật Phục Sinh tràn ngập trong ánh sáng, hoa hương và tiếng đàn tiếng ca chiến thắng làm nức lòng người tín hữu. Nhưng đáng ngạc nhiên là các bài đọc Lời Chúa trong thời gian này lại mang hai âm điệu trái nghịch nhau: trong lúc các bài đọc I trích trong sách Công vụ Tông Đồ tường thuật lại hoạt động của các Tông Đồ hân hoan và mạnh dạn làm chứng cho Đức Kitô phục sinh, thì các bài Tin Mừng lại cho ta thấy các ông trong tâm trạng buồn sầu, sợ sệt và vẫn nghi ngờ về sự phục sinh của Thầy mình.
Ta thử lấy phụng vụ ngày thứ Bảy trong tuần Bát Nhật làm ví dụ.
* Bài đọc sách CVTĐ: "Bấy giờ các thủ lãnh Do-thái, các kỳ mục và kinh sư ngạc nhiên khi thấy ông Phê-rô và ông Gio-an mạnh dạn, và biết rằng hai ông là những người không có chữ nghĩa, lại thuộc giới bình dân. Họ nhận ra hai ông là những người đã từng theo Đức Giêsu; đồng thời họ lại thấy kẻ đã được [hai ông] chữa lành đứng đó với hai ông, nên họ không biết đối đáp thế nào... Họ cho gọi hai ông vào và tuyệt đối cấm hai ông không được lên tiếng giảng dạy về danh Đức Giêsu nữa. Hai ông Phê-rô và Gio-an đáp lại: 'Nghe lời các ông hay nghe lời Thiên Chúa, xin hỏi: trước mặt Thiên Chúa, điều ấy có phải lẽ không? Các ông thử xét xem! Phần chúng tôi, những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra'" (4,13-14.18-19).
* Qua bài Tin Mừng Mác-cô: "... Sau cùng, Đức Giêsu tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy. Người nói với các ông: 'Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo'" (16,14-15).
Rõ ràng phụng vụ trình bày trong cùng một lúc hai tâm trạng tương phản của các môn đệ vào hai giai đoạn khác nhau, -trước và sau khi Chúa Giêsu thăng thiên. Thời gian từ khi Chúa phục sinh đến lúc Người lên trời là thời gian các Tông Đồ chuyển một cách khó khăn từ thái độ không tin đến tin, từ sợ hãi đến khẳng khái bất khuất, từ thất vọng đến hy vọng tràn trề. Thời gian này, chính Đức Kitô phục sinh củng cố niềm tin của họ bằng những lần hiện ra và chuẩn bị họ cho sứ mạng nặng nề sắp tới, như tác giả sách Công vụ Tông Đồ cho biết trong Lời Tựa của cuốn sách: "Trước ngày ấy [ngày lên trời], Đức Giêsu đã dạy bảo các Tông Đồ mà Người đã tuyển chọn nhờ Thánh Thần. Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa" (Cv, 12-3). Đây là một đoạn tổng hợp có ý nghĩa.
Đối với tôi, không bằng chứng nào về sự Phục Sinh của Chúa Kitô có sức thuyết phục hơn sự biến đổi lạ lùng, triệt để nơi các thánh Tông Đồ trước và sau khi Chúa Giêsu lên trời. Một khi đã tin vì đã nhiều lần được mắt thấy tai nghe chính "Đức Giêsu, Đấng đã bị giết nhưng nay vẫn sống", các ngài không còn biết gì hơn là làm chứng cho Người. Dù bị ngăm đe, bị cấm đoán, dù bị điệu ra trước toà, bị tra tấn hay bị giam cầm, các ngài vẫn khẳng khái làm nhiệm vụ của mình là "Chứng Nhân ưu tuyển" của Chúa Phục Sinh. Có ai dám làm chứng cho một điều gì đến độ sẵn lòng chết vì nó? Nhưng với các Tông đồ, sự Phục Sinh của Chúa Kitô đã trở thành xương thịt của mình, thành lẽ sống của mình và hơn nữa các ngài còn coi đó là điều liên quan đến hạnh phúc của mọi người; xác tín đó khiến các ngài sẵn sàng chấp nhận tất cả mọi gian truân thử thách và cả cái chết để cho người khác cũng biết và đón nhận. Về sau, hầu hết 12 Tông Đồ (chưa kể Tông đồ Phaolô) đều đổ máu ra vì Chúa.
Lời rao giảng và sự làm chứng của các thánh Tông Đồ là hoàn toàn đáng tin đối với tôi. Tôi biết ơn các ngài vì các ngài đã tin. Tôi cũng biết ơn các ngài không kém vì các ngài đã từng cứng lòng tin. Sự cứng lòng tin này làm cho lòng tin về sau của các ngài trở thành đáng tin hơn đối với tôi.
Lm Nguyễn Hồng Giáo, dòng Phanxicô
Tháng 5 lại về, đoàn tín hữu cùng dâng tình con thảo lên Mẹ Maria bằng nhiều khúc ca, điệu múa và nhất là những cành hoa tươi xinh. Từng giáo xứ, từng họ đạo nao nức việc dâng hoa kính Mẹ. Các bé thơ, cách riêng các bé gái, kể cả các thiếu nữ tha hồ có dịp tung tăng trong tà áo dài, áo đầm đủ các kiểu cách, đủ các màu sắc. Một bầu không khí vừa vui tươi vừa đậm tình tôn giáo đáng trân trọng, đáng ghi nhận và đáng biểu dương. Tuy nhiên Mẹ Hội Thánh dạy ta : Lòng tôn kính chân chính dành cho Đức Maria “không hệ tại ở những tình cảm chóng qua và vô bổ, cũng không hệ tại một sự dễ tin phù phiếm, nhưng phát sinh từ một đức tin chân thật…thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến Mẹ chúng ta và noi gương các nhân đức của Mẹ” ( GH 67 ). Nhân lời dạy của Hội Thánh xin được ngắm nhìn Mẹ Maria như là một người nữ đầy cá tính mà những trang Tin Mừng tường thuật.
Nói đến cá tính, người ta dễ có cái nhìn không mấy thiện
cảm. Nghe nhận định một ai đó là thuộc dạng “cá tính” thì ta hình dung ngay là
một người cố chấp hay là ương ngạnh, ít nữa là khó bảo. Thực ra nguyên nghĩa của
từ cá tính tự nó đâu có gì xấu. “Cá tính là tính cách riêng làm phân biệt với
những người khác” ( Tự Điển Tiếng Việt – Nxb Khoa Học Xã Hội – 1992 ). Tuy nhiên
trong thực tế, khi mà những người có chức cao, có quyền lớn thường không muốn
người dưới quyền khác với mình nên đã không những khó chịu mà còn cho là xấu khi
người dưới quyền có tính cách khác với mình. Tính cách của con người thường được
thể hiện bằng cung cách hành xử bên ngoài. “ Hữu ư trung, xuất hình ư ngoại”.
Dần dà người có cá tính bị xem là người xấu và chữ cá tính thường được hiểu
nghiêng về ý xấu nhiều hơn. Dù vậy trong thực tiển người ta cũng dùng từ này
dành cho một ai đó có cung cách hành xử can đảm, anh hùng mà nói chung là có bản
lĩnh. Ở đây xin nhìn ngắm Mẹ theo ý nghĩa này.
Maria : Người nữ đầy cá tính.
1. Quyết định sống trinh khiết : Vào một thời mà sự son sẻ là một mối nhục trước mặt thiên hạ thì quyết định giữ sự trinh khiết quả là rất can đảm, đúng hơn là rất anh hùng. Người ta có thể nói rằng vẫn có đó một số người quyết định sống độc thân để mong chờ Đấng Thiên Sai như nhóm người Ét-xê-nô. Tuy nhiên họ thường là nam giới. Người nữ thời bấy giờ thường mong được làm mẹ Đấng Thiên Sai hơn. Nếu không có cá tính chắc chắn cô thiếu nữ Maria sẽ khó mà có quyết định kiểu như nghịch thường ấy.
2. Chất vấn Thiên sứ : Đọc Thánh Kinh ta nhận thấy
nhiều người khi diện kiến Thiên sứ thường kinh hãi, lo âu. Còn Maria thì không
thấy điều này. Mẹ chỉ thoáng bối rối trước lời chào quá cung kính của Thiên sứ.
Tính cách cá tính của Mẹ được biểu hiện ở những lời Mẹ chất vấn Thiên sứ : “
Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng” ( Lc 1,34 ).
Thấy không hợp lý theo luận lý bình thường, dù đó là sứ điệp từ một Thiên sứ thì
không vội cúi đầu tuân theo. Một cung cách hành xử của cô thiếu nữ trạc tuổi
14-16 cách đây hơn 2000 năm khiến chúng ta phải xấu hổ khi mà vẫn có đó nhiều
người tuổi đã 20 hoặc 30 hay hơn nữa, đặc biệt giới nhà tu, luôn cúi đầu trước
mệnh lệnh của bề trên cho dù có khi lệnh ấy không hợp lý hay không hợp tình mà
không có một lời chất vấn.
3. Xin vâng : một quyết định dứt khoát trong một
vấn đề hệ trọng. Maria thưa xin vâng không phải trong thái độ cam chịu. Đây là
một quyết đinh tự do trong sự phấn chấn, vui tươi và tin kính của người thiếu nữ
Sion. ( x. R 3,9; 1 Sm 25,41 ). Nhận mang thai là sẵn sàng nhận án tử hình ném
đá nếu Giuse tố cáo theo luật hiện hành. Có một quyết định dứt khoát như thế thì
không thể không có bản lĩnh, nghĩa là phải có cá tính mạnh mẽ. Chuẩn bị tiến
chức, chuẩn bị khấn tạm hay khấn trọn đời, dù tuổi đã cao nhưng có được mấy ai
có được sự dứt khoát trong tin yêu vui vẽ và phấn chấn như Mẹ. Thường là đựoc
linh hướng, được hướng dẫn, thế mà vẫn có đó rất nhiều ngại ngùng, nhiều do dự,
băn khoăn.
4. Đi thăm viếng chị họ Isave : Đâu phải năm muời
phút hay một hai giờ, đâu phải với phương tiện hiện đại, chỉ mỗi đôi chân trần
bé nhỏ, thế mà cô thiếu nữ Nagiarét đã vượt núi băng đồi trên dưới 100 Km. Không
thấy bóng dáng ai đồng hành. Một mình thân gái đuờng xa, quả là cá tính khó ai
bì. Xin được ngắm nhìn Me để thấy “đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi
nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông” ( Nguyễn Bá Học )
5. Đón nhận nghịch cảnh không một lời than thở :
Theo Giuse về Bêlem khi gần đến ngày khai hoa nỡ nhụy, sinh con trong hang đá
lạnh lẻo, qua Ai cập lánh nạn rồi lại trở về Nagiaret, không thấy một lời than
thân trách phận như phận nữ nhi thường tình. Đúng là người đầy cá tính. Gặp khó
khăn trở ngại thì dù là phận cao hay chức nhỏ, chúng ta cũng dễ thở than cách
này hay cách khác. Thật thua xa Mẹ Maria. Đúng hơn là cần chiêm ngắm Mẹ để sẵn
sàng đón nhận thập giá hằng ngày mà theo Chúa trong niềm vui. Một thánh buồn là
một vị thánh đáng buồn.
6. Cùng chồng con hằng năm lên Giêrusalem dự lễ.
Luật đâu có buộc. Làm hơn cả điều luật dạy thật khó có mấy ai sánh bì. Tình yêu
không chấp nhận giới hạn. Biên giới của tình yêu là một tình yêu không biên
giới. Xin Mẹ dạy con biết yêu thương để vượt qua hạn mức của lề luật. Có người
nại đến luật lệ để hạn chế tình yêu như chuyện ngài Tư Tế và Trợ Tế trong dụ
ngôn người Samaritanô nhân hậu. Nhưng đã có đó một Giêsu sẵn sàng vi phạm luật
để sống yêu thương. Mẹ nào con nấy chăng ?
7. Dõi theo chân Giêsu trên con đường rao giảng cho
đến cùng : Con đến đâu, mẹ đến đó. Từ tiệc cưới Cana đến dưới chân thập giá,
bàn chân người nữ, người mẹ in dấu ấn tình yêu đến cùng. Chắc chắn lý hình có
ngăn cản nhưng Mẹ đã ở đó trên đồi Gôngôta. Đứng vững chứ không ngã quỵ như nữ
nhi bình thường. Dù Tin Mừng không kể lại nhưng truyền thống nhìn nhận Mẹ đủ sức
ẳm xác Con dấu yêu. Một sức mạnh phi thường bởi một cá tính kiên cường. Để thực
hiện được hành vi phi thường này hẳn Mẹ đã được trui rèn trong trường yêu thương
và gian khổ nhiều năm nhiều tháng. Cá tính đâu phải bổng nhiên từ trời rơi xuống
mà là kết quả của một quá trình rèn luyện và gắng công. Xin Mẹ cho chúng con
biết kiên trì học hỏi và miệt mài luyện tập.
Ta thích dâng hoa cho Mẹ. Tốt thôi. Ta thích suy ngắm bảy
sự thương khó của Đức Mẹ. Tốt thôi. Nhưng đừng quên nhân cách của Mẹ. Một người
nữ đầy cá tính. Để yêu thương đến cùng không thể không có cá tính. Để phục vụ
hết mình, không thể không có cá tính. Đừng sợ khác người. Hãy chỉ sợ khác Chúa
Giêsu và Mẹ của Người. Một Maria đầy cá tính và một Giêsu đầy bản lĩnh. Chắc
chắn có sự khác người nhưng không lập dị. Để yêu thương đến cùng và kiên vững
trong tình yêu thì không thể sống cách bình thường trong sự tầm thường.
Lạy Mẹ Maria, xin cầu cho chúng con.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
SỐNG CHỨNG NHÂN
Cha Gioan Nguyễn Văn Đích trước kia thuộc giáo phận Kontum, Việt Nam. Cha gia nhập Hội Thừa Sai Paris vào giữa thập niên 1980. Sau khi chịu chức Linh Mục, Cha được gửi đi truyền giáo tại Singapore. Trong bức thư gởi các Linh Mục Hội Thừa Sai Paris, Cha Đích kể lại kinh nghiệm mục vụ đầu tiên ở Singapore như sau.
Tôi viết thư cho anh em từ Singapore, quê hương mới của tôi. Sau thời gian ngắn chờ đợi, tôi bắt đầu làm việc tại giáo xứ Thánh Gia. Đây là một trong những giáo xứ lớn nhất của Singapore với khoảng 6 ngàn tín hữu, do 4 Linh Mục coi sóc: 2 vị người Hoa, một vị người Ấn và tôi là người Việt.
Giáo xứ Thánh Gia rất sống động và trẻ trung, như hầu hết các giáo xứ khác của Singapore. Mỗi Chúa Nhật có 6 Thánh Lễ, đôi khi lên tới 7. Đó là chưa kể 2 Thánh Lễ vào chiều Thứ Bảy. Vậy mà lễ nào nhà thờ cũng đông nghẹt tín hữu. Trung bình mỗi lễ có khoảng l ngàn người tham dự. Trong tuần thì mỗi ngày có hai lễ, mỗi lễ với số tín hữu tham dự từ 200 tới 400 người. Thật là tuyệt diệu và cảm tạ THIÊN CHÚA, bởi vì vẫn luôn còn có nhiều người tin nơi THIÊN CHÚA và gắn bó với Ngài.
Con số dự tòng rất đông. Tháng vừa qua có Thánh Lễ thêm sức cho 252 dự tòng. Lễ Giáng Sinh thì có 70 người lãnh nhận bí tích rửa tội. Lễ Phục Sinh thì có khoảng 100 người được rửa tội. Chúa Nhật trước có 47 người chính thức xin theo học đạo. Đã có nghi thức nhận số người này vào cộng đoàn giáo xứ. Mỗi người sẽ được một người trong giáo xứ đỡ đầu, nghĩa là chỉ dẫn giúp đỡ suốt trong thời gian người này học đạo, và sau này nữa. Thời gian học đạo thường kéo dài một năm. Có thể nói rằng, tại Singapore ”thợ gặt thì ít mà lúa chín thì nhiều”!
Singapore là đảo nhỏ có diện tích 630 kilomét vuông với 2 triệu 600 ngàn dân, trong số này có 120 ngàn tín hữu Công Giáo. Phần còn lại đa số theo Phật Giáo, đặc biệt là người Trung Hoa.
Cũng có số ít theo Hồi giáo và Ấn giáo. Singapore chỉ có giáo phận duy nhất với vị Tổng Giám Mục và khoảng 100 Linh Mục, làm việc trong 30 xứ đạo. Từ khi độc lập vào năm 1965, Singapore tiến những bước khổng lồ về mặt kinh tế. Ngôn ngữ chính là tiếng Anh tiếp đến là tiếng Trung Hoa. Mức sống của người dân tương đối cao so với một quốc gia Á châu. Nhưng có mức sống cao, thì phải làm việc nhiều, có khi đến 9 giờ một ngày, đặc biệt những người làm việc bằng tay chân như trong các hãng xây cất. Các gia đình Singapore rất ít con, trung bình mỗi gia đình chỉ có hai người con. 80% dân Singapore sống trong các tòa nhà lớn, có kiến trúc tối tân, và thường quy tự nơi thành phố.
Về phần tôi, tôi được mọi người niềm nở đón tiếp và bắt đầu quen với cuộc sống. Chỉ còn gặp khó khăn về vấn đề ngôn ngữ. Dầu vậy tôi cũng đã giảng bằng tiếng Anh rồi, vì chúng tôi giảng theo lượt, mỗi tháng một lần. Dầu nói không rành, nhưng giáo dân cũng hiểu, vì họ rất có lòng quý mến các Cha Sở, Linh Mục thừa sai. Ở đây mọi khung cảnh đều mời gọi con người cầu nguyện, hướng lòng về với THIÊN CHÚA. Tại giáo xứ, có một phòng dành riêng để chầu Thánh Thể 24 giờ trên 24 giờ. Luôn luôn có người đến chầu Thánh Thể, đặc biệt từ 8 giờ tối đến nửa đêm.
Giáo dân thường mời các Linh Mục đi ăn tiệm. Rất giản dị và dễ thương. Riêng tôi, mỗi ngày hai bữa tôi cũng phải ra tiệm ăn, vì nhà xứ không có người nấu bếp. Kể cũng hơi cực. Nhưng chắc rồi cũng sẽ quen dần với thời gian.
... ”Kẻ kính sợ THIÊN CHÚA thì đón nhận lời giáo huấn. Ai từ sáng sớm đã kiếm tìm Người, sẽ được đoái thương. Ai tìm hiểu Lề Luật sẽ thấm nhuầm Lề Luật. Ai kính sợ THIÊN CHÚA sẽ nhận ra lẽ phải; việc tốt họ làm sẽ rực rỡ như ánh quang. Đừng hành động mà không suy nghĩ, để không hối hận về việc mình làm. Đường gồ ghề, con chớ đặt chân, kẻo vấp phải đá. Đường bằng phẳng, con đừng ỷ y. Trong mọi việc làm hãy biết tự tin, đó cũng là tuân giữ mệnh lệnh. Ai tin tưởng Lề Luật thì gắn bó với lệnh truyền. Kẻ cậy trông THIÊN CHÚA sẽ chẳng hề thua thiệt. Ai kính sợ THIÊN CHÚA sẽ không gặp tai ương. Có bị thử thách, họ cũng thoát khỏi” (Sách Huấn Ca 32,14-24/33,1).
(”ECHOS DE LA RUE DU BAC”, 3/1990).
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
Thưa cha, Giáo hội Công giáo bị mang tiếng là độc tài trong vấn đề ngừa thai không tự nhiên.
Trong khi phương pháp ngừa thai tự nhiên (Ogino- Knauss) không hữu hiệu. Vậy, nếu không ngừa bằng phương pháp nhân tạo thì sợ sinh rất nhiều con, nuôi và dậy dỗ không được. Vậy Giáo Hội Công giáo khuyên thế nào?
Giải đáp
Đọc thắc mắc của bạn tôi có cảm tưởng bạn coi Giáo Hội như một nhà độc tài luôn tìm cách đưa ra những điều luật khe khắt gây khó dễ cho dân của mình hay như một ông giám thị luôn rình rập để bắt lỗi kẻ khác. Những gì Giáo Hội đưa ra không phải là một sự áp đặt mà là phương thức giúp cho đôi hôn nhân sống đúng phẩm giá và tư cách làm cha mẹ của họ.
Trước hết, tôi muốn bạn hiểu rằng hôn nhân hướng đến thiện ích của đôi bạn trong sự hiến thân trọn vẹn trong sự kết hợp vợ chồng và thiện ích của con cái trong việc trao ban sự sống và giáo dục chúng.
Theo giáo huấn của Giáo hội việc tránh thai chủ ý nhằm không sinh sản thực chất là điều ác vì trái nghịch với thiện ích truyền sinh. Nó làm thương tổn tình yêu đích thực và chối bỏ vai trò tối thượng của Thiên Chúa trong việc thông truyền sự sống. Vì thế việc tránh thai không phải là mục đích của đời sống hôn nhân.
Tuy nhiên với tư cách làm cha mẹ được gọi là có trách nhiệm, đôi vợ chồng có thể chọn lựa số con cái để có thể giáo dục chúng trong đức tin. Họ có thể chọn phương thức xứng hợp với luân lý Kitô giáo để thực hiện việc này. Ở đây cũng cần phải lưu ý rằng chỉ khi hội đủ những lý do quan trọng về thể lý, kinh tế, tâm lý, xã hội… mới có thể áp dụng chứ không phải mọi đôi vợ chồng đều có quyền làm như vậy.
Những phương thức gọi là tự nhiên Giáo Hội đưa ra có mục đích giúp cho đôi vợ chồng có thể sống vai trò cha mẹ có trách nhiệm và đồng thời tôn trọng sự sống cũng như phẩm giá của đời sống hôn nhân. Giáo Hội cũng không tự cho mình có quyền chấp nhận những phương thức ngừa thai nhân tạo nghịch lại ý định tạo thành của Thiên Chúa. Cho nên ý tưởng cho rằng Giáo Hội “độc tài” trong vấn đề ngừa thai là do thiếu hiểu biết về Giáo Hội hoặc cố tình xuyên tạc ý muốn tốt lành của Giáo Hội.
Vì thế mà những phương pháp dựa vào chu kỳ tự nhiên của cơ năng sinh sản để điều hòa sinh sản là những phương cách thích hợp với luân lý và giáo huấn của Giáo Hội. Điều Giáo Hội nhắm đến là bảo vệ giá trị đời sống hôn nhân trong đức tin và bảo vệ giá trị của sự sống chứ không phải chọn lựa những phương pháp hữu hiệu nhất.
SỐNG MẦU NHIỆM PHỤC SINH
Trong thời đại ngày nay, nữ giới, nữ tu sống mầu nhiệm phục sinh như thế nào.
Giải đáp
Chị Thuận thân mến,
Trong thời đại hôm nay nữ giới hay nữ tu đều sống mầu nhiệm Phục Sinh như tất cả các Kitô hữu khác không có sự phân biệt nào. Tóm lại, cách sống của người Kitô hữu là từ nay "họ không còn sống cho chính mình nữa mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì họ".
Chỉ có thể tham khảo Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo từ số 599 đến 658. Tôi chỉ trích dẫn ở đây một phần từ số 651-655 để chị tham khảo :
Ý NGHĨA VÀ ẢNH HƯỞNG CỨU ĐỘ CỦA PHỤC SINH
"Nếu Đức Ki-tô không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và đức tin của anh em cũng trống rỗng" (1Cr 15,14). Trên hết mọi sự, Phục Sinh xác nhận tất cả những gì chính Đức Ki-tô đã làm và đã dạy. Khi phục sinh, Đức Ki-tô chứng tỏ Người có thẩm quyền của một vị Thiên Chúa, nên toàn thể các chân lý kể cả những chân lý mà lý trí loài người khó chấp nhận, đều đáng tin.
Đức Ki-tô Phục Sinh hoàn tất những lời hứa của Cựu Ước (x.Lc 24,26-27,44-48) và của chính Người khi còn sống tại thế (x.Mt 28,6; Mc 16,7; Lc 24,6-7). Thuật ngữ "đúng theo Kinh Thánh" (x.1Cr 15,3-4 và kinh Tin kính Ni-xê Con-tan-ti-nôpô-li) cho thấy việc Đức Ki-tô Phục Sinh hoàn tất các lời tiên báo này.
Phục Sinh xác nhận thiên tính thật của Đức Giê-su. Người đã nói : "Khi các ông đưa Con Người lên cao, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu" (Ga 8,28). Phục Sinh của Đấng bị đóng đinh chứng minh rằng Người thực sự là "Đấng Hằng Hữu", là Con Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa. Thánh Phao-lô có thể tuyên bố với người Do Thái : "Điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng ta, thì Người đã thực hiện ... khi làm cho Đức Giê-su sống lại, đúng như lời đã chép trong thánh vịnh 2 : "Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha sinh ra Con" (Cv 13,32-33). Mầu nhiệm Phục Sinh liên kết mật thiết với mầu nhiệm Con Thiên Chúa Nhập Thể. Phục sinh hoàn tất mầu nhiệm này theo ý định muôn đời của Thiên Chúa.
Có hai khía cạnh trong mầu nhiệm Vượt Qua : Đức Ki-tô chết để giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, và phục sinh để mở đường vào cuộc sống mới. Cuộc sống mới này bao hàm trước tiên là sự công chính hóa, nghĩa là đặt chúng ta lại trong ân sủng của Thiên Chúa (x. Rm 4,25), để "cũng như Đức Ki-tô đã được sống lại từ cõi chết, chúng ta cũng được sống đời sống mới" (Rm 6,4). Đời sống mới này là chiến thắng sự chết do tội lỗi gây ra và được thông phần lại vào ân sủng (x.Ep 2,4-5; 1Pr 1,3). Kế đến, đời sống mới thực hiện ơn làm nghĩa tử Thiên Chúa vì con người trở thành anh em của Đức Ki-tô, như chính Người gọi các môn đệ sau khi sống lại : "Hãyđi báo tin cho các anh em của Thầy" (Mt 28,10; Ga 20,17). Chúng ta trở thành anh em của Đức Ki-tô không phải do bản tính nhưng do hiệu quả của ân sủng, vì ơn làm nghĩa tử thông hiệp chúng ta thực sự vào đời sống Con Một Thiên Chúa, như mầu nhiệm Phục Sinh đã mặc khải trọn vẹn.
Cuối cùng, sự phục sinh của Đức Ki-tô, cũng như chính Đức Ki-tô Phục Sinh, là nguyên lý và nguồn mạch sự sống lại của chúng ta mai sau : "Đức Ki-tô đã chỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu ..., như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người, nhờ liên đới với Đức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống lại" (1 Cr 15,20-22). Trong lúc chờ đợi sự hoàn tất đó, Đức Ki-tô Phục Sinh sống trong lòng mọi tín hữu. Nơi Người, các Ki-tô hữu "được cảm nghiệm những sức mạnh của thế giới tương lai" (Dt 6,5) và cuộc sống của họ được Đức Ki-tô lôi cuốn vào trong cung lòng đời sống của Thiên Chúa (x.Cl 3,1-3), "để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình" (2 Cr 5,15).
Gm. Giuse Vũ Duy Thống
Đây là lời cuối cùng của Đấng chịu đóng đinh phán ra và cũng là lời cuối cùng trong cuộc sống của Ngài. Lời cuối cùng là lời khó nói nhất trong bảy lời, bởi vì mấy giây phút cuối cùng này thánh Matthêu ghi một kiểu, thánh Luca ghi nhận kiểu khác, và ngay cả người môn đệ Chúa Giêsu yêu dấu cũng ghi theo kiểu khác nữa. Thánh Matthêu ghi: “Chúa Giêsu thốt lên một tiếng lớn và trút linh hồn”. Maccô và Luca cũng nói tương tự: “Ngài thốt lên tiếng lớn và tắt thở”. Còn Gioan thì ghi: “Ngài gục đầu và trao Thần Khí”. Đến đó, theo như trình tự bài Passio, là chấm xuống hàng với ghi chú “Quỳ thinh lặng trong giây lát”. Giá mà chỉ có sáu lời như chúng ta chia sẻ trong những ngày qua rồi chấm dứt thì hay quá. Thế là đã hoàn tất. Nhưng việc phải đến sẽ đến. Chỉ tại Luca ghi nhận thêm lời thứ bảy cũng là lời linh thiêng nhất vào phút giây linh thiêng nhất, nên xin được chia sẻ về tâm tình phó thác. Đâu là tâm tình của Chúa Giêsu trên Thập giá khi nói lên lời phó thác? Và Linh mục hôm nay có thể sống lời này thế nào?
I. TÂM TÌNH PHÓ THÁC
Trên bức tường của Bệnh Viện Sài Gòn, người ta thấy có ghi khẩu hiệu: “Đến đón tiếp niềm nở, ở chăm sóc tận tụy, đi dặn dò kỹ lưỡng”. Câu đó được dành cho những người làm việc tại Bệnh Viện, nhưng thử áp dụng vào cung cách của Chúa Giêsu trong cuộc sống làm người cũng thấy thích hợp. Khi đến trên trần gian Ngài đã đón tiếp tất cả mọi người cách niềm nở và khi ở gần gũi bên mọi người thì Ngài chăm sóc họ tận tụy hết sức, để rồi giờ phút này ra đi Ngài còn để lại những lời dặn dò thật kỹ lưỡng.
1. Lời âm thầm phó nộp xác thân
Lời cuối cùng trong bảy lời phán ra từ đỉnh cao Thập giá. Gọi là lời cuối cùng vì sau đó không còn lời nào nữa, lời trước lời nói này là lời hoàn tất và sau đó là sự im lặng. Nhưng cũng là lời được xem là linh thiêng nhất.
Lời linh thiêng vì tóm kết những lời khác.
Nếu nhìn trong cương vị của Chúa Giêsu trong từng lời, người ta sẽ thấy một sự thay đổi thật linh động. Lời thứ nhất trong cương vị trạng sư đầy uy lực, Đấng trung gian duy nhất bên tay hữu Chúa Cha, có khả năng và nhiều khả ái để biện hộ, bào chữa, bênh vực, chở che; lời thứ hai được phán ra cách oai phong như Vì Vua cứu thế đường bệ trong vương quốc của mình; lời thứ ba gói ghém trong vòng thân thương “nhất cận lân nhì cận thân” bà con họ hàng dòng tộc của “một người làm quan cả họ được nhờ”; lời thứ tư thảng thốt buộc miệng thốt ra trong thân phận của “người tôi tớ đau khổ” đang bị dập dùi xuống tận đất đen của vực sâ nhân tình; lời thứ năm cụt ngủn của người hành khất đói khát van xin chờ đợi một tương lai rực rỡ như xưa Ngài đã bộc bạch: “Ta đã mang lửa xuống thế gian và Ta chẳng ước ao điều gì ngoài việc thấy lửa ấy cháy bừng lên” (Lc 12, 49); lời thứ sáu trong cương vị của Đấng Cứu Thế thanh thản ngoảnh đầu nhìn lại quá khứ tự thấy đã sống hết mình và hết tình cho công cuộc cứu độ nhân gian; và lời thứ bảy đậm đà nỗi niềm dâng hiến của Chúa Con trong tay Chúa Cha dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Trong bẩy lời từ Thập giá, lời cuối cùng trong cương vị Chúa Con đã tóm kết hết những cương vị khác của Đấng từ trời xuống thế “vì loài người và để cứu rỗi loài người”.
Và nếu nhìn đối tượng trực tiếp những lời ấy nhắm đến, người ta cũng thấy một sự thay đổi lạ lùng. Lời thứ nhất gởi đến các tội nhân cho họ cơ hội tìm về nẻo đường ơn thánh; lời thứ hai mở sang những người đang phải đối mặt với cảnh ngộ gian nan khốn khó, để họ đừng bao giờ tuyệt vọng, đừng bao giờ bỏ quên lẽ cậy trông, hay nói theo tựa đề một cuốn sách là “tuyệt vọng mà vẫn một lòng cậy trông”; lời thứ ba mở ra nẻo đường hạnh phúc cho tất cả những ai muốn nên hoàn thiện, những ai được Chúa gọi đến đứng gần Thánh giá cách này cách khác để bất giác thấy mình được kết nạp vào trong tình thân và thấy mình trở thành người nhà của Đấng Cứu Thế; lời thứ tư chính là lời cúi xuống với kẻ khốn cùng, kẻ bị hiểu lầm, kẻ thất bại, kẻ cô đơn để thêm đồng cảm và nhận ra giá trị của đời tư nơi Thánh giá; lời thứ năm gởi đến mọi người hôm nay biết mình đói khát vật chất hoặc tinh thần, để cũng biết nhìn lên Thánh giá Chúa Giêsu, nguồn giải khát cũng là nguồn giải thoát tận căn cho mọi khát vọng tâm hồn; lời thứ sáu kêu gọi các thừa tác viên được trao gởi một sứ mạng nào đó trong Giáo hội lữ hành, để miệt mài chăm lo sao cho vuông tròn nhiệm vụ của người tôi tớ “làm việc phải làm”; và lời thứ bảy dành cho kẻ nhắm mắt lìa đời trong thân phận con người phải chết, để bền bỉ phó thác đến cùng. Rõ ràng, lời kết của Chúa Giêsu đã tóm kết tất cả mọi đối tượng Ngài nhớ đến bằng hình ảnh của con người phải chết.
Lời linh thiêng vì làm nên giờ G của Chúa Giêsu.
Giờ G, giờ mà Chúa Giêsu đã nhiều lần xa gần nói đến, cách riêng trong Phúc Am Gioan, nhưng chính khi bị treo lên Thánh giá, giờ này mới trở thành hiện thực một cách bi thương nhất. Chúa Giêsu trong cuộc sống công khai loan báo Tin Mừng, đã từng ra tay chữa lành những bệnh nan y để mang lại cho người ta sức khỏe, đã từng chiến thắng tử thần một cách ngoạn mục khi trả lại sự sống cho những người đã chết, thế mà giờ này, Đấng là chủ sự sống lại phải trao thân vào tay thần chết, chấp nhận bị giết. Đây có lẽ là góc cạnh khủng khiếp nhất Chúa Giêsu đã nghĩ đến trong vườn Cây Dầu với mồ hôi loáng máu qua hình tượng Chén đắng Ngài phải uống cạn. Nhưng trên hết vẫn là niềm tin tưởng. Giờ G, giờ trút bỏ ý riêng để phục tùng thánh ý Chúa Cha. “Nếu được, lạy Cha xin cất chén tử nạn cho con; nhưng thôi, đừng theo ý con, chỉ theo ý Cha mà thôi” (Mt 26,39). Nghe trong lời thứ bẩy trước khi phó thác linh hồn đã âm thầm có sự phó nộp xác thân.
Thiên nhiên vốn độc lập với những tâm tình của con người, như trong sa mạc nắng cháy, ai đi ngang qua đó cũng phải khiếp sợ, nhưng những bông hoa xương rồng mỗi ngày vẫn cứ nở rộ khoe sắc khoe hương; như chiến tranh xảy ra khốc liệt ở đâu đó, ai gặp cũng phải khủng hoảng, nhưng lủ chim trên trời vẫn gọi nhau cất tiếng hót líu lo hòa bình. Thế mà trong giờ G này, khi Chúa Giêsu lìa bỏ thế gian mà về cùng Cha. Tin Mừng mô tả: mặt trời ngưng chiếu sáng. Thái Dương tắt thở. Vầng Ô phải nộp ánh sáng của mình cho bóng tối. Vua sự sống đã tử trận. Rõ ràng là có sự đồng cảm rất đặc biệt giữa thiên nhiên và giờ Chúa Giêsu nhắm mắt lìa đời.
Nhớ lại hình ảnh một cha già hấp hối với những hơi thở hổn hển, lồng ngực phồng lên, mắt mở ra nhìn chung quanh một lượt như muốn giã biệt và thở hơi cuối cùng, để rồi liên tưởng tới Đấng chịu đóng đinh đang hấp hối thốt ra tiếng lớn rồi tắt thở, tôi mường tượng rằng có lẽ Ngài đã phải đối mặt với một sự cắt đứt không êm ái để giờ G được thành sự. Nếu bằng âm vang Chúa Giêsu thốt lên: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”, thì trong âm thầm của cái nhìn trần thế, có thể diễn tả rằng Ngài phó nộp thân xác cho sự chết : Ngài gục đầu tắt thở.
Lời linh thiêng vì là lời của quyết định xé lòng.
Văn hào Tagore đã có mấy vần thơ được dệt nhạc, để cứ mỗi lẫn lễ an táng, cách riêng, lễ an táng của một cha sở, ca đoàn hát lên: “Xin giã biệt mọi người, tôi ra đi lần cuối, không bao giờ trở lại, hẹn mai sau Nước Trời”. Trong tâm tình của một người, sống tâm linh, ông có thể ghi như thế, không bao giờ trở lại trần thế này nữa. Thế nhưng, áp dụng vào Đấng Cứu Thế với lời cuối cùng, Ngài biết rất rõ Ngài sẽ có ngày quang lâm, lại đến trong vinh quang; nhưng giờ G phải thốt lên lời cuối cùng, Ngài vẫn cảm thấy rùng mình.
Theo cách diễn tả của ĐHY FX Nguyễn Văn Thuận, đời của Đức Giêsu luôn luôn gắn liền với con số 3: 30 năm ẩn dật, 3 năm công khai, 3 giờ hấp hối, 3 ngày trong mồ…, ta có quyền đoán 3 phút hoặc 3 giây trong ranh giới mong manh của sự chết và sự sống. Lời thứ bẩy, lời bản lề giữa tử nạn và phục sinh, lời biên cương giữa trần thế và Thiên đàng, lời phân ranh giữa Thập giá và vinh quang, lời sau đó “màn trong Đền thờ xé ra làm đôi”, chính vì vậy, cũng được nhìn như là lời linh thiêng nhất chất chứa cả nỗi niềm của Chúa Giêsu trên Thập giá, trong đó không loại trừ khả năng có quyết định xé lòng là sẵn sàng phó nộp xác thân cho sự chết. Đúng là trước khi ra đi, Ngài dặn dò kỹ lưỡng.
2. Lời tin tưởng phó dâng linh hồn
Lời cuối cùng của Chúa Giêsu trên Thập giá chính là lời phó dâng linh hồn. Đây là ý nghĩa trực tiếp của ngôn từ.
Chết là một nỗi đau. Chúa Giêsu thốt lên một tiếng lớn trong giờ G. Nhưng chết không phải là hết, mà chính là một cõi đi về, một sự trở về, Chúa Con trở về với Chúa Cha, Chúa Con sau khi hoàn thành sứ vụ của mình trong công cuộc nhập thế và cứu đời, Ngài trở về với Chúa Cha. Từ tay Chúa Cha, người Con chí ái đã đến trên trần thế, nay rời bỏ thế gian, người Con ấy về lại trong tay Cha mình. Nếu như cõi đi về của Trịnh Công Sơn là một cõi ray rứt, nhiều quyến luyến, gần mà lại xa, thì cõi đi về của Đấng Cứu Thế là một cõi rất quen thuộc, không phải là một không gian, mà chính là tấm lòng của Cha: “Trong tay Cha, con xin phó thác hồn con”.
Cũng như lời đầu tiên, lời thứ bẩy được khởi đầu bằng chữ xưng hô “Lạy Cha”, nhưng lại khác lời thứ nhất, vì trong lời này Chúa Giêsu chẳng cầu xin cho ai, chẳng biện hộ cho ai, Ngài không xuất hiện trong dáng dấp của một luật sư giàu lòng thương xót như lời thứ nhất, mà chỉ mình Ngài trong tư cách là con người phải chết và trong tư cách là người Con trực diện với Chúa Cha để phó linh hồn trong tay Cha mình. Như thế, “sống gởi thác về” không phải chỉ là một kinh nghiệm dân gian, cách riêng Á Đông, trong lời thứ bẩy cũng sáng lên kinh nghiệm ấy.
Đây là một cuộc trở về nhà Cha mà ĐC Fulton Sheen đã khéo lập lại hình ảnh “ Người con phung phá” trong Phúc Am thánh Luca để diễn tả, Đấng Cứu Thế chính là Người Con phung phá, rời bỏ nhà Cha đến với trần thế trong công cuộc nhập thể, sau khi đã phung phá hết tuổi xuân vào canh bạc tình yêu và lòng thương xót, sau khi đã phung phá hết nhiệt huyết hết cho lời giảng Nước Trời và nẻo đường sự thật, sau khi đã vét cạn vốn liếng sự sống để thi thố các phép lạ và chữa lành bệnh tật. Thậm chí trên Thánh giá còn phung phí đến giọt máu và nước cuối cùng. Coi như cạn vốn, cháy túi, trắng tay. Hôm nay, bằng lời thứ bảy, Ngài trở về nhà Cha mình với tấm thân rách nát đòn vọt, tay chân hằn đậm vết đinh, không phải để tố giác sự tàn bạo của chương trình cứu độ, mà chỉ để cho nhân thế hiểu rõ hơn tấm lòng của Chúa Cha; một khi đã phung phí tình yêu thì phung phí đến hết. Ngày phung phí lòng thương xót của Ngài bằng cách trao ban chính người Con duy nhất của Ngài, và còn phung phí cho đến cùng bằng cách đẩy Người Con Một ấy đến với ranh giới sống chết của lời thứ bảy hôm nay “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một mình” (Ga 3,16). Yêu thương đến thế là cùng. Chúa Con làm công cuộc cứu thế không phải một mình, mà Ngài luôn thực hiện với sự hiện diện của Chúa Cha. Trong tay Chúa Cha, Chúa Con đã thực hiện trọn vẹn công trình cứu độ. Cha Con đồng hội, đồng thuyền với nhau trong một chương trình. Giờ đây, mọi sự đã hoàn tất, trong tay Chúa Cha, Chúa Con tìm về.
Nhà thơ Huy Cận có bài thơ mang âm hưởng tâm linh: “Hỡi Thượng Đế, tôi cúi đầu trả lại. Linh hồn tôi đã một kiếp đi hoang. Sầu đã chín, xin Ngài thôi hãy hái. Nhận tôi đi dầu địa ngục thiên đàng”. Lời thơ thì hay, đậm đà nét lãng mạn thời đại ông. Ơ đây dẫu có chút gì đó trao gởi về Thượng đế, nhưng là một chút nghi hoặc, vấn vương, bất kể thiên đàng địa ngục. Còn chính trong lời thứ bảy của của Chúa Giêsu trên Thánh giá là lời phó dâng hoàn toàn, trọn tình, tất cả. Lời tin tưởng phó dâng trong chuyến tìm về. Tìm về người xa có thể ngại ngùng, tìm về người lạ có thể ngượng nghịu, nhưng tìm về người thân để trao vào tay mọi lẽ mất còn, một vòng sinh tử thì phải nói là tuyệt vời tin tưởng chỉ có thể có nơi Chúa Giêsu trên Thánh giá khi phó dâng hoàn toàn trong tay Chúa Cha.
3. Lời linh thiêng phó thác tương lai
Chúa Giêsu phó dâng hồn mình trong tay Chúa Cha, và đây cũng chính là lời dặn dò cho tất cả những ai đọc lại trong Tin Mừng: với lời cuối cùng này, Chúa Giêsu còn để lại cho nhân loại một lời phó thác vào tương lai và cho tương lai, một tương lai dẫu chưa minh nhiên nhưng mặc nhiên lộ diện qua dữ kiện của trang Tin Mừng hôm nay, cũng như trang Tin Mừng tương cận của các thánh sử. Thánh Gioan ghi rằng: Chúa Giêsu gục đầu trao Thần Khí, và Nhất Lãm cũng nói đến việc trút linh hồn, tắt hơi thở. Có sự tương đối giữa “Thần Khí, hơi thở, linh hồn”. Theo lời chú giải hiện nay, chúng ta được nhắc nhở không nên loại trừ khả năng gợi mở về Chúa Thánh Thần ở đây. Trong TĐ. TCLTY số 19, Đức Beneditô XVI cũng ghi: “Khi chết trên Thánh giá, Đức Giêsu đã trao Thần Khí, báo trước quà tặng là Chúa Thánh Thần mà Người sẽ ban sau khi phục sinh”.
Dữ kiện Tin Mừng cho thấy, đã tự nhiên xuất hiện bóng dáng của Chúa Thánh Thần trong chương trình cứu độ của Chúa Giêsu vào chính lúc Ngài lìa đời và nói lên lời phó thác hồn mình trong tay Cha. Nhưng một chi tiết ta không quên ghi nhận là chữ “trong tay Cha”, Thánh Thần đến không phải do tự Ngài mà chính Chúa Cha gởi đến. Điều này, sinh thời Chúa Giêsu cũng đã minh định, nhưng trong lời thứ bảy này, có những dấu chỉ để khẳng định thêm: chính vào giờ tử nạn, Thánh Thần có mặt để mở ra cho con người một tương lai, một thì sẽ đến, một cánh cửa của sự sống; và cũng chính ở đây, giờ G không còn là giờ khủng khiếp nữa, mà đã từ từ chuyển sang gam màu mới của giờ vinh quang.
Nếu có bài hát “Hỡi không gian rũ sương mù” nói lên tính cách ảm đạm của chiều tử nạn, thì với lời thức bảy, người ta thấy bóng dáng của Thánh Thần từ từ tiến đến để dẫn Đức Kitô bước vào trong vinh quang phục sinh, khai mở một kỷ nguyên mới , kỷ nguyên trong Chúa Thánh Thần, Thánh Thần là vị Chúa “đến”. Người tây vẫn thích diễn tả về Chúa Thánh Thần bằng cách chơi chữ đong đưa giữa “Dieu à venir” (Thiên Chúa phải đến) với “Dieu de l’avenir” (Thiên Chúa của tương lai), để rồi cho thấy Thánh Thần là Thiên Chúa của sự sống mới mẻ, của những bất ngờ, của làn gió mới, của đoàn sủng, của nhịp sống Giáo Hội. Chính vì vậy, ngày hôm qua cũng như ngày hôm nay, người ta thấy Chúa Thánh Thần vẫn được trình bày trong dáng dấp của những hình ảnh rất linh động, rất sinh động đầy tính hoạt động, và phải nói là cũng mang tính di động nữa. Nước, gió, lửa… tất cả đều nói lên sự sống một cách sinh động.
Có lẽ ở đây quý cha cũng dễ dàng nhận diện về các kinh đọc về Chúa Thánh Thần, động từ “đến” được sử dụng cách đặc biệt, “Veni Creator Spiritus”, “Thánh Thần khấn xin ngự đến”… Động từ “đến” là động từ dành riêng cho Ngài, và Ngài đến cách lặng lẽ vào lúc nói lên lời thứ bảy, làm cho lời ấy trở thành lời linh thiêng nhất trong bảy lời của Chúa Giêsu trên Thánh giá. Linh thiêng ở đây xin hiểu là thiêng liêng, nhưng không phải là “vô hình” như kiểu diễn tả “Thiên thần là loài thiêng liêng Chúa đã dựng nên để thờ phượng Chúa” mà là “thuộc linh hay linh thuộc ” như kiểu diễn tả ngày nay để chỉ về Chúa Thánh Thần.
Tìm hiểu lời cuối cùng của Chúa Giêsu trước lúc ra đi, bất giác nhớ đến lời của Tagore: sự chết không hiện diện độc lập, nhưng là một thành phần của sự sống. Điều đó đúng với nhãn giới tâm linh của ông và còn đúng hơn trong bước đường và chương trình của Đấng Cứu Thế. Khi Ngài phó nộp xác thân cho sự chết, cũng chính là lúc Ngài phó dâng linh hồn trong tay Cha và qua đó phó thác tương lai trong sự hiện diện của Thánh Thần.
II. TÂM TÌNH PHÓ THÁC TRONG ĐỜI LINH MỤC
Với lời thứ bảy, Chúa Giêsu bước vào im lặng, và cũng với lời thứ bảy, Ngài mở ra cánh cửa tương lai trong sự chào đón của Chúa Thánh Thần. Chết là thành phần của sự sống, lời của Chúa Giêsu đúng là lời phó thác, là lời dặn dò cho mỗi người. Đó là lời phó thác đầy tin yêu của Đấng Cứu Thế, nhưng lời ấy, tâm tình ấy có thể soi sáng điều gì trong đời sống Linh mục hôm nay?
1. Phó thác như một tâm tình
Phó thác là một tâm tình được vận dụng rất nhiều trong đời sống Linh mục với tư cách là mục tử của cộng đoàn, và cách riêng khi Linh mục cảm thấy bất lực, mỏi mệt, bó tay trước những vấn đề đặt ra cho mục vụ hiện thời. Rất tự nhiên tôi muốn ghi nhận tâm tình phó thác của các mục tử trước cách sống của giới trẻ hôm nay. Các cha phục vụ giáo xứ dù ở thôn quê hay ở thành thị cũng ít nhiều bị đưa đẩy đến những vấn đề của thời cuộc mà nhiều khi khổ công giải quyết nhưng kết quả chẳng được là bao. Nỗ lực làm việc và phó thác. Đây chính là châm ngôn dành cho các mục tử trong trường hợp này.
Giới trẻ ngày nay xem ra thiếu vắng lý tưởng sống . Nhiều khi lý tưởng đối với chúng chỉ là điều chúng “tưởng có lý” chứ không phải là lý tưởng cao đẹp phải đánh đổi cả cuộc đời để mà đi theo. Có người bảo rằng lý tưởng giới trẻ hôm nay đã làm giàu cho đất nước. Xét theo nghĩa nào đó thì cũng đúng, nhất là trong bối cảnh kinh tế thị trường. Nhưng làm giàu mà chẳng đếm xỉa gì đến nhân phẩm, nhân cách của mình và hạnh phúc của người khác, nhất là những người thân, thì rõ ràng đã là làm “rầu” cho xã hội, cho gia đình và cho bản thân. Trong số những phạm nhân, người Công giáo cũng chiếm một tỉ lệ đáng kể. Tại trung tâm phục vụ người sida Mai Linh, khi Linh mục được phép đến làm lễ Chúa nhật, thì cũng tự nhiên hình thành một ca đoàn trong đó các ca viên đều là người ở trong giai đoạn lây nhiễm. Họ hồi xưa là những sinh viên đã từng có tuổi trẻ hồn nhiên, vui tươi giữa lòng xứ đạo, thế mà giờ này lại bị gia đình và xã hội ruồng bỏ. Tỉ lệ đó là 10%.
Giới trẻ ngày này còn thiếu điểm quy chiếu tin cậy . Thị trường thì đã có Co-op Mart “nơi mua sắm đáng tin cậy” như lời quảng cáo, hàng hóa cũng có món “cho bạn niềm tin”, nhưng lãnh vực tâm linh xem ra vẫn còn bỏ ngỏ. Điểm quy chiếu của giới trẻ không còn là một vị thánh hoặc một vị anh hùng như ngày xưa, mà xem ra lại là những lối sống tha hóa và thoái hóa (Giầu đi xe hơi uống bia ôm, nghèo đi xe ôm uống bia hơi). Khổ. Nhiều cha sở chia sẻ: Khuyên bảo nó cũng chẳng nghe, răn đe nó cũng chẳng chịu; nũng nịu nó cũng chẳng xong, còn mong gì nữa? Biết làm sao đây ngoài tâm tình phó thác.
Ay là chưa nói đến khuynh hướng thực dụng và phong trào hưởng thụ vốn đã len lỏi vào ngỏ ngách của những khu phố văn hóa ở cấp độ ấp, phường. Ngày xưa hôn nhân là chuyện trăm năm, phải xem xét kỹ lưỡng, “lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống”; ngày nay xem ra hôn nhân chỉ là chuyện nhỏ, có gì phải ồn ào tính toán. Nếu “Yêu không so đo, bỏ không đau khổ” đó là lựa chọn của một số người trẻ thành thị, thì “Yêu em cho nó đỡ buồn, đến khi tốt nghiệp anh chuồn về quê” cũng trở thành lối sống của một số bạn trẻ từ quê lên tỉnh học hành nhưng sớm tập tành thói quen thực dụng. Đó đây các cha còn hay chia sẻ nỗi khổ tâm mục vụ tình yêu cho những trường hợp đặc biệt như “ăn cơm trước kẻng”, tạm ứng tình yêu, hôn nhân thử, hôn nhân thách… Ở miền Tây có một đảo nhỏ mệnh danh là “đảo Đài Loan”, tưởng là khu công nghiệp hay khu chế xuất, hóa ra chỉ là đảo có số thiếu nữ lấy chồng Đài Loan cao nhất nước. Hầu như nhà nào cũng phấn đấu, từ nhà ông chủ tịch Hội đồng Mục vụ cho đến nhà ông chủ tịch Phường, để làm sao bắt được một chú rể người Hoa về nhà mình là “hảo hảo” rồi. Không chỉ cha sở bó tay, mà ngay Đức Giám mục sở tại cũng chịu tay bó đóng đinh.
Có lần đến thăm một “nhà mở”, nơi tiếp nhận những cô gái cơ nhỡ nhằm giúp họ vượt qua giai đoạn khó khăn lúc “vượt cạn một mình”, tôi gặp thấy những gương mặt quá trẻ, thậm chí có cô còn hồn nhiên giới thiệu mình trước là đệ tử trong một dòng tu. Tội nghiệp. Giữa những cơn hỗn mang ngổn ngang của nhu cầu mục vụ mà người đệ tử chẳng thể làm gì hơn sự đồng cảm và nâng đỡ, lúc ấy tâm tình được vận dụng vẫn cứ là phó thác chẳng ngơi.
2. Phó thác qua lời kinh đêm
Nhưng phó thác không chỉ đọng lại như một tâm tình, cho dẫu là tâm tình mang nhiều hơi thở cuộc sống mà hằng ngày khi nhìn lại người đời và đời người, linh mục còn biết tất cả thành lời kinh phó thác: “Trong tay Ngài, lạy Chúa, con xin phó thác hồn con”.
Khép lại một ngày sống, nhìn lại những việc mình phải làm trong nhiệm vụ, nhưng vì những nguyên do khách quan, mình lại chẳng được làm, có lẽ linh mục bất giác xúc cảm chí ít cũng có chút gì mũi lòng nếu không muốn nói là phẫn nộ ở những cấp độ khác nhau tùy theo trách nhiệm của mình liên quan trực tiếp hay gián tiếp. Chỉ xin đan cử trường hợp một gia đình trẻ, cưới nhau được năm năm, có hai mặt con nếp tẻ đầy đủ, việc làm tương đối khá; tưởng rằng hạnh phúc dâng đầy, ấy thế mà lại đùng đùng nộp đơn xin ly dị ở tòa đời. Cha sở can ngăn không được. Cha mẹ can gián chẳng xong. Bạn bè khuyên lơn cũng mặc kệ. Ly dị đã là tệ, nhưng tội nhất là mấy đứa trẻ ngơ ngác bị mồ côi ngay khi cha mẹ còn sống. Cuối năm, báo Thanh Niên có đưa ra một tổng kết đáng buồn: nếu trong thập niên 90, khi ra tòa xin ly dị, 90% cha mẹ còn giành nhau quyền chăm sóc con cái, thì vào đầu thế kỷ 21, tình thế lại hoàn toàn đảo ngược, 90% cha mẹ sẵn sàng từ chối trách nhiệm đối với con cái của mình. Chăm lo hạnh phúc gia đình, đó là một mặt trong trách vụ mục tử, nhưng thử hỏi Linh mục có “được làm”! Thôi thì phó thác “mưu sự tại nhân thành sự tại thiên”, biết làm thế nào khi chẳng được làm? “in manus tuas, Domine”.
Ngay cả những việc được làm, thế nhưng chỉ vì nguyên do chủ quan, Linh mục đấm ngực nhận mình đã không “làm được” đến nơi đến chốn. Ví dụ việc thánh hóa bản thân. Mỗi tối nhìn lại chính mình, có lẽ Linh mục cũng ngỡ ngàng thấy lời thánh Phaolô sao mà lại đúng với cá nhân mình đến thế: “Việc tôi phải làm, tôi không làm cho trọn; việc xấu muốn tránh, tôi chẳng tránh đến cùng” (Rm 7,15). Tại sao nhân đức như lúa tốt chăm hoài vẫn khó mọc, trong khi nết xấu như cỏ dại nhổ mãi vẫn cứ còn? Kinh nghiệm của ĐGH Gioan XXIII qua trang nhật ký: “Tôi nghĩ mình đã là cậu bé Séraphim, nhưng tôi vẫn còn là chú nhỏ Liciphe” (Senatus, Saigon 1970, tr.40) xem ra không phải là trường hợp cá biệt? “Tinh thần thì mau mắn nhưng xác thịt lại yếu đuối”, lời Chúa Giêsu nói với ông Phêrô dường như cũng muốn nói cho chính mình? Biết làm sao hơn? Thôi thì phó thác. Gợi hứng từ phong trào 4T trước đây vốn thoát thai từ phong trào 4H của Mỹ (Head, Hand, Heart, Health), ta có thể thưa lên: “Trong tay Ngài, lạy Chúa, con xin phó thác đời con: Trí con, Tay con, Tim con và Thân con”.
Vượt trên sự bi lụy về hoàn cảnh và sự bi quan về chính mình, tâm tình phó thác theo nhãn giới lời thứ bảy của Chúa Giêsu trên Thánh giá là một niềm hy vọng, giống như đêm về là đợi chờ bình minh sẽ đến đem lại ánh sáng dẫn ta bước vào ngày mới trong tin yêu. Thân xác nghỉ ngơi, nhưng linh hồn tỉnh thức, và dù thức hay ngủ vẫn cứ an bình. Ngày mai trời lại sáng, thánh Ignatiô bằng kinh nghiệm chiến đấu, đã để lại cho những con tim thao thức một lời khuyên tuyệt vời: “Lãm việc như chỉ một mình, đợi chờ kết quả như chỉ một mình Chúa ban”. Nỗ lực và cậy trông, thiết nghĩ đó không chỉ là châm ngôn của tủ sách “học làm người”, mà còn là gợi ý cho tâm tình phó thác trong lời kinh đêm của mỗi Linh mục.
Truyện “Dấu chân trên bãi cát” kể rằng: Ngày vui, một mình dạo chơi trên bãi biển đong đưa theo gió từng ý nguyện lời kinh; cuối ngày nhìn lại thấy hai hàng dấu chân to nhỏ nhẹ nhàng thật đẹp. Hỏi: Sao vậy? Chúa trả lời: Ta dắt con đi đấy. Ngày buồn, cũng đi dạo như thường lệ, nhưng cuối ngày nhìn lại chỉ thấy một hàng dấu chân to in trên cát. Hỏi: Sao vậy? Chúa trả lời: Ta vác con trên vai đấy. Phó thác là chấp nhận được Chúa vác trên vai.
3. Phó thác trong giờ lâm tử
Nói gần nói xa chẳng qua nói thật, lời thứ bảy của Chúa Giêsu trên Thánh giá là lời cuối cùng trước khi tắt thở, nên cũng trực tiếp đưa ta về với ý nghĩa liên quan đến sự chết. Linh mục trẻ, đời còn dài, nên ít khi nghĩ về ngày mình sẽ ra đi. Nhưng linh mục trọng tuổi thấy quỷ thời gian của mình ngày càng thu ngắn lại nên có nghĩ về sự chết cũng là chuyện thường tình. Nhưng trẻ hay già, nghĩ hay không nghĩ, sự chết cứ lững thững tiến tới. Nếu có ai đó bảo “sống là chuẩn bị chết” thì dù chẳng phải là triết gia, trong trường hợp này ta cũng thấy quả là ám hợp. Nhưng chuẩn bị chết ra sao cho hợp với tinh thần phó thác? Hay nói cách khác chuẩn bị sống mai sau ra sao cho phù hợp với thân phận phải chết hôm nay? Đó là cả một vấn đề không nhỏ trong hành trình của đời Linh mục.
Tất nhiện sống chết là ở “trong tay Chúa” như kiểu nói bình dân của tín hữu Việt Nam vẫn mang đậm mầu phó thác, và Linh mục qua trách vụ giảng dạy cũng không mệt mỏi lập lại với các tín hữu những chân lý này trong dịp lễ an táng, nhưng thực tế vẫn có những điều khiến Linh mục phải trăn trở và thường khi trở trăn hoài mà vẫn cứ xảy ra giữa hàng Linh mục như một vết lăn. Tôi muốn nói đến sự thiết thân và thiết thực của việc chuẩn bị chết.
Vào những dịp Ngân khánh Kim khánh, chắc có cha đã có lần nghe lại ca khúc “Con Linh mục” của hai tác giả Linh mục, trong đó có câu nói lên ước vọng thật nên thơ và cũng thật đáng ước mơ của đời Linh mục: “Con Linh mục, con muốn chết ở chân bàn thờ”. Nhưng ước mơ đẹp ấy lại rất hiếm xảy ra. Thực tế cho thấy Linh mục thường không chết ở chân bàn thờ giữa lòng một cử hành phụng vụ, mà lại chết ở những chỗ sinh hoạt hằng ngày như trên giường hoặc trên đường, trên bàn làm việc hoặc trên bàn mổ. Ngay tác giả của ca khúc trên, một buổi sáng cũng được người ta tìm thấy chết ở chân một thứ bàn khác kìa. Về phương diện này, thân phận Linh mục cũng giống thân phận của bất cứ ai. Vì thế, chuẩn bị chết được xem là một trong số những hành trang Linh mục phải sắm sửa cho mình. Về tinh thần, chính là lòng phó thác; về vật chất, chính là tờ di chúc.
Nhiều Linh mục ngay từ những thập niên đầu đời phục vụ đã chuẩn bị kỹ lưỡng và viết di chúc vào những dịp tĩnh tâm hằng năm. Đó là một thói quen tốt lành cần được nhân lên thêm mãi. Bản thân tôi đã được công bố di chúc của một vài cha trong thánh lễ an táng. Một vài cha trẻ cũng đến mượn nơi tôi một biểu mẫu di chúc để về thực hiện. Điều cần tránh trong di chúc là những chi tiết quá tỉ mỉ như xác định ai là người tẩm xác liệm xác khiêng xác. Có trường hợp buồn cười là người được phân công lại ra đi trước, trong khi Linh mục yếu liệt không thể chỉnh sửa được di chúc của mình. Tuy nhiên, lại có nhiều trường hợp Linh mục ra đi không để lại di chúc. “Mắt nhắm lại rồi là thấy tương lai”, một thứ tương lai đầy bối rối cho cả người thân lẫn giáo xứ. Tài sản chính đáng nếu không phân định rạch ròi sẽ gây rối ren giành giựt. Sổ sách nếu không phân minh công tư sẽ gây phiền hà khó nghĩ. Con cái có thể trăn trối lại, nhưng nợ nần thì tuyệt đối không nên có mặt trong tờ di chúc. Khổ cho mọi người. Có Linh mục khi khuất rồi, người ta tìm thấy nhiều bó tiền rải rác mà không biết ngọn nguồn gốc gác hay địa chỉ phải trao. Tội nghiệp con cháu đứng trố mắt nhìn, và cũng tội nghiệp Tòa Giám mục phải cho người đếm mỏi tay.
Trong tay Ngài, lạy Chúa, con xin phó thác hồn con. Phó thác ở đây có thể hiểu theo kiểu đong đưa từ ngữ, vừa là biết phó dâng tất cả khi phải thác đi, vừa là thác đi rồi mà vẫn cứ mãi phó dâng, xin bình an cho kẻ ra đi cũng như cho người còn ở lại.
Kết:
Tóm lại, lời cuối cùng của Chúa Giêsu cho thấy một tâm tình phó thác hoàn toàn được Ngài chuẩn bị kỹ lưỡng, từ phó nộp thân xác đến phó dâng linh hồn và không quên mở ra cho Giáo Hội một tương lai mãi mãi phó thác. Lời Chúa là ánh sáng, trong ánh sáng Chúa, ta gặp được ánh sáng cho cuộc đời. Với ánh sáng lời thứ bẩy, Linh mục gặp được một mẫu gương và một nguồn lực để nuôi dưỡng tâm tình phó thác trên đường phục vụ. Sẽ không luôn suông sẻ trong mọi nhịp phó thác, như chính cung giọng bẩy lời của Chúa Giêsu đã cho thấy, lúc thì thân thương gần gũi “lạy Cha”, lúc thì “lạy Thiên Chúa” cách xa nghìn trùng, nhưng sẽ luôn gặp được trong mỗi lời một sự sẻ chia gợi đến tin yêu của vị thầy cứu độ, hoặc trong dung mạo của trạng sư, của vua chúa, của người thân, của người nghèo, của kẻ đói khát, của kẻ hoàn thành nhiệm vụ, và trên tất cả của Con Chúa Cha để cho mọi người được làm con Chúa.
TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH
Trên phong bì mà đôi hôn nhân hôm nay gởi mời tôi, có một chữ Hán rất to. Đó là chữ Song Hỷ. Hai chữ Hỷ ghép bên nhau, thành một chữ Hỷ lớn.
Hỷ có nghĩa là vui. Đúng rồi, ngày cưới là ngày vui nhất của cô dâu chú rể.
Bây giờ A và B đang rất vui. Hai niềm vui góp lại thành một.
Vui bởi hai người đã cưới được nhau, sau bao tháng ngày quen biết, tìm hiểu, cân nhắc và đợi chờ.
Nhưng có một điều vô cùng quan trọng, hai người cần cảnh giác, để khỏi rơi vào sự lầm tưởng tai hại:
Tưởng rằng, hôm nay lấy được nhau rồi, như thế là tình yêu đã cặp bến.
Không phải thế đâu, hôm nay, ngày cưới, mới là ngày Tình Yêu chính thức ra khơi. Những tháng ngày quen biết trước đây, chỉ là những khúc dạo đầu dò đường. Từ giờ phút này, phần thể hiện tình yêu mới thực sự bắt đầu.
Nếu A thực sự yêu B, thì từ giây phút này trở đi, A đã là người chồng. Một người chồng đáng được kính trọng. Hãy đối xử, ăn nói, sao cho ra một người chồng thực sự yêu vợ.
Người yêu vợ đích thực, thì phải nói với vợ với giọng điệu nào, những lời lẽ thế nào, để cho vợ vui, vợ thấy phấn khởi. Để làm tốt được điều này, người chồng phải biết cúi xuống mà lắng nghe những tâm sự của vợ. Nhờ đó, hiểu được nỗi lòng, hiểu được ước muốn.
Người yêu vợ đích thực, là người không bao giờ được phép quên về trách nhiệm làm chồng của mình. Làm chồng thì phải có bổn phận lo lắng và chăm sóc cho vợ và gia đình. Đầy người đàn ông xấu nết trong xã hội. Quên mất trách nhiệm làm chồng của mình. Đổ cả trách nhiệm nặng nề lên đôi vai bé nhỏ yếu đuối của người vợ. Tệ hơn nữa, chính bản thân người ấy, còn là một gánh vô cùng nặng nề bắt người vợ phải gánh. Đam mê đỏ đen, số đề, rồi chén rượu, cà phê tươi mát… làm chồng mà chẳng bao giờ là chồng.
Người yêu vợ đích thực, phải biết từ bỏ những đam mê đắm đuối ấy, để vun đắp sao cho cuộc sống người vợ được thảnh thơi hạnh phúc.
Nếu B thực sự yêu A, thì xin hãy luôn cố gắng để trở thành một người vợ hiền.
Xin hãy là dòng suối mát, để cho người chồng biết tìm về, sau những vất vả, căng thẳng trong công việc giữa chợ đời. Hãy có những lời nói tươi mát nhẹ nhàng, như một vỗ về, như một an ủi, như một khích lệ. Hãy có những lời nói ngọt ngào, cảm thông, khi người chồng sẩy chân, thất bại trong công ăn việc làm. Kiếp người là bụi đất. Trong hành trình đi lên Đồi Sọ, Chúa Giêsu cũng đã gục ngã 3 lần. Cho nên, cần nhiều lắm, sự nâng đỡ cảm thông, khích lệ.
Là người vợ, với sức chịu đựng dẻo dai mà Chúa phú ban, xin hãy vì yêu mà gánh lấy trách nhiệm nặng nề của người nội trợ.
Xin hãy quan tâm xây dựng, để gia đình nhà mình là một Mái Am. Và dỉ nhiên, không cần dặn, cũng phải nhớ rằng: Để là mái ấm, thì yếu tố căn bản, là phải có đời sống đức tin. Phải luôn nhắc nhở, và tạo ưu tiên hàng đầu, cho việc thi hành đời sống đức tin. Cùng với chồng, hãy xây dựng gia đình mình thành một tổ ấm đức tin. Có được điều này, gia đình sẽ thực sự hạnh phúc. Nhưng để làm được điều này, người vợ phải cố gắng nhiều lắm. Ngoài việc nhắc bảo, nhủ khuyên, bản thân người vợ phải trở thành gương mẫu.
Hậu phương an bình, hạnh phúc, tiền tuyến vữa chiến đấu, vừa ước mong tìm về.
Hỷ có nghĩa là vui. Đúng rồi, vì ngày cưới hôm nay cũng là ngày vui của cha mẹ, dòng tộc hai bên.
Nhìn con hôm nay, chững chạc trong bộ đồ lớn, duyên dáng trong áo cưới sang trọng, với khuôn mặt rạng rỡ, cha mẹ bỗng thấy vui lây. Thương con vô cùng. Nhìn mặt con mà nhớ về khuôn mặt xinh xinh, bụ bẫm ngày nào. Nhớ đến từng dòng sữa ngọt. Rồi đến những ngày con lớn. Bao công nuôi nấng dạy dỗ, chắt chiu. Nhìn con, mà nhớ lại những giọt mồ hôi đã đổ ra đầm đìa trên trán, kết thành những đồng tiền, cho con ăn học nên người.
Hôm nay thấy con đã trưởng thành, đã thành người lớn, cha mẹ đều rất vui. Mọi người chỉ ước mong, cưới nhau rồi, chúng con hãy đối xử với nhau bằng cung cách của những người trưởng thành. Trưởng thành phải chăng là biết rộng lượng bao dung, không chấp nhất, biết cảm thông và dám chấp nhận phần thiệt về mình.
Hãy trưởng thành trong việc cư xử với cha mẹ hai bên, và dòng tộc. Hãy luôn biết nghĩ đến công ơn trời biển của cha mẹ, để tôn trọng và thể hiện chữ hiếu.
Thật là vô duyên, khi một chùm hoa dại khoe màu rực rỡ trên cao, chỉ biết tối ngày nô đùa, tíu tít với
ong bướm, với gió và nắng, mà bỏ quên, hay hắt hủi cái gốc xù xì, dính đầy phân than dưới đất.
Ngày hôm nay, cũng là ngày đại hỷ. Ngày rất vui của Chúa. Bởi hai đứa đã biết vâng theo lời dạy của Giáo hội, đưa nhau đến trước tôn nhan Chúa, để xin Chúa đóng ấn và chúc phúc cho tình yêu của mình.
Ra trước mặt Chúa, hai đứa đã thốt lên bằng cả trái tim, lời ước nguyện sẽ mãi mãi son sắt thủy chung.
Chúa vui lắm, bởi thấy chúng con đang đi trong đường lối Ngài. Bước như thế là đi đúng hướng để tìm về hạnh phúc. Bởi Chúa chính là cội nguồn của hạnh phúc.
Hôm nay Chúa vui, bởi chúng con vừa nhận từ tay Chúa, cái quyền để tạo lập một gia đình mới, một thế giới mới và một Giáo hội thu nhỏ.
Hãy coi Nìềm Bình An và Hạnh Phúc trong gia đình lớn hơn tiền bạc. Nhiều người chỉ vì mải mê chạy tìm tiền bạc, mà phá vỡ mất hạnh phúc gia đình.
Hãy coi Nìềm Hạnh Phúc lớn hơn danh vọng. Bởi không ít người chỉ mải mê danh vọng, mà để hạnh phúc gia đình tuột mất khỏi bàn tay.
Hạnh phúc ở trong tay không biết giữ, mất rồi mới nuối tiếc.
Trích tập sách “ Tình ơi dậy đi” của Lm. Đaminh Đỗ Văn Thiêm
ĐỌC SÁCH
“Mắt em là một dòng sông
Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em” (L.T.Lư)
Mắt là cảm hứng cho thi sĩ. Nhạc sĩ cũng viết thành củng đàn. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương, nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng là đôi mắt đẹp.
Trái lại, Khi Phúc Am nói về mắt lại nói đôi mắt mù!
Mắt nhìn được ngoại vật, nhưng nó không nhìn đưôc chính nó. Có phải đấy là điều để nhắc nhủ tôi: tôi có thể nhìn thấy nhiều thứ, nhưng sự hiểu biết quan trọng nhất là biết chính mình thì tôi lại u mê?
Mắt là để nhìn. Đấy là bản tính của mắt. Cũng như ánh sáng là để soi tan bóng tối. Mắt không cần trang điểm, mắt vẫn nhìn thấy. Mắt không cần tôi hồng, mắt vẫn là mắt. Khi người ta trang điểm cho mắt, lúc đó, mục đích không phải là để nhìn mà là để mắt được nhìn. Có khi người ta chỉ vì quá muốn mắt được nhìn, nên mắt đã không nhìn được.
Mắt là để nhìn . Nhưng cái nhìn của mắt không như chiếc máy chụp hình. Mắt nhìn để nói. Mắt nhìn để hiểu. Mắt nhìn để thông cảm. Mắt nhìn để chê bai. Nhưng để hiểu, để rung cảm, để giận ghét, để yêu thương lại là phạm vi của tâm hồn. Mắt thơ ngây. Mắt bao giờ cũng đáng yêu. Tự bản tính của mắt, mắt bao giờ cũng vô hồn. Tâm hồn là người có trách nhiệm. Vì thế, người ta không nói kẻ có đôi mắt đẹp thì tâm hồn đẹp. Nhưng là kẻ có tâm hồn đẹp thì bao giờ cũng có đôi mắt trong. Đôi mắt của trẻ thơ đã nói lên điều đó.
Nhiều người đã sa ngã vì những đôi mắt biết dỗi hờn. Nhiểu kẻ đã say những cặp mắt biết liếc nhìn quyến rũ. Sỡ dĩ có những đôi mắt ấy vì phải có người yêu những vẻ đẹp đó nên mới có kẻ làm khí giới tấn côn. Và, nếu những xao xuyến rung động, những tình yêu chỉ vì đôi mắt ấy thì cũng giống như eva, chỉ nhìn thấy màu hồng của vỏ trái táo chứ không thấy bóng sâu ở trong.
Người có đôi mắt đẹp là người không đánh lừa kẻ khác bằng đôi mắt của mình. Kẻ có đôi mắt đẹp cũng không để mình bị đánh lứa bằng đôi mắt người khác. Mắt đẹp là mắt nhận ra giá trị thất và chỉ ngắm nhìn những giá trị đó.
Trong cuộc sống gia đình, nhiều đôi mắt không nhìn ra nết đẹp nơi người yêu mình. Nhưng lại thầy vẻ đẹp nơi người yêu của kẻ khác. Thấy thèm muốn nhưng không thấy giới hạn. Nhiều đôi mắt chẳng nhận ra đâu là hạnh phúc mình phải đem đến cho người bạn đời. Nhưng lại nhìn ra những chu cầu của mình bắt tha nhân mang tới. Thấy đòi hỏi nhưng không thấy bổn phận.
Mắt giữ vai trò quan trọng trong lịch sử cứu rỗi của loài người. Ngay những chương đều của sách Khải Nguyên đã nói về mắt:
Rắn đã nói với người đàn bà : chẳng chết chóc gì đâu! Quả nhiên thiên Chúa biết, ngày nào các ngưới ăn nó, mắt các ngươi sẽ mở ra, và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu. Và nười đàn bà đã nhìn: quả là cây ăn phải ngon.
Sau khi nhìn rồi, Kinh Thánh kể tiếp cái nhìn của Eva:
Mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy để được tinh khôn. Và bà đã ăn .
Sau khi ăn rồi, Kinh Thánh kết luận về đôi mắt của cả hai người như sau:
Và hai cả hai người đã mở ra. Và chúng biết là chúng trần truồng (Kn 3:4-7)
Đoạn Kinh Thánh nói về lịch sử sa ngã của loài người đã đề cập đến mắt qua ba tiến trình:
Rắn hứa là mắt Adong, Eva sẽ mở ra.
Eva đã nhìn vào trái táo và thấy sướng mắt.
Mắt hai người đã mở ra và thấy mình trần truồng.
Rắn hứa là mắt hai ngưới sẽ mở ra để nhìn thấy mọi sự như Thiên Chúa. Nhưng mắt đức tin của cả hai đã nhắm lại nên không nhìn thấy điều mình muốn nhìn sẽ đem đỗ vỡ cho cuôc đời. Họ đang thấy chung quang họ là mùa hoa nở rộ, là những đồi cỏ bình yên, là những giải nắng hiền, dòng suối êm. Nhưng chỉ nhìn như thiên Chúa, nên cỏ bình yên thành cỏ dại, suối hiền cạn khô, nắng thành vất vả, hoa thôi lên màu.
Chỉ vì muốn nhìn những điều không thể nhìn được nên mặt họ chẳng còn nhìn thấy những đềiu họ đã thấy nữa.
“Mà nhìn thì đã sướng mắt”. Đó là tâm trang của Eva. Cái nhìn ấy phải là đắm đuối. Bằng cái nhìn “sường mắt” ấy tội lỗi đã vào thế gian. Qua một cái nhìn mà hạnh phúc thành rách nát. Lịch sử vũ trụ thay đổi. Tang thương.
Lời hứa của rắn đã hiệu nghiệm. Mắt của hai người đã mở ra. Nhưng không phải mở ra để nhìn thấy vẻ đẹp mà để nhìn thấy mình trần truồng. Trần truồng là biểu tượng của hèn hạ, của nghèo đói, của chục nhẳn. “ Mắt hai người đã mở ra”. Câu kinh Thánh thật ngắn ngũi, nhưng sự tinh tế và đau thương nằm ở đó. “ Mắt hai người đã mở ra”. Nhưng đồng thời cũng là giây phút đóng lại. Mở mắt để thấy trước mặt là tan tác, chia phôi. Mở mắt để thấy trước mặt là hệ luỵ. Mở mắt để thầy mình trơ trụi. Mở mắt để biết rằng minh không còn thấy những gì mình muốn thấy.
Adong-Eva đã mở mắt. Nhưng họ lẫn trốn không dám nhìn Chúa. Cả hai đã mở mắt. Nhưng để tìm lá che thân, không dám nhìn nhau. Như thế, mở mắt có ích gì? Có những mở mắt nguy hiểm. Có những mở mắt gieo khổ ải. Không nhìn những điều phải nhìn là thiệt thòi. Nhìn những điều không nên nhìn cũng là mất mát như thế. Khởi đếu lịch sử nhân loại đã không phải là lịch sử có đôi mắt thơ mộng, mà là đôi mắt mù loà.
Rồi sự mù loà ấy chảy dọc theo thời gian. Chúa Kitô đã đến trong tân ước để hàn gắn sự mù loà xảy ra những trang đầu của Cựu Ước đó. Chúa không bao giờ từ chối chữa người mù. Trong cuộc đời rao giảng tin mừng, nếu có người mù kêu xin là Chúa động lòng xót thương và chữa họ ngay. Sự mù loà nói đến trong Tân Ước đã có nguyên do từ sự mù loả khởi nguyên ngay ở vườn địa đàng. Chúa đến để chữa vết thương kéo dài từ biến cố đó. Đặt những phép lạ Chúa cữa người mù trong Tân Ước với bối cảnh mù loà khởi nguyên của Adam-Eva ta mới thấy ý nghĩa sâu xa vì sao Chúa đã đến trong thế gian. Và nếu ý thức được rằng, từ bắt đầu, dòng suối đã mù loà thì nước suối làm sao trong, ta sẽ nhận ra một ý nghĩa khác, đó là phải chấp nhận rằng mình mù loà, và cần chúa chữa sự mù loà ấy.
Phúc âm thánh Yoan có thuật lại phép lạ của Chúa chữa một người mù. Đặt biết Yoan kể rõ chi tiết là “ mù từ lúc mới sinh”. Các Phúc Am kh1c chỉ nói chữa người mù, không nói chi tiết mù như thế nào. Vì sao Thánh Yoan lại nhấn mạnh điểm đó? Phải chăng “mù từ lúc mới sinh” là mù từ thuở xa xưa lắm rồi. Là mù từ thuở địa đàng. Là mù gốc rễ trong tâm hồn tôi. “Từ trong tà ác tôi đã sinh ra” (Tv51:7)
Một chi tiết quan trọng khác mà Thánh Yoan đã nói đến là Chúa chữa người mù : từ thuở mới sinh” trong ngày sabath. Ngày sabath là ngày kông được phép làm gì cả. Đây là luật rất ngặt của người Do Thái. Chính vì thế Chúa đã bị kết án. Có phải Chúa đã chữa mù, cho dù là ngày sabath vì mù loà là một bất hạnh ghê gớm, một thiệt thòi nguy hiểm? Chúa không thể chấp nhận mù! Như vậy, chẳng có lý do nào Chúa lại chậm trễ chữa sự mú loà của tâm hôn tôi. Sứ mạng của Chúa là: “ Người đã sai Lời Người đến chữa họ, và giật sinh mạng họ ra khỏi mồ chôn” (Tv. 107:20)
Trong câu chuyện chữa người mù, ta thấy sự khác biệt tàn nhẫn giữa đôi mắt người mù và đôi mắt của các thầy Pharisiêu. Đôi mắt thân xác của người này mù, nhưng mắt tâm hồn ông lại sáng. Ong nhận ra chúa là người có thể chữa cho ông, nên ông đã đến suối Siloam rửa mắt như lời Chúa dạy. Các thầy biệt phái đã có đôi mắt không mù loà, nhưng đôi mắt tâm hồn đã chết. Họ đã nói vo81i người mù về Chúa như sau: “ Chúng ta biết tên đó là một người tội lỗ” (Yn 9:24)
Không có sự tăm tồi nào lại mù loà hơn sự mù loà của những đôi mắt sáng ây. Bởi đó, thấy mặt trời vẫn có thể là sống trong bóng đem. Trong bất hạnh của thân xác vẫn có thể nhìn ra chân lý. Điều ấy nói cho tôi biết trong đau khổ tât nguyền, hạnh phúc vẫn có thể nở hoa, kết tái xum xuê. Trong những hiều biết trần thế. Biết đâu là một cõi lòng khô héo ân sủng thiêng liêng. Rồi, vì thế, đằng sau những đôi mắt đẹp. Có thể là một màn đêm lạnh lẽo, một tâm hồn trống trải, buồn tênh.
Đôi mắt dễ thương chỉ có nơi tâm hồn duyên dáng. Lo trang điểm cho đôi mắt mà không làm đẹp tâm hồn là chỉ muốn người ta nhìn mắt mình, chứ mắt mình không nhìn được điều phải nhỉn. Có người tốn rất nhiều tiền để làm đẹp mắt, nhưng tiếc xót gời một thùng quà cho bạn bè nghèo kò ở bên nhà. Ngại ngùng bỏ ra tiền để sửa chữa một ngôi thánh đường đang sụp đổ. Quá muốn mắt minh được nhìn nên đẽ không nhìn thấy điều Chúa muốn họ thấy.
“ Toàn thân mày, mày sinh ra trong đống tôi, mà mày lại làm thầy dạy chúng ta ư!” Sau khi mắng người mù thư thế, Phrarisieu trục xuất ông (Yn. 9:34). Người mù đã bị đuổi ra khỏi hội đường vì dám chấp nhận Chúa là Thầy chữa cho mình. Chúa đã hòi người mù : “Còn ngươi, ngươi có tin vào con người không” Ong ta đáp lại:”Lạy Ngài, tôi tin” (Yn 9:35-38). Như vậy, để nhìn thấy Chúa, ông đã phải trả một giá đắt. Những đôi mắt dám nhìn sự thật nhiều khi là những đơi mắt ướm lệ.
Phúc Am thánh Máccô cũng nói về mắt. Người mù lên tiếng: “lạy thầy, xin cho tôi thấy được”. Đức kitô bảo hắn: “Hãy đi! Lòng ntin của ngươi đã cứu chữa ngươi”. Rồi, dòng chữ cuối cùng nói về đôi mắt đó là dòng chữ đẹp bát ngát của một bầu trời mới, một tâm hồn vô cùng thênh thang:
Lập tức hắn đã thấy được
Và theo Ngài lên đường (Mc. 10:52)
Người mù đã không trờ về để lập nghiệp làm ăn, nhưng lên đường theo Chúa. Lúc này lúc Chúa đang trên đường về Jerusalem để chịu chết. Ong đã thấy gì mà dám lên đường theo một kẻ sắp bị đóng đinh.?
Nói về đôi mắt, Chúa quở trách rằng:” Họ nghe mà không hiểu, nhìn mà không thấy. Tâm hồn họ ra chai đá rôi” (Mt. 13:14). Như vậy, Chúa xác định tâm hồn có trách nhiệm về cái nhìn.
Hôm nay, không thiếu bao tiếng khóc. Có tiếng khóc âm thầm. Có tiếng khóc lo âu. Tiếng khóc nghèo đói. Tiếng khóc lạc lõng trong cuộc sống. Tiếng khóc lặng lẽ của cõi lòng chán chường. Tiếng khóc che kín bằng tiếng cười ở giữa đám đông. Nước mắt ở khắp nơi.
Biết bao tâm hồn chỉ vì nghèo đói mà sống mất phẩm giá con người. Những người mẹ bên Phi Châu ngồi khóc vì đói, vì đôi vú không còn sữa cho con. Những đôi mắt trẻ thơ ruồi bu quanh. Đấy là hình ảnh Chúa Kitô. Ngài đang lang thang và chằng có ai nhìn.
Có đôi mắt liếc nhìn quyến rũ.
Có đôi mắt trang điểm.
Có đôi mắt rình mò.
Có đôi mắt để chọn quần áo.
Có đôi mắt để đếm tiến.
Có đôi mắt đê nhìn người yêu.
Những tiếng khóc đau khổ vẫn không ai muốn nghe. Những nghèo đói vẫn không ai muốn nhìn. Có phải chỉ có đôi mắt đức tin mối nhìn thấy Chúa Kitô đang nghèo, đang túng thiếu. Chia cái nghèo, chia cái túng thiếu, chỉ có đôi mắt tình thương mới dám nhìn.
Hai ngàn năm trước Chúa đã than thở: “ Họ nghe mà không hiểu, nhìn mà không thấy vì tâm hồn họ ra chai đá rồi” (Mt. 13:14). Hôm nay, nếu mắt không nhìn những điều phài nhìn. Nhìn mà không thầy những điều phải thấy. Thấy mà chẳng hiểu những điều phải hiều thì Chúan cũng chỉ biết than thở như hai nghìn năm xưa: Vì tâm hồn họ ra chai đá rồi.
Lm. Nguyễn Tầm Thường