TIN VUI

Tuần san Bạn trẻ Công Giáo  -  Số 86 CN 20.05.2007

 

Web site:www.tinvui.org E-mail : bantreconggiao@yahoo.com

 

Mục lục

 

 Chúa Nhật VII Phục Sinh.

Lễ Thăng Thiên.

CHÍNH ANH EM LÀ CHỨNG NHÂN…...

NỮ TỲ MARIA..

Ðức Thánh Cha Beneđitô XVI viếng thăm Brazil

ĐỨC THÁNH CHA BIỂN ĐỨC 16 CHỦ SỰ LỄ TÔN PHONG HIỂN THÁNH..

Bài Giảng ĐTC Biển Đức XVI  : Phong Thánh Antơnio de Sant'Ana Galvão (1739-1822) ngày 11/5/2007 

Bài diễn văn của ĐTC Bênêđictô XVI nói với giới trẻ tại Ba Tây.

Thánh lễ khai mạc Khóa Họp của Liên HÐGM Châu Mỹ Latinh và vùng Caraibi

tại Ðền Thánh Quốc Gia Kính Ðức Mẹ Aparecida.

Bài Giảng của ÐTC trong Thánh lễ Khai Mạc Hội Nghị lần thứ 5 của Liên HÐGM châu Mỹ Latinh tại Aparecida, ngày Chúa nhật 13/05/2007.

TRUNG TÂM HÀNH HƯƠNG MẸ TÀPAO..

ĐỂ XÂY DỰNG MỘT XÃ HỘI CÔNG BẰNG..

SỨ MẠNG CHỨNG NHÂN DÒNG CHẢY TÌNH YÊU TUÔN TRÀO MÃI.

Cảm nhận Đêm Thánh Ca ''Ngợi Ca Tình Yêu".

Chia sẻ với các Nữ Tu MTG Đà Lạt dip Khấn Lần Đầu.

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC..

GIA ĐÌNH CÓ NGƯỜI ĐI TU..

PHÓ TẾ VĨNH VIỄN..

TÂM TÌNH TRI ÂN CỦA ĐỨC GIOAN PHAOLO II KHI NHÌN LẠI VỤ MƯU SÁT 13-5-1981.

THUỐC GIA TRUYỀN..

MỐI QUAN HỆ GIỮA MẸ VÀ CON GÁI.

TƯƠNG ĐỒNG TRONG KHÁC BIỆT..

VỤN VẶT SUY TƯ:

SEX..

 

 

 

SỐNG LỜI CHÚA

 

Chúa Nhật VII Phục Sinh

Lễ Thăng Thiên

Lc 24, 46-53

"Đang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời".

Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Như đã ghi chép là Đức Kitô phải chịu khổ hình và ngày thứ ba từ cõi chết sống lại; và nhân danh Người mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân, bắt đầu từ Giêrusalem. Các con là nhân chứng những sự việc ấy. Thầy sẽ sai đến với các con Đấng Cha Thầy đã hứa; vậy các con hãy ở lại trong thành cho đến khi mặc lấy quyền lực từ trên cao ban xuống". Rồi Người dẫn các ông ra ngoài, đến làng Bêtania, và giơ tay chúc phúc cho các ông. Sự việc xảy ra là đang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời. Các ông thờ lạy Người, và trở về Giêrusalem lòng đầy vui mừng. Các ông luôn luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. Amen. Đó là lời Chúa.

 

CHÍNH ANH EM LÀ CHỨNG NHÂN…

Không có nước mắt, hay nỗi buồn đi kèm một chút lưu luyến trong lúc chia tay nhau như lẽ thường tình, mà chỉ có “ lòng đầy hân hoan”. Phải chăng tình yêu của các môn đệ dành cho Đức Giêsu chưa đủ, chưa nhiều và chưa sâu ? Nhưng như thế thì hiểu sao được việc các ông dám liều chết để làm chứng cho Thầy ? Vì rằng “không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu” ( Ga 15, 13).

Niềm hoan hỷ của các môn đệ chứng tỏ các ông thực sự được lột xác trong niềm tin, trở thành một con người hoàn toàn mới. Bởi từng biến cố trong đời Đức Giêsu mà các ông chứng kiến được chính Thầy ráp vào những gì mà sách luật Môsê, các ngôn sứ và các Thánh vịnh đã nói như chìa khoá mở trí, mở lòng, mở rộng niềm tin và thăng hoa mọi ước muốn trần gian nơi các ông. Chia tay không có nỗi buồn nhưng các ông có được kinh nghiệm sâu xa về ơn cứu độ, về sứ mạng của Đức Giêsu và về sứ mạng của chính mình. Từ đó, các ông hoan hỷ trở nên “ chứng nhân”  cho sự sám hối để được ơn cứu độ. Đó cũng là khát vọng mà Đức Giêsu gởi gắm cho các môn đệ cũng như cho mỗi Kitô hữu.

Để trở nên nhân chứng cho sự sám hối, các môn đệ đã sám hối và hoán cải trí lòng khỏi ước muốn cất giấu lớp vỏ chân quê của cánh làng chài trong vương quyền vinh quang sẽ được Đức Giêsu đem lại. Cũng vậy, mỗi Kitô hữu được mời gọi sám hối mỗi ngày, sám hối trong cách đọc và hiều Lời Chúa còn quá mơ hồ, sám hối vì thiếu can đảm để phác hoa chân dung  người Kitô hữu đích thực cho cuộc đời, sám hối vì “sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” ( Rm 7, 19), mặc cho tiếng lương tâm réo gọi còn bản thân thì giả điếc làm ngơ, sám hối vì chưa dám sống trung thực trong một xã hội mà thật thà thường thua thiệt, không muốn mất đi những mối lợi nho nhỏ nên phải tìm cách lắt léo dù biết rằng : “ được cả thế gian mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì “ ( Mt 16, 26)

Nhưng cũng như các môn đệ, người Kitô hữu muốn thể hiện khát vọng mà Đức Giêsu gởi gắm vẫn cần lắm  “quyền năng từ trời cao ban xuống” , quyền năng ấy không phải để trấn áp thiên hạ nhưng để phục vụ, để sống chính danh Kitô, để biết chọn lựa một cách sống, một hành động xứng hợp với tư cách của chứng nhân cho Tin Mừng Cứu Độ.

Cuộc sống hôm nay vẫn còn đó những khó khăn, những thách đố khiến tâm tư người tín hữu phải bao phen trăn trở trước những chọn lựa, vì để sống chân tính người tín hữu Kitô thì sẽ phài chấp nhận mất mát và rất khó kiếm được chân đứng cũng như những thành công trong xã hội. Nhưng Đức Giêsu về Trời, Ngài mở ra một bầu trời hy vọng cho các môn đệ, nên các ông thấy lòng đầy hoan hỷ và bầu trời ấy vẫn hiện hữu mời gọi chúng ta hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn, vì lòng đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm…và chúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín (Dt 10, 22 – 23).

 

Nt. Anna Phạm Thị Bích Hằng

Dòng Đa Minh Tam Hiệp

 

TU ĐỨC

NỮ TỲ MARIA

 

Hiện nay, sống đạo đang được đặt thành vấn đề thời sự quan trọng. Ít là trong Giáo Hội Việt Nam. Vấn đề này đã và đang được suy nghĩ, bàn bạc và dẫn tới những chọn lựa để thực hành. Sao cho đạo Công giáo tại đất nước này được trở về nguồn và phát triển theo đúng Phúc Âm.

 

Với mục đích đó, tôi xin vắn tắt trình bày suy nghĩ của tôi về cách sống đạo của Đức Me Maria.

 

Theo tôi, điểm nổi bật nhất trong đời sống đạo của Me Maria là vâng phục ý Chúa một cách đơn sơ khiêm nhường.

 

Xin phép nêu lên vài chi tiết mà thôi.

 

  1. Nhậm chức và khấn hứa một cách đơn sơ khiêm nhường.

 

Việc Thiên Chúa sai Tổng lãnh thiên thần Gabriel đến báo cho Đức Maria tin Chúa chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế là một biến cố kỳ diệu cao cả. Có thể coi đây là một “lễ truyền chức”.

 

Nếu gọi đó là một lễ truyền chức, thì lễ truyền chức này cao trọng hơn mọi lễ truyền chức khác. Thế mà, “lễ truyền chức“ này đã được thực hiện một cách hết sức âm thầm. Vẻ đẹp của nó được nhận ra ở thái độ Đức Mẹ tỏ ra bối rối ngỡ ngàng sợ hãi. Mẹ nhận mình chỉ là người đầy tớ Chúa (x Lc 1, 38). Chức cao quyền quyền trọng Chúa trao là ơn hoàn toàn nhưng không. Mẹ chẳng bao giờ dám nghĩ tới. Tâm hồn Mẹ đơn sơ khiêm tốn như một đoá hoa quý ẩn mình trong một đời thường bình dị.

 

Mẹ đón nhận lời truyền tin với tâm hồn đơn so khiêm tốn. Rồi Mẹ trả lời Tổng lãnh thiên thần cũng với tâm hồn khiêm tốn đơn sơ trong sáng : “Xin vâng”. “ Xin vâng” là một lời khấn hứa.

 

Mẹ “xin vâng” với tất cả tâm tình phó thác, hoàn toàn sẵn sàng để Chúa dùng mình vào bất cứ chương trình nào.

 

Thế là “lễ truyền chức’ và khấn hứa đã xong. Rất đơn sơ, rất khiêm nhường. Nhưng lại rất đẹp lòng Chúa. Từ đây một kỷ nguyên mới đã mở ra.

 

  1. Tạ ơn Chúa một cách đơn sơ khiêm nhường.

 

Sau khi được mang chức làm mẹ Đấng Cứu thế, Đức Mẹ đã đi thăm viếng bà Isave. Mẹ lên đường một mình cách đơn sơ khiêm tốn.

 

Vừa thấy Đức Mẹ, bà Isave được ơn Chúa soi sáng, đã cất tiếng chào Đức Mẹ và khen ngợi Đức Mẹ vì ơn đặc biệt Chúa đã ban cho Đức Mẹ. Đức Mẹ rất xúc động. Đức Mẹ đã tạ ơn Chúa bằng những lời tán tụng rất đơn sơ khiêm nhường.

 

Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,

Thần trí tôi hớn hở vui mừng,

Vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi.

Phận nữ tỳ hèn mọn,

Người đoái thương nhìn tới…” ( Lc 1, 46-48)

 

Đức Mẹ nhìn nhận mình chỉ là nữ tỳ hèn mọn, được Chúa đoái thương nhìn đến.

 

Với thân phận nữ tỳ hèn mọn, Đức Mẹ chỉ biết vâng phục, chỉ biết làm những gì Chúa sai bảo, chỉ biết sẵn sàng thực hành bất cứ sự gì là thánh ý Chúa. Với thái độ trút bỏ tuyệt đối cái tôi hẹp hòi của mình, Đức Mẹ tạ ơn Chúa vì được Chúa đoái thương nhìn đến, để thuộc về Chúa một cách trọn vẹn.

 

Nếu gọi biến cố Đức Mẹ đi viếng bà Isave là một dịp Đức Mẹ ta ơn Chúa, thì lễ tạ ơn này đã rất đơn sơ, đã rất khiêm nhường.

 

Sau việc tạ ơn này, Đức Mẹ lại tiếp tục sống ơn gọi một cách đơn sơ khiêm nhường với một cuộc sống ẩn dật giữa các phong trào đời đạo đầy ồn ảo và phức tạp.

 

  1. Đi đàng thánh giá một cách đơn sơ khiêm nhường

 

Khi Đức Mẹ dâng Chúa Hài Đồng trong đền thờ, tiên tri Simêon đã nói : “ Thiên Chúa đã đặt hài nhi này làm duyên cớ cho nhiều ngườiIsrael phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Hài nhi này còn là dấu hiệu bị người đời chống báng. Còn chính bà, một lưỡi gương sẽ đâm thâu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra” (Lc 2, 34-35).

 

Những lời tiên tri trên đây đã ứng nghiệm, Chúa Giêsu, con Mẹ đã chịu bao đau khổ xác hồn. Đau khổ của con cũng là khổ đau của mẹ. Ba mươi năm hoà mình vào đời sống nghèo ở Nagiarét. Ba năm công khai giảng dạy bị công kích bởi chính nội bộ. Sau cùng là con đường vác thập giá lên núi Sọ và bị đóng đinh vào nhục hình cho đến tắt thở.

 

Nếu đời Chúa Giêsu là một đời thánh giá, thì Đức Mẹ đã chia sẻ cuộc đời ấy một cách rất đơn sơ khiêm nhường. Đức Mẹ ý thức thánh giá là một chọn lựa, mà Chúa muốn. Chúa chọn để chứng tỏ tình yêu vô biên của Người muốn đi tới cùng để cứu nhân loại. Vì thế, Đức Mẹ coi lựa chọn đó của Chúa cũng là chọn lựa của Mẹ. Đã chọn lựa, thì không kêu ca, trách móc, phản kháng om sòm. Đã chọn lựa thánh giá để cùng với Chúa cứu đời, thì coi thánh giá là một ân huệ. Đơn sơ khiêm nhường là như thế.

 

Trên đây là mấy suy nghĩ của tôi về cách sống đạo của Đức Mẹ.

 

Thiết tưởng sống đạo của Đức Mẹ Maria vẫn là một mời gọi gởi tới mỗi người chúng ta. Tất nhiên, thời này xã hội đã thay đổi nhiều.  Nhưng chính vì những thay đổi đó đang đẩy rất nhiều người xa rời Phúc Âm, nên việc trở về với gương mẫu đơn sơ khiêm nhường, vâng phục ý Chúa nơi Đức Mẹ phải kể như một giải pháp đúng đắn cần noi theo. Hợp thời nhưng vẫn noi theo tinh thần Mẹ Maria.

 

Nhân dịp Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI thăm Nam Mỹ, báo chí khắp thế giới loan báo về tình hình Công giáo tại đây. Số người Công giáo bỏ Hội thánh Công giáo để sang các giáo phái mỗi năm mỗi nhiều. Đang khi ở Châu Âu, số người dửng dưng với đức tin càng ngày càng tăng. Cảnh hướng ngoại và băng hoại không còn hiếm trong Giáo hội.

 

Thói quen sống theo ý mình hơn theo ý Chúa là một cách hưởng thụ. Nó đang trở nên bình thường. Truyền bá cách sống đó là một cách phá đạo, nhưng xem ra rất phổ biến.

 

Nhìn người mà nghĩ đến mình. Mỗi người chúng ta nên hết sức lo cho đời sống đức tin của mình. Đức Mẹ ở Fatima đã thiết tha nhắc nhở. Sống theo gương Đức Mẹ được có Chúa ở cùng, chúng ta hy vọng chắc chắn sẽ được lên trời với Chúa.

 

ĐGM. GB Bùi Tuần.

 

 

 

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI

 

Ðức Thánh Cha Beneđitô XVI viếng thăm Brazil

ĐỨC THÁNH CHA BIỂN ĐỨC 16 CHỦ SỰ LỄ TÔN PHONG HIỂN THÁNH

SÃO PAOLO. Cao điểm trong các hoạt động của ĐTC Biển Đức 16 trong ngày 11-5-2007 tại São Paolo là lễ tôn phong vị nam hiển thánh đầu tiên tại Brazil là Cha Anton de Sant'Anna Galvão, dòng Phanxicô.

Hơn 1 triệu tín hữu đã tham dự thánh lễ tại sân bay Campo de Marte của thành phố São Paolo dưới bầu trời nắng thu. Đây cũng là lễ phong hiển thánh đầu tiên ĐTC Biển Đức 16 chủ sự ngoài Roma. Hiện diện tại buổi lễ có 600 GM trong phẩm phục mầu trắng và hàng trăm linh mục. Trên lễ đài có treo bức hình khổng lồ của Cha Galvão trong áo dòng Phanxicô mầu nâu.

Đầu lễ nghi phong hiển thánh, ĐHY Saraiva Martins, Tổng trưởng Bộ Phong thánh, có vị thỉnh nguyên tháp tùng, đã tiến lên xin ĐTC ghi tên chân phước LM Galvão vào số bộ các thánh, và ĐHY cũng tóm lược tiểu sử của thánh nhân.

Cha Antônio de Sant'Anna Galvão sinh tại Guaratinguetá, bang São Paolo cách đây 268 năm (1739) trong một gia đình đạo đức sâu xa, có 11 người con, thân phụ là người Bồ đào nha di cư tới Brazil lập nghiệp và là quan chức cấp cao tại thành này, thân mẫu là bà Isal, con của một đại điền chủ.

Năm 21 tuổi, Antôn từ bỏ một tương lai đầy hứa hẹn trong xã hội bấy giờ và gia nhập tập viện dòng Phanxicô, và thụ phong linh mục năm 1762 lúc mới 23 tuổi. Sau khi hoàn tất việc học bổ túc, Cha Galvão được giao phó công tác giảng thuyết, giải tội cho giáo dân, coi cổng tu viện. Năm 1769, Cha cũng được bổ làm cha giải tội cho các phụ nữ đạo đức ở nhà dòng tĩnh tâm thánh Teresa tại São Paolo.

Năm 1774, Cha Galvão thành lập một dòng mới với nhà tĩnh tâm. Cha cũng kiến thiết thánh đường của nhà dòng trong nhiều năm trời, vừa làm kiến trúc sư, vừa làm giám đốc công việc, và làm cả thợ nề nữa. Toàn bộ công trình được gọi là Đan viện Ánh Sáng, và năm 1988, tổ chức Unesco của LHQ đã ghi Đan viện này vào số các gia sản văn hóa của nhân loại.

Cha Galvão cũng có tài chữa bệnh cho dân chúng bằng những phương thức đơn sơ. Một hôm, một thanh niên đến xin cha cứu chữa. Được Chúa soi sáng, cha viết trên một mảnh giấy một câu bằng tiếng latinh rút từ kinh nhật tụng Đức Bà ”Sau khi sinh con, Đức Trinh Nữ vẫn nguyên tuyền”, rồi cha cuốn miếng giấy ấy lại thành viên thuốc và trao cho tràng trai sắp chết vì cơn đau thận. Những cơn đau ngừng ngay lập tức. Năm 1811, theo lời yêu cầu của Đức GM giáo phận São Paolo, Cha Galvão thành lập Tu viện Santa Chiara ở Sorocaba, và lưu lại đây 11 tháng để hướng dẫn cộng đoàn mới.

Cha Galvão qua đời ngày 23 tháng 12 năm 1822 tại São Paolo thọ 83 tuổi. Cha được Đức Gioan Phaolô 2 tôn phong chân phước hồi năm 1997.

Chiều ngày 11-5-2007, ĐTC đã gặp hơn 430 GM thuộc HĐGM Brazil tại Nhà thờ chính tòa Sao Paolo, trước khi bay đến thành phố Aparecida cách đó 170 cây số. Đây là một thành phố nhỏ, chỉ có 40 ngàn dân cư, nhưng nổi tiếng thuộc hàng nhất nước vì có Đền thánh Đức Mẹ Aparecida, nghĩa là vị Hiện Ra, bổn mạng của Brazil. Tượng Đức Mẹ được 3 ngư phủ vớt lên và sau đó là một mẻ cá lạ lùng. Về sau một thánh đường nguy nga được xây cất để tôn kính Đức Mẹ và được giao cho cha dòng Chúa Cứu Thế coi sóc. Năm 1929, Đức Giáo Hoàng Piô 11 tuyên bố Đức Mẹ Aparecida là ”Nữ Vương và Bổn mạng của Brazil”.

 

 Bài Giảng ĐTC Biển Đức XVI  : Phong Thánh Antơnio de Sant'Ana Galvão (1739-1822) ngày 11/5/2007

 

(Tổng quan dẫn nhập mở đầu)

 

2.  Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa về những ơn ích dài lâu nhờ ảnh hưởng truyền bá phúc âm hóa mạnh mẽ được Chúa Thánh Thần làm phát sinh nơi rất nhiều tâm hồn qua thánh Frei Galvão. Đoàn sủng của dòng Phanxicô, được sống trọn theo tinh thần Phúc Âm, đã sinh ra những hoa trái quan trọng qua chứng từ của ngài như là một người thiết tha tôn thờ Thánh Thể, như một vị linh hướng khôn ngoan đối với các linh hồn tìm đến tham vấn với ngài, và như một con người hết lòng tôn sùng Mẹ Maria Hoài Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội là Đấng ngài coi mình là “người con và là người tôi tớ muôn thuở” của Mẹ.

 

Thiên Chúa đến với chúng ta, “Người tìm cách chiếm lấy lòng của chúng ta, mãi cho tới Bữa Tiệc Ly, cho tới khi con tim của Người bị đâm thâu trên Thập Giá, cho tới những lần hiện ra của Người sau khi Phục Sinh và cho tới những việc làm trọng đại được Người sử dụng, qua hoạt động của các Vị Tông Đồ, để hướng dẫn Giáo Hội sơ khai tiến bước trong cuộc hành trình của Giáo Hội” (Thông Điệp Thiên Chúa Là Tình Yêu, 17). Người đã tỏ mình ra qua lời của Người, nơi các bí tích và nhất là nơi Thánh Thể. Bởi thế, sự sống của Giáo Hội chính thực là sự sống Thánh Thể. Trong sự quan phòng ưu ái của mình, Chúa Kitô đã để lại cho chúng ta một dấu hiệu hữu hình về sự hiện diện  của Người.

 

Khi chúng ta chiêm ngưỡng Chúa Kitô trong Thánh Lễ, Đấng được vị linh mục nâng lên sai lời truyền phép bánh và rượu, hay khi chúng ta sốt sắng tôn thờ Người được hiện lộ trong mặt nhật, chúng ta lập lại niềm tin của chúng ta bằng lòng tấm khiêm nhượng sâu xa, như thánh Fei Galvão đã làm nơi “laus perennis”, bằng một thái độ liên lỉ tôn thờ. Thánh Thể chất chứa tất cả mọi kho tàng thiêng liêng của Giáo Hội, đó là chính Chúa Kitô, Cuộc Vượt Qua của chúng ta, bánh hằng sống từ trời xuống, một thứ bánh nhận được sự sống từ Thánh Thần để ban sự sống vì bánh này là nguồn Sự Sống cho nhân loại. Việc biểu lộ huyền diệu và khôn tả này của tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại là những gì chiếm được một chỗ đặc biệt trong lòng Kitô hữu. Họ cần phải tiến đến chỗ nhận biết niềm tin của Giáo Hội qua các vị thừa tác viên thánh chức của Giáo Hội, qua cách thức mẫu mực được các vị thi hành đối với các thứ lễ nghi qui định luôn hướng về phụng vụ thánh thể như là tâm điểm của toàn thể công việc truyền bá phúc âm hóa. Về phần mình, thành phần tín hữu cần phải tìm cách lãnh nhận và tôn kính Bí Tích Cực Thánh này một cách đạo hạnh và sùng mộ, nao nức đón nhận Chúa Giêsu bằng đức tin, và bất cứ khi nào cần thì chạy đến với bí tích hòa giải để thanh tẩy linh hồn khỏi mọi tội trọng.

 

3. Ý nghĩa nơi gương mẫu của thánh thánh Fei Galvão là ở chỗ ngài sẵn sàng phục vụ tha nhân khi được yêu cầu. Ngài nổi tiếng là một vị cố vấn, ngài là người mang lại an bình cho các linh hồn và các gia đình, và là người ch ất chứa đức bác ái đặc biệt đối với thành phần nghèo khổ và bệnh nhân. Ngài được rất nhiều người tim đến xưng tội, vì ngài nhiệt tâm, khôn ngoan sáng suốt. Đó là đặc tính của những ai thực sự yêu mến vì họ không muốn Người Yêu của mình bị xúc phạm; việc hoán cải của các tội nhân do đó là đam mê hết sức của vị thánh chúng ta đây. Chị dòng Helena Maria, người nữ tu đầu tiên đã có ý định thuộc về Recolhimento de Nossa Senhora da Conceição, đã làm chứng cho những gì thánh Fei Galvão đã nói với chị: “Hãy cầu nguyện để Chúa là Thiên Chúa của chúng ta sử dụng cánh tay uy quyền của Người để nâng các tội nhân lên khỏi những vực thẳm khốn  nạn tội lỗi mà họ đang chìm ngập”. Chớ gì lời khuyên nhủ minh thức này trở thành một kích tố cho chúng ta trong việc nhận biết nơi Lòng Thương Xót Chúa con đường dẫn đến hòa giải với Thiên Chúa và tha nhân  của chúng ta, cho lương tâm của chúng ta được an bình.

 

4.  Hiệp nhất với Chúa trong cuộc hiệp thông cao cả với Thánh Thể cũng như được hòa giải với Người và với tha nhân của chúng ta, chúng ta nhờ đó sẽ trở thành những người chuyên chở một thứ hòa bình mà thế gian không thể ban phát. Con người nam nữ của thế giới này sẽ có thể tìm thấy hòa bình chăng nếu họ không nhận thức được nhu cầu cần phải hòa giải với Thiên Chúa, với tha nhân của mình và với chính bản thân họ? Về vấn đề này, thật là ý nghĩa những lời của Hội Đồng Nghị Viên  São Paulo gửi cho vị Giám Tỉnh Dòng Phanxicô vào cuối thế kỷ thứ 18, diễn tả thánh Fei Galvão như là một “con người của hòa bình và bác ái”. Chúa Kitô muốn những gì nơi chúng ta? “Các con hãy yêu thương nhau như Thày đã thươn g yêu các con”. Thế nhưng, ngay sau đó Người liền thêm: “Các con hãy đi mà sinh hoa kết trái, một hoa trái tồn tại” (x Jn 15:12,16). Mà đâu là hoa trái Người muốn thấy nơi chúng ta, nếu không phải là hoa trái của việc biết cách yêu thương, được phấn khích bởi gương sáng của vị Thánh thành Guaratinguetá này?

 

Tiếng tăm về đức bác ái bao la của ngài lan tràn khắp nơi. Dân chúng từ khắp nơi trong xứ sở này tuốn đến với thánh Fei Galvão, vị tiếp nhận mọi người như một người cha, Trong số những người đến xin ngài giúp đỡ có thành phần nghèo khổ và bệnh tật nơi thân xác lẫn trong tâm thần.

 

Chúa Giêsu mở lòng Người ra và tỏ cho chúng ta thấy cái cốt lõi của tất cả sứ điệp cứu độ của Người, đó là: “Không ai có tình yêu cao cả hơn là kẻ thí mạng sống cho bạn hữu của mình” (Jn 15:13). Chính Người đã yêu thương cho đến độ hiến mạng sống của Người cho chúng ta trên Thập Giá. Hành động của Giáo Hội và của Kitô hữu trong xã hội cũng phải có cùng ước vọng này. Những hoạt động mục vụ để xây dựng xã hội, nếu nhắm tới thiện ích của thành phần nghèo khổ và bệnh nhân, đều mang trong mình ấn tín thần linh này. Chúa Kitô tin tưởng nơi chúng ta và gọi chúng ta là bạn hữu của Người, vì chỉ đối với những ai chúng ta yêu thương như thế chúng ta mới có thể ban phát sự sống được Chúa Giêsu cống hiến cho bởi ân sủng của Người.

 

Như chúng ta biết, Đệ Ngũ Tổng Nghị của Hàng Giáo Phẩm Mỹ Châu La Tinh sẽ diễn ra với đề tài chính yếu là “Thành Phần Môn Đệ và Thừa Sai của Chúa Giêsu Kitô cho Các Dân Tộc của chúng ta được Sự Sống trong Người”. Bởi vậy làm sao chúng ta lại không thấy được nhu cầu cần phải lắn g nghe tiếng gọi của Thiên Chúa với một  nhiệt tình mới, để có thể quảng đại đáp ứng với những thách đố đang xẩy ra cho Giáo Hội ở Ba Tây cũng như ở Mỹ Châu La Tinh?

 

5. “Hãy đến với Tôi, tất cả những ai lao nhọc và gánh nặng, Tôi sẽ cho các người được nghỉ ngơi”, Chúa Kitô đã nói như thế trong Phúc Âm (Mt 11:28). Đó là lời khuyên nhủ cuối cùng ngài ngỏ cùng chúng ta. Làm sao chúng ta lại không nhận ra ở nơi đây việc chăm sóc phụ thân đồng thời cũng có tính cách mẫu thân của Thiên Chúa đối với tất cả mọi người con cái của Người chứ? Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ của chúng ta, đặc biệt đứng gần kề với chúng ta trong giây phút này. Thánh Fei Galvão đã khẳng định một cách tiên tri về sự thật Hoài Thai Vô Nhiễm. Mẹ, Vị Toàn Mỹ – Tota Pulchra, Vị Trinh Nữ Rất Tinh Tuyền, Vị đã thụ thai trong cung lòng của mình Đấng Cứu Chuộc của nhân loại và đã được gìn giữ khỏi tất cả mọi tì vết của nguyên tội, muốn trở thành ấn tín tối hậu cho việc chúng ta hội ngộ với Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ của chúng ta. Không có một hoa trái về ân sùng nào trong lịch sử cứu độ mà lại không thiếu được việc môi giới của Đức Mẹ như phương tiện cần thiết.

 

Thật vậy, vị thánh mà chúng ta đang mừng đây đã dứt khoát hiến mình cho Người Mẹ của Chúa Giêsu từ thuở niên thiếu, mong muốn được vĩnh viễn thuộc về Mẹ và ngài đã chọn Trinh Nữ Maria làm Mẹ và làm Đấng Bảo Vệ cho những người con gái thiêng liêng của ngài.

 

Các bạn rất thân yêu, thật là một mẫu gương tốt lành thánh Fei Galvão đã để lại cho chúng ta noi theo! Có một câu trong lời kinh tận hiến của ngài vẫn còn hiện đại đáng kể đối với chúng ta, thành phần đang sống trong một thời đại đầy chủ nghĩa khoái lạc: “Xin Mẹ hãy cất sự sống của con đi trước khi con xúc phạm đến Người Con phúc đức của Mẹ là Chúa của con!”. Chúng là những lời lẽ mạnh mẽ, những lời lẽ của một linh hồn say mê, những lời lẽ cần phải trở thành yếu tố cho cuộc sống bình thường của hết mọi Kitô hữu, dù sống đời tận hiến hay không, và chúng thắp lên ước vọng trung thành với Thiên Chúa nơi các đôi phối ngẫu cũng như nơi thành phần độc thân không/chưa lập gia đình. Thế giới cần đến những cuộc sống thanh bạch liêm khiết, những linh hồn trong sáng, những trí khôn tinh tuyền không chấp nhận trở thành những đối tượng thuần túy cho khoái lạc. Cần phải chống lại với những yếu tố ấy của truyền thông là những gì nhạo báng che cười tính chất thánh hảo của hôn nhân và đức trinh khiết trước hôn nhân.

 

Trong thời đại của chúng ta đây, Đức Mẹ đã được ban cho chúng ta như là việc bênh vực hay nhất chống lại với những sự dữ đang chi phối đời sống tân tiến; lòng tôn sùng Thánh Mẫu là một thứ bảo đảm vững chắc của việc bảo vệ và bảo toàn từ mẫu của Mẹ trong giờ phút bị cám dỗ. Và thật là một sự trợ giúp chắc chắn nơi sự hiện diện huyền diệu này của Vị Trinh Nữ Rất Tinh Tuyền này, khi chúng ta kêu cầu sự bảo vệ và giúp đỡ của Đức Bà Aparecida! Chúng ta hãy đặt vào bàn tay rất thánh của Mẹ đời sống của các vị linh mục và thành phần giáo dân thánh hiến, những chủng sinh và tất cả những ai được kêu gọi sống đời tu trì.

 

6.         Các bạn thân mến, xin cho tôi được kết thúc bằng việc gợi lại Đêm Canh Thức Nguyện Cầu ở Marienfeld Đức quốc: trước sự hiện diện của vô số giới trẻ, tôi đã nói về các vị thánh của thời đại chúng ta như là thành phần c anh tân đích thực. Rồi tôi nói thêm rằng: “Chỉ từ các vị thánh, chỉ từ Thiên Chúa mới có một cuộc cách mạng thực sự, mới có một đường lối quyết liệt để thay đổi thế giới này” (Bài Giảng 25/8/2005). Đó là lời mời gọi tôi muốn ngỏ cùng tất cả các bạn hôm nay đây, từ người đầu tiên cho tới người cuối rốt, trong Bí Tích Thánh Thể vô biên giới này. Thiên Chúa đã phán: “Hãy nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh” (Lev 11:44). Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa Ngôi Cha, Thiên Chúa Ngôi Con và Thiên Chúa Ngôi Thánh Thần là Đấng, nhờ việc chuyển cầu của Trinh Nữ Maria, chúng ta lãnh nhận tất cả mọi ân phúc của trời cao;  là Đấng chúng ta lãnh nhận tặng ân này, cùng với đức tin, là ân sủng cao cả nhất có thể được ban xuống trên tạo sinh, đó là ước vọng mạnh mẽ trong việc chiếm hưởng trọn vẹn đức ái, tin tưởng rằng sự thánh thiện chẳng những là nhữn g gì khả dĩ mà còn cần thiết cho hết mọi người nơi bậc  sống của họ, để tỏ ra cho thế giới thấy dung nhan đích thực của Chúa Kitô, người bạn của chúng ta! Amen!

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 10/5/2007

Bài diễn văn của ĐTC Bênêđictô XVI nói với giới trẻ tại Ba Tây

Các bạn trẻ thân mến,

“Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo...rồi hãy đến theo tôi” (Mt 19, 21).

1. Cha rất muốn sắp xếp một buổi gặp gỡ các con trong chuyến thăm viếng đầu tiên của cha đến Châu Mỹ La tinh. Cha đến khai mạc Hội Nghị Chung Lần thứ Năm của Các Giám Mục Châu Mỹ La tinh, mà theo mong ước của cha, sẽ diễn ra trong nước Bra-xin, tại Aparecida và trong Đền Thánh Đức Mẹ. Chính Mẹ dẫn chúng ta đến quỳ dưới chân Chúa Giêsu để học biết giáo huấn của Người về Nước Trời, và chính Mẹ thôi thúc chúng ta trở thành những sứ gỉa của Người để dân chúng trong “Lục Địa Hi Vọng” này có sự sống viên mãn trong Người.

Trong Phiên Họp Chung năm ngoái, các Giám mục của các con tại Bra-xin đã suy tư về chủ đề phúc âm hoá giới trẻ và các ngài đã gửi một tài liệu đến tay các con. Các ngài mong muốn các con đón nhận tài liệu ấy và bổ sung thêm suy nghĩ của chính các con cho tài liệu trong suốt năm nay. Trong Phiên Họp gần đây nhất, các Giám mục đã trở lại chủ đề này, giờ đã được hoàn thiện hơn nhờ sự cộng tác của các con, các ngài hi vọng rằng những suy tư và hướng dẫn đề ra trong đó sẽ là những động lực và đèn hiệu cho hành trình của các con. Những lời chào mừng của Đức Tổng Giám Mục São Paulo và của Vị Giám Đốc phụ trách Mục vụ Giới trẻ mà cha mới cảm ơn, xác quyết tinh thần tác động tâm hồn của tất cả các con.

Đang khi bay trên miền đất Bra-xin chiều ngày hôm qua, cha đã hình dung ra cuộc gặp gỡ của chúng ta trong Sân Vận Động Pacaembu này, cha tha thiết gửi đến tất cả các con sự chào thăm nồng nhiệt mang đặc tính Bra-xin và chia sẻ với các con những tâm tình mà cha mang theo trong sâu kín cõi lòng của cha, được trình bày một cách rất thích hợp với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay.

Cha luôn cảm nhận một niềm vui đặc biệt tại những cuộc gặp gỡ này. Cha nhớ lại Ngày Đại Hội Giới Trẻ Lần Thứ Mười Hai mà cha chủ trì cách đây hai năm tại nước Đức. Một số các con ở đây hôm nay cũng đã có mặt tại đó! Thật là một kí ức sống động khi cha nhận ra những hoa trái dồi dào mà ơn Chúa tuôn đổ trên những người hiện diện ở đó. Trong số biết bao hoa trái mà cha có thể kể ra, không chút nghi ngờ gì, trước hết đó là tình huynh đệ hiển hiện như một dấu chứng sáng ngời về sức sống trường cửu của Giáo Hội trên khắp thế giới.

2. Vì thế, các con thân mến, cha chắc chắn rằng những cảm xúc mà cha đã trải qua ở Đức cũng sẽ tái hiện ở đây hôm nay. Vào năm 1991, trong chuyến thăm viếng mục vụ đến Mato Grosso, Người Tôi Tớ Chúa khả kính là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh rằng “tuổi trẻ là những người tiên phong trong nghìn năm thứ ba... họ là những người sẽ đảm nhận vận mệnh của giai đoạn mới này trong lịch sử nhân loại” (16 Tháng Mười 1991). Hôm nay cha cảm thấy bị thôi thúc để đưa ra một nhận định tương tự liên quan đến tất cả các con.

Đời sống Kitô hữu của các con trong các giáo xứ và cộng đồng giáo hội nhỏ, trong các đại học và các trường học, nhưng hầu hết tại những nơi làm việc trong thành phố cũng như ở thôn quê, chắc chắn làm hài lòng Chúa. Nhưng cần phải tiến xa hơn. Chẳng bao giờ chúng ta có thể cho là “đủ”, bởi vì tình yêu của Thiên Chúa thì vô biên, và Chúa mời gọi chúng ta- hay đúng hơn- đòi hỏi chúng ta mở rộng tâm hồn hơn để dành chỗ cho cả tình yêu, điều thiện hảo và sự cảm thông đối với các anh chị em của chúng ta, cũng như cho những vấn đề liên quan không chỉ đến cộng đồng nhân loại, mà còn cho việc bảo tồn và phát huy hiệu quả môi trường tự nhiên, nơi tất cả chúng ta dự phần. “Rừng xanh của chúng ta thêm sức sống”: đừng để ngọn lửa hi vọng mà Bài Quốc Ca vang trên môi miệng các con bị tắt ngúm. Sự tàn phá môi trường tại Lưu Vực Amazon và những đe doạ đi ngược lại phẩm giá của những người dân đang sống tại vùng đó cần có sự dấn thân lớn lao hơn trong những lãnh vực hoạt động khác nhau, vượt lên trên sự quan tâm của xã hội.

3. Hôm nay cha muốn suy niệm về bài Tin Mừng Thánh Mátthêu mà chúng ta vừa nghe (x. Mt 19, 16 -22). Bài đọc này nói về một thanh niên đến gặp Chúa Giêsu. Sự nôn nóng của anh ta thật đáng chú ý. Nơi người thanh niên này cha nhận ra tất cả các con, những bạn trẻ của đất nước Bra-xin và Châu Mỹ La tinh. Các con đã “chạy” đến đây từ những miền khác nhau của Lục Địa này vì cuộc gặp gỡ của chúng ta. Các con muốn lắng nghe những lời của chính Chúa Giêsu- nói qua tiếng nói của Đức Thánh Cha.

Các con nêu ra cho ngài một vấn nạn quan trọng- vấn nạn xuất phát trong Bài Tin Mừng này. Đó cũng là vấn nạn mà người trẻ này đưa ra khi đến gặp Chúa Giêsu: Tôi phải làm việc thiện nào để được sự sống đời đời? Cha muốn đào sâu hơn vấn đề này cùng với các con. Đó là vấn đề về sự sống. Một sự sống mà nơi các con phải sung mãn và tươi đẹp. Các con phải làm gì cho sự sống ấy? Các con phải sống tròn đầy sự sống ấy như thế nào?

Chúng ta thấy ngay rằng trong chính phương thức đặt câu hỏi, cái “ở đây” và cái “hiện tại” là không đủ; đăt vấn đề một cách khác thì chúng ta không thể giới hạn đời sống của chúng ta vào khuôn khổ không gian và thời gian, nhưng chúng ta muốn mở rộng phạm vi không gian thời gian ấy. Sự sống vượt trội chúng. Nói cách khác: chúng ta muốn sống chứ không muốn chết. Chúng ta cảm nhận một điều gì đó nhắc bảo chúng ta rằng sự sống là vĩnh cửu và chúng ta phải đạt được điều đó. Tóm lại, sự sống ấy nằm gọn trong tay của chúng ta và một cách nào đó, tuỳ thuộc vào chính quyết định của chúng ta.

Vấn nạn trong Bài Tin Mừng không chỉ liên quan đến tương lai. Nó không chỉ liên quan đến vấn đề về những gì diễn ra sau khi chết. Trái lại, nó bao hàm một trách nhiệm trong hiện tại,“ở đây” và“bây giờ”, bảo đảm tính chính đáng, và do đó bảo đảm tương lai. Tóm lại, câu hỏi của người thanh niên nêu lên vấn đề về ý nghĩa của đời sống. Như thế, câu hỏi có thể mở rộng ra thế này: tôi phải làm gì để đời sống của tôi có ý nghĩa? Tôi phải sống thế nào để bội thu những hoa trái của sự sống? Hoặc: tôi phải làm gì để đời sống của tôi không vô ích?

Chỉ Chúa Giêsu mới có thể đưa ra cho chúng ta những câu trả lời, bởi vì chỉ có Người mới bảo đảm cho chúng ta sự sống đời đời. Do đó, chỉ có Người mới có thể vạch chỉ cho chúng ta ý nghĩa của đời sống hiện tại và ban cho nó sự sung mãn.

4. Nhưng trước khi trả lời, Chúa Giêsu hỏi lại người thanh niên về một khía cạnh cực kì quan trọng: tại sao anh hỏi tôi về điều tốt? Trong câu hỏi này, chúng ta tìm thấy chìa khoá của câu trả lời. Người thanh niên này nhìn nhận Chúa Giêsu là tốt và Người là là một minh sư- một minh sư không gây thất vọng. Chúng ta hiện diện nơi đây vì chúng ta cũng cùng xác tín: Chúa Giêsu tốt. Có lẽ chúng ta không thể trình bày đầy đủ lí do của sự tin nhận này, nhưng chắc chắn xác tín đó dẫn chúng ta đến với Người và khai mở cho chúng ta đón nhận giáo huấn của Người: Ngừơi là một lương sư. Nhận ra điều tốt nghĩa là đang yêu. Và bất cứ ai yêu thương- theo cách diễn tả thật thích đáng của Thánh Gioan- thì nhận biết Thiên Chúa (1 Ga 4, 7). Người thanh niên trong Tin Mừng đã nhìn nhận Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa.

Chúa Giêsu xác quyết rằng chỉ Thiên Chúa là tốt. Mở rộng tâm hồn hướng về điều thiện là đón nhận Thiên Chúa. Như vậy, Người mời gọi chúng ta nhận ra Chúa trong mọi sự cũng như trong mọi biến cố, cho dẫu hầu hết mọi người chỉ thấy sự vắng bóng Thiên Chúa. Khi nhìn thấy vẻ đẹp nơi thụ tạo và nhận ra sự thiện hảo trong đó, chúng ta không thể không tin nhận Chúa và cảm nhận sự hiện diện cứu chuộc yêu thương của Người. Nếu chúng ta lại nhận ra tất cả sự thiện hảo trên trần gian này- và càng nhận ra sự thiện hảo xuất phát từ chính Thiên Chúa- thì chúng ta luôn chạy đến Người, ca tụng Người và cảm tạ Người. Người sẽ đong đầy cho chúng ta niềm vui và những điều thiện hảo. Niềm vui của Người là sức mạnh của chúng ta.

Nhưng chúng ta chỉ nhận biết một cách bất toàn và riêng lẻ. Để hiểu thấu điều toàn thiện, chúng ta cần sự giúp đỡ mà chính Giáo Hội đem đến cho chúng ta trong những cơ hội khác nhau, nhất là qua giáo lí. Chính Chúa Giêsu tỏ cho thấy điều gì là tốt cho chúng ta khi truyền ban cho chúng ta điều ưu tiên trong giáo lí của Người: “Nếu anh muốn vào cõi sống, hãy giữ các điều răn” (Mt 19, 17). Người bắt đầu bằng những kiến thức mà chắc chắn người thanh niên đã học biết từ gia đình và từ hội đường: quả thực anh ta đã biết các giới răn. Những giới răn này dẫn vào cõi sống, nghĩa là chúng bảo đảm tính chính đáng. Đó là những dấu chỉ cao trọng dẫn chúng ta bước đi trên đường ngay nẻo chính. Ai tuân giữ các giới răn, người ấy đang trên đường đến với Chúa.

Tuy nhiên, chỉ hiểu biết các giới răn thì không đủ. Chứng tá quan trọng hơn tri thức; hay đúng hơn, tri thức cần phải được áp dụng. Các giới răn không được áp đặt cho chúng ta từ bên ngoài; chúng không làm giảm tự do của chúng ta. Trái lại: chúng là những động lực nội tâm mạnh mẽ hướng dẫn chúng ta hành động theo một cách thức nào đó. Từ cốt lõi của các giới răn, chúng ta tìm thấy cả ân sủng và tự nhiên, chúng không để chúng ta ù lì bất động. Chúng ta phải bước tới. Chúng ta bị thôi thúc phải làm một điều gì đó để kiện toàn khả năng của chúng ta. Thật vậy, tìm sự thành toàn qua hành động chính là làm cho mình trở nên thực hữu. Theo phạm vi rộng, ngay từ thời gian tuổi trẻ, chúng ta sẽ trở thành điều chúng ta muốn trở thành. Cũng có thể nói, chúng ta là công trình của chính chúng ta kiến tạo.

5. Đến đây, một lần nữa cha hướng về các con, những bạn trẻ, bởi vì cha muốn nghe các con trả lời giống như người thanh niên trong Tin Mừng đáp lại: tất cả những điều ấy tôi đã tuân giữ từ khi còn trẻ. Người thanh niên trong Tin Mừng đã hoàn thiện. Anh tuân giữ các giới răn. Anh bước theo đường lối Chúa. Do đó, Chúa Giêsu nhìn anh chăm chú, thương mến anh. Khi nhìn nhận Chúa Giêsu tốt lành, anh tỏ ra rằng anh cũng tốt lành. Anh đã có những trải nghiệm về sự thiện hảo, và do đó cảm nghiệm về Thiên Chúa. Còn các con, những người trẻ của nước Bra-xin và Châu Mỹ La tinh, các con đã khám phá thấy điều thiện hảo chưa? Các con có giữ luật Chúa không? Các con đã khám phá ra rằng đó là con đường đích thực duy nhất dẫn đến hạnh phúc chưa?

Những năm tháng cuộc đời của các con là những năm tháng chuẩn bị cho tương lai. “Ngày mai” của các con tuỳ thuộc nhiều vào cách thế chúng con đang sống “ngày hôm nay” tuổi trẻ của các con. Các bạn trẻ thân mến, trải rộng trước mặt chúng con là một cuộc đời mà tất cả chúng ta hi vọng sẽ kéo dài; tuy nhiên chúng con chỉ có một cuộc đời, nó là độc nhất: đừng để nó qua đi vô ích; đừng phung phí nó. Hãy sống nhiệt tình và vui tươi, nhưng nhất là sống một cách có trách nhiệm.

Nhiều lần, chúng tôi là những vị mục tử phải băn khoăn lo lắng khi nhìn vào hiện tình của thế giới hiện nay. Chúng tôi nghe được những nỗi sợ hãi của người trẻ hôm nay. Những nỗi sợ này tỏ rõ một sự thiếu vắng nghiêm trọng đối với niềm hi vọng: sợ chết khi mà cuộc đời đang tươi nở và người trẻ đang tìm cách kiện toàn năng lực của mình; sợ thất bại, vì chưa khám phá ra ý nghĩa của cuộc đời; sợ bị lạc lõng trước trước sự biến chuyển mau lẹ gây kinh ngạc của các biến cố và các phương tiện truyền thông. Chúng tôi nhận thấy tỉ lệ tử vong cao trong giới trẻ, sự đe doạ về bạo lực, sự lan tràn tệ nạn ma tuý làm điên đảo tận gốc rễ giới trẻ hôm nay. Vì lẽ đó, chúng tôi nghe người ta nói về một “giới trẻ lạc hướng”.

Nhưng khi cha nhìn vào các con, những người trẻ hiện diện nơi đây- các con toả rạng niềm vui và sự nồng nhiệt- cha thấy các con như Chúa Kitô thấy các con: với ánh mắt yêu thương và tin tưởng và với sự đoan chắc rằng các con đã tìm ra chính lộ. Các con là tuổi trẻ của Giáo Hội. Do đó, cha sai các con đi với sứ mệnh trọng đại là phúc âm hoá các bạn trẻ nam nữ, những người đã đi lạc trong thế giới này như đoàn chiên không có chủ nhăn. Hãy trở thành tông đồ của giới trẻ. Hãy mời họ đồng hành với các con, để cùng cảm nhận niềm tin, niềm hi vọng và tình yêu; hãy mời họ gặp Chúa Giêsu để có thể cảm nhận được yêu thương, được đón nhận thực sự, và để có thể thực hiện trọn vẹn năng lực của họ. Ước gì họ cũng sẽ khám phá ra những nẻo đường an toàn của các giới răn, và khi bước theo thì đến với Thiên Chúa.

Các con có thể là những người kiến tạo một xã hội mới nếu các con tìm thực hành một lối ứng xử được khởi hứng bởi những giá trị luân lí phổ quát, cũng như thực hiện việc dấn thân cá nhân cho việc đào tạo thiêng liêng và nhân văn hết sức quan trọng. Những người nam nữ không được chuẩn bị đủ trước các thách đố thực tế đặt ra vì sự đòi hỏi phải trình bày đích xác đời sống Kitô hữu trong chính môi trường của mình, sẽ dễ trở thành mồi ngon cho các cuộc tấn công của chủ thuyết duy vật và trào lưu tục hoá càng ngày càng mạnh mẽ trên mọi cấp độ.

Các con hãy trở thành những người nam nữ tự do và có trách nhiệm; hãy tạo cho gia đình thành một trung tâm toả rạng sự an vui; hãy là những người đề cao sự sống, từ lúc khởi đầu cho đến cái chết tự nhiên; hãy bảo vệ những người cao niên, bởi vì họ đáng được tôn kính do những điều thiện họ đã làm. Giáo Hoàng cũng mong muốn giới trẻ tìm thánh hoá việc lao động khi thực hiện qua sự khéo léo kĩ thuật và sự khôn ngoan của mình, hầu đóng góp cho sự tiến bộ của tất cả anh chị em mình, và chiếu ánh sáng Lời Chúa vào mọi hoạt động của con người (Lumen Gentium, 36). Nhưng trên hết, Giáo Hoàng muốn các bạn trẻ tiến hành xây dựng một xã hội công bằng và huynh đệ hơn khi chu toàn các nghĩa vụ của họ đối với Đất Nước: bằng cách tôn trọng các điều luật; không để cho mình bị lôi cuốn bởi thù hận và bạo lực; tìm cách trở thành một gương sáng về đức hạnh Kitô giáo trong môi trường xã hội và nghề nghiệp; nêu gương qua sự ngay chính trong các tương quan nghề nghiệp và xã hội. Họ phải nhớ rằng tham vọng quá độ về của cải và quyền lực sẽ làm hư hỏng bản thân cũng như người khác; không có động cơ chính đáng nào có thể biện minh cho nỗ lực áp đặt những khao khát trần tục của chính mình- dù kinh tế hoặc chính trị- bằng lừa đảo và gian dối.

Phân tích cặn kẽ cho thấy vẫn có rất nhiều phương thức hành động, trong đó những vấn đề về trật tự xã hội, kinh tế và xã hội chiếm một vị trí quan trọng đặc biệt, với điều kiện là những vấn đề này phải khơi nguồn động lực từ Tin Mừng và giáo huấn xã hội của Giáo Hội. Điều này bao hàm việc xây dựng một xã hội công bằng và huynh đệ hơn, một xã hội hoà giải và hoà hợp; việc dấn thân giảm thiểu bạo lực; đề ra những sáng kiến phát huy sự sống toàn diện; xây dựng nền móng dân chủ và thiện ích chung; đặc biệt những sáng kiến nhằm xoá bỏ những hình thức đối xử phân biệt vẫn tồn tại trong các xã hội Mỹ Châu La tinh: tránh loại trừ, nhưng làm phong phú lẫn nhau.

Trên hết, phải hết sức tôn trọng thiết chế bí tích Hôn Nhân. Không thể có hạnh phúc gia đình đích thực nếu đồng thời không có sự trung thành giữa vợ chồng. Hôn nhân là một thiết chế theo luật tự nhiên, được Chúa Kitô nâng lên thành một bí tích; đó là một hồng ân lớn lao Thiên Chúa ban tặng cho loài người: hãy tôn trọng và hãy tôn vinh hồng ân đó. Đồng thời, Thiên Chúa kêu gọi các con trôn trọng lẫn nhau khi các con bước vào tình yêu và đã kết ước với nhau, bởi vì đời sống vợ chồng theo mệnh lệnh Thiên Chúa chỉ được dành cho những cặp vợ chồng đã kết hôn, nó chỉ đem lại hạnh phúc và sự an hoà theo mức độ các con xây dựng niềm hi vọng tương lai của mình dựa trên sự khiết tịnh, cả trong và ngoài hôn nhân. Ơ đây cha nhắc lại cho tất cả các con rằng “tình yêu hướng về Thiên Linh, dẫn chúng ta vượt lên khỏi chính mình; vì lí do đó, nó đòi buộc một con đường vươn lên, từ bỏ, thanh luyện và chữa trị” (Thông điệp Deus Caritas Est, 5). Nói một cách vắn gọn, tình yêu đòi hỏi tinh thần hi sinh và từ bỏ vì sự thiện hảo lớn hơn, đó là tình yêu Thiên Chúa ở trên hết mọi sự. Hãy cố gắng mạnh mẽ cưỡng lại nanh vuốt của sự ác có mặt trong nhiều môi trường, lôi cuốn chúng con vào một đời sống rã rượi và rỗng tuếch, làm cho chúng con đánh mất hồng ân cao quý của sự tự do và hạnh phúc đích thực. Tình yêu chân chính “luôn tìm hạnh phúc cho người khác, luôn quan tâm đến người được yêu, tự hiến chính mình và ước muốn ‘hiện diện’ cho họ” (ibi., 7) và, do đó luôn trung thành hơn, gắn bó và phong phú hơn.

Tất cả những điều đó, các con hãy cậy nhờ sự giúp đỡ của Chúa Giêsu Kitô, Đấng qua ơn Người, sẽ thực hiện mọi sự (x. Mt 19, 26). Đời sống đức tin và cầu nguyện sẽ dẫn chúng con đi trên những con đường thân mật với Thiên Chúa, giúp chúng con hiểu rõ sự cao trọng trong kế hoạch Người đặt cho mỗi cá nhân. “Vì Nước Trời” (Mt 19, 12), một số người được gọi để hi sinh trọn vẹn và dứt khoát bằng cách thánh hiến bản thân cho Thiên Chúa trong đời sống tu trì- một “ơn huệ cao quý”, như Công Đồng Vatican II diễn tả (x. Sắc Lệnh về Đức Ái Hoàn Hảo, 12). Những người đã được thánh hiến, tự hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa, được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, tham dự vào sứ mệnh của Giáo Hội, làm chứng trước mặt mọi người về niềm hi vọng của mình vào Nước Trời. Do đó, cha chúc lành và khẩn cầu sự che chở thiêng liêng cho tất cả những tu sĩ đã dâng mình cho Chúa Kitô và cho anh chị em mình trong vườn nho của Chúa. Những người được thánh hiến thật sự xứng đáng được cộng đồng giáo hội biết ơn: các tu sĩ nam nữ, những tu sĩ chiêm niệm, những tu sĩ hi sinh cho việc tông đồ, những tu sinh trong Tu Hội Đời và Tu Đoàn Tông Đồ, các vị ẩn tu và các trinh nữ thánh hiến. “Đời sống của họ làm chứng cho tình yêu Chúa Kitô khi họ bước theo con đường do Tin Mừng vạch ra và với niềm vui sâu thẳm, họ kết ước cho một mẫu đời sống mà chính họ đã chọn” (Bộ Các Dòng Tu và Tu Đoàn Tông Đồ, Huấn Thị: Khởi đi từ Chúa Kitô, 5). Lúc này cha cầu mong trong ân sủng và hiệp thông sâu xa với Chúa Kitô, nguyện xin Chúa Thánh Thần khơi lên tình yêu say mê trong tâm hồn của nhiều người trẻ, thúc đẩy họ bước theo và bắt chước Chúa Giêsu Kitô, Đấng khiết tịnh, nghèo khó và tuân phục, trọn hiến cho vinh quang của Chúa Cha và cho anh chị em của mình.

6. Tin Mừng xác nhận với chúng ta rằng người thanh niên đến gặp Chúa Giêsu rất giàu. Chúng ta có thể hiểu sự giàu có này không chỉ về mặt vật chất. Chính tuổi trẻ cũng là một kho tàng độc đáo. Chúng ta phải khám phá nó và tạo cho nó một giá trị. Chúa Giêsu đề cao nó tới mức Người mời gọi người thanh niên tham dự vào sứ mệnh cứu chuộc của Người. Anh ta có nhiều khả năng và có thể thực hiện nhiều việc trọng đại.

Nhưng Tin Mừng tiếp tục thuật lại rằng người trẻ này khi nghe lời mời gọi đã buồn sầu. Anh sa sầm nét mặt, ủ dột bỏ đi. Đoạn này thúc đẩy chúng ta suy tư thêm về kho tàng tuổi trẻ. Không phải trước hết là vấn đề giàu có vật chất, nhưng là chính sự sống và những giá trị gắn liền với tuổi trẻ. Sự giàu có này xuất phát từ hai nguồn: sự sống, được lưu truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác, và từ nguyên cội của nó chúng ta tìm thấy Thiên Chúa, đầy khôn ngoan và yêu thương; và sự giáo dục, đặt chúng ta trong một nền văn hoá, theo mức độ nào đó chúng ta có thể nói rằng chúng ta là con cái của một nền văn hoá và một truyền thống đức tin hơn là của thiên nhiên. Từ sự sống phát sinh tự do, thể hiện đặc biệt trong giai đoạn này là trách nhiệm. Rồi xuất hiện tiếp theo là giờ phút trọng đại của sự quyết định, bao gồm một chọn lựa hai mặt: trước hết liên quan đến tình trạng sống, và thứ hai liên quan đến đức tin. Đó là để trả lời cho câu hỏi: tôi phải làm gì với cuộc sống của tôi?

Nói cách khác, tuổi trẻ hiện ra như một hình thái của sự giàu có bởi vì nó dẫn đến sự khám phá đời sống như một hồng ân và như một bổn phận. Người thanh niên trong Tin Mừng hiểu rằng tuổi trẻ của anh ta chính là một kho tàng. Anh ta đến với Chúa Giêsu, một lương Sư để tìm một định hướng. Tuy nhiên, vào lúc phải quyết dịnh dứt khoát, anh ta đã thiếu can đảm để đánh cuộc mọi sự nơi Chúa Giêsu Kitô. Bởi đó, anh buồn sụ và bỏ đi. Đây là điều sẽ xảy ra khi quyết định của chúng ta chập chờn do dự, yếu nhược và thủ lợi. Anh ta hiểu rằng điều anh ta thiếu là lòng quảng đại, và điều này không cho phép anh ta thực hiện khả năng trọn vẹn của mình. Anh ta thu mình vào của cải của anh, biến nó thành lòng ích kỉ.

Chúa Giêsu tiếc xót cho sự buồn sầu và sự hèn nhát của người thanh niên đã đến tìm gặp Người. Các Tông Đồ, cũng như tất cả các con hôm nay, đã lấp đầy khoảng trống người trẻ ấy để lại và buồn rầu bỏ đi. Các ngài và chúng ta đều hạnh phúc bởi vì chúng ta biết Đấng mà chúng ta tin (x. 2 Tm 1, 12). Chúng ta biết và chúng ta làm chứng bằng đời sống của chúng ta rằng chỉ mình Người mới có sự sống đời đời (x. Ga 6, 68). Bởi đó, cùng với Thánh Phaolô, chúng ta có thể kêu lên: hãy luôn vui mừng trong Chúa! (x. Pl 4, 4).

7. Lời kêu gọi mà cha gửi đến các con hôm nay, những người trẻ hiện diện tại buổi gặp gỡ này, là: đừng phung phí tuổi trẻ của các con. Đừng tìm trốn thoát khỏi nó. Hãy sống nó một cách nồng nhiệt. Hãy thánh hiến nó cho những lí tưởng cao đẹp của niềm tin và tình liên đới của con người.

Các con, những người trẻ, không chỉ là tương lai của Giáo Hội và của nhân loại, như thể đó là một cách trốn chạy khỏi cái hiện tại. Trái lại: các con là người trẻ hiện tại; các con là người trẻ trong giáo Hội và trong nhân loại hôm nay. Các con là khuôn mặt tươi trẻ của họ. Giáo Hội cần các con như những người trẻ, để tỏ cho thế giới thấy dung mạo của Chúa Giêsu Kitô, hiện hình trong cộng đồng Kitô. Không có khuôn mặt tươi trẻ này, Giáo Hội sẽ bị biến dạng.

Các bạn trẻ thân mến, cha sắp khai mạc Hội Nghị Lần Thứ Năm các Giám Mục Châu Mỹ La tinh. Cha xin các con quan tâm theo sát những quyết định của hội nghị; hãy tham gia thảo luận; hãy đón nhận những thành quả của hội nghị. Cũng như trường hợp các Hội Nghị trước, Hội Nghị này cũng sẽ để lại một dấu ấn nhiều ý nghĩa cho mười năm tới trong cuộc rao giảng Tin Mừng cho Châu Mỹ La tinh và vùng Caribê. Không ai được đứng ngoài lề hoặc dửng dưng trước nỗ lực này của Giáo Hội, kể cả các con những người trẻ. Các con là những thành viên trọn vẹn của Giáo Hội, đại diện cho khuôn mặt của Chúa Giêsu Kitô tại Châu Mỹ La tinh và vùng Caribê.

Cha chào thăm những người nói tiếng Pháp sinh sống tại lục địa Mỹ La tinh, và cha mời gọi họ trở thành chứng nhân cho Tin Mừng, tích cực dấn thân vào đời sống của Giáo Hội. Lời cầu nguyện của cha được dành cho các con, một cách đặc biệt, cho những người trẻ: các con được kêu gọi để xây dựng đời sống của các con trên nền tảng Chúa Kitô và trên các giá trị căn bản của con người. Ước mong mọi người cảm thấy được mời gọi để kiến tạo một thế giới công bằng và hoà bình.

Các bạn trẻ thân mến, như người thanh niên trong Tin Mừng hỏi Chúa Giêsu: “Tôi phải làm việc thiện nào để được sự sống đời đời?”, tất cả các con đang tìm những cách thế để quảng đại đáp lại tiếng Chúa gọi. Cha cầu nguyện cho các con biết lắng nghe những lời cứu chuộc của Người để các con trở nên chứng nhân của Người cho các dân tộc hôm nay. Xin Chúa đổ tràn trên các con phép lành bình an và niềm vui của Người.

Các bạn trẻ thân mến, Chúa Kitô đang kêu gọi các con trở thành các thánh nhân. Chính Người đang mời gọi các con và muốn đồng hành với các con, để cùng với Thần Khí của Người, làm sống động những bước chân mà đất nước Bra-xin đang bước khi bắt đầu thiên niên kỉ thứ ba của kỉ nguyên Kitô giáo. Cha cầu xin Đức Mẹ Aparecida hướng dẫn các con với sự trợ giúp từ mẫu của ngài, và đồng hành với các con trong suốt cuộc đời.

Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!

+ ĐTC Benedictô XVI

(Lm. Giuse Ngô Quang Trung dịch)

Thánh lễ khai mạc Khóa Họp của Liên HÐGM Châu Mỹ Latinh và vùng Caraibi

tại Ðền Thánh Quốc Gia Kính Ðức Mẹ Aparecida

 

Một trong những trọng điểm của chuyến viếng thăm mục vụ của Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI tại Brazile, từ ngày 9 đến 14 tháng 5 năm 2007, là Thánh Lễ Khai Mạc Phiên Họp Khoáng Ðại lần thứ V, của Liên Hội Ðồng Giám Mục Châu Mỹ LaTinh và Vùng Caraibi, tại Ðền Thánh Quốc Gia Kính Ðức Mẹ Aparecida, tại thành phố mang cùng tên (là thành phố Aparecida), vào sáng Chúa Nhật 13 tháng 5 năm 2007.

Ðược biết, ngày 2 tháng 11 năm 1955, Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã chấp thuận việc thành lập Liên Hội Ðồng Giám Mục Châu Mỹ Latinh và vùng Caraibi, được gọi vắn tắt là CELAM. Ðây là cơ cấu liên quốc gia nhắm cổ võ sự gặp gỡ, cộng tác, và phục vụ lẫn nhau của 22 Hội Ðồng Giám Mục Châu Mỹ La Tinh. Phiên Họp Khoáng Ðại lần thứ I đã diễn ra vào năm 1955, tại Rio de Janeiro, Brazile. Phiên Họp Khoáng Ðại lần II vào năm 1968, tại Medellin, Colombia. Phiên Họp Khoáng Ðại lần thứ III, đã được tổ chức tại Puebla, Mêhicô, vào năm 1979; Phiên Họp Khoáng Ðại lần thứ IV, đã được tổ chức tại Thủ Ðô Cộng Hoà Santo Domingo, vào năm 1992. Và lần họp này là lần thứ V, tại Aparecida, Brazile.

Ðức cố Giáo Hoàng Phaolô VI đến khai mạc Phiên Họp Khoáng Ðại lần thứ II, vào năm 1968, tại Medellin, Colombia.

Ðức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thì đã đến tham dự hai phiên họp khoáng đại lần thứ III, và lần thứ IV. Lần thứ III là vào năm 1979, tại Puebla, Mêhicô; và lần thứ IV là vào năm 1992, tại Santo Domingo, thủ đô của Cộng Hoà Santo Domingo.

Và lần thứ V, được Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI, khai mạc tại Aparecida, Brazile, sáng Chúa Nhật 13 tháng 5 năm 2007. Theo hãng thông tấn công giáo Thuỵ Sĩ, --- Apic, --- thì Phiên Họp Khoáng Ðại lần thứ V, quy tụ 20 vị Hồng Y, 200 vị Tổng Giám Mục và Giám Mục, 20 vị đại diện cho các giáo hội khác và cho các cơ cấu quốc tế, và 15 thần học gia chuyên viên, và các quan sát viên đến từ các giáo hội kitô khác và từ các tôn giáo khác.

Quy Chế đầu tiên của Liên Hội Ðồng Giám Mục Châu Mỹ Latinh, đã được Ðức Phaolô VI phê nhận vào năm 1974; và quy chế hiện nay đã được đức Gioan Phaolô II phê nhận vào năm 2004.

Vị chủ tịch hiện nay của Liên Hội Ðồng Giám Mục Châu Mỹ LaTinh và Vùng Caraibi (CELAM) là Ðức Hồng Y Francisco Javier Errazuriz Ossa, Tổng Giám Mục Santiago, Chilê.

Tuy nhiên trong phiên họp khoáng đại của Liên Hội Ðồng Giám Mục Châu Mỹ LaTinh và Vùng Caraibi (CELAM), chủ tịch đoàn gồm có ba vị sau đây:

1. Ðức Hồng Y Giovanni Battista Re, tổng trưởng bộ giám mục vừa đồng thời là chủ tịch Ủy Ban Giáo Hoàng đặc trách về Châu Mỹ la Tinh.

2. Ðức Hồng Y Francisco Javier Errazuriz, Tổng giám mục Santiago, Chile, vừa đồng thời là chủ tịch Liên Hội Ðồng Giám Mục châu Mỹ Latinh.

3. Ðức Hồng Y Geraldo Majella Agnelo, Tổng giám mục San Salvador de Bahia.

Giờ đây, chúng ta hãy trở lại Thánh Lễ Khai Mạc Phiên Họp Khoáng Ðại lần thứ V, vào sáng Chúa Nhật 13 tháng 5 năm 2007, tại Ðền Thánh Quốc Gia kính Ðức Mẹ Aparecida. Theo hãng tin công giáo Thụy Sĩ, --- apic, ---, đã có khoảng 300,000 tín hữu tham dự thánh lễ nầy.

Cùng đồng tế với Ðức Thánh Cha, có 200 Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám mục, và khoảng 2,000 linh mục.

Giảng trong thánh lễ, ÐTC đã quả quyết rằng: phần gia tài quý giá nhất của Châu Mỹ Latinh là Ðức Tin vào Chúa Giêsu Kitô. ÐTC đã mạnh mẽ quả quyết như sau:

"Ðức Tin vào Thiên Chúa Tình yêu: đó là kho tàng vô giá mà đại lục châu mỹ latinh có thật nhiều; đó là phần gia tài quý giá nhất của đại lục".

Theo Ðức Thánh Cha, chính Ðức Tin này, -- chớ không phải một ý thức hệ chính trị, cũng không phải một phong trào xã hội, cũng không phải một hệ thống kinh tế, --- (chỉ Ðức Tin này) mới làm cho Châu Mỹ Latinh trở thành "đại lục của niềm hy vọng". ÐTC nói: "Nền tảng đích thực của niềm hy vọng, một niềm hy vọng đã mang lại biết bao hoa trái đáng khâm phục, ngay từ thời đầu tiên rao giảng phúc âm cho đến ngày hôm nay --- (nền tảng đích thực đó) chính là Ðức Tin vào Thiên Chúa Tình Yêu.

ÐTC cũng đã bảo đảm rằng Giáo Hội không chiêu dụ tín đồ. "Giáo Hội phát triển do bởi sức "hấp dẫn": giống như Chúa Kitô thu hút tất cả mọi người đến với Ngài, bằng sức mạnh của tình thương, một tình thương có cao điểm là hy sinh chính mình trên thập giá. Giáo hội hoàn thành sứ mạng của mình trong mức độ Giáo Hội hoàn thành mỗi công việc của mình trong sự kết hiệp với Chúa Kitô. Ðức Gioan Phaolô II đã kêu gọi anh chị em thực hiện công cuộc tái rao giảng phúc âm; và anh chị em đã chấp nhận sứ điệp của Ngài một cách quảng đại và với tinh thần dấn thân. Giờ đây, tôi xin xác nhận lại với anh chị em điều này, và với những lời của Khoá Họp Khoáng Ðại Lần thứ V này, tôi nói với anh chị em rằng: anh chị em hãy là những môn đệ trung thành, để trở nên những nhà truyền giáo can đảm và hữu hiệu.

          Cuối thánh lễ, trước khi xướng kinh lạy Nữ Vương Thiên Ðàng, ÐTC đã nhắc đến kỷ niệm 90 năm Ðức Mẹ hiện ra tại Fatima, Bồ Ðào Nha. ÐTC đã nói như sau:

"Ngày hôm nay là kỷ niệm 90 năm Ðức Mẹ hiện ra tại Fatima. Với lời kêu gọi mạnh mẽ hãy ăn năn trở lại và làm việc đền tội, việc hiện ra tại Fatima có tính cách tiên tri hơn tất cả mọi hiện ra khác. Chúng ta hãy khẩn xin Mẹ của Giáo Hội, Ðấng biết những đau khổ và những hy vọng của nhân loại, -- (xin Mẹ) bảo vệ các gia đình và các cộng đoàn chúng ta. Một cách đặc biệt, chúng ta phó dâng cho Mẹ các dân nước, các quốc gia, đang có nhu cầu cần được trợ giúp; chúng ta khẩn cầu như vậy với niềm xác tín rằng Mẹ sẽ không để cho những lời cầu nguyện mà chúng ta dâng lên Mẹ với tình con thảo, mà không được nhận lời. Ðặc biệt, tôi nghĩ đến những anh chị em đang đau khổ vì đói rách; do đó, tôi muốn nhắc đến chiến dịch "Ði Bộ để chống nạn đói", do chương trình thực phẩm thế giới cổ võ. Ðây là cơ quan của Liên Hiệp Quốc đặc trách về trợ giúp Lương Thực. Sáng kiến này được thực hiện tại nhiều thành phố trên thế giới, trong đó có thành phố Ribeirão tại Brazile. Lời cầu nguyện chúng ta cũng hướng đến Cộng Ðoàn Phi Châu - Brazile, đang mừng việc bãi bỏ nạn nô lệ tại Brazile.

Trước đó, bằng tiếng Bồ Ðào Nha, ÐTC đã nói như sau:

"Tôi chân thành chào tất cả anh chị em, đến từ bốn phương đất nước Brazile, cũng như từ Châu Mỹ LaTinh và vùng Caraibi, và chào những ai đang lắng nghe qua truyền thanh và truyền hình. Khi cử hành thánh Lễ, tôi đã cầu xin Chúa Thánh Thần làm cho Khoá Họp thông thường lần thứ V này được nhiều hoa trái. Tôi xin tất cả hãy cầu nguyện cho khoá họp được kết quả cho tương lai hy vọng của châu Mỹ Latinh. Anh chị em là những tác nhân cho vận mệnh đất nước của anh chị em. Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành và đồng hành với anh chị em!

Bằng tiếng Tây Ban Nha, ÐTC đã nói như sau:

"Vời lòng mộ mến, Tôi xin chào các nhóm, các cộng đoàn nói tiếng Tây Ban Nha đang hiện diện nơi đây, và chào tất cả những ai tại Tây Ban Nha và tại Châu Mỹ LaTinh đang hiệp ý theo dõi buổi cử hành này. Nguyện xin Ðức Maria giúp anh chị em gìn giữ sống động ngọn đuốc Ðức Tin, Tình Thương, sự Ðồng tâm, ngõ hầu, nhờ chứng tá bằng đời sống và qua lòng trung thành với ơn gọi của bí tích Rửa Tội, anh chị em trở nên ánh sáng và niềm hy vọng cho nhân loại. Chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho Khoá Họp Khoáng Ðại lần thứ V này của hàng Giám Mục Châu Mỹ Latinh và vùng Caraibi, mang đến nhiều hoa trái của sự canh tân thiêng liêng đích thực và của sự rao giảng phúc âm không biết mệt mõi. Nguyện Xin Thiên Chúa chúc lành cho anh chị em!

Bằng tiếng Anh, ÐTC đã nói như sau:

"Tôi nhiệt tình chào tất cả các nhóm nói tiếng Anh đang hiện diện hôm nay nơi đây. Gia đình luôn nằm ở trung tâm của sứ mạng rao giảng phúc âm của giáo hội, bởi vì chính trong gia đình mà đời sống đức tin chúng ta được biểu lộ và được nuôi dưỡng trước tiên. Hỡi các bậc làm cha mẹ thân mến, chúng con là những chứng nhân đầu tiên về sự thật và về những giá trị đức tin cho con cái chúng con; bằng mẫu gương sống trung thành và vui tươi, chúng con hãy huấn luyện con cái chúng con! Mọi môn đệ của Chúa đều được kêu gọi thực hiện sứ mạng truyền giáo, nhờ lời Chúa khuyến khích và nhờ sức mạnh lãnh nhận từ các bí tích. Truyền giáo là trách vụ mà không một ai có thể từ chối, bởi vì không gì tốt đẹp hơn việc hiểu biết Chúa Kitô và làm cho anh chị em đựơc biết Chúa! Nguyện xin Ðức Mẹ Guadalupê nêu gương và hướng dẫn anh chị em! Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả!

 (Ðặng thế Dũng)

Bài Giảng của ÐTC trong Thánh lễ Khai Mạc Hội Nghị lần thứ 5 của Liên HÐGM châu Mỹ Latinh tại Aparecida, ngày Chúa nhật 13/05/2007

                                                                                                                           

 

Kính thưa anh em quý mến trong hàng giám mục, kính thưa các linh mục và tất cả anh chị em thân mến trong Chúa.

Tôi không biết dùng lời lẽ nào để diễn tả niềm vui được ở với anh chị em, cử hành Thánh lễ long trọng khai mạc Hội nghị lần thứ 5 của hàng giám mục châu Mỹ latinh và Caraibi. Tôi xin gửi đến từng người lời chào thân ái, cách riêng là đến đức tổng giám mục Raymundo Damasceno Assis, và tôi cám ơn Ðức cha vì những lời chào thăm tôi nhân danh toàn thể cử toạ, đến các vị chủ tích hội nghị này. Tôi xin kính chào những nhà cầm quyền dân chính và quân sự vì sự hiện diện của quý vị làm tăng thêm tính cách long trọng cho buổi lễ. Từ thánh điện này, tôi xin mở rộng tư tưởng, tâm tình và lời nguyện đến hết mọi người đang kết hợp với chúng tôi trong tinh thần, cách riêng là các cộng đoàn đời thánh hiến, các bạn trẻ dấn thân trong các hội đoàn và phong trào, các gia đình, cũng như những người ốm đau già cả. Tôi xin được nói với tất cả rằng "Nguyện xin ân sủng và bình an bởi Thiên Chúa là Cha và bởi Ðức Chúa Giêsu Kitô ở cùng anh chị em" (1Cr 1,3).

Thật là hồng ân của Chúa quan phòng dành cho tôi vì được cử hành Thánh Lễ vào thời này và tại nơi này. Thời này là mùa Phục sinh, đã đến chúa nhật thứ 6 và gần kề lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống, và Hội thánh được mời gọi hãy tăng gia việc kêu cầu Chúa Thánh Thần. Nơi là thánh điện toàn quốc dâng kính Ðức Mẹ Aparecida, trung tâm Thánh mẫu của nước Brasil. Ðức Maria đón tiếp chúng ta trong nhà Tiệc ly này, và như một người Mẹ và Giáo viên, Người giúp chúng ta nâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện đồng tâm và tin tưởng, Buổi cử hành phụng vụ này trở thành nền móng kiên cố của Hội nghị lần thứ 5 bởi vì đặt nền trên sự cầu nguyện và Thánh thể, bí tích Tình yêu (sacramentum caritatis). Thực vậy, duy chỉ có tình yêu của Chúa Kitô, được Thánh Thần phú ban, mới có thể biến cuộc họp này thành một biến cố của Hộí thánh, một thời điểm của ân sủng cho đại lục này và cho toàn thế giới. Chiều nay tôi sẽ có cơ hội đi vào những đề tài thảo luận tại Hội nghị. Bây giờ chúng ta hãy dành chỗ cho Lời Chúa mà chúng ta đã hoan hỉ cùng nhau đón nhận, theo gương của Ðức Maria, người nữ thụ thai, với con tim cởi mở và ngoan ngoãn, để nhờ quyền năng của Thánh Thần, Ðức Kitô có thể "nhâp thể" lần nữa vào ngày hôm nay của lịch sử chúng ta.

Bài đọc Một, trích từ sách Công vụ tông đồ, nhắc lại "công đồng Giêrusalem" (theo như quen được đặt tên), nhằm giải quyết vấn đề xem những người ngoại khi trở lại Kitô giáo có buộc phải giữ luật Moisen hay không. Bài đọc đã bỏ qua cuộc tranh luận giữa các "tông đồ và kỳ mục" (câu 4-21) và kể lại quyết định chung kết, được thảo ra văn thư và trao cho hai đại biểu mang về cộng đoàn Antiokia (câu 22-29). Trang sách Tông đồ công vụ này rất thích hợp với chúng ta, bởi vì chúng ta cũng được quy tụ tại đây như một cuộc họp của Hội thánh. Nó nhắc nhớ chúng ta cảm thức về sự biện phân cộng đoàn liên quan đến những vấn đề trọng yếu mà Giáo hội gặp trên đường, và cần được phân định bởi các "tông đồ" và "kỳ mục" nhờ ánh sáng của Thánh Thần, Ðấng mà theo bài sách Tin mừng hôm nay, nhắc lại lời dạy của Chúa Giêsu Kitô (xc Ga 14,26) và như thế Người giúp cho cộng đoàn Kitô hữu tiến bước đến chân lý sung mãn (xc Ga 16,13). Các nhà lãnh đạo Giáo hội tranh biện và đối chất với nhau, nhưng luôn luôn trong thái độ kính cẩn lắng nghe Lời Chúa Kitô trong Thánh Thần. Vì thế sau cùng họ có thể quả quyết rằng: "Chúng tôi đã quyết định, Thánh Thần và chúng tôi..." (Cv 15,28).

Ðây là "phương pháp" mà chúng ta thực hành trong Giáo hội, trong những buổi họp lớn hay nhỏ. Ðây không chỉ là chuyện thủ tục tiến hành, nhưng phản ánh bản tính của Giáo hội, là mầu nhiệm hiệp thông với Chúa Kitô trong Thánh Thần. Trong trường hợp những Hội nghị của hàng giám mục châu Mỹ Latinh và Caraibi, lần đầu tiên vào năm 1955 tại Rio de Janeiro, Ðức giáo hoàng Piô XII đã gửi một bức thư. Tại những hội nghị kế tiếp, chính đức giám mục Rôma đích thân đến địa điểm nhóm họp để chủ toạ những phiên khai mạc. Với niềm biết ơn, chúng ta nghĩ đến các Tôi tớ Chúa đức Phaolô VI và Gioan Phaolô II, tại các Hội nghị ở Medellin, Puebla, và Santo Domingo đã mang đến chứng tá của Giáo hội hoàn vũ gần gũi với các Giáo hội tại châu Mỹ Latinh, chiếm phần đa số trong Cộng đoàn Công giáo.

"Chúa Thánh Thần và chúng ta". Ðó là Giáo hội: chúng ta, cộng đoàn Dân Chúa, cùng với các mục tử được kêu gọi hướng dẫn chỉ đường, cùng với Chúa Thánh Thần, Thần khí của Chúa Cha được phái đến nhân danh Ðức Giêsu là Con Chúa, Thần khí của Ðấng "lớn hơn" tất cả mọi người và được ban cho chúng ta nhờ Ðức Kitô, kẻ trở nên "bé nhỏ" vì chúng ta. Thần khí là Ðấng Paraclitus, Bào chữa và An ủi. Người giúp chúng ta sống dưới sự hiện diện của Thiên Chúa, lắng nghe Lời của Chúa, không bị ám ảnh bởi âu lo sợ hãi nhờ mang trong mình sự bình an mà Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta, bình an mà thế gian không thể nào ban được (xc Ga 14,26-2). Thần khi đồng hành Giáo hội trong suốt quãng đường kéo dài từ khi Ðức Giêsu đến lần thứ nhất cho tới khi Người đến lần thứ hai. Người đã nói với các môn đệ: "Thầy ra đi và sẽ trở lại với các con" (Ga 14,28). Giữa cuộc ra đi và trở lại của Chúa Kitô thì có thời điểm của Giáo hội là Thân thể của Người, đã có hai ngàn năm lịch sử đã trôi qua; đã có 5 thế kỷ trong đó Giáo hội trở nên kẻ lữ hành tại châu Mỹ, ban phát cho các tín hữu sức sống của Chúa Kitô nhờ các bí tích và gieo vãi trên mảnh đất này hạt giống Tin mừng, hạt giống đã mang lại kết quả có nơi gấp 30, có nơi 60, có nơi 100 lần. Thời kỳ của Giáo hội, thời kỳ của Thánh Thần: chính Ngài là Thầy giáo huấn luuyện các môn sinh: Ngài làm cho họ yêu mến Ðức Kitô; Ngài dạy dỗ họ lắng nghe Lời Chúa, chiêm ngắm Dung Nhan Chúa: Ngài uốn nắn họ nên hòa hợp với nhân loại của các mối phúc thật, tinh thần nghèo khó, âu sầu, hiền từ, khát khao công chính, khoan nhân, con tim trong trắng, kiến tạo hoà bình, bị bách hại vì công lý (xc Mt 5,3-10). Như vậy, nhờ tác động của Thánh Thần, Ðức Giêsu trở thành "Ðạo", con đường đi của người môn sinh. "Nếu ai yêu mến Thầy thì tuân giữ lời Thầy", Chúa Giêsu đã nói như vậy trong bài Tin mừng hôm nay. "Lời mà các con đã nghe không phải là của Thầy, nhưng là của Cha là Ðấng đã sai Thầy" (Ga 14,23-24). Như Chúa Giêsu đã truyền thông lời của Chúa Cha thế nào, thì Thánh Thần cũng nhắc nhớ cho Giáo hội những lời của Chúa Kitô như vậy (xc Ga 14,26). Và cũng như việc Ðức Giêsu yêu mến Chúa Cha đưa Người đến chỗ lấy việc tuân theo ý Cha làm lương thực như thế nào, thì việc chúng ta yêu mến Chúa Giêsu cũng được chứng tỏ qua việc vâng theo lời Chúa như vậy. Lòng trung thành của Ðức Giêsu với ý muốn Chúa Cha có thể được thông đạt cho các môn sinh nhờ Thánh Thần, Ðấng đô tràn lòng yêu mến Chúa vào lòng chúng ta (xc Rm 5,5).

Tân ước trình bày cho chúng ta Ðức Kitô như là vị Thừa sai của Chúa Cha. Ðặc biệt trong sách Tin mừng thánh Gioan, nhiều lần Ðức Giêsu nói đến mối tương quan của mình với Chúa Cha Ðấng đã sai mình đến thế gian. Trong đoạn văn hôm nay, Người nói: "lời mà Thầy nói với các con, không phải là của Thầy, nhưng là lời của Cha Ðấng đã sai Thầy" (Ga 14,24). Giờ đây, các bạn thân mến, chúng ta được mời gọi hãy cắm mắt nhìn vào Người, bởi vì sứ vụ của Giáo hội chỉ tồn tại được trong tầm mức nối dài sứ vụ của Ðức Kitô: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con" (Ga 20,21). Và tác giả Tin mừng nêu bật rằng việc chuyển thông này diễn ra trong Thánh Thần: "Chúa Kitô đã thổi hơi lên họ và nói: hãy nhận lấy Thánh Thần" (Ga 20,22) . Ðức Kitô đã thi hành sứ vụ trong tình yêu: Ngài đã thắp lên trong thế gian ngọn lửa của tình yêu Chúa (xc Lc 12,49). Chính tình yêu đem lại sự sống: vi vậy Giáo hội được mời gọi hãy truyền bá khắp thế gian tình yêu của Chúa Kitô, ngõ hầu mọi người và mọi dân "nhận được sự sống va sự sống dồi dào" (Ga 10.10). Cả với anh em nữa, những người đại diện của Giáo hội tại châu Mỹ latinh, tôi hân hạnh trao thông điệp "Thiên Chúa Là Tình Yêu" (Deus caritas est) trong đó tôi muốn giới thiệu điều gì là thiết yếu trong sứ điệp của Kitô giáo. Hội thánh cảm thấy mình là môn sinh và thừa sai của Tình yêu đó: thừa sai vì là môn sinh, nghĩa là có khả năng để cho mình bị quyến rũ bởi Thiên Chúa, Ðấng đã yêu thương chúng ta và đã đi bước trước trong tình yêu (xc 1Ga 4,10), Giáo hội không làm công tác tuyên truyên chiêu dụ. Giáo hội tăng trưởng bằng cách thu hút: cũng như Ðức Kitô đã thu hút tất cả chúng ta bằng mãnh lực tình yêu với chóp đỉnh là hy lễ Thập giá, thì Giáo hội cũng thực hiện sứ vụ trong mức độ thực hiện mọi công tác họa theo tình yêu của Ðức Kitô là Chúa mình.

Anh em thân mến,! Ðó là kho tàng vô giá của đại lục Mỹ châu, đây là gia sản quý báu nhất: lòng tin vào Thiên Chúa là Tình Yêu, Ðấng đã biểu lộ khuôn mặt nơi Ðức Kitô Giêsu. Anh em đã tin vào Thiên Chúa Tình yêu; đây là sức mạnh của anh em, sức mạnh chiến thắng thế gian, niềm vui này không ai và không gì có thể cướp đoạt, sự bình an mà Ðức Kitô đã tranh thủ cho anh em nhờ Thập giá! Ðây là niềm tin biến đổi châu Mỹ thành đại lục của Hy vọng. Ðây không phải là ý thức hệ chính trị, không phải là một phong trào xã hội, một chính sách kinh tế; đó là niềm tin vào Thiên Chúa Tình Yêu, đã nhập thể, chết và sống lại nơi đức Giêsu Kitô, nền tảng chính đáng của niềm hy vọng đã mang lại biết bao hoa trái kỳ diệu, kể từ khi rao giảng Phúc âm lần đầu cho đến nay, như được chứng tỏ qua đoàn ngũ các thánh và chân phước mà Thánh Thần đã gợi lên khắp nơi ở đại lục. Ðức Gioan Phaolô II đã kêu gọi anh em hãy thực hiện một cuộc rao truyền Tin mừng mới, và anh em đã đón nhận uỷ nhiệm đó với lòng quảng đại và dấn thân. Tôi xin khẳng định điều đó, và với những lời của Hội nghị lần thứ 5, tôi xin nói với anh em "Hãy trở nên những môn đệ trung tín, ngõ hầu trở thành những thừa sai can đảm và hữu hiệu.

Bài đọc thứ hai đã trình bày thị kiến tuyệt vời về thành Giêrusalêm trên trời. Thực là một bức tranh tuyệt đẹp, nơi mà không cần đồ trang hoàng nữa, những tất cả đều phản ánh sự hoà điệu của Thành Thánh. Thánh Gioan viết rằng thành này từ trời xuống, rạng ngời vinh quang Thiên Chúa (Kh 20,10). Thế nhưng vinh quang Thiên Chúa là Tình Yêu; vì thế thành thánh Giêrusalem trên trời là bức icon của Hội thánh thánh thiện và rạng rỡ, không còn tì ố vết nhăn (xc Ep 5,27), được Thiên Chúa Tình Yêu chiếu rực ở trung tâm và ở khắp chốn. Hội thánh được mang tên là "hiền thê", hiền thê của Chiên (Kh 20,9), bởi vì thể hiện hình ảnh hiền thê đã trải dài lịch sử mặc khải từ đầu cho đến cuối. Kinh thành Hiền thê là xứ sở của việc Thiên Chúa hiệp thông với con người; ở trong đó, không cần đền thờ hoặc nguồn ánh sáng nào nữa, bởi vì sự hiện diện của Thiên Chúa và của Chiên đã hiện thực và chiếu sáng.

Bức icon này mang tính cách cánh chung: nó diễn tả mầu nhiệm của vẻ đẹp hiện nay đã nặn lên Hội thánh, tuy chưa đạt tới mức độ viên mãn. Ðây là đích điểm của cuộc lữ hành của chúng ta, quê hương đang chờ đợi chúng ta và chúng ta hiện đang mong mỏi. Nhìn nó với cặp mắt đức tin, chiêm ngưỡng và ước ao nó, không trở nên lý do để trốn tránh thoát khỏi lịch sử nơi Giáo hội sinh sống, và chia sẻ những niềm vui và hy vọng, những đau khổ và lo âu của nhân loại, cách riêng của những người nghèo khổ (xc Gaudium et spes 1). Nếu vẻ đẹp của Giêrusalem trên trời là vinh quang của Thiên Chúa, nghĩa là tình yêu, thì duy chỉ trong tình yêu mà chúng ta có thể đến gần nó và cách nào đó cư ngự trong nó. Ai yêu mến Chúa Giêsu và tuân giữ lời Người thì có thể cảm nhận ngay từ đời này sự hiện diện huyền nhiệm của Thiên Chúa Ba ngôi, như chúng ta đã nghe trong Phúc âm, "Chúng ta sẽ đến và cư ngụ ở nơi họ" (Ga 14,23). Vì thế mỗi nguời Kitô hữu được mời gọi hãy trở nên viên đá sống động của toà nhà tuyệt diệu của nơi Thiên Chúa cư ngự giữa loài người. Ôi ơn gọi cao quý biết chừng nào!

Một Giáo hội hoàn toàn được linh hoạt và huy động nhờ tình yêu Chúa Kitô, Chiên được hiến tế vì tình yêu, là hình ảnh trong lịch sử của thành Giêrusalem trên trời, tiền báo Thành thánh, rực rỡ bởi vinh quang của Thiên Chúa. Hội thánh bung ra một sức mạnh vô địch, đó là sức mạnh của sự thánh thiện. Xin Mẹ Maria cầu cho Hội thánh tại châu Mỹ latinh và Caraibi được khoác lấy sức mạnh từ trời cao (xc Lc 24,49) để chiếu tỏa trong lục địa này và trong toàn thế giới sư thánh thiện của Chúa Kitô. Nguyện chúc cho Người vinh quang, cùng với Chúa Cha và Thánh Thần, đế muôn thuở muôn đời. Amen.

Những ý chỉ của lời nguyện phổ quát được dâng lên bằng những ngôn ngữ thông dụng của châu Mỹ: Tây ban nha, Pháp, Anh. Vào cuối Thánh lễ, Ðức Thánh Cha cũng đã ngỏ lời chào bằng các ngôn ngữ đó trước khi xướng kinh Lạy Nữ Vương thiên đàng bằng tiếng Bồ đào nha.

 

(Radio Vatican)

 

TRUNG TÂM HÀNH HƯƠNG MẸ TÀPAO

 

Hôm nay ngày 13.05 tháng hoa, tháng dành riêng để bày tỏ tâm tình yêu mến - tôn sùng - biết ơn Mẹ Maria.

 

Hôm nay Giáo hội hân hoan kỷ niệm 90 năm ngày Đức Mẹ hiện ra lần đầu ở Fatima.

 

Hôm nay tại nhiều quốc gia trên thế giới mừng ngày các bà mẹ (mothers' day).

 

Hôm nay Chúa nhật VI Phục Sinh, Giáo Phận Phan Thiết tổ chức thánh lễ tạ ơn, khánh thành công trình hành hương Mẹ Tàpao.

 

Những cơn mưa đầu mùa tầm tả suốt nhiều ngày không cản được bước chân những đoàn hành hương từ nhiều miền đất nước đến linh địa Tàpao. Với sự tham gia nhiệt thành, tích cực của các giới giáo hạt Đức tánh: 1.000 gia trưởng lo trật tự, 500 giáo lý viên hướng dẫn, 500 bà mẹ lo phục vụ ẩm thực, công việc tổ chức-phục vụ đã làm hài lòng mọi người.

 

Ai ai cũng đều cảm nhận được tình thương đặc biệt của Mẹ Tàpao trong 2 ngày cao điểm. Một lượng người rất đông mà vẫn trang nghiêm sốt sắng và bình an.Từ chiều đến 10g30 ngày 12, trời rất đẹp, mọi người lên núi cầu nguyện với Mẹ rồi cùng tham dự sốt mến phần canh thức, sau đó lại mưa rả rích suốt đêm.

 

Ngày 13, trời nắng nhẹ, gió thoáng mát thuận lợi cho mọi người tham dự thánh lễ tạ ơn. Ban chiều trời lại đổ mưa tầm tả.

 

Ngày 12.5

 

Từ sáng sớm từng đoàn người leo núi cầu nguyện với Mẹ tại linh đài. Mỗi nhóm chỉ có 3 phút trước tượng Mẹ rồi xuống núi để nhường cho nhóm sau lên. Lần lượt như thế suốt ngày đêm. Ban chiều từ 4 giờ, mọi người quy tụ tại khu vực lễ đài tham dự canh thức cho đến suốt đêm.

 

Chủ đề canh thức “cùng Mẹ ra khơi” được chia làm ba phần,với sự tham dự sốt mến của hàng chục ngàn người. Chủng viện Thánh Nicolas Phan thiết và Dòng Mến Thánh Giá Phan thiết đảm trách phần diễn nguyện.

 

Mở đầu là phần suy niệm 14 chặng Đường Thánh Giá theo chân Mẹ Maria.

 

Phần diễn nguyện là hình thức cầu nguyện bằng Tin mừng, trình bày bốn mầu nhiệm Kinh Mân Côi:  vui, thương, mừng, sáng bằng những vũ điệu và hoạt cảnh linh động cuốn hút người xem.

 

Tiếng trống Lạc Hồng dồn dập, với hoạt cảnh “Con Rồng Cháu Tiên” do các Thầy trình diễn mang ý nghĩa tìm về cội nguồn đồng bào Việt nam, cùng với nhóm đồng bào K ho hát vui nhộn bài ca “chúng con về nơi đây”  bằng hai thứ tiếng K ho và Việt khai mạc phần diễn nguyện.

 

Các Nữ Tu Mến Thánh Giá Phan Thiết diễn nguyện Năm Sự Sáng và Năm Sự Mừng. Các Thầy Chủng Viện Nicolas diễn nguyện Năm Sự Thương và Năm Sự Mừng.

Kết thúc phần thứ hai, ngàn ngàn người cùng hát vang bài ca “Cùng Mẹ ra khơi”, các Thầy và các Nữ Tu múa phụ hoạ trong tâm tình dâng 26 Giáo phận Giáo hội Việt nam cho Đức Mẹ.

 

Phần thứ ba là tĩnh nguyện trong đêm khuya. Mọi người trở về “lều trại” theo từng đoàn hành hương. Theo gợi ý để lần chuỗi Mân Côi, cầu nguyện riêng tư với Mẹ. Từng đoàn người vẫn nối theo nhau lên núi viếng Mẹ suốt đêm. Lời kinh nguyện át tiếng mưa vang vọng suốt đêm đến sáng.

 

Ngày 13.5.

 

Từ sáng sớm các ngã đường đổ về Núi Tàpao đều chật cứng.

 

7 giờ, đoàn kiệu Đức Mẹ từ nhà thờ Đồng kho đến Lễ đài chỉ dài hơn cây số nhưng phải di chuyển đến một tiếng rưỡi đồng hồ.

 

8 giờ 30, đoàn đồng tế tiến về lễ đài trong tiếng kèn tiếng nhạc hân hoan. Ca đoàn Chủng sinh và Nữ tu hát ca nhập lễ.

 

Đoàn thiếu nhi dâng hoa trước tượng Mẹ Tàpao.

 

9 giờ, Đức cha Phao lô Nguyễn Thanh Hoan, Giám mục Phan thiết chủ sự thánh lễ.  Có khoảng gần 100.000 người tham dự.

 

Mở đầu, ngài ngỏ lời với cộng đoàn.

 

Kính thưa quý vị, cùng anh chị em thân mến,

 

Trước hết, chúng tôi trân trọng kính chào, chúc sức khỏe và bình an của Thiên Chúa cho mọi người đang tham dự Thánh lễ Tạ ơn và tôn vinh Đức Mẹ Tàpao hôm nay. Nhờ tình thương của Mẹ, Mẹ Chúa Giêsu cũng là Mẹ của mọi con cái Giáo hội, luôn luôn quan tâm đến đoàn con đang vượt biển trần ai đi về quê hương Nước Trời. Mẹ đã chọn danh địa Tàpao này làm nơi thực hiện tình yêu thương của chính Thiên Chúa cho những ai gánh nặng đường đời, cho những ai đang đau khổ vì bệnh tật thể xác cũng như tâm hồn, gặp được bình an nơi Mẹ.

 

Kitô giáo không phải là một tôn giáo uỷ mỵ, tình cảm yếu hèn, nhưng là niềm tin, tin vào tình thương của Thiên Chúa toàn năng và là Cha muôn thuở của nhân loại. Ngài đã bày tỏ tình thương đó qua Đức Giêsu. Và ngày nay để thưởng công Mẹ đã dày công hiệp thông cùng Chúa Giêsu thực hành kế hoạch thập giá cứu độ của Ngài, Thiên Chúa đã dành cho Mẹ quyền năng chữa lành mọi vết thương đau của nhân loại.

 

Tại Tàpao này, từ bảy năm qua, mặc dầu tượng đài đã được xây dựng từ 8/12/59, từ bảy năm qua đã hình thành từ từ một địa điểm hành hương quan trọng. Càng lâu càng có nhiều người về viếng Mẹ tại đây, đã nhận ra sự hiện diện linh thiêng của Người và đã được nhiều ơn lành của Người như lòng mong ước.

 

Hôm nay được sự giúp đỡ của chính quyền tỉnh và địa phương, chúng tôi xây dựng và hoàn thành một con đường đi lên đài 230m2, với 430 bậc cấp, thuận lợi để khách hành hương đi tới Mẹ dễ dàng hơn.

 

Thánh lễ được cử hành trong niềm hân hoan tạ ơn Chúa và Đức Mẹ. Và qua Thánh lễ này, chúng tôi cùng dâng lời nguyện xin Chúa ban mọi phước lành cho tất cả cá nhân cũng như tập thể những ai đã góp công, góp của, góp sức vào công trình này.

 

Phần giảng lễ, Đức cha đã suy niệm Tin Mừng Ga 14,23-29

 

Quan điểm Kitô giáo

 

Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ Lời Thầy, Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy”. (Ga 14,23)

 

Lời mở đầu của bài Tin Mừng hôm nay vô cùng quan trọng, vì nó xác định người Kitô giáo tôn thờ ai, tin vào ai, đặt vận mệnh của mình trong tay ai, niềm tin ấy đem cuộc sống của họ đi về đâu?

 

Ba năm rao giảng, Đức Giêsu đã giải thích bằng nhiều cách Tin Mừng cứu độ của Ngài cho quần chúng Do Thái. Nhưng đêm cuối cùng, đêm Ngài từ giã các môn đồ yêu quý để tự nguyện hy sinh trên thập giá theo chương trình Thiên Chúa hoạch định. Ngài đang tóm kết lại những gì quan trọng nhất của Đạo Ngài thiết lập, để các ông ghi tạc vào lòng và sống trung thành với các giáo huấn của Ngài cho đến ngày Ngài sẽ trở lại trong vinh quang. Nhờ đó giáo huấn của Ngài qua hai ngàn năm vẫn còn trong sáng nguyên vẹn.

 

Kitô giáo thờ ai? Trước hết và trên hết người Kitô giáo tin và thờ một Thiên Chúa toàn năng, Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình. Người tạo dựng và Người còn điểu khiển mọi hoạt động và sự sống của cả vũ hoàn. Đấng ấy dân gian quen gọi là ông Trời, người có tri thức hơn gọi là Thượng Đế. Nhưng một phát giác vô cùng quan trọng trong Tin Mừng Đức Giêsu rao giảng, đó là Vì Thiên Chúa cao sang nhiệm mầu ấy, Đấng cao xanh vời vợi mà con người không thể nào tiếp cận được ấy, lại là một người Cha vô cùng nhân ái, vô cùng gần gũi, người Cha hằng quan tâm đến nhân loại chúng ta hằng ngày bằng một tình yêu khôn tả. Sự sống của Ngài hoàn toàn là tình yêu. Thiên Chúa là Tình yêu. Tin Mừng xác nhận điều đó.

Người tin Đạo là tin và đón nhận tình yêu  ấy và không ngừng đồng hóa đời mình với Tình yêu, làm cho tình yêu trở thành cuộc sống, trở thành dấu chỉ tôn giáo, trở thành hạnh phúc vốn là niềm khao khát bất tận nơi lòng người.

 

Để tỏ mình từ Thiên Chúa Cha đầy yên thương mà đến, Đức Giêsu đã lấy cả cuộc đời mình làm chứng từ của tình yêu, từ cách sống hết sức yêu thương chia sẻ nỗi đau khổ con người, đến những lời rao giảng cổ vũ cho tình yêu huynh đệ phổ quát, đã làm những dấu lạ cứu người vì tình yêu và cuối cùng hy sinh trên thập tự vì tình yêu.

 

Cuộc hy sinh của Ngài cùng không ngoài mục đích đưa dẫn thân phận của con người từ mặt đất đầy gian truân đau khổ đi vào huyền sử, đi vào cõi trời tình yêu và hạnh phúc khôn lường của Thiên Chúa là Cha của hết mọi người. Trở về trong tình yêu thương của Cha, con người nhận được sự sống đời đời.

 

Ý nghĩa Tin Mừng: “Lời Thầy”

 

Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ Lời Thầy”, chỉ câu nói vắn vỏi đó thôi đã chứa chất bao nhiêu bài học quan trọng, từ lý thuyết đến thực hành.

 

Trước hết ta thấy Chúa đang vạch ra, con đường yêu thương nhằm về hai hướng, hướng đi lên là yêu mến Thiên Chúa, hướng về đồng loại là yêu thương anh em tha nhân như chính mình.

Ai yêu mến Thầy…”. Đây là một lời kêu gọi, một lời đề nghị con người biết tự nguyện đón nhận và thực hành lời Ngài. Vì tình yêu thì không áp đặt, không chiếm đoạt, không làm mất tự do, không làm mất phẩm giá con người. Thiên Chúa chỉ muốn cho tự do và phẩm giá đó được thăng tiến. Cho nên Ngài giới thiệu và đề nghị, mời gọi chúng ta tham dự vào mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa. Ngài giơ tay trao cả mạng sống mình cho con người mà không sợ mất mát gì cả.

 

Giữ Lời Thầy”: “giữ” là thực hành; “Lời” là lý tưởng yêu thương như chính Thầy đã yêu thương phục vụ. Ở đây, Tình yêu không chú trọng vào tình cảm, mặc dầu tình cảm rất cần nâng đỡ những hoạt động cho mục đích tình yêu, nhưng Chúa muốn nhấn mạnh đến ý chí và thực hành của chúng ta, nhấn mạnh đến tính thực tiễn của Tin Mừng.

 

Chúa đã từng dạy: “Ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn ngoan xây nhà trên đá tảng… Còn ai nghe những lời Thầy nói đây mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát…” (Mt 7,24). Đó là tính thực tiễn của Tin Mừng.

 

Mặt khác, với ba tiếng “giữ Lời Thầy”, Chúa chỉ muốn, chỉ ao ước cho chúng ta tham dự vào hạnh phúc vô biên của Ngài. Trong tình yêu mạnh hơn sự chết của Ngài, Ngài ao ước đi đến chỗ Ngài với ta trở nên một. Trở nên một từ lòng trí đến con tim, trở nên một từ tư tưởng đến hành động. Mà quả thực Ngài đi bước trước trong một hành động không ngờ, Ngài đã yêu thương nhân loại cho đến độ hy sinh trên thập tự làm lễ vật cho tình yêu đó. Ngài chết để trở thành con người mới linh thiêng để có thể đến ở giữa cõi lòng chúng ta, nếu chúng ta chấp nhận tình yêu và thực hành tình yêu như Ngài đã yêu thương.

 

Ngài tỏ ý ao ước mối tình này, mối tình đồng hóa hai người nên một, bằng cách đem ra một dụ ngôn: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái…” (Ga 15,5). Hoa trái đây là các nhân đức, nhất là đức bác ái, và là sự sống kỳ diệu trong tương lai.

 

Cho nên đời sống người tín hữu hay môn đệ, cần đi vào thực hành Lời Chúa, đặc biệt là giới răn yêu thương và phục vụ. Lời Chúa là Lời Hằng sống, là lời tiên tri của Thần khí cho mọi thời đại. Tình yêu thật cũ, nhưng cũng luôn mới. Không thời đại nào mà tình yêu lại không cần cho sự sống con người vốn luôn luôn là nạn nhân của bao tai ương đau khổ trên mặt đất này, có khi là chính con người thù hận gây ra cho nhau.

 

Lời Chúa mở ra bao nhiêu là hoạt động và kích cỡ của tình yêu. Từ một ly nước lạnh cho người khát uống, cho đến những hành động hy sinh anh hùng vì tình yêu tha nhân. Và trong Giáo hội đã có biết bao vị thánh đã hiến thân, đã đem cả cuộc đời để yêu thương phục vụ. Thời đại chúng ta đã chứng kiến những chứng nhân vĩ đại của Giáo hội như Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II và mẹ Têrêsa Calcutta, các ngài đã đốt lên ngọn lửa tình yêu soi sáng cùng thế giới.

 

Thời đại chúng ta đang cần biết bao những chứng nhân tình yêu như vậy. Đây là thời đại mà khoa học kỹ thuật phát triển đến cao điểm, kinh tế và đời sống có những bước tiến đầy ngoạn mục. Nhưng cũng là thời đại người đói nghèo vẫn dầy dẫy, bệnh tật tăng thêm không ngừng, những tệ nạn xã hội lan tràn, nhất là nạn phá thai, buôn bán phụ nữ và trẻ em là những xúc phạm trầm trọng đến nhân phẩm con người. Môi trường sống thì đang bị đe dọa và kể chi xiết những lâm nguy người ta phải đối diện. Đó là những thách đố đối với xã hội dân sự và cả với Giáo hội. Thông điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu” là một tiếng gọi lớn cho toàn Giáo hội – Giáo hội vừa loan báo Tin Mừng, vừa cử hành các Bí tích, vừa làm việc Bác ái. 

 

Người Kitô hữu phải sẵn sàng trong mọi lúc để giúp đỡ lẫn nhau và những người anh em bất kỳ từ đâu đó đang cần đến ta hỗ trợ. Riêng những anh chị em đang dâng hiến đời mình để làm chứng nhân cho Tin Mừng cần phải biết tỏ ra xuất sắc trong mọi hoạt động bác ái xã hội.

 

Đẹp thay những anh chị em tu sĩ đang dấn thân giúp đỡ những người nghiền ma tuý, những người bị HIV giai đoạn cuối, hoặc trong những trường câm điếc, những trung tâm khuyết tật trong phong trào chống phá thai, xây dựng nhà tình thương, cung cấp sữa tươi cho trẻ em suy dinh dưỡng, học bổng, nhà trọ cho học sinh nghèo, xóa đói giảm nghèo, .v.v.

 

Những hoạt động bác ái xã hội như vậy rất thích hợp với người tu sĩ hôm nay. Ngay tại các Giáo phận, hoạt động bác ái xã hội cũng đang được cổ vũ mạnh mẽ. Giáo hội đang được trẻ trung hóa nhờ những hoạt động bác ái đang cần thiết đó.

 

Ai là mẹ Ta?

 

Chúa đặt một câu hỏi nghe hơi ngang khi người ta tin cho Chúa có mẹ và anh chị em Ngài đang tìm gặp Ngài (Mc 3,3). Thánh Luca ghi câu trả lời của Chúa thế này: “mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành”. Thực ra, Mẹ chính là người đầu tiên và là người số một đã chia sẻ tình yêu thương cứu độ của Ngài. Từ ngày nói lên lời “xin vâng” ý Chúa mà Thiên thần truyền tin cho Mẹ, Mẹ không ngừng bước đi theo con đường Chúa gọi. Mẹ đi theo Chúa cho đến tận dưới chân thập giá, để cùng Chúa dâng hiến lễ. Cho nên khi người ta tin cho Chúa: “Mẹ và anh em Ngài đang tìm Ngài” thì Chúa đặt một câu hỏi; “Ai là mẹ Ta?” làm người ta sửng sốt, nhưng đối với Mẹ vốn đã và đang chia sẻ tình yêu của Chúa khi Ngài đang quy tụ một gia đình mới, không bằng tình yêu huyết nhục, mà là tình yêu bác ái, gồm những người lấy tình yêu Tin Mừng làm lý tưởng. Mẹ rất vui, rất hãnh diện vì câu hỏi đó. Vì người mẹ gia đình đó chính là Đức Mẹ, Anh cả gia đình đó là Chúa Giêsu, những ai muốn sống Lời Chúa là anh chị em với nhau. Đó là một gia đình mà người này trở thành thiên đàng cho người kia qua tình yêu mới mẻ của Tin Mừng. Đời sống của các cộng đoàn sơ khởi chứng tỏ điều đó.

 

Chúa nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh chị em tôi – Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh chị em, là mẹ tôi” (Mc 3,35). Ý muốn của Thiên Chúa là lấy tình yêu mà cứu độ thế giới này. Vì thế mà có thập giá, vì thế mà có điều răn mới: Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em (Ga 15,12).

 

Nếu hôm nay, tại núi Tàpao này, Đức Mẹ đang thiết lập cho chúng ta một Trung Tâm Bác ái, một thứ Bệnh viện tình thương của Thiên Chúa, một Bệnh viện chữa lành những vết thương thể xác lẫn tâm hồn, an ủi bao cõi lòng tan nát, đau khổ và tuyệt vọng, phục hồi những niềm tin đã chết đi từ lúc nào, thì vẫn là việc làm của Mẹ từ khi có Giáo hội cho đến bây giờ, việc làm từ tình yêu khôn tả mà Mẹ học được nơi Chúa Giêsu Con Mẹ – “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình”.

 

Ngày hôm nay ta cử hành lễ tạ ơn và tôn vinh Mẹ, cũng là tôn vinh tình yêu Thiên Chúa, tôn vinh cả phẩm giá con người mà Chúa đổ máu ra để cứu độ. Vì thế mà ta hãy cầu xin để biết sống tình yêu mà chính Chúa ban cho ta qua những ơn lành của Đức Mẹ – mỗi lần tạ ơn là quyết tâm yêu thương kẻ khác nhiều hơn.

 

Chúa đã từng dặn dò các môn đệ: “anh em đã nhận nhưng không hãy cho nhưng không” (Mt 10,8). Cho như vậy mà lại không mất mát gì. Tình yêu như ánh sáng phản hồi trong gương, vì Chúa đã nói: “Anh em hãy cho sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo của anh em. Vì anh em đã đong đấu nào thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6,38). Chúa đang cổ vũ chúng ta xây dựng một xã hội đầy tình huynh đệ.

 

Tình yêu phải là tiếng nói cuối cùng của nhân loại, của lịch sử. Lời Chúa đang mời gọi ta lên đường dấn thân cho tình yêu - “Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy”.

 

Thánh lễ kết thúc lúc 10g30. Mọi người ra về mang theo bình an của Chúa Phục Sinh, ơn lành của Mẹ Tàpao. Tất cả con cái Mẹ đều vui mừng, yêu mến, cậy tin nơi Mẹ hiền trinh nữ rất thánh.

 

Quả thật, linh địa Tàpao là nơi Mẹ chọn để mọi người từ muôn phương đến được Mẹ bồi dưỡng bằng ơn lành hồn xác. Một khi đã đón nhận những ân ban, người ta được Mẹ mời gọi siêng năng lần chuỗi Mân Côi, cải thiện đời sống, tận hiến cho Mẹ, sống và loan bao Tin Mừng.

 

Đến với Mẹ Tàpao, thực hiện lời Mẹ dạy, sẽ không thất vọng bao giờ vì Mẹ Tàpao cũng là Mẹ Hằng cứu giúp.

 

Gx . Mẹ Vô Nhiễm, ngày 13.5.2007

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO

 

ĐỂ XÂY DỰNG MỘT XÃ HỘI CÔNG BẰNG


Một vấn đề khá tế nhị khi nói về sự công bằng khiến cho không ít người không muốn mạn bàn cách trực tiếp. Có thể có nhiều lý do khách quan và chủ quan. Lý do khách quan có thể vì hoàn cảnh sống chưa thực sự có tự do một cách nào đó. Lý do chủ quan thì có thể là vì bản thân đang được hưởng lợi từ một sự bất công này nọ. Tuy nhiên vẫn có đó nhiều người trong Hội Thánh mạnh dạn lên tiếng cho sự công bằng xã hội. Ta có thể tạm xếp thành hai khuynh hướng chính. Một dạng xem ra tích cực như là cổ võ việc xây dựng xã hội công bằng không chỉ bằng lời nói mà cả bằng hành động cụ thể mang tính đòi hỏi. Và dạng khác thì lấy Thập giá Chúa Kitô để chủ trương đón nhận bất công trong sự hiệp thông với cuộc khổ nạn của Đức Kitô, đồng thời tích cực dùng giải pháp truyền thống là cầu nguyện. Xin được dùng bài viết này như một góp phần bé nhỏ, mong cho nền hòa bình công lý trị đến.


“Thưa Thầy, xin bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi. Chúa Giêsu đáp : Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh ?” (Lc 12,13-14). Thoặt nghe, ta tưởng chừng như Chúa Giêsu từ chối giải quyết chuyện bất công đời này. Nhưng không phải vậy. Dù Chúa Giêsu không muốn trực tiếp phân xử chuyện có thể là không công bằng trong việc chia gia tài giữa hai anh em nọ, nhưng Người lại muốn đi xa hơn trong việc giải quyết tận gốc rễ của mọi sự bất công đó là sự tham lam. Vì ngay sau đó Chúa Giêsu đã cảnh báo : “ Hãy coi chừng ! Hãy lo giữ mình tránh mọi thứ tham lam…” (Lc 12,15).


Sự tham lam chính là căn nguyên làm phát sinh mọi thứ bất công. Tham lam tiền bạc, của cải, tham lam danh vọng, chức quyền… Khi đã để sự tham lam xâm chiếm lòng mình thì ta luôn muốn giành phần hơn bằng mọi cách thế, bằng mọi thủ đoạn. Và thế là nảy sinh sự bất công, sự thiếu công bằng giữa người với người, giữa tập thể này với tập thể kia, giữa quốc gia này với quốc gia nọ. Đang có đó và đang còn đó sự thiếu công bằng trong gia đình, trong xã hội và hình như cả trong Hội Thánh.


Sự tham lam càng trở nên nguy hại khi nó được củng cố, được hợp pháp hóa bằng luật lệ, bằng cơ chế. Cá nhân hay tập thể lợi dụng cơ chế, luật lệ do mình đặt ra để một cách nào đó hợp lý hóa phần lợi của mình trên kẻ khác. Qua cơ chế, luật lệ, người ta tự động hưởng phần lợi ích vượt quá sự công bằng một cách nghiểm nhiên như nhiên, không chút băn khoăn, áy náy hay lo sợ. Đã có luật, đã có cơ chế thì sự bất công thật khó mà bị công kích hay bị đả phá. Lẽ thường tình, người làm luật dễ bị cám dỗ ra các thứ luật có lợi cho mình. Trong các cuộc họp của Quốc Hội nước ta, các vị Đại biểu đã nhìn nhận thực trạng này. Các Bộ, các cơ quan Chính Phủ khi ra văn bản mang tính luật như Nghị Định, Thông Tư… thì thường là có lợi cho phía người quản lý hơn là có lợi cho người dân. Sự bất công đã và đang tồn tại dưới hình thức khách quan do ý chí chủ quan của con người.


Sự tham lam không chỉ dừng lại ở các hình thức luật lệ trần thế, mà nhiều khi, nhiều nơi lại còn mang dáng dấp thiêng thánh. Trong các luật lệ tôn giáo, các tập tục mang dấu tín ngưỡng vẫn không thiếu sự bất công ít nhiều. Khi sự tham lam được “phong thần” thì những người hưởng lợi ích từ sự thiếu công bằng còn được bảo đảm bằng cả sự tôn kính của những người chịu bất công xuất phát từ sự kính tôn các uy lực thần thánh trên cao.


“Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pharisiêu giả hình ! Các ngươi nuốt hết tài sản của các bà góa, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ, cho nên các ngươi sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn” (Mt 23,14). “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pharisiêu giả hình ! Các ngươi nộp thuế về thập phân bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề luật là công bình, lòng nhân và thành tín.” (Mt 23,23). Đến thế gian, một trong những mục tiêu hoạt động của Chúa Kitô là giải phóng nhân loại khỏi cảnh bất công do chính lòng tham lam của con người qua các luật lệ, truyền thống. Chính nổ lực gắng công này của Người một cách nào đó đã khiến Người phải chịu án hình thập giá cách bất công.


Chúa Kitô đã tự nguyện nên khó nghèo để nhân loại chúng ta được nên sang giàu (x. 2Cr 8,9. Người đã tự nguyện nhận lấy thân phận tội nhân để giải phóng loài người khỏi ách nô lệ tội lỗi. Cũng thế, người đã tự nguyện nhận lấy án bất công để nhân loại chúng ta được sống trong công bằng và chân lý.


Để xây dựng một xã hội công bằng, Chúa Kitô không dừng lại ở việc đòi hỏi một sự công bằng giao hoán. Một nội dung chính của đức công bằng giao hoán là trả cho ai phần họ đã làm cách tương xứng. Làm sao để thẩm định chính xác mức độ phần công sức người ta đã bỏ ra ? Các nhà kinh tế học cũng khó mà thống nhất với nhau về tiêu chí để xác định, nhất là khi có sự tham gia của nền công nghệ hiện đại như hiện nay. Một ngày công của chuyên gia và công nhật của người lao động phổ thông thì căn cứ vào đâu để so sánh, chưa kể đến các lãnh vực nghệ thuật, những lãnh vực không thể nào cân đong hay đo đếm ? Vì thế ta có thể nói rằng hầu như khó mà tìm được sự công bằng theo nhãn quan này, mặc dù phải nỗ lực làm tối đa theo khả năng và hoàn cảnh.


Sự công bằng mà Chúa Giêsu muốn chúng ta xây dựng đó là sự công bằng trong tình yêu. Chúng ta có thể tạm hiểu như là sự công bằng phân phối. Theo sự công bằng giao hoán thì trả cho tha nhân phần họ có, phần họ đã làm thì sự công bằng phân phối là trả cho tha nhân phần họ là. Sau khi cảnh giác người ta về mối nguy hiểm to lớn do sự tham lam gây ra đó là khó vào được Nước trời, thì Chúa Giêsu đã kể câu chuyện dụ ngôn “những người thợ làm vườn nho” (x. Mt 20,1-16).


Ông chủ trong câu chuyện dụ ngôn những người làm vườn nho dường như không công bằng theo nghĩa công bằng giao hoán. Vì người làm việc từ sáng sớm cũng chỉ lãnh một đồng như người vào làm lúc 5 giờ chiều, chỉ làm có một giờ. Tuy nhiên thái độ đối xử của ông chủ vẫn công bằng theo nghĩa công bằng phân phối, công bằng trong tình yêu. Ông ta đã trả cho tất cả các người thợ làm vườn không phải theo tiêu chí họ đã làm được gì mà theo tiêu chí họ là người làm vườn nho của ông. Cái tiêu chí này ta dễ nhận ra trong đời sống gia đình. Em bé còn trong nôi chẳng làm được sự gì nhưng cả gia đình từ mẹ cha đến anh chị của bé đều phải quan tâm chăm sóc bé vì bé là con, là em của họ. Chuyện là thế. Ai cũng hiểu và cũng phải làm vì nếu không là phạm lỗi bất công. Tương tự như thế, việc phân phối và phân phối lại trong các chương trình kế hoạch của các quốc gia là phải có để giữ sự công bằng cho nhân dân, vì một lẽ tất yếu : họ là công dân của đất nước.

 

Trong niềm tin Kitô giáo, chúng ta còn phải giữ đức công bằng này cách triệt để hơn. Mọi người đều là anh chị em cùng một Cha trên trời. Dù họ là quốc tịch này hay sắc tộc kia, dù họ là người công chính hay là tội nhân, dù họ cùng chính kiến với ta hay khác niềm tin với ta… chúng ta đều phải đối xử với họ trong tình huynh đệ cách không phân biệt. Đây chính là sự hoàn thiện mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hướng đến. “ Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).


Xin được dõi theo một vài hướng dẫn cụ thể của Hội Thánh liên quan đến sự công bằng. Là Kitô hữu, đoàn tính hữu giáo dân, đặc biệt là hàng giáo sĩ, hàng giáo phẩm phải sống ơn gọi của mình khi thông dự ba chức vụ của Chúa Kitô từ khi lãnh nhận Bí tích thánh tẩy,các thừa tác vụ thánh. Đó là chức vụ ngôn sứ, tư tế và vương giả.


Sống chức vụ ngôn sứ: Ta cần phải loan báo cho nhân loại biết phẩm giá cao quý của con người cùng với những quyền lợi và nghĩa vụ kèm theo. Qua học thuyết xã hội của mình, Hội Thánh nói lên “sự quan tâm của mình đối với đời sống con người trong xã hội, đồng thời ý thức rằng chất lượng của đời sống xã hội ấy – nghĩa là chất lượng của những mối quan hệ công bằng và yêu thương, dệt thành xã hội – tùy thuộc một cách quyết định vào chỗ con người được bảo vệ và thăng tiến thế nào, vì cộng đồng ra đời là từ những con người ấy”. Vì thế “ Hội Thánh không chỉ cung cấp cho ta ý nghĩa, giá trị và các tiêu chuẩn để phê phán, mà cả những chuẩn mực và chỉ dẫn để hành động.” (Conpendium of the social doctrine of the Church số 81).


Ta còn có “nghĩa vụ phải tố giác mỗi khi tội có mặt : tội bất công và tội bạo động, cách này hay cách khác, đang lan tràn trong xã hội và hiện thân trong xã hội”. Nhờ biết tố giác, đoàn con cái Chúa “ trở nên giống các thẩm phán và các nhà bảo vệ những quyền lợi không được nhìn nhận và hay bị vi phạm, nhất là quyền lợi của người nghèo, người yếu thế” (Sđd số 81).


Sống chức vự Tư tế: Là con cái Chúa, chúng ta không thể không sống mầu nhiệm thập giá Chúa Kitô. Vì anh em đồng loại, khi tích cực xây dựng một xã hôi công bằng, chúng ta sẵn sàng đón nhận sự bất công vào chính bản thân mình làm lễ hiến tế. Khi nói lên chân lý, khi bảo vệ sự công bằng, chúng ta chấp nhận sự ngược đãi bất công. Sống mầu nhiêm Thập Giá Chúa Kitô là để nhờ ơn Chúa, qua nỗ lực xây dựng công bằng của ta, xin Chúa giải thoát anh em đồng loại khỏi cảnh bất công, đồng thời cải hóa những ai đang gây ra sự bất công cho con người.


Sống chức vụ vương giả: Tích cực xây dựng một nền văn minh tình thương. Để có một nền hòa bình đích thực và lâu bền trong mọi tập thể lớn nhỏ thì cần phải có một môi sinh đầy tình bác ái. “ Hòa bình đích thực và bền vững là việc của bác ái hơn là của công bằng ( xét theo nghĩa công bằng giao hoán ), vì vai trò của công bằng chỉ là loại bỏ những trở ngại đặt ra cho hòa bình : những thương tổn hay những thiệt hại đã gây ra. Còn hòa bình tự nó là một hành động và xuất phát từ tình yêu” ( Sđd số 494 ).


Xây dựng một xã hội công bằng là nghĩa vụ của mọi người. Là Kitô hữu nghĩa vụ này càng có tính bức thiết hơn. Dưới ánh sáng mạc khải của Lời Chúa và qua lời dạy của Hội Thánh, chúng ta cần loan báo phẩm giá cao quý của con người. Để gìn giữ và phát triển phẩm giá con người thì việc nói lên các quyền lợi căn bản của con người là điều chính đáng và phải đạo. Bên cạnh đó ta cần phê phán, tố cáo những hành vi vi phạm đến quyền con người, gây ra sự bất công, làm băng hoại phẩm giá con người. Tuy nhiên điều cần nhắm đến là phải tiêu diệt mầm mống các sự bất công đó là lòng tham lam, dù nó hiện hữu dưới hình thức thể chế hay luật lệ.


Theo thiển ý của tôi, khi nỗ lực hạn chế các hình thức bất công, ta cần sẵn sàng đón nhận sự bất công cho bản thân mình để anh em được sống trong công bằng. Và nhất là hãy biết nỗ lực xây dựng một xã hội thắm đượm tình bác ái yêu thương. Chỉ có tình yêu và chỉ với tình yêu thì xã hôi mới có sự công bằng thực sự. Vì ở đó không chỉ có mỗi người sống vì mọi người mà còn có mọi người sống vì mỗi người.


 

Thuận Hiếu – Ban Mê Thuột

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

 

SỨ MẠNG CHỨNG NHÂN

DÒNG CHẢY TÌNH YÊU TUÔN TRÀO MÃI

 

 1. Chúa Giêsu, mẫu gương của đời sống chứng nhân

 

Trong cuộc thương khó của Đức Giêsu, thánh Gioan thuật lại: “Quan Philatô hỏi Chúa: Ong là vua sao? Chúa Giêsu trả lời chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18,37). Chúa Giêsu ý thức rất rõ về sứ mạng của Người. Trong suốt hơn 33 năm sống nơi trần thế, Người không ngừng làm chứng tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người bằng nhiều cách thức: giảng dạy, chữa lành người đau bệnh, cuối cùng chịu chết trên thập giá. Cái chết của Chúa Giêsu là lời chứng hùng hồn, mạnh mẽ nhất và cao cả nhất, làm cho dòng chảy tình yêu từ Chúa Cha được tuôn trào và mang lại sự sống thật cho con người.

 

2. Sứ mạng chứng nhân là ơn gọi và bản chất của Kitô hữu

 

 Trước khi về trời, Chúa Giêsu củng cố đức tin cho các tông đồ, mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và ban Thánh Thần để các ngài tiếp tục sứ mạng cao cả mà Chúa Giêsu đã lãnh nhận từ Chúa Cha, đó là đi rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo, kêu gọi mọi người lo ăn năn sám hối, đón nhận Tin Mừng để được ơn cứu độ. Người khẳng định: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24,28). Vì thế, trong suốt chiều dài lịch sử Giáo Hội, các tông đồ và tất cả những ai thực sự tin vào Đức Giêsu đã cố gắng thi hành sứ mạng làm chứng cho Chúa cách hăng say và mạnh mẽ. Khi thi hành sứ mạng cao cả này, không những Giáo hội tiếp tục công trình của Chúa ở trần gian để đem ơn cứu độ cho con người, mà chính Giáo hội cũng tìm được sức mạnh và sự sống đích thực của mình. Thật vậy, khi thực thi sứ mạng này, luật tình yêu hướng dẫn ta và nâng đỡ ta trên đường đi, tình yêu mà Con Thiên Chúa làm người là nguồn mạch và mẫu gương: “Người đã chết để cho thế gian được sống” (Thông điệp Tin Mừng về sự sống, số 79).

 

Như thế có thể nói sứ mạng làm chứng cho Chúa là sứ mạng gắn liền với ơn gọi và bản chất đời sống Kitô hữu như Đức Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh: “Chúng ta được sai đi để phục vụ cho sự sống, không phải là lý do cho ta khoe khoang, mà là bổn phận phát sinh từ ý thức rằng mình là “Dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã kêu gọi chúng ta ra khỏi miền u tối, vào nơi ánh sáng diệu huyền” (1Pr 1,9). Tất cả chúng ta cũng thấy bổn phận loan báo Tin Mừng sự sống, cử hành Tin Mừng ấy trong Phụng vụ, và phục vụ Tin Mừng bằng cả cuộc sống. Đây là trách nhiệm mang tính “Giáo hội”, vì trách nhiệm đó đòi hỏi một hành động phối hợp quảng đại của mọi thành viên và mọi tổ chức trong cộng đoàn Kitô giáo. Tuy nhiên, bổn phận chung không loại bỏ và không giảm bớt trách nhiệm cá nhân, vì mỗi người đều được Chúa gọi phải “trở nên người thân cận” của mọi người: “Cả con nữa, hãy đi và làm như vậy” (Lc 10,37) (Thông điệp Tin Mừng về sự sống, số 79).

 

Nhìn vào lịch sử hình thành và phát triển của Giáo hội Việt Nam hơn 400 năm qua, kể từ ngày Tin Mừng của Đức Kitô được rao giảng, đã có biết bao chứng nhân không biết mệt mỏi nhưng luôn quảng đại xả thân sống chết cho Tin Mừng của Đức Kitô. Gương sáng sống động và hào hùng của 117 Thánh tử đạo tại Việt Nam trong việc sống và rao giảng Tin Mừng, đã và đang làm cho khuôn mặt của Đức Kitô được rạng ngời và luôn có sức hấp dẫn biết bao người Kitô hữu ngày nay. Các ngài đã trở nên những ngọn hải đăng giữa đêm tối, và làm bừng sáng niềm hy vọng vào cái chết và phục sinh của Đức Kitô, Đấng mang lại sự sống và hạnh phúc thật cho con người.

 

Chính tình yêu thương và phục vụ những người nghèo khổ sẽ làm cho Tin Mừng của Đức Kitô trở thành nguồn vui sống và hạnh phúc cho con người. Được nhận biết Thiên Chúa là Tình Thương thúc đẩy người Kitô hữu trở nên những chứng nhân can đảm dấn thân và hăng say hơn nữa trong việc tái Phúc Am và rao giảng Phúc Am trên mảnh đất Á Châu nói chung – 2% Kitô hữu trong một lục địa còn quá nhiều người chưa biết Chúa và tại Việt Nam nói riêng – 6% Kitô hữu trong hơn 80 triệu người.

 

 3. Làm thế nào để làm chứng hiệu quả nhất?

 

 Mọi người Kitô hữu dù sống ở đâu cũng phải lấy gương mẫu đời sống và chứng tá lời nói để biểu dương con người mới, ngõ hầu người khác nhìn vào những việc lành của họ mà ca tụng Chúa Cha (Mt 5,16). Những việc lành nào có khả năng đánh động tâm hồn cách sâu xa nhất và có khả năng “nói” về Thiên Chúa cách thuyết phục nhất? Hãy thử nhìn vào cộng đoàn Giáo hội tiên khởi theo sách Công vụ thuật lại: họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu (Cv 2,45). Và thánh Luca ghi nhận thêm: “Họ được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ” (2,47). Như thế, chính đời sống yêu thương phục vụ đã là lời chứng thuyết phục đối với mọi người.

 

Trong thời đại chúng ta đang sống, gương sáng và đời sống của Mẹ Têrêsa Calcutta giúp chúng ta cảm nghiệm chân lý đó cách sống động hơn nữa. Mẹ chia sẻ: “Tôi phục vụ Chúa Giêsu trong người nghèo”. Những người nghèo đó có thể là những người bị bỏ rơi, những trẻ em bất hạnh, những người thiếu tình thương, những người không biết Thiên Chúa… Nhưng là những người được ưu tiên đón nhận Tin Mừng của Thiên Chúa tình yêu. Vì trong ngày phán xét Thiên Chúa sẽ phán: “Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).

 

Qua đời sống yêu thương phục vụ, người Kitô hữu không những làm chứng về Thiên Chúa tình yêu ngay trong cuộc sống thường ngày mà còn trở nên những chứng nhân của niềm hy vọng vào đời sống hạnh phúc vĩnh cửu trên quê Trời, Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI diễn giải như sau: “Chỉ có thái độ rộng mở cho Thiên Chúa là Tình Yêu, mới có thể lắp đầy nỗi khát khao sự thật và hạnh phúc của con tim chúng ta mà thôi. Chỉ có viễn tưởng của sự vĩnh cửu mới có thể trao ban giá trị đích thực cho các biến cố lịch sử và nhất là cho mầu nhiệm của sự mỏng giòn nhân loại, của nỗi khổ đau và cái chết” (Buổi tiếp kiến với Giáo dân ngày 16/08/2006).

 

Trong Năm Sống Đạo này, thiết nghĩ chúng ta hãy nhìn lại đời sống yêu thương đối với từng thành viên trong gia đình mình cũng như trong cộng đoàn giáo xứ. Vợ chồng có dành trọn tình thương cho nhau chưa? Cha mẹ ưu tiên việc giáo dục đức tin cho các con ở mức độ nào? Con cái tỏ lòng hiếu thảo qua việc phụng dưỡng, cản thông và nâng đở các ngài ra sao? Trong đại gia đình giáo xứ, những ai cần được tôi hay đoàn thể tôi quan tâm và giúp đỡ mặc dầu họ không phải là người Kitô hữu?

 

Sứ mạng làm chứng Tin Mừng mà Chúa Giêsu mời gọi ta cộng tác với Người và với nhau ngày nay vẫn còn đó những khó khăn, những thách đố. Nhưng mỗi người chúng ta sẽ bắt đầu từ những việc tốt rất nhỏ với nhau, từ môi trường cơ bản gia đình và tin chắc một điều rằng: “Cứ dấu này mà mọi người nhận ra anh em là môn đệ của Thầy là anh em có lòng thương yêu nhau” (Ga 14,35)

 

 

Lm. Phaolô Vũ Đỗ Anh Khoa

Cảm nhận Đêm Thánh Ca ''Ngợi Ca Tình Yêu"

 

 Tôi nhận được thiệp mời tham dự chương trình Đêm nhạc Ca Lên Đi với chủ đề Ngợi Ca tình yêu- kỷ niệm 50 năm viết thánh ca của linh mục nhạc sĩ Kim Long, trong lòng rất mừng và vui, nghĩ tới ngày tham dự tôi háo hức. Nghe Kim Long đã lâu, hát Kim Long đã nhiều song hạnh ngộ thì chưa từng nên nôn nóng đến ngày thưởng thức đêm Thánh ca Kim Long.

Rồi ngày 14 tháng 5 cũng tới, nhưng có lẽ không phải một mình tôi buồn mà tất cả những người nhận được thiệp mời của cha cũng buồn, những học trò yêu dấu, những bạn hữu nghĩa thiết, những người đứng ra tổ chức cũng không thể vượt qua nỗi buồn. Hôm đó trời mưa từ sáng sớm, mưa nặng hạt, mưa lớn và dai dẳng, hết đợt này đến đợt khác. Chiều 4 giờ vẫn mưa, 6g vẫn mưa. Có lẽ không chỉ mình tôi cầu nguyện giùm cha, mà rất nhiều người mộ điệu cha cũng chung một ý cầu ngyện cho đêm thánh ca có thể diễn ra suôn sẻ, nhưng trời vẫn mưa. Còn 1 tiếng nữa là khai mạc, tôi trù trừ không muốn đi, vì chương trình tổ chức tại sân Trung Tâm Mục Vụ tổng giáo phận Sài Gòn, thì chắc chắn là “đội mưa” rồi. Nhưng ai cũng như tôi thì ai sẽ đến thưởng thức đêm thánh ca có một không hai này. Tôi quyết định khoác áo mưa lên đường, quãng đường gần 20 cây số từ Thủ Đức đến Sài Gòn sao xa thế.

Đến nơi, mọi điều trước mắt làm những ý nghĩ ở nhà của tôi bị đánh bẹp thảm hại. Trước lối vào sân trung tâm mục vụ chật cứng, nào người nào xe, tấp nập, nào áo mưa, nào dù chen chúc…Vội vàng tìm chỗ gửi xe, tôi theo đoàn người vào sân. Đúng 7g tối, khảng sân của Trung Tâm mục Vụ rộng là thế mà bây giờ không còn một cái ghế trống. Mọi người đã ổn định chỗ ngồi từ bao giờ. Tôi cứ tưởng một mình tôi thương cha Kim Long, hoá ra còn nhiều người khác, tôi bị “bé cái lầm”.

Khách mời đông đến nỗi MC Tiến Lộc trong lời chào mừng đã nói: Kính thưa quý cha và quý khách, vì quá đông nên con không thể nhận ra đâu là quý khách đến từ Tổng giáo phận Hà Nội, tổng Giáo phận Huế và Tổng Giáo phận Sài Gòn, chúng con xin được chào chung một lần, tiếng vỗ tay đồng cảm vang lên từ các phía dồn dập và tiếng cười ấm áp vang lên sau lời chào dí dỏm, dễ thương của cha.

Khai mạc cho đêm Thánh ca NGỢI CA TÌNH YÊU, Đức cha Giuse Vũ Duy Thống- Chủ Tịch Uỷ Ban Văn Hoá thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã bày tỏ 3 điểm đặc biệt của đêm Thánh ca này. Trước hết là kỷ niệm 50 năm viết thánh ca của một tác giả, người viết bài hát mà bất cứ người Kitô hữu nào cũng thuộc nằm lòng, đó là bài CON HÂN HOAN, được viết năm tác giả 17 tuổi, đến hôm nay 50 năm sau cha Kim Long đã sở hữu cả một “ kho” thánh ca hơn 3 ngàn bài hát. 24 bài hát đêm nay chỉ là chút lòng thành hậu thế gồm biết bao thế hệ học trò trình bày như là lời tri ân thầy của mình. Điểm thứ hai chương trình tập trung về một tác giả duy nhất. Nửa thế kỷ trôi qua với một Kim Long mục tử tốt lành, một Kim Long thầy dạy tận tình, một Kim Long chan hoà cuộc sống và một Kim Long đang yêu. Tiếng vỗ tay từ và nụ cười của khán giả như đồng tình với Đức cha Giuse. Với giọng nói lôi cuốn sẵn có, Đức cha Giuse còn cho mọi người thấy nhạc sĩ Kim Long còn là một con người khác. Ngài nói tiếp: U. 70 rồi mà vẫn yêu, không yêu kiểu lai rai, không yêu kiểu phong trào mà yêu như vũ bão, yêu không đáp trả và yêu một cách hiến dâng trọn vẹn. Điểm đặc biệt cuối cùng : đêm nay sẽ là đêm cổ vũ cách nồng nhiệt nhất cho nền thánh nhạc Việt Nam- là nỗi thao thức đến cháy lòng của những người luôn đau đáu nghĩ về nền thánh nhạc Giáo hội.

Dứt lời của Đức cha Giuse, toàn thể khán giả được mời gọi hợp ca bài hát Ca lên đi 3 của cha Kim Long với sự điều khiển của người học trò yêu quý linh mục nhạc sĩ Nguyễn Duy.

Để hiểu hơn một chút về tác giả của những tác phẩm được trình bày, ban tổ chức đã cho khán giả lắng nghe buổi trò chuyện trực tiếp giữa nhà thơ Đình Bảng và cha Kim Long. Nhà thơ Đình Bảng giới thiệu sơ lược về tác giả, con người mà một đời hiến dâng cho sự nghiệp âm nhạc chỉ với đề tài ca ngợi tình yêu Chúa. Và một câu hỏi gần như là hóc búa, đầy tế nhị được nhà thơ Đình Bảng phỏng vấn nhạc sĩ Kim Long: Thưa cha với bài thơ màu tím hoa sim của Hữu Loan và 10 nốt nhạc của bài hát Tôi yêu tiếng nước tôi của Phạm Duy, mỗi tác phẩm ấy được mua với giá 100 triệu. Vậy với hơn 3 ngàn tác phẩm thánh ca của mình cha nghĩ gì? Bằng một giọng điềm đạm từ tốn người nhạc sĩ bước vào tuổi thất thập cổ lai hy trả lời như sau: Tôi viết thánh ca để dâng lên Thiên Chúa, tôi không đòi một triệu nào hết. Đi bất cứ nơi đâu mà nghe những bài thánh ca mình sáng tác là tôi vui lắm rồi. Những nơi nào muốn sử dụng thánh ca của tôi in vào tập sách nào đó tôi đều giơ cả hai chân và hai tay ra ký…Tôi xin hết lòng viết và như thế cuộc đời tôi không nhận được một triệu nào mà tôi cảm nghiệm rằng mình còn được nhiều hơn như thế. Và cha Kim Long đã nhận được những tràng pháo tay tưởng như không dứt của các môn sinh và những người ngưỡng mộ. Người nhạc sĩ viết thánh ca khác với nhạc sĩ viết nhạc ngoài đời là thế, rõ ràng nhất trước mắt chúng ta là chương trình đêm Thánh Ca này không có một logo của bất cứ nhà tài trợ nào- nhà thơ Đình Bảng một lần nữa lại làm sáng ý của một đời nhạc sĩ Thánh ca.

Với sự hiện diện của các ca đoàn: Vượt Qua, Thiện Chí, Mân Côi, Sao Mai, Thanh Đa, Tân Thái Sơn, Thiếu nhi Đaminh- Ba Chuông và liên ca đoàn hạt Thủ Đức, cũng như sự góp mặt của quý thầy Đại chủng vịên Thánh Giuse Sàigon, liên dòng nữ và dòng MTG Gò Vấp...cùng các ca sĩ công giáo tên tuổi và đầy nhiệt huyết như Gia Ân, Tấn Đạt, Xuân Trường, trần Ngọc, Diệu Hiền, Mai Thảo…tất cả đã làm cho Trung Tâm Mục Vụ trở thành một không gian Thánh ca. Không một tiếng nói chuyện, không có sự di chuyển ồn ào, tất cả ngồi theo hàng tăm tắp lắng nghe, chìm vào một lời mời gọi yêu thương và ngợi ca tình yêu mà những tác phẩm tâm huyết nhất của linh mục nhạc sĩ được thể hiện.

Chỉ hơn một nửa giờ khai mạc,như một phép lạ, mưa nhẹ hạt dần và ngừng hẳn…ai cũng thở phào nhẹ nhõm.

Chương trình được chia làm hai phần với ngợi ca tình yêu và đáp trả tình yêu. Và dù tôi muốn ở lại thưởng thức cho hết, cho đến tận cuối cùng để thể hiện lòng trân quý của mình với người linh mục nhạc sĩ, người thầy đáng kính, song đường về nhà khá xa và đã quá giờ đóng cửa của tu viện, tôi đành ra về sớm trong sự nuối tiếc. Cho dù vậy tôi vẫn cảm tạ Chúa đã cho tôi cơ hội được cầu nguyện hai lần vì theo lời thánh Âu- tinh: hát là cầu nguyện hai lần. Tôi đã đến, đã hát và đã cùng chung chia với niềm vui của người nhạc sĩ một lòng tận tâm và tận lực với giáo hội Việt Nam với nền thánh nhạc Việt Nam và đặc biệt với Thiên Chuá- Đấng đã chọn và gọi Ngài.

Tôi ra về dưới bầu tời lấp lánh vài ánh sao đêm, nhưng chắc chắn rằng một lát nữa thôi không chỉ một ánh sao mà sẽ xuất hiện hằng hà sa số những vì sao thắp sáng cả bầu trời.

Minh Nguyên

Chia sẻ với các Nữ Tu MTG Đà Lạt dip Khấn Lần Đầu.



Các Sơ Nhỏ tiên khấn thân mến,


Nhận được tin các Sơ Nhỏ sẽ được Khấn Lần đầu vào cuối tháng Năm tới đây, Bác Tài xin gởi lời chúc mừng và chia vui với các Sơ Nhỏ và gia đình cũng như với Hội Dòng Mến Thánh Giá Đà Lạt.


Trong tâm tình vui mừng và hạnh phúc ấy, Bác Tài xin chia sẻ với các Sơ Nhỏ chút tâm tư của đời tu trì.


1. Đi tu: Ơn Gọi Tận Hiến.


Đi tu, trước hết là một ơn gọi, ơn gọi của các Sơ Nhỏ là trở thành những nữ tỳ của Thiên Chúa, và tận hiến cho Thiên Chúa qua cuộc sống của mình trong một hội dòng. Ơn gọi tận hiến này chính Chúa Giê-su đã khơi mào cho chúng ta: “Phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp” (Mt 19, 29).


Đi tu là ơn gọi tận hiến khi các Sơ nhỏ thật sự đem ý riêng của mình dâng lên cho Thiên Chúa, bởi vì chúng ta sẽ không tận hiến gì cả, khi mà chúng ta vẫn còn làm theo những ước muốn riêng tư của mình, dù ý muốn đó thầm lặng không ai biết. Tận Hiến chính là dâng hết, dâng tất cả cho Đấng Phu Quân mà mình yêu mến là Chúa Giê-su; tận hiến cũng chính là trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giê-su trong cuộc đời tu sĩ của mình, bởi vì các Sơ Nhỏ là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương (Cô-lô-sê 3, 12). Khi đem tuổi thanh xuân tươi đẹp của mình đặt vào trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa, do bởi lòng yêu mến tận hiến cho Ngài, thì các Sơ Nhỏ như những bông hoa đẹp được toàn thể Hội Dòng dâng hiến trên ngai tòa của Đấng chí tôn chí thánh. Đó chính là một hồng ân.

2. Đi tu: Chết trong lòng.


Có hai cái chết mà người Ki-tô hữu nhắc đến nhiều: đó là chết phần hồn và chết phần xác, hai loại chết này đều làm cho người Ki-tô hữu ghê sợ. Nhưng có một loại chết khác làm cho người khác ghê sợ, nhưng lại là niềm vui của các Sơ Nhỏ, đó là cái “chết trong lòng”. Mà quả thật là như vậy, chết trong lòng đối với người khác chính là thất vọng, là thất tình, là đòi hỏi những nhu cầu theo bản năng, rồi từ đó dẫn đến sự chán đời và không thiết nghĩ đến chuyện gì khác, họ cảm thấy đời của họ mất đi ý nghĩa khi không được thỏa mãn cái tôi của mình..


Các Sơ Nhỏ khi ao ước sống đời tận hiến cho Thiên Chúa, thì chắc chắn cũng sẽ “chết trong lòng” một chút, các Sơ Nhỏ phải đối mặt với những tình cảm khi ảo khi thật, làm cho tâm hồn các Sơ Nhỏ xao xuyến bâng khuâng, những lúc này –nhất là trong thời gian chuẩn bị tiên khấn này- tâm hồn của các Sơ Nhỏ như mặt biển rộng, và những câu hỏi về tương lai, nghề nghiệp, tình cảm, học hành, như những làn sóng khi nhanh khi chậm, khi ào ạt khi nhẹ nhàng dồn dập đập vào tim óc của các Sơ Nhỏ, làm cho tâm hồn các Sơ Nhỏ hồi hộp, xao xuyến, lo sợ. Nhưng đó chỉ là chuyện thoáng qua trong chốc lát của việc “chết trong lòng” để rồi trở thành niềm vui tận hiến, khi các Sơ Nhỏ đã xác định được đời sống tận hiến là một hạnh phúc trọn vẹn, là được yêu mà không phải buồn phiền khổ đau, vì người yêu của mình là Đức Ki-tô không hề phản bội trong tình yêu, nhưng trái lại, các Sơ Nhỏ sẽ được tràn đầy niềm vui thánh thiện trong đời sống tận hiến của mình.


“Chết trong lòng” vì tình yêu thế gian mời mọc.


“Chết trong lòng” vì muốn có tương lai hơn.


“Chết trong lòng” vì để tự do hơn.

“Chết trong lòng” vì muốn được thỏa mãn cá tính.v.v...


Tất cả những cái đòi hỏi “chết trong lòng” ấy, đều là những nhu cầu tự nhiên của con người bình thường, nhưng nó chính là công cụ để các Sơ Nhỏ trở nên thánh và trung thành với đời tận hiến của mình. Các Sơ Nhỏ không như các thiếu nữ khác, khi họ muốn được thỏa mãn cá tính của mình thì họ tìm cách để đạt được mục đích, nhưng các Sơ Nhỏ thì liên lỉ “chết trong lòng” cho đời tận hiến của mình, vì sứ mệnh làm chứng nhân cho Chúa Giê-su giữa trần gian này.


3. Đi tu: Làm dì phước – người mẫu.


Sau khi mãn hạn thời gian Nhà Tập, các Sơ Nhỏ sẽ được khấn lần đầu (tiên khấn), và từ đây các Sơ Nhỏ sẽ được giáo dân đổi cách xưng hô với mình: dì phước (hoặc soeur, chị). Không phải ngẫu nhiên mà người giáo dân gọi các Sơ Nhỏ như thế, nhưng người đi tu là người hạnh phúc hơn những người không đi tu, bởi vì “tu là cội phúc, tình là giây oan”.


Làm dì phước là làm người hạnh phúc, bởi vì họ đã từ bỏ cuộc sống đời thường để đi tìm hạnh phúc trong cuộc sống tu trì, hưởng phúc lộc từ nơi nhà Chúa, “ăn cơm Chúa múa tối ngày”, đó chính là hạnh phúc thật, mà chỉ có các Sơ Nhỏ mới được như vậy mà thôi.


Và sau khi khấn lần đầu, thì từ nay các Sơ Nhỏ sẽ trở thành người mẫu, siêu người mẫu của Thiên Chúa chứ không phải người mẫu của thời trang, bởi vì mọi người –bất kỳ lương hay giáo- đều sẽ nhìn cách sống của các Sơ Nhỏ để noi theo. Nếu họ là người bên lương thì họ sẽ nhìn cách sống dịu dàng, thùy mị vui tươi của các Sơ Nhỏ mà yêu mến và cảm phục, và từ đó họ sẽ đặt câu hỏi “bởi đâu mà các Sơ Nhỏ được như thế ?”, và qua câu hỏi ấy với cách sống gương mẫu của các Sơ Nhỏ, họ sẽ nhìn thấy Chúa Giê-su trên con người của các Sơ Nhỏ. Nếu họ là người Ki-tô hữu thì họ sẽ nhìn thấy Chúa Giê-su hiện diện thật sự nơi các Sơ Nhỏ, qua việc phục vụ tha nhân vô điều kiện, qua việc phục tùng bề trên và qua việc thực hành các lời khấn của mình...


Làm người mẫu thời trang thì phải thường xuyên tập thể dục không thì sẽ mập phì xấu tướng, phải ăn kiêng theo chế độ dinh dưỡng để giữ eo cho thon thả và phải dùng mỹ phẩm nào cho hợp để giữ sắc đẹp.v.v...

Làm người mẫu của Thiên Chúa cũng vậy, các Sơ Nhỏ phải thường xuyên tập thể dục cho linh hồn được khỏe mạnh, bằng cách chu toàn các giờ kinh sáng tối cũng như siêng năng cầu nguyện mà hội dòng quy định; các Sơ Nhỏ phải ăn kiêng, tức là phải hãm tính xác thịt, khống chế đòi hỏi các sở thích không hợp với người mẫu siêu nhiên -làm dì phước- của mình, phải khắc chế cái tôi của mình để thanh thoát tiến lên trong đời tận hiến; các Sơ Nhỏ phải ăn uống theo chế độ dinh dưỡng là rước Mình Máu Thánh của Chúa Giê-su mỗi ngày, để linh hồn các Sơ Nhỏ được trường sinh bất tử, để đủ sức chu toàn bổn phận “người mẫu” của mình ở thế gian này.


Các Sơ Nhỏ thân mến,


Thế giới hôm nay đang rất cần đến các Sơ Nhỏ -những nữ tu- để đem lại niềm vui thánh thiện cho tha nhân, để đem lời an ủi đến cho người bất hạnh. Thế giới hôm nay rất cần đến những hy sinh vô vị lợi của các Sơ Nhỏ, bởi vì con người thời nay đang thiếu vắng Thiên Chúa, mặc dù Thiên Chúa vẫn hiện diện, Bác Tài tin chắc rằng, nhờ ơn Chúa giúp và nhờ sự bảo trợ của Đức Mẹ Maria, cũng như qua sự giáo huấn của hội dòng, các Sơ Nhỏ sẽ không phụ lòng mong mỏi của Giáo Hội, của hội dòng và của giáo dân, để trở thành những Sơ Nhỏ-Dì Phước-Người Mẫu dễ thương nhất của Chúa Giê-su và Đức Mẹ Maria cũng như của mọi người.


Bác Tài cũng xin chúc mừng các Sơ Nhỏ trong ngày Khấn Lần Đầu này, được mọi ơn lành hồn xác, và trở thành 19 bông hoa đẹp nhất dâng lên Thiên Chúa.


Nhớ cầu nguyện cho Bác Tài.



Thân mến,

Bác Tài

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC

GIA ĐÌNH CÓ NGƯỜI ĐI TU

Xin cha cho con biết là lấy chồng mà gia đình chồng có người đi tu làm cha và làm sơ là có phúc phải không cha. Xin cha giải thích cho con có phúc là ở chỗ nào ?

Giải đáp

Bạn Nga thân mến,

Một gia đình có người đi tu làm linh mục hay  làm nữ tu thì gia đình hẳn cũng đã phải hi sinh nhiều vì khi con cái vừa khôn lớn có thể giúp đỡ gia đình phần nào thì lại dâng cho Chúa và những người con đi tu thường cũng là những người có phẩm hạnh, đạo đức hay khả năng vì thế người ta sẽ cho rằng gia đình ấy  là một gia đình tốt lành và biết giáo dục con cái và có người còn cho rằng gia đình ấy có phúc của cha ông để lại mới được như thế.

Tuy nhiên, điều đó không phải lúc nào cũng hoàn toàn đúng vì có những trường hợp gia đình có người đi tu nhưng cũng có những người trong gia đình lại sống không tốt, gây tai tiếng. Vì thế, lấy chồng mà gia đình nhà chồng có người đi tu thì có nhiều cơ may được sống trong bầu khí thuận lợi cho việc xây dựng hạnh phúc nhưng điều quan trọng là chính mình có biết sống tốt, biết xây dựng đời sống gia đình đầm ấm, biết kính trên nhường dưới hay không chứ không có phúc từ trời rơi xuống mà mình chỉ biết hưởng mà không cần góp công, góp sức.

PHÓ TẾ VĨNH VIỄN

Thưa Cha, chức phó tế vĩnh viễn có khác hay giống như chức phó tế của các linh mục trước khi lãnh nhận tác vụ linh mục không ? Phần vụ của một phó tế vĩnh viễn.

Giải đáp

Hiện nay trong Giáo Hội có chức Phó Tế chuyển tiếp và Phó Tế vĩnh viễn được phục hồi sau Công Đồng Vatican II . Về chức thánh thì như nhau nghĩa là có thể cử hành các việc dành cho chức thánh của mình : Rửa tội, trao Mình Thánh Chúa, giảng trong thánh lễ, chủ sự giờ kinh phụng vụ, chứng hôn phối, chầu phép lành… Tuy nhiên có một vài điểm  khác biệt sau đây :

- Các phó tế vĩnh viễn sẽ không tiến lên chức linh mục như các phó tế chuyển tiếp

- Các phó tế vĩnh viễn có thể là những người đã có gia đình và không buộc phải độc thân khi lãnh chức phó tế. Tuy nhiên, ứng viên Phó tế vĩnh viễn nào không kết hôn thì không được nhận lên chức Phó tế ấy, nếu chưa tròn ít là 25 tuổi, ứng viên nào đã kết hôn rồi, thì phải ít là tròn 35 tuổi và được sự đồng ý của vợ mình. (Giáo Luật Điều 1031 §2). - Các ứng viên chức Phó Tế vĩnh viễn phải được đào tạo để nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng và phải được giáo dục để thi hành đúng cách những nhiệm vụ riêng của chức thánh ấy, theo những qui định của Hội Đồng Giám Mục :

1. Những ứng viên trẻ tuổi phải ở trong một nhà dành riêng nào đó ít nhất là 3 năm, trừ khi vì lý do quan trọng Giám Mục Giáo phận ấn định thể khác.

2. Những ứng viên đứng tuổi, hoặc độc thân hoặc đã kết bạn, phải được huấn luyện theo một chương trình 3 năm đã được Hội Đồng Giám Mục ấn định (Giáo Luật Điều 236).

- Các Phó tế vĩnh viễn chỉ buộc đọc phần Phụng Vụ các giờ kinh đã được Hội Đồng Giám Mục ấn định.

SỐNG CHỨNG NHÂN

TÂM TÌNH TRI ÂN CỦA ĐỨC GIOAN PHAOLO II KHI NHÌN LẠI VỤ MƯU SÁT 13-5-1981

 

Năm nay - 2007 - kỷ niệm đúng 90 năm Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên ngày 13-5-1917 tại Fatima nước Bồ-Đào-Nha với ba trẻ chăn chiên Lucia, Phanxicô và Giaxinta. Gần 65 năm sau, ngày 13-5-1981 Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II (1978-2007) bị mưu sát tại quảng trường thánh Phêrô, vào buổi chiều thứ tư có cuộc tiếp kiến chung hàng tuần tín hữu Công Giáo và du khách hành hương đến từ năm châu. Ngày và Giờ cuộc mưu sát tại quảng trường thánh Phêrô trùng hợp với Ngày và Giờ cuộc hiện ra tại Fatima. Quả là trùng hợp bí ẩn nhiệm mầu ..

Mùa hè năm 1993, nhân cuộc gặp gỡ với nhóm trí thức Ba-Lan trong đó có hai triết gia Józef Tischner và Krzysztof Michalski, tại nhà nghỉ mát Castelgandolfo, Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II gợi lại cuộc mưu sát ngày 13-5-1981 với những suy tư về sự dữ kèm theo tâm tình tri ân dâng lên THIÊN CHÚA và Hiền Mẫu MARIA. Nội dung cuộc gặp gỡ được trình bày trong tác phẩm tựa đề ”Ký-Ức và Căn-Tính” xuất bản đầu năm 2005.

Một người trong nhóm trí thức nêu câu hỏi: ”Thưa Đức Thánh Cha, ngày 13-5-1981, thực hư xảy ra như thế nào? Cuộc mưu sát và các biến cố đi kèm phải chăng tỏ lộ vài sự thật liên quan đến ngôi vị giáo hoàng? Có thể nhận ra một sứ điệp đặc thù liên kết với sứ mệnh cá nhân của ngài không? Đức Thánh Cha đã đích thân đến nhà tù để gặp gỡ mặt đối mặt với tên sát nhân. Hôm nay, trải bao năm qua, Đức Thánh Cha nhìn lại biến cố những ngày ấy như thế nào? Đâu là ý nghĩa cuộc mưu sát và các biến cố dính liền đưa đến hậu quả trong chính cuộc đời ngài?” Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II trả lời như sau.

Tất cả minh chứng có Ơn thánh Chúa. Tôi thấy biến cố tương tự với thử thách Đức Hồng Y Stefan Wyszynski (1901-1981) phải chịu trong thời ngài bị giam cầm. Có điều hơi khác là Đức Hồng Y bị tù 3 năm, trong khi thử thách của tôi kéo dài trong thời gian ngắn hơn, chỉ vài tháng thôi. Agca biết rõ phải bắn như thế nào và dĩ nhiên anh ta cố ý bắn để đạt mục tiêu. Chỉ có điều lạ là hình như có ”ai đó” đã lái viên đạn đi nơi khác!

Tiếp lời Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II, vị bí thư ngài lúc ấy là Đức Ông Stanislaw Dziwisz nói: Agca bắn là để giết chết. Cú bắn đáng lý là cú sát nhân. Viên đạn xuyên qua người Đức Thánh Cha, gây vết thương nơi bụng, cùi chỏ phải và ngón tay trỏ. Rồi viên đạn rơi giữa Đức Thánh Cha và tôi. Tôi còn nghe thêm 2 phát súng khác, hai người đứng cạnh chúng tôi trúng đạn bị thương. Tôi hỏi Đức Thánh Cha: ”Ở đâu?” Đức Thánh Cha trả lời: “Nơi bụng”. Tôi hỏi tiếp: ”Có đau không?” Đức Thánh Cha trả lời: ”Đau lắm”. Lúc ấy không có bác sĩ nào bên cạnh. Chúng tôi không có giờ để suy nghĩ lâu la. Chúng tôi dùng xe cứu thương và đưa ngay Đức Thánh Cha đến bệnh viện bách khoa Gemelli. Đức Thánh Cha thì thầm đọc kinh, nhưng rồi, ngay trên đường đi, Đức Thánh Cha bất tỉnh .. Rất nhiều yếu tố quyết định sinh tử. Lấy ví dụ thời gian đưa tới nhà thương: chỉ cần chậm thêm vài phút, hoặc bị ngăn trở nào đó trên đường đi, hẳn sẽ trở thành quá trễ! Nhưng trong tất cả các biến cố ấy, tỏ lộ hiển nhiên bàn tay chủ động của THIÊN CHÚA. Vâng, đúng thế, tất cả minh chứng như vậy!

Đức Ông Stanislaw Dziwisz nói tiếp. Nhờ được chữa trị khẩn trương, sức khoẻ Đức Thánh Cha khả quan đến độ các bác sĩ quyết định mổ lần thứ hai để bổ túc cho lần mổ đầu tiên vào chính ngày bị mưu sát. Đức Thánh Cha chọn ngày 5-8 lễ Đức Bà Xuống Tuyết, ngày thánh hiến Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Cả (Roma). Lần mổ thứ hai diễn tiến tốt đẹp. Ngày 13-8, đúng 3 tháng sau vụ mưu sát, các bác sĩ ký giấy cho Đức Thánh Cha xuất viện .. 5 tháng sau cuộc mưu sát, Đức Thánh Cha trở lại quảng trường Thánh Phêrô để gặp gỡ tín hữu hành hương. Ngày hôm ấy Đức Thánh Cha nói: ”Một lần nữa, tôi trở thành người mang ơn, kẻ mắc nợ Đức Mẹ và các thánh quan thầy. Làm sao tôi có thể quên được rằng, biến cố tại quảng trường Thánh Phêrô xảy ra cùng ngày cùng giờ với biến cố xảy ra cách đó hơn 60 năm tại Fatima bên nước Bồ-Đào-Nha, khi Hiền Mẫu Đức Chúa KITÔ hiện ra lần đầu tiên với các thiếu niên thôn quê nghèo nàn? Trong tất cả những gì xảy ra cho tôi vào ngày hôm ấy, tôi cảm nghiệm rõ ràng có bàn tay che chở, có sự lưu tâm đặc biệt của Hiền Mẫu Thiên Quốc. Đức Mẹ minh chứng Đức Mẹ mạnh hơn viên đạn có sức giết người!

Tiếp lời Đức Ông Stanislaw Dziwisz, Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II nói. Dịp lễ Giáng Sinh 1983, tôi đích thân đến nhà tù thăm kẻ sát nhân. Chúng tôi nói chuyện với nhau thật lâu. Như mọi người đều biết, Alì Agca là tên sát nhân chuyên nghiệp. Điều này có nghĩa anh ta không phải là kẻ chủ mưu vụ mưu sát, nhưng có ”ai đó” đã hoạch định vụ mưu sát và có ”ai đó” ra lệnh cho anh ta phải thi hành cuộc mưu sát. Suốt trong buổi nói chuyện, Alì Agca luôn tự hỏi và lập lại câu hỏi tại sao vụ mưu sát không thành công? Anh ta đã cẩn thận chuẩn bị đủ mọi chi tiết. Thế mà nạn nhân lại thoát chết! Làm sao điều này lại có thể xảy ra? Có lẽ Alì Agca đã hiểu được nhờ linh tính rằng, vượt lên trên khả năng giết người của anh ta, còn có một quyền lực khác mạnh hơn nhiều!!!

Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II kết thúc. Tôi nghĩ đến biến cố với tâm tình xúc động sâu xa. Tôi ghi ơn tất cả mọi người đã hiệp ý cầu nguyện cho tôi cách riêng trong chính ngày 13-5-1981 và những ngày kế tiếp. Tôi dâng lời tri ân Đức Chúa KITÔ và Đức Chúa Thánh Thần, nhân biến cố xảy ra tại quảng trường Thánh Phêrô chiều ngày 13 tháng 5 lúc 17 giờ 17 phút, đã gợi hứng cho bao tâm lòng hòa nhịp trong cùng lời nguyện xin. Tôi nhớ lại lời Sách Công Vụ Tông Đồ chương 12 câu 5 liên quan đến Thánh Phêrô như sau: ”Hội thánh không ngừng dâng lên THIÊN CHÚA lời cầu nguyện khẩn thiết cho ông”.

(Jean Paul II ”Mémoire et Identité” Le Testament politique et spirituel du Pape, 2005, Éditions Flammarion, Paris, trang 191-202).

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

 

 

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH

 

THUỐC GIA TRUYỀN

 

Trước cửa nhà thờ, mới trồng ít hàng cây vạn thọ. Chúng được đánh ra, từ một dãy những cây con. Nhìn những cây mới trồng, tôi vừa mừng vừa lo. Mừng vì những cây con đã đựoc ra riêng, đuợc đưa đến một vùng đất mới, thênh thang hơn, và tự do hơn, và nhờ thế, có dịp để trưởng thành mau hơn. Cứ để chúng chen chúc mãi trong dãy đất gieo, chúng sẽ bị còi cọt, không thể phát triển, và nở bông rực rỡ được.

Nhưng cũng lo, lo vì bây giờ, chúng đuợc tự do hơn nhưng chúng cũng sẽ dễ bị héo tàn, vì ánh nắng chói chang của mặt trời. Điều mà trước đây chúng ít bị, vì có mái che của ông chủ, và có thể dựa dẫm vào nhau.

Nhìn cậu A và cô B hôm nay, tự nhiên toi thấy có cái gì hơi giống thế. Và bởi vậy, hồn tôi vừa mừng vừa lo.

Tôi mừng, vì bây giờ, hai người đã là những người trưởng thành, đã đuợc đánh riêng ra, tự lập, và tự do. Từ nay, không còn vò vỏ cô đơn, đã có người để mà yêu. Và đã trở thành người yêu của người khác. Có chỗ để mà tha hồ thoả mãn những ước nguyện tương lai của mình.

Nhưng tôi cũng lo, bước vào một vùng đất mới, chưa hề một chút kinh nghiệm, chưa quen đất dai, chưa hiểu lòng người. Ngoài kia nắng trời lại gắt, gió trời lại xoay ốc, đổi thay, liệu rằng, đôi bạn trẻ, có thể trụ lại ? có thể phát triển ?

A và B thân mến,

Là một cây hoa vừa đánh riêng ! Cây hoa lớn đuợc và phát riển nở hoa đuợc, phải trông nhờ rất nhiều yếu tố. Nhưng cần nhất, cha nghĩ, phải là ánh sáng mặt trời.

Bởi vậy, hai chúng con, phải luôn biết giữ gìn, và đón nhận ánh sáng mặt trời là nguồn ơn thánh của Chúa. Luôn biết ngước mặt lên cao, để có thể đón nhận ơn  thánh từ trên cáo. Đánh mất điều này, cây hoa cuộc đời, sẽ yếu nhược, và èo uột bi thương.

Ngoài ánh sáng mặt trời, là yếu tố cần thiết để cây sống và phát triển, còn một yếu tố khác ngược lại, luôn làm cho cây, bị sầu héo và úa tàn, đó là những con tầy ,con sâu. Nhưng con sâu to, nhỏ, luôn giấu mặt, nhưng luôn làm cho cây hết lớn, mau chết. Trong đời hôn nhân, cũng có nhữgn yếu tố sâu rầy ấy. Bởi vậy, trong vài phút trong lễ cưới hôm nay, cha muốn gởi cho chúng con một bài thuốc gia truyền, để chúng con, có thể ngăn ngừa được những con sâu giấu mặt, nhằm phá hoại loại cây hạnh phúc trong đời hôn nhân tươi đẹp của mình.

 

Bài thuốc thứ nhát :

Là hãy BIẾT NGỪNG.

Biết ngừng nói, khi dang say máu ; biết ngừng nói, khi cơn nóng giận đang hồi bốc cao, khi lòng tự ái bị tổn thương. Biết ngừng lại khi cơn háo thắng đang muốn tràn bờ. Trong cuộc tranh cãi với vợ, với chồng. Hãy biết ngừng nói để lắng nghe, để tìm ra sự thật. Thắng đựoc vợ, thắng đuợc chồng, thì có gì là hay ho, vinh dự. Vả nữa, trong thực tế, ta thấy, rất nhiều khi, vợ chồng tranh cãi, xô xát, vì những chuyện vớ vẩn, không đâu. Có chấp nhận thua đi, thì cũng chẳng hề thiệt hại tí nào. Hãy biết kiềm chế, hãy biết ngừng lại. Chấp nhận một chút thiệt thòi, sẽ giữ đuợc bầu khí êm ấm của gia đình. Lúc ấy, anh sẽ là hoàng tử của lòng em, và em sẽ là hoàng hậu của lòng anh.

 

Bài thuốc thứ hai :

Là hãy BIẾT QUÊN

Đó cũng là nấc thang tạo ra hạnh phúc. Có nhiều chuyện đáng quên. Có nhiều chuyện phải quên ngưòi ta mới sống đuợc. Hãy quên đi, cái gốc giàu, gốc nghèo của cha mẹ hai bên. Hãy quên đi, những điều khó khăn, cấm kỵ của cha mẹ đã làm cho mình, trong những ngày chưa cưới. Đừng làm ầm ĩ lên, những lỗi lầm đã xảy ra, trong những ngày trước. Ngày ấy, trong thân phận yếu đuối, người bạn đời đã lầm lỗi, nhưng nay đã ăn năn từ bỏ. Xin để cho nấm mộ buồn bã ấy ngủ yên. Hãy để quá khứ là quá khứ. Sống với nhau, tích luỹ những lầm lỡ của nhau, đẻ khi tứ lên, moi móc hết ra, chỉ làm khổ nhau, chỉ làm tình yêu rạn nứt, vỡ toác, lợi gì !

 

Bài thuốc thứ ba :

Là hãy BIẾT NHỚ.

Hãy nhớ vè những kỷ niệm đẹp, ươm mơ trong những ngày chưa cưới. Hãy nhớ tới những sự hy sinh, mà người ấy đã làm cho mình. Hãy nhớ đến những đức tính tốt của nhau. Sở truờng, sở đoản của nhau, hãy nhớ tới những ý thích của nhau. Sự nhớ ấy, như những sợ chỉ nhỏ muôn màu, dệt nên tấm thảm rực rỡ hạnh phúc.

Xin cũng hãy nhớ đén, những ngày kỷ niệm thân thương ; ngày sinh nhật, ngày cưới, ngày quan thầy, ngày giỗ chạp của cha mẹ hai bên.

 

 

Bài thuốc thứ tư :

Hãy BIẾT CHỜ ĐỢI.

Đừng quá nóng nảy, sốt ruột ; hãy biết chờ đợi nahu một chút. Có rất nhiều người vợ, dọn sẳn cơm, chờ chồng ; cả tiếng đồng hồ thì khôg sao, vậy mà, khi có việc pahỉ đi đâu chung với nhau, vợ có dọn dẹp, sửa soạn một tí, thì chồng đã nóng ruột, cằn nhằn, nổi quau

Có một nhà văn đã nói giỡn : " Trên đời này, có ba loại đổm  dáng cực kỳ : Đàn bà, con mèo, và con ruổi".

Xin đức ông chồng nhớ cho : Đàn bà là tượng trưng cho cái đẹp, thích sửa soạn. Cho nên, nếu có phải chờ đợi một chút, thì cũng là điều dễ hiểu thôi.

Đôi hôn nhân hôm nay, như một cây vừa được tách ra, còn non yếu, xin gia đình và họ hàng hai bên, hãy lấy tình yêu chân thành mà nâng đỡ, vun trồng.

 

Lm. Đaminh Đỗ Văn Thiêm

 

 MỐI QUAN HỆ GIỮA MẸ VÀ CON GÁI

TƯƠNG ĐỒNG TRONG KHÁC BIỆT

 

“Mẹ, có nghĩa là tất cả, là cho đi không nhận lại bao giờ”. (Ngày xưa có mẹ). Nhà thơ Thanh Nguyên đã dùng 2 câu thơ trên để ca tụng mẹ mình, người đã suốt đời lao đao, vất vả, lận đận, tận tụy vì con. Thế nhưng dường như trong cuộc sống không phải là không có những lúc mẹ và con không cùng suy nghĩ, hay không có những sự bất hòa. Có những bất hòa do cá tính, nhưng cũng phải nói, có những bất đồng quan điểm giữa hai thế hệ, thậm chí giữa những giá trị đạo đức khác nhau. Tình trạng đó đã diễn ra ngay cả trong mối quan hệ được cho là gần gũi nhất, dễ thông hiểu nhau nhất: quan hệ giữa mẹ và con gái.

 

S. 22 tuổi, công nhân của một công ty may nước ngoài, thuộc khu chế xuất Tân Thuận tâm sự: “Là con thứ trong một gia đình gồm 5 người con, 2 trai 3 gái. Nhưng có lẽ chỉ có tôi là bị mẹ đì nhất”. Về sự “bị đì” của mình, S. kể: “Đi làm về dù mệt, muốn nghĩ ngơi một chút cũng không được. Nay thì mẹ đưa tội của anh hai ra kể, mai thì mẹ đưa tội của chị tư ra méc… Lúc đầu tôi còn lắng nghe, vì nghĩ mẹ cần được chia sẻ những lo âu. Nhưng sau, cứ ngày nào cũng có chuyện để mà “phải nghe”, tôi đâm ra ngán ngẫm bực bội. Mà nào có phải là chuyện gì to tát: đàn ông con trai, chuyện nhậu nhẹt, cà phê thuốc lá làm sao tránh khỏi. Thế nhưng đối với mẹ tôi, thì ngoại trừ đi làm, còn không thì lúc nào cũng phải trong nhà, buồn thì cứ tivi, nghe nhạc, chứ ra ngoài tụ tập bạn bè mẹ cho rằng rất dễ hư. Một đôi lần tôi còn góp ý, nói mẹ quá khắt khe như thế sẽ làm các anh chị chán nản. Nhưng thay vì lắng nghe, bà nổi dóa lên cho rằng tôi được cho ăn học để rồi bây giờ quay lại dạy bà. Hai mẹ con giận nhau. Kể từ đó tan sở tôi không về ngay mà đi lòng vòng lang thang đâu đó ở nhà bạn bè cho tới tối mới về”.

 

Cũng như S., H. ấm ức cho biết: “Ai đời mình 25 tuổi rồi, có còn là trẻ em đâu mà mỗi lần có bạn trai tới nhà, má bắt mình phải kê ghế ngồi đối diện với bạn, còn má mình thì… kéo ghế ngồi cạnh mình. Thử hỏi như vậy thì còn nói năng gì được với nhau nữa? Lúc đầu, cứ nghĩ là má sẽ ngồi một chút rồi vào nhà trong, ai ngờ má ngồi cho tới khi bạn trai mình về thì thôi. Không chỉ mấy hôm đầu mới gặp, mà sau này khi đã quen khá thân rồi, má vẫn cứ như thế. Một lần, không kềm được, mình nổi xung lên “nói lớn tiếng” về chuyện này, thế là tối hôm ấy, má bỏ không ăn cơm, ba đi làm về hỏi thăm, má khóc bảo là mình mắng, rồi còn bảo từ nay sẽ từ mình luôn, coi như không có mình là con. Buồn lắm, nhưng chẳng biết phải làm sao?”

 

Hai người, hai trường hợp. Một bên thì coi con gái là một đồng minh, một nơi để chia sẻ những lo lắng về gia đình và có một nguồn an ủi. Còn một người, dầu con đã lớn, nhưng như nhiều bà mẹ khác, cũng vẫn chỉ là những đứa con gái bé bỏng, cần phải canh chừng một cách “cẩn thận”. Và từ những cách cư xử như thế, một khoảng cách giữa mẹ và con gái hình thành và thường đi đến xung khắc, có lẽ ít nhất cho đến khi người con gái kia, tới phiên mình, trở thành mẹ.

 

Còn các bà mẹ thì sao. Bà K. 56 tuổi, mẹ của 4 đứa con, 2 gái 2 trai, ở quận 11, “phân tích”: “Tụi nhỏ bây giờ được ăn học tới nơi tới chốn nên hay lên mặt với mẹ chúng nó, chê mẹ mình quê mùa, không hiểu mình… Ai có con gái mà không lo, mà không mong nó là người phải hiểu và thông cảm với những lo toan của một người mẹ. Bởi vì sau này chúng nó cũng sẽ là những người mẹ, nhất là mẹ của những đứa con gái. Thế mà chúng nó có biết được những nỗi lo đó đâu, mở miệng ra là kêu cha mẹ không hiểu, già rồi khó tính, cổ hủ, lạc hậu…”

 

 Còn bà P. cũng gần 60 tuổi, ở quận Tân Bình, mẹ của một cô con gái “rượu”, đã không dừng lại ở những mối quan hệ gia đình để răn dạy con gái: “Bây giờ ngoài xã hội, trắng đen, vàng thau lẫn lộn, đầy cạm bẫy và cám dỗ, thế nên tôi cứ mãi dặn con mình gặp đàn ông con trai thì phải đứng cách xa 3 thước!  Nhưng nào chúng có nghe. Các cô, các cậu bây giờ không như chúng tôi ngày xưa. Gặp nhau là cứ như xoắn vào nhau”. Và bà còn bảo thêm: “Kinh sách thì chẳng đọc, nhà thánh thì lánh xa. Thế thì làm sao giữ mình được!” Vâng, cách sống đạo và giữ đạo của các gia đình Công giáo cũng là m5ôt lý do cho những rạn nứt trong mối quan hệ mẹ-con.

 

Tuy nhiên, mối quan hệ mẹ-con không phải chỉ có những mối bất hòa, xung khắc. Ng. 26 tuổi, là nữ nhân viên văn phòng cho một công ty nước ngoài tại quận 1 tâm sự: “Mẹ mình “tâm lý” lắm. Lần đó, có người “để ý” mình, về nhà mình chẳng nói gì cả. Nhưng chỉ hai hôm sau, đang đêm, mẹ nói: “Đến tuổi, được người ta thương để ý đến mình là tốt, cũng là chuyện thường tình, nhưng cũng đừng vì thế mà xao lãng việc làm”. Mình cũng giật mình, hết hồn, không hiểu sao mà mẹ biết được. Nhưng cũng kể từ đó, mỗi khi có những điều gì khó khăn trong cuộc sống, mình đều có thể chia sẻ với mẹ để tìm những lời khuyên. Quả thật, bà vừa là bạn vừa là mẹ của mình nữa đó chứ”.

 

Còn N. 34 tuổi, dù đã lập gia đình và có 2 con, nhưng vẫn tranh thủ ngày ngày chạy về với mẹ, bởi theo chị: “Dù là có gia đình, có con, nhưng tôi vẫn về với mẹ để học hỏi những kinh nghiệm về cách nuôi dạy con cái, cách chăm sóc chúng. Và cứ mỗi lần như thế, tôi lại có thêm sức mạnh và có cảm giác rất an toàn, rằng đằng sau mình, khi gặp những khó khăn, phức tạp về cuộc sống tôi luôn có một người bạn đồng hành. Điều “nực cười” là có những chuyện trước đây mẹ dạy tôi nghĩ là xưa quá, nhưng đến nay, đụng chạm với thực tế cuộc sống gia đình, tôi thấy mẹ mình có lý biết bao”.

 

Quả là có những điều mà với thời gian, người con gái mới hiểu hết được lý do của những lo toan nơi người mẹ. Và điều đáng trân trọng hơn, đó là dù con cái có bị thất bại vì nông nổi không nghe theo lời khuyên của cha mẹ, thì cha mẹ, nhất là người mẹ, vẫn là nơi con nương tựa để đứng dậy. C. 32 tuổi, đã có gia đình, hiện đang sinh sống tại Gò Vấp kể: “Nếu không có mẹ thì không biết bây giờ mình phải xoay sở ra làm sao nữa. Hồi đó, khi mình mới quen bạn trai, sau đôi lần tiếp xúc, mẹ khuyên: nếu làm bạn thì được, xa hơn thì không. Mình không nghe, mà cứ tiến tới. Cưới nhau hơn một năm, sinh được đứa con gái, anh trở mặt, bỏ đi theo người khác. Mẹ giận và buồn lắm, nhưng rồi cũng đưa 2 mẹ con mình về cưu mang cho tới nay cháu đã gần 5 tuổi. Cha ông ta có nói “Nước mắt không bao giờ chảy ngược”. Thực tế đời mình cho thấy điều đó rất đúng, nhất là đối với tình mẹ con”.

 

Vâng, khó có thể đưa ra một kết luận nào về thực tế đa dạng hiện nay trong mối quan hệ mẹ và con gái. Bởi điều đó tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố. Nhưng cũng không thể nói mối quan hệ đó vẫn còn là mối quan hệ thuận thảo như cách đây mấy mươi năm. Nếu thế thì xã hội con người không có những biến chuyển. Có một điều chắc chắn hơn. đó là, do bản năng mọi người phụ nữ đều có thiên chức làm vợ và làm mẹ. Do đó, họ vẫn luôn có cùng những lo lắng như nhau về gia đình, về chồng con. Vì thế, dù có khác biệt nhau về tuổi tác, thế hệ và hoàn cảnh thì những xung khắc trong mối quan hệ mẹ và con gái chỉ mang tính giai đoạn, vì sẽ chấm dứt, thậm chí trở nên nồng ấm hơn, khi người con gái, đến lượt mình, mang lấy những lo lắng, mà lúc còn trẻ cô gái ấy không ít lần đã bực bội cho là “vớ vẫn”, về cuộc sống gia đình riêng của mình. Vấn đề còn lại là làm sao để mẹ và con gái ý thức về thực tế này, để mẹ có thể dễ dàng tha thứ cho những phản ứng nhất thời của con gái, và con gái hiểu được chiều sâu của những lo toan của người mẹ.

 

 

BĂNG TÂM

 

 

ĐỌC SÁCH

 

VỤN VẶT SUY TƯ:

 

SEX

 

 

Sex là một vấn đề lớn – lớn cho ngày xưa, cho ngày nay và cho mãi mãi về sau. Pháp luật phải nhảy vào để can thiệp. Tục lệ phải nhảy vào để cầm cân nẩy mực. Tôn giáo phải nhảy vào để phê phán và đánh giá, để tôn vinh và để kết án.

 

 1. Sex vuốt ve các bé mẫu giáo mầm non. Cô giáo thấy hai bé động đậy trong một cái mền. Lật mền ra, cô giáo hết hồn. Gì vậy? Sex.

 

 2. Đavít, một minh quân muôn ngàn kính yêu, đang đứng trên sân thượng nhìn bâng quơ. Bỗng… nhìn lom lom vào một “tòa nhà thiên nhiên” đang khỏa nước dưới hồ. Chịu không nỗi. Ong sa ngã. Ong vấp ngã. Vấp hai ba lần, viết thành một trang sử đẹp cho cuộc đời của một người được tôn vinh là cha của Đấng Cứu Thế. Tại sao vậy? Nếu hỏi bà Hồ Xuân Hương, thì bà trả lời ngay rằng: “Chúa dấu vua yêu một cái này’. Cái này chính là sex đấy.

 

 3. Một bà già cóc đế, phải chống gậy để đi lễ. Bà sống cu ki trong một căn chòi lá, phía trước là vườn, phía sau là ruộng. Cứ mỗi buổi tối có một thằng con trai đi giăng câu, đi thả lưới, đi đặt lờ quanh quất đâu đó, rồi kết thúc chuyến công tác bằng cách chui vào căn chòi của bà già. Hắn âm thầm ở đó cho tới gà gáy. Hắn lại ra đồng thăm lưới, miệng nhai nhồm nhoàm một nắm xôi hoặc một cái bánh ít… Hỏi hắn, thì hắn làm thinh. Hỏi tiền nhân, thì các ngài cười hai ý: “Bà già đã tám mươi tư, ngồi trong cửa sổ viết thư lấy chồng”. Lại sex nữa rồi.

 

 4. Mới đây Giáo Hội Mỹ làm điên đầu Giáo Hội toàn cầu vì chuyện lợi dụng tình dục trẻ em vị thành niên. Nhiều Giáo phận phải phá sản. Nhiều luật sư giàu sụ. Chuyện oan ức cũng có. Chuyện thật cũng có. Người ta làm lớn chuyện, vì tiền cũng có, vì muốn bôi bẩn Giáo Hội cũng có. Nhưng cuối cùng thì cũng vẫn chỉ là chuyện sex.

 

Sex ơi! Ngươi là vấn đề muôn thuở. Người ta khổ vì ngươi. Người ta sướng cũng vì ngươi. Người ta điên đầu vì ngươi. Người ta chết cũng vì ngươi. Nhưng cũng vì nhờ ngươi mà sự sống con người được lưu truyền qua thời gian.

 

Vì ngươi vừa là tốt vừa là xấu, vừa phục vụ con người, vừa làm hại con người, nên ngươi phải được loài người quản lý. Nếu ngươi muốn là tốt thì ngươi phải tuân hành ba điều kiện sau đây: đúng lúc, đúng chỗ và đúng cách.

 

 Đúng lúc : Thiên Chúa sáng tạo ra sex để mở đường dẫn đến truyền sinh. Sex cũng là phần thưởng trao tặng cho những ai gánh trách nhiệm nặng nề là làm cha và mẹ. Bởi vậy chỉ có vợ chồng mới được hưởng lạc thú do sex đem lại. Khi chưa kết hôn mà đòi hưởng lạc thú của sex là ăn gian, là ăn vụng. Luân lý bảo đó là tội dâm ô.

 

 Đúng chỗ : Vợ chồng là đối tác duy nhất để hưởng lạc thú hôn nhân của nhau. Chồng đem lại niềm hoan lạc cho vợ và ngược lại. Đi tìm lạc thú vui sex ngoài người hôn phối của mình là ngoại tình. Mà ngoại tình thì chẳng ai chấp nhận.

 

Đúng cách : Sex là sự phối hợp giữa âm và dương. Thượng Đế đã thiết kế như thế nào thì cứ thế mà thi công. Làm sai thiết kế là đi ngược lại ý Trời. Làm sai ý Trời thì không phải là chuyện nhỏ.

 

Những động vật không có lý trí thì luôn đi đúng hướng mà Thượng Đế an bày. Động vật có lý trí là loài người thì hay vượt ra ngoài quy hoạch của Thượng Đế. Vì thế gây ra bao nhiêu thảm họa cho gia đình và xã hội. Ngoại tình, đàng điếm, siđa, ly dị… mãi là những nỗi đau thương làm khổ từ cá nhân đến tập thể. Người ta biết hết những nỗi thống khổ ấy nhưng không vượt qua được chỉ vì sức mạnh phi thường của sex. Vậy Thiên Chúa có tự mâu thuẫn khi làm ra sức mạnh của sex, để rồi lại bắt loài người yếu đuối phải làm chủ sex?

 

Thật ra thì sex chỉ rất mạnh, chớ không bao giờ là quá mạnh. Người ta vẫn dư sức để chế ngự nó. Nhưng cũng vẫn phải có nhiều điều kiện.

 

Y chí phải được rèn luyện như võ sĩ rèn luyện cơ bắp. Người có ý chí mạnh phải biết hằng ngày dám làm điều khó, dám làm điều không thích làm, dám nói “không” mạnh mẽ trước mọi khuynh hướng xấu.

 

Làm chủ óc tưởng tượng bằng cách nuôi tư tưởng đẹp giống y như chăm sóc vườn bông. Có nhiều tư tưởng đẹp và kéo dài những tư tưởng đẹp ấy là chiến lũy kiên cố chống lại sức mạnh của sex.

 

Loại trừ mọi tư tưởng xấu, y như trục xuất thật khẩn trương một con chuột chết nằm phơi thây trên trần nhà. Đó cũng là cách xây thành kiên cố để chống những đợt tấn công của sex.

 

Con mắt là cửa sổ của linh hồn. Hình ảnh xấu tốt từ ngoài qua cửa đó mà vào tâm hồn, để tạo nên mơ ước tốt và xấu. Đavít nhìn ngắm Bétxabê tắm dưới hồ là mở cửa sổ linh hồn để tư tưởng ngoại tình và giết người lộng hành.

 

Làm việc đam mê cũng làm tê liệt sức mạnh của sex.

 

An uống điều độ, kiêng khem chất kích dục cũng là khí giới hiện đại để chống được sex. Những nhà tu hành lớn đều quan tâm đến thực phẩm có chất kích dục nhiều hay ít này.

Đời sống cầu nguyện là vũ khí hiện đại nhất để chống được sex

 

***

Sex không phải là chuyện nhỏ. Sex là một vấn đề lớn phải quan tâm vì nó ảnh hưởng tới sự tồn vong của loài người. Nó xây dựng. Nó phá hoại. Nó làm chủ. Nó làm đầy tớ. Nó là công trình sáng tạo của Chúa và nó phải phục vụ con người theo thiết kế từ muôn thuở của Chúa.

 

Lm. Piô NGÔ PHÚC HẬU