TIN VUI
Tuần san Bạn trẻ Công Giáo - Số 92 CN 01.07.2007
E-mail : bantreconggiao@yahoo.com
Mục lục
120.000 bạn trẻ đã ghi danh tham dự Ngày Giới Trẻ Thế Giới 2008 tại Sydney
Qui Ðịnh Mới Của Ðức Thánh Cha Beneđitô XVI Về Việc Bầu Giáo Hoàng.
Giáo Hội Công Giáo Khmer trong tiến trình hòa giải đất nước
HỌP BAN THƯỜNG VỤ (MỞ RỘNG) HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
Mừng 50 năm thành lập giáo xứ Vinh Hương thuộc giáo phận Ban Mê Thuột
TGP Sài Gòn Mừng Bổn Mạng Gioan Baotixita ĐHY Mẫn.
CHÚC MỪNG CÁC TÂN LINH MỤC MÙA TRUYỀN CHỨC 2007
Giáo xứ Vĩnh Hoà khánh thành và cung hiến thánh đường
Cha Đa Minh Trần Đình Thủ, vị sáng lập Dòng Đồng Công đã qua đời tại Việt Nam
Linh mục Đaminh Maria Trần Đình Thủ, CMC
Cung hiến Thánh đường Giáo xứ Vinh Thủy, giáo phận Phan Thiết
Một thoáng linh đạo dành cho linh mục coi xứ
ANH CẢ! XIN GỌI TÊN ANH LẦN CUỐI
PHẨM GIÁ CON NGƯỜI LÊN TIẾNG GỌI
SỐNG LỜI CHÚA
Lc 9, 51-62
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Vì gần tới thời gian Chúa Giêsu phải cất khỏi đời này, Người cương quyết lên đường đi Giêrusalem, và sai những người đưa tin đi trước Người. Những người này lên đường vào một làng Samaria để chuẩn bị mọi sự cho Người. Nhưng ở đó người ta không đón tiếp Người, bởi Người đi lên Giêrusalem. Thấy vậy, hai môn đệ Giacôbê và Gioan thưa Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy muốn chúng con khiến lửa bởi trời xuống thiêu huỷ chúng không?" Nhưng Người quay lại, quở trách các ông rằng: "Các con không biết thần trí nào xúi giục mình. Con Người đến, không phải để giết, nhưng để cứu chữa người ta". Và các Ngài đi tới một làng khác.
Đang khi đi đường có kẻ thưa Người rằng: "Dù Thầy đi đâu tôi cũng sẽ theo Thầy". Chúa Giêsu bảo người ấy rằng: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu". Người bảo một kẻ khác rằng: "Hãy theo Ta". Người ấy thưa: "Xin cho phép tôi đi chôn cha tôi trước đã". Nhưng Người đáp: "Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa". Một người khác thưa Người rằng: "Lạy Thầy, tôi sẽ theo Thầy, nhưng cho phép tôi về từ giã gia đình trước đã". Nhưng Chúa Giêsu đáp: "Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng, thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa".
Đó là lời Chúa
Bài Tin Mừng hôm nay là đoạn mở đầu của phần hai trong Tin Mừng thánh Lu-ca.
Phần thứ hai này kể lại cuộc hành trình của Chúa Giê-su đi lên Giê-ru-sa-lem để
hoàn tất công cuộc cứu thế bằng thập giá. Mở đầu cuộc hành trình này, thánh
Lu-ca kể lại câu chuyện xảy ra nhân lúc Chúa đi ngang qua Sa-ma-ri để lên
Giê-ru-sa-lem và ba mẩu đối thoại giữa Chúa với ba người về điều kiện đi theo
Chúa.
Trước hết, về câu chuyện mở đầu cuộc hành trình, đó là việc Chúa bảo hai môn đệ
Gia-cô-bê và Gio-an đi trước vào một làng Sa-ma-ri để chuẩn bị chỗ cho Chúa và
những người cùng đi có nơi nghỉ chân. Nhưng những người trong làng này nhất định
từ chối, họ từ chối bất cứ người Do Thái nào, vì họ là người Sa-ma-ri, mà giữa
người Sa-ma-ri và người Do Thái đã kình địch nhau từ lâu. Sự từ chối của họ làm
cho hai ông Gia-cô-bê và Gio-an hết sức nóng giận. Trở về, các ông nhớ lại trước
kia có lần ngôn sứ Ê-li-a đã xin lửa từ trời xuống thiêu hủy dân chúng cứng đầu
cứng cổ cố chấp không muốn nghe lời Chúa. Nhớ lại chuyện ấy, các ông xin Chúa để
cho các ông khiến lửa bởi trời xuống đốt tan cả đám dân làng đã dám từ chối
không tiếp đón Chúa. Nhưng Chúa khiển trách các ông, và Ngài tuyên bố rõ mục
đích của Ngài: Ngài đến không phải để tiêu diệt nhưng để cứu vớt, đề nghị của
các ông mâu thuẫn với sứ mạng của Chúa, nên Chúa không chấp nhận, rồi Chúa và
các môn đệ đi tới một làng khác.
Sau câu chuyện mở đầu trên, thánh Lu-ca kể lại ba mẩu đối thoại về điều kiện để
đi theo Chúa, đây là ba trường hợp của ba người khác nhau. Chúa Giê-su đang đi,
một người chạy lại bày tỏ thiện chí tối đa : “Thưa Thầy, Thầy đi đâu tôi cũng
xin đi theo”. Chúa Giê-su không vồn vã cũng không từ chối, nhưng Ngài cho biết
thân phận của Ngài và cũng là điều kiện để đi theo Ngài : “Con chồn có hang,
chim trời có tổ, nhưng Con Người thì không có chỗ tựa đầu”, Ngài nghèo khó như
vậy đó, anh có dám chấp nhận sống như thế khi đi theo Ngài không ?
Một người khác được chính Chúa ngỏ lời trước : “Anh hãy theo tôi”, anh bằng lòng
nhưng anh xin phép trở về nhà mai táng cha mình trước đã. Chúa Giê-su không
nhượng bộ, Ngài nói hãy để kẻ chết chôn kẻ chết, còn anh hãy đi loan báo Nước
Thiên Chúa. Chúa có ý nói rằng : người đã được gọi phục vụ nước trời thì hãy lo
bổn phận chính của mình trước hết và trên hết, không được trì hoãn vì bất cứ lý
do gì. Việc báo hiếu cha mẹ là việc quan trọng theo quan niệm thông thường của
người đời cũng không thể làm trì hoãn việc rao giảng nước Thiên Chúa.
Người thứ ba đến xin theo Chúa, nhưng vừa xin đi theo vừa đặt điều kiện : “Thưa
Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã”. Chúa
Giê-su nói thẳng cho anh ta biết thái độ ấy không xứng đáng với nước Thiên Chúa.
Muốn đi theo Chúa mà còn quyến luyến cha mẹ hơn Chúa thì khác nào kẻ đã cầm cày
mà còn ngoái cổ lại đàng sau. Cầm cày thì phải nhìn về phía trước mới cày được,
muốn theo Chúa thì không được quyến luyến bất cứ cái gì khác, kể cả cha mẹ.
Thánh Lu-ca không cho biết hồi kết của ba người trên đây như thế nào, họ có đi
theo Chúa không, bởi vì ngài chỉ cố ý trình bày những đòi hỏi của việc đi theo
Chúa mà thôi, và để cho mỗi người tự quyết định. Ba mẩu đối thoại này cho chúng
ta biết : muốn theo Chúa Giê-su thì phải chấp nhận đồng số phận với Ngài, không
có gì bảo đảm cho mình ở trần gian, phải coi nhiệm vụ rao giảng nước trời hơn cả
việc chôn táng cha mẹ cũng như việc tỏ lòng quyến luyến cha mẹ.
Chúa Giê-su đòi hỏi như vậy có nghịch lý không ? Muốn đi theo Chúa, phải từ bỏ
hết, phải từ bỏ tất cả, nghĩa là phải coi Chúa hơn hết tất cả mọi người, hơn hết
tất cả mọi sự và tin vào một mình Chúa thôi. Điều kiện này có khó quá không ? Dĩ
nhiên là khó, nhưng không phải là không thực hiện được, bằng chứng là các tông
đồ Chúa đã kêu gọi, các ông đã mau mắn dứt khoát đi theo Chúa, dù phải bỏ gia
đình, cha mẹ, vợ con, nghề nghiệp, của cải. Tiếp theo các tông đồ, từ xưa cho
đến nay, biết bao người đã sống đời tận hiến, bước đi theo Chúa trong ơn gọi
linh mục, tu sĩ, dâng hiến cả cuộc đời cho Chúa và tha nhân. Có biết bao người
đã sẵn sàng chịu đau khổ, thử thách và hy sinh cả mạng sống vì danh Chúa như các
vị tử đạo.
Có lẽ có người cho rằng : những điều trên đây Chúa chỉ dạy riêng cho những người
đi tu mà thôi. Nghĩ thế cũng đúng, nhưng những lời Chúa dạy đây không phải là
không áp dụng được cho mọi người. Bởi vì với mỗi người, Chúa cũng đòi hỏi phải
từ bỏ. Không phải từ bỏ để đi theo Chúa theo nghĩa là bỏ gia đình, bỏ mọi sự để
đi làm tông đồ cho Chúa, tức là phải từ bỏ của cải, cha mẹ, gia đình, nghề
nghiệp, nhưng trong cuộc sống, chúng ta cũng có nhiều cái, nhiều thứ, và nhiều
lần phải từ bỏ.
Chúng ta hãy suy nghĩ : hiện giờ chúng ta phải từ bỏ những gì ? Từ bỏ đời sống
tội lỗi, từ bỏ những hành động gương mù gương xấu, từ bỏ những giao du bất
chính, từ bỏ những bạn bè nguy hiểm, từ bỏ rượu chè, cờ bạc, một thói quen, một
đam mê xấu, từ bỏ những ý nghĩ sai trái, từ bỏ những lời nói chua cay, ác độc,
tục tĩu, từ bỏ những việc làm lỗi công bằng và yêu thương… có nhiều điều chúng
ta phải từ bỏ.
Tóm lại, trong đời sống thường ngày, người Ki-tô bị giằng co giữa một bên là
tình cảm gia đình, bên kia là đòi hỏi của Thiên Chúa; hoặc một bên là quyến rũ
của tiền tài danh vọng, sống buông thả, một bên là sự trung thành với lý tưởng
Ki-tô giáo. Trong những trường hợp giằng co như vậy, chúng ta sẽ chọn thế nào và
phải làm gì ? Bài Tin Mừng hôm nay soi sáng và hướng dẫn chúng ta hãy chọn đúng
và thực hành đúng.
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
CON ĐƯỜNG TU ĐỨC
Thời buổi này, mọi nhận xét tình hình đều nên để ý.
Theo nhận xét của nhiều người, thì từ nhiều tháng nay, tại Hội Thánh Việt Nam đang hình thành 3 con đường mang tên sống đạo.
Một là con đường sống đạo chủ yếu tập trung vào yêu thương phục vụ đích thực, xuất phát từ đời sống nội tâm.
Hai là con đường sống đạo nổi về đấu tranh gay gắt nhân danh Chúa. Thắng cho mình, chống bên nọ, bôi lọ bên đó, triệt hạ bên kia.
Ba là con đường sống đạo dồn sức vào việc bung ra các hình thức phát triển mới, trong đó có phát triển các lối sống nặng về cá nhân chủ nghĩa, hình thức, hướng ngoại và hiếu động.
Con đường nào cũng có người theo. Mỗi người đi theo con đường đều có lý do biện minh cho lựa chọn của mình.
Theo tôi, lý do thầm kín nhất trong chọn lựa bao giờ cũng là niềm khát vọng.
Riêng trong những người tin theo Chúa thực sự, thì khát vọng chính đáng của hành trình cuộc đời là được về với Cha trên trời. Suốt hành trình cuộc đời của họ đều được chi phối bởi khát vọng về với Cha.
Để đạt được niềm khao khát đó, họ phải đi đúng đường.
Đường chắc chắn đúng là con đường nào ? Thưa là khao khát việc mến Chúa thương người theo thánh ý Chúa.
Hôm nay, tôi xin chia sẻ đôi chút về khát vọng của những người như thế, trong đó có tôi. Điều tôi muốn nhấn mạnh là khát vọng đó rất quan trọng cần phải tỉnh thức canh chừng.
11. Tầm quan trọng của khát vọng mến Chúa thương người.
Phúc Âm Thánh Matthêu viết : “ Đức Giêsu dạy : Ngươi phải mến yêu Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Đó là điều răn thứ nhất và là điều răn đúng đắn. Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là : Ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình” ( Mt 22, 37- 39).
Ai là người thân cận, thì Chúa Giêsu đã giải thích bằng dụ ngôn người Samaritanô tốt lành. Theo đó, người thân cận là người cân đến lòng thương xót của ta. Ta thương họ, là ta trở thành thân cận với họ. ( x Lc 10, 29-37).
Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã tha thiết trối lại điều răn yêu thương : “Thầy ban cho các con một điều răn mới là hãy yêu thương nhau. Chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con thương yêu nhau” ( Ga 13, 34 -35).
Trong thư gửi giáo đoàn Côrintô, thánh Phaolô quả quyết : “Giá như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có yêu thương, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” ( 1 Cr 13, 3).
Còn bao nhiêu lời khác trong Phúc Âm dạy ta phải coi khát vọng sống đức ái là khát vọng quan trọng ưu tiên. Một đức ái trong sáng, chứ không bị lợi dụng, hoặc chỉ là hình thức.
Tiếp sức với Phúc Âm là các huấn dụ của giáo quyền về sống đạo hôm nay.
B. Giáo quyền khuyên.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi Hội Thánh hôm nay tăng cường niềm tin vào Thiên Chúa giàu lòng thương xót và làm chứng cho niềm tin ấy.
Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI hay nhắn nhủ mọi người hãy trở về với tình yêu thương xót Chúa.
Hội đồng Giám mục Việt Nam đã vạch rõ con đường sống đạo hôm nay là “yêu thương và phục vụ”.
Cùng với những lời truyền của Phúc Âm và những lời khuyên của giáo quyền, chúng ta đang chứng kiến một sùng kính mới trong Hội Thánh Việt Nam, đó là sùng kính Chúa Giêsu giàu lòng thương xót.
Tôi thấy lòng sùng kính Chúa Giêsu giàu lòng thương xót đang lặng lẽ đi vào các gia đình một cách mau lẹ. Lòng sung kính này đốt lên trong nhiều người ngọn lửa tin yêu phó thác vào Chúa. Ngọn lửa ấy đã biến đổi nhiều người nên những tạo vật mới. Họ rất mong mọi người nếm được sự ngọt ngào của tình yêu Chúa, như họ đã từng cảm nghiệm. Họ đã chia sẻ kinh nghiệm nội tâm của họ cho nhiều người chưa biết Chúa. Kết quả là những người này đã tình nguyện nhân danh Chúa là Cha. Rồi đến lượt những người này, họ lại đi kể lại cho nhiều người những gì Chúa đã làm cho họ.
Qua kinh nghiệm và xác tín, tôi coi khát vọng yêu thương chân chính là quan trọng nhất.Yêu thương làm nên chân dung con người. Yêu thương làm nên đẳng cấp của con người trong bậc thang giá trị.
Để khát khao mến Chúa thương người trở thành một con đường tu đức chắc chắn dẫn về với Cha, chúng ta cần cảnh giác. Tôi chỉ xin nhắc sơ qua vài điều.
III. Vài cảnh giác về khao khát mến Chúa thương người.
Điều thiết tưởng nên cảnh giác đầu tiên là :
Yêu thương thêm mãi, yêu thương xa mãi, đó là khát vọng âm thầm, do Trái tim Chúa Giêsu bị thương tích vì yêu đã dạy ta. Ta sẽ vâng lời, đốt khát vọng đó trong ta theo gương Chúa, để khôn ngoan điều chỉnh lối sống của ta. Cũng nên nhớ rằng : Yêu thương phục vụ vì Chúa nhiều khi được trả đáp bằng những vô ơn và hiểu lầm. Xin Chúa cho ta biết chấp nhận đau đớn ấy, theo gương Đấng Cứu Thế.
Chúng ta yếu đuối lắm, dễ có những thiếu sót lỗi lầm trong đời sống đạo, nhất là trong bổn phận yêu thương phục vụ. Vì thế, chúng ta cần khiêm tốn cầu nguyện và biết quý trọng mọi đỡ nâng Chúa gởi ta, bất cứ từ trong Hội Thánh hay ngoài Hội Thánh. Xưa, chính Đấng Cứu Thế cũng đã vui mừng đón nhận biết bao nâng đỡ đến từ “dân ngoại” và từ những thân phận hèn mọn nhất trong đạo.
Chia sẽ trên đây nhắc nhở cho ta thấy: vai trò của những khát vọng là rất quan trọng, cần phải chọn lựa, kiểm tra, cảnh giác.
Ai rồi cũng phải chết. Chúa sẽ phát xét ta về những khát vọng. Trong lúc bất ngờ, Chúa sẽ đến. Người sẽ hỏi ta : “Đời con được chi phối bởi khát vọng nào mạnh nhất ! ” không ?
Ta không lừa dối được Chúa đâu. Nói đúng ra, bản quyết định thưởng phạt là do chính mỗi người viết ra ký vào, chính khi mình còn sống.
ĐGM GB. Bùi Tuần
HIỆP THÔNG GIÁO HỘI
Sydney, ngày 27/6/2007 (Zenit) – Tính cho tới hôm nay, đã có hơn 2000 nhóm với tổng cộng hơn 120.000 bạn trẻ đã ghi danh về tham dự Giới Trẻ Thế Giới 2008 được tổ chức tại Sydney.
Ban tổ chức thông báo cho biết: mặc dù còn hơn một năm nữa, việc ghi danh các
nhóm trẻ ngoài châu Úc tham dự Ngày Giới Trẻ Thế Giới năm 2008 tại Sydney đã ghi
danh thật đông đảo, nên con số dự tính lúc đầu là 125.000 bạn trẻ tham dự chắc
chắn sẽ vượt qua.
Ông Danny Casey, giám đốc văn phòng điều hợp đã cho biết: “ Tính cho tới thời
điểm hôm nay, đã có tổng cộng hơn 100.000 bạn trẻ ngoại quốc đã ghi danh về tham
dự Ngày Giới Trẻ Thế Giới 2008 được tổ chức tại Sydney”.
Dẫn đầu là nhóm trẻ Hoa kỳ đã ghi danh tổng cộng là 30.400, tiếp đến là Úc châu
với 22.900, Ý với 15.400 và Đức 8.000 bạn trẻ. Tiếp theo là các nhóm trẻ thuộc
các nước Tân Tây Lan, Pháp, Tây Ba Nha, Ấn độ, Venezuela, quần đảo Fiji, Nigeria
và Mexicô.
“Chúng tôi hy vọng rằng con số các bạn trẻ Úc Châu ghi danh tham dự sẽ càng ngày
càng tăng thêm nhiều hơn khi gần ngày Đại Hội”.
Ngày Giới Trẻ Thế Giới 2008 sẽ diễn ra từ ngày 15 đến 20/8/2008 và vào dịp này,
Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI sẽ lần đầu tiên đến viếng thăm mục vụ Úc Châu và
chủ tọa Đại Hội này.
Đề tài bản nhạc Ngày Giới Trẻ Thế Giới 2008 “Hãy nhận lấy thần lực” đã được nhạc
sĩ Guy Sebastian sáng tác và sẽ được chính thức phát hành vào Chúa Nhật mùng
1/7/2007, trùng với ngày mà Thánh Giá và bức ảnh Đức Bà đến Úc châu.
Vào ngày 19/6 vừa qua, thủ tướng Helen Clark và các dân biểu quốc hội, nhiều
sinh viên và dân chúng thuộc đủ mọi lứa tuổi, đã chào đón Thánh Giá Đại Hội vá
Bức Ảnh Đức Bà đến Tân Tây Lan. Quả thực là một biến cố tràn đầy niềm vui tươi
trẻ đầy nhiệt huyết”.
Hạn chót ghi danh dành cho các cá nhân được ấn định vào tháng tới.
Lm. Stêphanô Bùi Thượng Lưu
Vatican (Vat. 26/06/2007) - Ngày 26 tháng 6 năm 2007, ÐTC Beneđitô XVI đã ban hành Tự Sắc, trong đó có điều qui định rằng: Kể từ nay để được đắc cử Giáo Hoàng luôn luôn phải đạt được 2 phần 3 số phiếu của các hồng y cử tri hiện diện trong cuộc bầu phiếu.
Tự sắc đã được Ðức Thánh Cha Beneđitô XVI ký ngày 11 tháng 6 năm 2007 và được công bố vào ngày 26 tháng 6 năm 2007, trong đó ngài tái lập qui luật truyền thống luôn luôn đòi phải có 2 phần 3 số phiếu của các Hồng y cử tri hiện diện thì mới đắc cử Giáo Hoàng.
Tự sắc này thay thế cho quy định của Ðức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trước đây. Trong đoạn số 75 của Tông hiến "Universi Dominici Gregis" (Chủ chăn của toàn thể đoàn chiên Chúa), ban hành năm 1996, Ðức Gioan Phaolô II qui định rằng sau lần bỏ phiếu thứ 34, nếu không có ứng viên nào đạt được 2 phần 3 số phiếu của các các hồng y cử tri hiện diện, thì kể từ lần bỏ phiếu thứ 35, chỉ cần đạt được đa số quá bán (nghĩa là hơn 1 phần 2 số phiếu) là đắc cử. Nhưng nay, ÐTC Beneđitô XVI thay đổi khoản luật này. Cả trong trường hợp mật nghị hồng y quyết định bầu trong số 2 ứng viên được phiếu nhiều nhất, thì vẫn đòi phải có 2 phần 3 số phiếu mới có thể đắc cử, và trong trường hợp đó, 2 Hồng y ứng viên đó không được bỏ phiếu.
Sau cùng, ÐTC qui định rằng qui định mới này bắt đầu có hiệu lực từ ngay khi Tự Sắc được công bố trên báo Quan sát viên Roma của Tòa Thánh (số ra ngày 26-6-2007 nhưng đề ngày 27-6-2007).
Linh Mục Federico Lombardi S.J, Giám đốc Phòng Báo chí Tòa thánh giải thích rằng quy định mới do ÐTC ban hành, nhắm bảo đảm sự đồng thuận tối đa trong việc bầu vị Giáo Hoàng mới.
Tự Sắc của ÐTC Beneđitô XVI cũng nhắc lại sự kiện sau khi Ðức Gioan Phaolô II ban hành Tự sắc năm 1996 về việc bầu Giáo Hoàng, đã có nhiều đơn thỉnh nguyện xin ngài tái lập qui định truyền thống luôn đòi phải có 2 phần 3 số phiếu của các Hồng y cử tri hiện diện mới có thể đắc cử Giáo Hoàng.
Ðược biết, mật viện các hồng y sẽ được triệu tập để bầu một vị tân Giáo Hoàng sau khi vị đương kim Giáo Hoàng qua đời. Ðức cố Giáo Hoàng Phaolô VI đã ban bố những quy định vào năm 1975, quy định rằng chỉ những vị Hồng Y nào dưới 80 tuổi mới được vào mật viện để bầu giáo hoàng.
Joseph Trương
Ngày 15-6-2007 tòa án đặc biệt hỗn hợp quốc tế Campuchia dã bắt đầu chính
thức hoạt động, sau khi thông qua nội quy liên quan tới việc xét xử các người có
trách nhiệm đối với cuộc diệt chủng dưới thời Pol Pot, khiến cho hơn 2 triệu
người dân Campuchia bị sát hại, tức chiếm một phần tư tổng số dân hồi đó.
Trong thập niên 1960, Pol Pot, lãnh tụ Khmer Đỏ, chủ trương chiến tranh du kích
và thành công trong việc quy tụ những người theo ý thức hệ cộng sản chủ trương
ái quốc qúa khích nhằm loại bỏ các thành phần trí thức ngoại lai tân tiến để
thành lập một nước Campuchia Dân Chủ quốc gia và nông nghiệp.
Người ta còn nhớ sáng ngày 17-4-1975 quân Khmer Đỏ tiến vào thủ đô Pnom
Penh, giữa tiếng hoan hô và reo vui của dân chúng. Mọi người vui mừng hy vọng giờ đây không còn nội chiến nữa, cuộc sống của họ sẽ được ấm no và an vui thịnh vượng. Nhưng họ lầm. Ngay buổi chiều hôm ấy, lãnh tụ Pol Pot ra lệnh cho mọi người phải rời bỏ thủ đô đi về các tỉnh lẻ và đồng quê. Trong chốc lát hàng trăm ngàn người đã phải vội vã bồng bế nhau di cư và không bao giờ trở lại nữa: lớp thì bị hạ sát trên đường đi, lớp thì chết vì lao động mệt nhọc và đói khát, bệnh tật, hay bị bắn hạ ngoài ruộng lúa, lớp khác nữa thì chết trong các trại cải tạo vì bị tra tấn và xử tử. Họ bị giết vì bất cứ lý do gì, và thường khi cũng không có lý do gì chính đáng, và chỉ vì sự giận dữ của quân Khmer Đỏ có con tim chai cứng và đần độn vì bị nhồi sọ.
Đường lối
cai trị sắt máu của Pol Pot muốn thanh tẩy nước Campuchia Dân Chủ khỏi tất cả
mọi thành phần trí thức, người ngoại quốc và tân tiến văn minh, để bắt đầu một
xã hội mới, chủ yếu dựa trên nông nghiệp.
Bao nhiêu năm chiến tranh và bị nhồi sọ đã khiến cho binh sĩ Khmer Đỏ có con tim
chai cứng và đầu óc mù quáng, chỉ biết thi hành lệnh trên mà không còn biết sử
dụng lý trí nữa.
Vì phải tiêu diệt thành phần trí thức, nên tất cả những ai đeo kính trắng đều bị họ cho là thành phần trí thức, vì thế bị bắn hạ ngay tại bất cứ nơi đâu. Trong hai năm cai trị sắt máu Pol Pot và quân Khmer Đỏ đã sát hại hơn 2 triệu người đồng hương. Xương chất thành núi máu chảy thành sông, dọc theo các bờ ruộng khắp nước.
Cuộc diệt chủng dã man đó đã được dựng lại trong cuốn phim tựa đề ”Tiếng thét của thinh lặng” do nhà đạo diễn Roland Joffré thực hiện và cho trình chiếu năm 1984, kể lại các ngày quân Khmer Đỏ chiếm đóng và cầm quyền tại thủ đô Pnom Penh, với chứng từ của nhà báo Sidney Shanberg, phóng viên chiến trường Campuchia của tờ ”Nữu Ước thời báo”.
Nhà báo
Shanberg đã được gửi qua Campuchia năm 1972 để theo dõi và tường thuật cuộc nội
chiến giữa quân đội chính phủ do tướng Lon Nol chỉ huy và lực lượng Khmer Đỏ của
Pol Pot. Anh làm bạn với Dith Pran, là người dẫn đường và là thông dịch viên. Cả
hai đã thực hiện nhiều bài phóng sự về tình hình chiến tranh du kích và các làn
sóng bạo lực, sẽ dẫn đưa tới chỗ điên loạn ý thức hệ gây ra cuộc diệt chủng.
Năm 1975 khi quân Khmer Đỏ lên nắm chính quyền, mọi người Mỹ đã phải bỏ trốn.
Shanberg cũng đã trốn thoát và trở về Hoa Kỳ nhờ sự trợ giúp của Pran. Nhưng
Pran bị nhốt vào trại lao động và phải sống trong các hoàn cảnh vô cùng thê
thảm. Nhà báo Shanberg được giải thưởng báo chí Pulitzer vì các bài phóng sự
trong bao nhiêu năm, sau đó tìm kiếm anh bạn của mình và chỉ vào năm 1979 hai
người mới gặp nhau. Cuốn phim dựa trên câu chuyện thật của cả hai nhân vật và là
một lời tố cáo mạnh mẽ chống lại chính sách cai trị man rợ của Khmer Đỏ, cũng
như chống lại các hậu qủa cuộc giải giáp của Việt Nam và trách nhiệm đường lối
chính trị của tổng thống Richard Nixon.
Trong các năm từ 1979 đến 1989 sau khi đánh chiếm Campuchia, Việt Nam kiểm soát nước này và đem lại một nền hòa bình tạm bợ cho một phần lớn lãnh thổ Campuchia. Trong khi các lực lượng Khmer Đỏ rút lui về các vùng biên giới giáp Thái Lan và tiếp tục chiến tranh du kích đẫm máu, nhằm tái chiếm quyền hành chính trị và kiểm soát các mỏ đá qúy và lâm sản. Nhưng sau đó Liên Hiệp Quốc đã gửi quân đội Bảo Hòa đến Campuchia bắt đầu việc giải giáp các lực lượng Khmer Đỏ và thành lập chính quyền lâm thời đa đảng.
Tháng 5 năm 1993 trong cuộc bầu cử có sự giám sát của Liên Hiệp Quốc đảng quân chủ Funcinpec, do hoàng tử Ranarith I, con hoàng thân Norodom Sihanuk, lãnh đạo đã thắng cử. Quân Khmer Đỏ tuy thất bại, nhưng đã không thừa nhận kết qủa cuộc bầu cử và tiếp tục chiến tranh du kích dẫn đưa tới các rạn nứt giữa hàng ngũ Khmer Đỏ. Trong cuộc bầu cử năm 1998 có nhiều hỗn loạn và bạo lực, nhóm Khmer do Hunsen lãnh đạo, đã lên nắm quyền và tiếp tục cầm quyền cho tới nay.
Trước đó Pol Pot đã bị chính các đồng chí của mình bắt tù và đã chết trong tình trạng bệnh hoạn giữa rừng sâu năm 1998. Cái chết của ông cũng chấm dứt số phận của lực lượng Khmer Đỏ. Các nhóm chiến đấu cuối cùng buông súng đầu hàng, chấm dứt một giai đoạn tang tóc thương đau cho nhân dân và đất nước Campuchia.
Tòa án hỗn hợp quốc tế Campuchia nói trên đã là kết qủa của nhiều cố gắng cân bằng tế nhị: cộng đồng quốc tế đã muốn nó được thành lập từ lâu, nhưng đã luôn luôn bị chính quyền Campuchia tẩy chay trong nhiều năm trời. Lý do là vì nhiều thành phần trong chính quyền, kể từ ông Hunsen trở xuống, là cựu Khmer Đỏ, đã ít nhiều dính líu tới vụ tiêu diệt hơn 2 triệu người dân Campuchia, và họ muốn mọi người quên đi qúa khứ, để khỏi bị lôi ra xét xử.
Cho tới
cách đây mấy tháng chính hoàng thân Norodom Sihanuk và nhiều giới chức chính trị
Pnom Penh đã bầy tỏ nghi ngờ đối với việc tòa án có thể xét xử một ít thủ phạm
còn sót lại, già nua và bệnh hoạn. Cùng lắm tòa án sẽ chỉ có thể đưa ra trước
vành móng ngựa khoảng 50 lãnh tụ các cấp của Khmer Đỏ, trong khi họ đã là một
lực lượng gồm cả ngàn người tuân hành lệnh của Ủy Ban lãnh đạo trung ương gồm 20
lãnh tụ, dưới quyền chỉ huy của Pol Pot. Văn khố của tổ chức mật vụ Santebal của
Khmer Đỏ lưu giữ tài liệu dài hàng trăm ngàn trang, liên quan tới các quyết định
của giới lãnh đạo Khmer Đỏ.
Ông Chea Muoy Kry giám đốc chương trình hòa giải quốc gia của tổ chức bác ái
công giáo Campuchia cho rằng tòa án có ý nghĩa, vì nó giúp giới trẻ hiểu biết sự
thật, và không bị các cựu Khmer Đỏ lừa đảo không tin là đã xảy ra cuộc diệt
chủng kinh hoàng.
Trong số các chứng nhân của cuộc diệt chủng có ông Vann Nath, họa sĩ 62 tuổi. Ngày mùng 6 tháng 2 năm nay ông đã lãnh giải thướng Hellmann-Hammett tại New York, vì lòng can đảm trước làn sóng bách hại kinh hoàng của Khmer Đỏ. Ông là một trong số 14 người sống sót trên 14.000 bị nhốt và bị sát hại trong trường học Tuoi Sleng. Ông sống sót vì không thuộc hàng trí thức, nhưng nhất là vì các bức tranh vẽ chân dung Pol Pot, mà quân Khmer Đỏ đã yêu cầu ông vẽ, khi biết ông là họa sĩ. Các bức tranh đó hiện được trưng bầy tại trường Tuoi Sleng. Năm 1998 ông cũng cho ra cuốn hồi ký tựa đề: ”Chân dung một nhà tù: Một năm trong trại S-21 của Khmer Đỏ” kể lại kinh nghiệm của ông.
Trong tình hình hiện nay, tuy là một cộng đoàn bé nhỏ chỉ gồm 23 ngàn người trên tổng số 13 triệu dân, Giáo Hội Công Giáo có vai trò rất quan trọng trong công tác hòa giải và chữa lành các vết thương qúa khứ. Bên cạnh ký ức về thảm cảnh diệt chủng, Campuchia hiện đang phải đương đầu với nhiều tệ nạn khác như: gian tham hối lộ, các xì-căng-đan của hàng lãnh đạo chính trị, nạn mại dâm trẻ em, nạn lạm dụng tính dục trẻ em, bệnh liệt kháng và nạn nghiện ngập ma túy. Đó là các lãnh vực Giáo Hội Công Giáo đang mạnh mẽ dấn thân giúp cải tiến. Giáo Hội cũng trợ giúp một tay trong công tác tháo gỡ mìn, tái thiết các cộng đoàn đồng quê, trợ giúp người tàn tật và trẻ mồ côi. Tuy nhiên không phải chỉ có thế, Giáo Hội cũng chia sẻ kinh nghiệm đớn đau qúa khứ và ký ức thê thảm, do người Khmer Đỏ gây ra cho quốc gia.
Đức Cha Enrique Figaredo, dòng Tên, Giám Quản tông tòa Battambang, cho biết việc thảo luận liên quan tới tòa án hình sự quốc tế khiến cho người ta có nguy cơ lạc xa các vấn đề đích thật cần giải quyết. Việc hòa giải thực sự chỉ có thể thực hiện được, khi các gia đình có thể gửi con cái họ tới trường, có công ăn việc làm, có đất đai để canh tác, được săn sóc sức khỏe, được giáo dục, được hưởng công lý, các quyền căn bản được tôn trọng vv...
Cộng đoàn công giáo Campuchia tuy bé nhỏ nhưng đã có lịch sử dài 450 năm và đã góp phần xây dựng quốc gia qua các trường học, các cơ sở y tế, phát triển, các trung tâm văn hóa và thăng tiến con người. Và vì thế Giáo Hội có tiếng nói giữa lòng xã hội và được người dân trân trọng qúy mến.
Tưởng cũng nên ghi nhận rằng từ năm 1990 đến nay đã có khoảng 2.000 cựu binh sĩ Khmer Đỏ xin theo đạo Công Giáo. Tại Campuchia Phật giáo là quốc giáo, nhưng Hiến pháp thừa nhận quyền tự do tôn giáo. Như thế các tín hữu kitô có cơ may làm chứng cho Tin Mừng yêu thương, hòa giải và canh tân trong một vùng đất đã ngập máu của tàn sát và thù hận.
(Avvenire 17-6-2007)
Linh Tiến Khải
Các bạn trẻ rất thân mến,
Cha cám ơn chúng con vì đã đón tiếp Cha hết sức nồng nhiệt như thế này; Cha nhìn thấy nơi chúng con Ðức Tin và niềm vui được làm người công giáo. Cha cám ơn chúng con vì những lời mộ mến và vì những câu hỏi quan trọng mà những đại diện của chúng con đã đặt ra cho Cha. Cha hy vọng là sẽ trả lời được chút gì đó cho chúng con, trong cuộc trao đổi này; đây là những câu hỏi liên quan đến cuộc sống chúng con... Cha không thể trả lời đầy đủ, nhưng sẽ trả lời phần nào những thắc mắc này....
Các bạn trẻ thân mến, chúng con biết rõ lý do đưa Cha đến Assisi; đó là ước muốn sống lại con đường nội tâm của Thánh Phanxicô, nhân dịp kỷ niệm 800 năm cuộc trở lại của ngài. Giây phút này của cuộc hành hương của Cha có một ý nghĩa đặc biệt. Cha đã xem giây phút gặp gỡ này như là chóp đỉnh của ngày viếng thăm hôm nay tại Assisi. Thánh Phanxicô nói với tất cả mọi người, nhưng Cha biết rằng ngài đặc biệt thu hút những người trẻ chúng con. Sự hiện diện đông đảo chúng con nơi đây, và những câu hỏi chúng con đặt ra cho Cha, là một bằng chứng. Thánh Nhân đã trở lại, trong lúc ngài còn trong độ tuổi trẻ đầy sức sống, tràn trề kinh nghiệm và đầy ước mơ. Ngài đã được 25 tuổi, nhưng chưa biết được đầy đủ ý nghĩa cuộc sống. Vài tháng trước khi qua đời, ngài nhớ lại thời gian này như là thời gian "sống trong tội lỗi." (x. 2 Test1: FF110).
Vậy Thánh Phanxicô muốn nói gì, khi ngài nhắc đến "tội lỗi"? Theo những bản viết về cuộc đời của Thánh nhân, --- và mỗi bản có một mục tiêu riêng, --- thì quả thật là khó để xác định thánh Phanxicô muốn nói gì qua hai chữ "tội lỗi". Một mô tả đúng về nếp sống của ngài, được gặp thấy nơi giai thoại về ba người bạn đồng hành, như sau: "Thánh Phanxicô sống thật vui và quảng đại, ham thích các trò chơi và những bài hát; ngài đi khắp cùng thành phố Assisi ngày đêm, với những bạn bè cùng sở thích, và hết sức quảng đại trong việc chi tiêu để phân phát tất cả những gì mình có hay làm ra, qua các bữa ăn và những điều khác nữa" (3 comp 1,2: FF1396). Thử hỏi chúng ta không nói được như thế cho nhiều người trẻ ngày nay hay sao? Ngày nay, có khả thể đi vui chơi xa, ra khỏi nơi mình sinh sống. Những sáng kiến du ngoạn cuối tuần đang thu hút nhiều người trẻ. Người ta cũng có thể "đi chơi khắp nơi" trong "thế giới ảo" qua phương tiện internet, tìm đến với những thông tin và những gặp gỡ đủ loại. Nhưng buồn thay không thiếu ---- mà có lẽ còn có thật nhiều nữa! --- (không thiếu những bạn trẻ) đi tìm những cảnh "ảo" vô bổ và có hại trong những "địa đàng" giả tạo của thuốc phiện. Chúng ta không thể nào chối được rằng có nhiều người trẻ, --- và không phải chỉ có người trẻ mà thôi! --- đã cố gắng bắt chước sống như Phanxicô đã sống trước lúc trở lại! Trong cách sống như thế, có tiềm ẩn một ước muốn hạnh phúc nằm trong mọi con tim con người. Nhưng thử hỏi một cuộc sống như thế có thể mang lại niềm vui thật hay không? Phanxicô chắc chắn đã không gặp được hạnh phúc! Các bạn trẻ chúng con thân mến, chúng con có thể kiểm chứng điều này nhờ qua kinh nghiệm chúng con. Sự thật là những điều hữu hạn không thể mang đến niềm vui thật, nhưng chỉ Ðấng Vô Cùng mới có thể lắp đầy tâm hồn con người. Thánh Agostinô, một vị trở lại thời danh, đã nói như sau: "Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên tâm hồn con luôn thao thức, cho đến khi được nghỉ yên nơi Chúa!" (Conf. 1,1).
Cùng tập tiểu sử nói trên cho biết rằng Phanxicô đã có thái độ sống khoe trương. Thanh niên Phanxicô thích đặt may cho mình những bộ quần áo sang trọng và mưu tìm sự lập dị (x. 3 Comp 1,2: FF 1396). Trong sự khoe trương, trong việc tìm kiếm cái lập dị, có tiềm ẩn điều gì đó, mà tất cả chúng ta, --- cách nào đó, --- đều mang lấy. Ngày nay người ta có thể nói rằng đó là "việc chăm sóc cho dung mạo" của mình, hoặc "việc đi tìm dung mạo của mình". Ðể có thể đạt được chút nào đó sự thành công, chúng ta cần "khoe" mình trước mắt kẻ khác về điều gì đó chưa từng có, một cái gì đó lập dị một chút. Trong mức độ nào đó, điều nầy có thể nói lên ước muốn được "kẻ khác chấp nhận". Nhưng thường thì có xen vào đó sự kiêu ngạo, sự mưu tìm thái quá về chính mình, sự ích kỷ và ước muốn thổi phồng. Thật vậy, việc hướng cuộc đời về chính mình là một "bẩy sập" chết người: chúng ta chỉ có thể là chính mình, nếu chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận tình thương, để yêu thương Thiên Chúa và anh chị em chúng ta.
Một khía cạnh khác nữa đã gây ấn tượng nơi những người đồng thời với Phanxicô, là tham vọng của ngài, là khao khát vinh quang và phiêu lưu. Chính điều này đã đưa Phanxicô vào chiến trường, và cuối cùng bị bắt làm tù binh trong vòng một năm, tại Perugia. Chính khao khát vinh quang này, --- sau khi được trả tự do, --- đã đưa Phanxicô lên vùng Puglie, trong chiến trận mới; nhưng chính trong hoàn cảnh này, tại Spoleto, Chúa đến với tâm hồn Phanxicô, thôi thúc Phanxicô ăn năn trở lại và nghiêm chỉnh lắng nghe Lời Chúa. Ðiều lạ lùng đáng lưu ý nơi đây là cách Thiên Chúa đã lôi léo Phanxicô, dựa theo năng hướng của con người Phanxicô, năng hướng muốn xác định chính mình, để đi trên con đường của một "tham vọng thánh thiện", hướng về cõi vô cùng. Câu hỏi mà Phanxicô dường như nghe vang lên trong tâm hồn mình lúc đó như sau: "Mẫu người nào có ích cho con, người làm chủ hay kẻ nô lệ?" Dường như câu hỏi này muốn nói với Phanxicô rằng: tại sao con bằng lòng với cảnh sống tuỳ thuộc vào con người phàm trần, trong khi có một Vị Thiên Chúa luôn sẵn sàng tiếp nhận con trong nhà Ngài, nhận con theo phục vụ ngài cách vương giả?
Các bạn trẻ thân mến, chúng con đã nhắc Cha nhớ lại vài vấn đề của tuổi trẻ, nhớ lại điều khó khăn chúng con gặp phải để xây dựng tương lai, và nhất là nhớ đến sự cực nhọc chúng con phải chịu để biết được đâu là sự thật. Trong bài tường thuật về cuộc thương khó của Chúa Kitô, chúng ta gặp thấy câu hỏi của quan Philatô như sau: "Sự Thật là gì?" (Gn 18,38). Ðây là câu hỏi của kẻ hoài nghi muốn nói rằng: "Bạn nói là có sự thật, nhưng sự thật là gì?" Và như thế, vì không thể biết sự thật, quan Philatô muốn chúng ta hiểu như sau: hãy hành xử theo cách nào tiện lợi nhất, thành công nhất, và không cần đi tìm sự thật nữa. Quan Philatô sau đó đã kết án tử Chúa Giêsu, bởi vì Ông sống theo chủ thuyết thực tiển, sống tìm thành công và lợi ích cho riêng mình. Ngày nay, cũng có nhiều người nói như sau: "Nhưng sự thật là gì? Chúng ta có thể gặp những "mảnh vụn" sự thật, nhưng chính sự thật thì làm sao có thể gặp được? Quả thật là khó để tin rằng Chúa Giêsu Kitô là sự Sống thật, là "địa bàn" cho đời sống chúng ta. Tuy nhiên, nếu chúng ta bắt đầu sống chỉ do theo những khả thể của giây phút hiện tại mà thôi, sống không dựa theo sự thật, thì chúng ta đánh mất tiêu chuẩn để định hướng và đánh mất nền tảng của nền hoà bình chung; và nền tảng đó không là gì khác hơn là sự thật. Và sự Thật là chính Chúa Kitô. Sự thật của Chúa Kitô được chứng tỏ trong đời sống của các thánh mọi thời đại. Các thánh là những luồng ánh sáng trong lịch sử, để chứng minh rằng: đây là sự sống, đây là con đường sống, đây là sự thật. Vì thế chúng ta hãy có can đảm thưa Vâng với Chúa Giêsu Kitô: "Lạy Chúa, chúng con theo Chúa. Sự thật của Chúa được chứng thực trong đời sống của tất cả các thánh."
Các bạn trẻ thân mến, khi từ Vương Cung Thánh Ðường đến đây, Cha đã nghĩ rằng chỉ một mình Cha nói với chúng con trong vòng một tiếng đồng hồ, thì không tốt chút nào. Vì thế, cha nghĩ rằng đã đến lúc ngưng lại một chút, để chúng con ca hát. Cha biết chúng con đã chuẩn bị nhiều bài hát rồi. Ðây, cha có thể nghe chúng con hát một chút...
Và sau khi nghe các bạn trẻ hát, ÐTC nói tiếp như sau:
Chúng ta nghe lặp lại trong bài hát rằng Thánh Phanxicô đã nghe được tiếng Chúa mời gọi. Ngài đã nghe được trong tâm hồn ngài lời nói của Chúa Kitô. Và thử hỏi điều gì đã xảy ra? Thưa ngài hiểu là ngài phải dấn thân phục vụ anh chị em, nhất là những ai đau khổ nhất. Ðó là mệnh lệnh của cuộc gặp gỡ đầu tiên với Lời mời gọi của Chúa Giêsu. Sáng nay, khi Cha đi thăm địa điểm Rivotorto, Cha đã nhìn vào nơi mà theo truyền thống các người bị bệnh phong cùi quy tựu lại: đó là những kẻ sau hết, những người bị loại ra bên lề xã hội, mà tự nhiên thánh Phanxicô đã cảm thấy ghê tởm. Nhưng rồi, nhờ ân sủng Chúa chạm đến, Thánh Phanxicô mở rộng tâm hồn yêu thương họ. Và ngài làm thế không phải chỉ thuần tuý qua hành động bố thí, nhưng qua việc cụ thể ôm hôn họ, và phục vụ họ. Chính ngài tâm sự sau đó rằng: điều mà trước kia làm cho ngài cảm thấy cay đắng, thì nay trở thành sự "dịu dàng cho linh hồn và thể xác" ngài (2 test 3: FF 110).
Vậy ân sủng Chúa đã bắt đầu nhào nắn Phanxicô. Càng ngày Phanxicô càng có khả năng nhiều hơn, để nhìn vào dung mạo của Chúa Kitô và lắng nghe tiếng Chúa. Chính vào giai đoạn này mà Ðấng chịu đóng đinh trên thập giá --- gọi là Thập Giá của San Damiano --- đã ngỏ lời với Phanxicô và gọi Phanxicô đi thi hành một sứ mạng khó khăn: "Này Phanxicô, con hãy đi sửa lại Nhà Ta, mà như con thấy, đang đổ nát!" (2 Cel I,6,10: FF 593). Sáng nay, khi Cha dừng lại viếng thăm San Damiano, và Vương Cung Thánh Ðường Thánh Chiara, nơi còn đang lưu giữ Cây Thánh Giá nguyên thuỷ đã nói chuyện với Phanxicô, cha đã nhìn vào đôi mắt Chúa Kitô. Ðó là bức hình Chúa Kitô chịu đóng đinh và đã phục sinh, sự sống của Giáo Hội; Chúa Kitô cũng nói trong chúng ta, nếu chúng ta chăm chú lắng nghe, như cách đây 2,000 năm Chúa đã nói với các tông đồ, và cách đây 800 năm nói với Phanxicô. Giáo Hội luôn luôn sống nhờ cuộc gặp gỡ này. Phải, Các bạn trẻ thân mến, chúng ta hãy để cho Chúa Kitô gặp chúng ta! Chúng ta hãy tin tưởng vào Ngài. Chúng ta hãy lắng nghe Lời Ngài! Nơi Ngài, không phải chỉ là một con người có sức thu hút. Chắc hẳn Chúa là con người toàn vẹn, và giống chúng ta trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi (x. Eph 4, 15). Nhưng Ngài còn hơn thế nữa: Thiên Chúa đã nhập thể làm người nơi Chúa Kitô, và do đó là Ðấng cứu rỗi duy nhất, như chính tên gọi của Chúa nói lên như thế; Tên gọi "Giêsu" có nghĩa là "Thiên Chúa Cứu Rỗi". Nhiều người đến Assisi để học cùng thánh Phanxicô bí quyết để nhận ra Chúa Giêsu Kitô và để có cảm nghiệm về Chúa. Ðây là cảm nghiệm của Thánh Phanxicô về Chúa Giêsu, dựa theo tường thuật của quyển tiểu sử đầu tiên về cuộc đời của Phanxicô như sau: "Thánh Phanxicô luôn mang Chúa trong con tim. Chúa Giêsu trên môi miệng, Chúa Giêsu trong tai nghe, Chúa Giêsu trong mắt thấy, Chúa Giêsu trong đôi tay, Chúa Giêsu trong tất cả các chi thể khác... Nhiều khi phải đi đây đó và khi suy niệm hoặc hát lên cho Chúa Giêsu, thánh Phanxicô quên mình đang hành trình và dừng lại để mời tất cả mọi tạo vật hãy chúc tụng Chúa Giêsu! (1 Cel II, 9, 115: FF 115). Như thế, chúng ta thấy rằng sự hiệp thông với Chúa Giêsu mở rộng tâm hồn và đôi mắt để thấy rõ tạo vật.
Cách chung, Thánh Phanxicô là một người say mê yêu mến Chúa Giêsu. Thánh nhân gặp Ngài nơi Lời Chúa, gặp Ngài trong những anh chị em, trong thiên nhiên, nhưng nhất là trong sự hiện diện Thánh Thể. Về việc này, thánh Phanxicô đã viết trong Chúc Thư như sau: "Trong thế gian này, về chính Con Thiên Chúa tối cao, tôi không thấy một cách xác thể điều gì khác hơn là Mình và Máu cực thánh của Người" (2 Test 10: FF113). Mùa Giáng Sinh tại Greccio nói lên nhu cầu chiêm ngắm Chúa trong nhân tính dịu dàng của một em bé (x. 1 Cel I,30, 85-86" FF 469-470). Kinh nghiệm sống tại Verna, nơi thánh Phanxicô được in "Năm Dấu Thánh", cho ta thấy mức độ cao sâu mà thánh Phanxicô đạt được, trong tương quan với Chúa Kitô chịu đóng đinh. Thánh Phanxicô có thể thật sự nói như thánh Phaolô: "Ðối với tôi, sống là Chúa Kitô" (Phil 1,21). Nếu ngài cởi bỏ tất cả mọi sự và chọn lấy sự nghèo hèn, thì lý do của tất cả mọi hành động như vậy không phải là gì khác hơn là Chúa Kitô, và chỉ vì Chúa Kitô mà thôi. Chúa Giêsu là tất cả của ngài; và chỉ Chúa Kitô là đủ cho ngài rồi! Chính vì Thánh Phanxicô là con người của Chúa Kitô, nên ngài cũng là con người của Giáo Hội. Từ Ðấng chịu đóng đinh nơi Thập Giá San Damiano, ngài đã nhận mệnh lệnh đi sửa lại Nhà của Chúa Kitô, là chính Giáo Hội. Giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. có mối tương quan thâm sâu và không thể tháo bỏ được. Ðược mời gọi sửa chữa Giáo Hội, trong sứ mạng của Phanxicô, chắc chắn đòi buộc một điều riêng và đặc biệt. Nhưng đồng thời, trách vụ đó, --- tự căn bản, --- không là gì khác hơn là trách nhiệm mà Chúa Kitô trao cho bất cứ ai lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Với mỗi người chúng ta, Chúa nói: "Con hãy đi và sửa lại Nhà Ta". Tất cả chúng ta, trong mỗi thế hệ, đều được mời gọi đi sửa lại Nhà của Chúa Kitô, tức là Giáo Hội. Và chỉ khi làm như vậy, Giáo Hội mới nên sống động và trở nên đẹp đẻ. Và như chúng ta biết, có rất nhiều cách sửa chữa, nhiều cách xây lên, nhiều cách cất Nhà của Chúa, là Giáo Hội. Người ta xây lên, nhờ qua nhiều ơn gọi khác nhau, từ ơn gọi giáo dân và gia đình cho đến cuộc sống tận hiến đặc biệt, đến ơn gọi linh mục. Ðến đây, Cha muốn nói một lời về ơn gọi linh mục. Thánh Phanxicô, khi là phó tế, chớ không phải là linh mục, đã có lòng hết sức tôn kính đối với các linh mục (x. Cel I, 30,86 : FF 470). Dù ngài biết rằng nơi các thừa tác viên của Thiên Chúa, có biết bao sự nghèo hèn và mỏng dòn, nhưng thánh Phanxicô nhìn họ như là những thừa tác viên của Nhiệm Thể Chúa Kitô, và điều này đủ để làm phát sinh nơi ngài tình yêu thương, sự tôn kính và vâng phục (x. 2 Test 6-10: FF 112-113). Tình thương của Phanxicô đối với các linh mục là một lời mời gọi hãy khám phá vẻ đẹp của ơn gọi linh mục. Ơn gọi này có tầm quan trọng sống chết cho Dân Chúa. Các bạn trẻ thân mến, chúng con hãy yêu thương và biết ơn các linh mục của chúng con. Nếu Chúa phải kêu gọi ai đó trong chúng con đến lãnh lấy thừa tác vụ này, cũng như mời gọi ai đó lãnh nhận hình thức nào đó sống đời tận hiến, thì chúng con đừng do dự nói lời Xin Vâng. Nói lời Xin Vâng không phải là điều dễ làm, nhưng trở nên thừa tác viên của Chúa là điều đẹp đẽ; tiêu hao đời sống cho Chúa, là điều đẹp đẽ!
Thanh niên Phanxicô có lòng mộ mến đầy con thảo đối với vị giám mục của mình; chính trong tay của giám mục, mà Phanxicô, --- sau khi cởi bỏ tất cả mọi sự --- tuyên khấn từ nay sống cuộc đời hoàn toàn tận hiến cho Chúa (x. 1Cel I, 6,15: FF 344). Một cách đặc biệt, Thánh Phanxicô quý trọng sứ mạng của Vị Ðại diện Chúa Kitô, Ðấng mà ngài đem bản Quy Luật đặt dưới quyền và phó thác Hội dòng của mình. Nếu các giáo hoàng, trong dòng lịch sử, đã chứng tỏ biết bao lòng mộ mến đối với Assisi, thì điều này là để đáp lại lòng yêu mến mà Phanxicô đã có đối với Ðức Giáo Hoàng. Các bạn trẻ rất thân mến, Cha rất sung sướng đến đây, theo chân những vị tiền nhiệm, và nhất là theo chân người bạn, Ðức Gioan Phaolô II đáng mến.
Như những vòng tròn đồng tâm, tình thương của Phanxicô đối với Chúa Giêsu, được lan rộng không những trên Giáo Hội, mà trên tất cả mọi sự, được nhìn thấy trong Chúa Kitô và vì Chúa Kitô. Bài ca các Tạo Vật phát sinh từ đây, trong đó cái nhìn dừng lại trên vẻ chiếu sáng của Tạo Vật: từ anh Mặt Trời đến chị Mặt Trăng, từ chị Nước đến anh Lửa. Cái nhìn nội tâm của Phanxicô đã trở thành hết sức trong sáng và sâu sắc đến độ làm nổi bật vẻ đẹp của Ðấng Tạo Hoá trong vẻ đẹp của các tạo vật. Bài ca của anh Mặt Trời, --- trước khi trở thành trang thi ca thật cao độ và trở thành một lời mời gọi tiềm ẩn hãy tôn trọng tạo vật, --- (bài Ca Anh Mặt Trời) là một lời cầu nguyện, một lời chúc tụng hướng về Chúa, hướng đến Ðấng Tạo Hoá của tất cả mọi sự. Theo dấu của sự cầu nguyện, người ta cũng cần nhìn về sự dấn thân của Phanxicô cho hoà bình. Khía cạnh này của cuộc đời Phanxicô là hết sức thời sự, trong một thế giới hết sức cần đến hoà bình, nhưng không thành công tìm ra con đường dẫn đến hoà bình. Thánh Phanxicô đã là con người của hoà bình và là kẻ xày dựng hoà bình. Ngài chứng tỏ điều này, cả trong sự dịu dàng của nếp sống, nhưng không bao giờ im lặng về Ðức Tin của mình, trước những con người có niềm tin khác, như được biểu lộ trong cuộc gặp gỡ của ngài với vị Vua hồi giáo (x. 1 cel I,20,57: FF 422). Nếu ngày nay, cuộc đối thoại liên tôn, nhất là sau công đồng Vaticanô II, đã trở thành kho tàng chung và không thể chối từ của cảm năng kitô, thì thánh Phanxicô có thể giúp chúng ta biết đối thoại đích thật, không rơi vào trong thái độ lãnh đạm đối với sự thật, hoặc trong việc làm giảm bớt lời loan báo kitô của chúng ta... Việc ngài là con người của hoà bình, của bao dung, của đối thoại, luôn phát sinh từ kinh nghiệm về Thiên Chúa Tình Yêu. Lời ngài chào chúc Hoà Bình quả thật là một lời cầu nguyện như sau: "Xin Thiên Chúa ban cho con ơn bình an" (2 Test 23, FF. 121).
Các bạn trẻ thân mến, sự hiện diện đông đảo của chúng con nơi đây nói lên rằng dung mạo của thánh Phanxicô nói lên nhiều điều cho tâm hồn chúng con. Cha sẵn sàng gởi đến chúng con sứ điệp của ngài, nhưng nhất là đời sống và chứng tá của ngài. Ðây là lúc những người trẻ, như thánh Phanxicô xưa, hãy quyết định nghiêm chỉnh và biết bước vào trong tương quan cá nhân với Chúa Giêsu. Ðây là lúc nhìn vào lịch sử của ngàn năm thứ ba vừa bắt đầu, như là lịch sử đang cần đến men Phúc Âm hơn bao giờ hết. Cha xin lặp lại lời mời gọi mà vị tiền nhiệm đáng mến của Cha, Ðức Gioan Phaolo II, thường hay nói, nhất là cho các người trẻ, như thể là lời mời gọi của cha, như sau: "Hãy mở ra mọi cánh cửa cho Chúa Kitô!" Chúng con hãy mở mọi cánh cửa, như thánh Phanxicô đã làm, không lo sợ, không tính toán, không giới hạn. Các bạn trẻ thân mến, chúng con hãy là niềm vui của Cha, như chúng con đã là niềm vui của Ðức Gioan Phaolô II. Từ Vương Cung Thánh Ðường này được dâng hiến cho Ðức Maria của các Thiên Thần, Cha xin hẹn với chúng con sẽ gặp lại nhau vào đầu tháng chín tới này, tại Ngôi Nhà Ðức Mẹ ở Lorêtô, trong cuộc Gặp Gỡ Giới Trẻ Italia. Cha chúc lành cho tất cả chúng con. Cha cám ơn chúng con vì mọi sự, vì đã đến đây, và vì đã cầu nguyện cho Cha.
LM. Đặng Thế Dũng
Ngày 20-6-2007 vừa qua, tại Trung tâm Công giáo số 72/12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3, Tp.HCM đã diễn ra buổi họp Ban thường vụ mở rộng của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Tham dự buổi họp có Đức cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, Đức Hồng y G.B Phạm Minh Mẫn phó chủ tịch, Đức Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt phó Tổng Thư ký thay Đức cha Tổng Thư ký Phêrô Nguyễn Soạn bị đau. Ngoài ra có còn sự hiện diện của Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Phaolô Bùi Văn Đọc, Giuse Vũ Duy Thống, Stêphanô Tri Bửu Thiên, Phêrô Nguyễn Văn Đệ, Giuse Võ Đức Minh, Giuse Châu Ngọc Tri, Giuse Hoàng Văn Tiệm, Antôn Vũ Huy Chương, Phaolô Nguyễn Văn Hoan, Giuse Nguyễn Văn Yến (phụ trách Ban Bác ái Xã hội các giáo phận miền Bắc) và hai cha thư ký Phêrô Phan Xuân Thanh (Huế) và Antôn Nguyễn Ngọc Sơn (Tp.Hồ Chí Minh).
Đúng 8 giờ sáng, sau lời Kinh khai mạc của Đức cha chủ tịch, các Uỷ ban bắt đầu
báo cáo công việc của mình trong 8 tháng qua. Văn phòng Thư ký Hội đồng Giám mục
cũng báo cáo tổng kết các công tác như liên lạc, nghiên cứu, in các bộ sách mới
nhất là Bộ Giáo luật 1983 với phần mục lục phân tích chủ đề rất công phu dành
cho mọi thành phần dân Chúa.
Sau phần báo cáo tổng kết, Đức cha Giuse Vũ Duy Thống trình bày phác thảo bố cục nội dung Thư Chung 2008 với chủ đề “Giáo dục Kitô giáo”..
Hội nghị cũng bàn việc chuẩn bị cho Đại hội Thường niên của Hội đồng Giám mục
Việt Nam sẽ được tổ chức ở Hà Nội từ ngày 08-12/10 với những nội dung quan
trọng:
- Bầu lại nhân sự Ban Thường Vụ và các Uỷ ban.
- Bàn về mối tương quan giữa các Hội đồng Giám mục, nhất là các Hội đồng Giám
mục trong vùng Đông Nam Á và dự tính mời đại biểu Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ sang
thăm Việt Nam.
- Bàn cơ cấu Hội đồng Giám mục: hoàn thiện Quy chế Hội đồng Giám mục và tìm ra
một Tổng thư ký không phải là Giám mục để có nhiều thời gian, toàn tâm toàn ý
điều hành công việc. Bên cạnh đó chuẩn bị tìm phát ngôn viên chính thức của Hội
đồng Giám mục nhằm tăng cường cho Tổng Văn phòng Thư
ký.
- Bàn về chương trình dài hạn của Hội đồng Giám mục với các dự án La Vang (Huế), Toà Khâm sứ (Hà Nội) và Giáo hoàng viện (Đà Lạt).
- Hội nghị cũng thấy cần lập thêm Uỷ ban Giáo dục chuyên lo về Giáo dục Kitô
giáo cho Hội đồng Giám mục.
- Ban Thường vụ xin Uỷ ban Bác ái Xã hội theo dõi các hoạt động thời sự, tình
hình xã hội để giúp cho Hội đồng Giám mục có thể lên tiếng trước những vấn đề xã
hội.
- Uỷ ban Bác ái Xã hội đang hoàn thành bản thảo và sẽ xuất bản quyển Giáo huấn
Xã hội của Giáo hội Công giáo để giúp cho các linh mục, tu sĩ và giáo dân vấn đề
về xã hội.
- Năm 2010 là năm kỷ niệm 50 năm thành lập hàng giáo phẩm tại Việt Nam. Hội đồng
Giám mục Việt Nam dự tính tổ chức Synode (Công đồng) để tổng kết hoạt động trong
50 năm qua và đề ra bước tiến mới cho Giáo hội Việt Nam. Synode sẽ có sự tham
gia của mọi thành phần Dân Chúa.
- Văn phòng Thư ký giới thiệu với các Giám mục “Kế hoạch phát triển Giáo hội
Việt Nam từ 2008-2010 và mở rộng tới năm 2020 qua các tài liệu nghiên cứu.
- Bên cạnh đó Ban Thường vụ cũng bàn về một số vấn đề khác: vấn đề cha Nguyễn
văn Lý, lập các chương trình kế hoạch đào tạo cho chủng sinh, các thành phần dân
Chúa tham dự trong những hội nghị của Hội đồng Giám mục, vấn đề truyền giáo và
giúp đỡ đồng bào dân tộc thiểu số…
Buổi họp Ban Thường vụ mở rộng kết thúc vào lúc 14 giờ cùng ngày. Sau đó các
Giám mục dùng bữa cơm thân mật tại trung tâm Công giáo.
Nguồn: VPTK/HĐGMVN
BANMETHUỘT -- Ngày 25/6/2007, xứ Vinh Hương hân hoan mừng lễ Kim Khánh 50 thành
lập Giáo xứ Vinh Hương, Giáo hạt Dakmil, Giáo phận Banmêthuột.
Sáng ngày 25 với sự hiện diện của Đức Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Hoà, Giám quản
tông toà giáo phận Banmêthuột và Đức cha Phaolô Maria Cao Đình Thuyên giám mục
giáo phận Vinh, khoảng 40 linh mục trong và ngoài giáo phận cùng với nam nữ tu
sĩ và toàn thể giáo dân Vinh Hương đồng dâng lời cảm tạ qua thánh lễ tạ ơn 50
năm thành lập giáo xứ với chủ đề VUI M ỪNG VÀ HY VỌNG..
Đặc biệt sự hiện của:
- Linh Mục Gioan baotixita Hồ Sĩ Cai (Vị sáng lập giáo xứ)
- Các linh mục tiền nhiệm.
- Linh mục đương nhiệm là cha Phaolô Nguyễn Công Minh.
- Cha quản hạt Andrê Trần Xuân Cương.
Gíáo xứ Vinh Hương cách thành phố Banmêthuột 50 km về hướng Tây-Nam, nói đến xứ
Vinh Hương có lẽ nhiều người biết vì Vinh Hương một miền đất nhỏ năm trên trục
lộ giao thông 14 nối liền tây nguyên với Sài gòn, giáp ranh Cambodia. Chỉ có một
phương tiện để đến Vinh Hương: bằng đường bộ chạy theo quốc lộ 14, từ Sài Gòn -
Daklak đúng 296 km đi khoảng 6 tiếng đồng hồ xe tốc hành khởi từ Sài gòn.
Xứ Vinh Hương được tách từ xứ mẹ Vinh An, Lúc đó giáo xứ Vinh An do Lm Nguyễn
quang Diệu làm chánh xứ, cha phó Hồ sĩ Cai. Ngày 01-08-1957 từ những chuyến xe
G.M.C. cha Gioan Baotixita Hồ Sĩ Cai cùng đoàn người đổ bộ xuống miền đất mới
này gọi là Tư Minh. Khi đó đang thuộc giáo phận Kontum. Thế là một ngôi làng mới
được định hình, bà con đã bắt đầu thích nghi với đời sồng nông nghiệp miền núi.
Nhu cầu cấp bách lúc bấy giờ là đời sống đức tin, được sự đồng ý của ĐGM (Đức
Cha Paul Seitz Gp Kontum, bà con trại Tư Minh được chính thức tách khỏi giáo xứ
Vinh An vào cuối năm 1957 để thành lập một giáo xứ mới lấy tên là Vinh Hương, do
Cha GB Hồ Sĩ Cai thành lập và được giám mục đặt làm quản xứ tiên khởi. Ban đầu
mới thành lập, giáo xứ chỉ có khoảng 55 – 60 hộ với tổng số giáo dân khoảng 350,
(theo lời Cha Cai: Thời gian lập xứ trước lễ Giáng Sinh 1957, số giáo dân trên
500, hai giáo họ là Thanh Tân và Vinh Sơn).
Dân số ngày một thêm đông, phải thêm 2 giáo họ nữa đó là họ Bác Ái và họ Đức Lệ,
sau này nhờ công cuộc truyền giáo thanh lập thêm một họ mới nữa đó là họ Đắc
lao.
Cha quản xứ hiện nay Cha Phaolô Nguyễn Công Minh, ngài sinh ngày 09 tháng 12 năm
1958, quê quán Hà Tĩnh, giáo phận Vinh. Năm 1969, vào tiểu chủng viện Lê Bảo
Tịnh, Ban Mê Thuột. Năm 1993, nhập Đại chủng viện Sao Biển, Nha Trang. Năm 1995
: Về giúp giáo xứ Vinh Hương. Rồi thụ phong Linh mục tại Ban Mê Thuột ngày 24/
08/1995. Và từ ngày 16/ 01/2007 được cử về làm Quản xứ Vinh Hương.
Kỷ niệm 50 năm thành lập giáo xứ là một văn kiện quan trọng của Công Đồng
Vaticanô II, nhằm đưa Giáo Hội đồng hành cùng nhân loại.
Được chọn làm chủ đề cho Năm Hồng Ân Kim Khánh của giáo xứ Vinh Hương, VUI MỪNG
& HY VỌNG nói lên nỗ lực nhập thế, tâm tình yêu thương và phục vụ của anh chị em
trong gia đình giáo xứ.
Không VUI MỪNG sao được, khi giáo xứ hiện tại đang gặt hái những mùa vàng từ
những hạt giống đã được các vị tiền bối gieo xuống đất này suốt 50 năm qua.
Các vị ấy đã ra đi, gieo trong mồ hôi nước mắt, để hôm nay, chúng ta được trở
về hân hoan, vai nặng gánh lúa vàng. (x.TV 126)
Không VUI MỪNG sao được, khi thấy mối tình khắng khít - giữa những người đã xa
lìa quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn, từ bốn phương trời đã đến và ở lại đây,
với mảnh đất này.
Những bàn chân đi khai phá đất hoang, những bàn tay cày xới vun trồng, cho đất
lạ trổ sinh hoa trái tốt tươi. Chặng đường 50 năm qua đã nói lên một tình yêu
thiết tha, nhân hậu trong trái tim mỗi người dân Vinh Hương hôm nay.
Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương
Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương.(Chế Lan Viên)
Vui mừng cho những gì đã qua và đang đến, lại càng HY VỌNG hướng về tương lai,
khi nhìn thấy sự hiệp thông ngày càng bền chặt giữa các giáo họ, các cộng đoàn,
các thành viên trong giáo xứ. Đặc biệt, niềm HY VỌNG được chuyển giao cho các
bạn trẻ, những người sẽ làm nên tương lai của giáo xứ, khi chính họ được sinh ra
và lớn lên từ mảnh đất này - với niềm tự hào khi thốt lên hai tiếng Quê
Hương!...
Chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em
để anh em ra đi, sinh được hoa trái,
và hoa trái của anh em tồn tại...
Điều Thầy truyền dạy anh em,
là hãy yêu thương nhau. (Ga 15,16)
Xin được chia sẻ VUI MỪNG & HY VỌNG đó với mọi anh chị em trong gia đình giáo xứ,
với Quý Ân nhân và Thân hữu đã đến, đang đến và sẽ đến với giáo xứ Vinh Hương.
(trích lời ngỏ tập kỷ yếu 50 năm Vinh Hương)
Thanh Thùy
SAIGÒN --Chiều ngày áp lễ thánh Gioan Baotixita, Hội Đồng Mục Vụ Giáo Phận, đại
diện của 15 đoàn thể, đại diện các giới khoảng hơn 400 người đã tề tựu về ngôi
nhà giáo phận để tỏ lòng con thảo đối với vị cha chung của giáo phận Đức Hồng Y
GB Phạm Minh Mẫn nhân dịp lễ kính thánh bổn mạng ngài 24.06.2007.
Năm nay, lễ mừng kính bổn mạng Đức Hồng Y Mẫn diễn ra đơn sơ nhưng trang trọng và đầy tình thân thương gia đình, tuy không tổ chức tiệc mừng như mọi năm vì sức khỏe của ngài và vì công việc của ĐHY quá nhiều, nhưng toàn thể đại diện giáo dân đến tham dự cũng cảm thấy hân hoan vì đã có buổi trò chuyện trong tình thân với vị cha chung trong khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ.
Đức Hồng Y Mẫn cho cộng đoàn tham dự hiện diện tại Toà Tổng Giám Mục chiều hôm
đó những câu chuyện về những ưu tư của ngài kể từ khi về nhận giáo phận cho đến
nay đã 10 năm. Nỗi ưu tư lớn nhất của ĐHY Mẫn vẫn là làm thế nào để tăng số
lượng linh mục cho giáo phận, ngài tổng kết: “ Trong 10 năm, tôi đã phong chức
cho 98 linh mục, theo báo cáo thì số các linh mục qua đời trong 10 năm qua là
99! Vậy thì vẫn không thể nào bù vào cho đủ số lượng. Tôi đả từng nói với mấy
ông nhà nước vậy là mấy ông mắc nợ tôi rât nhiều linh mục… phải giải quyết làm
sao? …”
Ngài nhắc đến vấn nạn Sida hiện nay: “Trên thế giới hiện nay không có nơi nào,
cơ quan nào mà các dòng tu tập trung lại ở một nơi để làm việc mà chỉ ở Việt Nam
này, các nam nữ tu sĩ đại diện của các dòng tu Công Giáo đều có mặt tại “Trọng
Điểm” khu Trung Tâm nuôi và chăm sóc những bệnh nhân AIDS thời kỳ cuối, những tu
sĩ CG nây không hề quản ngại căn bệnh khủng khiếp nhất thế kỷ nầy chỉ với mong
muốn làm xoa dịu bớt đi những đau khổ cho người bệnh luôn bị kỳ thị nầy… mà
trong số những bệnh nhân đó có cả con cái của những gia đình Công Giáo!...”
Đức Hồng Y Mẫn cho biết, ngài sẽ thành lập một ban gồm đại diện nhiều giới dể
ngồi lại nghiên cứu và tập hợp và đánh giá lại xem trong 10 năm qua những gì đã
làm được và những gì chưa làm được.
Lê Kim
Trong tâm tình hiệp thông cầu nguyện, ban biên tập Tin vui xin chúc mừng các tân linh mục trong mùa truyền chức năm 2007
Giáo phận TP.HCM
Vào lúc 8 giờ 30, thứ sáu 29.06.2007 tại Vương cung Thánh đường Đức Bà Sài Gòn, Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, Tổng Giám mục Giáo phận Tp.HCM trao ban tác vụ linh mục cho 18 thầy phó tế :
STT |
HỌ VÀ TÊN |
NS |
XỨ ĐẠO |
HẠT |
1. |
Giuse Nguyễn Trí Dũng |
1974 |
Tân Lập |
Thủ Thiêm |
2. |
Phaolô Nguyễn Quốc Duy |
1966 |
Tân Hoà |
Phú Nhuận |
3. |
Giuse Lê Ngọc Đa |
1973 |
Thạch Đà |
Xóm Mới |
4. |
Giuse Đinh Đức Hậu |
1969 |
Tân Phú Hoà |
Phú Thọ |
5. |
Gioan B Nguyễn Hữu Hiệp |
1972 |
Đức Mẹ HCG |
Xóm Mới |
6. |
Giuse Trần Trung Hiếu |
1969 |
Trung Bắc |
Xóm Mới |
7. |
Lôrensô Hoàng Bá Quốc Huy |
1977 |
Vườn Xoài |
Tân Định |
8. |
Gioan B Phạm Văn Lâm |
1973 |
Nam Thái |
Chí Hoà |
9. |
Giuse Hoàng Minh Liệu |
1965 |
Hoàng Mai |
Xóm Mới |
10. |
Gioan Nguyễn Vĩnh Lộc |
1974 |
Tân Phú |
Tân Sơn Nhì |
11. |
Giuse Nguyễn Văn Long |
1969 |
Tử Đình |
Xóm Mới |
12 |
Giuse Lê Hoàng Minh |
1969 |
Thủ Đức |
Thủ Đức |
13. |
Đaminh Nguyễn Văn Ngọc |
1966 |
Bùi Môn |
Hóc Môn |
14. |
Giuse Vũ Văn Quyên |
1974 |
Phú Bình |
Phú Thọ |
15. |
Giuse Ngô Viết Thanh |
1974 |
Tân Đức |
Thủ Thiêm |
16. |
Giuse Vũ Minh Thuỳ |
1969 |
Tân Thái Sơn |
Tân Sơn Nhì |
17. |
Gioan B. Trần Văn Trí |
1974 |
Đức Mẹ HCG |
Xóm Mới |
18. |
Giuse Phạm Văn Trọng |
1973 |
Thái Bình |
Xóm Mới |
- Dòng Đa Minh Việt Nam
Vào lúc 8 giờ 30, sáng Thứ bảy 30.6.2007 tại Thánh đường giáo xứ Thánh Đaminh – Ba Chuông, ĐGM Giuse Chân Ngọc Chi, Giám mục giáo phận Đà Nẵng sẽ trao ban tác vụ linh mục cho các tu sĩ :
- Dòng Phanxicô
Vào lúc 9 giờ 00, Thứ sáu ngày 29.06.2007 tại Học Viện Phanxicô Thủ Đức,ĐGM Giuse Hoàng Đức Oanh, Giám mục Giáo phận Kontum sẽ trao ban tác vụ Linh mục cho các tu sĩ :
Giáo phận Bà Rịa
Vào lúc 8 giờ 30 ngày 05.07.2007 tại Đền Thánh Đức Mẹ Bãi Dâu, ĐGM Tôma Phạm Văn Trâm, Giám mục giáo phận Bà Rịa sẽ trao ban Thừa tác vụ Linh mục cho các Chủng sinh và tu sĩ :
SAIGÒN -- Sáng ngày 24. 6. 2007 nhân lễ Thánh Gioan Baotixita bổn mạng, cộng đoàn giáo xứ Vĩnh Hoà (Giáo phận Sài Gòn) đã long trọng mừng lễ cung hiến và khánh thành ngôi nhà thờ mới.
Cộng đoàn Giáo xứ Vĩnh Hoà trong ngày hồng phúc hôm nay hân hoan đón tiếp Đức
Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, Tổng Giám mục Sài Gòn, đến cắt băng khánh
thành. Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc, Giám mục giáo phận Mỹ Tho chủ tế thánh lễ và
cha Giuse Phạm Bá Lãm, Hạt trưởng Phú Thọ, cùng quý cha trong hạt, quý cha thân
hữu, quý tu sĩ nam nữ và đông đảo quý vi khách mời từ các giáo xứ lân cận. Đức
Hồng Y Gioan Baotixita cắt băng khánh thành đặt ngay từ cổng nhà thờ đi vào và
mở tấm khăn che đá ghi nhớ ngày kỷ niệm cung hiến thánh đường.
Trong bài giảng, Đức Hồng Y nhắn nhủ tất cả mọi người hãy cảm ta Thiên Chúa.
Không những chỉ vì lý do hôm nay mừng ngày cung hiến ngôi nhà thờ đá Vĩnh Hoà
này. Nhưng vì Chúa đã làm tất cả những điều tốt đẹp trong cuộc sống chúng ta,
cho Giáo hội Việt Nam Ngoài ngôi thánh đường giáo xứ này là nơi quy tụ của toàn
thể Dân Thiên Chúa thì tâm hồn con người là đền thờ của Chúa Thánh Thần ngự trị.
Chúng ta phải biết đổi đời như ông Giakêu, phải để chánh tâm thắng tà tâm và ác
tâm.
Sau bài giảng là nghi thức cung hiến thánh đường gồm kinh cầu các thánh, Đức
Hồng y xức dầu thánh bàn thờ và các cột trong nhà thờ. Nghi thức diễn nghĩa muốn
nói lên Đức Giêsu chính là bàn thờ, và Ngài cũng chính là lễ vật hoàn hảo để
dâng lên Thiên Chúa, và mỗi tín hữu chúng ta được chính Chúa Giêsu mời gọi qui
tu trong ngôi thánh đưòng để phượng thờ Thiên Chúa. Mỗi cha dự tiệc mừng được
tặng một DVD kỷ yếu ghi lại những bước hình thành và phát triển Giáo xứ Vĩnh Hoà.
Được biết, trước đó vào tối Thứ Năm ngày 21.6.2007 vừa qua Gx Vĩnh Hòa cũng tổ
chức một đêm diễn nguyện Thánh ca với chủ đề : Chung lời ngợI ca, nhằm chuẩn bị
cho ngày mừng lễ cung hiến thánh đường hôm nay. Đêm thánh ca qui tu gồm các ca
đoàn giáo xứ Vĩnh Hòa, Tân Thành, Phú Bình ca đoàn và Vượt Qua nhà thờ Chính
Toa, cùng các ca sĩ Thanh Nhàn, Thu Hiền, Tấn Đạt…. Giáo xứ Vĩnh Hoà được hình
thành từ năm 1960, lúc đó là họ nhánh của Phú Bình do cha Tôma Phạm Ngọc Biểu,
Chính xứ Phú Bình sáng lập, số tín hữu ban đầu chỉ khoảng 500 người. Đến năm
1991, vì nhu cầu mục vụ Giáo họ Vĩnh Hoà được nâng lên thành giáo xứ với cha
chính xứ tiên khởi là Lm Giuse Trần Văn Nghi. Hiện tại vị chính xứ đương nhiệm
của Gx Vĩnh Hoà là Lm. GB. Vũ Mạnh Hùng được Đức Hồng Y GB Phạm Minh Mẫn cử về
coi sóc từ năm 2002.
Martin Lê Hoàng Vũ
(1906 - 2007)Cha Đaminh Maria cất tiếng khóc chào đời trong đêm 29.11.1906, trong một gia đình đạo hạnh thuộc Giáo xứ Đồng Quan, Thái Bình. Chúa ban cho Ông Bà cố Đaminh Trần Đình Trí và Maria Phạm Thị Thận 11 người con mà Cha Đaminh Maria là người con thứ sáu, và được đặt tên là Trần Đình Phán. Bé Phán chịu phép Thánh Tẩy vào ngày lễ Mẹ Vô Nhiễm, 08.12.1906, tại nhà thờ Đồng Quan và nhận Thánh Đaminh làm Bổn mạng. Năm 7 tuổi, bé Phán Rước Lễ lần đầu và lãnh phép Thêm Sức do Đức Cha Muragorri Trung, OP, Giám mục Giáo phận Bùi Chu. Cũng năm này, bé Phán mắc một chứng bệnh kỳ lạ: một bên ngực sưng phồng thật lớn, không lang y nào trong vùng chữa được, bà cố Thận tha thiết cầu khấn Đức Mẹ và bé Phán đã được lành bệnh.
Ngày 13.05.1914, cậu Phán vào Nhà Đức Chúa Trời để đi tu. Lúc đầu đời tu của cậu cũng long đong lận đận, ra ra vào vào đến 7 lần. Cho mãi đến năm 1921, cậu mới quyết tâm theo đường tu trì. Năm 1923, cậu Phán thi vào Tiểu chủng viện. Trong số 200 thí sinh dự thi, chỉ đậu 51 người và cậu Phán được xếp hạng 11. Cậu chính thức nhập Tiểu chủng viện Ninh Cường niên khóa 1923-1924 . Về đây, vì lớp trên đã có người tên Phán nên cậu được đổi tên là Phan.
Sau 5 năm ở Tiểu chủng viện, thầy Phan học Triết tại Đại chủng viện Bùi Chu ở Trung Linh niên khóa 1928-1929, và năm 1933 nhập ban Thần học tại Chủng viện Thánh Albertô, Nam Định. Thời gian này, vì cha Luis Định, OP, phải về Tây Ban Nha chữa bệnh, không trở lại Việt Nam nữa, nên thầy đã nhận cha Nguyễn Đức Thạc làm nghĩa phụ.
Trong suốt thời gian ở Tiểu và Đại chủng viện, thầy Phan luôn là sinh viên xuất sắc về học vấn, đặc biệt môn Triết lý và Tín lý; đồng thời, thầy cũng có tinh thần đạo đức và trưởng thành trổi vượt. Điều đó cũng được chứng minh trong 2 năm thử (đi giúp xứ 1931-1934) theo qui định của Chủng viện.
Tháng 10.1936, Đức cha Đaminh Hồ Ngọc Cẩn truyền chức năm và chức sáu cho thầy Phan và thầy Túc. Ngày 22.05.1937, Đức cha phong chức linh mục cho hai thầy. Đây là lần truyền chức đầu tiên của Đức cha Hồ, nên Ngài đã đổi tên cha Phan là cha Thủ, có ý nói hai tân chức Thủ-Túc sẽ là tay chân của ngài.
Nhận thấy thầy Phan thực sự đạo đức và thánh thiện, lại giỏi Tín lý và Triết học kinh viện, nên sau khi thầy lãnh chức linh mục, Đức cha Hồ đã cử cha Thủ làm giáo sư Triết học và Linh hướng cho các chủng sinh Đại chủng viện. Khi Đại chủng viện chuyển về Quần Phương, cha Thủ dạy thêm môn Giáo luật. Đặc biệt trong số sinh viên Triết học của cha Thủ có các thầy sau khi thụ phong linh mục đã vào tu Đồng Công là: Cha Phạm Văn Hóa (cha Phương), Cha Hilariô.M. Đỗ Tri Tâm (cha Thuyên), Cha Bênađô. M. Bùi Khải Hoàn (cha Trung).
Đang khi làm giáo sư tại Đại chủng viện, cha Thủ có ý định đi tu dòng. Cha đã đến gõ cửa Dòng Đaminh, Hội Thừa Sai Paris, cuối cùng là Dòng Châu Sơn. Ngay thời gian chuẩn bị nhập Dòng Châu Sơn thì, vào lễ kính Đức Mẹ Đau Thương, 04.04.1941, ngày thứ Sáu trong Tuần Thụ Nạn, cha Thủ được ơn soi sáng: Lập một Hội dòng để giúp người Việt Nam nên thánh, vì Cha cho rằng người Tây nên thánh được sao người Việt lại không? Ngày 21.11.1941, lễ Đức Mẹ Dâng Mình, Cha đã tận hiến cho Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria.
Tháng 02.1942, Đức cha cử cha Thủ làm Trưởng ban Truyền giáo Địa phận. Ý Chúa đã rõ, Cha đang có ý hướng lập một Dòng truyền giáo, nay lại được làm Trưởng ban Truyền giáo thì còn gì bằng! Thế là Cha quyết tâm tìm một đường lối thích hợp, đồng thời chiêu tập những người cùng chí hướng vào nhóm của Cha, để thử nghiệm đời sống cộng đoàn cho Hội dòng tương lai.
Sau 17 tháng làm Trưởng ban Truyền giáo, ngày 16.07.1943, lễ Đức Mẹ Carmel, Đức cha cử Cha Thủ làm Chánh xứ Dương A. Sau 3 năm coi xứ Dương A, Đức cha lại cử Cha làm Chánh xứ Liên Thủy. Trong thời gian coi xứ, Cha rất nhiệt tình và hăng say truyền bá lòng tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ. Cha đã tận hiến cả giáo xứ cho Đức Mẹ, khích lệ các gia đình tôn vương Mẫu Tâm, đền tạ Trái Tim Đức Mẹ và lập các hội đoàn công giáo như: Mẫu Tâm công giáo, Mẫu Tâm thương gia...
Cha xứ Liên Thủy liền chọn nơi đây làm chiếc nôi cho Dòng Đồng Công. Ngày 15.08.1948, Đức Cha Đaminh Hồ Ngọc Cẩn trước khi qua đời 100 ngày, đã ban hành một văn kiện chuẩn nhận nhóm Truyền giáo của Cha Thủ thành Hội Đạo Đức (Pia Unio), với danh hiệu Đoàn Đức Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc. Từ nay, những người trong Đoàn Đồng Công sẽ gọi nhau là anh em và Cha Thủ được anh em gọi là Anh Cả. Như vậy, trong giai đoạn này, ngoài trách vụ Cha xứ Liên Thủy, Bề trên Sáng lập Đoàn Đồng Công, Ngài còn gánh thêm chức vụ Phó ban Truyền giáo Giáo phận Bùi Chu (1950), Bề trên Dòng Khiết Tâm (02.02.1952), Bề trên Dòng Mến Thánh Giá Bùi Chu, cùng hai nhiệm vụ nữa là Tư vấn Giáo phận và giải tội cho Đức cha.
Ngày 15.12.1952, Tòa thánh Vatican thẩm tra Hiến pháp Dòng Đức Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc. Vào lễ Đức Mẹ Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh, ngày 02.02.1953, Đoàn Đồng Công được Đức cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi, Giám Mục Bùi Chu tuyên Sắc Thành Lập Dòng Đức Mẹ Đồng Công và Cha Đaminh Maria giữ nhiệm vụ Bề trên tiên khởi. Cùng ngày đó, 36 anh em được nhập lớp Tập đầu tiên của Dòng.
Năm 1954, khi đất nước bị chia đôi theo Hiệp định Genève, Cha Đaminh và toàn Dòng đã rời miền Bắc vào miền Nam. Sau khi tạm trú vài nơi, Cha Đaminh và toàn Dòng đã về Cù Lao Giêng. Ngày 02.02.1955, lễ Đức Mẹ Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh, Cha Đaminh vĩnh thệ trước mặt Đức cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi tại nhà thờ Gia Định, với ơn chuẩn của Tòa Thánh.
Năm 1956, Dòng về định cư tại Thủ Đức, Gia Định-Sài Gòn. Chính tại đây, Tổng Tu Nghị I của Dòng được triệu tập, Cha Đaminh đã được bầu làm Bề Trên tiên khởi của Dòng. Tiếp đó, Cha còn được bầu làm Bề Trên trong các Tổng Tu Nghị II, III, IV.
Ngày 02.06.1975, Cha Đaminh bị cầm tù tại Dilinh, Lâm Đồng cùng với một số anh em Dòng (52người). Ngày 29.04.1977 Cha Đaminh được trả tự do và về sống với anh em Dòng tại địa chỉ 33b/2 ấp Phú Châu, Tam Phú, Thủ Đức (Nhà 30 gian, Đệ tử viện cũ). Ngày 16.05.1987, biến cố đau thương lớn lao xảy đến cho Dòng, nhiều anh em bị bắt, nên hôm sau Cha Đaminh tạm lánh lên Sài gòn làm đơn khiếu nại. Nhưng đến ngày 02.07.1987, Cha Đaminh bị bắt tại Tân Bình, Sài Gòn. Tòa đã kết án ngài tù chung thân, sau phúc thẩm đã giảm xuống 20 năm.
Trong sự quan phòng đặc biệt của Trời Cao, ngày 18.03.1993, Cha Đaminh đã được trả tự do, trở về đoàn tụ với anh em Dòng.
Vì tuổi cao sức yếu, ngày 15.06.2006, Cha Đaminh đã ủy quyền Tổng Phục Vụ cho Linh mục Gioan Maria Đoàn Phú Xuân để Ngài có thời giờ nghỉ ngơi, dọn mình về với Chúa. Ngày 03.01.2007, Cha Đaminh rất yếu mệt, nên anh em Dòng đã đưa Ngài đi cấp cứu tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương, quận 5, và ngài tỏ ra rất sẵn sàng về với Chúa sau khi lãnh phép Xức Dầu và của Ăn Đàng. Nhưng với những lời cầu nguyện và hy sinh thiết tha của anh em Dòng cũng như của những người thân quen, Chúa và Đức Mẹ lại thương đưa Cha Đaminh về chung sống với đoàn em vào ngày 09.01.2007.
Ngày 11.06.2007, bệnh tình Cha Đaminh trở nặng, anh em Dòng lại đưa ngài đi cấp cứu. Ngày 15.06.2007, bệnh Cha Đaminh trở nên nguy kịch, các Bác sĩ quyết định đưa Ngài vào phòng hồi sức đặc biệt.
Tuy nhiên, mọi phương cách đều phải khuất phục Thánh ý Chúa và Người đã gọi Cha Đaminh về với Người lúc 20 giờ 45, thứ Năm, ngày 21.06.2007 tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương, sau 101 năm trên cõi đời, hơn 70 năm làm Linh mục của Chúa Kitô, 52 năm làm Tu sĩ và là Đấng Sáng Lập Dòng Đức Mẹ Đồng Công.
Theo Web site www.dongcong.net
PHAN THIẾT -- Ngày 21 tháng 6 năm 2007 vừa qua, Giáo xứ Vinh Thủy (Giáo phận
Phan Thiết-Việt Nam) đã long trọng tổ chức lễ Cung hiến Thánh đường mới xây dựng
tại số 332 đường Thủ Khoa Huân, phường Phú Thủy, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình
Thuận. Như vậy, gần hai năm rưỡi kể từ ngày Đặt viên đá đầu tiên (2/12/2004),
công trình mới được chính thức đưa vào sử dụng mặc dù đã hoàn thành trước đó ít
tháng.
Đôi dòng lịch sử...
Giáo xứ Vinh Thủy được hình thành từ tháng 8 năm 1955 với khoảng 3000 giáo dân thuộc các giáo xứ Mành Sơn, Vĩnh Yên, Tân Lập, Tân Vinh, Tân Lộc,Thuận Nghĩa thuộc giáo phận Vinh (Nghệ An) và một số giáo dân tỉnh Quảng Bình di cư vào Nam sau Hiệp định Genève. Sau đó không lâu, phần lớn giáo dân lại đi nơi khác làm ăn, sinh sống. Đến 1967, giáo quyền xác nhập vào giáo xứ gần 1000 giáo dân xứ Vinh Hưng đến tạm cư vì chiến tranh (ngày nay, cái tên “Vinh Hưng” được gọi không chính thức cho khu vực giáo họ Phêrô-Phaolô của giáo xứ).
Có thể nói, người có công lớn nhất đối với giáo xứ là cố linh mục Phanxicô Xavie Lê Trọng Khiêm (linh mục tiên khởi). Trong hoàn cảnh giáo dân đang lo lắng tìm hướng đi trên miền đất mới đầy lạ lẫm sau một chặng đường dài, ngài đã đảm nhận vai trò là chủ chăn tiêu biểu trong việc giúp giáo dân ổn định tinh thần, bắt tay vào xây dựng đời sống mới. Nhờ vào sự lãnh đạo nghiêm khắc về luân lý của ngài mà đời sống đức tin của giáo dân ngày càng vững mạnh, từ đó công việc truyền giáo được triển nở cách tốt đẹp, khó khăn ban đầu của cuộc sống mới dần được khắc phục.
Những năm sau đó, phục vụ giáo xứ trực tiếp lẫn gián tiếp còn có các linh mục: Hồ Ngọc Cai (1956), Nguyễn Quyền (1957), Trịnh Quang Cảnh (1960), Lê Xuân Hoa (11/1956-8/1973), Vũ Đình Hiên (8/1973-5/1975), Hoàng Văn Khanh (7/1975-8/1975), Đinh Vĩ Đại (8/1975-10/1978).
Sau biến cố 1975, giáo dân tản mác với nhiều lý do chủ quan cũng như khách quan, phần lớn là đi lập nghiệp vùng “kinh tế mớI”, số giáo dân có lúc chỉ còn hơn 200 người. Cũng như các giáo xứ khác, các hoat động phụng vụ trong nhà thờ kể từ lúc này đều bị hạn chế (nhà thờ bị đóng cửa vào năm 1978) nhưng nhờ Chúa ban ơn và Mẹ Mân Côi quan thầy trợ giúp, giáo xứ đã vượt qua được những khó khăn đó, khiến đức tin càng được vững mạnh, bằng chứng là nhà thờ giáo xứ sớm được trở lại hoạt động. Năm 1978, không có chủ chăn chính thức, giáo xứ được bề trên gởi giao cho cha phó giáo xứ Thanh Hải (cách giáo xứ khoảng 2km, phần lớn gốc Thanh Hóa và Quảng Bình) Nguyễn Công Vinh kiêm nhiệm. Thời điểm này, nhà thờ Thanh Hải chưa được hoat động trở lại nên ngôi nhà thờ nhỏ bé của giáo xứ đón nhận một lượng lớn giáo dân Thanh Hải lên tham dự Thánh lễ và các nghi thức phụng vụ.
Từ tháng 2, 1988, linh mục Đinh Tiến Đường - quản lý Tòa Giám Mục về đặc trách giáo xứ. Những năm kế tiếp, trong bối cảnh Công giáo đang hòa nhập trở lại với xã hội, địa giới giáo xứ Vinh Thủy mở rộng và nằm trong phường Phú Thủy, một phường rộng lớn và đông dân bậc nhất Phan Thiết (chính vì vậy mà nhiều người dân, kể cả giáo dân thường quen gọi là nhà thờ Phú Thủy nhiều hơn là Vinh Thủy). Với sự năng động trong công việc cũng như ngoại giao của cha, giáo xứ tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Ngài đã ưu ái đặt cho giáo xứ biệt danh “nhà thờ quốc tế” bởi lẽ từ thời điểm này, giáo xứ có sự chuyển biến về chất và lượng, số giáo dân nơi khác đến định cư sinh sống và xin nhập xứ ngày càng tăng.
Từ tháng 11, 1992, linh mục Nguyễn Kim Anh về quản xứ. Ngài tiến hành xây dựng đài Đức Mẹ và khuôn viên, phát triển hội Các Bà mẹ Công giáo. Tháng 6, 1994, linh mục Nguyễn Văn Học về quản xứ. Ban đầu còn có đôi chút khác biệt và cách biệt giữa chủ chăn và đàn chiên, song những năm sau đó dưới sự dẫn dắt nghiêm khắc nhưng linh động của ngài mà giáo xứ đi vào nề nếp trong phụng vụ và sinh hoạt. Trên cơ sở số con em của giáo dân trong và ngoài xứ đang sinh hoạt thường xuyên, cùng với sự thiện nguyện của những người có kinh nghiệm ngày trước, giáo xứ thành lập Xứ đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể với mục đích hướng các em thiếu nhi vào môi trường sống đạo. Trong sự thầm lặng, cha Nguyễn Văn Học vẫn luôn ủng hộ cho phong trào này. Tiếc rằng, vì không có nhân sự nên ngày nay phong trào đang dần chùng xuống.
Cùng thời điểm, giáo xứ xây mới tường thành và vườn hoa trước nhà thờ, cải tạo
đài đức mẹ để tạo mỹ quan cho mặt tiến. Giữa năm 2002, sự hưu dưỡng đột xuất của
cha Nguyễn Văn Học vì yếu bệnh, giáo xứ đang trong tình trạng “lắng xuống” về
mọi mặt vì khuyết chủ chăn. Được bề trên giao phó, linh mục Hoàng Văn Khanh,
giám đốc Chủng viện Nicolas của giáo phận về quản xứ ngay sau đó. Ngài bắt tay
vào củng cố và phát triển các hội đoàn. Thành lập hội Gia Trưởng và Giới Trẻ.
Năng động nhưng nghiêm khắc, dưới sự dìu dắt của ngài, giáo xứ đã phát triển trở
lại cách mạnh mẽ. Cùng với sự giúp đỡ của các thầy chủng sinh về giúp xứ, các
hội đoàn hoạt động năng nổ và khá hiệu quả. Đời sống tinh thần của giáo xứ tăng
lên rõ rệt. Nhiều người xin tòng giáo và nhập xứ.
Ngôi thánh đường mới…
Bên cạnh sự phát triển nội tại như đã trình bày ở trên, lượng giáo dân vãng lai và du khách đến tham dự thánh lễ tại giáo xứ cũng tăng lên nhiều vì vị trí nhà thờ giáo xứ nằm trên trục đường huyết mạch của thành phố Phan Thiết nên khá thuận tiện cho việc đi lại. Vào các thánh lễ chiều Chúa nhật, lượng người đến tham dự thánh lễ rất đông mà ngôi nhà thờ nhỏ bé không đủ sức chứa, phải tràn ra bên ngoài nhà thờ lẫn ngoài lề đường Thủ Khoa Huân (mặc dù đã có thêm thánh lễ Chúa Nhật vào 18h tối thứ 7). Nhận thấy rằng đây là một dấu hiệu vui về sự phát triển của giáo xứ nhưng nếu việc dự lễ như vậy tiếp tục kéo dài liệu có mang lại lợi ích thiêng liêng cho tín hữu không? Chưa kể nó có thể làm mất đi vẻ tôn nghiêm trong khuôn viên nhà thờ. Niềm mong mỏi có được ngôi nhà thờ mới thì từ lâu đã hiện hữu trong cộng đoàn dân Chúa của giáo xứ nhưng giờ là thời điểm thích hợp để hy vọng khi mà dự án xây dựng nhà thờ mới đã manh nha hình thành từ đây. Cần nói thêm rằng, những năm đầu Thế kỷ 21 này đánh đấu sự xuất ngoại định cư của nhiều người có chức vụ, uy tín trong giáo xứ khiến giáo xứ phải tổ chức một cuộc bầu Hội đồng Mục vụ (HĐMV) sớm hơn nhiệm kỳ vào năm 2004. Lần này, đánh dấu sự “trẻ hóa” trong cơ cấu HĐMV và đã từ lâu, từ “ông trùm xứ” không còn được sử dụng trong giáo xứ.
Sau khi cha Hoàng Văn Khanh quay trở về Tòa Giám Mục công tác, giáo xứ do cha
quản lý Tòa Giám Mục Lương Vĩnh Phú đặc trách. Đến giáo xứ khi mà dự án nhà thờ
mới đang dở dang, tuy cũng bận việc ở Tòa Giám Mục nhưng ngài vẫn cùng với HĐMV
tiếp tục phát triển dự án. Ngài cũng chú trọng đến việc hướng dẫn lại những nghi
thức trong phụng vụ của giáo xứ.
Tiếp theo Cha Trần Xuân Long được bề trên gởi về quản xứ, nhưng ngài chưa có cơ
hội phục vụ giáo xứ nhiều vì thời gian ngài ở tại giáo xứ chỉ được tính bằng
ngày rồi phải dưỡng hưu vì yếu bệnh. Một số mốc thời gian quan trọng của nhà thờ:
• 1955, dừng chân tại vùng đất mới, song song với công tác định cư, chủ chăn và
giáo dân tiến hành dựng một ngôi nhà thờ, một nhà xứ và nhà trường bằng gỗ và
các vật liệu nhẹ (năm 1965 chúng được tái thiết hoàn toàn bằng vật liệu nặng).
Tất cả đều tọa lạc trên đồi cát cao gần bờ biển, khung cảnh khá thơ mộng (tức
khu vực bờ hồ Vĩnh Thủy). Vì lẽ đó mà khi xưa người ta vẫn quen gọi tên giáo xứ
là Vĩnh Thủy (hợp vần với một giáo xứ khác cách đó không xa là Vĩnh Phú, nay là
giáo xứ Vinh Phú). Những người đương thời vẫn thường kể lại cho các thế hệ sau
về ngôi nhà thờ này với biết bao hoài niệm.
• Năm 1964, trước khi về hưu dưỡng, linh mục Lê Trọng Khiêm đã xây thêm ngôi nhà
thờ thứ hai nằm sát tỉnh lộ 9 (nay là đường Thủ Khoa Huân nối trung tâm Phan
Thiết với Mũi Né). Cả hai nhà thờ được
nối liền bằng một con đường mòn rợp bóng dừa (nay là đường Phan Trung) trước Lao Xá.
• Sau 1975, khu vực bờ hồ Vĩnh Thủy bị Nhà nước trưng dụng để xây khách sạn Vĩnh
Thủy (nay là quần thể Sân Golf-Khách sạn Novotel). Nhà thờ đầu tiên không còn.
• Kể từ 1978, ngôi nhà thờ trên tỉnh lộ 9 trở thành trung tâm sinh hoạt phụng vụ
của giáo xứ đến ngày nay.
• Năm 1991-1992, mặt tiền nhà thờ được tu sửa lại trên nền móng nhà thờ cũ cách
tân theo dáng dấp bất đối xứng, khá ấn tượng, độc đáo khi mà truyền thống xưa
nay của nhà thờ là đối xứng hai bên. Cung thánh cũng được chỉnh trang cùng với
việc xây mới một nhà xứ và một hội trường hai phòng.
• Kể từ những năm cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21, nhà thờ bắt đầu có sự xuống cấp
nhất là phòng mặc áo và không đáp ứng nổi lượng giáo dân đang phát triển.
Trở lạI với ngôi nhà thờ mới, những ý tưởng ban đầu đưa ra cho ngôi nhà thờ mới
đều xoay quanh việc làm sao tích hợp hai chức năng: phụng vụ và sinh hoạt ngay
trong một công trình. Nghĩa là nó sẽ có tầng trệt dành cho sinh hoạt, hội họp và
một lầu dành cho phụng vụ. Táo bạo hơn là có thể có cả tầng hầm để xe! Đây là
giải pháp và cũng là “mô típ” được nhiều giáo xứ các nơi khác áp dụng cho điều
kiện diện tích xây dựng khá “khiêm tốn”. Riêng ở giáo phận Phan Thiết thì tại
thời điểm đó chưa có nơi nào áp dụng. Theo tính toán, kinh phí cho dự án cũng
khá là “nặng ký”.
Đã có câu hỏi đặt ra là: “Dường như công trình này quá lớn lao so với giáo xứ
Vinh Thủy nhỏ bé?!”.Thế nhưng, giáo xứ cần một cơ sở mới không chỉ để phụng tự
mà còn đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần, không chỉ ngày hôm nay mà còn trong
những thập niên kế tiếp nữa. Bên cạnh đó, thành phố Phan Thiết đang trong quá
trình đô thị hóa nhanh và đang định hướng thành một đô thị du lịch. Theo thông
tin bên lề thì chính quyền khá quan tâm đến dự án này và nhấn mạnh tính thẩm mỹ
của công trình để làm tăng mỹ quan đô thị. Những ý kiến khác nhau về cấu trúc
chức năng lẫn hình thức cho cho ngôi nhà thờ mới được đưa ra bàn thảo.
Năm 2004, khi mà công tác xin giấy phép xây dựng cơ bản đã thực hiện, giáo xứ
công bố bản thiết kế kiến trúc công trình và ra kế hoạch cho những bước đi tiếp
theo. Bản thiết kế đã được Tòa Giám Mục Phan Thiết thẩm định tính thẩm mỹ và khả
thi. Như vậy, theo bản thiết kế này thì nhà thờ sẽ gồm trệt và một lầu.
Ngày 2 tháng 12 năm 2004, giáo xứ long trọng tổ chức Lễ đặt viên đá đầu tiên do Đức Giám Mục chủ tế, cùng thời điểm, linh mục Hồ Tấn Khả được bề trên gởi về quản xứ.
Tháng 1 năm 2005 tiến hành tháo dỡ nhà thờ cũ để lấy mặt bằng và dựng nhà nguyện
tạm bên cạnh nhà xứ. Nghĩ rằng theo kế hoạch thì công trình sẽ khởi công ngay
sau đó thế nhưng bây giờ đã xuất hiện khó khăn, nếu không muốn nói là cản trở
quyết định đến dự án đó là: nguồn kinh phí dự kiến ban đầu “không còn được đảm
bảo” vì lí do khách quan mà cũng hết sức tế nhị. Xin được mở ngoặc rằng, để xây
dựng một ngôi nhà thờ mới thì phải có sự vận động kinh phí dài hạn từ trước,
nhưng giáo xứ chưa làm được vì nhiều lý do cho nên phần lớn nguồn kinh phí xây
dựng phải dựa vào tài trợ mà không chủ động được. Trong sự hụt hẫng và lo lắng,
giáo xứ phải đối mặt với hai phương án:
Thứ nhất, tạm hoãn dự án
Thứ hai, điều chỉnh lại dự án
Giáo xứ quyết định điều chỉnh lại dự án, đây là điều không ai muốn xảy ra nhưng
với hoàn cảnh thực tế bắt buộc phải làm như vậy. Quy mô công trình được điều
chỉnh lại từ việc có lầu như ban đầu thành chỉ còn một tầng. Nói chung là điều
chỉnh phần lớn, nhưng vẫn giữ lại một số đường nét của bản thiết kế ban đầu (vẫn
theo phong cách kiến trúc Việt Nam). Điều đó đồng nghĩa với việc kinh phí xây
dựng sẽ được giảm bớt đến mức “có thể chấp nhận được”.
Ngày 24 tháng 6, 2005 (hơn 6 tháng sau Lễ đặt viên đá đầu tiên), nhân dịp lễ
kính Thánh Gioan Baotixita, giáo xứ mới chính thức khởi công công trình. Song
song với công tác xây dựng, giáo xứ vẫn thường xuyên vận động giáo dân trong xứ
và ngoài xứ, trong nước và ngoài nước để có kinh phí xây dựng cùng với việc “tự
làm những gì có thể làm” và sốt sắng đọc kinh cầu nguyện cho việc xây dựng trong
các buổi lễ. Khẩu hiệu của giáo xứ là:”Ai vui lòng dâng hiến sẽ được Thiên Chúa
yêu thương” (2Cr 9,7). Những khó khăn ban đầu được tháo gỡ phần nào nhờ sự tích
cực vận động của cha quản xứ Hồ Tấn Khả. Thế nhưng tạm gọi công tác xây dựng là
cầm chừng mà thôi vì lúc sắp đến giai đoạn cuối (đã xong phần thô) thì công
trình bị gián đọan do nguồn kinh phí đang dần cạn kiệt, nhà thầu cắt giảm nhân
công. Thế là giáo xứ phải huy động giáo dân để hoàn thành giai đọan cuối (trang
trí nội thất và vật dụng giáo xứ phải tự đảm nhiệm), vì “…được xây nhà cho Chúa
là một vinh dự và là trách nhiệm…”, “…không ai so hơn tính thiệt…” (trích trong
lời kinh cầu cho việc xây dựng thánh đường của giáo xứ).
Những ngày tháng 5, 2007 bước vào mùa mưa khiến việc cử hành phụng vụ trong nhà
nguyện tạm không thuận lợi đành phải dời vào nhà thờ mới. Giáo xứ chỉ còn chờ
ngày Cung hiến Thánh đường. Phải nói rằng, công trình xây dựng nhà thờ giáo xứ
Vinh Thủy là một công trình được thực hiện trong sự phó thác hoàn toàn, đều là
nhờ Hồng Ân Thiên Chúa Ba Ngôi và Mẹ Mân Côi quan thầy, giáo xứ đã vượt qua mọi
khó khăn, trở ngại để hòan thành tốt đẹp. Qua đó ghi nhận sự đoàn kết trong cộng
đoàn giáo xứ để vượt qua khó khăn. Ước chi cùng với ngôi nhà mới này, giáo xứ sẽ
có những triển nở mai sau. Nguyện xin Thiên Chúa trả công bội hậu cho các vị ân
nhân của giáo xứ.
Một Vinh Thủy rất riêng:
Từ buổi sơ khai đến nay đã hơn 50 năm, trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử nhưng giáo xứ vẫn lưu giữ được những truyền thống tốt đẹp của cộng đồng “di cư”. Những lời kinh, cung giọng vẫn giữ gìn mà ít có sự biến đổi. Các thế hệ sau này mặc dù được sinh ra và lớn lên ở vùng đất mới, hòa nhập sâu sắc với giáo dân bản địa nhưng vào nhà thờ vẫn thưa kinh theo giọng “di cư” của các thế hệ đi trước.
Ngắm nguyện Mùa Chay tưởng chừng như không còn phù hợp với thời đại ngày nay
nhưng giáo xứ vẫn tổ chức hằng năm cách sốt sắng. Tiếc rằng, việc rước kiệu, đọc
kinh tại Đài Đức Mẹ, họp nhau đọc kinh trưa, kinh chiều trong nhà thờ, đang dần
bị mai một chỉ còn số ít các cụ cao niên duy trì.
Bên cạnh sự chăm chút trong từng nghi thức phụng vụ, giáo xứ vẫn luôn chú trọng
khâu trang trí vào các dịp lễ lớn (Giáng Sinh, Phục Sinh, Chầu lượt…) vì rằng,
trang trí cũng góp phần vào sự sốt sắng của giáo dân trong buổi lễ. Có thể nói,
vào dịp lễ Giáng Sinh hằng năm, nhà thờ Vinh Thủy là một trong những địa điểm
thu hút đông khách đến tham quan, chiêm ngắm. Sở dĩ có được điều này vì giáo xứ
đã tận dụng triệt để nội lực từ bên trong (vì tài chính khá “khiêm tốn”). Cụ thể,
nhiều giáo dân có lĩnh vực chuyên môn khác nhau phối hợp làm việc.
Khác với một số giáo xứ khác, vào các dịp lễ lớn, việc phân bổ công tác thường
thì được “khoán trắng” về các giáo họ, hội đoàn theo từng “gói” công việc. Tuy
cơ bản, giáo xứ vẫn áp dụng như trên nhưng chú trọng hơn đến sở trường của từng
cộng tác viên để lên danh sách và giao những nhiệm vụ phù hợp. Khó khăn luôn đi
đầu trong bất kỳ công tác nào của giáo xứ là số giáo dân cơ hữu ít, địa bàn lại
trải rộng, nhiều người có công việc riêng của mình nên khó tập hợp công tác cùng
lúc, giáo xứ phải gởi văn bản công việc cụ thể đến từng cộng tác viên.
Nói chung, vì nằm trong địa bàn có đông cán bộ viên chức sinh sống, trình độ dân
trí cũng tương đối nên người Vinh Thủy cũng có phong cách hợp tác, làm việc rất
riêng mà cũng rất “cá tính” và được Toà Giám Mục quan tâm.
Trước đây, Đức Giám Mục Nicolas Huỳnh Văn Nghi vẫn thường dâng lễ tại giáo xứ
vào những dịp lễ đặc biệt. Hiện nay, quản xứ là linh mục Antôn Hồ Tấn Khả, giáo
xứ Vinh Thủy có các giáo họ: Gioan Baotixita, Phêrô-Phaolô và Tôma. HĐMV giáo xứ
gồm 5 thành viên thường trực (ngoài ra còn có các cộng tác viên). Các hội đoàn:
Phan Sinh, Các Bà mẹ Công giáo, Gia Trưởng, Thiếu nhi Thánh thể. Ca đoàn
Cecilia, Ban Lễ sinh
Sinh hoạt phụng vụ hằng tuần tại giáo xứ:
- Lễ Chúa Nhật: 18h00 (thứ bảy), 5h00 và 17h00 (chủ nhật)
- Lễ thường: 5h00 (thứ hai, ba, tư, sáu, bảy) và 18h00 (thứ năm)
Địa chỉ liên hệ:
Nhà thờ giáo xứ Vinh Thủy
Số 332 đường Thủ Khoa Huân, phường Phú Thủy
Thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Việt Nam
Điện thoại: (84-62) 812538
Trung Long
TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO
Lời thưa trước :
NênThánh là ơn gọi chung của mọi Kitô hữu. “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Giáo Hội, Hiền Thê Chúa Kitô là một ”trường dạy nên thánh” (1) . Qua chiều dài lịch sử tiến bước dưới ánh sáng Phúc âm, qua bao nhiêu kinh nghiệm nên thánh phong phú của những “hoa trái thánh thiện” là các thánh nhân của mọi thời, mọi dân, mọi nước, quả thật, chúng ta không thiếu những chỉ dẫn cần thiết để tiến bước trên con đường thánh thiện. Đặc biệt, trong thời đại nầy, chúng ta còn được lợi điểm là có được những hướng dẫn cụ thể, chính xác, truyền thống và cập nhật của những văn kiện Huấn quyền nền tảng khởi đi từ Công đồng Vatican II (Như các văn kiện : Hiến Chế Giáo Hội, Hiến chế Phụng vụ Thánh, Hiến chế Mặc Khải, Sắc lệnh chức vụ và đời sống linh mục, Đào tạo linh mục…). Tiếp theo đó là những Tông huấn của các Đức Giáo hoàng (như Pastores dabo vobis, Đời thánh hiến của ĐGH G.P.II), hoặc những hướng dẫn dành riêng cho linh mục của Thánh bộ Giáo sĩ (như Kim chỉ nam cho Thừa tác vụ và đời sống linh mục, Linh mục, Mục tử và lãnh đạo cộng đoàn giáo xứ…).
Tuy nhiên, trong cái kho tàng
phong phú bao la đó, chúng ta cũng cần rút tỉa,chắc lọc những chiều kích nào,
những nhân tố nào phù hợp và thiết thực nhất cho đời sống nên thánh của riêng
mình. “Riêng mình” nói ở đây chính là “linh mục coi xứ”, linh mục làm mục vụ
giữa cộng đoàn giáo dân được giao phó.
Tại sao lại phải tìm “cái thích hợp cho riêng mình” ? Cũng dễ hiểu thôi. Vì
trong Giáo Hội có hàng trăm ngàn linh mục mặc dù giống nhau trên căn bản bí tích
Truyền chức thánh, trong căn tính của ơn gọi nên thánh phổ quát, nhưng lại rất
khác nhau về lựa chọn cách sống, về chức vụ, về môi trường sống và làm việc, về
các đối tượng phải quan hệ và chăm sóc, về văn hóa bản địa phải hội nhập…(Một
linh mục dòng không thể tiến đức giống y như linh mục triều, một linh mục coi xứ
không thể rập khuôn như các linh mục giáo sư ĐCV hay làm việc tại Thánh bộ, một
linh mục coi xứ đạo nhà quê phải có cái gì đó khác với các linh mục coi xứ ở
thành phố…). Chính trong trăn trở và thao thức làm sao để có một linh đạo thích
hợp cho riêng mình, một linh mục coi xứ, xin được mạo muội chia sẻ vài điều cảm
nhận riêng tư.
ĐỀ NGHỊ 4 CHIỀU KÍCH CƠ BẢN TRONG LINH ĐẠO DÀNH CHO LINH MỤC COI XỨ
1. LINH ĐẠO MANG CHIỀU KÍCH PHỤNG VỤ :
a/. “Hãy thờ Cha trong thần khí và sự thật” (Ga 4,23-24)
Lý do chọn lựa : Phụng vụ chính là trọng tâm sự sống củaØ Hội Thánh, là hoạt động cao cả nhất, quan trọng nhất mà không sinh hoạt nào sánh bằng.
Dẫn chứng :
“Phụng vụ là tột đỉnh mà mọi hoạt động của Giáo Hội qui hướng về, đồng thời là nguồn mạch tuổn trào mọi năng lực của Giáo Hội”… Vì thế, Phụng vụ, nhất là Lễ Tạ Ơn, như là nguồn mạch từ đó ân sủng tuôn tràn trong chúng ta và làm cho con người được thánh hóa trong Chúa Kitô một cách vô cùng hữu hiệu, đồng thời Thiên Chúa được tôn vinh : đây cũng là cứu cánh của mọi công việc khác của Giáo Hội” (PV số 10).
“Do đó, vì là công việc của Chúa Kitô tư tế và Thân thể của Người là Giáo Hội, nên mọi việc cử hành Phụng vụ đều là hành vi chí thánh, và không một hành vi nào khác của Giáo Hội có hiệu lực bằng, xét cả về danh hiệu lẫn đẳng cấp…” (PV số 7).
Không phải lúc nàoØ các Kitô hữu cũng được chỉ dạy rõ ràng như thế. Đã có một thời, người ta chú trọng quá nhiều tới khía cạnh thực hành các “việc đạo đức” như : ăn chay, hãm mình, cầu nguyện, lần chuổi…và coi đó là phương thế chính để nên thánh (Thánh Simon cột…., đã có lập luận rất gần đây : “Thà bỏ lễ chứ không được bỏ nguyện gẫm” ! )
Trích các văn kiện riêng dành cho đời sống linh mục liên quanØ đến chiều kích nầy :
“Nhưng phải lưu tâm đừng để việc huấn luyện tu đức chỉ hệ tại những việc đạo đức ấy hay chỉ là một nỗ lực tạo ra thứ đạo đức tình cảm” (Đào tạo linh mục, số 8)
“Việc thống nhất đời sống nầy
không thể được thực hiện nguyên bằng cách tổ chức hoàn toàn bên ngoài các sinh
hoạt của tác vụ hoặc bằng cách thực thi các việc đạo đức” (Chức vụ và đời sống
linh mục số 14)
“Chính những hành vi Phụng tự hằng ngày cũng như toàn thể tác vụ của các ngài
thi hành hòa điệu với Giám Mục và các linh mục khác, đều hướng các ngài đến đời
sống hoàn hảo” (Chức vụ và đời sống linh mục số 12)
“Đối với linh mục, bí tích Thánh Thể chiếm một vị trí thật sự trung tâm, trong thừa tác vụ cũng như trong đời sống thiêng liêng của các Ngài…Từ những bí tích khác nhau và và cách riêng, từ ân sủng loại biệt thuộc về từng bí tích, đời sống thiêng liêng của linh mục nhận được những dấu ấn riêng biệt : thực vậy, đời sống ấy được cơ chế hóa và được uốn nắn nhờ vào những đặc tính và đòi buộc đa dạng của các bí tích được cử hành và được cảm nghiệm bằng cuộc sống” (Tông huấn Pastores dabo vobis, số 26)
Nếu linh mục như vẫn thường được ám chỉ, là Alter Christus, thì căn cốt của đời linh mục chính là nối dài Đức Kitô, tiếp nối cuộc sống và hy tế của Ngài. Thế mà, Ngài đã hoàn tất đời Ngài qua mầu nhiệm Vượt qua, và đã mời gọi, truyền lệnh : “Hãy làm việc nầy mà nhớ đến Thầy”. “Việc nầy” đó chính là Phụng vụ, chính là Bí tích Thánh Thể. Cho nên, một linh mục coi xứ muốn tự kiến tạo cho mình một đời sống thánh thiện và xây dựng một cộng đoàn thánh thiện như lòng Chúa mong ước, thì Phụng vụ, thiết tưởng, chính là con đường nên thánh trước tiên phải đi, là phương thế nên thánh tối hảo phải chọn lựa, như lời dạy của Công Đồng :
“Hằng ngày, Phụng vụ kiến tạo
những người bên trong Giáo Hội thành đến thánh trong Chúa, thành nơi cư ngụ của
Thiên Chúa trong Thánh Thần, để đạt tới mức tuổi sung mãn của Chúa Kitô” (PV số
2)
b/. Vài áp dụng cụ thể :
Người ta có thể đánh giá một
cộngØ đoàn đạo đức thánh thiện, một
linh mục mục đạo đức thánh thiện thông qua cách thể hiện Phụng vụ thường xuyên
(Trang trí cung thánh, bàn thờ, đồ lễ, việc tham dự của cộng đoàn, các tác viên
phụng vụ : đọc sách, giúp lễ, ca đoàn….Tư cách phụng vụ của chủ tế, bài giảng…)
Có một số cử hành Phụng vụ dễ bị đánhØ
mất tính linh thánh của Phụng vụ để “giảm xuống hàng đạo đức” hay trở thành một
loại “dịch vụ đạo đức theo yêu cầu”, đó là bí tích Giải Tội, Xức dầu bệnh nhân…
2. LINH ĐẠO MANG CHIỀU KÍCH MỤC VỤ :
a/. “Để phục vụ và hiến dâng mạng sống” (Mt 20,24-28)
Lý do chọn lựa : Là một linh mục coi xứ,Ø như vậy việc nên thánh không thể tách khỏi môi trường mục vụ, công tác mục vụ, cộng đoàn mục vụ. Hơn nữa, một linh mục coi xứ không phải nên thánh cho riêng mình, mà phải nên thánh cho, vì, với và nhờ công đoàn mà mình phục vụ.
Ø Dẫn chứng :
Tông huấn Pastores dabo vobis dành trọn 6 số (từ 21-26) để triển khai khía cạnh “linh đạo mục vụ” nầy qua hai nội dung chính : - Đức Ái mục vụ và – Thi hành thừa tác vụ.
Từ những gợi ý của giáo huấn trên, có thể rút ra kết luận khái quát : Linh đạo của một linh mục coi xứ phải mang chiều kích mục vụ ; nghĩa là linh đạo đó phải gắn liền với cộng đoàn, phải được tác dụng “cộng hưởng” với cộng đoàn mà mình phục vụ : cho-vì-với-nhờ cộng đoàn.
“Đời sống thiêng liêng của các thừa tác viên Tân ước phải được đóng ấn bằng thái độ tiên khởi ấy, thái độ phục vụ đối với Dân Thiên Chúa” (TH.Pastores dabo vobis số 21).
“Nguyên lý nội tại, nhân đức thôi thúc và hướng dẫn đời sống thiêng liêng của linh mục, xét như đã nên đồng hình, đồng dạng với Đức Kitô Đầu và Mục tử, chính là Đức Ái Mục Vụ” (23)
“Linh mục sống trong một bầu
khi liên lỷ ứng trực và sẵn sàng để cho mình bị chộp giữ hay, có thể nói, để cho
mình “bị ăn” do bởi những nhu cầu và những đòi hỏi, dỉ nhiên cần phải hợp lý của
đoàn chiên” (28)
“Tốt hơn phải vì đó huấn luyện cho họ biết dùng chính hoạt động mục vụ của họ,
để kiên cường đời sống tu đức cho thật vững mạnh” (Đào tạo linh mục, số 9)
b/. Lưu ý và áp dụng cụ thể :
Đừng bao giời tự cho mình là “đấng ban phát sự thánh thiện”, là “thầyØ dạy đàng nên thánh” để xem thường và không tìm học hỏi được gì nơi cộng đoàn. Vì Đức Kitô mà còn “nên giống anh em mình mọi đàng ngoại trừ tội lỗi”, và “Ở giữa các ngươi, ta là một kẻ hầu bàn”.
Cộng đoàn có nhiều hoa trái
thánhØ thiện (Trẻ em, các người già
lảo, những thanh niên nam nữ…)
Trong đờiØ sống giáo dân có nhiều nhân
đức mà linh mục không có hay ít có : nhân đức nghèo, khổ, vất vả nhọc mệt, túng
thiếu, đầu tắt mặt tối, bệnh hoạn tật nguyền, mất con, mất vợ…)
Như vậy, chính khi gắn kết với cộng đoàn, yêu thương và kính trọng, thăng tiến và xây dựng cộng đoàn, sẽ giúp cho linh mục coi xứ tiến đức. Linh đạo mang chiều kích mục vụ là như thế.
3. LINH ĐẠO MANG CHIỀU KÍCH GIÁO HỘI :
a/. Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh” (Ep 5,25)
Lý do chọn lựa : “Kẻ nào càng yêu mến Giáo Hội ChúaØ Kitô, càng có Chúa Thánh Thần” (St. Augustinô)
Dẫn chứng :
Tông huấn Pastores dabo vobis dành trọn các số từ 31-32 để khai triển tư tưởng nầy.
“Cũng như bất cứ đời sống thiêng liêng Kitô giáo chính hiệu nào, đời sống của linh mục cũng sở đắc một chiều kích Giáo hội cốt yếu và bất khả thay thế : đời sống ấy tham dự vào sự thánh thiện của chính Giáo Hội” (31)
“Sự trao hiến chính mình, cội rễ và chóp đỉnh của Đức Ái mục vụ nhằm đối tượng là Giáo hội. Điều nầy ứng dựng cho Đức Kitô : “Đấng đã yêu mến Giáo Hội và đã nộp mình cho Giáo Hội”. Linh mục cũng phải làm như vậy. Với Đức Ái mục vụ thấm nhuần vào việc thực thi thừa tác vụ linh mục như một “tác vụ tình yêu”, linh mục một khi đón nhận ơn gọi thi hành tác vụ, có nhiệm vụ làm cho ơn gọi ấy trở thành một lựa chọn do tình yêu, nhờ đó Giáo Hội và các linh hồn trở thành mối lợi chính yếu của linh mục. Sống đường thiêng liêng ấy một cách cụ thể, linh mục sẽ có khả năng yêu mến Giáo hội phổ quát và thành phần Giáo Hội được giao phó cho mình, với tất cả sự nồng nhiệt của một người chồng đối với vợ mình” (số 22)
Chiều kích nầy sẽ là động lực giúp cho các linh mục coi xứ những điều tích cực sau :
- Tinh thần tham chiếu, học hỏi, lắng nghe kinh nghiệm mọi nơi, mọi thời, mọi gương lành tỏa sáng trong lịch sử Giáo Hội hôm qua, hôm nay và mãi mãi cho đến ngày tận thế. Dỉ nhiên, tinh thần nầy không chấp nhận thái độ cực đoan chỉ chấp nhận một phương thế, một con người, một thời đại nào đó mà coi thường, khinh chê các giá trị của các đường hướng tu đức khác.
- Chiều kích nầy còn động viên chúng ta nỗ lực xây dựng Hội Thánh địa phương, yêu mến Hội Thánh và sẵn sàng bảo vệ Hội Thánh tới cùng.
“Thiên Chúa không muốn thánh hóa và cứu rỗi con người cách riêng rẻ, thiếu liên kết, nhưng Ngài muốn qui tụ họ thành một dân tộc để họ nhận biết chính Ngài trong chân lý, và phụng sự Ngài trong thánh thiện” (HC Giáo Hội số 9)
b/. Lứu ý và áp dụng cụ thể :
Trên mọi nhân đức, cần có “nhân đức Giáo hội”. Một khi tập luyệnØ được nhân đức đặc biệt nầy, tức khắc sẽ có được các nhân đức khác !
Ø Những anh em đang xây dựng Hội Thánh trong lặng lẽ, âm thầm, ẩn khuất : hãy an tâm. Tòa nhà Giáo Hội vẫn cần thiết phải có những viên gạch nằm sâu trong góc tối. Sự thánh thiện đó là biết “nằm đúng vị trí trong Thân Mình mầu nhiệm của Chúa Kitô”.
Chính lòng yêu mến Giáo Hội sẽ phát sinh nhiệt tâm truyềnØ giáo, tinh thần huynh đệ hiệp thông, tương thân tương trợ, lòng quảng đại và anh hùng làm chứng tá phúc âm…
Một linh mục coi xứ mà đặt quyền lợi cá nhânØ trên danh dự và quyền lợi của Giáo Hội, vì mục tiêu và tham vọng cá nhân mà coi thường sự hiệp thông, hiệp nhất trong Hội Thánh…thì sớm chiều sẽ sụp đổ tòa nhà thiêng liêng của chính mình và ảnh hưởng tai hại đối với cộng đoàn được giao phó.
Hơn lúc nào hết, Hội Thánh tại Việt nam đang đứng trước nhữngØ thách đố và lựa chọn hết sức tế nhị và gắt gao. Nếu không có “nhân đức giáo hội”, không có lòng yêu mến Hội Thánh chân thật và đúng đắn, sẽ có nguy cơ “lựa chọn sai”, hoặc, sẽ trở nên những yếu tố phá hoại Hội Thánh. (2)
4. LINH ĐẠO MANG CHIỀU KÍCH HỘI NHẬP VĂN HÓA
a/. “Lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ” (Mt 13,52)
Lý do chọn lựa : “Ta về ta tắmØ ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”.
Là người Việt nam, là linh mục Giáo phận Qui Nhơn, đang phục vụ đồng bào trong địa phương nầy, vậy không lẽ gì chúng ta lại ứng xử theo một phong cách “ngoại lai”, vong bản. Ngày hôm nay, nhiều giá trị nền tảng của gia đình kitô hữu đang bị đe dọa và lung lay, phải chăng vì đang khi các giá trị Kitô giáo chưa đủ sức thấm nhuần, trong khi các giá trị truyền thống Đông phương : Tam cương ngũ thường, tam tòng tứ đức, nhân nghĩa lễ trí tin…đã đội nón ra đi.
Dẫn chứng :
Bởi vậy bất cứ điều gì tốt đẹp được nhận biết là đã được gieo vãi trong tâm trí con người, hay trong những lễ chí và văn minh riêng của các dân tộc, sẽ không bị hủy diệt, mà còn được thăng tiến và hoàn tất, để Thiên Chúa được tôn vinh, ma quỷ bị xấu hổ và con người được hạnh phúc” (Sắc lệnh về Truyền Giáo số 9). (Cf. Tuyên ngôn “Các tôn giáo ngoài KTG”, và HC MV Gaudium et spes)
b/. Lưu ý và áp dụng :
Mục tiêu phải đạt cho được là “Nên Thánh”. Tuy nhiên, không phải cứØ “gồng mình” theo sát cái cách hãm mình và cầu nguyện của Cha Thánh Gioan Vianê thì mới đúng hướng, hay phải như thánh Phanxicô khó khăn thì mới được chấp nhận. Là người Việt nam, mang xác thân, vóc dáng “nhỏ con” của dòng tộc Lạc hồng, thì cái phong cách nên thánh của chúng ta cũng phải chọn “kích cở sao cho vừa”, sao cho thích hợp.
Không hẳn cứ cao to, sừng sững
như những pho tượng cẩmØ thạch nơi đền
thánh Phêrô tại giáo đô Rôma thì mới có giá trị, còn những bức tranh thủy mạc
thanh thoát, nhẹ nhàng với mái tranh, với khói lam chiều, với bà mẹ quê, với đàn
cò trắng… lại chỉ đáng bỏ đi. Phải vận dụng cái phong cách nên thánh của Việt
nam, của Qui nhơn, cái phong cách mà những bậc cha ông như “Ông Tám Ân, như cha
già Long, cha già Quảng, Phêrô Bích, cha già Châu, cha già Tiên…” đã đi và đã để
lại dấu ấn không phai mờ.
Đó là chưa kể, quanhØ chúng ta, nơi
các tôn giáo bạn, Phật, Khổng…có đầy dẫy những gương lành, những phương thế thật
tốt, có thể vận dụng đem vào linh đạo để làm phong phú cho đời sống thiêng liêng.
Kết : Cho dù đi con đường nào, lựa chọn phương pháp nào, áp dụng linh đạo nào,
tiêu đích cuối cùng, vẫn là như Thánh Phaolô “Tôi sống, không còn phải là tôi,
mà là Đức Kitô sống trong tôi”. Là một linh mục coi xứ, quả thật, rất có nhiều
điều kiện để thực hành việc nên thánh. Bởi chưng, khi được gắn kết với một cộng
đoàn mục vụ, các linh mục coi xứ hoàn toàn thể hiện cái căn tính và sự sống
thường xuyên của Giáo Hội, Hiền Thê Chúa Kitô qua Phụng vụ, qua sự hiệp thông
cộng đoàn và qua chính môi trường cuộc sống đời thường với tất cả mọi nhân tố
làm nên một Hội Thánh thu nhỏ. Ước mong sao mọi linh mục coi xứ đều ý thức và
biết vận dụng hiệu quả mọi yếu tố tích cực và thuận lợi nầy để trở thành những
“mục tử như lòng Chúa mong ước”.
(1) Hiến chế Tín lý về Hội Thánh (Lumen Gentium), chương V : Lời kêu gọi mọi người nên thánh trong Giáo Hội.
(2) Xem các bài viểt trên mạng trong những ngày nầy : Giáo Hội Công Giáo Việt nam quốc doanh hay không quốc doanh ? (Duyên lãng – Hà tiến Nhất) ; Hành trình Núi Sọ và sự im lặng của giáo quyền Việt nam (Phương Duy)
Lm. Giuse Trương Đình Hiền
Tưởng nhớ người anh rất đáng mến
Đaminh Maria Trần Đình Thủ
Anh Cả rất đáng mến,
Em xin được gọi tên anh một lần cuối, vì từ nay trên cõi đời này sẽ không ai xứng hợp để em gọi hai chữ “Anh Cả”. Đối với em hai chữ “Anh Cả” mang một ý nghĩa hết sức đặc biệt, vì nó biểu hiện cho vai trò làm cha, làm thầy, và làm một người anh của anh. Và đó là lý do với em hai tiếng “anh cả” thân thương sẽ không được dùng để gọi một ai khác, ngoài anh. Và sự ra đi của anh đã để lại nơi em một mất mát, một nuối tiếc, và một nhớ thương vô vàn.
Ngày 20 tháng 5 năm 1962, em được nhận vào Đệ Tử Viện Đồng Công. Ngày hôm đó, em coi là ngày em được tái sinh trong ơn gọi Đồng Công. Anh là người cha tinh thần đã cho em một cuộc sống mới, một ơn gọi mới này. Chúa và Mẹ đã tác động qua anh để em được sinh ra trong ơn gọi Đồng Công, một ơn gọi mà tuy sau này em không còn đi cùng đường với anh và các anh em của em nữa, nhưng mãi mãi nó vẫn là một dấu ấn của cuộc đời tâm linh của em. Nhờ anh mà em được nuôi dưỡng và lớn lên trong đường lối tu đức, ân sủng, và bình an của Chúa Mẹ. Nhờ anh mà em biết Chúa, yêu Chúa, và biết cách phục vụ Ngài. Nhờ anh mà em biết Mẹ Maria, hiểu Mẹ Maria, và yêu mến Mẹ Maria. Bao lâu em còn sống, còn hơi thở, còn nghĩ đến Chúa Mẹ, còn có khả năng làm một việc gì cho sáng danh Chúa Mẹ, anh vẫn mãi mãi là người cha tinh thần rất đáng kính của em.
Anh không những là người cha tinh thần, mà còn là một người cha thật sự đã nuôi em bằng cơm, áo, và đã lo lắng cho em từng những nhu cầu nhỏ mọn. 16 năm trong ơn gọi Đồng Công là một chuỗi dài những ngày em được nuôi dưỡng và lo lắng đầy đủ.
Biến cố tháng Tư năm 1975, anh đã nén lòng “đẩy” chúng em xa anh đi tìm một cuộc sống mới, cuộc sống của những người tự do. Sự tự do của chúng em, cuộc sống tự do của chúng em, và đời sống mới của chúng em, anh đã đánh đổi bằng những tháng năm tù tội. Ôi! Em làm sao tả hết tấm lòng hiền phụ của anh đối với em cũng như mọi anh em Đồng Công. Những người mà như Thánh Phaolô, anh đã “sinh ra” trong ân sủng, và tình thương mến.
Anh không chỉ cho em một chuỗi dài sống trong lý tưởng Đồng Công, mà tất cả chuỗi ngày dài ấy, anh vẫn không ngừng nhắn nhủ, dậy dỗ và bảo ban em. Anh là một bậc thầy hết sức tận tụy với nghề nghiệp. Một bậc thầy mà vì sốt sắng muốn cho những môn sinh mình giỏi, nên đã phải nghiêm khắc, và không ngần ngại sửa phạt. Và trong tinh thần ấy, anh chính là người thầy của em. Anh dậy dỗ em, huấn luyện em, và khuyên răn em để em trở thành một tâm hồn yêu mến Thiên Chúa , yêu mến Mẹ Maria và nhiệt thành với việc thánh hóa bản thân. Anh là người đầu tiên đã cho em và anh em Dòng ý tưởng và mơ ước rằng mình có thể trở thành một vị thánh. Có thể làm thánh được.
Em không bao giờ quên được những buổi huấn đức, những tuần phòng tháng hoặc tuần phòng năm, cũng như những lần gặp gỡ riêng tư. Anh như say sưa và trở nên lợi khẩu khi chỉ vẽ cho em cũng như anh em Dòng con đường tu đạo, con đường nên thánh. Nguyện vọng của anh là đào tạo và huấn luyện những vị “thánh Việt Nam”. Em vẫn còn nhớ nhiều lần anh nhắc đi, nhắc lại là các nước Âu Mỹ đã có những vị thánh, anh cũng muốn Việt Nam mình có những vị thánh. Một lần trong một buổi gặp gỡ, anh đã nói với em:
- Duyệt này ba cọc ba đồng.
Ý anh muốn nói là em không mạnh mẽ, không dứt khoát và tha thiết với lý tưởng thánh Đồng Công, với lý tưởng toàn thiện. Nhưng em đã thưa lại với anh:
- Không đâu anh. Ba cọc ba đồng rẻ quá. Ít nhất cũng phải ba cọc sáu đồng em mới bán.
Nghe vậy anh cười một cách vui vẻ. Có lẽ anh cho rằng ít ra em cũng không làm anh thất vọng. Ít ra em cũng có một ý niệm nào đó về con đường hoàn thiện. Hôm đó, em cảm thấy vui vì được thấy anh vui.
Em cũng còn nghe văng vằng đâu đây lời anh nói khi gửi chúng em vào con đường mạo hiểm vượt biên:
- Các em đi để bảo vệ Dòng, và để truyền giáo.
Anh biết rằng dưới chế độ Cộng Sản vô thần thì những đứa em non nớt, và bé bỏng ấy sẽ khó lòng vượt qua được những thử thách. Anh đã sai chúng em ra đi, vừa để duy trì được sự thánh thiện bản thân lại vừa truyền giáo và bảo vệ dòng. Em xin lỗi anh vì ngoài việc em vẫn tiếp tục thánh hóa bản thân, việc"truyền giáo và bảo vệ dòng” theo một nghĩa nào đó, em đã không làm được như anh mong muốn! Em tuy nay vẫn truyền giáo và bảo vệ dòng nhưng theo một con đường và hướng đi mới. Hướng đi của một chứng nhân giữa dòng đời. Có thể nói em chưa làm gì để vì em mà người khác xúc phạm đến anh hoặc đến Dòng. Em rất hãnh diện về điều này. Em nhớ lại, trong buổi hồi tâm của Phong Trào Cursillo, cố linh mục Vũ Đình Trác vừa gặp em đã nói:
- Có phải dân Đồng Công không?
- Sao cha hỏi con câu này? Em hỏi lại ngài.
- Vì tôi ngửi thấy mùi Đồng Công của anh.
Anh Cả thấy chưa, em của anh chỉ đứng xa xa mà người khác cũng đã “ngửi” được mùi Đồng Công, vậy thử hỏi khi giao tiếp và làm việc với người khác họ sẽ nhận ra được cái mùi Đồng Công ấy như thế nào?! Đó, em làm chứng và bảo vệ Dòng ở chỗ đó thưa anh.
Ngoài vai trò làm cha và làm thầy, anh thật sự là người anh cả đúng nghĩa của đại gia đình Đồng Công. Em nhớ lại, cứ mỗi lần anh ở xa về, thí dụ, từ Quy Nhơn về Thủ Đức chẳng hạn là cả nhà đều vui hẳn lên. Một nguồn sức sống mới, và hạnh phúc dâng trào. Ai cũng mong được gặp gỡ và trò truyện với anh. Dù là linh mục, tu sĩ, tập sinh, thỉnh sinh, hay ngay cả một em đệ tử, anh đều gọi bằng một tên gọi rất thân thương là “em”, và đáp lại tất cả được hân hạnh gọi anh là “anh”.
Có lẽ Dòng Đồng Công là một dòng có nét cách mạng đặc thù nhất trong lối xưng hô: mọi người đều gọi nhau bằng anh và tự xưng mình là em. Anh em một nhà không phân biệt tuổi tác, chức thánh hay không chức thánh, hoặc chức vụ khác nhau trong Dòng. Khi anh em chúng em xưng hô là anh em với nhau, nhiều người lấy làm cảm động và hỏi nhau: “Tại sao mấy ông này thân mật với nhau đến thế? Họ là anh em thật với nhau sao?”
Nhưng điều căn bản của tinh thần anh em ấy không phải phát xuất bằng cảm nhận, mà nó đến từ tinh thần khiêm nhường của Phúc Âm. Khi anh tự nhận mình là “anh cả”, không có nghĩa là anh cho mình hơn mọi người mà chỉ là biểu tượng cho một tấm lòng khiêm nhường. Anh tự nhận là người anh cả “tội lỗi”. Điều này Thánh Phaolô cũng đã tự nhận “Quorum Primus”. Người tội lỗi nhất. Người anh hèn mọn nhất.
Chúng em được làm em của anh, và làm anh em với nhau là do tinh thần ấy và do tâm tình ấy. Anh luôn luôn tỏ ra săn đón, lo lắng và băn khoăn cho sự trọn lành của mỗi chúng em, và như Chúa Giêsu đã có lần bị sự sốt sắng nhà Chúa thiêu đốt đã đánh đưổi kẻ buôn bán ở Đền Thờ. Một đôi khi anh cũng đã thẳng tay sửa phạt những người em mà anh cho là không đi trúng đường lối nên thánh của anh.
Anh Cả yêu dấu,
Qua hơn 30 năm xa anh. Em hằng tâm niệm và nhớ mãi những kỷ niệm về anh. Em vẫn nhớ những lời anh răn dậy. và vẫn nhớ lý tưởng thánh Đồng Công. Em vẫn nghĩ rằng em sẽ không có dịp gặp lại anh khi anh còn sống. Chúa quan phòng đã cho em được toại nguyện mặc dù chỉ là một phút giây ngắn ngủi. Tháng Năm năm 1996, sau 21 năm xa anh, em có dịp về thăm lại quê hương, người mà ngoài thầy mẹ của em, anh là người mà em mong mỏi được gặp nhất. Tiếc là hôm đó anh vừa dâng lễ xong và đang lúc anh còn cám ơn rước lễ nên em không gặp đưọc anh. Em tiếc xót lắm. Tháng 8 năm 2000, em và Minh lại ghé thăm anh, cũng lại gặp lúc anh bận. Em nghĩ có lẽ mình không có duyên với anh chăng? Cuối cùng thì Chúa cũng cho em có dịp gặp anh, và tháng 12 năm 2003, em đã thật sự gặp anh, lần này cũng là lúc anh vừa dâng lễ xong, trên đường về phòng riêng để cám ơn. Đích dẫn em chạy đại đến trước mặt anh. Đích nói:
- Anh Cả. Duyệt đấy. Duyệt đội 8 ghé thăm anh Cả, anh nhớ không?!.
Anh nhìn em bằng cặp mắt như thưở nào, rồi nói:
- Duyệt à?! Rồi anh ban phép lành cho em và cho hai con của em.
Em biết anh coi trọng giây phút sau dâng lễ và cám ơn rước lễ nên việc anh dừng lại và dành cho bố con em ít phút như vậy là anh thương em lắm. Và phép lành ấy hẳn là sẽ theo em và các con em suốt cuộc đời.
Em không tin tử vi và chỉ tay, nhưng có lần một người bạn em nhìn em và xem chỉ tay em đã nói số em là số sống xa người thân và cô đơn. Điều này nếu đem áp dụng vào sự xa cách giữa em và anh, cũng như sự xa cách giữa em và thầy mẹ em thì đúng. Chính vì vậy, lần về quê sau đó, tháng 7 năm 2005, em cũng không được gặp anh.
Giờ đây, anh đã ra đi về bên kia thế giới. Từ nay, những lần em về thăm quê thì có muốn, em cũng không gặp được anh nữa. Nhưng như thế cũng là đủ. Em đã được toại nguyện vì đã gặp được anh một lần.
Anh Cả thân yêu,
Giờ đây ở bên Chúa, xin anh hãy cầu nguyện cho em và các anh em của anh. Em nguyện sẽ đi suốt cuộc đời này với lý tưởng thánh Đồng Công, với lòng yêu mến Thánh Thể và Mẹ Maria, và với sự khiêm tốn Phúc Âm theo tinh thần Đơn Sơ, Phó Thác. Anh đừng sợ. Tuy không có dịp gặp lại anh và hứa với anh một câu trước khi anh lìa đời, nhưng tâm nguyện của anh, em sẽ cố gắng sống, đó là sự thánh thiện bản thân, nên hoàn thiện ngay trong chính bậc sống của mình.
Anh Cả. Em xin gọi tên anh một lần cuối!
Kỷ niệm ngày anh qua đời, 21 tháng 6 năm 2007
Trần Mỹ Duyệt
Khi trồng bông hoa trong vườn cũng như trong nhà, thường ai cũng kiếm loại giống
cây hoa có cành lá xanh tốt, có nở bông hoa xinh đẹp.
Nhưng hầu hết các loài bông hoa có nụ hoa tươi đẹp xinh thắm, thân cây cành lá
lại chẳng có gì đẹp hấp dẫn cả. Như cây hoa hồng có gai nhọn khắp ở thân cây,
như cây hoa xấu hổ cũng có gai nhọn tua tủa khắp các cành nhánh. Nhưng nụ bông
hoa tươi thắm của chúng lại đẹp, và hoa tươi thắm mới là chính.
Và có lẽ trong các loài thảo mộc, cây xương rồng là loài cây cục mịch gai góc
cùng mình, lại chẳng có cành lá, chỉ mỗi thân cây thẳng đứng cứng đờ. Những
tưởng cây xương rồng không có nụ bông hoa gì. Vì toàn thân chỉ mọc tua tủa gai
nhọn cùng gai nhọn. Hầu như không có chỗ nào trống trên thân cây mà không có gai
mọc vươn ra. Nhưng dẫu vậy, khi phát triển đầy đủ thành cây trưởng thành, nó
cũng nở nụ đâm bông tươi xinh đẹp. Nhiều nhà chụp hình chuyên nghiệp đi tìm kiếm
bông hoa cây xương rồng chụp làm ảnh nghệ thuật triển lãm hay in thiệp bán.
Với con người cũng vậy, một người vẻ bên ngoài xem ra không có gì hấp dẫn, không
có gì đặc biệt. Nhưng lại là người có một đời sống chân thành đầy lòng bác ái vị
tha.
Một ai đó theo luật lệ đạo đời xem ra đời sống không có gì ngay chính - phải, có
khi mang tiếng là “tội lỗi” trong qúa khứ và có thể trong lúc hiện tại. Nhưng
đâu có ai mãi mãi là như thế “ Sông có khúc, người có lúc” mà. Sự thay đổi sẽ
đến và mang lại cho họ đời sống mới, đời sống tốt lành ngay chính.
Như loài cây cối mang mầm giống nụ hoa cần thời gian phát triển trổ nở bông hoa,
con người cũng cần như vậy.
Ngay trong gia đình, em bé, bạn trẻ có thời kỳ làm lầm lỗi, sống bướng bỉnh không theo kỷ luật. Nhưng không có cha mẹ nào, không có ai từ họ, bỏ rơi họ bao giờ. Trái lại tìm cách giúp họ hiểu tìm ra con đường đời sống thế nào là ngay chính tốt đẹp.
Một em bé, một bạn trẻ lỗi phạm đến cha mẹ, đến luật lệ trong đời sống gia đình,
khi em đến với cha mẹ nhận ra lỗi lầm và xin tha thứ làm hòa. Cha mẹ họ hằng chờ
đợi giây phút đó từ lâu. Và chắc chắn không có cha mẹ nào, không có anh chị em
nào hận ghét em nữa. Trái lại dang rộng vòng tay đón nhận họ, trao tặng họ tình
yêu thương sự tha thứ.
Chính tình yêu sự tha thứ đó giúp em vươn lên làm lại cuộc đời mới tốt lành.
Chính tình yêu sự tha thứ đó đem đến cho em lòng hăng hái phấn khởi gắn bó với
mọi người, gắn bó với chính đời sống của em.
Chính tình yêu sự tha thứ đó tạo
ấn tượng sâu đậm trong tâm hồn em hiểu ra, thế nào tình người trong đời sống. Và
từ mốc điểm đó, đức tin vào một Thiên Chúa tình yêu nở nụ hoa tươi thắm trong
tâm hồn em.
Chúa Giêsu trên bước đường giảng đạo đã tiếp xúc với người phụ nữ, hồi đó bị
khinh chê là người “tội lỗi”. Chị ta đến với Chúa Giêsu bày tỏ tấm lòng ăn năn
yêu mến. Chúa Giêsu tha thứ những tội lỗi cho chị ngay. “ Tội của con đã được
tha…Lòng tin của con đã cứu chữa con. Hãy đi bằng an”.
Như thế, đời sống chị ta có khác nào một cây xương rồng lâu năm chỉ mọc lan tỏa
toàn gai nhọn xấu xí, giờ đây đã nở nụ bông hoa tươi thắm.
Tình yêu thương là viên gạch căn bản xây dựng cuộc sống làm người, nhất là trong
tương quan với Thiên Chúa, Đấng là nguồn mạch tình yêu thương.
“ Mỗi người đều mang trong mình hai mẫu hình tượng: ai cũng là người xa lạ, và
xa lạ ngay cả với tình yêu thương (điều căn bản này vượt qúa điều tự nhiên trong
đời sống đã bị đánh mất); mỗi người cần phải được chữa lành và được ban tặng.
Mỗi người cần phải là một người Samaritano nhân lành đầy lòng bác ái thương
người– tin theo trở nên Chúa Giêsu Kitô như ông ta. Có thế mới sống đúng. Chúng
ta mới yêu thương phải đạo chính đáng, khi chúng ta trở nên giống Chúa Giêsu
Kitô, Người đã yêu thương tất cả mọi người. ( 1 Ga 4,19) ( Joseph Ratzinger –
Benedickt XVI., JESUS VON NAZARETH, I. Herder 2007, chương 7., Tr. 241.).
LM. Nguyễn Ngọc Long
Từ nền tảng sống đạo là sống quy chiếu vào Chúa Ba Ngôi, để sống ơn gọi nên thánh và sống sứ mạng chứng nhân, người Kitô hữu cần định hướng cho việc sống đạo của mình qua việc đào tạo lương tâm ngay chính, thứ đến là ý thức phẩm giá làm người và sống đúng phẩm giá ấy. Một khi ý thức được phẩm giá của mình ta mới hoán cải và đổi mới theo tiếng gọi của Tin mừng.
Dù được nhìn từ bất kỳ góc độ nào, triết lý nào đi chăng nữa, mẫu số chung chi phối các hành vi đạo đức và lối sống luân thường đạo lý được mọi người và mọi thời chấp nhận như làm lành lánh dữ, chân thật, chung thuỷ, công bằng…chính là phẩm giá con người.
Kitô hữu vẫn xác tín rằng phẩm giá con người có tính thánh thiêng, vì được tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa ( St 1 27). Chính tính cách thánh thiêng này của phẩm giá không cho phép con người sống như những động vật khác, sống theo bản năng, sống theo kiểu đạo đức cơ hội, xu thời, nhưng đòi buộc con người phải tôn trọng lương tâm và danh dự, không chấp nhận hạ giá “ lương tâm không bằng lương tháng”, không chấp nhận “ Đổi tình lấy điểm”, thà “chết vinh hơn sống nhục”.
Thế nhưng, trong bối cảnh của xã hội hiện nay, với những tệ nạn buôn bán phụ nữ, coi hôn nhân vượt biên giới là phương tiện để đổi đời, tệ nạn tham nhũng, hối lộ xảy ra như cơm bữa…thì người ta dễ dàng chấp nhận chủ trương “Nắng bề nào nương bề đó” “ có thực mới vực được đạo”, “có khói mới linh” muốn chạy việc phải “ bôi trơn”, còn “thật thà thường thua thiệt” …những dấu chứng cho thấy phẩm giá con người đang bị lâm nguy.
Trong thánh lễ khai mạc mật nghị bầu Giáo hoàng, ngày 18/05/2005, Đức Giáo Hoàng đương kim ( tức ĐHY Joseph Ratzinger đã cho thấy một thế giới có nhiều chủ thuyết làm lung lay đức tin cho người tín hữu; từ tự do ến tự do phóng túng từ chủ nghĩa tập thể đến chủ nghĩa cá nhân…một xã hội không thấy cái gì là thánh thiêng đưa đến một tình trạng sống không có Thiên Chúa. Một khi tiêu chuẩn là lợi nhuận được đặt lên hàng đầu trong mọi mối tương quan thì đồng nghĩa với việc “…hạ giá thân xác như gia sản động vật, khi ấy hồn xác sẽ mất đi phẩm giá của mình” . Nói cách khác, những vấn đề nêu trên đều cho thấy khuynh hướng xã hội ngày nay coi giá trị vật chất hay lợi nhuận hơn hẳn giá trị tinh thần, và như thế đã hạ thấp phẩm giá con người.
Trong bối cảnh đó, Hội Đồng Giám mục Việt Nam nhận định rằng : “Con người vừa là nạn nhân vừa là tác nhân của hoàn cảnh xã hội… hoàn cảnh xã hội nhào nặn ra con người… Trước những thay đổi hiện thời của xã hội làm ảnh hưởng không nhỏ đến cách nghĩ và lối sống của nhiều người, nhất là những người trẻ, chúng tôi đề nghị một lộ trình sống đạo khởi đi từ việc đổi mới bản thân’ ( số 5). Việc đổi mới này được bắt đầu từ chỗ mỗi người cần ý thức và sống cho đúng phẩm giá của mình là hình ảnh của Thiên Chúa và được kêu gọi hướng tới sự kết hợp trọn vẹn với Thiên Chúa : “ Ý nghĩa cao cả nhất của phẩm giá con người là con người được kêu gọi tới kết hiệp với Thiên Chúa”… Cũng vì thế, nhận ra phẩm giá của mình chính là khởi đầu cho việc thánh hoá bản thân” ( số 5).
II. Để ý thức và sống phù hợp với phẩm giá.
Hiến chế mục vụ về Giáo hội Trong thế giới ngày nay trình bày những nét chính yếu về phẩm giá con người.
1. Phẩm giá của thân xác
Xét về thể xác, con người là một tổng hợp những yếu tố thuộc thế giới vật chất. Tuy nhiên con người không chỉ là xác mà là xác hồn duy nhất. Nhờ con người, những yếu tố vật chất đạt tới tuyệt đỉnh của chúng. Cũng vì thế con người không được khinh miệt đời sống thể xác nhưng phải tôn trọng thân xác mà chính Thiên Chúa đã tạo dựng và sẽ cho sống lại trong ngày sau hết. Đồng thời con người không được để cho thân xác mình làm nô lệ cho những dục vọng xấu xa nhưng phải ca tụng Thiên Chúa nơi chính thân xác mình : “ Thân xác con người không phải để gian dâm mà để phụng sự Chúa vì Chúa làm chủ thân xác. Thiên Chúa đã làm cho Chúa Kitô sống lại ; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại” ( Cr 6, 13- 14).
2. Phẩm giá của linh hồn.
Linh ư vạn vật. Con người nhận biết mình cao cả hơn vạn vật nhờ nội giới. Vì thế, khi nhìn nhận mình có một linh hồn thiêng liêng bất tử, con người không rơi vào một ảo tưởng xa lạ phát sinh từ một điều kiện vật lý xã hội nào đó, nhưng là đạt tới chân lý sâu xa về chính phẩm giá làm người của mình. Trở về với nội giới thâm sâu trong lòng mình, con người gặp gỡ chính Thiên Chúa là Đấng thấu suốt tâm can, đồng thời ở đó con người tự định đoạt về vận mệnh tối hậu của mình trước mặt Thiên Chúa.
3. Phẩm giá của tri thức.
Nhờ trí tuệ, con người vượt trên mọi loài thụ tạo và đã đạt được những tiến bộ phi thường trong việc khám phá và chế ngự thế giới vật chất. Tuy nhiên trí khôn con người không chỉ giới hạn trong thế giới hiện tượng mà còn có khả năng thấu triệt những thực tại siêu hình cách chắc chắn, dù trí khôn con người đã bị suy nhược vì ảnh hưởng tội lỗi. Chính vì thế, cùng với sự phát triển tri thức kỹ thuật, chúng ta cần đến sự “minh triết” để những khám phá khoa học kỹ thuật ứng dụng cách nhân bản hơn và thực sự mang lại lợi ích cho nhân loại.
4. Phẩm giá của lương tâm
Lương tâm là tâm điểm sâu kín nhất và là cung thánh nơi lòng người. Nơi đây con người chỉ hiện diện một mình với Thiên Chúa và tiếng nói của Ngài vang dội trong thâm tâm họ, hướng dẫn họ làm lành lánh ác. Đây là cứ điểm quan trọng để người Kitô hữu có thể liên kết và cộng tác với những người khác trong nỗ lực kiếm tìm chân lý và giải quyết các vấn đề luân lý được đặt ra trong đời sống cá nhân cũng như xã hội.
Lương tâm đó, con người không tự tạo ra, nhưng lương tâm lại có thể bị bị điều kiện hoá do môi trường cũng như do thói quen phạm tội. Chính vì thế, người Kitô hữu cần ý thức và sống theo một lương tâm ngay thẳng bằng cách quy chiếu vào Lời Chúa được Giáo hội giải thích và hướng dẫn.
5. Phẩm giá của tự do.
Con người ngày nay đề cao tự do như giá trị tuyệt đối. Điều đáng tiếc là nhiều khi tự do bị hiểu một cách lệch lạc, chẳng hạn định nghĩa tự do là muốn làm gì thì làm, kể cả điều xấu. Quả thật, nếu tự do đích thực là dấu chỉ cao cả nhất của hình ảnhThiên Chúa nơi con người, thì điều quan trọng là phải hiểu về tự do cách đúng đắn. Con người chỉ có tự do đích thực khi hành động của họ được thúc đẩy và hướng dẫn từ bên trong, chứ không do bản năng mù quáng bên trong hay cưỡng chế hoàn toàn bên ngoài. Chính vì thế, người Kitô hữu cần tập luyện để sống tự do đích thực bằng cách cộng tác với ơn Chúa để được giải thoát khỏi vòng kềm toả của những đam mê, biết chọn lựa điều thiện và tìm ra những phương thế thích hợp.
Để kết :
Ý thức phẩm giá con người là quà tặng của Thiên Chúa ban sẽ giúp người Kitô hữu đổi mới bản thân theo tiếng gọi của Tin mừng nhiều hơn và như vậy ta góp phần vào việc thánh hoá chính bản thân mình và những người ta gặp gỡ.
Lm. Đaminh Đặng Quốc Hưng
SỐNG CHỨNG NHÂN
Ngày 20-9-1970, Đức Thánh Cha Phaolo VI (1963-1978) tuyên phong nữ thánh Têrêxa
(1515-1582) thành Avila (Tây-Ban-Nha) làm tiến sĩ Hội Thánh, cùng với thánh nữ
Catarina (1347-1380) thành Siena (Ý). Đây là 2 vị nữ tiến sĩ đầu tiên của Giáo
Hội Công giáo ..
Trong quyển ”Tự Thuật”, hoàn thành năm 1562, thánh nữ Têrêxa Avila hết lời ngợi khen và ghi ơn công đức của hai Đấng Sinh Thành. Chính nhờ hấp thụ nền giáo dục thánh thiện của các ngài mà Têrêxa tiến bước trên đường nhân đức, vượt thắng những thăng trầm, những cạm bẫy. Thánh nữ viết:
Đối với tôi, để trở thành người tử tế, tôi cần có cha mẹ đạo đức và biết kính sợ
THIÊN CHÚA. Và đó là điều Chúa thương ban cho tôi, mặc dầu tôi bất xứng. Thân
phụ tôi rất thích đọc các tác phẩm hay, viết bằng tiếng Tây-Ban-Nha, và bảo
chúng tôi phải đọc những sách này. Trong khi đó thân mẫu chuyên cần dạy chúng
tôi cầu nguyện, yêu kính Đức Mẹ MARIA và vài vị thánh. Tất cả chăm sóc ấy gieo
vào lòng tôi tâm tình đạo đức, ngay từ thời thơ ấu, tức năm tôi lên 6, lên 7.
Tôi được giáo dục thật chu đáo bởi Cha Mẹ hiền đức. Hai vị không yêu thích gì
khác ngoài việc thực hành các nhân đức.
Nhân đức của cha mẹ tôi nhiều vô kể. Chẳng hạn thân phụ tôi rất có lòng thương người nghèo, bệnh nhân và tôi tớ giúp việc trong nhà. Lòng thương đầy tớ lớn lao đến độ, không bao giờ Ba tôi chấp nhận việc có các nô lệ trong nhà. Khi người nô lệ của ông chú đến ở trong nhà chúng tôi, ba tôi thương yêu chăm sóc như người con trong gia đình. Ba thường nói:
- Chỉ nguyên ý nghĩ cô ta là người không được tự do, đủ làm Ba thương xót cô ta
khôn cùng!
Một đức tính khác trổi vượt nơi thân phụ tôi là người sống rất ngay chính, trung
thực. Ba tôi không bao giờ chửi thề hay nói lời nào khinh bỉ.
Về phía Mẹ tôi thì bà cũng có nhiều đức tính quý báu. Nổi bật nhất là tính đoan
trang trong sạch. Mẹ tôi có sắc đẹp nghiêng nước đổ thành, nhưng không bao giờ
Mẹ ăn mặc hoặc trang điểm gì thêm để lôi kéo người khác chú ý đến sắc đẹp của
mình. Và mặc dầu tuổi còn trẻ, Mẹ tôi ăn mặc kín đáo và giản dị như đàn bà cao
tuổi, cho đến năm Mẹ tôi lìa đời, hưởng dương 33 tuổi. Mẹ rất hiền dịu và không
bao giờ to tiếng cãi cọ hoặc tranh chấp với ai. Cuộc đời trần thế của Mẹ tuy
ngắn ngủi, nhưng bà trải qua nhiều thử thách cam go, đặc biệt là suốt đời Mẹ
mang bệnh. Mẹ tôi chết trong hương thơm thánh thiện.
Tôi còn nhớ như in ngày Mẹ qua đời. Năm đó tôi lên 12 hoặc 14 tuổi. Khi tôi ý
thức mình vĩnh viễn mất mẹ ở đời này, lòng tôi vô cùng đau xót. Nước mắt dàn
dụa, tôi đến quỳ gối trước tượng ảnh Đức Mẹ MARIA và khẩn nài xin Đức Mẹ hãy làm
Mẹ tôi. Đây là cử chỉ hoàn toàn ngây thơ, nhưng thật sự giúp tôi rất nhiều, suốt
trong cuộc đời mồ côi Mẹ. Đức Mẹ MARIA trở thành người Mẹ thật của tôi, bởi vì
tôi luôn luôn chạy đến kêu cầu với Đức Mẹ, cũng như Đức Mẹ đưa tôi trở về với
THIÊN CHÚA, sau những năm tháng sống bất trung của tôi.
Trong thời thơ ấu, sống nơi mái ấm gia đình, tôi theo gương thân phụ ưa thích
làm phúc cho người nghèo.
Nhưng điều này hơi khó vì trẻ thơ không có tiền. Có một điều tôi làm được và làm
rất dễ dàng, đó là tìm nơi thanh vắng để đọc tất cả những kinh tôi thuộc, đặc
biệt là lần hạt Mân Côi. Đây là lời kinh do chính Mẹ tôi dạy. Mẹ tôi rất có lòng
yêu mến Đức Mẹ MARIA và thông truyền sang chúng tôi lòng kính mến này.
Rồi khi chơi đùa với các trẻ gái cùng tuổi, tôi thường rủ các bạn chơi trò chơi
làm Các Nữ Tu dòng Kín, sống nơi các đan viện. Chúng tôi giữ thinh lặng, hoặc
nói năng đoan trang, hoặc cùng nhau đọc kinh lần hạt. Hình như tôi có lòng ao
ước trở thành nữ tu nhà Kín ngay từ thời thơ trẻ.. Quả thật, tôi nhận được hồng
ân lớn lao nơi THIÊN CHÚA.
Ngài cho tôi Cha Mẹ đạo đức, chỉ luôn mong muốn và dạy dỗ con cái điều lành,
điều thánh. Sau này, trong cuộc đời, tôi có lần bất trung với Chúa. Nhưng đó là
hoàn toàn do lỗi của tôi, chứ tôi không có quyền trách cứ Cha Mẹ tôi vì bất kỳ
lý do gì.
... ”Thương con thì cho roi cho vọt, sau này sẽ vui sướng vì con. Ai biết giáo dục con sẽ được thỏa lòng về con, và được hãnh diện với những người quen biết. Ai biết dạy dỗ con mình sẽ khiến kẻ thù phải phát ghen, và sẽ được sung sướng trước mặt bạn bè. Người cha có chết thì cũng như chưa chết, vì đã để lại đứa con giống như mình. Khi còn sống, ông nhìn con mà vui sướng, giờ chết đến, sẽ không phải buồn phiền” (Huấn Ca 30,1-5).
(”THÉRÈSE D'AVILA, Oeuvres Complètes, Desclée de Brouwer, 1964, trang 14-17).
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
TÌNH YÊU - HÔN NHÂN - GIA ĐÌNH
Kỷ niệm lễ Bạc ngày cưới, 25 năm.
Thân tặng các bố đời Khai Phá
Có mặt chiều nay, trong nhà thờ lúc này, mà nghe hồn mình bồi hồi hạnh phúc. Cái hạnh phúc miên man khó tả. Vừa nồng nàn, vừa sâu lắng. Không sâu lắng sao được, bởi cái hơi ấm nhận được, nó phả ra từ một tình yêu nồng cháy và tinh tuyền. Tình yêu ấy được đốt lên cách đây đúng 25 năm.
Cũng tại chỗ này đây, hai đứa đã ngượng nghịu ngồi bên nhau. Đã tiến lên cung thánh, để nói lời thề hứa: Mãi mãi chung thủy và khắng khít với nhau đến trọn đời. Cảm động đến toát mồ hôi.
Rồi cũng trước mặt mọi người, vụng về trao nhẫn cho nhau. Trao cho nhau trọn vẹn cuộc đời. Cả vui lẫn buồn. Cả tiếng cười lẫn tiếng khóc.
Thời gian trôi đi, có khi âm ỉ , có khi nồng cháy. Nhưng nhất định tình yêu ấy lúc nào cũng vẫn đằm thắm, không phai.
25 năm là một chặng đường dài, một phần tư thế kỷ. Trong đó, được đan dệt và trộn lẫn bằng muôn vàn thứ, muôn vàn hy sinh, muôn vàn nhịn nhục, muôn vàn khích lệ, muôn vàn tiếng cười, muôn vàn tiếng thở dài, có khi có cả nước mắt.
Nhìn đi thì thấy thật dài. Bây giờ nhìn lại, ôi sao ngắn ngủi, mau quá.
25 năm nhìn lại. Kể từ tháng ngày 2 đứa mới quen. Oi sao hạnh phúc, ôi sao ngọt ngào. Những tháng ngày trong vai người tình, hẹn nhau, giận nhau, nhớ nhau, ghen nhau. Oi thật sướng vui tuyệt vời.
Rồi sau những tháng ngày vừa cưới. Bầu trời hồng hẳn lên, mặt trời dịu dàng hơn. Bước chân đi, ôi sao thênh thang và nhẹ nhàng.
Hoàng tử và công chúa tíu tít bên nhau.
Dung dăng dung dẻ. Đời ơi! Sao đời đẹp quá thế!
Thời gian cứ lặng lẽ trôi. Xói mòn tất cả. Phôi pha tất cả. 25 năm rồi đó sao? Nhìn lại chợt bàng hoàng.
Tóc mình đã có nhiều lớp điểm sương.
Khuôn mặt trong gương, đã có vô vàn những vết chân chim hằn lên khóe mắt.
Bình tĩnh nhìn lại, ta bỗng khám phá thấy có quá nhiều điều để nói lên.
1. Chúng ta chịu ơn nhau quá nhiều
Để có được gia đình như ngày hôm nay, không phải đương nhiên mà thành, mà là do sự góp mặt của bao hy sinh vất vả. Không chỉ của riêng ai, mà của cả hai người.
Người chồng đã phải thức khuya dậy sớm, phải vò đầu bóp trán, suy nghĩ đến muốn điên đầu. Đã phải mím môi, để trụ lại, trong những tình huống ngặt nghèo.
Vì vợ vì con, mà đã phải từ bỏ bao nhiêu là những đam mê quyến rũ, bao nhiêu là những thú vui giăng ngang, mời chào đầy đường phố.
Vì gia đình, người chồng đã phải đổ biết bao mồ hôi nước mắt.
Người vợ cũng chẳng kém gì. Vì chồng vì con, chị cứ phải luôn tay luôn chân. Sắp xếp cái này, giặt giũ cái kia. Tính toán, vun xới, sao cho mái ấm gia đình được bình an. Để chồng, để con không phải mặc cảm vì thua kém bà con hàng xóm.
Đã phải nuốt đắng vào tim, nuốt nhục vào hồn, trước những lúc nóng nảy, vô lý của chồng.
Rồi trước những khoảnh khắc thiếu sót, dại dột của chồng, như say, như xỉn, chị đã phải nhẫn nại, cúi xuống mà dọn, mà lau, chán ngán đến tột độ, tởm lợm đến phát ói. Nhưng vì yêu, cũng phải can đảm mà làm.
Rồi những khi trái gió trở trời, phải chạy ngược chạy xuôi, thuốc thang, cháo bún. Rã rời cả tay chân, hốc hác cả khuôn mặt, mệt mỏi cả tâm hồn, nhưng vì yêu vẫn cứ cố gắng.
2. Chúng ta đối xử với nhau tệ quá
1/ Điều đầu tiên phải nói lời xin lỗi với nhau. Đó là chúng mình đã ăn nói với nhau tệ quá.
Mình là chồng, đã cậy có quyền làm chồng ấy, để nặng lời chửi bới vợ con.
Người mà trước đây, phải mất bao lời tán tỉnh, ngọt ngào, nịnh đầm, mới có thể chiếm được trái tim.
Rồi người con gái này đây đã về và làm vợ anh. Đã cho anh tất cả. Cho anh cái vẻ đẹp con gái của mình, cho anh cả tuổi xuân mơn mởn, cho anh cả niềm tin trao gởi, cả trái tim hồng.
Thế mà, anh lại dùng những lời nặng nề mà chửi bới chị. Những lời tục tĩu tanh tưởi mà nguyền rủa chị. Buồn ơi.
Và chị cũng vậy. Nhiều lúc nóng lên, chị đã tuôn ra bao lời khó nghe, bôi đen cả khuôn mặt dễ thương của chị ngày nào. Chẳng cân nhắc phản tỉnh, chị chẳng còn biết giữ thể diện cho chồng, tuôn ra xối xả những lời khủng khiếp làm chồng phải cúi mặt.
2/ Chúng ta đã không biết đến những điều tốt của nhau.
Ơ lâu thành nhàm chán, chung đụng với nhau lâu ngày, người ta đâm coi thường nhau. Vì những khuyết điểm của nhau, mà chẳng nhớ gì đến bao nhiêu là ưu điểm, bao nhiêu là những điều tốt đáng trân trọng của những người kia. Chiếc áo trắng thật đẹp, người ta chỉ nhìn thấy có mỗi vết mực nhỏ trên cổ áo, mà không nhìn thấy cả một màu trắng tinh tuyền.
3/ Chúng ta đã không cầu nguyện cho nhau.
Chỉ kêu ca lẩm bẩm là nhiều, có mấy khi biết giúp nhau sửa đổi cho nên tốt đâu. Một trong những thiếu sót của mình, là không biết nhớ đến nhau, trong những khi cầu nguyện. Cầu nguyện cho nhau mỗi ngày, là một sự thể hiện cao độ và sâu sắc về tình yêu của mình. Và khi cầu nguyện cho nhau như thế, sẽ giúp ta làm chủ được mình, mỗi khi có điều bực tức với người ấy.
4/ Chúng ta không còn biết khen nhau
Nhìn kỹ lại mà coi, người bạn đời của mình rất giỏi. Chịu khó lắm đấy nhé. Nhịn nhục lắm đấy nhé. Hy sinh nhiều lắm đấy. Chả mấy khi kêu ca. Chả mấy khi chửi bới. Vậy mà đã lâu lắm rồi, mình chẳng còn biết nhận ra vẻ đẹp ấy để khen, để đỡ nâng, để khích lệ. Ai chả thích được khen, được người ta đánh giá đúng về sự hy sinh, về tình yêu của mình dành cho người khác. Lời khen, là một sự lên giây cót rất tốt trong sự lao động. Có được điều này, các công việc trước mắt, sẽ mất đi sự nặng nề của nó.
3. Chúng mình không thể thiếu nhau
Ơ với nhau lâu ngày, guồng máy gia đình cứ điều hòa trơn chạy. Mỗi người đều có những bổn phận của mình. Thế nên, người ta quên đi những hy sinh đó. Coi đó như là điều tự nhiên, bình thường.
Một trong hai người cứ thử vắng mặt độ một tuần lễ thôi, có những tình huống bất ngờ ập đến để phải giải quyết, mới thấy người kia là cần, là không thể thiếu.
Ơ với nhau lâu ngày dày tháng, người kia đã hiểu rõ ta, cho nên biết cách chăm sóc và tính toán cho ta. Bởi vậy, chúng ta cần nhau lắm, chúng ta không thể thiếu nhau.
4. Hồng ân Thiên Chúa dành cho hai người thật lớn lao
Từ ngày hai đứa về chung một mái. Cùng nhau xây dựng một gia đình, nhiều nghiệt ngã quá phải không em? Có những lúc, hoàn cảnh bi đát mở ra, tưởng chừng 100% không thể vượt qua. Có những khi tình chúng mình tưởng như đã vỡ. Trẻ con quá, không ai chịu ai. Tự ái xông lên nóng cả mặt. Cái ý tưởng ly dị lởn vởn trong cả hai mái đầu.
Nhưng rồi, nhờ hồng ân Chúa, tất cả đều đã qua. Sau cơn mưa, trời lại sáng. Chúng ta càng hiểu nhau hơn, càng yêu nhau nhiều hơn.
Hồng ân Chúa dắt ta từng ngày, chở che ta từng bước. Bây giờ nhìn lại, mới nhìn rõ được bàn tay quan phòng ấy.
Cái điều may mắn nhất là chúng mình có được đức tin. Đức tin là cây gậy giúp ta chống chọi, mỗi khi hiểm nghèo.
Đức tin là điểm tựa cho ta bám víu.
Đức tin là ngọn đèn đủ sáng, để giúp chúng ta thấy lối mà đi, giúp ta thấy được giữa những bóng tối dầy đặc của phía trước, có một bàn tay huyền nhiệm quan phòng, của Thiên Chúa đang dìu dắt ta.
Cho nên, ngồi bên nhau lúc này, trước mắt Chúa đây, sau 25 năm nhìn lại, lời đầu tiên hai đứa cùng nhau phải cất lên là lời tạ ơn ngàn đời.
“Xin dâng lời cảm tạ, tình yêu Thiên Chúa bao la”.
Xin cảm ơn anh mãi mãi.
Xin biết ơn em suốt đời.
Lm. Đa Minh Đỗ Văn Thiêm
ĐỌC SÁCH
(Lc 7, 36-50)
Thầy kính mến,
Luca kể chuyện Thầy đi ăn cơm khách. Chủ nhà là ông Simon, thuộc nhóm Pharixiêu, được dân chúng kính trọng y như chúng con kính trong các nhà thần học bây giờ. Khách được mời thì nhiều. Nhưng Thầy là thực khách số một. Cao quý như một thực khách duy nhất. Chủ nhà chau mày, tỏ vẻ khó chịu với “khách”. Còn”khách” thì vuốt mặt chủ nhà không nể mũi. Tại sao chủ nhà lại bực bội với “khách” quý như vậy? Tại sao “khách” được người ta mời ăn cơm mà lại thiếu tế nhị đến như thế? Oi, cũng chỉ vì một con “đi – ngã”.
Con xin Thầy cho phép con đóng vai ký giả vô tư, để con quay phim, con chụp hình, con thuyết minh. Ong kính bắt đầu ghi hình. Các nhân vật lần lượt xuất hiện.
1. Một con “đi – ngã”. Người ta bảo thế. Nhưng … dường như không phải thế. Đây là một bà mệnh phụ rất trẻ, rất đẹp, rất quý phái. Đúng là một viên ngọc quý của cung đình. Rất kiêu sa! Kiêu sa quá chừng!
Tưởng chừng như cánh tay dài của ông hoàng Salômon cũng chưa thể với tới được. Quả là một ngôi sao lấp lánh trên vòm trời bao la. Thế nhưng … dường như người ta nói đúng. Hắn là con “đi – ngã” thật. Từng sợi tóc, từng sợi tóc, từng phân vuông trên cơ thể tha thướt của hắn dường như đều có trí khôn. Chúng nó biết lựa chọn. Chúng nó biết mời mọc. Chúng nó biết từ chối. Tất cả đều “on-off” như tự động vậy, mà rất chính xác. Chai dầu thơm bằng bạch ngọc kia là kết quả của một lần bật đèn xanh rất chính xác ấy …
Bà mệnh phụ ấy, con “đi – ngã” ấy đang làm tê dại thần kinh của mọi khách tiệc, thì bỗng đổ sụp xuống dưới chân Thầy. Khóc như mưa. Khóc thay cho cả một đời người ba chìm bảy nổi. Khóc vì tủi, khóc vì hận, khóc vì sám hối, khóc vì biết ơn, khóc vì yêu quá là yêu. Nước mắt ràn rụa. Nước mắt đầm đìa. Và … dường như có cả nước mũi nữa. Hắn giật mình vì đã làm lem luốc hai bàn chân thánh của Thầy. Hắn vội vàng quơ mớ tóc óng ả để chùi chân Thầy. Y hắn muốn xin lỗi. Thấy chưa đủ, hắn ôm chân Thầy để hôn. Hôn như điên. Hôn để tạ lỗi. Tạ lỗi thì ít, mà yêu thương thì nhiều. Yêu quá, nên vội vã đổ hết chai dầu thơm lên chân Thầy. Thơm bát ngát! …
2. Ong Simon mời Thầy đến nhà ông dùng cơm. Là người biệt phái mà mời Thầy đến nhà là dễ mất quan điểm lắm. Nhưng có thể vì thấy Thầy sang mà ông muốn bắt quàng làm họ. Cũng có thể đây là thừa cơ thuận tiện nhất để nhóm Pharixiêu tha hồ rình mò, theo dỏi và bắt bẻ Thầy. Nhất cử lưỡng tiện. Một công hai việc.
Là người lãnh đạo tinh thần Do Thái giáo, ông Simon trung thành với truyền thống, chủ trương một đường lối mục vụ nghiệt ngã: Luật vì luật chớ không vì nhân sinh; vạ tuyệt thông là vũ khí tốI tân của giới lãnh đạo, loại trừ tội nhân thì gọn nhẹ hơn là cứu vớt.
Sự xuất hiện của một bà mệnh-phụ-đĩ-thõa làm cho ông chới với trong giây lát. Vừa ước mơ xa xôi, vừa nuốt vội nước miếng để gìn vàng giữ ngọc. Với tư cách là một tôn sư, ông muốn tung hai chưởng để đánh gục Thầy trên sàn đấu trí tuệ. Nhưng vẫn sờ sợ, vì ông chưa thấy ai thắng được Thầy trong lãnh vực này. Ong chỉ tự vấn thôi.
1.1. “Giêsu này được quần chúng công nhận là một sứ ngôn. Nhưng sứ ngôn dỏm. Vì dỏm nên mới không biết con mẹ này là một con quỷ bị vạ tuyệt thông. Nếu biết thì đã phải đuổi nó đi cho khuất mắt rồi”.
1.2. “Rất có thể là hắn biết lý lịch đen thui của con mẹ này rồi. Nhưng hắn cố tình phá luật – Hắn cố tình chống lại Môsê. Bằng chứng rất cụ thể: Môsê cho rẫy vơ, thì hắn cấm; Môsê cấm ăn đồ uế, thì hắn lại bảo rằng chả có đồ ăn nào là uế hết; Môsê không cho đụng vào người cùi, thì hắn cứ đụng, tỉnh bơ như không có luật … Phải ra vạ tuyệt thông cho hắn mới ổn được”.
3. Thầy là đối tượng thứ ba mà ống kính của con muốn dừng lại thật lâu, dừng lại mãi mãi:
Một người tội lỗi trở về. Thầy mừng quá, sướng quá! Những giọt nước mắt sám hối, nóng hỗi rơi lã chã trên bàn chân thánh của Thầy. Am áp quá chừng! Đôi môi mềm mại và mọng hồng mài trên da bàn chân của Thầy như gào thét, như van xin để được tha thứ, để được cứu độ. Cảm động quá chừng. Cảm động đến thắt tim lại. Cứu được một sinh linh, Thầy thỏa mãn vô cùng. Bây giờ nếu cả vũ trụ sụp đổ, có lẽ Thầy cũng không biết. Chả cần biết.
Một người tội lỗi trở về. Một công trình vĩ đại mà Thầy đã phải trả giá bằng mồ hôi, bằng nước mắt và bằng cả máu nữa. Quý giá vô cùng. Quý giá vô tận. Vậy mà đang có những ánh mắt đục ngầu đòi xua đuổi linh hồn ấy. Họ nhân danh Luật để loại trừ. Họ nhân danh Giavê để tiêu diệt. Người đời đến thế là cùng!
Thầy ngọt ngào mời rápbi Simon ra sân đấu. Tưởng bở. Bất ngờ Thầy cho ông thi đấu với một con “đi – ngã”. Chua quá chừng! Nhưng đành cắn răng mà chịu. Thầy làm trọng tài. Công bố điểm thắng liên tục.
Điểm thắng luôn luôn nghiêng về cô “đi – ngã” làm vỡ mặt ông Pharixiêu Simon.
Một – “Tôi vào nhà ông. Ong chưa lấy nước lã rửa chân tôi. Còn cô này đã lấy nước mắt tưới đẫm chân tôi”.
(Con ghi trộm: 1-0)
Hai – “Tôi vào nhà ông. Ong không hôn chân tôi. Còn cô này tữ nãy tới giờ hôn chân tôi không ngừng”.
(Con ghi vội: 2-0)
Ba – “Tôi vào nhà ông. Ong không lấy dầu ôliu xức trên đầu tôi. Còn cô này đã lấy dầu thơm xức lên chân tôi”.
(Con ghi nhanh: 3-0)
Thầy âu yếm nhìn đứa con vừa thắng tuyệt đối 3-0 trên đối thủ là bậc thầy của Do Thái giáo. Thầy nói lời cuối, ngọt như mía lùi: “Tội của con được tha hết rồi … Thôi con về đi. Chúc con bình an”.
(Chuyện kết thúc ở đây)
Thầy kính mến,
Bây giơ, con xin được ngỏ lời riêng với Thầy.
Ong Simon mời Thầy ăn cơm. Thầy là khách lẽ ra Thầy cũng nên nễ mặt ông ấy một tí. Thế mà Thầy quất thẳng tay. Ngạn ngữ Việt Nam của con gọi thái độ ấy là: “Vuốt mặt không nễ mũi” đấy.
Ong Simon là người có địa vị trong xã hội, là “Đấng Bề trên” của một tôn giáo có lịch sử 13 thế kỷ. Ong đáng được Thầy nhẹ tay hơn một chút.
Nhưng Thầy khẳng định: “Thầy là mạc khải trọn vẹn của Chúa Cha”. Con hết ý. Vâng, bây giờ con hiểu rồi. Cái TÂM của Thầy là thế. Ơ đây là công bố ý của Chúa Cha. “Tế nhị” và “nễ mặt” ở đây là làm lu mờ ý của Chúa Cha. Chúa là Cha nhân từ yêu thương người tội lỗi như thế đó và đến như thế đó. Ong to, ông lớn, ông đạo, ông đời không bao giờ được giảm thiểu cái TÂM ấy của một Ngôi Lời làm người. Tội lỗi thì phải ghét. Nhưng người tội lỗi thì phải được kính trọng và yêu thương. Phải kính trọng và yêu thương thật nhiều để mở một con đường rộng thênh thang cho người tội lỗi trở về. Và … họ đã trở về thật nhiều (Lc 15,1).
Người ơi, Đời ơi, Đạo ơi, người tội lỗi vẫn là người, và vẫn còn nhân phẩm đấy nhé.
Lm. Piô NGÔ PHÚC HẬU
Nhận được Tin vui
Thầy Phó tế Giuse Vũ Văn Quyên, một người con của Gx. Phú Bình và là cộng tác viên của Web site Tin vui
Vừa được Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn trao ban tác vụ Linh mục tại Vương cung Thánh đường Đức Bà Sài Gòn
Vào sáng ngày Thứ Sáu 29.6.2007.
Ban biên tập Tuần san Tin vui xin chia sẻ niềm vui với gia đình ông bà cố
Xin Chúa luôn đồng hành với tân linh mục trong sứ mạng qui tụ mọi người về bên Đức Kitô là Đường, là SựThật và là Sự Sống