TIN VUI

Tuần san Bạn trẻ Công Giáo  -  Số 98 CN 12.08.2007

 

Web site : www.tinvui.org

E-mail : bantreconggiao@yahoo.com

MỤC LỤC

 

Chúa Nhật XIX Thường Niên C..

KHO TÀNG CÁC CON Ở ĐÂU, THÌ LÒNG CÁC CON Ở ĐÓ..

ĐỨC TIN TRONG HÀNH TRÌNH GIÁO DỤC..

Chương trình chi tiết chuyến viếng thăm của ĐGH tại Áo.

ĐTC chia buồn với Tổng giáo phận Paris về sự qua đời của ĐHY Lustiger.

LỄ AN TÁNG ĐHY JEAN MARIE LUSTIGER..

Giáo phận Thái Bình có thêm 9 tân linh mục.

Thánh lễ phong chức Linh Mục tại giáo phận Thanh Hóa.

Lễ Khấn trọn đời 25 nữ tu Đa Minh Rosa Lima ở Xuân Hiệp.

Bài giảng của ĐC Micae Hoàng Đức Oanh trong thánh lễ khấn trọn đời của 25 nữ tu Đa Minh Rosa.

LỄ ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI.

TRUYỀN THỐNG VÀ THÁNH KINH NÓI GÌ?.

Thánh Đaminh, người con Đức Mẹ.

Đức Mẹ Maria và Giáo Hội

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC..

BỊ ÉP LY HÔN, RỒI LẬP GIA ĐÌNH MỚI VỚI NGƯỜI KHÔNG THEO ĐẠO, NAY CHỒNG CHẾT, CÓ THỂ LÀM THỦ TỤC TIÊU HÔN VỚI NGƯỜI CHỒNG TRƯỚC ĐƯỢC KHÔNG ?.

TRONG TRƯỜNG HỢP CẦN KÍP CÓ THỂ XƯNG TỘI QUA ĐIỆN THOẠI HAY THAM DỰ THÁNH LỄ QUA TRUYỀN HÌNH ĐƯỢC KHÔNG?.

Giải đáp.

VIỆC TÔN KÍNH ĐỨC MẸ CÓ CẦN THIẾT CHO ƠN CỨU RỖI KHÔNG ?.

Bom Nguyên Tử trên thành phố Hiroshima, 62 năm nhìn lại

Sinh viên ở lưu xá.

Bố mẹ vô tình dạy con nói dối

LỄ ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI.

 

 

 

SỐNG LỜI CHÚA

Chúa Nhật XIX Thường Niên C

 

Tin mừng : Lc 12: 32-48

"Các con hãy sẵn sàng".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hỡi đoàn bé nhỏ, các con đừng sợ, vì Cha các con đã vui lòng ban nước trời cho các con. Các con hãy bán những của các con có mà bố thí. Hãy sắm cho các con những túi không hư nát, và kho tàng không hao mòn trên trời, là nơi trộm cướp không lai vãng và mối mọt không làm hư nát. Vì kho tàng các con ở đâu, thì lòng các con cũng ở đó. "Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ. Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức: Thầy bảo thật các con, chủ sẽ thắt lưng, đặt chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng. Nếu canh hai hoặc canh ba, chủ trở về mà gặp thấy như vậy, thì phúc cho các đầy tớ ấy. Các con hãy hiểu biết điều này là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, ắt sẽ tỉnh thức, không để nó đào ngạch nhà mình. Cho nên các con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến". Phêrô thưa Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy nói dụ ngôn đó chỉ về chúng con hay về mọi người?" Chúa phán: "Vậy con nghĩ ai là người quản lý trung tín khôn ngoan mà chủ đã đặt coi sóc gia nhân mình, để đến giờ phân phát phần lúa thóc cho họ? Phúc cho đầy tớ đó, khi chủ về, thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt người đó trông coi tất cả gia sản mình. Nhưng nếu đầy tớ ấy nghĩ trong lòng rằng: "Chủ tôi về muộn", nên đánh đập tớ trai tớ gái, ăn uống say sưa: chủ người đầy tớ ấy sẽ về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, chủ sẽ loại trừ nó, và bắt nó chung số phận với những kẻ bất trung. Nhưng đầy tớ nào đã biết ý chủ mình mà không chuẩn bị sẵn sàng, và không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn đầy tớ nào không biết ý chủ mình mà làm những sự đáng trừng phạt, thì sẽ bị đòn ít hơn. Vì người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều, và đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn".

Đó là lời Chúa.



 

KHO TÀNG CÁC CON Ở ĐÂU, THÌ LÒNG CÁC CON Ở ĐÓ

Trong cuốn truyện ‘Xin chọn người yêu là Thượng đế’, nhà văn Nikos Kazanzakis thuật lại một lần kia thánh Phanxicô khó khăn, đấng lập dòng Anh em Hèn mọn, nói với một người bạn thường đi theo ngài rằng : “Nếu anh không muốn con đường này, anh có thể theo con đường khác. Còn tôi, tôi không thể đi đường nào khác được nữa”. Người kia ngạc nhiên hỏi : “Tại sao anh không thể đi con đường khác?” Thánh Phanxicô trả lời : “Tôi đã đốt cháy mọi cây cầu mà tôi vừa đi qua”.

Đôi khi người ta có những quyết tâm nửa vời, ba phải. Nhưng câu hỏi về đích nhắm sau cùng của đời người không có chỗ cho sự mơ hồ, nửa muốn nửa không : “Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3,17). Thử hỏi ai là người dám đưa cả đời mình ra đánh cuộc cho một kết quả “năm ăn năm thua”?

Nhưng ta sẽ tìm được ở đâu một sự bảo đảm cho con đường đời mình đang đi? Làm thế nào mà thánh Phanxicô lại có được một quyết tâm triệt để và một xác tín vững chắc vào con đường mình đang đi? Ngài tìm được sự bảo đảm trong niềm tin vào tình yêu Chúa : “Chính tay Ngài đã tạo tác nên con, chẳng lẽ Ngài đổi ý mà huỷ diệt?” (G 10,8).

Đúng thế! Thiên Chúa yêu mỗi người như một người con : “Ngài đã ban cho con tình thương và sự sống, quan tâm đến từng hơi thở của con” (G 10,12). Tình thương Chúa quá lớn lao : con người có là chi mà “Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình”, mà “cứu gỡ họ khỏi tay thần chết và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn”. Nhìn lại đời mình, ai cũng có thể thấy Chúa đang tìm mình, đang chăm sóc cho mình : “Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy : hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người” (Tv 34,9).

Chúa đã ngỏ lời yêu thương với các tổ phụ, với dân Do thái, và trong thời sau hết, lời yêu thương đó được ngỏ một cách trọn vẹn với mọi người trong Đức Kitô - đường và sự thật dẫn đến sự sống muôn đời. Nơi Ngài, ai cũng có thể tìm thấy một kho tàng hạnh phúc vô tận dành riêng cho mình.

Trước lời ngỏ yêu thương của Chúa thì niềm tin là lời đáp trả tốt nhất và cũng là chìa khoá mở cửa hạnh phúc của mỗi người. Lịch sử ơn cứu độ là sự lặp đi lặp lại điệp khúc “nhờ đức tin”, điệp khúc đó được thánh Phaolô nhấn mạnh trong thư Do thái : “nhờ đức tin, ông A-ben đã dâng lên …, nhờ đức tin, Abraham đáp trả lại tiếng Chúa gọi ..., nhờ đức tin mà ngay cả bà Sara son sẻ được sức mang thai, mặc dầu bà đã già,...Vì thế, do tự một người, mặc dầu người đó như chết rồi, mà có một dòng dõi đông đúc vô số như sao trên trời, như cát bãi biển” (x. Dt 11).

Tin vào tình thương của Chúa là công thức chung cho hạnh phúc của mọi người, trong mọi hoàn cảnh. Mặc dầu đức tin đòi người ta phải bước vào một cuộc trả giá không khoan nhượng theo một thang giá trị mới : “hãy bán những của các con có mà bố thí, hãy sắm cho các con những túi không hư nát, ... hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay...”, nhưng hoa trái của niềm tin lại là một sự bình an sâu thẳm : “các con đừng sợ, vì Cha các con đã vui lòng ban Nước Trời cho các con”.

Tin vào tình thương của Chúa, người ta sẽ tìm thấy hạnh phúc dù đức tin luôn đòi hỏi những hy sinh, từ bỏ, hay những thay đổi đi ngược với suy nghĩ bình thường. Đời sống của các thánh làm chứng rằng đó là con đường đem lại bình an và hạnh phúc : “Thư thái bình an vừa nằm con đã ngủ, vì chỉ có mình Ngài, lạy Chúa, ban cho con được sống yên hàn” (Tv 4,9).

Thập niên 1940, cha Goldry, một linh mục thừa sai, bị trục xuất khỏi Trung quốc. Trên đường về Mỹ, cha đi ngang Ấn độ.

Tại một vùng duyên hải Ấn độ, cha Goldry gặp thấy rất nhiều dân tị nạn thuộc cộng đồng Do thái đang chen chúc vất vưởng. Họ trốn tránh sự đàn áp của Đức Quốc Xã, nhưng chẳng mấy ai đón nhận hay giúp đỡ họ. Họ chui nhủi trong những vựa rơm phong phanh hay những túp chòi hoang phế. Lúc bấy giờ là gần lễ Giáng sinh, cha Goldry quyết định bán chiếc vé tàu của mình để mua bột mì cho những người Do thái này nướng bánh mừng Lễ Đèn của họ (tức lễ Hanukkah, xấp xỉ với lễ Giáng sinh). Sau đó, cha gửi điện tín về Mỹ xin tiền mua vé tàu khác để về quê.

Vừa về đến Mỹ, cha đã bị bề trên quở trách :

-           Ôi, ông đã làm chuyện thật vớ vẩn. Ông thừa biết là bọn Do thái ấy không tin vào Chúa Giêsu.

-           Họ không tin, nhưng còn con, con tin.

Nhờ đức tin, ai cũng có thể có cho riêng mình một kho tàng vô giá, nhưng đức tin không để ai ngồi yên mà luôn bắt người ta làm việc : “các con hãy sẵn sàng”, luôn đòi buộc người tin phải chấp nhận mọi thua thiệt miễn là đáp ứng được những đòi hỏi không khoan nhượng của đức tin, vì “kho tàng các con ở đâu thì lòng các con cũng ở đó”.           

Lm. Giuse Văn Chương

Mục lục

 

TU ĐỨC

ĐỨC TIN TRONG HÀNH TRÌNH GIÁO DỤC

 

Mở đầu năm học mới là đi vào một chặng đường mới của giáo dục.

 

Giáo dục là một hành trình.

 

Cũng như cuộc đời là một chuyến đi.

 

Chuyến đi cuộc đời là đi với. Hành trình giáo dục là đồng hành.

 

Những yếu tố đồng hành với hành trình giáo dục cuộc đời của ta phải kể là rất nhiều. Như ảnh hưởng của gia đình, nhà trường, văn hoá cũ mới, bạn bè và những thăng trầm lịch sử.

Đối với nhiều người, yếu tố đồng hành quan trọng nhất là đức tin.

 

Nhân dịp mùa khai trường, tôi xin phép chia sẻ vài suy tư về vai trò đức tin trong hành trình giáo dục nơi những người sống đạo tốt.

 

  1. Luôn bỡ ngỡ trong những khám phá không ngừng.

 

Càng được học nhiều con người càng bỡ ngỡ.

 

Bỡ ngỡ vì thấy chân thiên mỹ, không ngừng mở rộng.

 

Bỡ ngỡ vì thấy trong bầu trời mênh mông ấy có rất nhiều người đã góp phần không nhỏ vào việc phát triển con người trong mọi lãnh vực, như khoa học, y tế, kinh tế, triết học.

 

Bỡ ngỡ vì thấy trong bầu trời không biên giới ấy, có rất nhiều người đạo đức giúp cho cá nhân, gia đình, đất nước biết sống trong những quan hệ yêu thương, phục vụ, nâng đỡ lẫn nhau, toả sáng tình liên đới sáng suốt cao thương.

 

Bỡ ngỡ vì thấy trong bầu trời các giá trị tuyệt vời ấy, những người tài giỏi, những người đạo đức đã xuất hiện từ nhiều dân tộc khác nhau, từ nhiều nền văn hoá khác nhau, từ nhiều tôn giáo khác nhau.

 

Bỡ ngỡ vì khi cuộc đời là khám phá, cũng như nền giáo dục cũng là khám phá, thì người ta khám phá thấy ánh sáng không là của riêng ai, bóng tối không trừ một ai, dù họ thuộc tôn giáo nào, văn hoá nào, dân tộc, tầng lớp nào.

 

Những bỡ ngỡ chồng chất, liên tục sẽ được giải đáp bằng đức tin.

 

Tôi tin Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Người là Đấng tạo dựng, là Đấng cứu độ. Mọi chân thiện mỹ là do Người. Mọi cứu độ đích thực đều bởi Người. Người ban những hạt giống chân thiện mỹ và cứu độ cho bất cứ ai. Mỗi người được tự do đón nhận, được tự do cộng tác với Chúa, được tự do chọn lựa cách thực hiện ý Chúa.

Biết dùng sự tự do của mình là một thách đố lớn. Mỗi người phải giải quyết thách đố quan trọng ấy. Nền giáo dục là một nguồn giúp cho việc giải quyết đó.

 

Đối với tôi, đức tin hỗ trợ rất nhiều cho con người suốt hành trình giáo dục, để họ được cởi mở và sống có trách nhiệm. Cởi mở với thánh ý Chúa và chịu trách nhiệm cả với Chúa.

 

Với đức tin cởi mở, tôi tạ ơn Chúa vì những người tốt trong lịch sử. Với đức tin ý thức trách nhiệm, tôi quyết tâm cố gắng sống tốt trong mọi hoàn cảnh.

 

Ngoài ra, đức tin còn giúp cho con người suốt hành trình giáo dục được khiêm tốn và chân thành trong sự biết mình.

 

  1. Lòng khiếm tốn trong sự biết mình.

 

Biết mình là điều luôn phải để ý trong mọi chặng hành trình giáo dục. Biết nhiều sự, nhưng lại không biết mình, thì chưa hẳn là người có giáo dục tốt.

 

Chẳng may, mỗi người thường có nhiều thứ mình :

 

-         Cái mình là dư luận tạo ra

-         Cái mình tưởng là của dư luận, nhưng thực sự dư luận không nghĩ thế.

-         Cái mình do mặc cảm tạo thành.

-         Cái mình do những khát vọng và ảo ảnh gây dựng nên.

-         Cái mình do sự dốt nát của mình làm nên.

 

Rất ít người biết rõ mình thực sự. Đám đông có biết phần nào, nhưng không để ý đúng sai. Nhiều người còn cố tránh biết mình.

 

Những ai khác nghĩ về mình thế nào, thì tôi không rõ. Phần tôi, nhờ đức tin, tôi biết mình luôn cần phải đi sâu vào lãnh vực tâm linh và đạo đức. Trong chặng đường giáo dục nào cũng thế. Bởi vì, nếu không phát triển ưu tiên về mặt tâm linh và đạo đức, tôi sẽ bị những phát triển khác lấn át, gây cho bản thân tôi một sự thiếu quân bình có hại cho việc phát triển con người toàn diện. Hậu quả sẽ tai hại cho tôi, cho xã hội, cho Hội Thánh, nhất là cho những người tôi được sai đến phục vụ.

 

Nên nhớ rằng : Đức tin không thay thế việc học hành, nghiên cứu và hoạt động của nền giáo dục. Nhưng với đức tin, việc học hành nghiên cứu và hoạt động ấy sẽ có một ý nghĩa và ý hướng cao đẹp mới.

 

Đức tin nói ở đây không đơn giản chỉ là chấp nhận một hệ thống chân lý cứu độ, mà chủ ý là gặp gỡ và gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu.

 

Đức tin như thế sẽ là động cơ đưa ta vào con đường cứu độ.

Đức tin như thế sẽ thanh luyện và đổi mới ta.

Đức tin như thế sẽ dẫn ta đến tình yêu tận hiến.

Đức tin như thế sẽ là một lời Chúa sai ta vào đời.

Đức tin như thế sẽ giúp ta đi đúng hướng về với Cha trên trời.

Đức tin như thế sẽ cho ta cảm nhận được tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng dạy ta chân lý cứu độ, ban ơn bình an và hoan lạc.

 

Khi hiểu sơ qua đức tin là như thế, chúng ta sẽ thấy: Muốn sống đức tin đúng theo ý Chúa, người ta sẽ phải cầu nguyện nhiều, học hỏi nhiều qua Kinh Thánh, qua các sách tu đức và qua những vị hướng dẫn có thẩm quyền.

 

Nếu thực hiện được như vậy, đức tin sẽ đồng hành với mọi hình thức giáo dục một cách có hiệu quả. Như thế, đầu năm học, khi chúng ta xem xét đến nền giáo dục, thì chúng ta càng nên xét đến đức tin của ta.

 

ĐGM GB. Bùi Tuần

Mục lục

 

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI

Chương trình chi tiết chuyến viếng thăm của ĐGH tại Áo


VATICAN. Hôm 3-8-2007, Phòng báo chí Tòa Thánh công bố chương trình chính thức và chi tiết cuộc viếng thăm của ĐTC Biển Đức 16 tại Áo từ ngày 7 đến 9-9 tới đây, nhân dịp kỷ niệm 850 năm thành lập Đền thánh Đức Mẹ ở Mariazell.


Đây là chuyến viếng thăm mục vụ thứ hai và cũng là chuyến cuối cùng ngài thực hiện tại nước ngoài trong năm nay. Theo thông lệ, chương trình chi tiết các cuộc viếng thăm của ĐTC chỉ được công bố khoảng hơn kém một tháng trước khi biến cố bắt đầu diễn ra.


ĐTC sẽ khởi hành từ từ phi trường Ciampino ở Roma lúc 9 giờ rưỡi sáng thứ sáu, 7-9, và tới thủ đô Vienne của Áo lúc 11 giờ 15 phút. Sau nghi thức tiếp đón tại Phi trường, ngài đến cầu nguyện với các tín hữu lúc gần 1 giờ tại Cột đài Đức Mẹ ở quảng trường Am Hof ở nội thành Vienne. Lúc 1 giờ rưỡi, ĐTC dừng tại Đài tưởng niệm các nạn nhân cuộc diệt chủng Do thái tại Quảng trường Do thái, trước khi về tòa Sứ Thần Tòa Thánh ở Vienne.


Lúc 5 giờ rưỡi chiều cùng ngày 7-9, ĐTC viếng thăm Tổng thống Áo và gặp chính quyền cùng với ngoại giao đoàn tại Lâu đài Hofburg, ngày xưa là lâu đài của hoàng gia.


Thứ bẩy, 8-9, lễ Sinh nhật Đức Mẹ, ĐTC sẽ đáp trực thăng để đến Đền thánh Đức Mẹ Mariazell và cử hành thánh lễ vào lúc 10 giờ rưỡi cho các tín hữu tại Quảng trường trước Đền thánh.


Mariazell là một ngôi làng nhỏ nằm trên độ cao 870 mét với 2.000 dân cư ở miền trung nước Áo và cách thủ đô Vienne khoảng 160 cây số về mạn nam. Hàng năm có 1 triệu tín hữu từ Áo, Hungari, Cộng Hòa Tchèque, Slovak, Sloveni và Croat đến hành hương.


Sau thánh lễ, ban trưa ĐTC dùng bữa với HĐGM Áo và các HY, GM thuộc đoàn tùy tùng. Lúc gần 5 giờ chiều cùng ngày, ngài sẽ chủ sự buổi hát kinh chiều với các LM, tu sĩ nam nữ, và chủng sinh tại Đền Thánh Đức Mẹ Mariazell rồi trở về Vienne.


Sáng chúa nhật 9-9, ĐTC sẽ cử hành thánh lễ lúc 10 giờ tại Nhà thờ chính tòa thánh Stephano của giáo phận Vienne và đọc kinh Truyền Tin tại quảng trường trước thánh đường với 25 ngàn bạn trẻ. Ban chiều, lúc 4 giờ rưỡi ngài viếng thăm Đan viện Thánh Giá của dòng Xitô, trước khi đến Nhà Hát ở Vienne để gặp giới thiện nguyện, rồi ra phi trường đáp máy bay về đến Roma, dự kiến vào lúc 9 giờ rưỡi tối.


Chủ đề được chọn cho chuyến viếng thăm của ĐTC tại Áo là ”Hướng nhìn Chúa Kitô”. (SD 3-8-2007)

Mục lục

 

 

ĐTC chia buồn với Tổng giáo phận Paris về sự qua đời của ĐHY Lustiger

 

VATICAN -- ĐTC Biển Đức 16 đã gửi điện tới Đức TGM Paris, André Vingt-Trois để chia buồn với toàn thể giáo phận về sự qua đời của ĐHY Jean Marie Lustiger, nguyên TGM Paris, đã qua đời tối Chúa nhật 5-8-2007, sau một thời gian dài bị bệnh nặng hưởng thọ gần 81 tuổi.


ĐTC viết: ”Tôi rất xúc động khi hay tin ĐHY Jean Marie Lustiger, nguyên TGM giáo phận Paris qua đời, tôi muốn bày tỏ với Đức Cha sự hiệp thông sâu xa trong kinh nguyện với tổng giáo phận Paris, với thân nhân của Đức Cố HY và với tất cả những người liên hệ tới sự ra đi của một vĩ nhân của Giáo Hội tại Pháp.


"Tôi phó thác cho lòng từ bi của Thiên Chúa ĐHY Lustiger yêu quí, Người đã quảng đại hiến dâng cuộc sống để phục vụ Dân Chúa trong giáo phận Orléans rồi trong tổng giáo phận Paris. Tôi cảm tạ Chúa vì sứ vụ GM của Người, và luôn nhớ đến vị Mục Tử này vốn luôn say mê tìm Chúa và loan báo Tin Mừng cho thế giới.


”Từ sứ vụ nơi các sinh viên, ĐHY đã giữ mối quan tâm tới người trẻ. Trong các cộng đoàn được ủy thác, ĐHY góp phần phát triển sự dấn thân truyền giáo của các tín hữu, và ngài đặc biệt quan tâm canh tân việc đào tạo các LM và giáo dân. ĐHY cũng xả thân quảng đại thăng tiến các mối quan hệ ngày càng huynh đệ hơn giữa các tín hữu Kitô và Do thái.


"Vốn là một nhà trí thức nhìn xa trông cộng, ĐHY đã dùng những năng khiếu của mình để phục vụ đức tin, làm cho Tin Mừng hiện diện trong mọi lãnh vực của đời sống xã hội”.


ĐTC ban phép lành Tòa Thánh cho các GM Phụ tá, thân nhân, các LM, Phó tế, người thánh hiến, và các tín hữu của tổng giáo phận Paris cũng như tất cả những người tham dự lễ an táng ĐHY Lustiger sẽ được cử hành sáng thứ sáu, 10-8 tới đây tại Nhà thờ chính tòa Paris.


ĐHY Lustiger sinh tại Paris ngày 17-7 năm 1926 trong một gia đình Do thái Ba Lan di cư sang Pháp, và được song thân đặt tên là Aaron. Ngài cũng vốn là cháu của một Rabbi Do thái. Năm 1940, khi được 14 tuổi, cậu Aaron trở lại Công Giáo và lấy tên thánh là Jean Marie. Trong thời thế chiến thứ 2, thân mẫu của cậu bị tố giác và bị quân Đức lưu đày sang trại tập trung Auschwitz và bị sát hại tại đây năm 1943.


Thầy Jean Marie Lustiger thụ phong linh mục năm 1954 lúc 28 tuổi, lần lượt làm tuyên úy sinh viên đại học Paris, rồi làm cha sở giáo xứ Sainte Jeanne de Chantal cũng tại Paris trong 10 năm trời, cho đến khi được ĐTC Gioan Phaolô 2 bổ nhiệm làm GM giáo phận Orléans năm 1979, nhưng chỉ hơn 1 năm sau, ngài thăng TGM giáo phận thủ đô Paris, rồi được bổ nhiệm làm Hồng Y hồi tháng 2 năm 1983. ĐHY cai quản giáo phận này trong 25 năm cho đến khi về hưu hồi tháng 2 năm 2005.


ĐHY từng được ĐTC Gioan Phaolô 2 bổ nhiệm làm Chủ tịch thừa ủy của Thượng HĐGM Âu Châu kỳ I hồi năm 1991. Ngài cũng là tác giả của 20 cuốn sách về đức tin và là thành viên Hàn lâm viện Pháp. Hồi tháng 10 năm ngoái, chính ĐHY Lustiger thông báo ngài bị bệnh nặng.


Các điện văn chia buồn từ nhiều nơi cũng được gửi về tòa TGM Paris để chia buồn.


Tổng thống Pháp Nicholas Sarkozy, đang nghỉ hè tại Hoa Kỳ, đã bày tỏ đau buồn vì sự ra đi của một vĩ nhân về đời sống tinh thần, luân lý, trí thức và tôn giáo của đất nước Pháp.


Thủ tướng Pháp Francois Fillon nhấn mạnh rằng ĐHY Lustiger đã đóng góp quan trọng cho ảnh hưởng của Giáo Hội Công Giáo, một Giáo Hội muốn cởi mở đối với thế giới và con người, luôn hòa hợp với thời đại.


Theo Ông Francois Bayrou, Chủ tịch đảng Modem, và là một tín hữu Công Giáo nhiệt thành, Đức Cố TGM Paris là một trong những nhân vật nổi bật nhất của trào lưu nhân bản Pháp.


Ông Richard Prasquier, Chủ tịch Hội đồng đại diện các tổ chức Do thái Pháp, đề cao vai trò quan trọng và lịch sử của ĐHY Lustiger trong việc cải tiến quan hệ giữa người Do thái và Công Giáo.

 

LỄ AN TÁNG ĐHY JEAN MARIE LUSTIGER


PARIS. Thánh lễ an táng ĐHY Jean Marie Lustiger, nguyên TGM Paris, đã được cử hành trọng thể tại Nhà thờ chính tòa Đức Bà ở thủ đô Pháp, sáng 10-8-2007.


ĐHY Lustiger qua đời tối chúa nhật 5-8-2007, sau một thời gian dài bị bệnh nặng hưởng thọ gần 81 tuổi. Ngài cai quan Giáo phận Paris trong 25 năm trời.


Hiện diện tại buổi lễ, đặc biệt có vị đại diện của ĐTC Biển Đức 16 là ĐHY Paul Poupard, người Pháp, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa. Đức TGM sở tại André Vingt-Trois chủ sự Thánh Lễ cùng với 16 HY và hơn 50 GM Pháp và nước ngoài, 500 LM, trước sự hiện diện của 3 ngàn tín hữu và quan khách, đứng đầu là Tổng thống Pháp Nicolas Sarzkozy và thủ tướng Francois Fillon. Đại diện cho HĐGM Hoa Kỳ là ĐHY Theodor McCarrick, nguyên TGM giáo phận thủ đô Washington. Ngoài ra cũng có nhiều đại diện của các tổ chức Do thái, các Giáo Hội Kitô và 2 đại diện của Đền thờ Hồi giáo ở Paris. Hàng ngàn người không tìm được chỗ trong thánh đường tham dự thánh lễ qua màn hình lớn đặt tại quảng trường bên ngoài.


Trong bài giảng, Đức TGM Vingt-Trois đặc biệt đề cao niềm tin mạnh mẽ và lòng nhiệt thành truyền giáo của ĐHY Lustiger, ngay từ khi còn là tuyên úy sinh viên đại học Paris, cho tới những sáng kiến tông đồ cuối cùng trong tư cách là TGM Paris.


Trong thánh lễ, ĐHY Poupard đã đọc sứ điệp chia buồn của ĐTC trong đó ngài viết cho ĐHY Đặc Sứ rằng:

”Giữa lúc ĐHY quí mến Jean Marie Lustiger bước vào ánh sáng và an bình của Chúa, tôi muốn tham phần vào lễ an táng Đức Cố HY được cử hành tại Nhà thờ chính tòa Đức Bà Paris, tôi xin ĐHY đại diện riêng tôi.


”Một vĩ nhân của Giáo Hội, được mọi người tôn trọng, đã giã từ chúng ta, sau một cơn bệnh đau đớn, được kiên nhẫn chịu đựng với lòng can đảm mạnh mẽ, trong đức tin và trong niềm tín thác. Suốt cuộc đời, ĐHY Lustiger đã say mê tìm kiếm Thiên Chúa, và rao giảng Tin Mừng. Là người có linh đạo sâu xa, Đức Cố Hồng Y quan tâm củng cố đức tin và phát triển sự dấn thân truyền giáo của các tín hữu, cũng như tạo điều kiện cho sự huấn luyện vững chắc các linh mục và giáo dân, đặc biệt trong tổng giáo phận Paris mà Người là chủ chăn không biết mệt mỏi trong 25 năm trời.\


”Do mối quan tâm làm cho Tin Mừng hiện diện trong đời sống xã hội thúc đẩy, Đức Cố Hồng Y đã gặp gỡ những con người thời nay, mang lại giáo huấn soi sáng của Giáo Hội về những vấn đề lớn được đề ra cho lương tâm con người. Trong niềm trung thành với căn cội của mình, Đức Cố Hồng Y đã góp phần đặc biệt quan trọng vào cuộc đối thoại huynh đệ giữa các tín hữu Kitô và Do thái.


”Khi nhớ lại niềm trung thành kiên trung của ĐHY Jean Marie Lustiger với Chúa Kitô, với Giáo Hội và Tòa Thánh Phêrô, tôi muốn bày tỏ lòng quí chuộng sâu xa của tôi đối với bản thân và sứ vụ GM trổi vượt của ĐHY, đến sự phục vụ dân chúng được ủy thác cho Người và phục vụ Giáo Hội hoàn vũ. Với tất cả những người tụ họp hôm nay để tham dự lễ an táng, với tất cả những người nhớ đến Đức Cố Hồng Y trong niềm hy vọng và biết ơn, tôi phó thác Người cho lòng từ bi vô biên của Thiên Chúa, Đấng đã ”tiền định cho chúng ta được hưởng ơn cứu độ nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, Đấng đã chết để làm cho chúng ta được sống với Ngài” (1 Th 5,9-10).


”Hiệp với anh chị em trong kinh nguyện, tôi chân thành ban phép lành Tòa Thánh cho tất cả những người tham dự thánh lễ an táng này hoặc hiệp ý tham dự.


Castel Gandolfo ngày 7 tháng 8 năm 2007


Trước buổi lễ, linh cữu Đức Cố HY được 6 linh mục khiêng, rước đi quanh nhà thờ chính tòa. Tại tiền đường, người chắt của ĐHY tên là Jonas Moses Lustiger đã đổ một nắm đất lấy từ Thánh Địa, vào một cái bình đặt trên linh cữu của ĐHY, trước khi linh cữu được rước vào Nhà thờ chính tòa.

Linh cữu ĐHY Lustiger được táng trong hầm mộ các vị TGM Paris, ở bên dưới Nhà thờ.

 

Với sự qua đi của ĐHY Lustiger, Hồng y đoàn còn 182 vị, trong đó có 105 HY cử tri dưới 80 tuổi. Số HY người Pháp là 8 vị, trong đó có 5 HY cử tri (SD 10-8-2007)

 

Radio Vatican

 

Mục lục

 

Giáo phận Thái Bình có thêm 9 tân linh mục


THÁI BÌNH -- Sáng nay (04/8/2007), Đức Cha F.X. Nguyễn Văn Sang đã đặt tay truyền chức Linh mục cho 9 tân chức, tại nhà thờ Chính Toà Thái Bình.


Trong Thánh lễ đồng tế còn có sự hiện diện của hơn 60 Linh mục; nhiều Tu sĩ nam nữ trong và ngoài giáo phận; các ông bà cố; các thân nhân, ân nhân của tân chức và khoảng 8 ngàn giáo dân tham dự. Ngôi nhà thờ Chính Toà (đang tới hồi hoàn thiện) lớn như thế mà vẫn không đủ sức chứa. Nhiều giáo dân vẫn ngồi ngoài sân và cả trong khu Toà Giám mục để tham dự Thánh lễ.


Đúng 8g45, đoàn đồng tế từ tiền sảnh Toà Giám mục tiến ra thánh đường trong tiếng kèn vang dội và hoành tráng của 6 đội kèn trong giáo phận, cùng những tiếng vỗ tay đan xen trong niềm vui khôn tả của con dân Thái Bình.


Trong bài giảng của mình Đức Cha nhấn mạnh đến người Linh mục của Đức Kitô. Linh mục là người giảng dạy chân lý, Linh mục là người không ích kỷ, luôn yêu thương mọi người. Vì thế, đòi buộc người Linh mục phải có những hi sinh và chịu đựng những gian khó trong đời sống chứng tá của mình.


Sau bài giảng là nghi thức truyền chức Linh mục. Đức Giám mục đặt tay, xức dầu thánh hiến và chúc hôn bình an cho các tân chức. Từ nay anh em sẽ là Linh mục của Chúa Kitô. Anh em hãy toả sáng Tin Mừng Chúa Kitô bằng chính đời sống của anh em. Anh em là cánh tay nối dài của Chúa Kitô để mang ơn cứu độ đến cho những tâm hồn đang khao khát tình yêu thương của Thiên Chúa.


Trong Thánh lễ này, Đức Cha giáo phận còn loan báo ba tin vui cho cộng đoàn tín hữu Thái Bình. Đó là:


- Tin vui thứ nhất: Hôm nay giáo phận Thái Bình có thêm 9 tân Linh mục, nâng số Linh mục trong giáo phận lên con số 64. Và cũng ngày hôm nay giáo phận có 6 giáo họ được nâng lên hàng giáo xứ, nâng số giáo xứ trong giáo phận lên 90 xứ.


- Tin vui thứ hai: Linh đài Đức Mẹ La Vang được xây dựng bên cạnh nhà thờ Chính Toà đã hoàn tất. Ngày 15/8/2007, Đức Cha chính thức cắt băng khánh thành và dâng lễ tạ ơn, đây là món quà lớn kính dâng lên Mẹ La Vang đúng vào ngày lễ của Mẹ.


- Tin vui thứ ba: Ngày 13/10/2007, đúng vào dịp lễ Đức Mẹ hiện ra ở Fatima, Đức Cha cùng với tất cả mọi người con giáo phận Thái Bình: miền Bắc, miền Nam và Hải ngoại long trọng cắt băng khánh thành ngôi nhà thờ Chính Toà và dâng lễ tạ ơn Thiên Chúa, đây là niềm vui hết sức lớn lao. Vì công trình đã xây dựng trong bao hi sinh công sức, bao khó khăn vất vả của mọi thành phần dân Chúa trong cũng như ngoài giáo phận và bao bàn tay quảng đại giúp đỡ.


Trước khi nhận phép lành cuối Thánh lễ, một vị đại diện cho 6 tân giáo xứ và một Linh mục đaị diện cho 9 tân chức lên cám ơn Đức Cha, quý cha đồng tế, quý thân nhân, ân nhân, quý khách và quý cộng đoàn đã đến động viên và chia sẻ niềm vui trong ngày hạnh phúc này.

 

Trường Giang

 

Mục lục

 

Thánh lễ phong chức Linh Mục tại giáo phận Thanh Hóa


Sáng ngày 09.8.2007, Đại Lễ Mừng Kỷ Niệm 75 Năm Thành Lập Giáo Phận (7.5.1932 – 7.5.2007), 3 Năm Hồng Ân Giám Mục của Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh (04.8.2004 – 04.8.2007) và phong chức linh mục cho 10 thầy phó tế Khoá VI, đã long trọng diễn ra tại nhà thờ Chính Tòa Thanh Hóa. Tham dự thánh lễ có 8 giám mục, hơn 130 linh mục, 18 phó tế, 47 chủng sinh, hơn 100 nam nữ tu sĩ và khoảng 27. 000 giáo dân từ khắp các giáo xứ trong giáo phận.


Điều kỳ diệu là mấy ngày hôm trước do ảnh hưởng của cơn bão số 2 suy yếu thành áp thấp gây mưa lớn, vậy mà đến chiều ngày 08.8.2007, trời quang mưa tạnh và với số lượng người đông đảo như vậy, nhưng thánh lễ vẫn diễn ra trong bầu khí sốt sắng, trang nghiêm, hoành tráng và thành công tốt đẹp. Phải chăng đây chính là hồng ân Thiên Chúa dành riêng cho Giáo phận Thanh Hóa trong dịp mừng đại lễ này?


Bảy mươi lăm năm – một chặng đường lịch sử với những bước thăng trầm. Giáo phận Thanh Hóa đã có những ngày tháng đẹp như mơ. Nghị định số 1682/1932 của Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin được Đức Thánh Cha Pio XI công bố ngày 7.5.1932, đã chính thức tách Thanh Hóa khỏi Địa phận Phát Diệm để thành lập một địa phận mới mang tên Địa phận Thanh Hóa với vị giám mục tiên khởi là Đức cha Louis de Cooman (Hành), người Bỉ, thuộc Hội Thừa Sai Nước Ngoài Paris (MEP).


Những năm tháng bình yên nhanh chóng qua đi nhường chỗ cho bóng đen của đau thương, mất mát do thời cuộc đem lại. Chiến Tranh Thế Giới Lần Thứ II, Chiến Tranh Đông Dương, Chiến Tranh Việt Nam, rồi đối đầu giữa những ý thức hệ đã đẩy giáo phận non trẻ vào guồng quay phũ phàng của bánh xe lịch sử. Đã có những thời gian giáo phận không có chủ chăn, các thừa sai bị sát hại, linh mục bản địa bị săn đuổi, đoàn chiên bị trấn áp. Đã có những lúc gần 1/3 giáo phận phải rứt ruột dời giáo phận thân yêu ra đi vì sự sống còn.


Đức cha Phêrô Phạm Tần (người kế vị Đức cha Louis de Cooman), được Tòa Thánh cử làm Giám mục Thanh Hóa năm 1959, nhưng phải đợi tới 16 năm sau mới được phong chức Giám mục. Suốt đời giám mục của ngài (1959 – 1990) là chứng nhân cho một Thanh Hóa trong thử thách nhưng vững vàng, bất khuất trong niềm tin vào Thiên Chúa. Đồng thời ngài cũng là chứng nhân cho tình yêu của Thiên Chúa vẫn tràn đầy trên xứ Thanh.


Ngài đột ngột qua đời (01.02.1990). Phải đợi 4 năm sau Giáo phận Thanh Hóa mới có chủ chăn, Đức cha Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm, Giám mục Giáo phận Đà Lạt được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám mục Thanh Hóa. 9 năm coi sóc Thanh Hóa, ngài đã phục hồi Thanh Hóa từ đống hoang tàn đổ nát.


Lịch sử Giáo phận Thanh Hóa sang trang mới cùng với dấu mốc quan trọng ngày 04.8.2005, ngay tại nhà thờ Chính Tòa Thanh Hóa, đã diễn ra lễ tấn phong Giám mục cho cha Giuse Nguyễn Chí Linh, một người con của đất Cửa Bạng – Ba Làng lịch sử.


Việc tổ chức thành công thánh lễ hôm nay với sự tham dự của những vị thượng khách trong Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, đông đảo các linh mục, nam, nữ tu sĩ trong và ngoài giáo phận cùng hàng vạn bà con giáo dân là một bằng chứng cho thấy con thuyền Giáo phận Thanh Hóa hôm nay đang thẳng tiến ra khơi, đang đi đúng hướng và Chúa Thánh Linh đang hoạt động mạnh mẽ trên con thuyền ấy.


 

Theo Web site tgmth.com

 

Mục lục

 

Lễ Khấn trọn đời 25 nữ tu Đa Minh Rosa Lima ở Xuân Hiệp

 

THỦ ĐỨC - Ngày 06 tháng 8 vừa qua là ngày đại hồng ân của Hội dòng nữ Đaminh Rosa De Lima. Với thánh lễ mừng 25 chị tuyên khấn trọn đời và 2 chị kỷ niệm 25 năm ngân khánh khấn dòng.

Mấy ngày trước, thời tiết rất xấu vì chịu ảnh hưởng của áp thấp nhiệt đới, mưa suốt ngày suốt đêm, dường như bầu trời chỉ ngưng được một vài tiếng mỗi ngày để …thở còn thì mưa không ngớt. Cả Hội Dòng lo lắng cho ngày lễ nếu thời tiết cứ thế này thì…


Nhưng lòng quảng đại của Thiên Chúa không chịu thua con người. Sáng 06 tháng 8, như một phép lạ, bầu trời trong xanh không một gợn mây, nắng dìu dịu. Khuôn viên của Hội dòng như càng đẹp thêm với đồi Calvê, những bồn hoa, thảm cỏ vừa được hoàn thành cho ngày Hồng Ân Thánh Hiến này.


Đúng 8g30’ đoàn đồng tế với Đức cha Micae Hoàng Đức Oanh – Giám mục giáo phận Kontum và khoảng gần 100 linh mục - cùng các chị em trong Hội Dòng, 25 chị Vĩnh khấn và 2 chị Ngân Khánh cùng với các ông bà cố tiến vào nguyện đường trong tiếng hát trang nghiêm và dìu dặt của bài hát Điệp ca lên đền do các chị em trong Hội Dòng hát lễ.


Mở đầu thánh lễ, Đức cha mời gọi cộng đoàn tạ ơn Chúa vì được tụ họp để lắng nghe Lời Chúa và được chứng kiến 25 “ người hùng” hăng hái dấn bước theo con đường “ vì Nước Trời”. Đức Cha nói thêm: “ Riêng tôi có lý do đặc biệt để tạ ơn Chúa và cám ơn Hội dòng đã tạo cho tôi cơ hội tốt để đến đây đích thân và long trọng cám ơn Hội Dòng đã quảng đại hy sinh gửi những người con ưu tú lên miền rừng núi Tây Nguyên”.


Hai mươi lăm chị tuyên khấn trọn đời với 25 xuất xứ khác nhau, cá tính khác nhau, tính cách khác nhau, hoàn cảnh khác nhau nhưng các chị lại giống nhau về sự dũng cảm dấn thân cho đức ái hoàn hảo theo Đức Kitô trong ơn gọi Đaminh.


Trong bài giảng, Đức cha chủ tế chia sẻ: “ Thấy các thanh niên nam nữ “ khấn hứa trọn đời thương nhau” như trong lễ hôn phối và trọn đời thề hứa “sống ba lời khuyên Phúc Âm” như lễ khấn dòng hôm nay, đối với tôi là một cuộc phiêu lưu liều lĩnh. Một liều lĩnh có suy tính và có bảo chứng

 

Sau bài giảng là nghi thức khấn Trọn Đời với việc gọi tên các khấn sinh, phần thẩm vấn của Đức cha và lời đáp trả của các chị với ước vọng muốn tự hiến cho Thiên Chúa cách mật thiết hơn bằng lời khấn trọn đời, với ước vọng theo nếp sống tông đồ của Hội Dòng để tiến tới trong tình mến Chúa yêu người, với ước vọng khấn trong Hội dòng chị em Đaminh, Thánh hiệu Rosa Lima để được thánh hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa. Sau khi hoàn tất lời thẩm vấn, các khấn sinh được mời gọi phủ phục trước Thiên Chúa nài xin Đức Mẹ cùng các Thánh chuyển cầu trước tòa Thiên Chúa để Người củng cố quyết định của các khấn sinh. Cộng đoàn cùng chung lời khẩn nguyện trong Kinh Cầu Các Thánh.


Can đảm chọn cuộc sống Hiến Dâng một lần và mãi mãi, các khấn sinh đặt tay của mình trong tay chị bề Trên tổng quyền tuyên khấn công khai trước Thiên Chúa và Giáo Hội. Với Đức Cha Micae đây là một hình ảnh thật ấn tượng và khủng khiếp. Việc đặt đôi tay của mình vào một người phàm như mình, cũng mỏng dòn như mình để khấn hứa, quả thật là một liều lĩnh. Và lời khấn sẽ được các ứng sinh giữ cho đến chết. Một sợi dây vô hình đã gắn kết lời vĩnh khấn với Thiên Chúa, để từ đây chị thuộc trọn về Thiên Chúa cả hồn và xác, để từ đây chị có thể dõng dạc như Phaolô để tuyên xưng rằng: Tôi sống nhưng không phải là tôi mà Đức Kitô sống trong tôi, để từ đây bước chân chị hân hoan đi về những nơi Thiên Chúa muốn, để từ đây chị từ bỏ tất cả những gì là của mình, vĩnh viễn thuộc về Thiên Chúa qua Hội dòng của mình.


Và niềm vui chợt òa vỡ khi lời tuyên bố nhận lời khấn và xác nhận các khấn sinh là thành phần chính thức của Hội dòng với mọi quyền lợi và nghĩa vụ, tiếng vỗ tay chúc mừng rộn rã khi BTTQ bắt tay chúc mừng từng khấn sinh.


Chiếc nhẫn giao ước trở nên dấu chỉ của sự tín trung trong đời dâng hiến của các chị em được Đức cha làm phép và xỏ vào ngón áp út của mỗi Khấn sinh.


Tiếp đến là nghi thức tuyên lại Lời Khấn của 2 chị nhân dịp Ngân Khánh khấn dòng. Chị Têrêsa Nguyễn Thị Khâm đang phục vụ tại Gp. Bắc Ninh và chị Maria Nguyễn Thị Na, phục vụ tại Gp. Đà Lạt, cả hai đều ở vùng truyền giáo. 25 năm với biết bao thăng trầm dâu bể của phận người, với biết bao yếu hèn, bất trung chị vẫn đặt bước chân mình vào dấu chân Người Mục Tử Đầu Tiên. Hôm nay trước sự chứng kiến của cộng đoàn chị tuyên lại lời khấn của ngày đầu tiên ấy để tiếp tục xin Chúa sai đi bao lâu con còn có thể, bao lâu Ngài còn sử dụng chị theo chương trình tình thương của Ngài.


Kết thúc thánh lễ Khấn dòng là lời tri ân của Bề trên tổng quyền đến Đức Cha Micae đã không quản ngại vượt 600 cây số về chủ tế thánh lễ, đến Quý Cha Đại diện của các giáo phận, Quý cha giáo đã tận tình hướng dẫn các môn học, các cha trong tình liên đới cũng như quý tu sĩ nam nữ với sự hiện diện của các dòng tu là một sự nâng đỡ về tinh thần cho Hội Dòng và đặc biệt với Quý ông bà cố đã can đảm hiến dâng người con ưu tuyển cho Thiên Chúa.


Xin Thiên Chúa chúc lành cho các chị vĩnh khấn hôm nay được mãi tràn đầy ân sủng và Tình Yêu cũng như được vững vàng trong tình thương của Chúa trong bước đường sứ vụ dấn thân phục vụ Tin Mừng.

 

Sr. Minh Nguyên

Mục lục

 

 

Bài giảng của ĐC Micae Hoàng Đức Oanh trong thánh lễ khấn trọn đời của 25 nữ tu Đa Minh Rosa

 

LỄ CHÚA HIỂN DUNG, Ngày 06.08.2007

Giờ đây tôi có cảm giác, cái cảm tưởng, cái cảm nghiệm như thể tôi đang chứng kiến chính quang cảnh “biến hình” huy hoàng mà ngôn sứ Đanien cũng như ba tông đồ đã thấy trên Núi xưa!

Ngôn sứ Đanien trong Bài đọc 1 và Thánh Phêrô trong Bài đọc 2 cho thấy Con Người ngự trong vinh quang vây quanh thiên nhan là những vị thánh.... Hôm nay, không phải chúng ta cũng đang thấy đoàn thiếu nữ áo trắng bao quanh Đức Giêsu Kitô và cũng sắp “được vinh quang Ngài bao phủ” đó sao? Chúng ta có thể nghe được tiếng nói xầm xì giữa các chị sắp khấn trọn hay sắp lập lại lời khấn theo tâm tình Thánh Phêrô xưa “Thưa Thầy ở đây, ở nơi Hội Dòng Nữ Đaminh Thánh hiệu Rosa Lima này, chúng con thấy tốt lắm! Chúng con quyết trọn đời thuộc về Thầy” ở nơi đây. Không chỉ một ngày mà là suốt đời.

Từ cái nhìn và từ tâm tình cảm nghiệm đó, giờ đây, tôi xin chia sẻ với cộng đoàn phụng vụ, cách riêng với 25 khấn sinh hôm nay mấy tâm tình như sau.

1. Một cuộc phiêu lưu liều lĩnh.

Lát nữa 25 chị đây sẽ tiến lên trứơc bàn thờ và dõng dạc đọc lời khấn hứa :

Để tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi và đáp lại tình Chúa yêu thương chọn con, hôm nay, trước sự hiện diện của Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh, Giám Mục Giáo Phận Kontum, cùng cộng đồng dân Chúa, và trong tay Bề Trên Tổng Quyền Anê Nguyễn Thị Thịnh

Con ……………………………..................

Tuyên khấn sống Khiết Tịnh, Thanh Bần và Tuân Phục, theo Tu Luật Thánh Âu-gu-tinh và Luật dòng nữ Đa Minh Việt Nam, Thánh hiệu Rosa Lima cho đến chết”.

Thấy các thanh niên nam nữ “khấn hứa trọn đời thương nhau” như trong lễ hôn phối) và “trọn đời thề hứa sống 3 lời khuyên Phúc âm” (như các nữ tu hôm nay), đối với tôi thật là một cuộc phiêu lưu liều lĩnh. Một liều lĩnh có suy tính và có nền tảng bảo chứng.

Đã bao lần tái sinh qua nhiều giai đoạn từ thỉnh sinh, lên tuyển sinh, vào tập sinh, đến khấn sinh - sinh tạm, sinh có thời gian- và hôm nay quyết tâm người khấn sinh xin thề sống súôt đời với 3 lời khấn phúc âm - không thể không thấy cái liều lĩnh mà chị em sắp làm trứơc mặt cha mẹ, anh chị em và bằng hữu. Không chỉ trứơc mặt người đời mà còn trứơc tôn nhan và với Thiên Chúa nữa.

Khi khấn hứa suốt đời sống đức khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục trong một Hội dòng, nhất là vâng phục một người phàm, quả là một liều lĩnh quá đỗi, vượt sức con người. Nhất lại là trong một hoàn cảnh xã hội vật chất, hưởng thụ, thế tục hôm nay.

Không thể là chuyện nhẹ dạ hay bồng bột như Thánh Phêrô trên núi Tabor xưa mà là việc làm đã được suy nghĩ, cân nhắc, và quyết định với ý thức cao. Chỉ có Chúa Giêsu mới biết rõ, ý thức rõ và sống triệt để nhất 3 lời khấn này và giúp chúng ta hiểu và sống được những lời khấn hứa này! Là Thiên Chúa, chấp nhận “Vào đời làm người”. “Sinh ngoài đồng, sống ngoài đường, chết ngoài đồi” để cứu chuộc loài người (x. Pl 2,6-11). Đúng là một cuộc lột xác thật! Một cuộc biến hình thật triệt để và dứt khoát!

2. Một cuộc lột xác qua 3 lời khấn. Một cuộc biến hình trong thế gian.

Vâng, anh chị em thân mến,

Chúng ta không ảo tưởng! Hy vọng các khấn sinh hôm nay đây không ảo tưởng. Chúng ta cần ngạc nhiên thấy trong cuộc biến hình Chúa Giêsu và 2 vị đại diện Cựu Ứơc đàm đạo về “cuộc khổ nạn”. Và chỉ ít giây phút ngây ngất trứơc cảnh biến hình. Chúa Giêsu và 3 môn đệ xúông núi trở vế với ngày sống cụ thể trong trần gian. Với bao thử thách gian nan, bao cám dỗ và chán chường, bao đắng cay và chua chát như Chúa Giêsu đã hơm một lần cảnh báo các tông đồ, cách riêng là Phêrô “Satan sẽ xàng con như xàng gạo....”. Cỡ như Thánh Phaolô, sau bao năm tháng dọc ngang ngang dọc để loan báo Tin Mừng, cũng phải thốt nên lời thống thiết “Mọi người đã bỏ mặc tôi.... nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Người ban sức mạnh cho tôi...” (2Tm 4,16).

Trong cuộc đời tại thế, Chúa Giêsu không ngừng nói đi nói lại tới vấn đề này và cảnh báo cho các môn đệ con đường khổ nạn chũng đang chờ đón họ. Ngài còn công khai đòi hỏi các môn đệ đi theo Ngài phải ý thức và quảng đại chấp nhận “phải từ bỏ chính mình, vác khổ giá mà bứơc theo”. Có thể nói “đây là con đường một chiều” dẫn đến hạnh phúc.

Vâng đời kitô hữu, hơn thế nữa đời tu, chính là một cuộc lột xác triệt để được “biến hình” thành “một thụ tạo mới”, để đời tu trở thành cõi phúc.

Nói khác, tu chỉ là cõi phúc, khi người tu sĩ trung thành giữ 3 lời khấn suốt đời. Cả 3 có thể thu gọi lại chỉ còn một lời khấn “khó nghèo” đến độ “Tôi sống không còn phải tôi, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi”. Phải chăng đây chính là con đường thơ bé của Chị Thánh Têrêxa Hài Đồng xưa!

3. Dựa vào đâu mà dám thề hứa như thế?

Anh chị em thân mến,

Nhưng các thiếu nữ này dựa vào quyền phép nào mà dám liều hứa sống đến chết 3 lời khấn này? Vào quyền phép Thiên Chúa và thiện tâm thiện ý của mình. Cũng dựa vào sự giúp đỡ của thân bằng bạn hữu và Mẹ Hội Thánh.

3.1. Dựa vào mình : Nhưng Chị khấn sinh ý thức thân phận mỏng dòn, yếu đuối. Từ đó, hằng ngày chị khiêm tốn, chân thành khẩn xin Chúa ngự vào trong cuộc sống mình : “Lạy Chúa! Xin thương xót con!” Và Chúa vẫn chờ đón nơi Chị thiện tâm, thiện ý, thiện chí với quyết tâm cao của Chị trên con đừơng tận hiến.

3.2. Dựa vào quyền năng Chúa : Với kinh nghiệm đời tu, Chị khấn sinh thâm tín “Chúa là gia nghiệp đời con”. “Chúa là nơi con nương tựa”. ”Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, Chính Người cứu độ tôi” (Tv 117,14). Như Thánh Phaolô, Chị cũng xác tínt “chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8, 36). Và chính Chúa Giêsu cũng đã trấn an các môn đệ xứ và các khấn sinh hôm nay : “Thầy đây, đừng sợ”! Chúa cũng hứa với mỗi khấn sinh : “Ơn thánh đủ cho con”.

3.3. Dựa vào tha nhân qua đời sống Yêu thương và Phục vụ : Từ ý thức như thế, Chị khấn sinh quyết bám chặt vào Chúa Giêsu, bám chặt qua Lời của Ngài, bám chặt vào bí tích Thánh Thể, để hăng say “ra khơi thả lưới” qua đời sống yêu thương và phục vụ như chủ đề Thư Mục Vụ đã đề nghị chúng ta năm nay.

Vâng, “Ra khơi thả lứơi” theo đúng sứ mạng được sai đi loan báo Tin Mừng cho muôn dân, là sứ mạng, là vinh dự, là bản chất sống đạo và còn là phương thuốc chữa trị hữu hiệu cho đời sống cá nhân và tập thể. Thiếu tinh thần và cuộc sống thừa sai này này cũng có thể ví đời tu của chúng ta như cảnh ao tù. Với tinh thần “ra khơi”, ngừơi kitô hữu, hơn thế nữa người tu sĩ, được thấy, được đụng chạm đến đám đông vô kê đang bơ vơ như chiên không người chăn dắt, đang kêu gào được sống trong sự thật, công bình và yêu thương....cuộc đời sẽ đổi mới. Mỗi người sẽ dễ dàng coi mọi chuyện khác là rác rưởi, là phân bón như Thánh Phaolô đã từng nói, cùng hăng say tiến lên phía trứơc. Nhìn người lính cứu hỏa hay người cứu các nạn nhân đang chơi vơi trên biển bão chúng ta thấy rõ họ đang dồn toàn sức lực để cứu người và quên mình cách thoải mái! x. Pl 3,8; 2Cr 6,10; Mt 19,29

Hình ảnh Chúa Giêsu treo trên thập giá vì yêu thương là nguồn lực động viên nâng đỡ chúng ta, Chính Chúa Cha long trọng giới thiệu “Đây là ngừơi con ta yêu dấu. Hãy vâng nghe Lời Ngài”; bởi vì Ngài “ luôn làm những gì làm hài lòng Cha Thầy trên trời” (Ga 8,20). Cuộc sống người tu sĩ, vì thế, luôn luôn phải quy hứơng về Chúa Giêsu và phát xuất lại từ Chúa Giêsu!

KẾT

Xin kết thúc với một câu chuyện sau đây :

Cuộc đối thoại ngắn giữa một Rabbi và người môn đệ sau đây có thể nói được nhiều điều với các khấn sinh hôm nay :

Nguyện xin quyền năng Thánh Thần Chúa giúp các chị sống trọn 3 lời khấn hôm nay. Cúi xin Mẹ Maria đồng hành cùng các chị súôt dọc cuộc đời. Cầu mong mỗi người trong chúng ta chứng kiến buổi lễ hôm nay sẽ không quên cầu nguyện, góp sức giúp các chị “nhẹ nhàng lứơt thắng mọi chông gai mà tiến lên phía trứơc” như các chị vừa khấn hứa.


Giờ đây chúng ta hiệp thông cùng các chị khấn sinh trong tâm tình tạ ơn, tôn vinh Thiên Chúa và cầu xin cho các chị luôn trung thành với những lời các chị vừa khấn hứa hôm nay.

 

+ GM Hoàng Đức Oanh

Mục lục

 

 

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO

 

 

LỄ ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI

TRUYỀN THỐNG VÀ THÁNH KINH NÓI GÌ?

Ta không biết gì về việc Chúa rước Đức Mẹ hay Đức Mẹ rời cuộc sống trần gian bằng cách thức nào. Chỉ có một văn bản ngụy thư “Đức Mẹ đi vào giấc ngủ” (Mary’s Dormition), thế kỷ thứ V, cho biết, những giây phút cuối đời của Đức Mẹ, khi các tông đồ vây quanh để cầu nguyện thì Chúa Kitô đến đưa Đức Mẹ về Thiên Đàng. Dù sao truyền thống của Hội Thánh và một vài hình ảnh mà nhiều bản văn Kinh Thánh gợi lên, củng cố cho cho đức tin của chúng ta trong việc nhìn nhận Người Mẹ Thật của chúng ta đã tiên phong hưởng hạnh phúc cả hồn lẫn xác.

I. Truyền thống đức tin của Hội Thánh.

Niềm tin Đức Mẹ được triệu hồi cả hồn lẫn xác về trời bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của Hội Thánh. Đến thế kỷ VI, Hội Thánh phương đông Đã sớm cử hành lễ Đức Mẹ Đi Vào Giấc Ngủ vào khoảng giữa tháng giêng. Sau này, hoàng đế Maurice (582-602) xác định dứt khoát lễ nay cử hàng ngày 15 tháng 8. Với lòng sùng kính Đức Mẹ cách đặc biệt, Đức Giáo hoàng Theodore (642-649) đã muốn thiết lập lễ này cho nghi lễ Rôma ngay thế kỷ sau đó, thế kỷ thứ VII. Năm 813, Công Đồng Mayence truyền cho toàn Châu Âu cử hành lễ này với tên gọi là Lễ Mông Triệu (Thiên Chúa triệu hồi Đức Mẹ về trời), chính thức nhìn nhận cách mặc nhiên Đức Mẹ được triệu hồi về trời.

Đến năm 1854, sau khi đức Piô IX công bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm, thì phong trào sùng kính Đức Mẹ vốn đã mạnh mẽ từ lâu trong Hội Thánh, nay như được dịp khuấy động dữ dội hơn. Chỉ trong vòng chưa đầy một trăm năm sau, tính đến năm 1945, khắp thế giới có khoảng tám triệu thỉnh nguyện thư của các tín hữu và khoảng gần 100. 000 thỉnh nguyện thư khác đến từ các giám mục, linh mục, các tu sĩ, các nhà thần học xin Tòa Thánh chính thức xác định tín điều về Đức Bà Mông Triệu Thăng Thiên hay Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Trước những lời thỉnh cầu tha thiết ấy, để có thể quyết định một cách thận trọng nhất trước vấn đề đức tin quan trọng này, Đức Piô XII công bố Thông Điệp Deiparae Virginis để xin ý kiến Giám mục đoàn trên khắp thế giới. Thật lạ lùng, sau năm năm hỏi ý kiến, chỉ có sáu giám mục nghi ngờ về tính chất ‘mặc khải’ của việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời.

Dù niềm tin Đức Mẹ hồn xác về trời đã có từ rất lâu trong truyền thống Hội Thánh, nhưng mãi đến ngày 1.11.1950, tức vào ngày lễ các thánh Nam Nữ, bằng một phán quyết long trọng: “Chúng tôi khẳng  định, chúng tôi tuyên bố và chúng tôi minh định như một tín điều được Thiên Chúa mặc khải rằng Đức Maria Vô Nhiễm trọn đời đồng trinh, Mẹ Thiên Chúa, sau khi hoàn tất cuộc sống trần gian, đã được cất nhắc về vinh quang trên trời cả xác lẫn hồn” (tông  hiến Munificentissimus Deus).

Đức Giáo hoàng đã không chọn ngày nào, lại chọn ngày lễ các thánh Nam Nữ để công bố tín điều Đức Mẹ hồn xác lên trời. Tôi thấy có một ý nghĩa lớn: Giữa hàng ngũ các thánh của Chúa, Đức Maria trổi vượt trên tất cả về sự thánh thiện và lòng yêu mến Chúa. Sự thánh thiện tuyệt vời của Đức Mẹ đã mở đường cho Đức Mẹ đi tiên phong trước mọi thụ tạo, tiến về cùng Chúa, hưởng vinh quang nơi Chúa bằng toàn bộ con người, gồm cả xác lẫn hồn của Đức Mẹ.

II. Vài hình ảnh gợi ý trong các bản văn Thánh Kinh của ngày lễ.

 Ta chú ý lời của Đức Maria trong Tin Mừng: “Linh hoàn toâi ngôïi khen Chuùa, loøng toâi hoan hyû trong Thieân Chuùa, Ñaáng Cöùu ñoä toâi” (Lc 1, 46-47). Chính Ñöùc Mẹ – Đức Mẹ chứ không phải bất cứ tập thể hay cá nhân nào, dù là Hội Thánh hay chúng ta – đã ca ngợi Chúa, ca ngợi lòng thương xót của Chúa. Đức Mẹ đã tuyên xưng hành động cứu độ của Chúa, và gọi Chúa là “Đấng Cứu độ tôi”. Những chữ “Đấng Cứu độ tôi”, quả thật là lời quy hướng về Chúa. Đức Mẹ đã nhìn nhận, đã tin tưởng thực sự rằng: Chỉ có Chúa, chỉ trong Chúa, Đức Mẹ mới được vinh quang và hạnh phúc vô cùng như thế. 

Lời ca ngợi quy hướng về Thiên Chúa của Đức Mẹ” “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, lòng tôi hoan hỷ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu độ tôi”, còn được hỗ trợ bởi nhiều lời Kinh Thánh khác. Chẳng hạn, lời thánh Phaolô trong bài đọc II: : “Đức Kitô đã từ cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của nhữn kẻ yên giấc…Hoa quả đầu mùa là Đức Kitô, đoạn đến những kẻ thuộc về Đức Kitô, những kẻ đã tin Người xuống thế: rồi đến tận cùng, khi Người đã trao vương quốc lại cho Thiên Chúa Cha, và đã tiêu diệt mọi đầu mục, quyền năng và thế lực” (1Cr 15, 20tt). Đã từng có ai thuộc về Chúa Kitô như Đức Mẹ? Bởi thế, nếu Chúa Kitô là hoa quả đầu mùa, đã trở về trời cả hồn và xác, thì Đức Mẹ, người thuộc về hoa quả đầu mùa ấy một cách trọn vẹn, cũng được đưa về trời hồn xác, không có gì là điều khó hiểu. Bởi chính Đấng Cứu Độ đã thực thi ơn cứu độ trên khắp nhân loại, chắc chắn sẽ thực thi cách hoàn hảo nhất hành động cứu độ ấy trên chính người mẹ của mình.

Bài đọc I, trích sách Khải Huyền kết thúc: “Nay sự cứu độ, quyền năng, vương quyền của Thiên Chúa chúng ta và uy quyền của Chúa Kitô của Người đã được thực hiện” (Kh 12, 10). Đây là lời nhấn mạnh sự chiến thắng trong ơn cứu độ của Chúa Kitô. Chắc chắn như chúng ta, Đức Mẹ đã không thể làm gì ngoài sức mình. Nhưng Đức Mẹ biết dùng sức mình để chiến đấu trong ơn thánh Chúa. Đức Mẹ đã không sống hay làm một mình, nhưng phó thác đời mình cho Chúa, để nhờ Chúa mà Đức Mẹ chiến thắng. Bởi Đức Mẹ tin chắc rằng, dù phải sống trong đau thương đến đâu, thậm chí nỗi đau đớn đến cùng cực như người mang thai “kêu la chuyển bụng, và đau đớn sinh con”, hay sự dữ ập đến hãi hùng như “con rồng đỏ khổng lồ” đang đe dọa dữ dội, thì sự cứu độ của Chúa và vương quyền của Chúa Kitô đã được thực hiện. Mà sự cứu độ của Chúa đã được thực hiện, thì sự cứu độ ấy, chắc chắc bao trùm lên chính cuộc đời của Đức Mẹ. Đức Mẹ đã sống và chiến đấu với mọi thử thách trong Chúa. Ơn cứu độ dành cho tất cả những ai kiên trì chiến đầu và chiến thắng. Ơn cứu độ ấy thật xứng đáng trước tiên dành cho Mẹ của Chúa Kitô, người phụ nữ chiến thắng.

Điểm qua ba bài đọc, ta nhận ra: cùng đích của mọi ơn lành là chính Chúa Kitô. Bởi thế, dù là lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời, nhưng Hội Thánh lại mời gọi ta hướng về Thiên Chúa, hướng về Chúa Kitô. Bởi chỉ nhờ ơn cứu độ do Chúa Kitô thực hiện trong cuộc phục sinh vinh hiển của Người, theo ý Thiên Chúa, Đức Meï môùi ñöôïc đưa ra khỏi trần gian, được trọng thưởng đặc biệt hồn xác lên trời. Bởi vậy, mừng lễ hôm nay là mừng sự nối kết gần gũi hết sức giữa niềm tin Mông Triệu của Đức Mẹ và niềm tin phục sinh của Chúa Kitô, người Con một yêu dấu của Đức Mẹ. Đó là sợi dây liên kết tất yếu giữa Mẹ và Con. Bởi như Chúa đã phục sinh thế nào, thì Mẹ của Chúa cũng là người trước hết hưởng vinh quang phục sinh của Con mình thế ấy. Chúa đã không để Đức Mẹ chịu cảnh hư nát, vì Đức Mẹ là Mẹ của Chúa, Đấng Vĩnh Cửu. Vì vậy, chúng ta tôn vinh Đức Maria hồn xác lên trời, cũng đồng thời là lúc chúng ta tôn vinh mầu nhiệm phục sinh cao cả của Chúa Kitô.

Đức Mẹ đã về trời, đó là dấu chỉ hữu hiệu cho đức tin của ta: Tương lai không còn là điều đáng ngại lo lắng, nhưng trở nên điều đáng quan tâm xây dựng, và cuộc sống này trở thành những ngày chuẩn bị cho tương lai ấy. Chúng ta chuẩn bị bằng cách bắt chước Đức Mẹ sống lành thánh trong tin yêu, sống niềm phó thác tuyệt đối trong tay Chúa, biết lắng nghe, thực thi Lời Chúa, sống tư cách làm con Chúa trong đời sống bác ái với anh em… Chúng ta hãy nhìn lên Đức Mẹ để thấy rằng, Đức Mẹ dù là người Nữ của chiến thắng, người Nữ vinh quang với triều thiên sao sáng, nhưng bị vây bủa đầy chông gai, thử thách. Nhìn lên Đức Mẹ như thế, để nhận ra chính mình mà vững niềm cậy trông. Bởi chúng ta cũng phải cam chịu nhiều thử thách. Vinh quang chỉ có thể lớn lên từ trong thử thách mà thôi.

Lạy Chúa Giêsu, nhờ công nghiệp của Đức Mẹ, xin thánh hóa toàn bộ cuộc đời chúng con, để chúng con cùng được như Đức Mẹ, xứng đáng lãnh lấy phần thưởng đời đời trên thiên quốc. Amen.

 

Lm. VŨ XUÂN HẠNH

Mục lục

 

Thánh Đaminh, người con Đức Mẹ

 

Alain Quilici op ‘Prier 15 jours avec Saint Dominique”,

Thầy Reginaldo đã được chữa khỏi một cơn bệnh nặng, khỏi một nguy hiểm mà hầu như không còn chút hy vọng nào thoát khỏi, nhờ sự can thiệp lạ lùng của sức mạnh thần linh. Vậy Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Nữ Vương trên trời, Mẹ xót thương đã hiện đến với Thầy đang sốt mê man và dùng thuốc chữa lành mang theo người mà thoa lên mắt, mũi, tai, miệng, bụng, tay và chân của Thầy và nói : “Ta xức dầu thánh vào đôi chân con, để chúng sẵn sàng đi loan báo Tin Mừng bình an” (x. Ep 6,15). Mẹ cũng cho Thầy nhìn thấy toàn bộ tu phục của Dòng. Ngay lập tức, Thầy cảm thấy mình đã lành bệnh và hồi phục sức khoẻ. Các bác sĩ, trước đó hầu như đã tuyệt vọng về tình trạng của Thầy, lúc này rất ngạc nhiên vì sự lành bệnh như vậy. Sau đó, cha Đa Minh đã công khai kể lại phép lạ kỳ diệu này cho nhiều người, và cho đến nay, những người này vẫn còn sống. Mới đây, chính tôi cũng tham dự một cuộc diễn thuyết về tâm linh tại Paris và tại đó, thánh nhân cũng kể lại câu chuyện này trước một số khá đông người (LIB s. 57).

Ngay từ ban đầu, Dòng của Thánh Đa Minh đã gắn bó với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Chính chân phước Giordano Saxonia, người cùng thời với Thánh Đa Minh và là người viết lại câu chuyện trên đây cũng khẳng định rằng tu phục của Dòng đã do Đức Mẹ mặc khải, và một truyền thống đáng kính muốn thuật lại rằng Thánh Đa Minh đã nhận tràng hạt Mân Côi từ tay Đức Trinh Nữ, và các anh em của Dòng sẽ là những người nhiệt thành đi quảng bá. Có rất nhiều nhà thờ trong đó có hoặc là một bức tranh, hoặc là một bàn thờ, hoặc một nhà nguyện hoạ lại cảnh tượng này. Trong các ảnh tượng này, Thánh Đa Minh quì gối dưới chân Đức Mẹ đang ngồi trên ngai và ẵm Chúa Giê-su, Đức Mẹ trao một tràng hạt lớn cho Thánh Đa Minh, thường có Thánh Catarina Sienna kề bên. Dù rằng lịch sử không chứng minh, nhưng truyền thống này thật có ý nghĩa.

Đối với một con người như Thánh Đa Minh, vẫn gắn bó với thực tại Ngôi Lời Nhập Thể, thì lòng sùng kính Đức Ma-ri-a là hệ quả tất nhiên. Không phải từ Mẹ mà Ngôi Lời đã làm người sao ? Không phải Mẹ là người đầu tiên và là chứng nhân tuyệt hảo về những biến cố làm nền tảng cho đức tin người Ki-tô hữu sao ?

Điều này muốn nói rằng, có ít chứng từ về sự hiện diện của Đức Ma-ri-a trong lời giảng và lời cầu nguyện của Thánh Đa Minh. Người ta có thể đọc thấy các chứng từ này trong những câu chuyện, chẳng hạn câu chuyện sau đây :

Một lần nọ, cha Đa Minh đã cầu nguyện trong nhà thờ đến nửa đêm. Cha ra khỏi nhà thờ khoảng nửa đêm, đi vào nhà ngủ, và tiếp tục cầu nguyện sốt sắng. Trong lúc đang cầu nguyện, nhìn về phía cuối nhà ngủ, Cha nhìn thấy ba người phụ nữ rất đẹp, vị đi giữa tựa như một bà sang trọng, đẹp hơn và lộng lẫy hơn hai vị kia, một vị cầm một bình rất đẹp và rực rỡ, vị kia cầm một cây rảy nước. Bà đi giữa rảy nước trên các anh em và ghi dấu thánh giá…

Quỳ sụp xuống, cha Đa Minh nài xin Bà thương cho biết Bà là ai, mặc dù cha đã biết Bà là ai rồi. Vào thời ấy, các anh em và chị em tại Roma chưa hát bài Salve Regina, chỉ quì gối mà đọc thôi. Vậy Bà đi giữa trả lời cha Đa Minh “Ta là Đấng các con vẫn kêu cầu mỗi buổi tối trước khi đi ngủ, và khi các con đọc Bà là Nữ Trạng Sư, nguyện đưa mắt nhân từ, phía đoàn con đoái lại thì Ta thường sấp mình xuống xin Con Ta bảo vệ Dòng của con” (VIE tr. 114).

Chính chân phước Giordano cũng làm chứng về truyền thống hát kinh Salve Regina vào lúc kết thúc kinh tối như lời kinh cuối trong ngày. Điều đáng để ý là sau khi đã kể lại những gì cần nói về cuộc đời Thánh Đa Minh, chân phước kể thêm một vài biến cố khác để minh chứng sự thánh thiện của Cha Thánh sau khi qua đời. Một trong những biến cố ấy là câu chuyện một người tên là Bernard Bologna bị cám dỗ khủng khiếp và chân phước kết luận :

Thử thách rất khủng khiếp của anh Bernard là cơ hội thúc đẩy chúng tôi đang xúc động, qui định hát kinh Salve Regina tại Bologna vào cuối giờ kinh tối. Nghi thức này đã lan ra từ nhà này đến toàn tỉnh dòng Lombardi ; cuối cùng thói quen đạo đức và bổ ích này được phổ biến trong toàn Dòng. Có biết bao người đã rơi nước mắt vì những lời ca tụng thánh thiện này đối với người mẹ đáng kính của Đức Ki-tô ! Có biết bao người trong số những người hát hay nghe hát bài ca này đã cảm thấy tâm tình của mình được thanh tẩy, lòng cứng rắn của mình nên mềm mại, và trong tâm hồn dâng trào lòng yêu mến đạo hạnh. Chúng ta lại không tin rằng Mẹ Đấng Cứu Thế vui mừng vì những lời ca ngợi ấy, và thích thú vì những lời ca khen đó sao ? Một người đạo đức và đáng tin đã thuật lại cho tôi rằng anh vẫn thường thấy trong tâm trí hình ảnh Đức Mẹ quì gối trước Chúa Cha và khẩn cầu xin Chúa bảo vệ Dòng đang khi các anh em hát : Bà là Nữ Trạng Sư, nguyện đưa mắt nhân từ (LIB s. 20).

Dù người ta không tin lắm về tính xác thực của các câu chuyện này, nhưng ít ra, người ta cũng có thể nhận ra trong đó chứng từ về lòng sùng kính Đức Mẹ vào thời Thánh Đa Minh. Chắc chắn rằng Cha Thánh và các anh em thời đầu rất yêu quí và tôn kính Đức Mẹ. Các vị thưa với Đức Mẹ như người Mẹ của mình. Các vị ca tụng Đức Mẹ ; các vị trao phó cho Đức Mẹ sứ vụ của họ cùng những linh hồn được trao phó cho các vị ; các vị trông cậy vào lời cầu hữu hiệu của Mẹ, bởi vì các vị tin rằng những gì đã thiết tha cầu xin, thì sẽ nhận được.

Còn một câu chuyện khác thuộc loại rất cổ xưa trong truyền thống Đa Minh được Fra Angelico minh hoạ lại cách không thể nào quên, đó là chuyện Đức Trinh Nữ là Đấng bảo vệ Dòng.

Cha Đa Minh ngất trí trước Thiên Chúa. Cha thấy Chúa Giê-su hiện ra và có Đức Mẹ ngồi bên cạnh, và Cha thấy như Đức Mẹ mặc áo choàng màu lam. Nhìn chung quanh, Cha Đa Minh thấy trước mặt Thiên Chúa có vô số tu sĩ thuộc các Dòng khác, mà không thấy các tu sĩ Dòng của mình. Cha khóc lóc thảm thiết, tránh ra xa, không dám tiến lại gần Chúa Giê-su và Mẹ Người. Đức Mẹ ra hiệu cho Thánh Đa Minh tiến lại. Chúa hỏi : “Sao con khóc lóc thảm thiết như thế ?” Cha Đa Minh thưa : “Con khóc vì thấy các tu sĩ mọi Dòng có mặt ở đây, chỉ riêng Dòng của con, không thấy ai cả.” Chúa nói tiếp : “Vậy con có muốn xem Dòng của con không ?” Cha Đa Minh run rẩy thưa : “Lạy Chúa, có !” Khi ấy Chúa đặt tay lên vai Đức Mẹ và nói với Cha Đa Minh “Cha đã ký thác Dòng của con cho Mẹ của Cha”… Trong khi đó, Đức Mẹ mở áo choàng (hình như Người đang mặc) ra trước mặt Cha Đa Minh. Áo choàng rất rộng lớn đến nỗi bao phủ cả thiên quốc, và trong áo choàng ấy, Cha Đa Minh nhìn thấy vô số anh em. Thấy vậy, Cha Đa Minh phủ phục xuống tạ ơn Chúa và Đức Mẹ, và thị kiến chấm dứt (VIE tr. 115-116).

Một lần nữa, chúng ta không coi câu chuyện này như một sử liệu chắc chắn, nhưng như một chứng từ về sự gắn bó rất lâu đời của các con cái Thánh Đa Minh với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a.

Tuy vậy chẳng có gì là ngạc nhiên cả, vì Đức Mẹ trước tiên là Đấng đưa Lời vào thế giới. Mẹ là Đấng bảo trợ những người giảng thuyết. Câu chuyện Đức Mẹ hiện diện cùng với các tông đồ tại nhà tiệc ly vào ngày lễ Ngũ Tuần không phải là không có ý nghĩa. Mẹ hiện diện trong biến cố đổ tràn Thần Khí dưới hình các lưỡi lửa để mở ra lưỡi của các tông đồ, Mẹ là Đấng trước đó đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần và làm cho Lời Thiên Chúa được nảy mầm trong Mẹ. Đức Ma-ri-a đã không nhận được ơn giảng thuyết, cũng không nhận được ơn thiết lập các Giáo Hội, hay công khai lớn tiếng làm chứng. Nhưng Mẹ có ơn gọi bảo vệ những người có sứ vụ này. Mẹ chăm sóc họ. Mẹ gìn giữ ngọn lửa linh thiêng trong tâm hồn họ.

Và khi các con cái của Thánh Đa Minh chăm chú suy gẫm các mầu nhiệm Mân Côi, họ thấm nhuần các mầu nhiệm Đức Ki-tô mà họ đã đào sâu cùng với Đức Ma-ri-a, Người đã ghi nhớ mọi kỷ niệm, và suy đi nghĩ lại trong lòng (Lc 2,19).

Những ai muốn đặt bước chân vào con đường của Thánh Đa Minh, chắc chắn họ sẽ tìm thấy niềm vui thiêng liêng cao cả cũng như những an ủi trong việc sùng kính Đức Ma-ri-a. Tất cả những người phải ép mình vào việc học hành đầy khổ hạnh, những người phải đối diện với những vấn nạn đầy hóc búa, những người bị thương tổn và cảm thấy trong sứ vụ của mình nhiều thất bại hơn là thành công, thì nhờ sự gắn bó với Đức Mẹ, vẫn luôn tìm thấy sự nâng đỡ đầy tình mẫu tử mà họ đang cần đến.


Bản dịch : G. Nguyễn Cao Luật, OP

Theo Web site Dòng Đa Minh Việt Nam

 

Đức Mẹ Maria và Giáo Hội

 

Thánh Gioan Tông đồ trong sách Khải Huyền đã diễn tả chân dung Đức Mẹ Maria: "Một người phụ nữ mình khoác áo mặt trời, chân đạp mặt trăng và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao.“ ( Kh 12,19).

 

Hình ảnh này nói lên điều gì?

 

1. Sứ điệp của hình ảnh

 

Mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao là những tạo vật do Thiên Chúa sáng tạo ngay từ thuở tạo dựng trời đất, vào ngày sáng tạo thư tu ( ST 1, 14-19).

 

Mạt trời là hành tinh chiếu ánh sáng, mang truyền hơi nóng xuống cho địa cầu vào ban ngày làm cho sức sống phát triển. Mặt trời là biểu hiệu về Thiên Chúa, Đấng to lớn không cùng, Đấng là nguồn sức sống cho mọi loài Ngài đã dựng nên.

 

Mặt trăng là hành tinh tỏa ánh sáng vào ban đêm xuống địa cầu. Ánh sáng cùng hình thể mặt trăng thay đổi theo ngày giờ năm tháng, nó tùy thuộc vào qũy tuần hoàn vòng quay của mặt trời. Vì thế ánh sáng cùng hình thể theo vòng chu kỳ tròn rồi dần dần dần nhỏ bớt đi guiống như hình luỡi liềm, và lại tròn đầy trở lại. Mặt trăng vì thế, là hình ảnh tượng trưng cho sự gì biền đổi qua đi.

 

Các tinh tú hay còn gọi là các vì sao cũng là những hành tinh, chiếu ánh sáng lấp lánh vào ban đêm. Ánh sáng của chúng nhỏ yếu hơn ánh sáng mặt trăng rất nhiều. Chúng là hình ảnh hằng hà sa số của những dân tộc con người sinh sống trên địa cầu.

 

Đức Mẹ Maria được vẽ diễn tả mình khoác áo mặt trời có ý muốn diễn tả: Đức Mẹ được Thiên Chúa, Đấng là mặt trời, bao phủ che chở trong suốt cuộc đời, và Đức Mẹ được tham dự vào sự vinh quang cùng bản tính của Thiên Chúa. Hình ảnh này nói lên ý nghĩa ngày lễ Đức Mẹ được Chúa thưởng công chiếu ánh sáng cất nhắc cho về trời cả hồn lẫn xác.

 

Đức Mẹ chân đạp mặt trăng muốn nói lên: Người cũng là tạo vật biến đổi mau qua, nhưng người đã vượt qua được sự chết. Đây là ý nghĩa sâu đậm nhất nói về nguồn gốc ý nghĩa của ngày lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời.

 

Đức Mẹ đầu đội triều thiên 12 ngôi sao chỉ về nguồn gốc 12 chi tộc dân Israel, dân của Thên Chúa. Hình ảnh 12 ngôi sao cũng diễn tả nói đến Giáo Hội được Chúa Giêsu thiết lập trên nền tảng 12 Thánh Tông đồ. Điều này còn muốn nói lên ý nghĩa thần học thâm sâu hơn: hình ảnh của Giáo Hội Chúa Giêsu. Đức Mẹ và Giáo hội, cũng như Giáo Hội và Đức Mẹ là một. Chúa Giêsu, người con Đức Mẹ mang trong cung lòng mình, cũng là Chúa Giêsu Kitô, mà Giáo Hội luôn mang gìn giữ như cốt lõi căn bản của đức tin trong tâm hồn mình.

 

2. Sứ điệp cho ngày hôm nay

 

Chân dung hình ảnh về Đức Mẹ Maria, như Thánh Gioan vẽ thuật lại trong Kinh Thánh không chỉ tập trung vào Đức Mẹ Maria, mẹ Thiên Chúa, nhưng còn hướng tầm con mắt về Gíao Hội. Nơi đó Đức Mẹ Maria giữ vai trò là người Mẹ một dân tộc mới của Thiên Chúa. Đức Mẹ Maria giữ chỗ quan trọng trong đời sống của Giáo Hội. Giáo Hội và Đức Mẹ Maria là một.

 

Ngày nay nói đến việc sùng kính Đức Mẹ Maria, nhiều người đã có ý nghĩ khác. Họ cho là thuộc vào qúa khứ, hoặc chỉ cho một nhóm hội đoàn nào theo truyền thống thôi!

 

Nghĩ như vậy mới chỉ là theo cái nhìn qúa thiên lệch về một bên, một phía. Đời sống đức tin đâu chỉ gỉan lược như thế. Không đâu, nhưng còn phong phú thâm sâu ý nghĩa nhiều hơn.

 

Ðức Thánh Cha Benedicto thứ 16. trong Gott und die Welt, ein Gespräch mit Peter Seewald, Knaur Taschenbuch Verlag. München 2005- suy tư mẫu gương đức mẹ Maria nói lên sự gần gũi của Thiên Chúa. Vì Ðức Mẹ Maria là người mẹ của Chúa Giêsu. (tr. 318)

 

Lòng sùng kính Đức Mẹ Maria trong Giáo hội đánh động tâm hồn con người cách đặc biệt. Ðánh động tâm hồn người phụ nữ. Vì họ cảm thấy được Đức Mẹ hiểu biết và gần gũi với mình. Ðánh động tâm hồn người đàn ông không mất lòng hướng về người mẹ và sự thanh khiết của người phụ nữ...Lòng sùng kính Đức Mẹ Maria trong Giáo hội Công giáo không là gánh nặng, nhưng là lòng tin tưởng, và sự trợ giúp an ủi cho đời sống hằng ngày. ( tr. 322).

 

Ở những xứ truyền giáo lòng sùng kính Đức Mẹ Maria đóng vai trò quan trọng trong việc rao giảng Tin mừng đức tin Công giáo. Với dân bản xứ, như bên Nam Mỹ, Thiên Chúa giáo bị đồng hóa với dân thuộc địa Tây ban Nha. Ðạo Công giáo lúc ban đầu thuở truyền đạo nơi đó, đối với dân bản xứ là một cái gì xa lạ, không thể chen chân vào đời sống họ được.

 

Mãi đến khi phép lạ Đức Mẹ Maria hiện ra ở Guadeloupe bên Mexicô xuất hiện. Lúc đó qua hình ảnh Mẹ Maria chân dung niềm tin vào Chúa Giêsu dần dần được chấp nhận hiểu rõ ra, và trở nên gần gũi họ.

 

Ðạo Công giáo không còn là một tôn giáo của người thực dân tàn bạo đi chiếm đóng thuộc địa. Nhưng có khuôn mặt nhân từ đầy tình yêu thương của một người mẹ...( tr. 323).

 

Không hướng tầm nhìn con mắt đức tin lên Đức Mẹ Maria, là tự đánh mất ý nghĩa Giáo Hội như là người mẹ.

 

Không hướng tầm nhìn con mắt đức tin lên Đức Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, lòng hiểu biết về bản tính Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô cũng bị giảm bớt yếu kém lung lay đi. Và như thế sinh ra hệ qủa, Chúa Giêsu Kitô không còn hiểu là Thiên Chúa, nhưng chỉ thuần là một người anh em nhân lọai thôi.

 

Không hướng tầm nhìn con mắt đức tin lên Đức Mẹ Maria, người ta sẽ dễ quên đi, Giáo Hội và những lễ nghi phượng thờ trong Giáo Hội trên hết là nơi chốn gặp gỡ Thiên Chúa, nghe Lời Chúa nói, sống trải qua những lạ lùng ngạc nhiên của ân đức và đức tin.

 

Giáo Hội là một mầu nhiệm đức tin, như trong Kinh Tin Kính ta tuyên xưng: Tôi tin Giáo Hội công giáo, duy nhất, thánh thiện và tông truyền.

 

Giáo Hội không phải là bất cứ một tập đoàn công ty nào đó. Giáo Hội và lễ nghi phượng thờ của mình là nơi chốn cho trời và đất gặp gỡ nhau trong đức tin; là nơi xảy ra sự lạ lùng những gì còn ẩn dấu với con mắt loài người.

 

Duy chỉ có đức tin mới giúp hiểu nhìn ra được.

 

Lễ Đức Mẹ linh hồn và xác lên trời 2007

Lm. Nguyễn Ngọc Long

 

Mục lục

 

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC

 

BỊ ÉP LY HÔN, RỒI LẬP GIA ĐÌNH MỚI VỚI NGƯỜI KHÔNG THEO ĐẠO, NAY CHỒNG CHẾT, CÓ THỂ LÀM THỦ TỤC TIÊU HÔN VỚI NGƯỜI CHỒNG TRƯỚC ĐƯỢC KHÔNG ?

Cô họ con là người Công Giáo, lập gia đình cách nay 20 năm, người chồng của cô cũng Công Giáo, cả hai làm hôn phối ở nhà thờ. Lấy nhau được 3 tháng thì cô con bị ba mẹ ép phải ly hôn.

Sau đó thì cả cô con và người chồng đều lập gia đình lần nữa. Cả hai đều lấy người không có đạo. Người chồng thứ 2 của cô con đã mất cách nay 6 năm.

Hiện nay cô con và người chồng cũ đều muốn xin tiêu hôn, nhưng không biết phải làm thế nào, thủ tục ra sao? Kính mong cha giải đáp.

Giải đáp

CĐ. thân mến,

Qua những gì bạn trình bầy, tôi chưa thấy đâu là lí do để xin tiêu hôn. Nếu chuyện li hôn là do cha mẹ ép buộc thì điều đó không làm cho hôn phối công giáo trở nên vô hiệu. Như vậy hôn nhân đầu tiên vẫn thành sự.

Để xin tiêu hôn, nếu còn những lý do nào khác nữa thì phải làm đơn lên tòa án hôn phối của Giáo Phận và chờ xét duyệt.

 

 

TRONG TRƯỜNG HỢP CẦN KÍP CÓ THỂ XƯNG TỘI QUA ĐIỆN THOẠI HAY THAM DỰ THÁNH LỄ QUA TRUYỀN HÌNH ĐƯỢC KHÔNG?

Giải đáp

Với những tiến bộ về phương tiện truyền thông hiện nay nhiều người đã nêu lên thắc mắc về việc tham dự thánh lễ truyền hình hay xưng tội qua điện thoại.

Thực ra, kể từ cuối Thế Kỷ XIX khi điện thoại đã trở nên phổ biến thì người ta cũng nghĩ đến chuyện xưng tội qua điện thoại trong trường hợp nguy cấp. Vấn đề cũng đã được bàn cãi khá nhiều. Xin được lưu ý là vấn đề được đặt ra cho những trường hợp khẩn cấp mà thôi chứ các trường hợp  khác thì ý kiến chung đều bác bỏ việc xưng tội như thế. Năm 1884, Toà Ân Giải Tối Cao từ chối tuyên bố. Vấn đề này lại được bàn cãi giữa các nhà luân lý. Việc trả lời của Toà Ân Giải tối cao gây một nghi vấn về việc xưng tội qua điện thoại trong trường hợp khẩn cấp. Có người cho rằng bí tích có thể thành sự trong hoàn cảnh tuyệt đối khẩn thiết; đa số không tin như vậy. Bộ Giáo Luật 1917 đã không đưa ra lời giải đáp cho vấn đề này. Còn Bộ Giáo Luật 1983 khẳng định :

Điều 964:

#1. Nơi dành riêng để nghe thú tội hầu lãnh nhận bí tích là nhà thờ hay nhà nguyện.

#2. Về toà giải tội thì Hội Đồng Giám mục phải ban hành những quy tắc, nhưng phải lưu ý thế nào để các toà giải tội được đặt ở nơi dễ thấy, các toà phải có chấn song ngăn cách hối nhân với linh mục giải tội, và để các tín hữu ai muốn thì có thể tự do đến.

#3. Không được nghe thú tội ngoài toà giải tội, trừ khi có lý do chính đáng.

Có nhiều người vẫn nghi ngờ vấn đề chưa được giải quyết.

Những người chủ trương xưng tội qua điện thoại là không thành kể cả trong trường hợp nguy cấp dựa vào quan điểm truyền thống luôn chống lại cách thức tiến hành như vậy. Sự hiện diện của hối nhân xem ra là điều cốt yếu không thể thiếu.

Những người khác chủ trương thành sự thì cho rằng việc phát minh phương tiện truyền âm thanh là một cách thế đối thoại mới mẻ và có sự hiện diện tinh thần của người đối thoại.

Vấn đề cốt thiết vẫn là sự hiện diện đồng thời giữa hối nhân và cha giải tội, sự kết hợp giữa chất thể và mô thể.

Gần đây Văn Phòng Phụng Vụ của Giám Mục Châu Mỹ nhắc nhở rằng không bí tích nào được lãnh nhận qua phương tiện truyền thông điện tử. Mọi việc cử hành phụng vụ đòi buộc sự hiện diện thể lý của tín hữu và sự hiện diện của Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế hay của thừa tác viên chủ sự. Đặc biệt đối với bí tích giải tội, chỉ có sự hiện diện thể lý của linh mục bên cạnh hối nhân là dấu chỉ cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa Cha, Đấng tiếp đón tội nhân và ban ơn tha thứ ”Liên lạc điện tử qua điện thoại, truyền hình, vidéo, hay internet không đủ cho việc cử hành bí tích“ Thông cáo nói trên của Văn Phòng Phụng Vụ Giám Mục Châu Mỹ đã trả lời cho thắc mắc đồng thời cũng cho thấy quan điểm chính thức của Hội Thánh.

Ngoài ra ngày 22 tháng 2 năm 2002, Uỷ Ban Giáo Hoàng về Truyền thông Xã Hội có ra một văn kiên “Giáo Hội và Internet” đề cập đến khía cạnh bí tích của các phương tiện truyền thông ở số 9 như sau.

“Thực tại ảo không thể thay thế cho sự hiên diện thật của Đức Kitô trong Thánh Lễ, cho thực tại bí tích trong các bí tích khác, và cho sự tham dự vào việc thờ phượng của cộng đoàn nhân loại bằng xương bằng thịt. Không hề có bí tích trên Internet; và ngay cả những kinh nghiệm tâm linh có thể cảm nhận được nhờ ân sủng của Chúa cũng không đủ nếu bị tách rời khỏi sự tương tác trong thế giới thật với những người tin khác.”

Với những khẳng định trên đây việc xưng tội qua điện thoại hay tham dự Thánh Lễ trên TV không thành bí tích được nên không thể thay thế việc tham dự trực tiếp.

Tuy nhiên, không nên quên rằng trong trường hợp nguy tử, việc ăn năn tội cách trọn vẫn cho ta được ơn tha thứ. Vì thế, dù không được dùng những phương thế truyền thông để lãnh bí tích giải tội thì khi cần kíp ta vẫn có thể ăn năn tội cách trọn là phương thế giúp ta được nhận lãnh trực tiếp ơn tha thứ do lòng thương xót Chúa.

 

 

 

VIỆC TÔN KÍNH ĐỨC MẸ CÓ CẦN THIẾT CHO ƠN CỨU RỖI KHÔNG ?

Thưa cha, việc tôn kính Đức Mẹ có cần thiết cho ơn cứu rỗi không ? Con thấy có nhiều người chỉ kính Đức Mẹ, cầu nguyện với Đức Mẹ làm cho con có cảm tưởng rằng chỉ cần đến với Đức Mẹ là đủ. Nơi bàn thờ Đức Mẹ thì hoa nến được dâng rất nhiều, còn bàn thờ chính thì sơ sài và nghèo nàn. Thưa cha, cách thực hành đạo đức như vậy có xứng hợp không ?

Thưa cha, tại sao người Công Giáo phải tôn sùng Đức Mẹ trong khi Chúa dậy ta chỉ thờ phượng một mình Thiên Chúa mà thôi ?

Giải đáp

Chị V. thân mến,

Việc tôn sùng Đức Maria không phải là việc làm mới đây hay chỉ được phát triển sau Phong Trào Cải Cách vào Thế Kỷ XVI mà việc đạo đức này đã có từ rất lâu ngay trong những thời đầu của Giáo Hội. Từ đầu Thế Kỷ III, người ta tìm được ở Ai Cập cuộn chỉ thảo (papyrus) chép kinh Trông Cậy ( Sub Tuum Praesidium). Sách giáo Lý Công Giáo số 971 đã trình bầy giáo huấn của Công Đổng Vatican II về lòng sùng kính này như sau :

Thực vậy, từ những thời rất xa xưa, Đức Nữ Trinh đã được tôn kính dưới tước hiệu "Mẹ Thiên Chúa", và các tín hữu đã khẩn cầu cùng ẩn náu dưới sự che chở của Mẹ trong mọi cơn gian nan khốn khó... Sự tôn kính ấy, như vẫn luôn có trong Hội Thánh, tuy hoàn toàn đặc biệt, nhưng tự bản chất vẫn khác biệt với sự thờ phượng dâng lên Ngôi Lời nhập thể, lên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần; việc tôn kính Đức Ma-ri-a khuyến khích thêm việc thờ phượng Thiên Chúa Ba Ngôi" (x. LG 66).

Việc tôn kính Đức Trinh Nữ Maria như là Mẹ Thiên Chúa đã được Giáo Hội luôn thực hành qua các thời đại được diễn tả qua các lễ phụng vụ trong năm và các kinh nguyện kính Đức Mẹ như kinh Mân Côi. Tuy nhiên, chúng ta cũng luôn phải nhớ rằng Đức Trinh Nữ Maria cũng là một thụ tạo như chúng ta, là nữ tì của Thiên Chúa như mẹ đã khẳng định trong ngày được Truyền Tin ( Lc 1, 38) “Mẹ là đền thờ của Thiên Chúa chứ không phải Thiên Chúa của đền thờ” Thánh Ambrôsiô, vị thánh rất yêu mến Đức Mẹ ở thế kỷ IV, đã nói về Đức Mẹ như thế.

Đức Trinh Nữ Maria đã sống gắn hoàn toàn gắn bó với Thánh Ý Thiên Chúa khi lãnh nhận sứ mạng làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Mẹ đã cộng tác với công trình cứu độ khi dự phần vào hy lễ Thập Giá với tâm tình ưng thuận hiến dâng lễ vật do lòng mình sinh ra. Mẹ đã nên mẫu gương về Đức Tin, Đức Cậy và Đức Ái cho toàn thể Hội Thánh và Mẹ là một "chi thể trổi vượt và độc đáo nhất của Hội Thánh" (x. LG 53). Thánh Augustinô đã nói về Đức Maria như là "mẹ các chi thể của Đức Ki-tô...vì đã cộng tác trong đức ái để sinh ra các tín hữu trong Hội Thánh, là những chi thể của Đức Ki-tô là Đầu"

Chính vì thế, Mẹ có một vai trò rất cao trọng trong Hội Thánh và đối với toàn thể loài người :

"Trong nhiệm cục ân sủng, kể từ khi Mẹ tin tưởng ưng thuận trong ngày truyền tin, sự ưng thuận mà Mẹ đã kiên quyết giữ trọn cho đến bên Thập Giá. Đức Ma-ri-a tiếp tục thiên chức làm Mẹ cho tới lúc vĩnh viễn hoàn tất việc cứu độ mọi người được tuyển chọn. Thực vậy, sau khi về trời, vai trò của Ngài trong việc cứu độ không chấm dứt, nhưng ngài vẫn tiếp tục liên lỉ chuyển cầu để đem lại cho chúng ta những ân huệ giúp chúng ta được cứu độ đời đời .... Vì thế, trong Hội Thánh, Đức Trinh Nữ được kêu cầu qua các tước hiệu: Trạng Sư, vị Bảo Trợ, Đấng Phù Hộ và Đấng Trung Gian" (LG 62).

Trên bình diện ân sủng Mẹ là Mẹ thật của chúng ta ( LG 61).

Việc tôn kính Đức Trinh Nữ khác với việc tôn thờ Thiên Chúa. Thiên Chúa chắc chắn sẽ không ghen tị khi chúng ta tỏ lòng tôn kính đối với Mẹ Maria, người nữ tì khiêm tốn mà Thiên Chúa đã thực hiên những điều cao cả. Nhưng lòng tôn sùng chân chính không hệ tại ở những tình cảm chóng qua và vô bổ, cũng không hệ tại ở sự dễ tin phù phiếm, nhưng phát sinh từ một đức tin chân thật. Đức tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta (LG 67).

Với những giáo huấn và hướng dẫn trên của Hội Thánh thì việc tôn sùng Đức Trinh Nữ cần thiết cho ơn cứu rỗi của chúng ta. Tuy nhiên cần phải nhớ rằng ơn cứu rỗi của chúng ta là do Thiên Chúa chứ không bởi Đức Trinh Nữ Maria. Mẹ là Mẹ thật của chúng ta trên bình diện ân sủng nên mẹ sẽ chuyển cầu một cách hiệu quả cho chúng ta những ơn ta cầu xin với Chúa nhất là những ơn thiêng liêng đem lại phần rỗi cho chúng ta. Vì mọi ảnh hưởng có sức cứu độ của Đức Trinh Nữ trên nhân loại, đều bắt nguồn từ công nghiệp dư tràn của Chúa Ki-tô" (x. LG 60). ."Thực vậy, không bao giờ có thể đặt một thụ tạo nào ngang hàng với Ngôi Lời Nhập Thể và Cứu Chuộc (GLCG 970)

Nếu lòng sùng kính Đức Mẹ do bởi những tình cảm tự nhiên làm lu mờ lòng tin, cậy, mến đối với Chúa và tạo nên những lệch lạc trong đời sống đạo thì cần phải được chỉnh đốn lại cho phù hợp. Việc diễn tả lòng đạo đức cũng thế. Cần thể hiện cách nào đó tránh sự hiểu lầm và vẫn phải luôn cho thấy việc tôn thờ Thiên Chúa là việc không thể xao nhãng và coi nhẹ để chỉ biết lưu tâm đến những hình thức đạo đức thuần tuý tình cảm đối với Đức Mẹ.

Mục lục

 

 

SỐNG CHỨNG NHÂN

 

Bom Nguyên Tử trên thành phố Hiroshima, 62 năm nhìn lại

 

Hơn nửa thế kỷ trôi qua, kể từ ngày hai quả bom nguyên tử nổ tại hai thành phố Hiroshima và Nagasaki, nhưng người dân Nhật vẫn còn kinh hoàng về sức tác hại và hậu quả tàn khốc chúng để lại. Vốn tính kiêu kỳ về nền văn hóa quốc gia, đa số người Nhật giữ thinh lặng, tránh khơi dậy kinh nghiệm quá đau thương. Phải thời gian rất lâu sau đó, có ít người bằng lòng lên tiếng, như lời mời gọi thế giới chung xây hòa bình. Xin trích dịch chứng từ của bà Kikue Miyamoto, sống tại thành phố Kita-Kyushu. 2 trong 3 người con của bà qua đời vì hậu quả của chất phóng xạ nguyên tử.

Người Nhật thả đèn trên sông kỉ niệm 62 năm thành Hiroshima bị bom nguyên tử

Tháng 8 năm ấy - 1945 - tôi bước vào tuổi 20 và đã lập gia đình. Tôi bồng bé gái nhỏ 8 tháng về thăm mẹ đang sống với người em gái tại thành phố Hiroshima. Chúng tôi ở với mẹ tới ngày thứ sáu. Sáng hôm đó, còi báo động gióng lên inh ỏi. Tôi nghe tiếng phi cơ bay ầm ĩ trên trời. Tôi cứ ngỡ đó là chiếc B-29. Vào đúng lúc mẹ tôi đi vào nhà vệ sinh, tôi nghe một tiếng nổ chát chúa như thể một luồng chớp xuyên qua, rồi thì, tất cả bên trong căn nhà trở nên trắng xóa. Phản ứng đầu tiên của tôi là ôm chặt đứa con gái nhỏ trong vòng tay. Chúng tôi bị hất bổng lên cao rồi rơi nằm bẹp dưới đất. Đang cố gắng đứng lên, tôi bỗng nhận ra căn nhà chúng tôi sụp đổ. Tôi tự nhủ: ”Mình tiêu tùng rồi!” Xong, tôi lịm đi không hay biết gì nữa.

Chính tiếng kêu của đứa con làm tôi tỉnh lại. Chúng tôi bị kẹt dưới cây đà sàng nhà. May mắn thay có chút lỗ hổng, nên có thể thở được. Tôi nghĩ rằng mình không thể nào thoát ra được. Nhưng khi gặp hoạn nạn, đôi lúc người ta tìm thấy sinh lực khác thường. Sau khi làm đủ mọi cách, tôi thoát ra được.

Một người đàn bà kêu tên đứa em gái tôi mấy lần. Đó là mẹ tôi. Tiếng nói là của mẹ. Nhưng khuôn mặt mẹ biến dạng đến nỗi tôi hỏi: ”Có phải mẹ đó không?” Mẹ tôi đáp: ”Bộ con không nhận ra mẹ con nữa sao?” Em gái tôi thì đen như dầu hắc. Em đứng đó, máu me chảy ra từ khuôn mặt và đôi tay. Cả bốn mẹ con chúng tôi tìm ẩn náu nơi rạch sông đã cạn. Dân chúng bắt đầu chạy thoát khỏi thành phố, nơi các ngọn lửa bốc cháy mù mịt. Mọi người hốt hoảng không biết chạy về đâu. Sau cùng, chúng tôi cũng theo đoàn người tỵ nạn chạy xuống gầm cầu. Nơi đây đã có đám đông người bị thương đang ngồi la liệt. Vào chính lúc ấy, thành phố bỗng trở nên tối om. Đêm đen như đổ ập xuống và một cơn mưa đen bắt đầu rơi lả chả.

Một người đàn bà ôm trong tay một cái gói gì đó phủ đầy máu. Tôi hỏi thì bà cho biết là nhà bà bị sập. Bà thoát được nhưng đứa con nhỏ của bà bị kẹt lại. Thấy lửa bốc cháy, bà tìm mọi cách để kéo con ra. Bà kéo mạnh đến nỗi đứa bé chỉ còn lại một thân thể rách nát, nhầy nhụa. Con bà đã chết. Nhưng bị thất thần vì quá đau đớn, bà vẫn tiếp tục ôm con vào lòng và đong đưa như ru con ngủ.

Một cảnh tượng kinh hoàng đang diễn ra trước mắt. Những người bị thương có thân thể chương phình lên, khiến da bị nứt ra để lộ thịt bị cháy đỏ, giống như củ khoai bị nướng. Những người bị thương này tìm ra bờ sông và dìm mình xuống nước. Ban chiều, tôi nghe tiếng một người đàn bà kêu than, lập đi lập lại: ”Cho tôi nước! Xin làm ơn cho tôi uống nước!” Đó là lời duy nhất bà có thể nói. Bà này cũng đã mất trí vì quá đau đớn và vì quá kinh hoàng. Tất cả những người bị phỏng nặng và bị cháy sống cũng chỉ lập đi lập lại câu nói duy nhất: ”Cho tôi nước! Xin làm ơn cho tôi uống nước!”

Trời tháng 8 nóng như thiêu như đốt. Các vết thương mưng mủ và sinh giòi bọ nhanh chóng. Nhiều người bị thương nằm la liệt nơi các chòi được dựng lên cấp cứu, đều bị giòi ăn sống, trong số đó cũng có mẹ tôi. Phần tôi và đứa con gái nhỏ 8 tháng cũng bị thương nhưng kém trầm trọng hơn.

Thời gian ngắn sau đó, hai mẹ con tôi trở về nhà ở thành phố Kita-Kyushu. Tôi nằm liệt giường trong vòng một năm trời. Đứa con gái nhỏ của tôi qua đời 5 năm sau đó. Tôi cho ra chào đời hai đứa con trai nữa. Nhưng đứa con trai đầu lòng qua đời năm lên 4 tuổi vì bị tàn tật. Chỉ có đứa trai út còn sống đến ngày hôm nay.

Xin tuyệt đối đừng bao giờ gây ra chiến tranh. Nếu mọi người ý thức điều đó tận nơi cõi lòng thì thảm họa trên đây đã không xảy ra. Tôi ước ao sống trong một thế giới không có chiến tranh. Tôi muốn xây dựng một thế giới trong đó các thế hệ trẻ sẽ không bao giờ phải trải qua một kinh nghiện đau thương như tôi!

... ”Giờ đây hãy chúc tụng THIÊN CHÚA muôn loài, Đấng đã làm những điều vĩ đại ở khắp nơi, Đấng đã làm cho đời sống chúng ta nên cao quý ngay từ thưở ta còn trong lòng mẹ, và đối xử với chúng ta theo lòng lân tuất của Người. Xin THIÊN CHÚA ban cho tâm hồn chúng ta niềm hoan hỷ, và cho đời chúng ta hưởng phúc bình an, tại đất Israel đến muôn thưở muôn đời! Xin THIÊN CHÚA hằng tỏ lòng lân tuất với chúng ta, và giải cứu chúng ta trong những ngày chúng ta đang sống” (Sách Huấn Ca 50,22-24).

(”Missions Étrangères de Paris”, n.355, Janvier/2001, trang 9-11).

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Mục lục

 

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH

Sinh viên ở lưu xá

 

Là mái nhà chung của nhiều nữ sinh viên nghèo, các lưu xá sinh viên không chỉ giúp họ có chỗ ăn, nghỉ trong thời gian xa quê lên TPHCM học tập, mà còn là nơi giáo dục họ về nữ công gia chánh, lối sống tập thể...

Lưu xá sinh viên Hòa Hưng (quận 10), Nam Hòa (quận Tân Bình), Thiên Phước (quận 3)... đã trở thành những cái tên thân quen đối với các sinh viên nghèo ở tỉnh lên TPHCM học tập. Cùng sống chung trong một ngôi nhà lớn, dưới sự hướng dẫn của các linh mục, nữ tu..., các sinh viên sống trong lưu xá trở thành những con người có ý thức học tập, rèn luyện và trách nhiệm đối với xã hội, gia đình, thầy cô...

Trưởng thành hơn khi biết sống tập thể

Lưu xá khác với những khu vực ở trọ, ký túc xá ở chỗ nơi đây có kỷ luật nghiêm hơn hẳn. Tất cả sinh viên phải tuân theo lịch sinh hoạt, làm việc tập thể, chỉ việc học là riêng. Chi phí cho một sinh viên sống trong lưu xá khoảng 430.000 đồng/tháng. Sinh viên tự túc, thay phiên nhau nấu ăn. Thứ bảy hằng tuần, tập trung tổng vệ sinh nhà cửa, vừa làm vừa nghe nhạc trong bầu không khí nhộn nhịp như một cách thư giãn cuối tuần. Một tháng, các phòng trong lưu xá có một buổi họp phòng, chọn trưởng phó phòng và giao công tác cho người mới. Ai có gì không hay, không bằng lòng, có thể nói cho cả phòng biết để góp ý, sửa lỗi cho nhau, từ đó hiểu, thông cảm và yêu thương nhau hơn.

Sinh viên Đỗ Thị Hồng Hạnh, khoa xã hội học Đại học Mở TPHCM, hiện đang sống tại lưu xá Hòa Hưng (104B Tô Hiến Thành, phường 15, quận 10 - TPHCM), cho biết sống trong môi trường này rất tốt cho sinh viên khi mới chập chững vào đời. “Nếu tụi mình không giúp nhau được thì soeur (nữ tu) hướng dẫn sẽ giúp. Dần dần mọi người vượt qua được khoảng cách để sống vui vẻ, hòa thuận. Hằng năm, tụi mình được đổi phòng để tiếp tục sống trong môi trường, bạn bè mới. Lúc đầu không thích nhưng sau mới hiểu ra được rằng tiếp xúc với nhiều người, va chạm nhiều tính cách khác nhau sẽ học hỏi được nhiều điều mới nơi họ. Qua các hoạt động lưu xá tổ chức, tụi mình nhận được rất nhiều kiến thức và những kỷ niệm đẹp, biết cách sống tập thể, mạnh dạn hơn trước đám đông...”.

Hạnh phúc khi biết dừng đúng mức

Trước cửa các lưu xá có bảng lịch giờ đi học, giờ về... Ai muốn đi đâu cũng phải báo. Đúng 21 giờ 30 mọi người đều phải đi ngủ, trừ khi bài vở nhiều có thể thức khuya. Không có chuyện sinh viên đi chơi qua đêm. Họ đều phải học tập, sinh hoạt theo lịch, thời gian được sắp sẵn. Nhưng hầu hết các sinh viên sống ở đây đều thoải mái với cuộc sống tưởng chừng như gò bó, mất tự do... Điều trước tiên là họ được an toàn và gia đình an tâm. Những luật lệ của lưu xá không có gì khắt khe mà hoàn toàn đúng để giáo dục một con người. Nghiêm khắc với chính bản thân sẽ giúp mình trưởng thành, không bị lôi kéo bởi những tiêu cực của xã hội.

“Yêu có kế hoạch” là câu nói vui của các sinh viên ở đây và được họ “áp dụng” trong tình yêu của mình. Được sự giáo dục của các linh mục, soeur, sinh viên rất ý thức trong chuyện tình cảm. Theo họ, yêu nhau không phải cứ sát cánh bên nhau mà việc học mới là chính, tất nhiên còn nhiều quan hệ khác. Các cặp đôi một tuần chỉ gặp nhau một hoặc hai lần. Họ không ngại khi dẫn bạn trai đến lưu xá “ra mắt” mọi người rồi cùng “bình luận”, góp ý và khi ai đó gặp trở ngại trong chuyện tình cảm sẽ được tập thể tư vấn giải quyết.

Sinh viên lưu xá ăn mặc giản dị, không đua đòi. Đa số sinh viên cho biết, họ không cảm thấy bị lạc lõng khi tiếp xúc với bạn bè cùng trang lứa và hạnh phúc khi mình biết dừng lại đúng mức với hoàn cảnh của mình.

Để cuộc sống có ý nghĩa

Trước giờ ngủ, họ cùng nhau suy ngẫm điều gì đó: Một câu chuyện, một ý tưởng trong sách, một bài báo, một đoạn băng... để hiểu cuộc sống hơn. Soeur Vũ Minh Phương phụ trách lưu xá Hòa Hưng cho biết: “Chúng tôi muốn dành hết khả năng của mình giáo dục cho các em phát triển toàn diện, cả tri thức và nhân cách. Giới trẻ bây giờ năng động, ham học hỏi, nhưng rất dễ sa ngã. Khi đam mê một điều gì đó, họ làm tới cùng, mà có khi quên tất cả. Vì thế để đạt được cuộc sống ý nghĩa, có giá trị, con người phải đối diện và vượt qua những khó khăn. Chúng tôi muốn giáo dục các sinh viên có lối sống tích cực, lành mạnh, có mục đích phương hướng cũng như có kỹ năng sống tốt trong xã hội hiện đại hôm nay”.

THANH THANH

Theo báo Người Lao Động

Mục lục

 

 

 

Bố mẹ vô tình dạy con nói dối

Đang bận thì chuông điện thoại réo, chị Hải bảo cậu con trai bốn tuổi: "Ai hỏi thì con bảo mẹ đi làm chưa về nhé". Cậu bé nhấc điện thoại lên, trả lời theo đúng ý mẹ. Chị khen con "giỏi". Cũng như nhiều ông bố, bà mẹ khác, chị Hải đã vô tình dạy cho con những bài học đầu tiên về nói dối.

Những người làm cha mẹ luôn đòi hỏi con phải "khai thật" với mình và trong thâm tâm ai cũng mong muốn con cái trở thành người trung thực. Thế nhưng, chính họ lại làm cho con "rối loạn" vì "nói một đường, làm một nẻo".

"Chuyện con nít"

Nghỉ hè, vợ chồng chị Chuyên, TP.HCM đưa hai đứa con gái về quê ở miền Trung. Khi chuyến tàu tốc hành chuyển bánh, chị Chuyên dặn cô con gái nhỏ: "Chú soát vé hỏi con bao nhiêu tuổi, con trả lời năm tuổi nhé". Cô bé ngạc nhiên: "Nhưng con đã sáu tuổi, học gần xong lớp một rồi mà". "Khai đúng tuổi để người ta bắt mua vé. Mẹ đã mua ba vé, con nằm chung giường với chị là ổn rồi!".

Cô bé cũng nói theo mẹ, nhưng khi người soát vé đi khỏi, cô bé càu nhàu với chị: "Em đã sáu tuổi rồi, em không thích năm tuổi, vì phải học lại lớp chồi". Chị Chuyên không biết, mình vừa dạy cho con bài học thiếu trung thực chỉ vì cái lợi nhỏ trước mắt.

Vợ chồng anh Hoàng cũng rơi vào trường hợp này. Trong bữa cơm, anh Hoàng than phiền với vợ về những kế hoạch mới ở công ty mà anh không đồng tình với quan điểm của giám đốc. Chị vợ góp ý với chồng: "Anh cứ làm ra vẻ ủng hộ cấp trên, để người ta khỏi để ý đến mình. Cứ bảo là anh đang học thạc sĩ, nên bận nghiên cứu tài liệu".

Đứa con gái 12 tuổi chen ngang: "Chuyện gì con không thích là con nói liền" thì bị mẹ lên lớp: "Chuyện của con toàn là chuyện con nít, thích hay không thích chẳng có gì quan trọng. Khi nào con lớn, con mới biết, đâu phải lúc nào mình cũng nói theo ý của mình".

Cha mẹ phải gương mẫu

Ngay từ lúc lên hai, trẻ sẽ ghi nhớ và bắt chước theo mọi câu nói, hành vi, cử chỉ của bố mẹ. Nhiều người nghĩ, có những lời nói dối vô hại, nên hồn nhiên "phổ biến" cho con. Khi đi mẫu giáo, đến trường, có thêm những mối quan hệ ngoài gia đình, qua giao tiếp với bạn bè, người lớn... trẻ còn có nhiều cơ hội học bài học "trung thực hay không". Vì thế, cha mẹ cần phải giám sát con để kịp thời chỉnh sửa những biểu hiện thiếu trung thực nơi trẻ.

Thái độ của cha mẹ quyết định sự thành thật hay gian dối của con. Khi trẻ ý thức được rằng nói thật sẽ bị cha mẹ la mắng, trừng phạt thì nó sẽ bắt đầu áp dụng "chiêu" nói dối. Một đứa trẻ nói dối cũng rất khổ tâm vì phải sống trong trạng thái áy náy, lo sợ bị phát hiện.

Nếu con có lỗi và chịu nói thật, cha mẹ đừng trách mắng mà nên xử lý thật công bằng, phân tích lỗi, yêu cầu con không được tái phạm, đồng thời động viên tinh thần dũng cảm nói thật của trẻ.

Điều cần thiết nhất là bố mẹ nên để con thấy được nhiều tấm gương trung thực, trong đó, mình phải là người gương mẫu nhất. Bạn cũng có thể cho con tiếp cận với những cuốn sách, bộ phim nói về những nhân vật thật thà, thẳng thắn cùng với lời bàn của cha mẹ.

Theo Phụ Nữ

Mục lục

 

ĐỌC SÁCH

LỄ ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI

 

Nếu mỗi tâm hồn, được nhìn như một bông hoa hồng thắm, thì hôm nay, con xin gom hết lại kết thành bó hoa vĩ đại, vô cùng rực rỡ, đặc biệt lên trước ngai Mẹ. Để chúc mừng niềm hạnh phúc lớn lao, mà Chúa đã ân thưởng cho Mẹ. Đó là đã cho Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác.

 

Việc Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác hôm nay, vừa khép lại sau lưng những hy sinh, những đắng cay, những sầu buồn mà trần đời đã đổ trên đời Mẹ. Vừa tuyên dương những đóng góp to lớn trong việc đồng công cứu chuộc của Mẹ. Đồng thời cũng mở ra một thực tế huy hoàng trong đôi mắt mỗi người chúng con, về quê hương đích thực của mình.

 

Bên Mẹ trong ngọt ngào lâng lâng, rất riêng tư và yên ắng, con muốn hỏi nhỏ Mẹ một điều : Khi ở trần thế, Mẹ đã làm gì khiến hôm nay Chúa lại ân thưởng cho Mẹ một ơn cao trọng thế này.

 

Suốt đời biết xin vâng

 

Tiếng xin vâng đầu tiên, run run và liều mạng trước sứ thần Gabriel hôm nào, đã đặt bàn chân mẹ vào lối đi giăng đầy gai góc. Trước lời gợi ý của sứ thần, Mẹ đã hoang mang  : “ tôi chẳng hể biết đến người nam”. Mẹ muốn trọn đời dâng hiến, để đời mình trọn vẹn thủy chung với Chúa. Giờ này, trước ý muốn của Chúa, phải từ bỏ, phải đổi thay. Có từ bỏ nào lại không xót xa, nhhất là đối với lựa chọn cả đời. Đàng sau lời xin vâng thứ nhất,  là một lời xin vâng khác, cũng to lớn không kém. Xin vâng đồng công cứu chuộc với Chúa, Con Mẹ.

 

Người ta vẫn thường phải đau khổ chấp nhận vì những đứa con hư. Với Mẹ Maria, thì lại vô cùng đau khổ vì người con quá ngoan, ngoan đến độ : “Đố các ngươi bắt ta được một lỗi gì “. Con ngoan quá, mà sao lòng người cứ đểu cáng, ác độc làm hại con mình. Chỉ dạy những lẽ khôn ngoan, chỉ suốt đời mở tay làm phúc. Hoá bánh cho ăn, chửa lành bệnh tật, mà sao lại vu khống hãm hại và giết chết Con yêu. Mẹ đớn đau xin vâng dâng hiến.

 

Chiến thắng được tội lỗi.

 

Nặng nề, hay bị cột, người ta không thể bay lên được. Mẹ được bay lên trời cao, bởi người Mẹ nhẹ nhàng, thênh thang. Tội lỗi là sợi dây chắc và dai nhất để cột trói con người. Cái cao cả của Mẹ là không một lần, Mẹ để sợi dây ấy trói buộc. Mẹ thoát khỏi tội  lỗi. Tội lỗi là con đẻ của đam mê và ma quỉ. Mẹ đã đạp dập đầu con rắn : “Một người phụ nữ sẽ đạp nát đầu mày” và đã luôn lấy ý Chúa, để điều khiển đam mê. Không một phút giây nào, Mẹ đã nằm dưới sự phong toả của tội lỗi, kể cả sợi dây oan nghiệt  “Tội tổ tông truyền”. Cũng không hề quấn được vào đôi chân Mẹ.

 

Tin và phó thác vào Chúa

 

Mẹ là kẻ đã tin Chúa. Một lòng tin tưởng tuyệt đối. Không phải một lúc, nhưng dọc dài suốt cuộc đời.

 

Chấn nhận được không ? Khi cái thai trong bụng là bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, Tin thôi, bởi vì Thiên Chúa quyền phép, thì không có điều gì là khó.

 

Trong chuồng bò lạnh lão, Con Thiên Chúa đây sao ? Sao lại phải sinh ra một nơi hèn hạ và tủi nhục quá đỗi. Tin thôi, bởi khiêm tốn và từ bỏ, đang là bài học bức bách. Thiên Chúa cần dạy cho con người.

 

Thiên Chúa đây sao ? Phải trốn chạy sang Ai cập giữa cuộc truy đuổi của con người. Mẹ vẫn tin thôi, bởi đường Chúa đi là đường cứu độ. Qua gian khổ mới tới vinh quang. Qua gian khổ mới giải nghĩa được chữ Yêu đậm nét.

 

Mẹ về trời hôm nay, bật lên một chùm ánh sáng hy vọng rực rỡ. Điểm hẹn quê hương, rõ nét đằng kia. Có nhà, có Thiên Chúa cội nguồn tình yêu, có Mẹ. Ôi chao hạnh phúc. Mẹ về trời. Mẹ về trời bơi lội trong suối mát tình yêu. Chắc chắn Mẹ hạnh phúc lắm rồi. Nhưng có một điều mà sao con không hiểu nổi. Trong những lần hiện ra, lần nào đôi mắt Mẹ cũng buồn, lần nào nhắc đến nhân loại  Mẹ cũng khóc. Phải chăng vì tội lỗi chúng con nhiều quá phải không ? Mẹ ơi, sao Mẹ khóc ?

 

Lm. Đa Minh Đỗ Văn Thiêm

 

Mục lục