TIN VUI
Tuần san Bạn trẻ Công Giáo - Số 99 CN 19.08.2007
Web site:www.tinvui.org E-mail : bantreconggiao@yahoo.com
Hoặc : tinvuivietnam@gmail.com
CHUYỂN LỬA CHO LỬA BÙNG LÊN
ĐỨC THÁNH CHA CỬ HÀNH THÁNH LỄ VÀ CHỦ SỰ
ĐTC lên tiếng kêu gọi trợ giúp nạn nhân bão lụt
Thư của Ðức Cha Phaolô Maria Cao Ðình Thuyên Kêu Gọi Giúp Dân Bị Lũ Lụt Tại Hà Tĩnh Và Quãng Bình.
Thiếu nhi Thánh Thể giáo xứ Ngọ Xá, Giáo Phận Bắc Ninh, vui trại hè 2007.
Lễ khánh thành nhà thờ Thị Ðáp Cầu, Bắc Ninh.
Tự do, nhân quyền, và bổn phận cầu nguyện
ĐỨC MARIA. MẪU NGƯỜI PHỤ NỮ THIÊN CHÚA YÊU MẾN
GÓP PHẦN XÂY DỰNG MỘT XÃ HỘI CÔNG BẰNG
ÂM NHẠC TRONG PHỤNG VỤ KITÔ GIÁO
THÁNH MASSIMILIANO-MARIA KOLBE: TÌNH YÊU TỰ HIẾN
Tương quan giữa cha sở với các nữ tu, ban hành giáo và các đoàn thể trong giáo xứ (tiếp theo)
SỐNG LỜI CHÚA
Ngày 19.8.2007
Lc 12, 49-53
"Thầy không đến để đem bình an, nhưng đem sự chia rẽ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên. Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất. Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ. Vì từ nay, năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng". Đó là lời Chúa.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định sứ mạng của Chúa: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy cháy bùng lên”. Trong Thánh Kinh, lửa vừa trượng trưng cho sự lành, sự thánh thiện, vừa tượng trưng cho sự hủy diệt.
Lửa tượng trưng cho sự lành, sự thánh thiện như: Một lần Chúa hiện ra với ông Môisen qua hình ảnh lửa cháy ngùn ngụt giữa bụi gai để sai Môisen đi cứu dâng của Người (Xh 3, 2). Lưỡi lửa đậu trên đầu các thánh tông đồ, tượng trưng cho ơn Chúa Thánh Thần trong ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống (Cv 2, 3-4)…
Lửa tượng trưng cho sự hủy diệt: Lửa đốt cháy thành Sôđôma và thành Gômôra, lửa hỏa ngục…
Hôm nay, khi nói về lửa: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất”, Chúa Giêsu nói đến lửa nào? Lửa của sự lành hay hủy diệt?
Trong cái nhìn hết sức khoan hậu, dịu dàng của Tin Mừng theo thánh Luca, ta tin chắc rằng, Luca nói về lửa của ơn Chúa, lửa của sự thánh thiện. Lửa ấy là chính Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu “ném Lửa” vào thế gian, nghĩa là Chúa ban ơn Thánh Thần cho thế gian. Ơn Chúa Thánh Thần là sức mạnh thần linh của Chúa được đổ trong tâm hồn ta, làm cho ta được tác thánh, giúp ta sống trong chính sự sống của Thiên Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần được ban, để tất cả những ai thành tâm đón nhận Chúa Thánh Thần, họ sẽ không còn đắm mình trong u tối, lòng không còn chất chứa nỗi sợ hãi khi phải sống đức tin ở giữa đời, người với người không còn thù hận, nhưng yêu thương nhau hơn.
Là môn đệ của Chúa, chúng ta có nhiệm vụ đón nhận Lửa Thánh Thần bằng đời sống cầu nguyện và gắn bó với Chúa suốt đời mình. Chúng ta không được làm tắt Lửa Thánh Thần, nhưng hãy để Lửa ấy lan ra bằng chính đời sống bác ái, yêu thương của ta. Vì khi lòng ta có ơn Chúa Thánh Thần, và đời sống của ta thắm đượm tình yêu của Chúa Thánh Thần, ta sẽ gây ảnh hưởng tốt nơi môi trường xung quanh bằng nghĩa cử bác ái yêu thương. Lúc mà ta có thể gây ảnh hưởng tốt, chính là lúc ta đã cộng tác với Chúa Giêsu làm cho “lửa ấy cháy bùng lên”, nghĩa là làm cho ơn Chúa Thánh Thần lan rộng trong tâm hồn mọi người. Làm cho Lửa Thánh Thần cháy bùng lên trong tâm hồn con người là ta đã hoàn tất mong ước của Chúa Giêsu, hoàn tất chính sứ mạng Kitô hữu mà Chúa Kitô trao cho. Bởi chỉ nơi chúng ta, trong chúng ta, những môn đệ của Chúa Kitô, Chúa Kitô mới có thể hoàn tất chương trình của Người, mới có thể làm cho ước mong “phải chi lửa ấy cháy bùng lên” của Người trở nên hiện thực.
Một tấm gương quý giá và cũng là bài học cụ thể để ta học lấy mà làm cho Lửa Thánh Thần bùng lên nơi cuộc sống quanh ta như “ước mong” của Chúa Kitô. Tấm gương và bài học ấy chính là cái chết của Cha Mychal Judge để lại.
Sáng ngày 11.9.2001, cả thế giới kinh hoàng sửng sốt trước một biến cố đau thương, thấm đẫm nước mắt: Hai tòa nhà Tháp Đôi cao 110 tầng của Trung tâm Thương mại Thế ở new York giới bị bọn khủng bố bất ngờ đánh sập. Người ta ghi nhận nhiều tấm gương anh hùng của nhiều con người đã xả thân cứu người trong cảnh tan nát đầy máu lửa này. Trong số đó, người ta cũng nhắc tới và ghi ơn Cha Mychal Judge. Cha là linh mục dòng Phanxicô, tuyên úy Công giáo cho lính cứu hỏa thành phố New York. Cha đã hy sinh đang khi giải tội và xức dầu cho các anh em đang làm nhiệm vụ chữa lửa và cứu các nạn nhân đang mắc kẹt bên trong tòa nhà. Một linh mục khác, cha Joe Hertel, cũng là tuyên úy nhưng sống sót sau thảm họa, đã chứng kiến cái chết của Cha Mychal Judge. Cha Joe kể lại rằng, khi chiếc máy bay đầu tiên tông vào tòa Tháp Đôi, Cha Mychal Judge đã nhanh chóng đến hiện trường. Bất chấp nguy hiểm, một khi xông vào vòng vây máu lửa, Cha Mychal Judge đã không bỏ chạy. Chứng kiến tận mắt quá nhiều người chết và bị thương, cha đã đứng lại ban các phép bí tích sau cùng cho nhiều người. Khi Cha Mychal Judge đang cử hành bí tích, tòa nhà sụp xuống, đè lên cha và vô số anh em cứu hỏa đã xông vào bên trong. Cái chết của cha và của nhiều người vì hy sinh cứu người đã làm mọi người thương tiếc. Cha cũng như nhiều anh em có thể bỏ chạy, nhưng đã không chạy. Chấp nhận nguy hiểm, cha đã nên giống Chúa Kitô, chết cho con người để cứu giúp con người. Cha đã nên giống Chúa Kitô, người Thầy mà cha yêu mến, và rao giảng suốt đời. Cha đã làm lan tỏa Lửa Thánh Thần tình yêu của Chúa Kitô bằng chính cái chết anh dũng của mình. Cha chính là hình ảnh cụ thể của Lửa Thánh Thần mà Chúa Kitô “ném” vào trần gian.
Lịch sử Hội Thánh ghi nhận rất nhiều những bằng chứng sống động về việc Chuyển “Lửa” của Chúa Giêsu nơi nhiều vị thánh và rất nhiều anh chị em khác. Cha Mychal Judge chỉ là một trong nhiều những tấm gương làm bùng ngọn Lửa Thánh Thần mà thôi. Vậy, như những anh chị em ấy, chúng ta hãy trở nên chứng nhân cụ thể cho Lửa Thánh Thần tình yêu nơi trần thế. Như Chúa Thánh Thần đã ngự trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa, biến họ nên những nhân chứng Nước Trời, Người cũng muốn ta là những môn đệ của Chúa Kitô trong thời đại mới, hãy thắp lên trong tâm hồn ta ngọn Lửa Thánh Thần tình yêu, để rồi mang Lửa Tình Yêu Thánh Thần ấy đến khắp nơi.
Hiện nay, chúng ta đang sống trong một thế giới đầy bất ổn. Là môn đệ của Chúa, chúng ta hãy ý thức nhiều hơn vai trò làm bùng Lửa Thánh Thần tình yêu trong thế giới. Thế giới bất ổn, vì thế, thế giới cần sự bình an. Chúng ta mang Lửa Thánh Thần tình yêu, chính là mang bình an của Chúa ném vào thế giới. Nơi đâu có tình yêu, nơi đó tràn ngập bình an. Nơi đâu đã tràn ngập bình an, nơi đó tình yêu càng lớn mạnh.
Chúng ta hãy nhớ rằng, Lửa Thánh Thần tình yêu mang lại bình an. Nhưng ơn bình an mà ta lãnh nhận không bao giờ là một sự an nhàn, một lối sống cam chịu, nhưng luôn luôn là sự phấn đấu, là đồng hành, là lên đường, là thi hành sứ vụ, là trở nên chứng nhân cụ thể chuyển Lửa của Chúa Kitô.
Lửa muốn cháy bền, cháy lâu, lửa phải lan ra. Người Kitô hữu chuyển Lửa là cách tốt nhất cho Lửa bùng lên. Lửa ấy chính là ơn Chúa Thánh Thần. Làm bùng Lửa lên là làm cho ơn Chúa Thánh Thần trở nên mạnh mẽ trong lòng người. Lòng người bùng lên ơn Chúa Thánh Thần, nghĩa là làm tỏa mãn “ước mong phải chi lửa ấy cháy bùng lên” mà Chúa Kitô ngỏ cùng mỗi môn đệ của Người.
Lạy Chúa Giêsu, xin đổ tràn ngập tâm hồn chúng con Lửa Thánh Thần Chú,a để chúng con biết tỏa sức sống của Chúa và can đảm sống chứng nhân giữa đời hầu làm chứng cho Chúa trong mọi môi trường chúng con sống. Xin cho chúng con biết nói về Chúa bằng chính đời sống bác ái yêu thương của chúng con. Amen.
Lm. VŨ XUÂN HẠNH
HIỆP THÔNG GIÁO HỘI
Mỗi năm, đến lễ khai trường tôi lại nhớ về những người đã đào tạo nên tôi, riêng năm nay, khi niên học mới nhấn mạnh đến đạo đức, tôi càng cung kính nhớ về những nhân tố đào tạo đời tôi, nhất là trong việc đào tạo lương tâm người con Chúa.
Những nhân tố đó rất nhiều. Nhưng phải kể đặc biệt đến những nhân tố sau đây :
- Cha mẹ
- Các Cha linh hướng.
- Các cộng đoàn đạo đức và các bạn bè tốt.
- Toà Thánh và các người của Hội Thánh.
Mỗi nhân tố đã đóng góp phần của mình. Tất cả đều đã cộng tác với Chúa cách này hay cách khác. Kế hoạch đào tạo tôi về mặt “lương tâm người con Chúa” là cả một công trình.
Kế hoạch này được rõ nét dần dần, tuỳ theo sự phát triển con người của tôi, và tuỳ theo những thăng trầm lịch sử.
Theo kinh nghiệm của tôi, thì kế họch đào tạo này chủ yếu là giúp tôi nghe được tiếng Chúa gọi tôi và sai tôi đi.
Có thể vắn gọn thế này :
Chúa gọi tôi phải gắn bó mật thiết với Chúa. Như lời Chúa Giêsu phán : “ Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, các con chẳng làm gì được” ( Ga 15, 5).
Tiếng Chúa gọi trên đây nhắm vào một trọng tâm, đó là phải trở về với Chúa. Trở về nội tâm, đổi mới nội tâm. Trở về hằng ngày, đổi mới mọi tầng lớp sâu thẩm con người.
Các nhân tố đào tạo đã rất khẩn thiết giúp tôi nghe được tiếng Chúa gọi và biết đáp lại.
Đứng vậy, tôi đã nghe được tiếng Chúa gọi tôi bằng đích danh tôi, và tôi đã đáp lại. Một khao khát không ngừng hình thành trong tôi. Tôi khao khát được thuộc về Chúa.
Tôi khao khát được luôn trở về với Chúa.
Khao khát này giúp tôi cảm nhận được Chúa hiện diện trong tôi. Người hiện diện như một người Cha, như một tình yêu. Xưa Chúa đã phán : “Chính Thầy là đường, là sự thực và là sự sống” ( Ga 14, 6). Chúa đã hiện diện trong tôi, đã gọi tôi theo khám phá đó. Người đã thanh luyện tôi phấn đấu trút bỏ những gì không phải là đường đi thực, không phải là chân lý thực, không phải là sự sống thực. Thanh luyện đó trở nên rất mạnh, khi việc tu thân đòi hỏi nếp sống khó nghèo, xa lìa hưởng thụ.
Càng ngày, quan hệ của tôi với Chúa càng trở nên đơn giản hơn. Tôi thấy mình bé nhỏ. Quan hệ này là một yếu tố quan trọng làm nên lương tâm người con của Chúa.
Đi liền với tiếng Chúa gọi gắn bó với Chúa là tiếng Chúa sai tôi đi.
Ngay từ rất nhỏ, tôi đã được nghe lời Chúa sai đi. Lời đó là “Chúc anh chị em ra đi bình an”. Linh mục chủ tế chúc các các con cái Chúa “ ra đi bình an”. Lời chúc đó là một lời sai đi. Thời gian đầu, lời sai đi đó được đón nhận như một nghi thức phụng vụ. Nhưng với thời gian, lời chúc đó đi vào lương tâm người con Chúa như một lời Chúa sai đi.
Sau này, càng được huấn luyện bởi suy gẫm lời Chúa, các lớp học Thánh Kinh, các chỉ dẫn của các vị có thẩm quyền, lương tâm người con Chúa càng nhận ra rõ hơn nội dung lời Chúa sai đi. Nội dung đó là : “hãy đi làm việc trong vườn nho Chúa” ( Mt 20, 4).
Vườn nho Chúa rộng mênh mông. Tôi được sai vào đó, để chịu trách nhiệm về một mảnh nhỏ nhất định, trong một thời điểm nhất định.
Từ rất lâu rồi, cụ thể mảnh vườn nho Chúa sai tôi vào là địa phận này, là địa phương này, là đất nước này.
Được sai vào đây, tôi phải làm việc không phải theo ý riêng tôi, nhưng theo thánh ý Chúa.
Thánh ý Chúa là tôi phải yêu thương mảnh vườn này một cách chân thành. Bởi vì mọi người ở đây đều được Chúa tạo dựng, đều được Chúa giữ gìn, đều được Chúa muốn đưa về với Chúa.
Thánh ý Chúa là tôi sẽ không làm gì lớn, nhưng sẽ làm những việc nhỏ mọn. Chính mình tôi sẽ phải bé mọn, như tấm men, như chút muối, như một hiện diện từ tốn, như một khuôn mặt sám hối, như một đức tin sống động.
Thánh ý Chúa là tôi sẽ làm việc ở mảnh vườn này với tinh thần hiệp thông. Bởi vì tôi sẽ làm việc với nhiều người khác. Họ cũng được Chúa sai vào làm việc ở đây. Họ với tôi sẽ bổ túc cho nhau, sẽ nâng đỡ lẫn nhau.
Thánh ý Chúa là tôi phải luôn tỉnh thức và cầu nguyện. Bởi vì có rất nhiều nguy cơ khiến tôi phản bội thánh ý Chúa. Nhất là những yếu đuối của tôi, những thói quen dể gây lãng phí, lạm dụng ơn Chúa, và đi tìm sự gì khác ngoài vinh danh Chúa.
Thánh ý Chúa là tôi phải biết chọn lựa những ưu tiên trong việc làm vườn nho Chúa.
Thí dụ thương cảm với những khổ đau của con người, chia sẻ tình thương và chân lý cho những người nghèo tình thương và chân lý, giúp con người biết sám hối và nhận ra lòng thương xót Chúa.
“Lương tâm người con Chúa” nơi tôi là như thế. Đó là công một phần lớn của những nhà đào tạo.
Hiếu thảo.
Hôm nay, nhìn về những nhà đào tạo đáng kính của tôi, tôi thấy hầu hết đã qua đời. Cái chết của các ngài là “cái chết đi về”. các ngài đã được Chúa Giêsu đưa về với Chúa.
Gặp lại các ngài, tôi nghe mỗi vị đều nói lời xưa của Chúa Giêsu : “Tôi đi về với Chúa Cha’ (Ga 17, 13).
Tôi kính cẩn cầu nguyện cho các ngài. Xin các các ngài cầu nguyện cho chúng ta. Chúng ta rất cần những ân nhân quý giá ấy.
Nhờ các ngài mà các người con Chúa có một lương tâm trách nhiệm đúng đắn, biết mình, biết đi về với Chúa và biết đến với con người. Lương tâm ấy giúp họ bình thản sống giữa đời, dù với những thuận lợi hay với những nghịch cảnh. Lương tâm ấy đem lại cho họ niềm vui và hy vọng.
Với lòng hiếu thảo, tôi xin mãi mãi tạ ơn, ghi ơn, và biết ơn các ngài; những nhà đào tạo lương tâm.
ĐGM GB. Bùi Tuần
HIỆP THÔNG GIÁO HỘI
CASTEL GANDOLFO. ĐTC Biển Đức 16 mời gọi các tín hữu gia tăng lòng tín thác, khẩn cầu ơn phù trợ của Mẹ Maria, và noi gương Mẹ trong sự ngoan ngoãn theo Chúa Kitô và quảng đại phục vụ anh em.
Ngài đưa ra lời mời gọi trên đây trong bài huấn dụ tại buổi đọc kinh truyền tin trưa ngày 15-8-2007, lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời, tại Castel Gandolfo với sự tham dự của một ngàn tín hữu hành hương.
Sau khi diễn giải ý nghĩa mầu nhiệm Đức Mẹ Hồn Xác lên trời, ĐTC nhấn mạnh rằng: ”Mẹ Maria được đưa lên trời, không có nghĩa là Mẹ xa cách chúng ta, trái lại Mẹ càng gần gũi chúng ta hơn, và ánh sáng của Mẹ chiếu giãi trên cuộc sống chúng ta và trên lịch sử của toàn thể nhân loại. Được ánh sáng thiên quốc của Mẹ Chúa Cứu Thế thu hút, chúng ta hãy tín thác chạy đến cùng Đấng đang nhìn và bảo vệ chúng ta từ Trời Cao. Tất cả chúng ta đều cần sự phù giúp và an ủi của Mẹ, để đương đầu với những thử thách và thách đố hằng ngày. Chúng ta cần được cảm thấy Người là Mẹ và là Chị chúng ta trong những hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống. Và để một ngày kia có thể chia sẻ cùng số phận với Mẹ, giờ đây chúng ta hãy noi gương Mẹ trong sự ngoan ngoãn theo Chúa Kitô và quảng đại phục vụ anh chị em chúng ta. Đó là cách thế duy nhất để nếm hưởng ngay từ cuộc lữ hành trần thế này niềm vui và an bình của người được sống sung mãn sau khi đạt tới mục tiêu bất tử trên thiên đàng”.
Trong phần chào thăm các tín hữu sau khi đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành, ĐTC đặc biệt ngỏ lời bằng tiếng Đức, qua truyền hình, với 3 ngàn bạn trẻ Âu Châu, tụ tập tại quảng trường trước Đền thánh Đức Mẹ ở Mariazell bên Áo, nhân dịp đến hành hương tại đây từ ngày 12 đến 15-8-2007 nhân dịp kỷ niệm 850 năm thành lập Đền Thánh này. Các bạn từ 14 đến 25 tuổi, đến từ 10 nước Âu Châu trong đó có Áo, Ba Lan, Tchèque, Đức, Hungari, Italia và Pháp. ĐTC nói:
”Hỡi những người trẻ thân mến, các con đang tụ họp tại Nhà Đức Mẹ mà cha sẽ viếng thăm trong tháng tới đây. Gương của Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, chỉ cho chúng ta thấy rằng Chúa tìm kiếm con người, nơi họ Ngài có thể tìm được một nơi ở. Chúa Kitô cũng muốn ở trong tâm hồn chúng ta. Cũng vậy, Giáo Hội, là Nhà của Chúa, được tăng trưởng khi chúng ta đón nhận Chúa với niềm tin, trong sự thờ lạy, với niềm hy vọng và yêu mến, và khi chúng ta trở nên những viên đá sống động trong căn nhà thiêng liêng này”.
”Các bạn trẻ hành hương thân mến, hôm nay chúng ta hãy đặc biệt cầu xin sự chuyển cầu của Mẹ Maria cho cuộc sống của chúng ta. Mẹ là viên đá ưu tuyển và tuyệt hảo trong căn nhà sống động của Thiên Chúa. Mẹ sống hoàn toàn trước mặt Chúa nhưng đồng thời Mẹ cũng liên kết chặt chẽ với con người qua tâm hồn từ mẫu của Mẹ. Xin Mẹ Maria luôn tháp tùng tất cả các con trong hành trình của các con”.
THÁNH LỄ
Lúc 8 giờ sáng ngày 15-8-2007, theo thông lệ, ĐTC đã cử hành thánh lễ trọng thể tại Nhà thờ Giáo xứ Giáo Hoàng thánh Tômaso da Villanuova ở Castel Gandolfo.
Đồng tế với ĐTC, có ĐHY Tarcisio Bertone SDB, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, Đức Cha Marcello Semeraro, GM giáo phận Albano và cha sở địa phương, trước sự hiện diện của lối 500 tín hữu.
Trong bài giảng ứng khẩu, ĐTC đã giải thích ý nghĩa bài sách Khải Huyền nói về sự chiến đấu giữa một bên là con rồng rỏ rất hùng mạnh, biểu lộ quyền lực trái ngược với tình thương, sự ích kỷ tuyệt đối, kinh hoàng và bạo lực, và bên kia là người phụ nữ mang thai, yếu đuối, vô phương thế tự vệ.
Con rồng đỏ ấy tượng trưng cho các ý thức hệ độc tài phản Kitô trong lịch sử, và ngày nay cũng có con rồng đỏ dưới nhiều hình thức, đặc biệt là các ý thức hệ duy vật, bài trừ Thiên Chúa và chống lại việc tuân giữ các giới răn của Chúa. Con rồng có vẻ không thể chiến bại, nhưng chúng ta biết rằng sau cùng người phụ nữ yếu đuối ấy đã chiến thắng; không phải ích kỷ và oán thù đã chiến thắng, nhưng là tình thương của Thiên Chúa.
ĐTC cũng diễn giải ý nghĩa hình ảnh trong sách Khải Huyền về người phụ nữ mặc áo mặt trời, đầu đội triều thiên 12 ngôi sao, chân đạp mặt trăng. Ý nghĩa đầu tiên của hình ảnh này là Đức Mẹ, hoàn toàn được mặc sự sống và được đưa lên trời cả hồn lẫn xác.
ĐTC nhấn mạnh rằng ”Người phụ nữ mình vận mặt trời” chính là đại dấu hiệu về sự chiến thắng của tình thương, chiến thắng của sự thiện, của Thiên Chúa. Đó là một dấu hiệu an ủi lớn.” Ngài ghi nhận người phụ nữ ấy đã chịu đau đớn, đã phải chạy trốn, sinh con với tiếng kêu đau đớn, đó chính là Giáo Hội lữ hành trong mọi thời đại; trong mọi thời đại Giáo Hội phải tái sinh Chúa Kitô, mang Chúa đến cho thế giới này với nhiều đau khổ lớn lao. Trong mọi thời, Giáo Hội bị bách hại, hầu như sống trong hoang địa bị con rồng bách hại. Nhưng trong mọi thời đại, Giáo Hội, dân Chúa, sống trong ánh sáng của Chúa và được nuôi dưỡng bằng Thiên Chúa, với bánh Thánh Thể. Vì thế, trong mọi đau khổ, trong mọi hoàn cảnh khác nhau của Giáo Hội qua dòng thời gian, Giáo Hội chiến thắng trong đau khổ.
Và ĐTC kết luận rằng: Anh chị em đừng sợ vì Thiên Chúa này. Cuộc chiến đã được khắc phục. Cả ngày nay, vị Thiên Chúa yếu đuối nhưng hùng mạnh: ngài chính là sức mạnh thực sự”.
G. Trần Đức Anh OP
CASTEL GANDOLFO, Italy 13/08/07: Tin của hãng thông tấn AP cho biết Đức Thánh Cha trong buổi đọc kinh truyền tin vào trưa Chúa Nhật hôm qua tại nơi Ngài đang nghỉ hè đã lên tiếng kêu gọi cộng đồng thế giới hãy rộng rãi trợ giúp các nạn nhân bão lụt tại Nam và Đông Nam châu Á.
ĐTC tuyên bố Ngài rất đau lòng trước những đau khổ của hàng triệu nạn nhân bị mất hết gia sản, hàng ngàn người thiệt mạng vì các cơn lũ lụt vừa qua.
ĐTC nói với khách hành hương: "Cha ước mong toàn thể cộng đồng Giáo Hội hãy cầu nguyện và đưa ra những sáng kiến để trợ giúp các nạn nhân nhằm làm giảm bớt nỗi đau khổ của họ”.
ĐTC nói thêm: “Các anh chị em của chúng ta lúc này đang cần sự giúp đỡ rộng rãi của cộng đồng quốc tế”
Những trận lũ lụt cách đây vài tuần đã tàn phá nhiều vùng ỡ Bắc Ấn và Bangladesh, làm thiệt mạng hàng ngàn người và làm hàng triệu người phải tản cư. Nước đã rút những tại hoạ vẫn tiếp tục vì dịch bệnh luôn luôn theo sau các trận lũ lụt.
Tưởng cũng nên nhắc lại, ĐGM Cao Đình Thuyên của giáo phận Vinh cũng đã lên tiếng kêu gọi mọi người trợ giúp các nạn nhân bão lụt trong tuần qua tại hai tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh.
Tòa Giám Mục Xã Ðoài
Nghi Diên - Nghi Lộc - Nghệ An
Ðt : 038.3611.845; 0977006526
Email : tgmxadoai2004@yahoo.com
tgmxadoai@hn.vnn.vn
Xã Ðoài, ngày 09/8/2007
Thư Kêu Gọi Giúp Dân Bị Lũ Lụt Tại Hà Tĩnh Và Quãng Bình.
Kính gửi : Quý Cha, quý tu sỹ và anh chị em giáo dân trong giáo phận Vinh cùng quý vị hảo tâm gần xa.
Kính thưa quý Cha, quý vị và anh chị em thân mến,
Mấy ngày qua, chúng ta đã được nghe tin về trận lũ lụt hoành hành gây thiệt hại rất lớn tại hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình. Các phương tiện thông tin đại chúng đã phải dùng đến từ "Ðại Hồng Thuỷ" để nói về trận lũ lụt kinh hoàng này.
Ban Bác Ái giáo phận đã khẩn cấp đi thăm, giúp đỡ và thấy những cảnh tượng rất thương tâm. Tại huyện Quảng Trạch tỉnh Quảng Bình, 80 ngàn dân (trong đó có hơn 25 ngàn giáo dân) ngập chìm trong lũ, lụt nay chẳng còn gì để ăn, nhà cửa bị nước cuốn trôi, san bằng. Ðường sá, cầu cống hư hỏng nặng, giao thông, liên lạc bị cắt đứt hoàn toàn. Vì nước lên quá nhanh, người dân không kịp chuẩn bị, nên chỉ chạy lấy người, còn lương thực, thực phẩm... đều bị nhấn chìm trong nước.
Các giáo xứ bị thiệt hại nặng nhất là: Kinh Nhuận, Phù Kinh, Minh Cầm, Cồn Nâm, Cồn Sẻ, Vĩnh Phước, Giáp Tam, Liên Hoà, Hoà Ninh...
Còn tại Hà Tĩnh, vùng Kỳ Anh và Hương Khê bị thiệt hại nhiều nhất. Ở Kỳ Anh đập Sông Trí bị vỡ, nhiều nhà cửa bị cuốn trôi, tính đến nay đã có 18 người chết, nhiều người khác bị thương, nhiều gia đình sống trong cảnh màn trời, chiếu đất.
Tại huyện Hương Khê, đến nay 10 giáo xứ vẫn còn bị cô lập hoàn toàn vì nước lũ chảy xiết, thuyền, xuồng không thể tới được. Nước đang rút chậm, những vùng rốn lụt, một ít nóc nhà nay bắt đầu nhô lên khỏi nước. Ban Bác ái cũng chỉ tiếp xúc được với một số dân ở gần các tuyến đường để cứu trợ. Hàng chục tấn gạo, hàng chục ngàn gói mì được Ban Bác ái cấp phát nhưng không thấm vào đâu so với số người đang cần được cứu trợ.
Tình cảnh hiện tại quả là quá bi thương, nhưng tương lai chắc sẽ còn có nhiều khó khăn hơn nữa khi mùa màng trong cả 2 tỉnh này đều mất trắng. Lúa vừa trổ bị nước nhấn chìm, những nới nước vừa rút chỉ còn lại một màu trắng xoá.
Qua thư này, chúng tôi tha thiết kêu gọi quý Cha và anh chị em trong khắp giáo phận, nhất là các giáo xứ trên địa bàn tỉnh Nghệ An, nơi bị thiệt hại ít hơn, hãy giúp đỡ, chia sẻ cho anh chị em mình trong cơn hoạn nạn theo tinh thần Phúc Am. Ðồng thời, chúng tôi khẩn thiết kêu gọi quý vị hảo tâm xa gần giúp đỡ để những người đang phải khổ đau, vất vả bởi thiên tai sớm ổn định cuộc sống.
Dám xin Chúa trả công bội hậu cho quý Cha và tất cả anh chị em.
+ Phaolô Maria Cao Ðình Thuyên
Giám mục giáo phận Vinh
Đức Giám Mục Giáo Phận Phan Thiết chọn ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, cử hành thánh lễ phong chức Linh mục cho 6 Thầy Phó Tế.
1. Thầy Gioankim Nguyễn Kim Hà, sinh năm 1956, học khoá bổ túc thần học ĐCV Sao Biển Nha Trang.
2. Thầy Phêrô Đặng Hữu Châu, sinh năm 1967, học khoá VII ĐCV Thánh Giuse Sài Gòn.
3. Thầy Giacôbê Nguyễn Minh Luận, sinh năm 1972, học khoá VII ĐCV Thánh Giuse Sài Gòn.
4. Thầy GB Nguyễn Đình Khôi, sinh năm 1971, học khoá VII ĐCV Thánh Giuse Sài Gòn.
5. Thầy Giuse Nguyễn Thành Long, sinh năm 1972, học khoá VII ĐCV Thánh Giuse Sài Gòn.
6. Thầy Antôn Nguyễn Bá Thiện, sinh năm 1972, học khoá VII ĐCV Thánh Giuse Sài Gòn.
Cùng đồng tế thánh lễ có Đức Ông JB Lê Xuân Hoa - Tổng Đại Diện, Cha Esnert Nguyễn Văn Hưởng-Giám Đốc Đại Chủng Viện Thánh Giuse Sài gòn, Cha JB Hoàng Văn Khanh, Giám Đốc Chủng Viện Nicolas Phan Thiết, các cha giáo sư Đại Chủng Viện Sài gòn, Đại Chủng Viện Sao Biển Nha Trang và khoảng 170 cha trong và ngoài giáo phận. Đông đảo Chủng sinh, Tu sĩ nam nữ, thân nhân các tân chức cùng hiệp thông trong lời cầu nguyện xin Chúa thánh hoá, xin Mẹ Maria phù trợ các tân linh mục.
Giáo Phận Phan Thiết có trung tâm hành hương Đức Mẹ Tàpao. Biết bao ân huệ Đức Mẹ đã ban cho Giáo phận. Vì thế, Đức Cha Phaolô Nguyễn Thanh Hoan muốn dâng các tân linh mục cho Đức Mẹ, muốn các linh mục sống đơn sơ khiêm nhường, tự xoá mình theo gương Đức Mẹ.
Đức Mẹ là hoa quả đầu mùa của ơn cứu độ. Đức Mẹ là mẫu gương sống đời tận hiến. Với lòng yêu mến Đức Mẹ, xin chia sẽ với các tân linh mục một vài tâm tình.
1. Đức Mẹ “Nhậm chức” và sống đời đơn sơ khiêm nhường.
Trong ngày Truyền Tin, Chúa đã tuyển chọn Mẹ Maria làm Mẹ Thiên Chúa.
Đức Cha Bùi Tuần xem đây là một “Lễ Truyền Chức”. Thiên Chúa sai Tổng lãnh thiên thần Gabriel đến báo tin cho Đức Maria là Chúa chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Đây là một biến cố kỳ diệu cao cả. Có thể coi đây là một “lễ truyền chức”.
Nếu gọi đó là một lễ truyền chức, thì lễ truyền chức này cao trọng hơn mọi lễ truyền chức khác. Thế mà, “Lễ Truyền Chức“ này đã được thực hiện một cách hết sức âm thầm. Vẻ đẹp của nó được nhận ra ở thái độ Đức Mẹ tỏ ra bối rối ngỡ ngàng sợ hãi. Mẹ nhận mình chỉ là tôi tớ Chúa (x Lc 1, 38). Chức cao quyền quyền trọng Chúa trao là ơn hoàn toàn nhưng không. Mẹ chẳng bao giờ dám nghĩ tới. Tâm hồn Mẹ đơn sơ khiêm tốn như một đoá hoa quý ẩn mình trong một đời thường bình dị.
Mẹ đón nhận lời truyền tin với tâm hồn đơn sơ khiêm tốn. Rồi Mẹ trả lời Tổng lãnh thiên thần cũng với tâm hồn khiêm tốn đơn sơ trong sáng : “Xin vâng”. “ Xin vâng” là một lời khấn hứa. Mẹ “xin vâng” với tất cả tâm tình phó thác, hoàn toàn sẵn sàng để Chúa dùng mình vào bất cứ chương trình nào.
Thế là “Lễ Truyền Chức’ và khấn hứa đã xong. Rất đơn sơ, rất khiêm nhường. Nhưng lại rất đẹp lòng Chúa. Từ đây một kỷ nguyên mới đã mở ra.
Sau khi đón nhận hồng ân làm mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Mẹ đã đi thăm viếng bà Isave. Mẹ lên đường một mình cách đơn sơ khiêm tốn.
Vừa thấy Đức Mẹ, bà Isave được ơn Chúa soi sáng, đã cất tiếng chào Đức Mẹ và khen ngợi Đức Mẹ vì ơn đặc biệt Chúa đã ban cho Đức Mẹ. Đức Mẹ rất xúc động. Đức Mẹ đã tạ ơn Chúa bằng những lời tán tụng rất đơn sơ khiêm nhường.
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
Thần trí tôi hớn hở vui mừng,
Vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới…” ( Lc 1, 46-48)
Đức Mẹ nhìn nhận mình chỉ là nữ tỳ hèn mọn, được Chúa đoái thương nhìn đến.
Với thân phận nữ tỳ hèn mọn, Đức Mẹ chỉ biết vâng phục, chỉ biết làm những gì Chúa sai bảo, chỉ biết sẵn sàng thực hành bất cứ sự gì là thánh ý Chúa. Với thái độ trút bỏ tuyệt đối cái tôi hẹp hòi của mình, Đức Mẹ tạ ơn Chúa vì được Chúa đoái thương nhìn đến, để thuộc về Chúa một cách trọn vẹn. Nếu gọi biến cố Đức Mẹ đi viếng bà Isave là một dịp Đức Mẹ ta ơn Chúa, thì lễ tạ ơn này đã rất đơn sơ, đã rất khiêm nhường.
Sau việc tạ ơn này, Đức Mẹ lại tiếp tục sống ơn gọi một cách đơn sơ khiêm nhường với một cuộc sống ẩn dật giữa các phong trào đời đạo đầy ồn ảo và phức tạp.
Khi Đức Mẹ dâng Chúa Hài Đồng trong đền thờ, tiên tri Simêon đã nói : “ Thiên Chúa đã đặt hài nhi này làm duyên cớ cho nhiều ngườiIsrael phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Hài nhi này còn là dấu hiệu bị người đời chống báng. Còn chính bà, một lưỡi gương sẽ đâm thâu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra” (Lc 2, 34-35). Những lời tiên tri trên đây đã ứng nghiệm, Chúa Giêsu, con Mẹ đã chịu bao đau khổ xác hồn. Đau khổ của con cũng là khổ đau của mẹ. Ba mươi năm hoà mình vào đời sống nghèo ở Nagiarét. Ba năm công khai giảng dạy bị công kích bởi chính nội bộ. Sau cùng là con đường vác thập giá lên núi Sọ và bị đóng đinh vào nhục hình cho đến tắt thở.
Nếu đời Chúa Giêsu là một đời thánh giá, thì Đức Mẹ đã chia sẻ cuộc đời ấy một cách rất đơn sơ khiêm nhường. Đức Mẹ ý thức thánh giá là một chọn lựa mà Chúa muốn. Chúa chọn để chứng tỏ tình yêu vô biên của Người muốn đi tới cùng để cứu nhân loại. Vì thế, Đức Mẹ coi lựa chọn đó của Chúa cũng là chọn lựa của Mẹ. Đã chọn lựa, thì không kêu ca, trách móc, phản kháng. Đã chọn lựa thánh giá để cùng với Chúa cứu đời, thì coi thánh giá là một ân huệ. Đơn sơ khiêm nhường là như thế.
2. Những nét đẹp của Đức Mẹ.
Đức Cha Ngô Quang Kiệt đã suy niệm cuộc đời Đức Mẹ với 3 nét đẹp: Đơn sơ, Khiêm nhường và Từ bỏ.
Nét đẹp đơn sơ. Đơn sơ trong khung cảnh làng quê Naazareth. Đơn sơ trong nếp sống thôn nữ đạm bạc. Nhất là đơn sơn trong tâm hồn giản dị. Sự đơn sơ trong tâm hồn được bộc lộ qua những suy nghĩ trong sáng, những phát biểu thật thà, thẳng thắn trình bày với thiên sứ hoàn cảnh cụ thể của bản thân. Đơn sơ trong vâng phục. Khi đã hiểu rõ ý định của Thiên chúa chỉ đơn sơ thưa : "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền". Tâm hồn đơn sơ của Người chiếu toả như viên ngọc trong suốt không một tì ố.
Nét đẹp khiêm nhường. Khiêm nhường trong nếp sống ẩn dật nơi làng quê nhỏ bé. Khiêm nhường trong nhận thức về bản thân. Thật vậy, khi nghe thiên thần chúc tụng Người "Đầy Ơn Phúc", Đức Maria thật sự ngạc nhiên. Bản thân Người không dám nhận danh hiệu cao đẹp ấy. Khiêm nhường trong tâm hồn biểu lộ trong lời nói. Khi đã chấp nhận chương trình của Thiên chúa, Đức Maria vẫn khiêm tốn xưng mình là "Nữ tỳ của Thiên Chúa". Thật khiêm nhường. Chính sự khiêm nhường càng tô thêm vẻ đẹp tuyệt vời nơi Người.
Nét đẹp từ bỏ. Từ bỏ là vượt lên trên. Từ bỏ khiến con người trở nên cao đẹp, thanh thoát. Từ bỏ của cải đã khó. Từ bỏ bản thân khó hơn. Từ bỏ ý riêng mới thật cam go khốc liệt. Đức Maria đã có chương trình riêng : sống đời trinh nữ. Đó là một chương trình đẹp. Nhưng khi biết chương trình của Thiên chúa, Người đã sẵn sàng từ bỏ chương trình riêng. Nhờ từ bỏ chương trình riêng mà chương trình của Chúa được thực hiện. Nhờ từ bỏ bản thân mà Người đón nhận được chính Thiên Chúa. Khi trút bỏ chính mình, Đức Maria được đầy tràn Thiên chúa. Không còn thuộc về mình, Người trọn vẹn thuộc về Thiên chúa. Người là chiếc bình rỗng không nên Người đón nhận được "đầy ơn phúc"của Chúa.
Ba nét đẹp của Đức Mẹ phần nào diễn tả nét đẹp của Chúa Giêsu.
Lời "Xin vâng" Đức Maria thốt lên nơi làng quê Nazareth vang vọng lời xin vâng của Ngôi Hai nhập thể làm người.
Sự khiêm nhường của Đức Maria diễn tả sự khiêm nhường của Thiên Chúa xuống thế làm người.
Sự từ bỏ của Đức Maria phần nào phản ánh sự từ bỏ của Đức Giêsu Kitô "vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân" (Phil 2, 6-7).
3. Đức Maria – mẹ của các linh mục
Đề cập đến nghĩa vụ và quyền lợi của hàng giáo sĩ, Giáo luật điều thứ 276 triệt 2, nố 5 có dạy: giáo sĩ phải sùng kính Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa.
Mẹ Maria là Mẹ của nhân loại, Mẹ của Giáo Hội và là Mẹ của mỗi người. Đặc biệt từ khi Chúa trối Thánh Gioan cho Đức Mẹ, Mẹ đã trở nên, theo một ý nghĩa đặc thù, là Mẹ của hàng giáo sĩ, Mẹ của các linh mục.
Những người con hiếu thảo thường ra sức bắt chước mẹ mình trong mọi việc, nhất là luôn nghe lời mẹ chỉ dạy.
Mẹ Maria luôn sống đơn sơ, khiêm nhường, từ bỏ, thích ở nhà, ưa tĩnh tâm, ưa sống đời sống nội tâm, chuyên chăm cầu nguyện. Cuộc đời Mẹ luôn gắn bó với Chúa và luôn cầu nguyện, luôn tham khảo ý kiến Chúa Giêsu. Những linh mục chân chính không ham quyền chức, địa vị, không tìm kiếm vinh quang bên ngoài, mà chỉ thích sống đời đơn sơ khiêm nhường như chính Mẹ Maria, như chính Chúa Giêsu lúc còn ở Nazareth, phục tùng Mẹ Maria và thánh cả Giuse.
Đức Cha Bùi Tuần nhận định: Ngày nay, các bẫy Satan thích đưa ra, để bắt các linh mục làm tôi nó chính là tiền của, danh vọng, địa vị, hưởng thụ, nhất là tự mãn, an phận, an nhàn. Hiện nay, tình hình không còn là bắt bớ, nhưng là vuốt ve. Muốn hưởng thụ, thì người ta giúp cho hưởng thụ. Chính vì thế, mà sự phấn đấu sẽ ở trong nội tâm. Phấn đấu với chính mình là việc rất khó đối với những ai thích đi trên con đường thênh thang. Linh mục Việt Nam hôm nay đang trong cơn lốc tự do có phần không lành mạnh. Cơn lốc tự do này sẽ cuốn linh mục xa dần thánh giá. Nhiều nơi, thánh giá chỉ còn là biểu tượng, chứ không còn là bàn thờ để môn đệ Chúa hiến tế chính mình. Nếu chẳng may đúng là như vậy, thì đời linh mục có thể sẽ huy hoàng bên ngoài, nhưng lại hết sức thê thảm bên trong trước mặt Chúa. Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá là một lễ tế. Đã gọi là lễ tế thì phải có đớn đau, từ bỏ, hy sinh cộng với rất nhiều tình yêu. Nói một cách cụ thể, lễ tế đời linh mục là cố gắng phục vụ tối đa trong tinh thần khiêm tốn xin vâng của Đức Mẹ và tinh thần yêu thương đền thay của Chúa Giêsu Thánh Thể.
4. Lời khuyên của Đức Thánh Cha Bênêđictô:
Thầy Marco Ceccarelli, Phó tế, thuộc giáo phận Roma, chuẩn bị chịu chức Linh mục vào ngày 29-4-2007 đã hỏi: Kính thưa Đức Thánh Cha, trong những tháng tới đây, các bạn con và con sẽ chịu chức Linh mục. Chúng con sẽ đi từ đời sống rất ngăn nắp theo qui luật của chủng viện, tới tình trạng được tổ chức rất khác biệt trong các giáo xứ của chúng con. Đâu là lời khuyên Đức Thánh Cha có thể cho chúng con để sống tốt đẹp giai đoạn khởi đầu trong sứ vụ linh mục của chúng con?
Tôi không dám đưa ra nhiều lời khuyên, vì cuộc sống tại thành phố lớn như Roma này khác với cuộc sống mà tôi đã trải qua cách đây 50 năm tại miền Bavière. Nhưng tôi nghĩ rằng điều thiết yếu là: Thánh lễ, các giờ kinh Phụng vụ, cầu nguyện và nói chuyện hằng ngày với Chúa, dù là ngắn ngủi, về những lời mà tôi phải rao giảng, yêu mến Đức Maria. Và đàng khác, không bao giờ đánh mất tình bạn với các linh mục, nghe lời Giáo Hội sinh động, và dĩ nhiên phải sẵn sàng đối với những người được ủy thác cho mình, vì chính những người ấy, với những đau khổ, kinh nghiệm đức tin, những nghi ngờ và khó khăn của họ, cả chúng ta cũng có thể học hỏi, tìm kiếm và tìm thấy Thiên Chúa, tìm thấy Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta.
Lạy Mẹ Maria, xin cho chúng con là các linh mục, học được nơi Mẹ tinh thần đơn sơ, khiêm nhường, tự xóa mình để có thể yêu Chúa và thương tha nhân một cách vị tha hơn. Xin cho chúng con nhận ra tinh thần đơn sơ, khiêm nhường và tự xóa mình là nền tảng để có thể yêu thương đích thực và cũng là nền tảng cho mọi nhân đức. Xin cho các linh mục sống được tinh thần ấy để các linh mục cũng xứng đáng được Chúa ân thưởng hạnh phúc vĩnh cửu như Mẹ. Amen.
Giáo xứ Mẹ Vô Nhiễm 15.8.2007
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Anh chị em thân mến,
Có thể nói được rằng mỗi bài đọc phụng vụ Lời Chúa chúng
ta vừa nghe, diễn tả một khía cạnh thật phù hợp với ý nghĩa ngày đại lễ hôm nay.
Bài đọc thứ nhất mô tả cảnh thái bình thời vua Salômon trị vì dân tộc Israel
khiến chúng ta liên tưởng đến giấc mơ một Thanh Hoá an lành thịnh đạt trước thời
điểm giáo phận tròn 75 tuổi. Bài trích thư Do Thái, khi giải thích ơn gọi thượng
tế, nhắc lại cho chúng ta ý nghĩa thiên chức giám mục và linh mục, những người
được Chúa chọn để lo công việc của Người. Và cuối cùng, với hình ảnh đồng lúa
chín, bài Tin Mừng là một tiếng gọi khẩn trương hướng về từng người chúng ta.
Mỗi người một chức năng, mỗi người một vị trí trong lịch sử, nhưng tất cả đều
được kêu gọi dấn thân làm thợ gặt cho Chúa. Nhưng đâu là bí quyết để chúng ta
thực hiện sứ mệnh đó?
Thưa anh chị em, hơn ba năm về trước cũng vào giờ này,
Đức Cha Chủ tịch Phaolô Nguyễn văn Hoà đang hiện diện nơi đây, đã phong chức GM
cho tôi. Tôi còn nhớ lúc ấy tôi rất lúng túng. Lúng túng vì tuy Thanh Hoá là nơi
chôn nhau cắt rốn, tôi chưa hề quen biết ai tại đây; càng lúng túng hơn nữa vì
không biết phải làm thế nào để chu toàn một sứ vụ tôi chưa hề có kinh nghiệm.
Thế rồi mọi sự cũng đã qua. Thành hay bại tôi không biết.
Nhưng chắc chắn rằng hôm nay đây, cũng từ lễ đài này nhìn xuống, Thanh Hoá đối
với tôi không còn là một thế giới xa lạ. Thanh Hoá đã trở thành máu thịt thân
thương. Tôi khám phá ra rằng tôi rất yêu giáo phận Thanh Hoá.
Không thể bỗng dưng yêu được Thanh Hoá nếu Chúa đã không
uốn nắn con tim tôi. Đó là điều khiến tôi xác tín rằng tình yêu Thanh Hoá là một
hồng ân Chúa ban cho tôi để tôi thực hiện sứ vụ ngài trao phó cho tôi tại đây.
Không có hồng ân đó, tôi đã chẳng làm được gì, và có lẽ cũng không chịu làm gì.
Bởi vì, nếu dùng ngôn từ thư Do Thái qua bài đọc thứ hai hôm nay, tôi cũng chỉ
là kẻ “mắc phải yếu đuối tư bề”. Tôi cảm nghiệm sâu sắc rằng chính Chúa đã phú
tình yêu của Ngài vào một con người mong manh để lo việc cho Người.
Tôi tin rằng Chúa cũng đã làm như thế trong suốt dòng
lịch sử của Thanh Hoá. Vua Salômon trong bài đọc thứ nhất hôm nay, đã khẳng định
rằng sở dĩ dân Israel đã được sống an lành là nhờ Thiên Chúa đã ở cùng các tổ
phụ của họ. Cũng tương tự như thế, giáo phận Thanh Hoá có được ngày hôm nay là
vì Chúa đã ở với các thế hệ tiền nhân bằng cách gieo vào con tim họ lòng yêu
thương giáo phận. Bao nhiêu là thử thách do chiến tranh, hận thù, ngược đãi, có
những lúc tưởng chừng bị xoá tên. Nhưng giáo phận Thanh Hoá vẫn còn. Chẳng những
vẫn còn tồn tại với thời gian mà còn bùng phát một cách hùng hậu.
Một người giáo dân đã nói với tôi rằng: “Thưa Đức cha,
giáo xứ chúng con 54 năm qua không có linh mục nhưng chúng con rất hãnh diện
thưa với Đức cha rằng không hề có người nào trong xứ con đã bỏ đạo”. Đàn chiên
tan tác, Kitô hữu Thanh Hoá vẫn trung thành. Chủ chăn bị đoạ đày, muôn nghìn lớp
trẻ vẫn can đảm xông vào thử thách để theo đuổi ơn gọi.
Nhờ đâu, nếu không phải là trong suốt những năm tháng
thăng trầm quá khứ, đã có những người được Chúa trang bị lòng yêu thương trung
kiên đối với giáo phận ? Đó chính là câu trả lời cho vấn nạn “đâu là bí quyết để
chúng ta hoàn thành sứ mệnh lịch sử đối với giáo phận?”. Tắt một lời : bao lâu
còn người yêu sự nghiệp Chúa tại đây, giáo phận Thanh Hoá sẽ mãi còn.
Chúng con, các thầy phó tế thân mến của cha, đó cũng
chính là chiếc chìa khoá cha muốn trao cho chúng con hôm nay, ngày mà chúng con
thụ phong linh mục để phục vụ giáo phận Thanh Hoá trong bối cảnh chúng ta kỷ
niệm ngọc khánh của giáo phận. Hãy yêu giáo phận Thanh Hoá. Không phải là yêu
Thanh Hoá theo nghĩa cục bộ địa phương, nhưng là yêu vườn nho Chúa đã trao phó
cho chúng ta trên quê hương Thanh Hoá này. Làm việc trong vườn nho ấy, chúng con
hãy yêu bề trên của chúng con, hãy yêu anh em linh mục của chúng con, hãy yêu
đàn em chung đường với chúng con và nhất là hãy yêu giáo dân của chúng con.
Đã có những người yêu Giáo Hội nên Giáo Hội mới tồn tại.
Chúng con cũng hãy yêu Giáo Hội để khi sứ mệnh hoàn tất chúng con được mãn
nguyện bàn giao Giáo Hội cho thế hệ mai sau. Một cách cụ thể, phải chăng đó
chính là giấc mơ của Chúa Giêsu linh mục khi Ngài tuyên bố “người ta cứ dấu này
mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau”. Chúng con
hãy xác tín rằng không một sức mạnh nào trên trần gian này có thể thắng được
tình yêu. Đó cũng là lời cầu chúc cha thay mặt cho mọi người để gửi đến chúng
con trước giây phút quan trọng chúng con sắp tiến hành.
Và thưa cộng đoàn phụng vụ, hiệp thông tâm tình đó, giờ
đây chúng ta hãy hiệp ý cầu nguyện cho các thầy phó tế sắp lãnh nhận thiên chức
linh mục.
+ ĐGM Giuse Nguyễn Chí Linh
Giám Mục GP Thanh Hóa
tgmth.com
Bắc Ninh, Việt Nam (12/08/2007) - Ngày 12.8.2007, Chúa nhật XIX thường niên, giáo xứ Ngọ Xá thuộc giáo phận Bắc Ninh đã tổ chức ngày hội vui trại hè dành cho các em Thiếu nhi Thánh Thể. Ðã có hơn 300 em tham dự. Ðây là lần đầu tiên các em Thiếu nhi Thánh Thể được tham dự trại hè giáo xứ kể từ ngày cha xứ về nhận xứ cách đây 2 năm. Trong ngày vui trại hè, các em được tham gia cắm trại, thi đội hàng tự trị, dự Thánh lễ tối, thi giáo lý, thi phong trào Thiếu nhi Thánh Thể, thi kể chuyện Kinh Thánh và vui lửa trại.
Cha xứ Ðaminh Ngô Ngọc Ðoàn cho biết giáo xứ Ngọ Xá có khoảng 3,300 tín hữu thuộc 8 họ đạo là Ngọ Xá, Ngọc Liễn, Mai Thượng, Mai Ðình, Ðồng Công, Tiên Sơn, Hược Lâm và Ðông Lâm. Tất cả các họ đạo này nằm trong huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Giáo dân trong giáo xứ sống chủ yếu bằng nghề chăn nuôi, sản xuất nông nghiệp. Nhà thờ Ngọc Liễn của giáo xứ đang được xây dựng lại khá khang trang.
Ngay từ sáng sớm các em Thiếu nhi Thánh Thể đã í ới gọi nhau và tung tăng nô nức tiến về quảng trường giáo xứ. Với sự hướng dẫn của các anh chị giáo lí viên, các em đã tự tay dựng lên 8 trại hè đơn sơ nhưng rực rỡ sắc màu tươi trẻ. Mỗi trại hè được lấy tên theo một vị thánh: Trại Phaolô, Anna, Gioakim, Têrêxa, Giuse, Phêrô, Maria và Ðaminh. Sau khi dựng trại xong, các em thi hàng đội tự trị.
Ðúng 16g30, cha xứ, cha đặc trách giới trẻ giáo phận Giuse Nguyễn Hoàng Ân cùng ban giáo lí giáo hạt Bắc Ninh làm thành một ban giám khảo đi chấm điểm các trại hè. Trước mỗi trại, các em xếp thành hai hàng hân hoan vỗ tay chào mừng Ban giám khảo bằng những bài hát sinh hoạt chào mừng vui nhộn; một em đại diện thuyết minh ý nghĩa, ý tưởng của trại đội mình cho Ban giám khảo.
Buổi tối, trong ngôi nhà thờ đang xây dựng dở dang, các em đã sốt sáng trang nghiêm tham dự Thánh lễ do cha xứ và cha đặc trách giới trẻ đồng tế. Sau Thánh lễ, các em tham gia thi giáo lí, Kinh Thánh, phong trào Thiếu nhi Thánh Thể và vui lửa trại bên ngoài quảng trường giáo xứ. Một điều thú vị là đội nào cũng được phần thưởng.
Ngày vui trại hè không chỉ là dịp cho các em vui chơi, mà còn là dịp để các em trong giáo xứ làm quen với nhau, hiểu biết nhau nhiều hơn, kết bạn với nhau. Ngoài ra, kiến thức về Kinh Thánh và giáo lí của các em cũng được tăng lên qua các bài thi sinh động. Khuôn mặt trẻ thơ thơ ngây sẵn có của các em hôm nay cộng thêm với niềm vui tham dự trại hè càng làm cho các em trông thật hết sức dễ thương. Các em xứng đáng được dành cho những niềm vui, những sự chăm sóc và giáo dục chu đáo, thích hợp vì các em thực sự là tương lai của Giáo hội và xã hội.
Nguyễn Xuân Trường
Bắc Ninh, Việt Nam (14/08/2007) - Ngày 14.8.2007, Ðức Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt, Giám quản giáo phận Bắc Ninh đã về dâng Thánh lễ tạ ơn và khánh thành nhà thờ giáo họ Thị Ðáp Cầu, thuộc giáo xứ Nhà thờ Chính tòa giáo phận Bắc Ninh. Cùng hiệp dâng Thánh lễ với ngài còn có quí cha Ðại diện giáo phận và một số linh mục khác cùng với gần 1,000 tín hữu.
Giáo họ Thị Ðáp Cầu có một nhà thờ mới đẹp đẽ, khang trang. Ðó là một niềm vui lớn. Ðây không chỉ là niềm vui riêng của giáo họ, mà còn là niềm vui chung của thành phố và của giáo phận Bắc Ninh. Bởi vì ngôi nhà thờ mới đã góp phần làm đẹp cảnh quan phố phường và góp phần làm vui lòng mọi người công giáo. Ngôi nhà thờ mới tọa lạc giữa hai đường quốc lộ số 1 cũ và mới chạy qua thành phố Bắc Ninh. Nhà thờ có kích thước dài 32m, rộng 10m, cao 11m và tháp chuông cao 31,5m. Ngôi thánh đường được khởi công xây dựng ngày 6.11.2006 và hoàn thiện ngày 6.8.2007. Sau hàng chục năm trời, nỗi niềm mơ ước, khát khao của mọi tín hữu giáo họ Thị Ðáp Cầu về một ngôi thánh đường mới nay đã trở thành hiện thực. Bầu không khí vui nhộn, phấn khởi được thể hiện trên những khuôn mặt rạng rỡ niềm vui. Kể từ ngày hôm nay, giáo họ đã có nơi thờ phượng Chúa xứng đáng. Khi mới thành lập năm 1934, giáo họ Thị Ðáp Cầu chỉ có gần 100 nhân danh, không có nhà thờ. Ðến năm 1951, Ðức cha Hoàng Văn Ðoàn - vị Giám mục người Việt Nam tiên khởi của giáo phận Bắc Ninh - đã mua đất và xây một ngôi nhà nguyện nhỏ và chọn Nữ Vương hồn xác lên trời làm quan thày giáo họ. Hiện nay, giáo họ đã có 134 gia đình với hơn 700 tín hữu.
Ðúng 8g15 Ðức Tổng Giám mục long trọng cắt băng khánh thành ngôi nhà thờ trong bầu khí hân hoan tưng bừng của cộng đoàn. Sau đó đoàn đồng tế tiến vào nhà thờ dâng Thánh lễ.
Trong bài giảng, Ðức Tổng Giám mục nêu lên những đặc ân cao quí của Mẹ Maria và mời gọi mọi người noi gương Mẹ. Hôm nay, tâm hồn mỗi người chúng ta đầy ắp niềm vui và được nâng cao để mừng kính Mẹ về trời, mừng khánh thành ngôi nhà thờ mới, mừng lễ bổn mạng của dân họ; niềm vui dâng đầy vì không chỉ phát xuất từ những giá trị trần gian, mà còn bám rễ sâu vào những giá trị Tin Mừng. Cùng với Mẹ Maria, chúng ta cất lời ca ngợi tán dương và tạ ơn Thiên Chúa không chỉ ngày hôm nay, mà là suốt cả cuộc đời. Ngôi nhà thờ mới sẽ là nơi mọi người gặp gỡ, múc lấy tình yêu, ơn lành của Thiên Chúa, để rồi ra đi sẻ chia tình yêu và ơn lành đó cho những anh chị em xung quanh chúng ta.
Cuối Thánh lễ, ông trùm Phanxicô Xaviê Phạm Văn Bình đã thay lời giáo họ dâng lời tạ ơn Chúa, bày tỏ lòng biết ơn những tấm lòng quảng đại của quý ân nhân trong và ngoài nước, nhất là gia đình bà Maria Vũ Thị Ninh, Hoa Kỳ, cùng với sự nhiệt tình chung tay góp sức của giáo dân trong giáo họ, từ những ông cụ bà lão neo đơn dành dụm chút tiền do con cháu kính biếu, đến những em thiếu nhi hy sinh tiền ăn quà các dịp lễ Tết để dâng cúng góp phần xây dựng nhà Chúa, cùng với 2,856 ngày công lao động của giáo dân tham gia tháo dỡ nhà thờ cũ, đào móng, đổ nền và xây dựng nhà thờ mới. Ông cũng không quên cám ơn cách đặc biệt đến Ðức Tổng cùng hai cha xứ cũ và mới đã ưu ái tạo điều kiện nâng đỡ để giáo họ có được ngôi thánh đường khang trang như hôm nay.
Một cánh đồng được gọi là cánh đồng đẹp không chỉ do màu lúa xanh tươi bát ngát mà còn do có nhiều hạt lúa trĩu nặng cho một vụ mùa bội thu. Tương tự như thế, một nhà thờ được gọi là đẹp thực sự không chỉ do nghệ thuật, kiến trúc, mà còn do phẩm chất lòng đạo của cộng đoàn ở đó. Như thế, cái đẹp nghệ thuật của một nhà thờ phải đi kèm với nhiều vẻ đẹp thiêng liêng. Ngôi nhà thờ vững chắc, nguy nga bằng bê tông gạch ngói phải đi kèm với một cộng đoàn vững vàng trong niềm tin, tha thiết trong yêu thương, liên đới sẻ chia. Hôm nay, chúng ta tạ ơn Chúa vì ngôi nhà thờ mới và cầu nguyện cho các ân nhân, nhưng chúng ta cũng tha thiết cầu xin cho mọi người trong họ đạo sống liên kết thành một cộng đoàn tin yêu tha thiết, để mỗi tâm hồn thực sự là đền thờ cho Chúa ngự.
Thánh lễ khánh thành nhà thờ đã khép lại, nhưng mong ước sao đời mỗi người luôn là một Thánh lễ nối dài, Thánh lễ trong cuộc sống. Khi yêu thương nhau, thì chính lòng ta là thánh lễ. Khi hy sinh cho nhau, thì chính đời sống ta là thánh lễ.
Nguyễn Xuân Trường
TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO
1. Tự do và nhân quyền phát xuất từ đâu? Niềm tin Kitô giáo cho người công giáo xác tín rằng tự do và nhân quyền là bẩm sinh, là thiên phú. Nói cách khác, là quà tặng vô giá Đấng Tạo Hoá Chí Thánh Chí Tôn trao ban cho loài người, cho các dân tộc, vì sự sống và hạnh phúc của họ, và vì danh thánh của Đấng Chí Tôn là Tình Yêu, là cội nguồn và là cùng đích của loài người và mọi loài trên trời dưới đất.
2. Do đó Hiến Chương hay Hiến Pháp trên thế giới ghi lại những quyền tự do của loài người trên trái đất nầy, nhằm giúp cho mọi dân tộc ý thức và thống nhất. Cơ chế và nhân sự trong quyền lực Nhà Nước có nhiệm vụ phục vụ cho công ích của xã hội, nghĩa là tạo mọi điều kiện cần thiết cho mọi thành phần xã hội ý thức tôn trọng tự do và nhân quyền của mình và của mọi người anh em đồng bào và đồng loại.
3. Về nhiệm vụ phục vụ cho công ích, lịch sử thế giới cho thấy có một số hiện tượng cản trở hoặc đẩy lùi tự do và nhân quyền như sau :
(1) Quyền lực Nhà Nước với những giới hạn của con người chỉ có khả năng tạo ra những điều kiện cần thiết nói trên dần dần với thời gian dài ngắn khác nhau. Trong lịch sử nước Mỹ, phải mất đi cả trăm năm, phụ nữ mới được quyền đi bầu. Sau đó, thì nơi nhiều nước khác mất ít thời gian hơn.
(2) Vào những thời điểm nhất định, có những Nhà Nước chỉ tạo một số điều kiện nhất định cho một số thành phần xã hội nhất định phát huy tự do và nhân quyền của mình, với những hạn chế hoặc khống chế tự do và nhân quyền của những thành phần khác.
(3) Thực tế đời sống nhiều dân tộc biểu hiện ít nhiều sự thiếu chánh tâm, thiều ý thức và lòng tự trọng, sự thừa tà tâm, thừa lòng tham sân si và tính cực đoan nơi một số người lãnh đạo và quản lý xã hội cũng như nơi một số thành phần khác.
(4) Tất cả những hiện tượng trên tạo ra những đường nét cong queo, méo mó, hụt hẫng, dị dạng tô điểm cho một bức tranh xã hội mà một nhà văn châm biếm mô tả cách cường điệu như sau:
Ngày nay nhân phẩm xuống giá rồi, Chỉ có thực phẩm lên giá thôi,
Lương tâm giá bèo hơn lương thực, Chân lý chân giò một giá thôi.
4. Vậy khi thấy tự do và nhân quyền bị xâm phạm, khi đối diện với bất công trong xã hội, bổn phận của người công giáo là gì? Nhìn từ gốc độ người tín hữu trong Giáo Hội công giáo, tôi thấy có hai bổn phận ưu tiên, ưu tiên một là cầu nguyện nhằm rèn luyện cái tâm lương thiện, ưu tiên hai là học hỏi giáo huấn của Giáo Hội về xã hội nhằm rèn luyện trí tuệ sáng suốt. Cả hai ưu tiên đều nhằm phát huy tự do và nhân phẩm trước hết nơi bản thân mình. Sau đó mới có khả năng giúp người khác phát huy nơi bản thân họ. Lần nầy, tôi xin đề cập đến bổn phận ưu tiên một.
5. Bổn phận ưu tiên một là cầu nguyện. Vì đó là bổn phận số một của Đạo yêu thương, bác ái . Đó là điều Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã làm suốt đời cho thế giới, đặc biệt cho Ba Lan và VN mà Ngài đặt trong tim của Ngài. Đức Bênêđitô XVI, trong Thư gởi cho Giáo Hội Công Giáo tại Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, cũng tha thiết kêu gọi mọi người cầu nguyện. Lời nguyện chung trong các thánh lễ Chúa Nhật nhắc nhở người tín hữu không ngừng cầu nguyện cho mọi người anh em đồng đạo, đồng bào, đồng loại, cho mọi người lãnh đạo và quản lý đất nước.
6. Người tín hữu thành tâm cầu nguyện vì họ tin rằng Thiên Chúa là Đấng đã ban tặng tự do và nhân quyền cho con người, Ngài cũng ban cho họ ánh sáng và sức mạnh giúp họ ý thức tự trọng và tôn trọng tự do và nhân quyền của bản thân, của mọi người anh em đồng bào và đồng loại. Người tín hữu chuyên cần cầu nguyện vì họ tin rằng Chúa Thánh Thần là tác nhân chính trong tiến trình đổi mới lòng dạ con người, biến đổi tà tâm, ác tâm, dã tâm thành chánh tâm, thiện tâm, thành tâm. Một sự biến đổi mà nhà trường, nhà tù, nhà chính trị trong nhiều thập niên qua đã không tạo ra được. Nếu nhà thờ không cộng tác với Chúa Thánh Thần để góp phần tạo nên sự biến đổi nầy, thì nhà thờ có mặt trong xã hội ngày nay để làm gì?
7. Tôi nhớ lại câu chuyện cầu nguyện của một bà lão mà hơn nữa thế kỷ trước tôi học được từ một nền văn hoá cổ. Trong cuộc đời bà, bà chứng kiến nhiều cảnh tương tàn, tù đày, đổ máu, tang thương do những bạo chúa tham quyền, mê đắm danh lợi thú, gây ra cho đồng bào của bà. Vì tin rằng với lời cầu nguyện thì không có gì là không thể được, ngày ngày bà lên đền thờ cầu nguyện cho người lãnh đạo đất nước của bà. Lúc đầu, bà cầu cho họ mau chết cho nhân dân đỡ khổ. Họ chết rồi, bà lại thấy nổi lên những tên hung thần khác tàn bạo hơn những tên trước. Với kinh nghiệm đó, sau nầy bà cầu cho người lãnh đạo sống lâu để thần linh có thời giờ thay đổi lòng dạ của họ. Kinh nghiệm nầy, bà kể lại cho người lãnh đạo đích thân đến tra vấn lý do ngày ngày bà lên đền thờ cầu nguyện cho ông. Tâm sự của bà mở đầu cho quá trình biến đổi của ông.
8. Lịch sử giải phóng nô lệ da đen của nước Mỹ và lịch sử thập niên qua của Ruanđa là những bài học đi tìm cái ngọn của tự do và nhân quyền, nhưng bà lão cầu nguyện thì tìm đến tận gốc. Vậy, khi người tín hữu chân chính muốn dấn thân hành động vì tự do và nhân quyền, hãy hành động sau khi đã cầu nguyện và học hỏi giáo huấn của Giáo Hội về xã hội.
9. Cầu nguyện và học hỏi giúp cho con người hành động với tâm hồn tự do, thanh thản, bình an, sáng suốt và khôn ngoan, hành động với tình bác ái Chúa dạy, với xác tín mọi người là con một Cha, là anh em một nhà. Có những người anh em sống với chánh tâm thì dạy mình biết điều phải làm, cần làm, điều cần phải noi theo. Nhưng cũng có những người anh em sống với tà tâm thì dạy mình biết điều không nên làm, điều không được làm, điều phải xa lánh. Cầu nguyện và học hỏi còn giúp cho mỗi người tránh được hành động theo động cơ của tà tâm, của lòng tham sân si, của hận thù, của những thói đời mang quáng tính đối kháng, loại trừ hoặc sát hại lẫn nhau, cũng là một hình thức xâm phạm tự do và xúc phạm nhân sinh, nhân phẩm và nhân quyền của nhau.
Ngày Lễ kính Thánh Giacôbê Tông đồ,
Giám mục đầu tiên tử đạo
25. 7. 2007
Gioan B. Phạm Minh Mẫn
Hồng Y Tổng Giám mục
Nếu những gương mặt phụ nữ như Angela Merkel – Thủ tướng Cộng hoà liên bang Đức ; Arroyo – Tổng thống Philippine; Hillary Clinton – Tổng thống nhiệm kỳ tới ? Ségolène Royal - Nghị sĩ quốc hội kiêm đảng viên đảng Xã hội Pháp…làm thay đổi bộ mặt chính trường thế giới(1), thì điều này đã chứng minh cho nhận định của hai tác giả cuốn sách “ MEGATRENDS 2000” – John Naisbitt và Patricia Aburdence – là chính xác.
Quyển sách này được nhà xuất bản Tp. HCM cho dịch vào năm 1992, với tựa đề : Các xu thế lớn năm 2000”. Theo hai tác giả này, 10 xu hướng mới của thập niên 1990, trong đó chương 7 của cuốn sách nói về thập niên của phụ nữ tham gia lãnh đạo.
Một mặt thế giới muốn đề cao vai trò lãnh đạo và khả năng trí thức của người phụ nữ, mặt khác, phụ nữ cũng muốn giải phóng mình khỏi những cơ cấu ràng buộc của xã hội cũng như tôn giáo, thì Giáo hội lại kêu gọi người phụ nữ hướng nhìn về Đức Maria – người phụ nữ âm thầm tại làng Nazareth xưa kia, để tái khám phá lại ơn gọi và phẩm giá cao quý mà Thiên Chúa đã ban tặng.
Nữ giới chối bỏ chính mình
Quá trình đấu tranh và giải phóng chính mình của người phụ nữ đã xuất hiện từ lâu khi chạm trán với nam giới và đạt đến cao trào vào năm 1820 khi có những tổ chức Nữ quyền ra đời tại nước Mỹ: Fe-male Anti – Slavery Soci-ety chống lại chế độ nô lệ, American Female Moral Reform Society chống lại việc mua bán dâm…
Chủ thuyết Nữ Quyền ( Féminisme) là một chủ thuyết (-isme) và là một phong trào đấu tranh cho vai trò và quyền lợi của người phụ nữ trong xã hội. Lúc ban đầu phong trào này chỉ là nhận thức của cá nhân, nhưng sau đó là của tập thể và đưa đến một cuộc nổi dậy chống lại sự sắp xếp vị trí lệ thuộc mà người phụ nữ phải gánh chịu trong gia đình và xã hội.
Thần học Nữ giới – một hình thức khác của Thần học giải phóng – chống lại gia đình và hệ thống phụ hệ vì đã cho phép đàn ông thống trị đàn bà. Do đó, nữ giới phải đứng lên và phá vỡ cơ chế này. Họ muốn đọc lại Kinh Thánh và lịch sử Hội Thánh cũng như lịch sử cứu độ để tìm hiểu về một HER- STORY chứ không phải là HIS – STORY. Họ muốn đạp đổ thứ văn hoá thống trị của đàn ông và văn hoá nô lệ của đàn bà, đạp đổ quan niệm “thập nữ viết vô” của Khổng tử. Dần dần tạo ra một thứ văn hoá phụ nữ mà trong đó họ được hoàn toàn quyết định đến vận mạng của mình, được phép phá thai, làm chủ cái bụng, sống độc thân và có thể chối bỏ mẫu tính của mình. Họ đòi một sự bình đẳng với nam giới từ công việc, giáo dục, tiền lương, trước pháp luật…và tự coi mình không kém nam giới.
Ngay cả trong Giáo Hội, Thần học nữ giới cũng đòi hỏi sự bình đẳng trong phẩm trật Hội Thánh. Phong trào bắt đầu bằng cuộc đấu tranh để truyến chức linh mục cho nữ giới từ năm 1963 đến nay.
Với tầm hoạt động sâu và rộng như vậy. Thần học nữ giới có lẽ không bao giờ chấp nhận hình ảnh của Đức Maria theo truyền thống, vì đối với họ, Đức Maria là hình ảnh của những áp chế, một phụ nữ trong chế độ phụ quyền, chỉ biết cúi đầu vâng phục.
Đức Phaolô VI có nhận xét : “Một số phụ nữ không thích việc tôn sùng Đức Maria thành Nazareth, thật khó mà đón nhận Mẹ như mẫu gương cho đời sống hiện tại, vì khung cảnh của Mẹ quá hạn hẹp, so với tầm hoạt động bao la mà người thời nay được mời dấn thân”. Bởi vậy, có thể nói rằng Đức Maria là biểu trưng cho sự “thù nghịch phái nữ”, “thù nghịch phái tính”
Dù phụ nữ không ngừng hoạt động để gióng lên tiếng nói của mình, để giải phóng, để khẳng định mình, để “phóng thể” và đi đến chỗ không còn là mình với những thiên chức mà Thiên Chúa phú bẩm, thì thực tế lại cho thấy rằng nhân phẩm của phụ nữ vẫn còn bị xúc phạm. Phụ nữ vẫn còn bị bán đi để phục vụ cho những công nghệ tình dục. ĐGH Gioan Phaolô II có lần đã nói : “…Ba muơi năm sau, tôi xin mượn lời của phiên họp khoáng đại Công đồng, để khóc thương một lần nữa, và cũng mạnh mẽ như vậy, nhân danh toàn thể Hội Thánh, và chắc chắn, cũng diễn tả đúng tâm tình của một lương tâm ngay thẳng…Tất cả những gì xúc phạm đến nhân phẩm, như những cảnh sống thấp kém dưới mức độ con người được hưởng (infrahumain), giam cầm vô cớ, lưu đày, nô lệ, mãi dâm, buôn bán phụ nữ và trẻ con…”
Đức Maria – mẫu người phụ nữ Thiên Chúa yêu mến
Dù có một số nữ giới không ưa thích mẫu gương của Đức Maria, nhưng 60 năm đầu của thế kỷ XX, lại là thời gian Giáo hội hướng về Đức Maria và nhắc cho thế giới thấy rằng Đức Maria là người nữ được Thiên Chúa yêu mến.
Đức Maria được Thiên Chúa yêu mến không vì những cuộc đấu tranh để tự giải phóng mình ra khỏi những ràng buộc của nữ giới như phụ nữ thời này đã và đang làm mà “Vì Đức Trinh nữ là người môn đệ tiên khởi và hoàn hảo nhất của Đức Kitô, chhỉ vì Mẹ hoàn toàn tự do gắn bó vào thánh ý Thiên Chúa cách trọn vẹn nhất trong mọi thực tại của đời sống (Lc 1, 38) Mẹ đã đón nhận lời và thực hiện, Mẹ hoạt động trong bác ái và tinh thần phục vụ”
Đọc lại lịch sử Giáo hội để nhìn thấy sự quy hướng về Đức Maria, 60 năm đầu của thế kỷ XX, hình ảnh của Đức Maria nổi bật lên qua những ngày lễ và thông điệp được ban hành :
1917, Đức Mẹ hiện ra tại Fatima với 3 trẻ Lucia, Giaxinta và Phanxicô, Đức Mẹ tự nhận mình là Bà chuỗi Mân Côi.
1921, Légio Mariae được thành lập theo tinh thần của thánh Montfort.
1945, năm Thánh Mẫu.
1950, Đức Giáo hoàng Piô XII công bố tín điều Đức Maria hồn xác lên trời.
1954, cũng chính Đức Giáo Hoàng Piô XII công bố Thánh lễ “ Đức Maria Nữ vương”.
1958, kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức.Lòng tôn sùng Đức Maria lên đến đỉnh cao.
Và còn rất nhiều thông điệp nói về Đức Mẹ :
02.02.1974, MARIALIS CULTUS của ĐGH Phaolô VI
25.03.1987,REDEMPTORIS MATER của ĐGH Gioan Phaolô II
16.10.2002, ROSARIUM VIRGINIS MARIAE, của ĐGH Gioan Phaolô II..
Phải nhìn Đức Maria để thấy rằng Thiên Chúa muốn ban cho nhân loại một mẫu người phụ nữ mà Thiên Chúa yêu mến.
Trong một bài phỏng vấn của báo Zenit, bà Alice Von Hildebrand, ở New Rochelle – New York, vợ của triết gia Dietrich Von Hildebrand, bà cũng là triết gia và là tác giả quyển “ Đặc ân được làm phụ nữ’, bà đã chia sẻ cảm nhận của mình về phong trào nữ giới trong một thế giới đang bị tục hoá này, và cho biết rằng người phụ nữ cần phải được nhắc nhở là, việc làm trọn vai trò thân mẫu của họ có một giá trị khôn cùng trước nhan Thiên Chúa. Tuy nhiên, họ cũng chỉ nhìn thấy sức mạnh thiêng liêng nơi những gì nữ giới nhận thấy mình yếu kém, cũng như nơi việc lấy Mẹ Maria làm gương mẫu cho nữ tính của mình.
Theo bà Hildebrand, phong trào nữ giới thay vì làm cho nữ giới hiểu sâu hơn về vẻ đẹp cùng phẩm giá của vai trò làm vợ và làm mẹ, cũng như quyền lực linh thiêng họ có thể tác thành trên người chồng của mình, thì lại làm cho họ tin tưởng rằng cả họ nữa cũng phải chạy theo ý thức hệ của trào lưu tục hoá ; họ cũng phải tham gia tìm kế sinh nhai, cũng phải chứng tỏ cho ta đây bằng việc chiếm được nhũng mảnh bằng để tranh đua với nam giới, để chứng tỏ họ không thua gì nam giới.
Họ đi đến chỗ tin tưởng rằng nữ tính đồng nghĩa với yếu kém. Và bắt đầu khinh thường nhân đức, như nhẫn nại…những ai rơi vào cái bẫy của trào lưu nữ giới đều muốn trở thành nạn nhân trong tất cả mọi sự, và bán đi cái bẩm sinh của mình để đổi lấy một thứ canh hổ lốn. Họ trở thành mù quáng trước sự kiện là con người nam nữ, cho dù có phẩm giá bằng nhau về phương diện bản thể học, cũng vẫn được Thiên Chúa có ý dựng lên khác nhau. Ngài đã dựng nên họ tương khắc song tương trợ.
Mỗi phái tính có những điểm mạnh và điểm yếu của mình. Theo dự án đáng chúc tụng của Thiên Chúa, người chồng phải giúp đỡ cho vợ mình thắng vượt những cái yếu điểm này, để tất cả kho tàng nữ tính của họ được nẩy nở, ngược lại cũng thế.
Có bao nhiêu nạn nhân thực sự trở thành “chính mình” nhờ được vợ yêu thương Có bao nhiêu người vợ được biến đổi bởi sức mạnh và lòng can đảm của chồng mình…Tự bản tính, phụ nữ có mẫu tính, bởi hết mọi người nữ, dù lập gia đình hay không, đều được kêu gọi làm mẹ về sinh lý, tâm lý hay tâm linh, họ trực giác biết rằng việc ban tặng, nuôi dưỡng, chăm sóc cho kẻ khác, chịu đựng với kẻ khác, có một giá trị vô cùng trước nhan Thiên Chúa hơn cả việc chiến thắng các quộc gia và việc bay lên cung trăng.
Thảm trạng của thế giới chúng ta đang sống đó là việc chúng ta trở thành những kẻ bội tín. Nhiều người đã loại bỏ những kho tàng được ban cho chúng ta từ mạc khải, từ siêu nhiên…trong khi đó, sức mạnh tự nhiên không thể nào đấu lại được với sức mạnh siêu nhiên. Đó là lý do tại sao Thánh nữ Thérése thành Lisieux luôn nói về “nỗi yếu hèn” của mình. Chấp nhận yếu kém nơi bản thân mình và tin tưởng vào Thiên Chúa quyền năng đã ban cho ngài sức mạnh siêu nhiên vượt trên sức yếu đuối tự nhiên của con người. Mẹ Maria, đấng diễm phúc, lại “mãnh liệt như đạo binh sắp hàng vào trận”, nhưng lại được goi là vị “ Trinh Nữ khoan thay, nhân thay, dịu thay”.
Mừng kính Mẹ Maria hồn xác lên trời là cơ hội thuận tiện để mọi người nhận ra và kính trọng phẩm giá và mẫu tính của người phụ nữ do Thiên Chúa ban tặng. Đồng thời, người nữ cũng nhận ra giá trị của mình khi sống đúng với vai trò của người mẹ và người vợ trong gia đình và xã hội. Và như vậy họ có thể cất lên lời ca ngợi “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa”, như Đức Maria đã làm.
Lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời
15.6.2007
Lm. Đa Minh Đặng Quốc Hưng
1.Báo KTNN, số 510, ngày 20.07.2007, trang 65
2. Marialis Cultus, số 34
3 . Evangelium Vitae, số 3
4. Marialis Cultus, số 35
Ngày nay chúng ta không phủ nhận những thành tựu của khoa học kỹ thuật đã đem lại cho cuộc sống con người nhiều tiện ích mới lạ. Thế nhưng điều cơ bản cần thiết cho sự phát triển xã hội con người đó là sự công bằng trong đối xử và xử dụng của cải vật chất do thiên nhiên ban tặng. trong thực tế, sự phân chia của cải trong xã hội ngày càng có sự chênh lệch quá lớn. Nước ta bắt đầu bước chân vào sân chơi lớn của thế giới WTO với hy vọng rằng đời sống của người dân sẽ khá hơn và hưởng được nhiều tiện ích do xã hội mang lại. Nhưng trong cuộc Hội thảo khu vực của chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc, các quan chức Liên Hiệp Quốc đã nhận định như sau : Việt Nam được ca ngợi về tốc độ giảm nghèo nhanh chóng, tuy nhiên bất bình đẳng vẫn là thách thức lớn. Sự “mất bình đẳng” trong xã hội càng cao và ở mức rộng lớn, khoảng cách rất xa giữa các tỉnh thành, các vùng miền của Việt Nam” (Tuổi trẻ số 5/6/2007 ngày 02/03/2007).
Là người Kitô hữu, chúng ta không chỉ mong đợi được hưởng những quyền lợi như bao người khác nhưng còn phải tích cực góp phần xây dựng một xã hội công bằng theo lời mời gọi của Hội đồng Giám mục Việt Nam trong Thư chung 2006. Tại sao phải góp phần và tích cực xây dựng ra sao ?
I. NỀN TẢNG, PHẨM GIÁ VÀ GIÁ TRỊ THẬT CỦA CON NGƯỜI.
1. Con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa.
Trình thuật Kinh Thánh cho ta biết, con người được tạo dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa. Là thự tạo hữu hình được Thiên Chúa tạo dựng nên cho chính nó và được chung hưởng sự sống và hạnh phúc bất diệt với Thiên Chúa. Như thế đã là người, chúng ta đều có một điểm chung là được tạo dựng bởi tình yêu của Thiên Chúa. Chính ở điểm này nên mọi người phải được tôn trọng, được bình đẳng trong mọi sinh hoạt của cuộc sống và được tạo điều kiện để phát triển toàn vẹn phẩm giá của mình.
2. Chúa Giêsu đã cứu độ con người.
Trong Thông điệp “Thiên Chúa là Tình yêu” của Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI có viết : “Trong cái chết trên thập tự của Chúa Giêsu, việc “Thiên Chúa quay lại chống đối chính mình “đạt đến mức tuyệt đỉnh, khi người tự hiến mình, để nâng con người lên và cứu độ họ - đó là tình yêu trong hình thức triệt để nhất. (Bản dịch của Uỷ ban Giáo lý đức tin, HĐGMVN, sô 12). Với cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã đổ máu ra cho tất cả mọi người và tất cả đều được hưởng đặc ân cao quý nhất từ Người, nâng con người lên và cứu độ họ.
Với cái nhìn xuyên suốt về con người như trên trong công trình cứu độ của Thiên Chúa hàm chứa phẩm giá và giá trị thật của con người trong tương quan với Chúa và với nhau. Tất cả đều là con một cha trên trời và mọi người là anh em với nhau. Như thế, trong sự phát triển xã hội, con người không phải là phương tiện để thỏa mãn những nhu cầu cá nhân, hay là phương tiện sản xuất để đem lại lợi nhuận cho một nhóm người hay một vài quốc gia. Mà trên hết và quan trọng nhất, tất cả những sinh hoạt xã hội đều phải thăng tiến phẩm giá và bảo vệ giá trị thật của con người hầu đem lại những quyền lợi đích thực tương xứng với chính nó.
II. PHƯƠNG THẾ THỰC HIỆN.
1. Giáo dục biết tôn trọng người khác.
Giáo dục và môi trường giáo dục đóng một vai trò rất quan trọng trong sự phát triển con người và phát triển đất nước. Cần có một sự đồng bộ từ gia đình đến trường học và ngoài xã hội cho vấn đề cấp thiết này. Trước tiên làm thế nào trong tương quan sinh hoạt hằng ngày, mọi người biết tôn trọng nhau; tôn trọng những quyền lợi chung của nhau, tôn trọng chính mình, không chiếm hữu những gì không phải là của mình. Trong số báo Thanh niên, ngày 03/03/2007 thuật lại câu chuyên một em học sinh tên Nguyễn Anh Dũng học lớp 7 C trường THCS Nguyễn Trãi (thị trấn Xuân An, Nghị Xuân, Hà Tĩnh ) nhặt được một chiếc ví màu đen, bên trong có 2.400 USD, em đã đem đến trụ sở Công an huyện để nhờ trả lại cho thân chủ. Những tấm gương trong sáng đó cần được nhân rộng trong môi trường xã hội ngày nay.
2. Cần có một cơ chế thích hợp cho con người đươc phát triển toàn diện.
Trong Thông Điệp Thiên Chúa là Tình yêu, Đức Thánh Cha viết : “Chắc chắn nguyên tắc nền tảng của nhà nước là theo đuổi sự công bằng và mục đích của một trật tự xã hội công bằng là bảo đảm cho mỗi người có phần của mình trong số của cải của cộng đoàn, trong sự tôn trọng nguyên tắc phụ đới” (số 26). Nhận định trên của Đức Thánh Cha cho thấy rõ vai trò của chính quyền trong việc điều hành và tổ chức xã hội, làm thế nào để mọi người dân đều được hưởng quyền lợi, không có sự phân biệt, cưỡng bức và quyền lợi cá nhân. Bên cạnh đó, mọi người cần có sự hiểu biết và ý thức trách nhiệm trong việc góp phần xây dựng một xã hội công bằng qua việc thực hiện tốt những chương trình và chính sách chung nhằm mưu cầu tiện ích cho mọi người. Vì đây là trách nhiệm căn bản của con người.
3. Tôn trọng sự thật.
Cuộc sống con người được chi phối và hướng dẫn bởi nhiều luật lệ, nhưng trên hết mọi sự, luật chi phối cơ bản nơi con người đó là luật của lương tâm vì trong sâu thẩm tâm hồn mỗi người tiếng nói lương tâm chính là tiếng nói và mời gọi từ chính Thiên Chúa.
Tiếng nói của lương tâm luôn thúc đẩy con người hướng về Chân, Thiện, Mỹ, là tiếng nói chung nhất và cơ bản nhất của tất cả mọi người. Vì thế, cần nhắm đến việc giáo dục lương tâm, thanh luyện lý trí và huấn luyện đạo đức để con người mau mắn nhận ra những đòi hỏi của công bằng và thực thi cách thích hợp theo đòi hỏi của lương tâm đúng đắn.
III. Gợi ý thực hành.
Là người Kitô hữu, việc góp phần xây dựng một xã hội công bằng và cuộc sống lành mạnh theo đòi hỏi của Tin mừng Chúa Kitô trước hết thúc đẩy người Kitô hữu luôn biết tìm kiếm những thực tại trên trời là quê hương thật và hạnh phúc thật của con người. Kế đến chính Tin mừng là nguồn ánh sáng và chân lý hướng dẫn Kitô hữu xả thân xây dựng Nước Trời ngay tại trần thế này.
Thiết tưởng, cộng đoàn gia đình là môi trường đầu tiên và nền tảng cho việc giáo dục và sống sự công bằng, nơi đây chính tình yêu và lòng tin vào Đức Kitô qui chiếu mọi lời nói, việc làm và cách sống của mỗi người.
Trong đời sống xã hội, Kitô hữu phải ý thức mình được mời gọi trở nên ánh sáng chiếu soi cho trần gian, là muối ướp mặn cho đời. Chính từ đặc thù này, chúng ta phải là người trước tiên sống và cư xử với người khác theo tinh thần của Đức Kitô. Tinh thần này được định hướng và đặt nền tảng trên tình yêu, bởi lẽ không hoàn cảnh nào, trong đó người ta không cần đến bác ái của từng người Kitô hữu, chỉ vì, con người, vượt trên sự công bằng, luôn cần đến tình yêu. ( Thông điệp Thiên Chúa là Tình yêu, số 29)
Ước gì trong Năm Sống Đạo hôm nay, mỗi Kitô hữu trước hết dành giờ chiêm ngắm khuôn mặt của Thiên Chúa là Tình yêu nơi Đức Kitô, để tình yêu đó biến đổi và thanh luyện mỗi người. Kế đến, cư xử với nhau trong sự chân thật, yêu thương, khiêm nhường hầu mưu cầu ích lợi cho anh em mình.
Lm. Phaolô Vũ Đỗ Anh Khoa
Mọi người đều khao khát tự do nhưng có thể nói không ai bằng tuổi trẻ. Mọi người khao khát tự do bởi vì "tự do nằm trong bản tính con người và là dấu hiệu tiêu biểu của bản tính ấy" (lời của Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II); còn tuổi trẻ khao khát tự do hơn ai hết bởi lẽ họ còn tràn trề sức sống, đầy nhiệt tình, khao khát cái lý tưởng, cái tuyệt đối, chưa nghiệm thấy các giới hạn của mình, và muốn thử nghiệm mọi thứ có thể được. Bởi thế tuổi trẻ cảm nghiệm tự do tiên vàn như một sự "không bị gò bó" hay không bị hạn chế, ví dụ bởi quyền bính và các thứ mệnh lệnh; đối với họ, tự do là được làm bất cứ điều gì mình thích, --một thứ tự do "phóng túng".
Có lần trong một lớp học, một sinh viên hỏi tôi tại sao người ta không được phép làm mọi điều mình muốn? Tôi trả lời: Có gì mà khó hiểu! Có những điều xấu không những dư luận xã hội và luật pháp phê phán hoặc cấm đoán mà lương tâm đạo đức con người cũng không cho phép. Tự dưng, anh nhảy vào đánh người ta hay đốt nhà người ta--lấy cớ mình thích thế--thử hỏi có được không? Anh ăn gian nói dối, chà đạp người dưới xu nịnh người trên chẳng hạn, ai mà chấp nhận anh được?
Nhưng có những điều tuy không xấu nhưng anh vẫn không được làm dù anh thích bởi vì tự do của anh bị hạn chế bởi tự do của kẻ khác hay bởi công ích. Xã hội đưa ra rất nhiều qui định nhằm bảo vệ cuộc sống chung. Lái xe phải tuân theo luật lệ giao thông, như ngừng xe khi đèn đỏ, chạy xe khi đèn xanh. Làm như thế đâu phải là mất tự do nhưng là bảo đảm cho tự do, bởi vì, giả sử người lái xe nào cũng chỉ làm theo ý mình--(mà nên nhớ con người ta vốn rất ích kỷ)--thì cuối cùng chẳng ai đến nơi mình muốn đến được bao giờ, hơn nữa còn mất mạng như không! Một ví dụ khác. Anh muốn mở nhạc thật to nghe suốt đêm cho "đã", nếu anh sống một mình trong rừng, sẽ chẳng ai ngăn cản tự do và sở thích của anh, nhưng trong xã hội, anh phải tôn trọng tự do và lợi ích của kẻ khác (cũng như kẻ khác phải tôn trọng tự do chính đáng của anh).
Trong một đôi trường hợp, tôi "triết lý" với sinh viên: Con người không phải là tuyệt đối, tự do của ta tự bản chất là có giới hạn. Tôi sinh ra là người Việt Nam, trong một gia đình nhất định, vào một giai đoạn lịch sử nhất định, là con trai không phải con gái, là người miền Trung không phải miền Bắc, nói tiếng Việt chứ không phải tiếng Ý chẳng hạn v.v. và v.v. Tự do của tôi lệ thuộc vào những "dữ kiện" như thế, những thực tế khởi đầu như thế để được thể hiện. Nếu tôi sống đầu thế kỷ 20, chắc chắn tôi đã thể hiện mình và tự do mình rất khác với cách thức tôi đang thể hiện ngày nay.
Giới trẻ say mê tự do nhưng lại dễ dàng trở thành nô lệ của trăm thứ, nhất là vào thời buổi xã hội tiêu thụ rất hấp dẫn ngày nay với những giá trị giả dối mà tuổi trẻ ham sống và thiếu kinh nghiệm khó phân định cho đúng. Họ dễ dàng làm nô lệ cho ma tuý (thường được quảng cáo là mở rộng khả năng "cảm nghiệm" của con người), cho tình dục (được che đậy dưới chiêu bài giải phóng), cho sự hưởng thụ, những cái "mốt" (mốt xe, mốt tóc, mốt điện thoại di động, giày dép… Thiên hạ làm sao mình cũng phải như vậy), rồi còn Internet, trò chơi điện tử, những thần tượng… Tôi xin nói thêm về hiện tượng mê thần tượng.
Khá nhiều người trẻ ngày nay đồng hoá mình một cách nô lệ với những thần tượng của mình, phần lớn trong giới ca sĩ và diễn viên điện ảnh. Ngay ở thôn quê lắm nơi ta nhìn thấy những thiếu niên mới lớn cũng nhuộm tóc hay cắt tóc ngắn, để tóc xù, đeo khuyên, ăn mặc theo một thần tượng nào đó. Còn ở thành phố thì khỏi nói! Hầu như ca sĩ, diễn viên nào đẹp trai hoặc đẹp gái cũng đều có các fan của mình, nhất là trong giới học sinh. Một bài viết trên báo Tuổi Trẻ, ở mục Nhịp Sống Trẻ, nhận định rằng "độ tuổi có thần tượng đã hạ xuống đến ngạc nhiên". Và bài báo kể lại lời của một cán bộ Nhà Thiếu nhi TP.HCM như sau: " Tôi dẫn đứa cháu gái đi chợ, năm nay nó mới học lớp 1, nhưng mê xem phim 'Chuyện tình mùa đông' của Hàn Quốc lắm. Đi giữa chừng, nó đứng lại sững sờ trước một sạp báo, nhìn hình của nam diễn viên Hàn Quốc Bae Yong Jun. Nó vô tư nói với vẻ đầy thán phục: 'Ôi, đẹp… trai quá!' khiến tôi cùng những người chung quanh không khỏi bật cười" (số báo ra ngày 16-8-2003, tr 12). Đáng chú ý là nỗi đam mê thần tượng chỉ dừng lại sự bắt chước cái bề ngoài, không tiến tới vẻ đẹp tinh thần bên trong.
Trong các thứ nô lệ, thì nô lệ tội lỗi và dục vọng là tệ hại nhất vì nó phá hủy sự tự do căn bản của con người là hình ảnh của Thiên Chúa. Đức Kitô đã giải phóng chúng ta khỏi ách nô lệ của tội lỗi và trả lại cho ta chức vị làm con Thiên Chúa. Ai sống theo lề luật của Đức Kitô (mà cốt yếu là luật bác ái), ai để cho Thần Khí của Đức Kitô hướng dẫn, kẻ ấy là người tự do; còn ai buông theo "xác thịt", đó là một kẻ nô lệ. Thánh Phao-lô nhắc nhủ người tín hữu Ga-lát: "Anh em đã được gọi để hưởng tự do; nhưng đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt" (5,13). Có điều là những ai vươn lên cái chân, cái thiện lại thường bị coi là không tự do bằng người buông mình theo cái xấu, cái sai.
Hồi còn du học ở ngoại quốc, tôi có giúp một vài việc mục vụ cho sinh viên công giáo Việt Nam ở một đại học kia. Đa số trong các sinh viên đó chăm chỉ học hành, sống có kỷ luật, tiêu xài chừng mực, có người còn phải đi làm kiếm tiền thêm, còn một thiểu số con nhà giàu sống bê tha, bỏ bê việc học hành để lao mình vào những cuộc vui chơi vô bổ và thậm chí thiếu lành mạnh... Những người này tự coi là "trưởng thành" và thường chê những anh chị kia là "cù lần", "gò bó", "chỉ biết chúi đầu vào sách vở, không biết 'đời' là gì…". Những lời chê bai đó được lặp đi lặp lại đã làm cho một vài người bắt đầu cảm thấy "nao núng", và họ đến hỏi tôi nên làm gì? Tôi đã trả lời cho họ đại ý rằng họ không có gì phải sợ, làm điều tốt mới khó chứ làm điều xấu nào có khó chi; các ngón ăn chơi của mấy kẻ kia, họ chẳng phải nổ lực mấy cũng học được nếu muốn; cũng giống như leo núi, leo lên khó nhọc hơn đi xuống; khi lên, ta phải chống lại sức nặng trì kéo của thể xác ta và lực hút của trái đất, còn lúc xuống, ngược lại chúng lôi ta bước nhanh theo chúng. Thử hỏi ai tự do hơn, ai tự chủ tự quyết hơn, --người cố gắng vươn tới điều hay lẽ phải hay người sống theo đam mê dục vọng?
Người Kitô hữu là người tự do. Thánh Phao-lô căn dặn các tín hữu Ga-lát: "Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta. Vậy, anh em hãy đứng vững, đừng mang lấy ách nô lệ một lần nữa" (5,1).
(15-8-2007)
Lm Nguyễn Hồng Giáo, dòng Phanxicô
Từ năm 1962, một số nhà âm nhạc học, phụng vụ và mục tử của nhiều nước khác nhau
- họp thành nhóm Universa Laus (1966) - hàng năm đã họp nhau để nghiên cứu về sự
tiến triển của âm nhạc trong phụng vụ Ki-tô giáo.
Trong khoảng thời gian đầu (1962-1968), tương ứng với những năm mà Hội thánh
Công giáo Rô-ma, khởi thảo và định hình công cuộc cải tổ phụng vụ phát xuất từ
Công đồng Va-ti-ca-nô II, Nhóm Universa Laus đã hướng dẫn một số các cuộc
nghiên cứu thuộc phạm vi lịch sử, thần học, kỹ thuật và mục vụ về vấn đề ca hát
và âm nhạc trong phụng vụ Ki-tô giáo.
Giai đoạn thứ hai (1969-1976) được đánh dấu bằng hai yếu tố mới. Trước hết là
nhận xét về những tác phẩm chính vừa mới được sáng tác trong nhiều ngôn ngữ khác
nhau, do tác động hỗ tương của phụng vụ và văn hóa. Tiếp đến là sự soi sáng mới
mà nhiều khoa nhân văn như tín hiệu học, ngữ học, xã hội tâm lý học, nhân loại
học đã tạo ra và mang lại cho khoa nghi lễ và âm nhạc học.
Đứng trước sự phân biệt ngày càng gia tăng của các hoàn cảnh văn hóa và tình
hình các giáo hội trong phụng vụ, nhóm Universa Laus đã cảm thấy phải xét lại
các xác tín đang nung nấu các thành viên của mình. Vì thế năm 1977 đã nẩy sinh ý
tưởng soạn một tài liệu đưa ra một số các đường nét chủ lực chung cho cả nhóm.
Sau các cuộc đối chiếu hàng năm, Universa Laus đã đề nghị một bản tài liệu cho
các thành viên ký vào như sau : Phần thứ nhất đề là “các điểm mốc”, thử trình
bày cách mạch lạc yếu điểm trong các mối liên lạc giữa âm nhạc và phụng vụ Ki-tô
giáo như thấy xuất hiện năm 1980. Phần thứ hai đề là “xác tín” lấy lại và khai
triển thêm nội dung các điểm mốc dưới hình thức những câu vắn.
I. CÁC ĐIỂM MỐC
1. Lời ca tiếng hát của các cộng đoàn Ki-tô hữu
1.1. Khi nhiều người họp lại nhân danh Chúa Giê-su, cử hành các mầu nhiệm đức
tin, thì hành động chung của họ gọi là phụng vụ, gồm một số các nghi lễ tượng
trưng (nghi thức và bí tích) trong đó ca nhạc chiếm một vị trí ưu việt.
1.2. Việc thờ phượng trong Ki-tô giáo bao gồm
* hoạt động loan báo ơn cứu độ trong Chúa Giê-su Ki-tô
* lời đáp trả của cộng đoàn tín hữu
* động tác hiện thực hóa bằng cử chỉ giao ước được thiết lập giữa Thiên Chúa và
loài người
Ca nhạc khi hội nhập vào các yếu tố khác nhau cấu thành hoạt động phụng vụ là
nhằm
* yểm trợ và tăng cường lời công bố Tin Mừng dưới mọi hình thức,
* làm cho lời tuyên xưng đức tin, lời khẩn cầu và tạ ơn được diễn tả đầy đủ hơn,
* làm nổi bật nghi thức bí tích dưới hai dạng cử chỉ và lời nói.
1.3 Hoạt động phụng vụ là hoạt động của một cộng đoàn, của những người hội nhau
trong một lúc và trong cùng một nơi. Tất cả mọi lời nói, mọi tiếng hát, mọi âm
nhạc diễn ra trong buổi họp liên hệ đến mọi người và từng người. Dù nghi thức
được thực hiện do một người, vài người hay mọi người cùng một lúc, thì bao giờ
đó cũng là một hành động chung.
Việc phân công vai trò của thanh nhạc và khí nhạc đã thay đổi nhiều trong các buổi họp mừng phụng vụ của cộng đoàn Ki-tô hữu, tùy thời và tùy nơi. Những sự thay đổi đó tùy thuộc ở nhiều yếu tố khác nhau. Việc phân chia giáo dân và thừa tác viên một phần được giải thích do cách hiểu về bản tính theo cơ cấu và phẩm trật của cộng đoàn Ki-tô hữu, cũng như tính thánh thiêng của hành động phụng vụ. Nhưng cũng do ảnh hưởng của những tập tục xã hội nữa mà theo đó việc hát trước công chúng khi thì do một người - nam hay nữ - khi thì do một nhóm, khi thì do mọi người, tùy theo cách lắng nghe và tham dự khác nhau. Sự biến chuyển của các kỹ thuật âm nhạc và việc tuyển chọn các tác phẩm để thực hiện, biện minh cho việc hát lĩnh xướng, hát ca đoàn hay chơi nhạc cụ.
1.4 Nhưng trong phụng vụ, việc thi hành một nhiệm vụ không bao giờ chỉ thuần túy
là vấn đề sở trường kỹ thuật hay do quy chế xã hội. Đối với đức tin của những
người tham dự, mọi hoạt động của một người hay nhiều người đều được đón nhận như
là dấu chỉ hoạt động của Chúa Thánh Thần trong nhóm. Như vậy, trong đường hướng
phụng vụ và các ơn đoàn sủng mà Tân Ước nói tới, các vai trò phụng vụ cũng được
coi như các thừa tác vụ, dù những thừa tác vụ đó là do phép truyền chức hay do
một sự cắt cử thông thường, hoặc một sự chỉ định ngẫu nhiên.
1.5 Tuy không dám vội đoán định những sự biến đổi đã xảy ra hay sẽ có thể xảy ra
trong việc phân công các vai trò âm nhạc trong phụng vụ, nhưng thiết tưởng cũng
có thể xác định được vai trò của cộng đoàn, vai trò của từng cá nhân thừa tác (chủ
tọa, phó tế hay linh hoạt viên, người hát thánh vịnh, ca xướng viên v.v...
), vai trò của các nhóm chuyên môn (ca đoàn, hội hát) và nhóm các nhạc công.
Cũng nên gắn liền vào đây vai trò của các nhà sáng tác và vai trò của các người
điều khiển buổi cử hành.
1.6 Tiếng hát của cộng đoàn chiếm ưu vị và không thể bỏ được. Dù không có thừa
tác viên và nhóm ca viên để hát thì cộng đoàn trước hết có nhiệm vụ phải tuyên
xưng đức tin, nhằm đáp lại lời đã được loan báo bằng “những bài thánh vịnh,
thánh thi và thánh ca” (Cl 3,16). Vai trò đàn hát của các cộng tác viên khác
tùy thuộc ở khả năng của nhóm cử hành. Nhóm này phải liệu cho có những người thi
hành và cung cách thi hành như mình muốn trong buổi cử hành.
2. Một nền âm nhạc cho mọi người
2.1 Âm nhạc diễn ra trong cộng đoàn tự nó xuất hiện như một dấu hiệu tượng trưng
cho những gì nó cử hành. Nhưng xét như là nghi thức, âm nhạc cũng có một nhiệm
vụ phải thi hành. Muốn đóng đầy đủ vai trò của mình, âm nhạc này phải dễ hiểu
đối với mọi người tham dự, người đàn hát cũng như người nghe đàn hát.
2.2 Nhạc nghi thức thông thường phần lớn là dành cho những người tham dự cùng
hát; loại nhạc này không đòi hỏi phải đặc biệt chuyên môn nhưng phải dễ hiểu đối
với mọi người. Bình thường đó là trường hợp khi cộng đoàn hát. Đó cũng còn là
trường hợp của các thừa tác viên tuy không phải là những người chịu trách nhiệm
về âm nhạc - linh mục, phó tế, người đọc sách thánh, linh hoạt viên - phải hát
một mình trong buổi cử hành.
2. 3 Tuy nhiên, buổi cử hành có thể phong phú bằng nhiều cách áp dụng khác nhau
với ít nhiều chuyên môn, nếu có một số người hiện diện tham dự có thể thực hiện
được những cách đó (thí dụ lĩnh xướng, ca đoàn, nhạc công) và nếu trong
chương trình chung có dự liệu điều đó. Những thứ âm nhạc này là để nghe (khi
không có hoạt động nào khác cùng diễn ra một lúc) hay để tạo cho các nghi
thức một khung cảnh âm thanh làm nền, tùy như những thứ nhạc đó thích hợp ít
nhiều với sở trường âm nhạc của thính giả. Dù sao, người ta cũng chờ đợi những
thứ nhạc đó cống hiến cho cộng đoàn một phần đóng góp có thể được coi là tích
cực. Điều đó vẫn có thể, ngay cả khi âm nhạc tạo thành một khoảng cách, sánh với
những gì thính giả quen nghe.
2.4 Trong những xã hội được hưởng một nền văn hóa âm nhạc luôn luôn sống động,
thật dễ kêu gọi nền văn hóa này tiếp tay để thực hành nghi thức chung hay riêng.
Ngược lại, trong những hoàn cảnh có nền văn hóa đa tạp hay tản mac, một thứ đa
nguyên nào đó ngày nay thường xem ra là cần thiết, nếu người ta không muốn dành
ưu tiên cho những khu vực xã hội riêng, hay một số hạng người mà để thiệt cho
những người khác.
3. Lời ca và tiếng hát
3,1 Cũng như phụng vụ Do Thái, khi công bố những kỳ công của Thiên Chúa và tạ ơn
Người, phụng vụ Ki-tô giáo ngay từ đầu đã có tính ngợi khen. Tiếng hát đi đôi
với lời ngợi khen chẳng khác nào như mang Tin Mừng cứu độ và lời ngợi khen của
những người được cứu độ. Liên kết với lời Kinh thánh và phụng vụ, nó là nơi đầu
tiên khai diễn nhạc nghi thức của Ki-tô giáo.
3.2 Chữ “tiếng hát” hiểu theo một nghĩa rộng. Nó chỉ một số lớn những nét
biểu dương thanh nhạc đủ thứ. Nó bao hàm những kiểu cách thực hành, đi từ hát
nói đến âm thanh tô điểm qua tiếng hát theo nghĩa thông thường.
3.3 Một buổi lễ cử hành sẽ cần đến nhiều cử chỉ rất khác nhau về âm thanh và
những loại vừa lời vừa nhạc, bởi vì trong buổi cử hành đó cần sử dụng nhiều chức
năng khác nhau của ngôn ngữ. Theo thể văn trong các bài sách được dùng, nhất là
theo mối liên quan giữa các người đối thoại, khi thì hình thức chuyển thông một
điệp văn, khi thì hình thức nghiền ngẫm những lời đọc mà lấy làm ngọt ngào, khi
thì hình thức đồng thanh ca hát, khi thì hình thức ngợi khen không thôi được ưa
chuộng hơn. Đối với mỗi hạng ngôn ngữ này, có một mối tương quan khác giữa bản
văn và âm nhạc. Trong mỗi trường hợp, nhóm có một cách thế riêng để giữ lấy bản
sắc ngôn ngữ cho mình.
3.4 Vì lời mạc khải là cốt yếu đối với việc thờ phượng trong Ki-tô giáo, nên
phụng vụ ngay từ đầu (1Cr 14,15) đã ưu đãi vai trò truyền thông (lời
truyền đạt cho trí tuệ) . Tuy không thể chuyển nhượng, nhưng vai trò ngôn
ngữ vẫn không loại trừ những vai trò khác; những vai trò này cũng thiết yếu đối
với nó như vai trò liên lạc, vai trò gợi cảm, vai trò thi ca. Thường chính trong
những vai trò khác của ngôn ngữ, mà âm nhạc đóng vai trò đặc biệt nhất.
3.5 Bài hát không phải là một bản nhạc cộng với một bài văn mà ra. Nó cũng không
phải là cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên giữa âm nhạc thuần túy và thơ thuần túy. Nó là
một cử chỉ độc đáo của con người mà từ ngữ và ý nghĩa chỉ là một. Trong bài hát,
bản văn mang ý nghĩa cho âm nhạc vay mượn, còn âm nhạc lại nới rộng không cùng ý
nghĩa của từ ngữ. Nhờ lời, âm nhạc có thể gọi tên Thiên Chúa của Đức Giê-su
Ki-tô; nhờ âm nhạc, tiếng của con người dám nói điều không thể nói được.
4. Âm nhạc và nhạc cụ
4.1 Vai trò ưu đãi dành cho bài hát trong phụng vụ khi đó là âm nhạc gắn liền với lời ca; tuy nhiên nó không loại trừ việc dùng nhạc không lời, tức thanh nhạc hay khí nhạc, dù khí nhạc được biểu diễn bằng nhạc khí cổ truyền hay bằng nhạc cụ tổng hợp điện tử, hay được tạo lại bằng các phương tiện cơ khí.
4.2 Trong một giai đoạn lịch sử khá dài - và bây giờ vẫn còn trong mấy nước bên
phương Đông - truyền thống Ki-tô giáo đã gạt bỏ các nhạc khí ra ngoài phụng vụ.
Cái lý do xã hội tôn giáo xui khiến việc loại bỏ này chưa hoàn toàn biến khỏi
khắp nơi. Tuy nhiên, loại âm nhạc như thế ngày nay trong nhiều xã hội tạo thành
một giá trị nhân bản và thiêng liêng mà phần đóng góp trong các nghi thức Ki-tô
giáo từ nay được công nhận là tích cực.
4.3 Một sự kiện đầu tiên cần thiết là trong hầu hết các nền văn hóa, việc hát cá
nhân hay tập thể đều dùng các nhạc cụ đệm hay hợp tấu. Các nhạc cụ này tăng thêm
nét khởi sắc cho nhịp điệu, giai điệu âm sắc và ca từ. Chúng góp phần làm cho
toàn bộ gắn bó với nhau và ảnh hưởng đến ý nghĩa chung của cấu trúc.
5. Các vai trò của nghi thức
5.1 Trong phụng vụ, âm nhạc chu toàn một số chức năng nhân hình học, cá nhân và
tập thể như gặp thấy trong xã hội. Có chức năng thì chung như biểu lộ tâm tình,
làm cho nhóm gắn bó với nhau, biểu hiện ngày lễ v.v... Có chức năng riêng như
trị liệu, giáo dục, giải trí v.v... Nhưng xét về mặt thuần túy là thành phần của
việc cử hành Ki-tô giáo, âm nhạc đóng một vai trò riêng và hoàn thành một số
chức năng cho riêng nó.
5.2 Các chức năng này thuộc hai loại. Một loại xác định theo nghĩa chúng nhằm
các hiệu quả riêng, hơn kém có thể kiểm soát được. Một loại không xác định và
hiệu quả của chúng rất khó dự đoán.
5.3 Các chức năng xác định làm cho các người có trách nhiệm trong việc cử hành
lưu ý hơn cả. Đó là các nhà sáng tác, quản lý và biểu diễn viên. Buổi cử hành có
diễn ra tốt đẹp hay không là tùy các chức năng đó. Cũng như có các thứ âm nhạc
tốt hay không để khiêu vũ, nghỉ ngơi, hợp ca, giải trí một mình thì trong phụng
vụ cũng có những thứ nhạc tốt hay ít tốt hơn để cho các việc của lời nói được
hoàn thành như công bố, suy gẫm, đọc thánh vịnh, ngợi khen, tung hô, đối đáp,
trả lời v.v... cũng như để làm nổi bật một ít thời khắc trong nghi thức như khai
mạc, đi rước, đọc một chuỗi những lời khẩn cầu v.v...
Có nhiều hình thức âm nhạc khác nhau tương ứng với mỗi chức năng, những hình
thức đó được soạn thảo và chọn lọc nhằm làm cho nghi thức có ý nghĩa và hữu hiệu
tới mức tối đa.
5.4 Tuy nhiên vai trò của âm nhạc trong phụng vụ trải rộng ra cả bên ngoài sự
hoạt động có thể kiểm chứng được. Cũng như tất cả mọi dấu hiệu tượng trưng, nó
đưa về một sự vật khác với chính nó. Nó mở ra một chân trời ý nghĩa vô biên và
gợi lên rất nhiều phản ứng tự do. Hiểu theo ý nghĩa đức tin, nó trở thành dấu
hiệu và mầu nhiệm cho tín hữu về những thực tại được cử hành.
5.5 Hai thứ tự hoạt động luôn luôn đan nhau. Như thế, âm nhạc nghi thức không
bao giờ được sáng tác cho chính nó - như một trò chơi thuần túy hay chỉ để
thưởng thức nghệ thuật hay như nghệ thuật vì nghệ thuật, cũng không phải chỉ vì
một mục đích thực dụng, - giáo dục, xã hội, giải trí v.v... cũng không phải chỉ
để hoàn thành nghi thức. Cuối cùng, nó luôn nhằm tới con người toàn diện tự do
tới gặp gỡ Thiên Chúa của Đức Giê-su Ki-tô trong cộng đoàn tín hữu.
6. Ca mục và bài ca soạn sẵn
6.1 Vì phụng vụ trước hết là “làm”, nên nhạc nghi thức trước hết cũng phải là
“cùng làm” với nhau. Như vậy có nghĩa là mỗi nghi thức là một thời khắc đặc biệt
và mỗi cử hành phụng vụ là một biến cố riêng phải làm cho chu đáo.
6.2 Nhưng nghi thức theo bản tính cũng thường là do lặp lại, hồi tưởng và dựa theo tập quán xã hội mà hình thành. Vì thế, nhạc nghi thức không thể bỏ qua không sử dụng các tác phẩm hiện hữu. Thực tế đã có nhiều bài nhạc nghi thức Ki-tô giáo được xếp thành ca mục.
6.3 Có nhiều lý do xui khiến nên sử dụng các tác phẩm hiện hữu khi cử hành phụng
vụ. Lý do thứ nhất thuộc phạm vi thực tiễn. Muốn làm cho chủ tọa và cộng đoàn
đối thoại với nhau, muốn cho cộng đoàn hát một câu đáp ca hay bài Thánh, Thánh,
Thánh thì nhạc và lời ca phải có sẵn trước. Thứ đến là lý do thẩm mỹ. Những tác
phẩm quý nhất, giàu ý nghĩa nhất thường là do hình thức hoàn chỉnh của chúng.
Người ta mong những tác phẩm đó được trình tấu như chúng hiện hữu. Cuối cùng,
một buổi cử hành được phong phú là nhờ các ý nghĩa do tình cảm và trí thức mà
một số tác phẩm dần dần tích lũy được, qua kinh nghiệm của các cá nhân và các
nhóm.
6.4 Tuy vẫn dùng các sáng tác âm nhạc được xác định và ghi vào ca mục nhưng
phụng vụ cũng tỏ ra uyển chuyển vì có những cách thực hành khó dung hòa được với
một ca mục hoàn toàn cố định. Một mình hát ngâm nga một bài thánh vịnh hay một
lời tiền tụng, dù đã có cung soạn sẵn, nhưng người hát vẫn có thể tùy nghi thay
đổi thêm bớt cho bản văn nghe dễ cảm hơn. Tất nhiên, các bản đa âm hợp xướng thì
không thể hát ngẫu hứng được. Vì vậy phải sử dụng một kỹ thuật truyền thống là
dùng một bản nhạc mẫu đã soạn sẵn.
6.5 Việc dùng những bản nhạc mẫu như thế giúp duy trì được hai đặc điểm của nghi
thức là ôn cố và tri tân, giúp cho việc tiếp thu và thực hành nghi thức trong
một khu vực văn hóa nào đó được dễ dàng. Bằng cách cho phép một vài khác biệt và
đổi mới, nó góp phần vào việc biểu lộ một thời khắc đặc biệt, mà buổi cử hành có
thể tạo ra. Nói tóm lại, nó làm cho việc nới rộng ca mục có thể thực hiện được
mà không làm cho những người sử dụng phải ngạc nhiên vì quá mới mẻ.
6..6 Quy tắc âm nhạc về việc cử hành có thể phỏng theo hai nguyên lý bổ sung :
một đàng dùng những bản nhạc quen thuộc được biết đến nhiều, mọi người có thể
hát và do đấy có thể tạo ra những phương thế tốt giúp cầu nguyện; một đàng thêm
vào, tùy lúc thuận tiện, những bản có tính nghệ thuật nổi hơn, tuy ít được biết
đến, do những người trình diễn có khả năng và như vậy có một ý nghĩa đặc biệt.
7. Phẩm chất và giá trị của hình thể
7.1 Trong lịch sử Hội thánh, người ta nhận thấy về phía giáo quyền cũng như về
phía tín hữu có hai mối bận tâm luôn gắn liền với hình thể nghi thức, nhất là
hình thể âm nhạc. Mối bận tâm thứ nhất diễn tả qua các tiếng như trang trọng,
hay, đẹp, xứng hợp, phẩm chất, nghệ thuật v.v... Mối bận tâm thứ hai nhằm tính
thánh thiện của hành động, nghĩa là muốn cho bài đàn, bài hát có tính thiêng
thánh và cầu nguyện.
7.2 Khi đòi các hình thể phụng vụ phải đẹp, phải thánh thì đó không có ý nói về
thẩm mỹ hay luân lý cho bằng các giá trị phải nhắm tới, trong các hoạt động
tượng trưng hay những cái phản giá trị không thể dung hợp được với các nghi
thức. Nhận ra những giá trị và phản giá trị này, xác định qua những nét biểu
dương cụ thể nào mà nhận thấy như thế, thì phải dựa vào đức tin, lòng đạo đức
cũng như tâm lý xã hội và qui chế nghệ thuật và tôn giáo trong xã hội.
7.3 Tuy không dám tự phụ là biết rõ về phản ứng của các tín hữu - thường là thầm
kín và diễn tả không được rõ ràng - nhưng nhạc sĩ nào muốn phục vụ cộng đoàn,
không thể hoàn toàn không biết đến hay coi thường những phản ứng đó. Thí dụ nên
biết hình thức nào, tín hữu cho là cũ hay tân thời, bình dân, đại chúng hay trí
thức chọn lọc, quen thuộc hay bí truyền, hay hoặc dở theo ý kiến các nhà chuyên
môn hoặc các người sử dụng, tình cảm hay khô khan, giúp cầu nguyện hay làm cho
chia trí v.v... Phải xem đây là phản ứng của loại người nào trong cộng đoàn, và
cuối cùng kiểm tra xem người ta có ý nói về tác phẩm hay cách trình tấu.
7.4 Khi tìm cho biết kết quả do các hình thể âm nhạc được sử dụng, người có trách nhiệm trong việc cử hành không nhằm mục đích chiều theo sở thích của quần chúng mà chỉ tìm xem có thể đưa các dấu chỉ và các nghi thức đức tin Ki-tô giáo vào chỗ nào. Ngoài ra, vị đó cũng cần quan sát xem trong mức độ nào, các bài hát có thể hay không có thể sử dụng được, rồi cùng với một số người khác tìm những hình thức thích hợp nhất, để cử hành trong tinh thần và trong chân lý.
7.5 Dù nhạc nghi thức đóng vai trò nào, dù ca mục được sử dụng hay cách trình
tấu các bài đàn, bài hát ra sao, thì việc thẩm thấu âm nhạc vẫn tùy thuộc hình
thức âm thanh mà âm nhạc đó được chuyển đến tai người nghe. Hình thức bao gồm
không nguyên tác phẩm viết sẵn hay do ngẫu hứng mà còn do cách trình tấu, với
nghệ thuật hát của các ca viên, âm sắc của tiếng hát, âm thanh ở nơi hát và toàn
bộ buổi cử hành nữa.
II. BIỂU THỊ CON NGƯỜI MỚI
1. Những đòi hỏi gắn liền với nhạc nghi thức Ki-tô giáo phát xuất từ mục
đích của nhạc này là biểu lộ và thực hiện con người mới nơi Đức Giê-su Ki-tô
phục sinh. Sự chân thật, giá trị và vẻ đẹp của nó không đo bằng khả năng
khơi động sự tham dự tích cực, hay bằng giá trị thẩm mỹ văn hóa, bằng tính kỳ
cựu của nó trong Hội thánh, bằng sự thành công nơi dân chúng, mà bằng sự kiện nó
giúp những người bị áp bức có thể kêu lên những tiếng Kyrie eleison, hát
lên câu Halleluya của những người được phục sinh, hay họa theo tiếng
Maranatha của các tín hữu đang hy vọng bước vào Nước Trời.
2. Tất cả mọi thứ âm nhạc do con người sáng tạo, miễn là không làm cho
con người khép kín nơi mình và phản ánh hình ảnh của riêng nó nơi bản thân,
nhưng đưa nó tới đón nhận lời hứa của Tin Mừng, đều có thể phục vụ nền phụng tự
Ki-tô giáo.
3. Một vài nền văn hóa từ những thế kỷ qua đã bắt đầu hát dưới nhiều hình
thức, bài ca mới được nói tới trong các thánh vịnh và sách Khải huyền. Nhiều dân
tộc và châu lục khác đã được kêu mời đem nghệ thuật của mình ra để cùng chung
một lời ca ngợi. Còn thiếu nhiều tiếng hát trong bản hòa tấu của 144.000 người
được tuyển chọn. Nhiều người không có tiếng để cất lên Bài ca mới, không những
tại nơi Tin Mừng chưa được loan báo, mà ngay cả tại nơi Tin Mừng chưa thâm nhập
con người và văn hóa, cũng như tại nơi Tin Mừng được đưa vào từ lâu, nhưng lại
phải đối phó với một thế giới đang thay đổi mạnh mẽ, để lời ca ngợi phổ quát
mau vang tới.
III. NHỮNG ĐIỀU XÁC TÍN
Ca hát và âm nhạc theo cơ cấu là thành phần của phụng vụ Ki-tô giáo.
Không thể lưu tâm đến phụng vụ theo lý thuyết hay thực hành mà không kể gì đến
âm nhạc.
Ai lưu tâm đến âm nhạc trong phụng vụ thì cũng để ý đến nghi thức và những người
cử hành.
Ca hát và âm nhạc trong phụng vụ là để phục vụ cộng đoàn.
Các loại âm nhạc trong xã hội không phải loại nào cũng thích hợp cho lễ nghi cử
hành trong Ki-tô giáo.
Có loại nhạc hoàn toàn thích hợp cho lễ nghi phụng vụ, nhưng lại không được xã
hội công nhận là nghệ thuật âm nhạc.
Trong phụng tự Ki-tô giáo, nhiệm vụ đầu tiên của cộng đoàn là ca ngợi.
Khi cử hành thì một người hát cũng là mọi người hát.
Trong cộng đoàn có nhiều cách hát và nghe hát.
Nhạc nghi thức phần lớn tùy thuộc vào cách hát của một cộng đoàn.
Nhạc sĩ đóng bất cứ vai trò nào trong nghi lễ cử hành cũng phải có khả năng
tương xứng.
Hoạt động của cộng đoàn có thể bị làm cho sai lạc ý nghĩa, nếu các nhạc sĩ chỉ
để ý đến kỹ thuật mà không tham gia vào việc cử hành.
Nhạc nghi thức trước hết mang hình thức ca hát.
Ca hát là cử chỉ độc đáo của con người; không gì có thể thay thế được nó trong
buổi cử hành.
Các thể loại ca hát trong phụng vụ thay đổi tùy theo cung cách của lời trong
phụng vụ.
Có một số loại bài hát cần phải dùng đến nhạc khí.
Nhạc không lời cũng có chỗ đứng trong phụng vụ.
Nhạc không phải là bất khả thay thế trong phụng tự, nhưng phần đóng góp của nó
không thể thay thế được.
Cử hành là một hành động có tính toàn thể mà mọi yếu tố nhạc cũng như không nhạc
đều tùy thuộc lẫn nhau.
Nhạc dùng trong nghi thức luôn có ảnh hưởng đến hình thức và ý nghĩa của nghi
thức.
Ca hát và âm nhạc đóng một số vai trò khá rõ rệt trong phụng vụ.
Vì là dấu hiệu tượng trưng, ca hát và âm nhạc đóng một vai trò vượt quá phạm vi
chức năng xác định.
Nghi thức thanh nhạc hay âm nhạc trước hết là một “biến cố”, một hành vi duy
nhất và riêng biệt.
Vì là hành vi lặp đi lặp lại và tập thể, nhạc nghi thức không thể hoàn toàn bỏ
qua ca mục.
Một ca mục tốt không đủ để âm nhạc hoàn thành tốt nhiệm vụ trong buổi cử hành.
Cần phải có kinh nghiệm để xem cái gì là tốt cho cộng đoàn.
Muốn cử hành phụng vụ, trước hết phải có nhiều nhạc cụ tốt; cũng nên có những
tác phẩm nghệ thuật âm nhạc, để làm cho ý nghĩa nên phong phú.
Sự phong phú về ý nghĩa của một cuộc cử hành không cần phải tương xứng với số
lượng phương tiện âm nhạc được sử dụng.
Việc dùng các kiểu và loại âm nhạc khác nhau trong cùng một buổi cử hành là
chính đáng, nếu không làm tổn thương đến sự duy nhất của hành động nghi thức.
Sự hiệp thông giữa các Ki-tô hữu thuộc chủng tộc, ngôn ngữ, văn hóa và tôn giáo
khác nhau có thể được diễn tả qua một vài dấu hiệu chung, trong đó âm nhạc chiếm
một vị thế ưu đãi.
Tất cả những gì lọt đến tai phải qua một hình thức.
Muốn cho nghi thức âm nhạc hoạt động tốt phải dùng hình thức thích hợp.
Chỉ để ý đến hình thức không thôi là tôn sùng hình thức quá đáng, lơ là hình
thức là coi thường nghi thức.
Các hình thức phụng vụ luôn đòi hỏi phải đẹp đẽ và thánh thiện. Đòi hỏi này dựa
vào các giá trị mà mỗi nhóm cho là cốt yếu.
Biết được phản ứng của tín hữu về các loại âm nhạc sẽ giúp cho những người có
trách nhiệm sử dụng tốt hơn các loại đó trong phụng vụ.
Bài hát càng phong phú ý nghĩa khi hình thức càng có nét đặc biệt.
Mục đích của mọi thứ nhạc nghi thức Ki-tô giáo là biểu lộ và thực hiện con người
mới trong Đức Ki-tô Phục sinh.
Chẳng có loại nhạc mào là vô thưởng vô phạt đối với đức tin Ki-tô giáo.
Bài “Ca mới” sẽ chẳng bao giờ hoàn tất, bao lâu con người thuộc mọi chủng tộc,
ngôn ngữ, văn hóa chưa chung lời góp tiếng.
Felici Rainoldi : La Maison- Dieu, số 145, năm 1981)
(Bản dịch của LM An-rê Đỗ xuân Quế, O.P.
SỐNG CHỨNG NHÂN
Thứ hai ngày 13-3-1995, cụ già Franciszek Gajowniczek trút hơi thở cuối cùng tại Brezeg, miền Nam nước Ba Lan, hưởng thọ 94 tuổi. Cụ là người được Cha thánh Massimiliano-Maria Kolbe (1894-1941) thế mạng để cứu sống trong thời thế chiến thứ hai 1939-1945. Câu chuyện xảy ra như sau.
Một ngày cuối tháng 7 năm 1941, nơi khu 14 của trại tù đức-quốc-xã ở Auschwitz, bên Ba Lan, một tù nhân trốn khỏi trại. Theo luật trại: ”Cứ một tù nhân vượt ngục, thì 10 tù nhân khác cùng khu phải chết thay”. 10 tù nhân này sẽ bị đưa vào hầm và bị bỏ đói đến chết.
10 tù nhân trong khu 14 bị gọi tên ”đền mạng”. Trong bầu khí im lặng hãi hùng, một tiếng khóc thất vọng não nề vang lên:
- Chúa ơi, con không bao giờ còn được trông thấy mặt vợ hiền và các con của con nữa!
Tức khắc, trong đám tù nhân khu 14, một tù nhân rời khỏi hàng ngũ, tiến về phía viên chỉ huy người Đức tên Fritsch. Fritsch giơ cao họng súng vừa đe dọa vừa quát lớn:
- Đứng lại! Ông muốn gì?
- Tù nhân thưa:
- - Tôi muốn chết thay cho một trong các tù nhân bị kết án tử này!
-
Viên chỉ huy Đức kinh ngạc hất hàm hỏi:
-
- Tại sao?
Vị tù nhân vừa giơ tay chỉ vào người đàn ông khóc lóc thảm thiết ban nãy vừa trả
lời:
- Bởi vì tôi độc thân, còn ông ta lập gia đình và có con cái!
Viên chỉ huy người Đức hỏi thêm:
- Ông là ai?
Tù nhân trả lời:
- Tôi là Linh Mục Công Giáo!
Mọi người im lặng nín thở. Viên chỉ huy Đức thật sự sững sờ, lúng túng. Ông
tránh vội cái nhìn như bốc cháy ngọn lửa tình yêu của vị Linh Mục Công Giáo. Ông
đáp cộc cốc:
- Được!
-
Vị Linh Mục Công Giáo đó chính là Cha Massimiliano-Maria Kolbe, dòng Phanxicô
Viện-Tu, người Ba Lan.
-
Cha Kolbe còn là vị tông đồ nhiệt thành truyền bá lòng sùng kính Đức Nữ Trinh
Rất Thánh MARIA, Vô Nhiễm Nguyên Tội và Vẹn Tuyền Chí Thánh. Lúc sinh thời, có
lần Cha Kolbe nói tiên tri:
- Sẽ có một ngày quý vị trông thấy bức tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm đứng giữa trung tâm thủ đô Moscou, trên tường thành cao nhất của điện Cẩm Linh.
Khi tắt thở ngày 14-8-1941, Cha Massimiliano-Maria Kolbe hưởng dương 47 tuổi và là tù nhân với ký số 16.670. Tù nhân được Cha Kolbe hiến mạng chết thay là trung sĩ Franciszek Gajowniczek - tù nhân dưới ký số 5.659 - năm ấy đúng 40 tuổi, có vợ và hai con.
Ông Franciszek Gajowniczek sống sót, mặc dù phải chịu không biết bao nhiêu khốn cực của trại tập trung Auschwitz. Khi chiến tranh chấm dứt, ông trở lại gia đình, nhưng chỉ gặp được vợ hiền. Hai đứa con tử thương trong thời chiến.
Năm 1948, khi bắt đầu mở án phong chân phước cho Cha Massimiliano-Maria Kolbe - tử đạo vì tình yêu - thì ông Franciszek Gajowniczek là một trong những nhân chứng hùng hồn nhất.
Ngày 17-10-1971, ông Franciszek Gajowniczek được diễm phúc tham dự Thánh Lễ tôn phong chân phước cho Cha Massimiliano-Maria Kolbe. 11 năm sau, Chúa nhật 10-10-1982, ông lại được hồng ân tham dự Thánh Lễ nâng Cha Massimiliano-Maria Kolbe lên hàng hiển thánh. Cha Kolbe là vị Linh Mục Công Giáo hiến mạng sống chết thay một người Cha gia đình.
Cụ già Franciszek Gajowniczek tận hưởng món quà sự sống Cha Massimiliano-Maria Kolbe trao tặng trong vòng 54 năm trời. Suốt trong vòng nửa thế kỷ, hằng năm cứ vào hai ngày 14 và 15 tháng 8, cụ Gajowniczek đều đặn đến tham dự Thánh Lễ tại Niepokalanow. Đây là thành phố nơi Cha thánh Kolbe khởi xướng phong trào ”Vô Nhiễm” - từ năm 1927 - chuyên cổ động việc sùng kính Đức Mẹ MARIA và loan báo Tin Mừng.
Ngày 15-3-1995, cụ Franciszek Gajowniczek được an táng nơi nghĩa trang trong tu viện Phanxicô Viện-Tu ở Niepokalanow, theo lời xin của cụ. Nơi nghĩa trang này có mộ của Cha Alfonso Kolbe, bào huynh Cha Massimiliano-Maria Kolbe cũng như có ”ngôi mộ tượng trưng”, tưởng nhớ Cha thánh Massimiliano-Maria Kolbe.
... ”Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy .. Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Gioan 15,9+12-13).
(Radio Giornale 14-3-1995)
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH
Mâu thuẫn trong cách nuôi dạy con cháu giữa ông bà và cha mẹ có thể khiến bé "hư" và biết tìm kiếm đồng minh bênh vực mình. Dưới đây là một số gợi ý nên và không nên dành mà ông bà nội ngoại có thể tham khảo.
Nên
1. "Cháu có thể chọn làm việc này hoặc việc kia"
Bất cứ khi nào có thể, ông bà nên cho các cháu có quyền lựa chọn.
"Cháu uống sữa socola hay sữa vani?"
"Cháu muốn ăn táo hay cam sau khi ăn cơm xong?"
Nếu ông bà cho cháu lựa chọn, các cháu sẽ biết đưa ra quyết định và có cơ hội cảm thấy mình có quyền. Các cháu sẽ tự hào về bản thân và giảm bớt các tật xấu.
2. "Cháu có thể có lựa chọn khác."
Nếu cháu cư xử khiến ông bà khó chịu, ông bà tránh mắng mỏ hoặc thay đổi hành vi của cháu trực tiếp. Với thái độ tôn trọng cháu, các cháu sẽ thay đổi và không khăng khăng làm theo ý mình.
"Cháu đừng đánh bà. Cháu có thể chọn cách khác để thể hiện tức giận."
"Chúng ta không đi giầy dép lên ghế. Cháu hãy chọn cách khác."
3. "Chúng ta đang gặp rắc rối. Ai sẽ giúp ông, bà nào?"
Ông bà sẽ gặp phải trường hợp cháu đổ sữa ra nền nhà. Lúc đó, ông bà có thể khuyến khích các cháu giúp đỡ mình dọn dẹp chỗ sữa đổ. "Chúng ta đang gặp rắc rối. Ai sẽ giúp ông, bà nào?"
Bằng cách kêu gọi trẻ giúp đỡ, các cháu sẽ hứng thú cùng tham gia giải quyết hậu quả do hành vi của trẻ gây ra.
4. "Cháu lải nhải với ông, bà không có tác dụng đâu."
Các em bé đôi lúc sẽ lải nhải, mè nheo ông bà, nhất là khi các cháu ở lứa tuổi: 2, 3, 8, 13, 19 và tất cả các lứa tuổi khác.
Khi cháu lải nhải, ông bà có thể nói với cháu "Cháu lải nhải như vậy không có tác dụng với ông bà đâu. Cháu hãy nói với ông, bà bằng giọng bình thường. Nếu khi nào cháu nói bình thường, cháu sẽ nhận được thứ mà cháu muốn."
Các cháu có thể sẽ thử phản ứng của ông bà xem những lời ông bà nói vừa rồi có đúng không. Nếu ông bà nản lòng mà chiều theo ý cháu khi cháu lải nhải, các cháu sẽ tiếp tục lải nhải vào lần sau. Nếu ông bà không thay đổi ý định sau khi nói, các cháu sẽ tự ngưng lải nhải.
5. "Ông bà yêu cháu, nhưng ông bà không thích cách cư xử của cháu"
Các cháu có thể sẽ có những cách cư xử không phù hợp, và ông bà cũng không thể bỏ quan cách cư xử đó được. Trong trường hợp này, ông bà có thể nói với cháu: "Ông bà yêu cháu, nhưng ông bà không thích cách cư xử của cháu."
Không nên
1. "Cháu đừng kể lại với bố mẹ cháu nhé"
"Ông bà mua kẹo cho cháu, cháu đừng kể với bố/mẹ cháu nhé"
"Đừng nói với bố cháu rằng ông bà đã cho cháu xem chương trình ti vi này nhé."
Khi ông bà nói vậy, ông bà đã dạy cháu nói dối, và các cháu biết rằng nói đối cha mẹ là việc làm có thể chấp nhận được.
2. "Không có bạn gái nào nghịch bẩn như cháu cả"
Cháu gái nghịch ngợm, dây bẩn ra quần áo không khác gì cháu trai. Nếu ông bà so sánh cháu gái như vậy, tức là ông bà coi cháu gái phải giữ sạch, không được khám phá những điều mới mẻ. Ông bà nên khuyến khích cả cháu trai lẫn cháu gái khám phá xung quanh.
3. "Con trai không khóc nhè"
Cháu trai cũng được quyền khóc khi cháu cảm thấy buồn, nuối tiếc. Ông bà không nên khiến cháu phải kìm nén cảm xúc của mình.
4. "Cháu để đấy ông bà làm hộ cho"
Nếu ông bà làm hộ cháu, cháu sẽ không muốn tự mình làm gì và hình thành thói quen ỷ lại vào người khác.
5. "Cháu làm việc đó thật là xấu hổ"
Làm cháu xấu hổ đôi khi sẽ khiến cháu làm theo những thứ mà chúng ta muốn. Nhưng cháu sẽ cảm thấy mình là người không tốt, không có giá trị. Trẻ sẽ tin rằng mình thật đáng xấu hổ và sẽ hành động như những gì trẻ tin.
Nguồn: Parentstalk
Written by Chick Moorman
Biên dịch: Ngô Thị Thu Hiền
Theo Web site www.lamchame.com
A. TƯƠNG QUAN VỚI CÁC NỮ TU
Có một vài giáo xứ, dù cha sở muốn hay không, thì cộng đoàn của các nữ tu đã
hiện diện rất lâu trong giáo xứ của các ngài, có những cộng đoàn nữ tu được
thành lập rất lâu từ khi hình thành giáo xứ, hoặc sau khi giáo xứ được thành
lập, có những cộng đoàn nữ tu có bề dày kinh nghiệm hoạt động tông đồ trong giáo
xứ, và có các nữ tu hiểu biết từng giáo dân trong họ đạo hơn cả cha sở, đó chính
là những “thợ truyền giáo” trợ thủ rất đắc lực của cha sở, và là những mẫu gương
sống động truyền bá ơn thiên triệu cho lớp trẻ trong giáo xứ.
Dù sự hiện diện của cộng đoàn nữ tu trong giáo xứ đã lâu hay mới bắt đầu, ngoài
những gì giáo luật quy định, thì linh mục chánh xứ đều có bổn phận xây dựng tình
liên đới với họ, không phải như chủ nhà với khách, không phải như ông chủ với
người làm công, nhưng như là người cha trong gia đình và như người mục tử tốt
lành giữa đoàn chiên.
1. Tinh thần liên đới.
Hơn ai hết, cha sở hiểu rất rõ về chân giá trị đời tận hiến của các tu sĩ nam
nữ, bởi vì chính ngài cũng là một người đang sống đời tận hiến trong thiên chức
linh mục, chính ngài là người trước tiên cần phải bày tỏ lòng yêu mến và sự
ngưỡng mộ chân thành của mình đối với các nữ tu đang tích cực phục vụ trong giáo
xứ của mình; chính cha sở là người cần phải bày tỏ ra tình liên đới với các tu
sĩ, nhất là các nữ tu, và cám ơn các dòng tu đã sai phái các nữ tu đến phục vụ
trong giáo xứ của mình, bởi vì sự dấn thân phục vụ cách vô vị lợi của các nữ tu,
đã là một chứng minh hùng hồn rằng Thiên Chúa đang hiện diện giữa loài người, và
không cần phân tích giải nghĩa, thì ai cũng biết chính ơn thiên triệu đã làm cho
cha sở và các nữ tu đang phục vụ trong giáo xứ của mình, có một mối tương quan
rất đặc biệt, đó chính là sự tương quan tinh thần giữa đức ái và ơn gọi phục vụ
dân Thiên Chúa, qua việc tận hiến và giữ luật độc thân của mình và các lời
khuyên Phúc Âm của các nữ tu.
Tinh thần liên đới giữa cha sở và các nữ tu trong giáo xứ -có thể nói- là một
bức tranh truyền giáo đẹp do chính cha sở vẽ ra, ngài vẽ xấu thì bức tranh sẽ
không được đẹp, nhưng nếu ngài là một mục tử tốt lành thì ngài vẽ bức tranh này
sẽ rất đẹp, và trở thành gương mẫu giáo huấn cho giáo dân của mình.
a. Tình liên đới Đức Ái.
Chỉ có đức ái của Chúa Giê-su mới liên kết mọi người lại với nhau, bởi vì
“tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất” (1 Cr 12, 13b),
Thần Khí duy nhất này đang hoạt động nơi mỗi người trong giáo xứ, bắt đầu từ cha
sở, các tu sĩ đang hoạt động trong giáo xứ -nhất là các nữ tu-cho đến người giáo
dân nhỏ nhất.
Tình liên đới của cha sở đối với các nữ tu trong giáo xứ của mình, là một tình
cảm thiêng liêng được đức ái của Chúa Giê-su thánh hóa toàn vẹn trên cha sở với
cương vị là mục tử của đàn chiên, là người cha nhân hậu của đại gia đình giáo
xứ. Đức ái này của cha sở được bày tỏ qua sự quan tâm của ngài với các sinh hoạt
mục vụ của các nữ tu trong giáo xứ, cũng như nhìn xem cuộc sống chung của cộng
đoàn với những khó khăn nào để giúp đỡ giải quyết, bởi vì chính những quan tâm
này, làm cho cha sở càng trở nên người cha chung của tất cả mọi người trong giáo
xứ của mình hơn.
Có một vài cha sở không mấy “mặn nồng” với cộng đoàn nữ tu đang phục vụ trong
giáo xứ của mình, chính các ngài đôi lúc coi các nữ tu như là một giáo dân bình
thường, nghĩa là muốn la mắng là la mắng, muốn chửi là chửi, muốn gõ đầu là gõ
đầu, mà ngay cả một giáo dân bình thường các ngài cũng không được phép làm như
thế, thì huống gì là một nữ tu, là người đã tận hiến đời mình cho Thiên Chúa, và
chiếu theo giáo luật thì các tu sĩ nam nữ là “hàng ngũ của những người tuyên
giữ các lời khuyên Phúc Âm trong các hội dòng tận hiến, thuộc về sức sống và sự
thánh thiện của Giáo Hội, do đó cần được hết mọi người trong Giáo Hội nâng đỡ và
cổ võ” (1) , đó chính là nguyên nhân để các tu sĩ được mọi người tôn trọng,
bởi vì nhân cách và đời tận hiến của họ đáng được như thế, dù cho họ là tu sĩ
của hội dòng hay tu sĩ của các tu hội đời đang hoạt động phục vụ giữa xã hội, họ
đều đáng được mọi người tôn trọng.
Chính những thái độ lạnh nhạt thờ ơ với các nữ tu này của cha sở, mà làm cho
giáo dân không còn nhìn cha sở như một người cha nhân từ hay như một mục tử tốt
lành nữa, bởi vì, theo quan niệm của giáo dân: các nữ tu cũng là những người
dâng mình làm tôi tớ Chúa như các linh mục, thì họ cũng muốn cha sở tôn trọng
các nữ tu, như họ tôn trọng cha sở là những người của Thiên Chúa vậy.
Liên đới trong đức ái giữa cha sở và các nữ tu trong giáo xứ của mình, chính là
–trước hết- bày tỏ sự hiệp nhất “giữa những người được thánh hiến” trong Giáo
Hội nhờ “Chúa Giê-su, Đấng đã được Chúa Cha thánh hóa và sai xuống trần gian
(Ga 10, 36) và đã được Chúa Thánh Thần xức dầu, để trong Người mà mọi tín
hữu trở thành một thân thể mầu nhiệm duy nhất là Hội Thánh Công Giáo, và-sau
nữa- là dấu chỉ hiệp nhất giữa các giáo hữu trong giáo xứ lại với nhau, để các
nữ tu đang phục vụ trong giáo xứ, không còn cảm thấy mình như là người đến “làm
thuê” trong giáo xứ, nhưng là như một thành viên đặc biệt trong giáo xứ mà mình
phục vụ.
Thánh công đồng Vatican II dạy rằng: “Chính thừa tác vụ của các ngài (linh
mục), vì mang một danh nghĩa đặc biệt, nên đòi buộc các ngài không được theo
thói thế gian” (2) , nghĩa là cách sống của các ngài phải tỏa sáng tinh thần
bác ái của Chúa Giê-su trong cuộc sống của mình hơn những người khác, nhất là
tinh thần bác ái được các ngài thực hiện trong giáo xứ, nơi mà các ngài được
phái đến để tiếp tục thực hiện tình yêu của Chúa Giê-su và loan truyền Phúc Âm
Nước Trời cho mọi người. Do đó, mà khi đến một giáo xứ nào, cha sở nên đi thăm
hỏi các cộng đoàn tu sĩ đang hoạt động trong giáo xứ của mình, để tạo bầu khí
quen thân và để hiểu rõ cuộc sống của họ mà giúp đỡ và khuyến khích, để họ không
cảm thấy cô đơn nơi giáo xứ mà họ đang phục vụ.
Tình liên đới bác ái của cha sở đối với các nữ tu trong giáo xứ của mình, giống
như tình liên đới của Chúa Giê-su với các phụ nữ thành Giê-ru-sa-lem (Lc 23,
27-32), và các phụ nữ đi theo phục vụ Ngài và các tông đồ (Lc 8, 1-3). Chính đức
ái của Chúa Giê-su đã tỏa sáng hợp với lời Ngài giảng dạy, đã làm cho các phụ nữ
này trở lại cuộc sống mới, và tình nguyện phục vụ Ngài và các tông đồ trong công
cuộc truyền giáo của Ngài.
Thánh Phao-lô tông đồ đã khuyên bảo đệ tử của mình là ông Ti-mô-thê như sau:
“Đừng nặng lời với cụ già, nhưng khi khuyên nhủ hãy coi cụ như cha; hãy coi các
thanh niên như anh em, các bà cụ như mẹ, các thiếu nữ như chị em, với tấm lòng
hoàn toàn trong sạch”(1 Tm 5, 1).
(còn tiếp)
----------------------------------
(1) Giáo luật, điều 574. 1.
(2) Công đồng Vat. II “Sắc lệnh về chức vụ và đời sống các linh mục”, chương 1,
3.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.