“Cái tương quan giữa đề tài ‘Thiên Chúa’ với đề tài ‘hòa bình’

là một khía cạnh quyết liệt của 4 chuyến Tông Du của tôi trong năm nay”

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI Thẩm Định về Giáo Triều của ngài trong Năm 2006

với Giáo Triều Rôma dịp áp Lễ Chúa Giáng Sinh ngày Thứ Sáu 22/12/2006

 

 

Thưa Chư Vị Hồng Y,

Quí Huynh Khả Kính trong Hàng Giáo Phẩm và Linh Mục, Quí Huynh Thân Mến,

 

Hôm nay tôi hết sức hân hoan được gặp gỡ quí huynh và gửi lời chào thân ái tới từng huynh. Tôi xin cám ơn chư huynh đã hiện diện trong cuộc gặp gỡ truyền thống gần ngày Giáng Sinh này. Tôi đặc biệt cám ơn ĐHY Angelo Sodano về những lời lẽ được ngài bày tỏ cảm tình của hết mọi người ở đây,  những lời được tác động bởi đề tài chính của Thông Điệp Thiên Chúa là Tình Yêu. Vào dịp quan trọng này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn của mình một lần nữa với ngài về việc ngài giúp đỡ Giáo Hoàng và Tòa Thánh được ngài thi hành rất nhiều năm với tư cách là Quốc Vụ Khanh, và tôi xin Chúa thưởng công cho ngài về những điều tốt đẹp ngài đã thực hiện một cách khôn ngoan và nhiệt tình cho sứ vụ của Giáo Hội. 

 

Đồng thời tôi cũng muốn đặc biệt gửi lời chào tới ĐHY Tarcisio Bertone mới đảm trách nhiệm vụ được tôi ủy thác cho ngài. Tôi hoan hỉ gửi gấm những cảm tình này tới tất cả những ai tham gia vào việc phục vụ của Giáo Triều Rôma hay của Bộ Quản Trị năm nay, đồng thời chúng ta cũng cảm mến và tri ân tưởng nhớ tới những ai đã được Chúa gọi ra khỏi đời này về với Ngài.

 

Một năm đang đi đến  chỗ kết thúc, thưa Đức Hồng Y, như huynh đã nói, đang sống động trong ký ức của chúng ta; ghi đậm nét trên nó là những thứ kinh hoàng của chiến tranh gần Thánh Địa cũng như mối nguy hiểm chung về một cuộc đụng độ giữa các nền văn hóa và tôn giáo – một mối nguy hiểm đang rùng rợn lơ lửng trên thời đại lịch sử của chún g ta đây.

 

Vấn đề của những đường lối hướng tới hòa bình bởi thế đã trở thành một thách đố có một tầm vóc quan trọng chính yếu đối với tất cả mọi người còn quan tâm tới nhân loại. Điều này đặc biệt xác đáng đối với Giáo Hội là nơi chất chứa những gì là hứa hẹn từ ban đầu song đồng thời cũng là một trách nhiệm và là tác vụ nữa: ‘Vinh danh Chúa cả trên trời, bình an dưới thế cho người Ngài thương’ (Lk 2:14).

 

Lời chào của Thiên Thần ngỏ cùng các mục đồng vào đêm Chúa Kitô giáng sinh ở Bêlem cho thấy một cái gì gắn liền bất khả phân ly nơi mối liên hệ của con người nam nữ với Thiên Chúa cũng như những mối liên hệ giữa họ với nhau. 

 

Bình an dưới thế không thể nào có nếu không biết hòa giải với Thiên Chúa, nếu không có sự hòa hợp giữa Trời và đất.

 

Chuyến Tông Du Balan: Một Cảm Nghiệm Về Công Giáo Tính

 

Cái tương quan giữa đề tài ‘Thiên Chúa’ với đề tài ‘hòa bình’ là một khía cạnh quyết liệt của 4 chuyến Tông Du của tôi trong năm nay: tôi xin ôn lại chúng nơi đây. Trước hết là chuyến Tông Du Balan, một Xứ Sở là quê quán của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thân yêu của chúng ta. Đối với tôi, chuyến đi tới Quê Hương của ngài này là một nhiệm vụ sâu xa của lòng tri ân về tất cả những gì ngài đã cống hiến cho riêng cá nhân tôi, nhất là cho Giáo Hội và thế giới trong một phần tư thế kỷ phục vụ của ngài.

 

Tặng ân cao cả nhất của ngài trao gửi đến tất cả chúng ta đó là đức tin kiên cường của ngài và tính cách tâä tuyệt dấn thân của ngài. Khẩu hiệu của ngài là ‘totus tuus’. Nó phản ảnh toàn thể con người của ngài. Phải, ngài đã hiến thân dứt khoát cho Thiên Chúa, cho Chúa Kitô, cho Mẹ của Chúa Kitô, cho Giáo Hội: cho việc phục vụ Đấng Cứu Chuộc cũng như cho việc cứu chuộc của con người. Ngài đã không giữ lại một sự gì. Ngài đã để cho ngọn lửa đức tin nung nấu tận thâm cung của ngài. Ngài đã tỏ cho chúng ta thấy được cách thức làm thế nào con người ngày nay có thể tin tưởng vào Thiên Chúa, vào Vị Thiên Chúa hằng sống đã đến gần với c hung ta nơi Chúa Kitô. Ngài đã tỏ cho chúng ta thấy rằng việc dứt khoát và hoàn toàn cống hiện tất cả cuộc sống của mình là những gì khả dĩ, và chính vì ban tặng chính mình mà cuộc đời trở thành cao cả, bao la và phong phú.

 

Ở Balan, hết mọi nơi tôi đến tôi đều gặp thấy được niềm vui của niềm tin. ‘Niềm vui của Chúa là sức mạnh của các người’ – lời này vang lên giữa tình trạng khốn khổ của cái khởi đầu mới, được tư tế Ezrangỏ c ùng Dân Do Thái vừa mới trở về từ chốn lưu đầy (Neh 8:10), là những gì có thể nghiệm cảm thấy một cách tỏ tường ở đó. Tôi hết sức cảm kích trước mối thịnh tình dồi dào qua việc tôi được tiếp đón ở khắp mọi nơi. Dân chúng thấy nơi tôi là một Vị Thừa Kế Thánh Phêrô được ký thác cho thừa tác mục vụ đối với toàn thể Giáo Hội.

 

Họ đã thấy một người, bất chấp mọi thứ yếu hèn của loài người, được Chúa Kitô Phục Sinh nói với bấy giờ cũng như hiện nay rằng: ‘Hãy chăn các chiên của Thày’ (x Jn 21:15-19); họ đã thấy Vị Thừa Kế của một con người được Chúa Giêsu nói ở địa hạt Caesarea Philippi ‘con là Đá và trên đá này Thày sẽ xây Giáo Hội của Thày’ (Mt 16:18). Về phần mình, Phêrô không phải là một tảng đá; ngài là một con người yếu đuối và bấp bênh. Tuy nhiên, Chúa muốn làm cho chính Phêrô thành một tảng đá, để chứng tỏ rằng qua một con người yếu hèn mà chính Người mạnh mẽ nâng đỡ Giáo Hội và giữ cho Giáo Hội được hiệp nhất.

 

Bởi thế mà cuoôc viếng thăm Balan đối với tôi là một cuộc cử hành tính cách công giáo ở một ý nghĩa sâu đậm nhất. Chúa Kitô là hòa bình của chúng ta và tái kết những gì tách biệt, ở chỗ, Người là sự hòa giải vượt trên và ở trên tất cả những gì là khác biệt nơi những giai đoạn lịch sử và các nền văn hóa. Qua Thứa Tác Vụ Thánh Phêrô, chúng ta cảm nghiệm thấy mãnh lực hiệp nhất này của đức tin, một mãnh lực, bắt đầu từ nhiều dân nước hằng mới mẻ, xây dựng nên một Dân Thiên Chúa duy nhất. Chúng ta thực sự hân hoan cảm nghiệm thấy rằng chúng ta từ nhiều dân tộc khác nhau làm nên một Dân Chúa duy nhất, đó là Hội Thánh của Người.

 

Vì lý do này Thừa Tác Vụ Thánh Phêrô có thể trở thành một dấu hiệu hữu hình bảo đảm mối hiệp nhất này và hình thành một đơn vị cụ thể. Một lần nữa, tôi xin minh nhiên hết lòng cám ơn Giáo Hội ở Balan về cảm nghiệm cảm kích tính cách công giáo này.

 

Cuộc viếng thăm của tôi tới Balan bao gồm cả việc ghé thăm Auschwitz-Birkenau, thăm một chốn dã man tàn bạo nhất, một nỗ lực muốn tiêu diện Dân Do Thái, nhờ đó làm cho việc Thiên Chúa tuyển chọn họ trở thành vô bổ mà thực sự là muốn loại trừ đi chính Thiên Chúa cho khỏi lịch sử loài người.

 

Thật là một nguồn an ủi lớn lao cho tôi ở vào lúc thấy được một cầu vồng xuất hiện trên bầu trời, khi tôi, đứng trước những kinh hoàng của nơi chốn ấy, đã kêu lên cùng Thiên Chúa như ông Gióp, một con người bị rúng động trước nỗi hãi sợ về sự vắng mặt rõ ràng của Ngài nhưng đồng thời lại được hỗ trợ bởi niềm tin tưởng rằng thậm chí ngay trong lúc câm nín của mình, Ngài vẫn không thôi ở với chúng ta. Cái cồng vồng ấy thực sự là một đáp ứng: Phải, Ta hiện hữu đây, và những lời hứa hẹn, những lời Giao Ước  Ta đã phán sau trận hồng thủy vẫn còn hiệu năng cho tới nay (x Gen 9:12-17).

 

Chuyến Tông Du Valencia Tây Ban Nha: Một Cuộc Tra Vấn Về Ý Nghĩa Con Người

 

Chuyến Viếng Thăm Valencia, Tây Ban Nha, theo chiều hướng của đề tài về hôn nhân và gia đình. Thật là tuyệt vời được lắng nghe, trước dân chúng qui tụ lại từ tất cả mọi châu lục, những chứng từ của các đôi phối ngẫu – được chúc phúc bởi số đông con cái – những người đã đến với chúng ta và nói về cuộc hành trình riêng của họ sống Bí Tích Hôn Phối và sống trong một gia đình đông đảo của họ.

 

Họ không giấu diếm sự kiện là họ cũng gặp phải những ngày khó khăn, họ cũng trải qua những giai đoạn khủng hoảng. Tuy nhiên, chính nhờ nỗ lực hằng ngày hỗ trợ nhau, chính nhờ việc chấp nhận nhau hằng được đổi mới nơi những cuộc thử thách gắt gao hằng ngày, bằng việc sống và chịu đựng hoàn toàn trung thành với sự ‘chấp nhận’ ban đầu của họ, chính vì con đường Phúc Âm ‘đánh mất bản thân mình’ này, mà họ đã trưởng thành, đã tái khám phá ra được chính mình và cảm thấy hạnh phúc. Việc họ ‘chấp nhận’ nhau một cách nhẫn nại trong cuộc hành trình ấy cũng như bằng sức mạnh của Bí Tích được Chúa Kitô dùng để thắt buộc họ lại với nhau, đã trở thành một việc ‘chấp nhận’ cao cả đối với chính họ, đối với con cái của họ, đối với Thiên Chúa Hóa Công cũng như đối với Đấng Cứu Chuộc là Chúa Giêsu Kitô. Bởi đó, từ chứng từ của các gia đình ấy mà chúng ta cảm thấy được cả một triều sóng hân hoan, không phải là thứ hớn hở nông nỗi và nhỏ giọt chắng mấy chốc biến tan, mà là một niềm vui được phát triển trong khổ đau, một niềm vui thấu tận thâm tâm và thực sự cứu chuộc con người.

 

Trước những gia đình ấy có cả con cái của họ, trước những gia đình có các thế hệ nắm tay nhau và tương lai hiện lộ ấy, vấn đề của Âu Châu, một Âu Châu dường như không còn muốn có con cái nữa, đã thẩm thấm vào linh hồn của tôi. Đối với thành phần bên ngoài thì Âu Châu này dường như là kiệt quệ, nó thật sự dường như muốn bỏ cuộc lịch sử. Tại sao lại xẩy ra những điều như thế chứ? Đây là một vấn nạn lớn. Những câu giải đáp chắc chắn là rất phức tạp. Trước khi tìm những câu trả lời, cần phải cám ơn đối với nhiều cặp vợ chồng ở Âu Châu của chúng ta vẫn còn ‘chấp nhận’ con cái ngày nay và chấp nhận những thử thách kèm theo, đó là những vấn đề về xã hội và tài chính, cùng với những lo toan và tranh đấu, từ ngày này sang ngày khác; việc dấn thân đòi phải cung cấp cho con cái những gì cần thiết để tiến tới tương lai. Khi đề cập tới những khó khăn này thì có lẽ những lý do cũng trở nên rõ ràng hơn, cho thấy lý do tại sao nhiều người cảm thấy cái nguy cơ quá to tát trong việc có con cái.

 

Một đứa con cần đến sự yêu chiều chuyên chú. Điều này có nghĩa là chúng ta phải cống hiến cho con cái mình một số giờ giấc nào đó của chúng ta, thời giờ của đời sống chúng ta. Thế nhưng, chính cái ‘nguyên liệu’ này của đời sống – đó là thời gian – dường như lại trở thành khan hiếm hơn bao giờ hết. Thời gian thuận lợi cho chúng ta chỉ vừa đủ cho cuộc sống riêng của chúng ta; làm sao chúng ta có thể bỏ nó đi, cống hiến nó cho một ai khác chứ? Có thời giờ và cống hiến thời giờ – đối với chúng ta thì đây là một đường lối cụ thể nhất để học biết hiến thân mình, đánh mất bản thân mình để tìm thấy chính mình vậy.

 

Ngoài vấn đề ấy còn có cả một bài toán khó khăn nữa, đó là vấn đề chúng ta cần phải áp dụng những qui luật nào để bảo đảm rằng đứa con của chúng ta đi theo đường ngay nẻo chính, và khi thực hiện như thế, làm thế nào chúng ta cần phải tỏ ra tôn trọng tự do của nó đây? Vấn đề này cũng trở thành rất khó khăn, vì chúng ta không còn nắm vững được những qui chuẩn trong việc truyền đạt; vì chúng ta không còn biết thế nào là sử dụng đúng đắn tự do, thế nào là đường lối đúng đắn để sống, thế nào là tính cách xác thực về luân lý, và trái lại thì đâu là những gì bất khả chấp.

 

Tinh thần tân tiến đã mất đi sức chịu đựng của mình, và việc thiếu sức chịu đựng này là những gì cản trở chúng ta trở thành những kẻ chỉ vẽ đường ngay nẻo chính cho người khác. Thật thế, vấn đề này còn sâu xa hơn nữa kìa. Con người đương thời cảm thấy bất ổn về tương lai. Có được phép hay chăng trong việc tung một con người nào đó vào một tương lai bất định? Tức phải chăng là một điều tốt khi trở thành một con người? Tình trạng thiếu tự tin sâu xa này – cộng với ước muốn có được trọn cuộc sống cho riêng mình – có lẽ là lý do sâu xa cho thấy lý do tại sao cái nguy cơ có con cái đối với nhiều người là những gì bất khả chấp nhất. Thật thế, chúng ta có thể truyền đạt sự sống một cách hữu trách, nếu chúng ta có thể truyền đạt một cái gì đó ngoài chính sự sống thuần sinh lý, và cái đó là một thứ ý nghĩa có thể thắng vượt ngay cả trong những cuộc khủng hoảng sẽ xẩy ra trong lịch sử, và là một lòng tin tưởng nơi niềm hy vọng mạnh hơn những đám mây mù che phủ tương lai.

 

Trừ phi chúng ta học biết một cách mới mẻ những nền tảng của cuộc sống – trừ phi chúng ta khám phá một cách mới mẻ cái chân thực của đức tin –  bằng không chúng ta càng ngày càng ít có thể trao tặng cho kẻ khác tặng ân sự sống và công việc của một tương lai bất định.

 

Sau hết, liên quan tới vấn đề này còn là vấn đề về những quyết định tối hậu, đó là con người có thể bó buộc mình mãi mãi hay chăng? Họ có thể nào tỏ ra ‘chấp nhận’ cả cuộc đời của mình hay chăng? Phải, họ có thể chứ. Họ đã được dựng nên cho điều ấy mà. Chính vì thế mới có tự do của con người mà bởi vậy cái môi trường linh thánh của hôn nhân cũng mới được thiết lập và phát triển, trở thành một gia đình và xây dựng tương lai.

 

Tới đây, tôi không thể không nói lên mối quan tâm của tôi về việc hợp pháp hóa những cặp vợ chồng kiểu de facto. Nhiều cặp này đã chọn sống như thế, vì – ít là tạm thời – họ không cảm thấy có thể chấp nhận được việc chung sống hôn nhân theo pháp lý và bị bắt buộc. Bởi vậy mà họ thích sống trong trạng thái kiểu thuần de facto. Khi tạo nên những hình thức mới theo pháp lý làm tương đối hóa hôn nhân thì chính pháp luật cũng thực sự phủ nhận mối liên hệ vĩnh viễn của hôn nhân nữa.

 

Trong trường hợp này, việc quyết định đối với những ai đã từng cảm thấy hôn nhân không phải là chuyện dễ dàng gì thì lại càng trở thành những gì khó khăn hơn nữa. Bởi thế, đối với các thứ kiểu vợ chồng khác, còn có cả một cuộc tương đối hóa tính cách khác biệt về phái tính nữa.

 

Cuộc liên kết giữa một người nam và một người nữ là những gì đang được đặt ngang hàng với cuộc cặp đôi giữa hai con người đồng phái tính, và là những gì ngấm ngầm nói lên những việc làm này là những chủ trương sai lạc, ở chỗ chúng loại trừ đi khỏi con người tất cả tầm quan trọng của nam tính và nữ tính, như thể đó là một vấn đề thuộc yếu tố thuần sinh lý. 

 

Những lý thuyết như vậy là những gì chủ trương rằng con người – tức lý trí của họ và ước muốn của họ – muốn tự động quyết định những gì họ là hay những gì họ không là. Theo đó, tính chất thể lý bị khinh thường, kéo theo hậu quả là con người, trong việc tìm cách để được giải phóng khỏi thân xác của mình – khỏi ‘lãnh giới sinh lý’ – lại đang đi tới chỗ hủy hoại chính mình.

 

Nếu chúng ta bảo nhau rằng Giáo Hội không được can thiệp vào những vấn đề như thế, thì chúng ta không thể nào không trả lời những vấn nạn sau đây: phải chăng chúng ta không quan tâm tới con người hay sao? Các tín hữu, căn cứ vào nền văn hóa cao cả của tôn giáo mình, chẳng lẽ không có quyền thực hiện một công bố về tất cả những điều ấy hay sao? Phận sự của họ – của chúng ta – không phải là việc lên tiếng bênh vực con người, một tạo vật chính ở nơi mối hiệp nhất bất khả phân ly xác hồn, là hình ảnh của Thiên Chúa hay sao? Chuyến Viếng Thăm Valencia, đối với tôi, đã trở thành một cuộc tra vấn về ý nghĩa con người.

 

Chuyến Tông Du Bavaria Đức Quốc: “làm sáng tỏ vấn đề về ‘Thiên Chúa’”

 

Tâm trí chúng ta hãy chuyển tới Bavaria – Munich, Altotting, Regensburg và Freising. Ở đó, tôi đã được sống những ngày tuyệt vời không thể nào quên nổi trước việc gặp gỡ niềm tin và tín hữu nơi Quê Hương của tôi. Đề tài chính cho chuyến Hành Trình này của tôi đến Đức quốc là Thiên Chúa. Giáo Hội cần phải nói nhiều điều: về tất cả những vấn đề liên quan tới con người, về cấu trúc của mình và về đường lối của mình v.v. Thế nhưng, vấn đề thực sự của Giáo Hội – theo những khía cạnh khác nhau – cũng là vấn đề duy nhất của Giáo Hội đó là ‘Thiên Chúa’.

 

Ngoài ra, vấn đề lớn của Tây phương đó là vấn đề lãng quên Thiên Chúa. Tình trạng quên lãng này đang lan tràn. Tóm lại, tất cả mọi vấn đề riêng tư cá nhân, tôi tin rằng, đều có thể bắt nguồn từ vấn đề lớn lao ấy.

 

Bởi vậy, trong chuyến Hành Trình này, mục đích chính của tôi đó là làm sáng tỏ vấn đề về ‘Thiên Chúa’, đồng thời cũng chú ý tới sự kiện là tại một số phần đất ở Đức quốc, còn có đa số thành phần chưa lãnh nhận phép rửa cảm thấy Kitô Giáo và Vị Thiên Chúa của niềm tin dường như là những gì thuộc về quá khứ.

 

Khi nói về Thiên Chúa là chúng ta thực sự chạm tới một chủ đề được Chúa Giêsu tập trung trong việc giảng dạy trên trần gian của Người. Chủ đề chính yếu của việc giảng dạy này của Người đó là lãnh giới về Thiên Chúa, là ‘Vương Quốc của Thiên Chúa’. Điều này không có nghĩa là một cái gì đó sẽ qua đi vào một thời điểm nào đó ở một tương lai bất định. Nó cũng không có nghĩa là một thế giới tốt đẹp hơn được chúng ta tìm cách thiết dựng từ từ bằng khả năng riêng của mình. Trong cụm từ ‘Vương Quốc của Thiên Chúa’ thì chữ ‘Thiên Chúa’ ở thể sở hữu chủ cách. Tức Thiên Chúa không phải là một cái gì đó được thêm thắt vào ‘Vương Quốc’ là những gì người ta thậm chí có lẽ bỏ đi. 

 

Thiên Chúa là chủ thể. Vương Quốc của thiên Chúa thực sự nghĩa là việc Thiên Chúa hiển trị. Chính Ngài hiện diện và thiết yếu đối với con người trên thế giới này. Ngài là chủ thể, và bất cứ khi nào thiếu vắng chủ thể này thì sứ điệp của Chúa Giêsu chẳng còn gì hết.

 

Bởi thế Chúa Giêsu mới nói với chúng ta rằng Vương Quốc của thiên Chúa không đến như thể người ta có thể đứng thành hàng bên lề đường để nhìn thấy nó xuất hiện. ‘Vương Quốc của Thiên Chúa ở giữa các người!’ (x Lk 17:20ff).

 

Vương Quốc này trị đến bất cứ ở đâu ý muốn của Thiên Chúa được thể hiện. Vương Quốc ấy hiện diện ở bất cứ nơi nào cởi mở nghênh đón Ngài và để Ngài tiến vào trần gian. Bởi thế mà bản thân Chúa Giêsu là Vương Quốc của Thiên Chúa, vì Người là con người được Thiên Chúa dùng để ở giữa chúng ta và nhờ Người chúng ta có thể chạm tới Thiên Chúa, có thể đến gần Thiên Chúa. Điều này xẩy ra ở đâu thì thế giới được cứu ở đó.

 

Có hai đề tài nổi bật trong những ngày Viếng Thăm Bavaria của tôi. Chúng là những đề tài và đang là những đề tài liên quan tới đề tài về Thiên Chúa: ‘thiên chức linh mục’ và ‘việc đối thoại’. Thánh Phaolô đã gọi Timôthêu – và nơi Timothêu, vị Giám Mục và nói chung là linh mục – là ‘người của Thiên Chúa’ (1Tim 6:11). Công việc chính yếu của vị linh mục đó là mang Thiên Chúa đến cho con người nam nữ. Dĩ nhiên, vị linh mục chỉ có thể làm điều này nếu chính ngài đến từ Thiên Chúa, nếu ngài sống với và sống bởi Thiên Chúa. Điều này được diễn tả một cách tuyệt vời ở một câu trong bài Thánh Vịnh về linh mục mà chúng ta – thuộc thế hệ lão thành – đã nói lên trong lúc chúng ta gia nhập hàng giáo sĩ: ‘Chúa là phần gia nghiệp của tôi và là phần chén của tôi, Ngài nắm giữ vận mệnh của tôi’ (Ps 16[15]:5).

 

Vị linh mục nguyện cầu bằng bài Thánh Vịnh dẫn giải về đời của mình này theo chiều hướng phân chia đất đai như được ấn định trong Sách Nhị Luật (x 10:9). Sau khi chiếm hữu được Đất Hứa, hết mọi chi tộc được phân chia đất đai bằng cách bốc thăm phần đất ở Thánh Địa của mình, nhờ đó tham hưởng tặng ân được Thiên Chúa hứa ban cho tổ phụ Abraham.

 

Chỉ có chi tộc Levi là không có phần đất nào hết: đất của họ là chính Thiên Chúa. Điều ấn định này chắc chắn có một ý nghĩa hoàn toàn cụ thể. Các vị tư tế không sống như các chi tộc khác bằng việc cầy sới đất đai mà bằng những của dâng cúng. Tuy nhiên, điều ấn định này còn có tính cách sâu xa hơn nữa. Nền tảng thực sự của đời sống linh mục, cái căn nguyên cho việc hiện hữu của họ, cái gốc rễ cho cuộc đời của họ, là chính Thiên Chúa.

 

Giáo Hội, theo dẫn giải của Cựu Ước này về đời sống linh mục – một dẫn giải cũng xuất hiện một số lần nơi bài Thánh Vịnh 119[118] – đã thực sự thấy được nơi việc các Vị Tông Đồ theo Chúa Kitô, trong việc các vị hiệp thông với chính Chúa Giêsu, như là những gì cho thấy ý nghĩa của sứ vụ linh mục. Hôm nay đây vị linh mục có thể và cần phải nói cùng với thành phần Levi rằng: "Dominus pars hereditatis meae et calicis mei". Chính Chúa là phần đất của tôi, là nền tảng cả bên trong lẫn bên ngoài cho đời sống của tôi.

 

Tính cách thần trung này của đời sống linh mục thực sự là những gì cần thiết nơi thế giới hoàn toàn hướng động của chúng ta, một thế giới mà trong đó hết mọi sự đều được căn cứ vào việc thực hiện có tính cách đo đếm và ăn chắc. Vị linh mục thực sự cần phải biết Thiên Chúa từ bên trong, nhờ đó mang Ngài đến cho con người nam nữ: đó là dịch vụ chính yếu cần thiết cho nhân loại hiện đại. Nếu tính cách tâm điểm này của Thiên Chúa nơi đời sống của vị linh mục bị mất đi, thì từ từ lòng nhiệt thành nơi các hoạt động của ngài cũng bị mất. Trong một tình trạng thái quá về những gì ngoại tại thì cái tâm điểm, mang ý nghĩa lại cho hết mọi sự và dẫn những thứ ngoại tại ấy đến mối hiệp nhất, là những gì đang bị hụt hẫng. Ở đó, nền tảng của đời sống là ‘mảnh đất’ nâng đỡ tất cả mọi sự và làm phong phú mọi sự đang bị mất mát đi.

 

Đời sống độc thân, những gì buộc các vị Giám Mục phải giữ ở khắp Giáo Hội Đông Phương và Tây Phương, và theo một truyền thống ở vào giai đoạn gần thời điểm của các vị Tông Đồ, cũng buộc các vị linh mục nói chung thuộc Giáo Hội Latinh nữa, chỉ có thể hiểu được và sống nổi khi nó được đặt trên cấu trúc căn bản này.

 

Những lý do có tính cách thuần thực dụng, liên quan tới tính cách thuận lợi nhiều hơn, vẫn là những gì không đủ, vì cái thuận lợi nhiều hơn về thời gian ấy có thể dễ dàng trở thành một hình thức của chủ nghĩa vị kỷ, giúp cho con người tránh khỏi phải hy sinh cùng với những cố gắng cần phải có trong việc chấp nhận nhau và chịu đựng nơi đời sống hôn nhân; bởi thế, nó có thể dẫn tới một thứ bần cùng hóa về mặt thiêng liêng, hay tới chỗ chai cứng cõi lòng.

 

Nền tảng đích thật của cuộc sống độc thân có thể được chất chứa nơi cụm từ: Dominus pars – Chúa là phần đất của tôi. Nó chỉ có thể là những gì có tính cách thần trung. Nó không thể nào có nghĩa là bị hụt hẫng yêu thương, song thật sự có nghĩa là để cho mình được chiếm đạt bởi niềm khát khao Thiên Chúa, để sau đó, nhờ ở với Ngài một cách thân tình hơn, biết phục vụ con người nam nữ nữa. Đời sống độc thân cần phải là một chứng từ cho niềm tin: niềm tin  tưởng nơi Thiên Chúa được hiện thân nơi một lối sống chỉ có ý nghĩa nếu nó lấy Thiên Chúa làm nền tảng.

 

Xây dựng đời sống của mình trên nền tảng Thiên Chúa, bằng cách từ bỏ cuộc sống hôn nhân và gia đình, nghĩa là tôi chấp nhận và cảm thấy Thiên Chúa như là một thực tại, và bởi thế tôi có thể mang Ngài đến cho con người nam nữ. Thế giới của chúng ta, một thế giới đã trở thành hoàn toàn thực chứng, trong đó, Thiên Chúa cùng lắm chỉ là một thứ giả thuyết chứ không phải là một thực tại cụ thể, là một thế giới cần phải được xây dựng trên Thiên Chúa một cách cụ thể nhất và sâu xa nhất bao nhiêu có thể.

 

Thiên Chúa cần một thứ chứng từ về Thiên Chúa, một thứ chứng từ được chất chứa nơi quyết định đón nhận Thiên Chúa như là một mảnh đất là nơi người ta có thể tìm thấy cuộc sống riêng của mình. Vì lý do ấy, cuộc sống độc thân là những gì hết sức quan trọng cho ngày hôm nay đây, nơi thế giới hiện đại của chúng ta đây, cho dù việc giữ trọn nó trong thời đại của chúng ta đây liên lỉ trở thành những gì bị đe dọa và khúc mắc.

 

Cần phải thực hiện một cuộc sửa soạn thận trọng trong cuộc hành trình tiến đến mục tiêu ấy, cùng với việc kiên trì hướng dẫn của vị Giám Mục, của các thân hữu linh mục, và của giáo dân muốn duy trì chứng từ linh mục này. Chúng ta cần liên lỉ nguyện cầu cùng Thiên Chúa là Vị Thiên Chúa hằng sống, và cậy dựa vào Ngài trong những lúc bối rối cũng như trong những lúc hân hoan. Nhờ đó, ngược lại với khuynh hướng văn hóa đang tìm cách thuyết phục chúng ta rằng chúng ta không thể thực hiện được những quyết định như thế, chứng từ này là những gì có thể sống và nhờ đó, nó có thể phục hồi việc Thiên Chúa như là một thực tại trên thế giới của chúng ta.

 

Một chủ đề lớn khác liên quan tới đề tài về Thiên Chúa đó là chủ đề về vấn đề đối thoại. Cái vòng bên trong của vấn đề đối thoại phức tạp, mà ngày nay đòi tất cả mọi Kitô hữu phải thực hiện cuộc dấn thân chung cho mối hiệp nhất, là những gì đã trở nên sáng tỏ nơi các Buổi Kinh Tối Đại Kết ở Vương Cung Thánh Đường Regensburg, nơi mà, ngoài anh chị em thuộc Giáo Hội Công Giáo, tôi được gặp gỡ cả nhiều thân hữu thuộc Kitô Giáo Chính Thống và Tin Lành. Tất cả chúng tôi đã qui tụ lại để đọc Thánh Vịnh và lắng nghe Lời Chúa, và đó không phải là chuyện nhỏ khi chúng ta có được một buổi hiệp nhất lại như thế.

 

Cuộc gặp gỡ với Đại Học Đường đã được giành – như một địa điểm thích hợp - cho vấn đề đối thoại giữa đức tin và lý trí.

 

Trong dịp gặp gỡ giữa tôi với triết gia Jurgen Habermas ít năm trước đây ở Munich, ông ta đã nói rằng chúng ta cần đến các tư tưởng gia có thể chuyển dịch những niềm xác tín được mã hóa theo niềm tin Kitô Giáo thành ngôn từ của một thế giới bị tục hóa, để những niềm xác tín ấy có một ảnh hưởng mới mẻ.

 

Thật vậy, nhu cầu khẩn trương của thế giới về cuộc đối thoại giữa đức tin và lý trí càng ngày càng trở nên hiển nhiên hơn bao giờ hết.

 

Trong thời điểm của mình, Immanual Kant đã thấy được cái yếu tính của chủ nghĩa illuminism là những gì được diễn tả nơi cái được gọi là ‘sapere aude’, tức là cái dũng mạnh của tư tưởng không để mình bị lung túng trước bất cứ một thành kiến nào.

 

Bởi thế mà từ đó, khả năng tri thức của con người, khả năng chủ trị của họ trên vật chất bằng quyền lực của tư tưởng, đã thực hiện được một mức tiến bộ không thể nào ngờ vào lúc ấy.

 

Tuy nhiên, quyền năng mà con người đang có trong tay, một quyền năng đang được khoa học gia tăng, càng ngày càng trở thành nguy hiểm, đe dọa đến chính con người và thế giới nữa.

 

Lý trí hoàn toàn nhắm đến chỗ bắt nắm trong tay thế giới này, không còn biết tới giới hạn là gì nữa. Nó đã tiến tới chỗ đối xử với con người thuần túy như là một thứ vật chất được nó sản xuất ra và bằng quyền lực của nó.

 

Kiến thức của chúng ta đang tăng trưởng song đồng thời cũng đang xẩy ra tình trạng lý trí trở thành mù mịt nhiều hơn đối với những nền tảng của nó và các qui chuẩn hướng dẫn nó.

 

Khoa học cần phải chấp nhận niềm tin vào vị Thiên Chúa, Đấng tự mình là Lý Trí sáng tạo của vũ trụ này, một cách mới mẻ như là một thách đố và là một cơ hội.

 

Cũng thế, niềm tin này cần phải nhận ra một cách mới mẻ cái sâu xa nội tại của nó và tính cách hợp lý riêng của nó. Lý trí cần Lời là những gì có từ ban đầu và là ánh sáng của chúng ta. Về phần mình, đức tin cần đối thoại với lý trí tân tiến để cống hiến cái cao cả của mình, cũng như để đáp ứng những trách nhiệm riêng của nó. Và đó là những gì tôi đã tìm cách nhấn mạnh tới trong bài nói ở Regensburg. Nó là một vấn đề chắc chắn không phải chỉ thuần tính cách hàn lâm: nó nói tới tương lai của tất cả chúng ta.

 

Ở Regensburg, cuộc đối thoại giữa các tôn giáo là những gì chỉ mới được chạm tới sơ sơ vậy thôi, theo một chiều lưỡng kích. Lý trí bị tục hóa không thể nào tham dự vào một cuộc đối thoại thực sự với các tôn giáo. Nó vẫn cứ khép kín trước vấn đề về Thiên Chúa, và vì thế nó sẽ tiến đến tình trạng đụng độ giữa các nền văn hóa.

 

Chuyến Tông Du Thổ Nhĩ Kỳ: “để công khai bày tỏ niềm trân trọng của tôi đối với Đạo Hồi”

 

Một chiều kích khác liên quan tới niềm xác tín là các tôn giáo cần phải gặp gỡ nhau trong công việc chung là dấn thân phục vụ sự thật, nhờ đó phục vụ nhân loại. Chuyến Viếng Thăm Thổ Nhĩ Kỳ của tôi tạo cho tôi cơ hội để công khai bày tỏ niềm trân trọng của tôi đối với Đạo Hồi, một niềm trân trọng được Công Đồng Chung Vaticanô II (x Tuyên Ngôn ‘Nostra Aetate’, đoạn 3) vạch ra cho chúng ta thấy như là một thái độ xác đáng duy nhất. 

 

Ở đây, một lần nữa, tôi xin bày tỏ niềm tri ân của tôi với các vị Thẩm Quyền Thổ Nhĩ Kỳ cũng như với Nhân Dân Thổ Nhĩ Kỳ, những người đã đón tiếp tôi hết sức hiếu khách và cống hiến cho tôi những ngày gặp gỡ không thể nào quên được.

 

Trong một cuộc đối thoại cần gia tăng với Hồi Giáo, chúng ta phải chú ý tới sự kiện là thế giới tín đồ Hồi Giáo ngày nay đang cảm thấy phải đối diện với một công việc khẩn trương. Công việc này rất giống với công việc vẫn từng áp đặt lên Kitô hữu từ thời Minh Tri, và là công việc Công Đồng Chung Vaticanô II đã tìm thấy được những giải pháp thực sự, hoa trái của một cuộc nghiên cứu lâu dài và khó khăn, cho Giáo Hội Công Giáo.

 

Nó là vấn đề của thái độ mà cộng đồng tín hữu cần phải chấp nhận trước những niềm xác tín và những đòi hỏi từng là những gì được củng cố trong thời Minh Tri.

 

Một mặt, người ta cần phải đối đầu với một thứ độc đoán của thứ lý trí thực chứng loại trừ thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của cộng đồng cũng như ra khỏi những tổ chức công, từ đó làm cho con người bị hụt hẫng những qui tắc chuyên biệt của họ trong việc phán đoán nhận định.

 

Mặt khác, người ta cần phải hoan nghênh những thắng đoạt thực sự của thời Minh Tri, các thứ nhân quyền và đặc biệt là quyền tự do tin tưởng và thực hành niềm tin, và cần phải công nhận những sự ấy như là những yếu tố thiết yếu cho tính cách chân chính của tôn giáo.

 

Như trong cộng đồng Kitô Giáo, nơi đã từng là một cuộc tìm kiếm lâu dài để có được một chủ trương đứng đắn về đức tin liên quan tới các niềm tin tưởng như thế – một cuộc tìm kiếm chắc chắn sẽ không bao giờ được kết thúc một lần vĩnh viễn – thế nào, thì thế giới Hồi Giáo, theo truyền thống riêng của họ, cũng đang đối diện một công việc lớn lao trong vấn đề tìm được những giải pháp thích hợp về vấn đề này.

 

Nội dung của việc đối thoại giữa tín đồ Kitô Giáo và tín đồ Hồi Giáo vào lúc này đây sẽ là một cuộc đối thoại đặc biệt với nhau trong vấn đề quyết tâm này để tìm thấy những giải pháp xác đáng. Kitô hữu chúng ta cảm thấy liên kết với tất cả những ai, chính vì căn cứ vào nền tảng nơi những niềm xác tín của tôn giáo mình như các tín đồ Hồi Giáo, hoạt động chống lại bạo lực cũng như cho cuộc hợp lực giữa niềm lý và lý trí, giữa tôn giáo và tự do. Theo chiều hướng ấy thì hai cuộc đối thoại được tôi nói tới đây là những gì hòa nhập với nhau.

 

Sau hết, ở Istanbul, một lần nữa tôi đã có thể sống những giờ phút hân hoan của việc sát cận đại kết nơi cuộc tôi gặp gỡ với Đức Thượng Phụ Toàn Cầu Bartholomew I. Mấy ngày trước đây ngài đã viết cho tôi một bức thư gồm những lời lẽ tri ân xuất phát từ đáy lòng của ngài, đã là những gì nhắc nhở tôi một cách rất sống động cái cảm nghiệm hiệp thông trong những ngày ấy.

 

Chúng tôi cảm thấy chúng tôi là anh em, chẳng những dựa vào những ngôn từ và các biến cố lịch sử, mà còn từ thâm cung của linh hồn nữa; chúng tôi được liên kết bằng một niềm tin chung của các vị Tông Đồ hơn bao giờ hết, trong tư tưởng của chúng tôi cũng như trong cảm quan riêng tư của mình.

 

Chúng tôi đã cảm thấy được một mối hiệp nhất sâu xa trong đức tin, và chúng tôi vẫn cầu cùng Chúa thiết tha hơn nữa để Ngài mau ban tặng mối hiệp nhất trọn vẹn nơi việc cùng bẻ một Tấm Bánh.

 

Vào lúc này đây tôi xin gửi niềm tri ân sâu xa của tôi cùng với những lời nguyện cầu huynh đệ đến Thượng Phụ Bartholomew I và tín hữu của ngài, cũng như đến các cộng đồng Kitô hữu khác tôi đã được gặp ở Istanbul. Chúng ta hãy hy vọng và nguyện cầu để quyền tự do tôn giáo, một quyền tương xứng với bản chất sâu xa của đức tin và được công nhận theo nguyên tắc trong Bản Hiến Pháp Thổ Nhĩ Kỳ, được thể hiện nơi những hình thức pháp lý xứng hợp, cũng như nơi đời sống thường nhật của Tòa Thượng Phụ và nơi các cộng đồng Kitô hữu khác, mỗi ngày được trọn vẹn một cách cụ thể hơn.

 

‘Et erit iste pax’ – Người sẽ là hòa bình, Tiên Tri Micah nói về vị cai trị tương lai của dân Do Thái (5:4), vị được tiên tri loan báo rằng sẽ được hạ sinh ở Bêlem. Các Thần Trời đã nói cùng các mục tử đang trông coi đàn vật của mình trong các cánh đồng quanh Bêlem rằng: ‘bình an dưới thế giữa con người’, Đấng được đợi trông đã đến (Lk 2:14).

 

Chính Chúa Kitô đã nói cùng các môn đệ của mình rằng: ‘Thày để lại bình an cho các con; Thày ban bình an của Thày cho các con’ (Jn 14:27). Căn cứ vào những lời ấy mới có lời chào phụng vụ: ‘Bình an ở cùng anh chị em’.

 

Bình an được chuyền trao trong phụng vụ đây là chính Chúa Kitô. Người đã ban mình cho chúng ta như bình an, như việc hòa giải vượt lên trên tất cả mọi biên cương bờ cõi. Bất cứ nơi nào Người được đón nhận thì triển nở những hải đảo an bình. Nhân loại chúng ta đều muốn Chúa Kitô hủy hoại đi tất cả mọi thứ chiến tranh một lần vĩnh viễn, hủy diệt đi tất cả mọi thứ vũ khí và thiết lập bình an toàn cầu. Thế nhưng, chúng ta phải biết rằng bình an không thể đạt được từ bên ngoài bằng các thứ cơ cấu, và nỗ lực thiết lập nó bằng bạo lực là những gì chỉ dẫn tới chỗ gây ra thêm bạo lực hơn thôi.

 

Chúng ta cần phải biết rằng bình an – như Thiên Thần ở Bêlem nói – có liên quan tới eudokia, tới việc chúng ta mở lòng ra cho Thiên Chúa.

 

Chúng ta cần phải biết rằng hòa bình chỉ có thể hiện hữu nếu lòng người chế ngự được hận thù và vị kỷ. Loài người cần phải cải tiến nội tâm, cần phải trở nên mới mẻ và khác hơn. Bởi thế mà hòa bình trên thế giới này bao giờ cũng là những gì mềm yếu mỏng dòn. Chúng ta phải chịu đựng vì tình trạng ấy. Chính vì lý do ấy mà chúng ta được kêu gọi đặc biệt để lòng chúng ta được thấm đậm bình an của Thiên Chúa và mang quyền năng của Ngài đến cho thế giới. Đời sống của chúng ta cần phải làm trọn tất cả những gì có được nơi và nhờ Bí Tích Rửa Tội, ở chỗ chết đi cho con người cũ, nhờ đó tái sinh con người mới. Và chúng ta sẽ mãi mãi thiết tha nguyện cầu cùng Chúa xin Ngài động lòng thương! Xin hãy làm cho chúng ta trở nên một dân tộc mới! Xin giúp cho lý lẽ của bình an thắng vượt cái phi lý của bạo lực! Xin hãy làm cho chúng ta trở thành những người chuyển đạt hòa bình của Chúa!

 

Chớ gì Trinh Nữ Maria, Vị tôi xin ký thác chư huynh và công việc của chư huynh, xin cho chúng ta ân sủng này. Tôi xin gửi tới mỗi một người trong chư huynh hiện diện nơi đây cũng như cho tất cả những người thân yêu của chư huynh, những lời chúc tốt đẹp nhất của tôi, và như một dấu hiệu cho niềm vui của chúng ta, ngày mai sẽ là ngày nghỉ cho Giáo Triều Rôma để sửa soạn Lễ Giáng Sinh một cách tốt đẹp cả về thể lý lẫn tâm linh. Tôi thân ái ban Phép Lành Tòa Thánh cho những cộng tác viên thuộc các Phân Bộ và Văn Phòng khác nhau của Giáo Triều Rôma cũng như của Khối Quản Trị Quốc Đô Vatican. Chúc Giáng Sinh vui vẻ cùng rất nhiều lời chúc tốt đẹp cho Tân Niên!

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh Vatican (trừ những tiểu đề được chính người dịch tự phân đặt theo ý tứ được chính tác giả bày tỏ)

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2006/december/documents/hf_ben_xvi_spe_20061222_curia-romana_en.html