ĐỨC THÁNH CHA BIỂN ĐỨC XVI VỚI CÁC PHÂN BỘ 2006

 

 

“Khoa học không thể nào thay thế được triết học và mạc khải, trong việc cung cấp một giải đáp trọn vẹn cho những vấn nạn sâu xa nhất của con người”

Với Đại Hội của Hội Đồng Tòa Thánh Về Di Dân và Du Dân tại Sảnh Đường Clementine Ngày 15/5/2006 về ‘Vấn Đề Di Dân và Du Hành từ và đến Các Xứ Sở Đa Số Hồi Giáo’

Với Các Phần Tử Ủy Ban Thánh Kinh ngày 27/4 ở Sảnh Đường Chư Giáo Hoàng "về mối liên hệ giữa Thánh Kinh và các vấn đề luân lý"

Thư Gửi Tham Dự Viên Đại Hội Thường Niên Học Viện Tòa Thánh Về Các Khoa Xã Hội Học 27/4

Thư ngày 24/4 cho Khóa Họp của Thánh Bộ Chư Án Phong Thánh về 3 vấn đề chính yếu của việc cứu xét các án phong thánh là thánh đức, phép lạ và tử đạo

Với Tham Dự Viên Khóa Hội Luận ở Sảnh Đường Phaolô ngày 10/4/2006 về Giáo Dục Cao Học Ở Âu Châu

Với Văn Phòng Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh và Thành Phần Đại Diện Tòa Thánh Ở Các Tổ Chức Quốc Tế hôm Thứ Bảy 19/3

Với Đại Hội Thường Niên của Hội Đồng Tòa Thánh Về Truyền Thông Xã Hội 17/3

Với Tham Dự Viên Hội Nghị Quốc Tế tại Hall of Blessings ngày 11/3 Nhân Dịp 40 Năm Sắc Lệnh Về Truyền Giáo ‘Ad Gentes – Cho Muôn Dân’

Với Hội Nghị Thường Niên của Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin 10/2 ở Sảnh Đường Clementine

Với Hội Nghị Quốc Tế về Nhân Bào Phôi Thai 27/2

Với Tòa Rota Rôma dịp hằng năm khai mạc năm pháp lý 28/1

Với Hội Nghị của Hội Đồng Tòa Thánh Đồng Tâm về Thông Điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu” sắp ban hành 23/1

 

 

 

“Khoa học không thể nào thay thế được triết học và mạc khải, trong việc cung cấp một giải đáp trọn vẹn cho những vấn nạn sâu xa nhất của con người”

 

ĐTC Biển Đức XVI ngày 6/11/2006 với Đại Hội thường nên của Giáo Hoàng Hàn Lâm Viện Các Khoa Học

 

Thưa Quí Vị Giám Mục,

Thưa Quí Tôn Vị Nữ Nam,

 

Tôi hân hoan gửi lời chào đến các phần tử của Giáo Hoàng Hàn Lâm Viện Các Khoa Học nhân dịp Đại Hội thường niên, và tôi xin cám ơn Giáo Sư Nicola Babibbo về những lời lẽ tốt đẹp ngỏ lời chào tôi thay cho quí vị. Đề tài cho cuộc họp của quí vị – ‘Khả Năng Dự Đoán nơi Khoa Học: Vấn Đề Chính Xác và Những Giới Hạn” – là những gì bàn tới một phẩm chất chuyên biệt của khoa học tân tiến. Thật vậy, khả năng dự đoán là một trong những lý do chính đối với thế giá của khoa học trong xã hội hiện đại. Việc thiết lập phương pháp khoa học đã cống hiến cho các khoa học khả năng dự đoán các hiện tượng xẩy ra, nghiên cứu diễn tiễn của các hiện tượng đó, nhờ đó kiểm soát được môi trường con người sống động.

 

‘Vấn đề tiến bộ’ đang gia tăng này của khoa học, đặc biệt là khả năng của nó trong việc làm chủ thiên nhiên tạo vật bằng kỹ thuật, có những lúc đã dính dáng tới một ‘cuộc thoái lui’ tương ứng của triết học, của tôn giáo, và thậm chí của cả đức tin Kitô Giáo. Thật vậy, có một số người đã thấy nơi việc tiến bộ này của khoa học và kỹ thuật tân tiến một trong những lý do chính cho tình trạng tục hóa và duy vật chủ nghĩa: tại sao lại cần đến vấn đề khẩn cầu cùng Thiên Chúa để làm chủ những hiện tượng ấy trong lúc khoa học cho thấy nó có thể làm được điều ấy chứ? Thật sự là Giáo Hội nhìn nhận rằng ‘nhờ khoa học và kỹ thuật hỗ trợ…, con người đã nới rộng việc làm chủ của mình trên hầu như toàn thể thiên nhiên tạo vật’, bởi đó mà giờ đây con người, bằng hoạt động của mình, đang làm phát sinh ra những lợi ích từng được họ tìm kiếm từ các quyền lực trên cao’ (Gaudium et Spes, 33). Kitô Giáo cũng đồng thời không chấp nhận là có một cuộc xung khắc bất khả tránh giữa đức tin siêu nhiên và tiến bộ khoa học. Ngay chính ở khởi điểm của mạc khải Thánh Kinh đó là việc khẳng định rằng Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người, phú bẩm cho họ trí khôn, và đặt họ trên tất cả mọi tạo vật trên trần gian này. Nhờ đó, con người đã trở thành một quản viên của thiên nhiên tạo vật và là ‘một phụ giúp viên’ của Thiên Chúa. Nếu chúng ta nghĩ, chẳng hạn, về cách thức làm thế nào khoa học tân tiến, nhờ biết dự đoàn các hiện tượng thiên nhiên, đã góp phần vào việc bảo vệ môi trường, vào vấn đề tiến bộ của những quốc gia phát triển, vào việc chiến đấu chống lại các thứ dịch bệnh, và vào việc gia tăng tuổi thọ cho sự sống con người, thì mới thấy rõ là không có gì là xung khắc giữa việc Thiên Chúa quan phòng với công việc thực hiện của nhân loại cả. Đúng vậy, chúng ta có thể nói rằng công việc dự đoán, kiểm soát và quản trị thiên nhiên vạn vật, những gì khoa học ngày nay thực hiện một cách cụ thể hơn trong quá khứ, tự nó thuộc về dự án của Đấng Hóa Công.

 

Tuy nhiên, khoa học, trong khi cống hiến dồi dào như thế, cũng chỉ cống hiến được những gì theo mục đích của nó thôi. Con người không thể nào tin tưởng một cách sâu xa và tuyệt đối vào khoa học và kỹ thuật đến nỗi tin tưởng rằng việc tiến bộ của khoa học và kỹ thuật có thể giải thích được hết mọi sự và có thể làm hoàn toàn mãn nguyện tất cả mọi nhu cầu hiện hữu và tâm linh. Khoa học không thể nào thay thế được triết học và mạc khải, trong việc cung cấp một giải đáp trọn vẹn cho những vấn nạn sâu xa nhất của con người: những vấn nạn về ý nghĩa của sự sống và sự chết, về những giá trị tối hậu, và về bản chất của chính vấn đề tiến bộ. Đó là lý do Công Đồng Chung Vaticanô II, sau khi nhìn nhận các thứ lợi ích đạt được từ những tiến b ộ của khoa học, đã vạch ra rằng ‘có thể lầm lẫn coi các phương pháp tìm cầu nghiên cứu của khoa học như là qui chuẩn tối hậu trong việc đạt tới sự thật’, rồi thêm: ‘thật là nguy hiểm khi con người, tin tưởng thái quá vào những khám phá ngày nay, nghĩ rằng họ đầy đủ rồi, không cần tìm kiếm những giá trị cao hơn nữa’ (cùng nguồn, đoạn 57).

 

"Khả năng của khoa học trong việc dự đoán và kiểm soát không bao giờ được sử dụng để chống lại sự sống của con người và phầm giá của sự sống này"

 

Khả năng dự đoán của khoa học cũng khơi lên vấn đề về những trách nhiệm đạo lý của thành phần khoa học gia nữa. Những khẳng định của họ cần phải được chi phối bởi việc tôn trọng chân lý cũng như bởi việc chân thành nhìn nhận cả sự chính xác lẫn những giới hạn bất khả tránh của phương pháp khoa học. Quả thực thì điều này có nghĩa là tránh đi những tiên đoán báo động không cần, khi những tiên đoán ấy không được căn cứ vào các dữ kiện đầy đủ hoặc vượt quá khả năng thực sự của khoa học trong việc tiên đoán. Thế nhưng, nó cũng có nghĩa là tránh đi những gì nghịch lại, tức là vấn đề giữ im lặng, bởi hãi sợ, trước những vấn đề đích thực. Tầm mức ảnh hưởng của các khoa học gia trong việc hình thành dư luận quần chúng căn cứ vào kiến thức của họ là những gì hết sức quan trọng không được coi thường vì sự vội vàng không đúng lúc hay vì muốn trở thành nổi nang trong quần chúng. Vị tiền nhiệm của tôi là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II có lần đã nhận định: ‘Các khoa học gia, chính vì họ biết hơn mà họ được kêu gọi phục vụ hơn. Vì quyền tự do được nghiên cứu đã giúp họ có được một kiến thức chuyên biệt hóa mà họ cần phải có trách nhiệm trong việc sử dụng kiến thức ấy một cách khôn ngoan cho thiện ích của toàn thể gia đình nhân loại’ (Address to the Pontifical Academy of Sciences, 11 November 2002).

 

Quí Hàn Lâm Viên thân mến, thế giới của chúng ta tiếp tục nhìn vào quí vị và đồng nghiệp của quí vị để hiểu rõ hơn những thành quả khả dĩ nơi nhiều hiện tượng thiên nhiên quan trọng. Chẳng hạn, tôi nghĩ đến những thứ đe dọa liên tục xẩy đến cho môi trường đang ảnh hưởng tới toàn thể các dân tộc, và nhu cầu khẩn trương trong việc khám phá ra những nguồn năng lượng thay thế an toàn thuận lợi cho tất cả mọi người. Các khoa học gia sẽ tìm được sự ủng hộ của Giáo Hội nơi nỗ lực của họ trong việc đương đầu với những vấn đề ấy, vì Giáo Hội đã lãnh nhận từ vị sáng lập thần linh của mình công việc hướng dẫn lương tâm con người tới sự thiện hảo, kết đoàn và bình an. Chính vì lý do đó Giáo Hội cảm thấy có nhiệm vụ buộc phải nhấn mạnh rằng khả năng của khoa học trong việc dự đoán và kiểm soát không bao giờ được sử dụng để chống lại sự sống của con người và phầm giá của sự sống này, song bao giờ cũng phải phục vụ sự sống ấy, phục vụ thế hệ hiện nay cũng như những thế hệ mai sau.

 

Còn một ý nghĩ cuối cùng được chủ đề của Hội Nghị quí vị gợi lên cho chúng ta hôm nay. Như một số báo chí xuất hiện trong mấy ngày vừa rồi đã nhấn mạnh, đó là chính phương pháp khoa học, trong việc thu thập các dữ kiện cũng như trong việc coi xét cùng sử dụng những dữ kiện ấy cho những dự phóng, là những gì vốn có những giới hạn, khiến cho khả năng tiên đoán của khoa học thực sự bị hẹp lại đối với những phạm vi và đường lối riêng biệt. Bởi thế, khoa học không thể cho rằng mình có thể thực hiện được một cuộc trình bày hoàn toàn dứt khoát về tương lai của chúng ta cũng như về tình trạng diễn tiến của mọi hiện tượng được nó nghiên cứu. Triết học và thần học có thể góp phần quan trọng cho vấn đề bản thể học trọng yếu này, chẳng hạn, khi giúp cho những khoa học thực nghiệm thấy được sự khác biệt giữa cái bất lực của toán học trong việc tiên đoán một số biến cố với cái hiệu lực của nguyên tắc nhân quả, hay giữa cái bất định hoặc ngẫu nhiên theo khoa học với cái nhân quả ở lãnh vực triết lý, hoặc sâu xa hơn nữa, giữa cái tiến hóa được coi như là nguồn gốc của một chuỗi nối tiếp trong không gian và thời gian, với việc tạo dựng là nguồn gốc tối hậu của thứ hữu thể dự phần nơi Hữu Thể tất yếu.

 

Đồng thời cũng có một tầm mức cao hơn thực sự trổi vượt trên tất cả mọi dự đoán của khoa học, tức là thế giới tự do của con người và lịch sử. Trong khi các thứ vũ trụ về thể lý có những diễn tiến về thời không thì chỉ có nhân loại, theo nghĩa hẹp, là có lịch sử, một thứ lịch sử về quyền tự do của nhân loại. Tự do, như lý trí, là một yếu tố quí báu của hình ảnh Thiên Chúa nơi chúng ta, và nó không bao giờ có thể bị phân tích một cách dứt khoát nổi. Cần phải nhìn nhận và tôn trọng chiều kích siêu việt của nó đối với thế giới vật chất, vì nó là dấu hiệu cho thấy nhân phẩm của chúng ta. Nhân danh khả năng cho là tuyệt đối của phương pháp khoa học trong việc dự đoán, cũng như nhân danh tình trạng thế giới của con người để mà chối bỏ chiều kích siêu việt ấy sẽ đưa đến việc làm mất đi những gì là nhân bản nơi con người, và vì không nhìn nhận cái đặc thù cũng như siêu việt của mình, sẽ có nguy cơ mở đường cho việc con người khai thác mình.

 

Các bạn thân mến, để kết thúc những chia sẻ này, một lần nữa tôi hứa cùng các bạn là tôi hết sức chú trọng tới những hoạt động của Học Viện Tòa Thánh n ày, và hứa nguyện cầu cho các bạn cùng gia đình các bạn. Tôi xin phúc lành khôn ngoan, hoan lạc và an bình của Thiên Chúa Toàn Năng ban xuống cho tất cả các bạn.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 6/11/2006

 

 

TOP

 

 

Với Đại Hội của Hội Đồng Tòa Thánh Về Di Dân và Du Dân tại Sảnh Đường Clementine Ngày 15/5/2006 về ‘Vấn Đề Di Dân và Du Hành từ và đến Các Xứ Sở Đa Số Hồi Giáo’

 

Quí Hồng Y,

Quí Huynh Khả Kính trong hàng giáo phẩm và giáo sĩ,

Anh Chị Em thân mến,

 

Tôi hân hoan chào mừng anh chị em nhân dịp đại hội của Hội Đồng Tòa Thánh Về Việc Chăm Sóc Mục Vụ Cho Thành Phần Di Dân Và Du Hành. Trước hết, tôi xin chào Đức Hồng Y Renato Martino, vị đã ngỏ lời dẫn nhập cho cuộc gặp gỡ của chúng ta đây. Tôi cũng xin chào vị thư ký, các phần tử cùng các cố vấn viên của hội đồng tòa thánh này, nhất là những ai mới được chỉ định, và tôi xin gửi đến tất cả mọi người những lời cầu chúc tốt đẹp nhất cho công việc của anh chị em được thành đạt.

 

Đề tài được chọn cho cuộc đại hội này là ‘Vấn Đề Di Dân và Du Hành từ Các Xứ Sở Đa Số Hồi Giáo và đến Các Xứ Sở Đa Số Hồi Giáo’ liên quan tới một thực tại về xã hội đang càng ngày càng trở nên hiện đại hơn. Bởi thế, việc di chuyển của nhân loại liên quan tới các quốc gia Hồi Giáo cần phải được đặc biệt suy nghĩ, chẳng những vì tầm vóc hiện tượng, nhất là vì căn tính Hồi Giáo vừa tôn giáo vừa văn hóa.

 

Giáo Hội Công Giáo càng nhận thức được rằng việc đối thoại liên tôn là yếu tố dấn thân của Giáo Hội cho việc phục vụ nhân loại trong thế giới hiện đại. Niềm xác tín này đã trở nên, như người ta nói, ‘lương thực hằng ngày’, nhất là thích hợp với những ai hoạt động liên hệ với thành phần di dân, tị nạn và những thứ loại khác nhau của thành phần du hành.

 

Chúng ta đang sống ở những thời điểm Kitô hữu được kêu gọi để vun trồng một lối đối thoại cởi mở với vấn đề về tôn giáo, mà không bỏ qua việc trình bày cho thành phần đối thoại chương trình hoạt động của Kitô Giáo hợp với căn tính của mình. Bởi vậy, người ta càng cảm thấy tầm quan trọng của tính cách hỗ tương trong vấn đề đối thoại, một tính cách hỗ tương được bản hướng dẫn ‘Erga Migrantes Caritas Christi’ thích đáng định nghĩa như là ‘một nguyên tắc’ có tầm quan trọng lớn lao. Nó liên quan tới một ‘mối liên hệ đưa trên sự tôn trọng lẫn nhau’, và trước đó dựa trên ‘thái độ của tấm lòng và tinh thần’ (khoản 64).

 

Tầm quan trọng và tính cách tế nhị của việc dấn thân này được chứng thực bởi các nỗ lực thực hiện ở nhiều cộng đồng trong việc đan kết những mối liên hệ của việc hiểu biết nhau và tôn trọng nhau đối với thành phần di dân, những liên hệ tỏ ra cho thấy hữu ích hơn bao giờ hết trong việc thắng vượt thành kiến và một thứ tâm thức khép kín.

 

Nơihành động tiếp nhận và đối thoại với thành phần di dân và du hành của mình, cộng đồng Kitô hữu luôn căn cứ vào Chúa Kitô, Đấng đã để lại cho các môn đề của mình, như một qui luật sống, giới răn yêu thương mới. Tình yêu của Kitô hữu, tự bản chất, là những gì mở đường đi trước. Đó là lý do tại sao thành phần tín hữu được kêu gọi để mở rộng vòng tay và cõi lòng của mình ra đối với hết mọi người, từ bất cứ quốc gia nào họ tới, giúp cho các vị thẩm quyền mang trách nhiệm với đời sống quần chúng có thể áp dụng những thứ luật lệ thích đáng cần cho một cuộc chung sống lành mạnh.

 

Được tác động liên tục trong việc làm chứng cho tình yêu thương được Chúa Giêsu truyền dạy, Kitô hữu cần phải đặc biệt mở lòng mình ra đối với người thấp hèn và nghèo khổ, thành phần mà nơi họ Chúa Kitô đích thân hiện diện một cách đặc biệt. Tác động như thế, họ tỏ ra cái tính chất tốt đẹp nhất nơi căn tính Kitô Giáo của họ: đó là thứ tình yêu Chúa Kitô đã sống và tiếp tục truyền đạt cho Giáo Hội qua Phúc Âm và các phép bí tích.

 

Dĩ nhiên cần phải hy vọng rằng thành phần Kitô hữu di dân tới các quốc gia đa số là người Hồi Giáo cũng sẽ được đón nhận và căn tính đạo giáo của họ cũng được tôn trọng.

 

Anh Chị Em thân mến, tôi xin lợi dụng cơ hội này để cám ơn anh chị em về những gì anh chị em làm trong việc phục vụ một cách có tổ chức và hiệu nghiệm thành phần di dân và du hành, bỏ thời giờ của mình, khả năng của mình và kinh nghiệm của mình vào việc phục vụ ấy. Chớ gì ai cũng thấy rằng đây là một tiền tuyến đáng kể của công cuộc tân truyền bá phúc âm hóa trong thế giới được toàn cầu hóa hiện nay.

 

Tôi xin anh chị em hãy theo đuổi công việc làm của anh chị em bằng một nhiệt tình mới, trong khi đó, về phần mình, tôi chăm chú theo dõi anh chị em và tôi đồng hành với anh chị em bằng lời nguyện cầu, để Thánh Thần làm cho hoạt động của anh chị em được sinh hoa kết trái cho thiện ích của Giáo Hội và thế giới.

 

Xin Mẹ Maria Rất Thánh coi sóc anh chị em, Mẹ là vị đã sống niềm tin của mình như một khách hành hương qua những hoàn cảnh khác nhau của đời sống Mẹ. Xin Vị Trinh Nữ Thánh Hảo này giúp cho hết mọi con người nam nữ nhận biết Chúa Giêsu Con Mẹ và lãnh nhận từ Người tặng ân cứu độ. Với những nguyện ước ấy, tôi ban phép lành cho tất cả anh chị em và những người thân thương của anh chị em.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 7/6/2006

 

 

TOP

 

 

Với Các Phần Tử Ủy Ban Thánh Kinh ngày 27/4 ở Sảnh Đường Chư Giáo Hoàng "về mối liên hệ giữa Thánh Kinh và các vấn đề luân lý"

 

Cùng Đức Hồng Y,

Các Phần Tử Ủy Ban Thánh Kinh của Tòa Thánh thân mến,

 

Tôi cảm thấy hết sức vui mừng được gặp gỡ anh chị em vào cuối đại hội thường niên của anh chị em. Tôi ưu ái nhớ đến từng anh chị em, vì cá nhân tôi đã được quen biết anh chị em trong những năm tôi làm chủ tịch của ủy ban này. Tôi xin chia sẻ với anh chị em niềm tri ân cảm mến của tôi về công việc quan trọng anh chị em đang làm để phục vụ Giáo Hội và lợi ích của các linh hồn, hòa hợp với Vị Thừa Kế Thánh Phêrô.

 

Tôi xin cám ơn Đức Hồng Y Joseph Levada về lời ngài chào mừng cũng như về việc ngài tóm tắt đề tài đã trở thành đối tượng cho việc anh chị em chia sẻ trong cuộc họp này.

 

Anh chị em qui tụ lại một lần nữa để khảo sát một chủ đề rất quan trọng, đó là chủ đề về mối liên hệ giữa Thánh Kinh và các vấn đề luân lý. Đề tài này chẳng những liên quan tới tín hữu mà còn đến hết mọi người nữa. Nó liên quan tới chúng ta, đặc biệt vào một thời điểm khủng hoảng về văn hóa và luân lý này. Thật thế, tác lực đầu tiên của con người đó là họ ước muốn được hạnh phúc và viên trọn cuộc sống. Tuy nhiên, ngày nay, nhiều người nghĩ rằng điều này cần phải được chiếm đạt một cách hoàn toàn tự ý mình, không cần dính dáng gì tới Thiên Chúa hay tới lề luật của Ngài.

 

Một số người đã tiến đến chỗ lý thuyết hóa cái thượng tôn tuyệt đối của lý trí và tự do trong tương quan với các qui chuẩn về luân lý: Họ cho rằng những qui chuẩn này là những gì tạo nên cái tương quan của một thứ đạo đức học thuần ‘con người’, tức là, cái thể hiện của một thứ lề luật được con người tạo nên cho chính mình. Thành phần biện hộ cho thứ ‘luân lý trần tục’ này nói rằng là một hữu thể hữu tri con người chẳng những có thể mà còn phải được tự do quyết định về giá trị hành vi cử chỉ của họ nữa.

 

Niềm xác tín sai lầm này là những gì xuất phát từ cái được coi là xung khắc giữa tự do của con người và hết mọi hình thức về luật lệ. Thật vậy, vì chúng ta là tạo sinh mà Đấng Tạo Hóa đã ghi khắc ‘lề luật tự nhiên’ của Ngài, những gì phản ảnh ý nghĩa sáng tạo của Ngài, nơi tâm can của chúng ta, nơi chính hữu thể của chúng ta, như một địa bàn và việc hướng đạo nội tâm cho đời sống của chúng ta.

 

Chính vì lý do này mà Thánh Kinh, Truyền Thống và huấn quyền của Giáo Hội nói với chúng ta rằng ơn gọi và việc viên trọn của con người được chiếm đạt không phải bằng việc hủy bỏ lề luật của Thiên Chúa, mà là bằng việc tuân giữ lề luật mới là những gì được chất chứa nơi ân sủng của Thánh Thần. Cùng với Lời Chúa và giáo huấn của Giáo Hội, lề luật mới này được diễn tả nơi việc ‘đức tin hoạt động qua đức ái’ (Gal 5:6).

 

Chính trong việc chấp nhận tình yêu xuất phát từ Thiên Chúa (‘Deus caritas est’) mà tự do của con người mới thấy được cái hiện thực hóa cao cả nhất của nó. Không có vấn đề tương phản giữa lề luật của Thiên Chúa với tự do của con người: Lề luật của Thiên Chúa được giải thích một cách đúng đắn sẽ là những gì không làm yếu đi, thậm chí tệ hơn nữa, loại trừ tự do của con người. Trái lại, nó bảo đảm và nuôi dưỡng tự do này, vì, như Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo nhắc nhở chúng ta, ‘tự do… đạt tới tầm mức trọn hảo của nó khi nó hướng về Thiên Chúa là phúc đức của chúng ta’ (khoản 1731).

 

Lề luật luân lý được Thiên Chúa thiết lập nơi tạo vật và được Ngài khẳng định nơi mạc khải Cựu Ước là những gì nên trọn và cao cả nơi Đức Kitô. Chúa Giêsu Kitô là con đường nên trọn lành, là tổng hợp sống động và cá thể của thứ tự do trọn hảo hoàn toàn tuân phục ý muốn của Thiên Chúa. Vai trò nguyên thủy của Bản Thập Giới không bị hủy bỏ trước cuộc gặp gỡ Chúa Kitô mà là được đưa đến chỗ viên trọn.

 

Một thứ đạo đức hướng về mạc khải thì cũng tìm cách trở thành thực sự hữu lý, sẽ thấy được tầm mức trọn hảo của mình nơi việc gặp gỡ Chúa Kitô, Đấng ban cho chúng ta Giáo Ước mới này.

 

Khuôn mẫu của hành động luân lý chân thực này là tác hành của chính Lời Nhập Thể. Người đã làm cho ý muốn của Người ăn khớp với ý muốn của Thiên Chúa Cha nơi việc chấp nhận và thi hành sứ vụ của Người: lương thực của Người đó là làm theo ý muốn của Cha (x Jn 4:34). Người luôn làm những gì đẹp lòng Cha, mang những lời của Cha ra thực hành (x Jn 8:29-55); Người nói những gì Cha muốn Người nói và công bố (x Jn 12:49).

 

Trong việc mạc khải Cha và qua tác hành của mình, Chúa Giêsu cũng đồng thời mạc khải các qui chuẩn về tác động chính trực của con người. Người khẳng định mối liên hệ này một cách minh nhiên và kiểu mẫu, khi kết thúc bài giảng của mình về việc mến yêu kẻ thù (x Mt 5:43-47), Người phán: ‘Bởi thế, các con phải nên trọn lành như Cha trên trời của các con là Đấng trọn hảo’ (Mt 5:48).

 

Cái trọn lành thần linh này, cái trọn lành nhân thần này trở thành khả dĩ đối với chúng ta nếu chúng ta liên kết chặt chẽ với Chúa Kitô là Đấng Cứu Độ của chúng ta.

 

Đường lối được Chúa Giêsu vạch vẽ ra qua giáo huấn của Người không phải là một thứ qui luật được áp đặt bề ngoài vậy thôi. Chính Chúa Giêsu đi con đường này và không xin chúng ta gì hơn là hãy đi theo Người. Ngoài ra, Người không chỉ xin chúng ta thôi: Trước hết, qua phép rửa, Người cho chúng ta được tham dự vào sự sống của Người, nhờ đó chúng ta có thể hiểu được giáo huấn của Người và mang những giáo huấn ấy ra thực hành.

 

Điều này lại càng có nhiều chứng cớ hơn nữa trong các bản văn Tân Ước. Mối liên hệ của Người với các môn đệ là những gì quan trọng, chứ không phải một thứ giáo huấn bề ngoài. Người đã gọi các vị là ‘các con nhỏ’ (Jn 13:33; 21:5), “bạn hữu’ (Jn 15:14-15), ‘anh em’, ‘huynh đệ’ (Mt 12:50, 28:10; Jn 20:17), và mời họ hãy tiến vào mối hiệp thông sự sống với Người cùng chấp nhận trong tin tưởng và hân hoan cái ách ‘êm ái’ và cái gánh ‘nhẹ nhàng’ (x Mt 11:28-30).

 

Trong việc tìm cầu một thức đạo lý theo tinh thần Kitô học, bởi thế, cần phải luôn nhớ rằng Chúa Kitô là Lời Nhập Thể, Đấng giúp cho chúng ta có thể thông dự vào sự sống thần linh của Người và bảo trì chúng ta bằng ân sủng của Người trên cuộc hành trình tiến về tầm vóc viên trọn thực suự của chúng ta.

 

Cái con người thực sự là hoàn toàn được thể hiện nơi Lời hóa thân làm người; niềm tin tưởng nơi Chúa Kitô cống hiến cho chúng ta cái viên trọn về nhân loại học này. Tóm lại, mối liên hệ với Chúa Kitô là những gì cho thấy việc hiện thực hóa cao cả nhất nơi tác hành về luân lý của con người. Hành động nhân bản này là những gì trực tiếp xây trên việc tuân phục lề luật của Thiên Chúa, trên mối hiệp nhất với Chúa Kitô và trong việc cư ngụ của Thần Linh nơi tâm hồn của tín hữu. Nó không phải là một hành động được thúc động bởi những qui chuẩn thuần ngoại diện, mà là xuất phát từ mối liên hệ sống còn nối kết tín hữu với Chúa Kitô và với Thiên Chúa.

 

Trong khi mong cho việc liên tục chia sẻ của anh chị em được sinh hoa kết trái, tôi xin ánh sáng của Thánh Thần xuống trên anh chị em và hoạt động của anh chị em, và để bảo đảm lòng tin tưởng và ưu ái của tôi, tôi ban phép lành tòa thánh cho tất cả anh chị em.



Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 16/5/2006

 

 

TOP

 

 

 

Thư Gửi Tham Dự Viên Đại Hội Thường Niên Học Viện Tòa Thánh Về Các Khoa Xã Hội Học

 

Gửi Giáo Sư Mary Ann Glendon,

Chủ Tịch Học Viện Tòa Thánh Về Các Khoa Xã Hội Học

 

Nhân dịp Học Viện Tòa Thánh Về Các Khoa Xã Hội Học nhóm họp Đại Hội lần thứ 12, tôi xin gửi lời chào đến bà cùng tất cả mọi Phần Tử, và tôi xin nguyện chúc mọi điều tốt đẹp để cuộc nghiên cứu và bàn luận đánh dấu đại hội hằng năm này không những góp phần vào việc phát triển kiến thức về các ngành thích hợp của anh chị em mà còn hỗ trợ Giáo Hội thực hiện sứ vụ làm chứng cho một chủ nghĩa nhân bản chân thực vững chắc trong chân lý và theo chiều hướng Phúc Âm. 

 

Khóa họp của anh chị em hiện nay nhắm đến một chủ đề hợp thời đó là: Giới Trẻ đang tiêu tan? Tình Đoàn Kết Với Trẻ Em và Giới Trẻ trong Một Thời Đại Hỗn Loạn. Có một số dấu hiệu về nhân khẩu học đã rõ ràng cho thấy nhu cầu khẩn trương cần phải can thận suy nghĩ về lãnh vực này. Trong khi thống kê về việc gia tăng dân số được giải thích khác nhau thì vẫn có một thỏa thuận chung chúng ta chứng kiến thấy ở một mức độ toàn cầu, và ở đặc biệt các quốc gia phát triển, có hai chiều hướng đáng chú ý và liên hệ với nhau, đó là, một đàng thì gia tăng về tuổi thọ, đàng khác là việc giảm mức sinh sản. Vì các xã hội trở thành già hơn mà nhiều quốc gia hay các nhóm quốc gia thiếu mất một số giới trẻ cần thiết để đổi mới dân chúng của họ.

 

Tình trạng này được gây ra bởi những lý do đa diện và phức tạp – thường có tính chất về kinh tế, xã hội và văn hóa – những căn nguyên được anh chị em dự định mang ra nghiên cứu mổ xẻ. Thế nhưng những căn nguyên trên hết của nó có thể được thấy liên quan tới luân lý và tinh thần; chúng liên hệ tới tình trạng suy yếu đáng lo ngại về đức tin, đức cậy và thực sự là đức ái. Để đưa con cái vào đời cần tình áieros qui về mình được nên trọn trong một thứ từ ái – agape đầy quảng đại và mang tính cách tin tưởng và hy vọng vào tương lai. Theo bản chất của mình thì đức ái hướng về vĩnh hằng (x Deus Caritas Est, 6). Có lẽ việc thiếu hụt một thứ tình yêu sáng tạo và hướng tới như thế là nguyên nhân tại sao nhiều cặp ngày nay đã quyết định không lập gia đình, tại sao có rất nhiều cuộc hôn nhân đổ vỡ, và tại sao mức sinh sản bị suy giảm một cách trầm trọng.

 

Chính trẻ em và giới trẻ là thành phần đầu tiên thường cảm thấy những hậu quả của tình trạng hụt hang yêu thương và hy vọng này. Thay vì cảm giác được yêu thương và âu yếm ấp ủ, họ thường chỉ được chấp nhận vậy thôi. Trong “một thời đại hỗn loạn”, họ thường không được người lớn hướng dẫn về luân lý đến độ gây thiệt hại trầm trọng cho việc phát triển về tri thức và về tâm linh của chúng. Nhiều trẻ em hiện nay đang lớn lên trong một xã hội lãng quên Thiên Chúa và phẩm vị bẩm sinh của con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Trong một thế giới được hình thành bởi các tiến trình toàn cầu hóa gia tốc, họ thường chỉ được thấy toàn là những nhãn quan duy vật về vũ trụ, về sự sống và về việc viên trọn nhân bản.

 

Tuy nhiên, trẻ em và giới trẻ tự bản chất là thành phần thụ nhận, cởi mở, theo đuổi lý tưởng và hướng về siêu việt. Trên hết họ cần được yêu thương và phát triển trong một môi trường lành mạnh, nơi họ có thể tiêá đến chỗ nhận thấy rằng họ không bị rơi vào một thế giới ngẫu nhiên tình cờ mà là nhờ tặng ân thuộc dưựán yêu thương của Thiên Chúa. Cha mẹ, giáo dục viên và các vị lãnh đạo cộng đồng, nếu trung thành với ơn gọi của mình thì không bao giờ có thể bỏ bê nhiệm vụ của mình trong cuộc đề ra cho trẻ em và giới trẻ việc chọn dự án sự sống nhắm tới niềm hạnh phúc chân thực, một dự án có khả năng phân biệt giữa sự thật và dối trá, giữa thiện và ác, giữa công lý và bất công, giữa thế giới chân thực và thế giới ‘ảo thực’.

 

Trong đường lối khoa học riêng của anh chị em đối với những vấn đề khác nhau được bàn tới trong Khóa Họp này, tôi xin anh chị em hãy quan tâm đặc biệt tới những vấn đề nhức nhối, nhất là vấn đề về tự do của con người, một vấn đề hàm chứa bao rộng một nhãn quan lành mạnh về con người và về việc đạt tới tình trạng trưởng thành về tình cảm trong cộng đồng. Tự do nội tâm thực sự là điều kiện cho việc phát triển thực sự của con người. Nơi nào thiếu tự do này hay tự do ấy gặp nguy hiểm thì giới trẻ cảm thấy bị thất vọng và không thể hăng say nỗ lực theo đuổi các lý tưởng có thể hình thành đời sống của chúng như là một cá thể và là phần tử của xã hội. Bởi thế, họ có thể cảm thấy chán chường hay nổi loạn, và khả năng dồi dào về nhân bản của họ không thể đối đầu với những thách đố hào hứng của cuộc đời.

 

Kitô hữu, thành phần tin rằng Phúc Âm chiếu sáng trên mọi khía cạnh về cuộc sống nhân nhân cũng như xã hội, sẽ không ngừng thấy được những chiều kích về triết lý và thần học của các vấn đề ấy, cũng như nhu cầu cần phải thấy rằng việc tương phản giữa tội lỗi và ân sủng bao gồm tất cả mọi thứ xung khắc khác gây rắc rối cho tâm can con người, những xung khắc giữa lầm lạc và chân lý, giữa tội lỗi và nhân đức, giữa nổi loạn và hợp tác, giữa chiến tranh và hòa bình. Họ không thể nào không thâm tín rằng đức tin, được sống trọn vẹn bởi đức ái và được truyền đạt cho các tân thế hệ, là một yếu tố thiết yếu trong việc xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn cũng như trong việc bảo toàn tình đoàn kết liên thế hệ, vì nó gắn bó mọi nỗ lực của con người trong việc xây dựng một nền văn minh yêu thương vào mạc khải của Vị Thiên Chúa Hóa Công, vào việc tạo dựng con người nam nữ theo hình ảnh Ngài, cũng như vào cuộc vinh thắng của Chúa Kitô trên sự dữ và sự chết.

 

Các bạn thân mến, trong khi tôi bày tỏ lòng tri ân và hỗ trợ của tôi cho việc nghiên cứu quan trọng của anh chị em đây, một việc nghiên cứu được thực hiện theo những phương pháp hợp với các khoa học hiện hành của anh chị em, tôi xin anh chị em đừng bao giờ lạc mất cái quan niệm phấn khởi và sự nâng đỡ được những cuộc học hỏi của anh chị em có thể cống hiến cho giới trẻ nam nữ của thời đại chúng ta trong việc giúp cho họ nỗ lực sống cuộc đời phong phú và mãn nguyện. Tôi chân thành xin phúc lành khôn ngoan, sức mạnh và an bình của Thiên Chúa ban xuống cho anh chị em cùng gia đình của anh chị em, cũng như trên tất cả mọi người cộng tác vào công việc của Học Viện Tòa Thánh Về Các Khoa Xã Hội Học.

 

Tại Vatican ngày 27/4/2006

 

Biển Đức XVI

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/letters/2006/documents/hf_ben-xvi_let_20060427_social-sciences_en.html

 

TOP

 

 

Thư cho Khóa Họp của Thánh Bộ Chư Án Phong Thánh về 3 vấn đề chính yếu của việc cứu xét các án phong thánh là thánh đức, phép lạ và tử đạo

 

Huynh Đáng Kính,

Hồng Y José Saraiva Martins

Tổng Trưởng Thánh Bộ Chư Án Phong Thánh

 

Nhân dịp đại hội của Thánh Bộ Chư Án Phong Thánh này, tôi xin gửi lời chào thân ái đến huynh Hồng Y, lời chào tôi cũng muốn gửi tới các vị hồng y, tổng giám mục và giám mục đang tham dự vào cuộc họp này. Tôi cũng xin chào vị thư ký, phụ thư ký, các vị cố vấn và các chuyên gia về y khoa, các vị cáo thỉnh viên cùng toàn thể mọi phần tử của phân bộ này.

 

Cùng với lời chào của mình, tôi cũng muốn bày tỏ nỗi cảm nhận và lòng biết ơn của tôi đối với việc phục vụ của thánh bộ này đối với Giáo Hội trong việc cổ võ các án phong thánh, những vị ‘thật sự là thành phần mang ánh sáng soi lịch sử, vì các vị là những con người nam nữ của đức tin, đức cậy và đức mến’, như tôi đã viết trong thông điệp ‘Thiên Chúa là Tình Yêu’ (đoạn 40).

 

Đó là lý do tại sao ngay từ đầu Giáo Hội đã thực hiện việc tưởng niệm và tôn kính các vị một cách thật là trân trọng, chú trọng một cách đặc biệt hơn nữa qua các thế kỷ những phương thức đưa các người tôi tớ Chúa đến chỗ tôn vinh trên bàn thờ.

 

Thật vậy, các án phong thánh là ‘những án chính’, vì cả tính cách cao trọng của chủ thể cần phải cứu xét lẫn tác dụng của các án phong thánh này đối với đời sống của Dân Chúa. Theo chiều hướng đó, các vị Tiền Nhiệm của tôi thường can thiệp vào bằng những đường lối luật lệ đặc biệt để cải cách vấn đề cứu xét và cử hành các án phong thánh cho các vị. Vào năm 1588, Đức Sixtus V đã muốn thiết lập Thánh Bộ Chư Lễ Nghi để thực hiện mục đích ấy. 

 

Thế rồi, làm sao chúng ta có thể quên được việc Đức Urban VIII ban hành luật lệ thích đáng, việc ban hành Bộ Giáo Luật Năm 1917, việc Đức Piô XI ra các qui chuẩn đối với các án phong thánh cũ, việc ‘tự sắc’ ‘Sanctitas Clarior’ được ban hành và việc Đức Phaolô VI ban hành tông hiến ‘Sacra Rituum Congregatio’?

 

Vị Tiền Nhiệm Biển Đức XIV của tôi đã xứng đáng được coi là ‘bậc thày’ của các án phong thánh, đáng được nhắc đến một cách biết ơn. Gần đây hơn, vào năm 1983, Đức Gioan Phaolô II yêu dấu đã ban hành tông hiến ‘Divinus Perfectionis Magister’, trong cùng năm lại phổ biến ‘Những Qui Tắc Cần Những Vị Giám Mục Về Các Án Phong Thánh Phải Tuân Giữ Trong Các Cuộc Thẩm Vấn’.

 

Trên 20 năm kinh nghiệm đã giúp thánh bộ này có thể soạn thảo một cách thích đáng ‘Bản Hướng Dẫn Cho Tiến Trình Thẩm Vấn Cấp Giáo Phận Về Các Án Phong Thánh’.

 

Bản văn kiện này được ngỏ chính yếu với các vị giám mục giáo phận và việc sửa soạn cho bản văn kiện ấy là vấn đề đầu tiên trong nghị sự của cuộc đại hội này của anh chị em. Nó nhắm tới việc làm dễ dàng hóa vấn đề việc nộp đơn của tín hữu liên quan tới trường hợp ‘Normae Servandae’, hầu có thể bảo đảm tính cách nghiêm trọng của những việc điều tra được thi hành ở các cuộc thẩm vấn cấp giáo phận về nhân đức của thành phần tôi tớ Chúa, cũng như trong những trường hợp cho rằng đó là một cuộc tử đạo hoặc cho rằng có phép lạ xẩy ra.

 

Chứng cớ cho các án phong thánh này được thu thập và nghiên cứu hết sức thận trọng và khôn ngoan tìm kiếm sự thật lịch sử qua các chứng từ và chứng kiện ‘omnino plenae’, vì chúng chỉ có mục đích duy nhất là vinh quang của Thiên Chúa và lợi ích thiêng liêng của Giáo Hội cũng như của tất cả những ai đang tìm kiếm chân lý Phúc Âm và sự trọn lành.

 

Các vị mục tử giáo phận, khi quyết định ‘coram Deo’ về những án phong thánh nào đáng được khởi sự, trước hết sẽ thẩm định rằng ứng viên đưa lên bàn thờ để tôn kính có thật sự nổi tiếng mạnh mẽ và rộng rãi về thánh đức và các phép lạ hoặc tử đạo hay chăng. Việc nổi tiếng này, một việc nổi tiếng theo qui định của Bộ Giáo Luật 1917 cần phải ‘spontanea, non arte aut diligentia procurata, orta ab honesties et gravibus personis, continua, in dies aucta et vigens in praesenti apud maiorm partem populi’ (2050.2), là một dấu hiệu của Thiên Chúa là Đấng tỏ cho Giáo Hội thấy được những ai đáng được đặt trên giá đèn hầu ‘soi sáng cho cả nhà’ (x Mt 5:15).

 

Hiển nhiên là không thể nào lại đưa ra một án phong chân phước hay phong thánh mà lại thấy rằng chủ thể chẳng có thánh đức gì, cho dù nhân vật ấy nổi bật về việc sống hợp với Phúc Âm và có công trạng đặc biệt với giáo hội và xã hội.

 

Đề tài thứ hai được hội nghị của anh chị em bàn đến đó là vấn đề ‘phép lạ nơi các án phong thánh’. Vấn đề quá rõ ràng là từ thời cổ xưa, tiến trình tiến đến chỗ phong thánh là tiến trình trải qua chứng cớ về các nhân đức và các phép lạ, được qui cho việc chuyển cầu của ứng viên có án tôn vinh trên bàn thờ.

 

Để bảo đảm cho chúng ta rằng người tôi tớ Chúa ở trên trời đang được hiệp thông với Chúa thì các phép là là những gì chứng tỏ việc Thiên Chúa khẳng định về phán quyết của thẩm quyền giáo hội liên quan tới đời sống nhân đức của các vị. Tôi hy vọng rằng cuộc đại hội đây sẽ có thể khảo sát vấn đề này một cách sâu xa theo chiều hướng Truyền Thống của Giáo Hội, theo chiều hướng thần học hiện đại cũng như theo chiều hướng của những khám phá đáng tin cậy nhất về khoa học.

 

Không được quên rằng trong vấn đề xem xét các biến cố được cho rằng là phép lạ thì thẩm quyền của thành phần học giả và thần học gia phải hợp với nhau, cho dù phán quyết cuối cùng thuộc về thần học, một ngành duy nhất có thể cung cấp cho phép lạ một dẫn giải của đức tin.

 

Đó là lý do tại sao tiến trình án phong thánh tiến từ việc thẩm định theo khoa học của hội đồng y khoa hay của các chuyên viên về kỹ thuật đến cuộc khảo xét về thần học bởi thành phần cố vấn, rồi sau đó bởi các vị hồng y và giám mục. Ngoài ra, cần phải rõ ràng nhớ rằng việc thực hiện liên tục của Giáo Hội cần phải có một phép lạ về thể lý, vì một phép lạ về luân lý cũng không đủ.

 

Vấn đề thứ ba được hội nghị này bàn tới liên quan tới việc tử đạo, một tặng ân của Thần Linh và là một phẩm tính của Giáo Hội ở mọi thời đại (x Lumen Gentium, đoạn 42). Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đáng kính, trong bức tông thư ‘Tertio Millennio Adveniente’ đã nhận định rằng vì Giáo Hội một lần nữa đã trở thành Giáo Hội của các vị tử đạo mà ‘không được làm mất mát đi bao nhiêu có thế chứng từ của các vị’ (đoạn 37).

 

Các vị tử đạo trong quá khứ và các vị thuộc thời đại của chúng ta đều đã cống hiến và đang cống hiến mạng sống (‘effusio sanguinis’) một cách tự nguyện và ý thức bằng một tác động đức ái cao cả, chứng tỏ lòng các vị trung thành với Chúa Kitô, với Phúc Âm và với Giáo Hội. Nếu động lực thúc đẩy các vị tử đạo vẫn không thay đổi, vì Chúa Kitô là nguồn mạch và là mô phạm của các vị, thì những gì đã thay đổi đó là các bối cảnh về văn hóa của cuộc tử đạo cũng như về các biện pháp ‘ex parte persecutoris’ càng ngày càng ít tỏ tường cho thấy những ác cảm của chúng đối với đức tin Kitô Giáo hay đối với một hình thức tác hành liên quan tới các nhân đức Kitô Giáo, song nấp dưới những lý do khác nhau, chẳng hạn như những lý do có tính cách về chính trị hay xã hội.

 

Dĩ nhiên cần phải tìm được chứng cớ bất khả phủ nhận về việc sẵn lòng tử đạo, như việc nạn nhân đổ máu và việc nạn nhân chấp nhận. Ngoài ra cũng cần, một cách trực tiếp hay gián tiếp, nhưng luôn luôn bằng một đường lối vững chắc về luân lý, trong việc bảo đảm vấn đề ‘odium Fidei’ (thù hận đức tin) nơi thành phần bách hại. Nếu thiếu yếu tố này sẽ không có vấn đề thật sự tử đạo theo tín điều vĩnh tại về thần học và pháp lý của Giáo Hội. Quan niệm về ‘tử đạo’ khi được áp dụng cho các thánh hay các vị tử đạo diễm phúc thì cần phải hiểu, theo giáo huấn của Giáo Hoàng Biển Đức XIV, như ‘voluntaria mortis perpessio sive tolerantia propter Fidem Christi, vel alium virtutis actum in Deum relatum’("De Servorum Dei Beatificatione et Beatorum Canonizatione," Prato 1839-1841, Book III, chapter 11, 1). Đó là giáo huấn nhất trí của Giáo Hội.

 

Các vấn đề đang được bàn đến ở hội nghị của anh chị em là những gì lợi ích không thể phủ nhận và là những suy tư, với những gợi ý khả dĩ có thể nẩy lên, sẽ trở thành một đóng góp giá trị cho việc đạt tới những mục tiêu được ấn định bởi Đức Gioan Phaolô II trong tông hiến ‘Divinus Perfectinonis Magister’, một tông hiến ngài viết rằng: ‘sau hết, kinh nghiệm mới nhất cho chúng ta thấy tính cách thích đáng trong việc điều chỉnh cách thức tốt đẹp hơn trong vấn đề cứu xét các án phong thánh cũng như vấn đề tổ chức Thánh Bộ Chư Án Phong Thánh để chúng ta có thể đáp ứng những nhu cầu của các chuyên gia cùng những ước muốn từ Chư Huynh Giám Mục của Chúng Ta, những vị thường yêu cầu thực hiện một tiến trình giản dị hơn trong khi vẫn giữ được tính cách lành mạnh của việc điều tra các vấn đề có một tầm vóc quan trọng như thế.

 

‘Theo chiều hướng của tín lý Công Đồng Chung Vaticanô II về vấn đề đoàn tính, Chúng Tôi cũng nghĩ  rằng chính các Vị Giám Mục phải liên kết chặt chẽ hơn với Tòa Thánh trong việc xem xét các Án Phong Thánh’.

 

Để nhất trí voơi những điều hướng dẫn ấy, được tuyển chọn lên Ngai Tòa Thánh Phêrô, tôi hân hoan hành động theo ước muốn rộng rãi là cần phải nhấn mạnh nhiều đến việc cử hành ở những điểm khác nhau chính yếu giữa việc phong chân phước và việc phong hiển thánh, và các Giáo Hội riêng cần phải tỏ tường hơn trong vấn đề tham gia vào các Nghi Thức Phong Chân Phước với ý thức rằng chỉ có một mình Giáo Hoàng Rôma mới có thẩm quyền công bố việc tôn sùng một người tôi tớ Chúa mà thôi.

 

Huynh Hồng Y, tôi cám ơn huynh về việc phục vụ của thánh bộ này đối với Giáo Hội, và trong khi mong ước cho những ai đang tham dự vào công việc của hội nghị đây được mọi thành công qua việc chuyển cầu của tất cả các thánh cũng như của Nữ Vương các thánh, tôi xin Thánh Thần xuống trên từng người. Phần tôi, tôi hứa nguyện cầu cho anh chị em cũng như ưu ái ban phép lành cho tất cả anh chị em.

 

Tại Vatican ngày 24/4/2006

 

Giáo Hoàng Biển Đức XVI

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 16/5/2006

 

 

TOP

 

 

Với Tham Dự Viên Khóa Hội Luận ở Sảnh Đường Phaolô ngày 10/4/2006 về Giáo Dục Cao Học Ở Âu Châu

 

Kính Đức Hồng Y,

Quí Huynh Khả Kính trong Hàng Giáo Phẩm và trong Hàng Linh Mục,

Quí Tôn Vị Nữ Nam,

 

Tôi hân hạnh tiếp đón anh chị em và thân ái chào tất cả anh chị em đang tham dự Buổi Hội Luận về đề tài: “Gia Sản Về Văn Hóa cùng Các Giá Trị Hàn Lâm của Đại Học Âu Châu và Tính Chất Thu Hút của Lãnh Vực Giáo Dục Cao Học Âu Châu”. Anh chị em đến tham dự từ khoảng 50 quốc gia Âu Châu gắn bó với cái được gọi là “Tiến Trình Bologna”, một tiến trình Giáo Hội cũng góp phần xây dựng của mình.

 

Tôi xin chào Đức Hồng Y Zenon Grocholewski, Tổng Trưởng Thánh Bộ Giáo Dục Công Giáo, vị đã ngỏ những lời lẽ nhã nhặn và trân trọng với tôi thay cho anh chị em, đồng thời giải thích cho biết những mục tiêu của cuộc họp này của anh chị em, và tôi xin cám ơn ngài về việc tổ chức cuộc họp này ở Vatican với sự hợp tác của Hội Đồng Viện Trưởng Các Đại Học Tòa Thánh, Học Viện Tòa Thánh Về Các Khoa Xã Hội Học, UNESCO-CEPES và Hội Đồng Âu Châu, với sự bảo trợ của Ủy Ban Âu Châu.

 

Tôi xin đặc biệt chào các vị Bộ Trưởng và các vị Đại Diện thuộc các Tổ Chức Quốc Tế cũng muốn đến tham dự cuộc họp này.

 

Trong những ngày này, việc anh chị em suy nghĩ tập trung vào sự đóng góp được các đại học Âu Châu, các đại học được phong phú hóa bởi một truyền thống lâu đời, có thể cống hiến vào việc xây dựng Âu Châu của ngàn năm thứ ba, chú trọng tới sự kiện là hết mọi thực tại về văn hóa vừa thuộc về ký ức quá khứ vừa là một dự phóng cho tương lai.

 

Giáo Hội có ý định thực hiện việc đóng góp của mình vào việc suy tư này như Giáo Hội đã từng làm qua các thế kỷ. Giáo Hội đã liên lỉ chú trọng tới những trung tâm nghiên cứu và những đại học của Âu Châu, một Âu Châu, cùng với ‘việc phục vụ về tư tưởng’, đã truyền lại cho các thế hệ trẻ những thứ giá trị của một gia sản đặc biệt về văn hóa được phong phú hóa bởi hai ngàn năm kinh nghiệm về nhân bản và Kitô Giáo (x Ecclesia in Europa, đoạn 59).

 

Trước tiến là đời sống đan viện đã thực hiện một ảnh hưởng đáng kể. Công lênh sự nghiệp của đời sống đan tu này, cả trong bối cảnh về tinh thần lẫn tôn giáo, cũng bao gồm cả các lãnh vực về kinh tế và tri thức nữa. Trong thời Charlemagne, các học đường thực sự được thành lập bằng việc đóng góp của Giáo Hội, và vị Hoàng Đế này nhiều người bao nhiêu có thể được hưởng lợi ích của những trường học đó.

 

Một ít thế kỷ sau tới việc xuất hiện đại học đường, cũng được xuất phát từ động lực chính yếu là Giáo Hội. Nhiều đại học Âu Châu, từ Đại Học Bologna đến các đại học ở Paris, Krakow, Salamanca, Cologne, Oxford và Prague, chỉ cần đầ cập tới một ít thế thôi, phát ttriển nhanh chóng và đóng một vai trò quan trọng trong việc củng cố căn tính Âu Châu và xây dựng gia sản văn hóa của nó.

 

Các cơ cấu đại học luôn được nổi bật bởi lòng yêu chuộng sự khôn ngoan và tìm cầu chân lý, như mục đích thật sự của các đại học, những điều liên lỉ gắn liền với nhãn quan Kitô Giáo là nhãn quan nhìn nhận con người là tác phẩm chính của thiên nhiên tạo vật, vì họ được dựng nên theo hình ảnh và tương tự như Thiên Chúa (x Gen 1:26-27).

 

Niềm xác tín rằng có một mối liên hệ sâu xa giữa sự thật và sự thiện, giữa những cái nhìn của trí khôn với những cái nhìn của tấm lòng: ‘Ubi amor, ibi oculos’, như Riccardo di San Vittore đã nói (x Beniamin minor, c. 13), đã luôn là mô mẫu của nhãn quan này: tình yêu làm cho con người nhìn thấy. Các đại học đường hiện hữu bởi lòng yêu chuộng kiến thức cũng như bởi sự tò mò muốn biết, muốn biết bản chất của thế giới, bản chất của con người, nhưng cũng hiện hữu bởi một thứ kiến thức dẫn đến tác hành, một kiến thúc cuối cùng dẫn tới yêu thương.

 

Quí tôn vị nữ nam, với một thoáng nhìn về Châu Lục ‘cổ’ dễ thấy được những thách đố về văn hóa Âu Châu ngày nay đang đương đầu, vì nó quyết tâm tái nhận thức căn tính của nó, một căn tính không phải chỉ hoàn toàn về kinh tế hay chính trị. Vấn đề căn bản ngày nay, cũng như trong quá khứ, vẫn là vấn đề về nhân loại học, đó là vấn đề con người là gì? Họ từ đâu tới? Họ rồi phải đi đâu? Họ phải đi như thế nào?

 

Nói cách khác, nó là vấn đề làm sáng tỏ quan niệm về con người, thành phần là nền tảng cho các dự phóng mới.

 

Và anh chị em có lý hỏi mình rằng đại học đường có ý định phục vụ nhân loại nào đây, hình ảnh con người nào đây: một cá thể thu mình vào việc bênh vực những tư lợi của họ, bênh vực quan điểm duy nhất về lợi lộc, một quan điểm duy vật, hay là một con người hướng về tình đoàn kết với kẻ khác trong việc tìm kiếm ý nghĩa đích thực của cuộc sống, một cuộc sống có một ý nghĩa chung vượt lên trên cá thể?

 

Chúng ta cũng ngẫm nghĩ về mối liên hệ giữa con người, khoa học và kỹ thuật là gì nữa. Nếu trong thế kỷ 19 và 20, kỹ thuật đã đạt được mức tiến bộ lạ lùng, thì ở đầu thế kỷ 21 này, những bước tiến đã được diễn ra, ở chỗ, kỹ thuật cũng nhờ khoa điện toán học cũng góp phần vào tiến trình tâm trí của chúng ta, với những thành quả liên quan tới cách thức chúng ta suy nghĩ và có thể hạn định chính tự do của chúng ta.

 

Cần phải mạnh mẽ nói rằng nhân loại không thể nào và không bao giờ được trở thành tế vật cho việc thành đạt của khoa học và kỹ thuật: đó là lý do tại sao cái được gọi là ‘vấn đề nhân loại học’ cho thấy tầm quan trọng hoàn toàn của nó.

 

Đối với chùng ta, thành phần thừa hưởng của truyền thống nhân bản được bắt nguồn từ các giá trị Kitô Giáo, vấn đề này cần phải được đối diện theo chiều hướng của những nguyên tắc sáng suốt thuộc nền văn minh của chúng ta, một nền văn minh được thành lập ở nơi các phòng thí nghiệm thực sự của các việc đại học Âu Châu trong việc nghiên cứu và việc đào sâu kiến thức.

 

‘Từ quan niệm thánh kinh về con người, Âu Châu kín múc được nền văn hóa đệ nhất về nhân bản’, Đức Gioan Phaolô II đã nhận định như thế trong Tông Huấn Hậu Thượng Nghị Giám Mục Ecclesia in Europa, “và đã phát triển phẩm vị của con người như là chủ thể của các thứ quyền lợi bất khả chuyển nhượng” (khoản 25). Bởi vậy, ‘Giáo Hội’, vị Tiền Nhiệm khả kính của tôi còn viết thêm, ‘ đã giúp làm phát triển và củng cố các thứ giá trị làm cho văn hóa Âu Châu trở thành phổ quát’ (ibid.).

 

Thế nhưng, con người không thể hiểu được chính mình hoàn toàn nếu họ coi thường Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao, cùng một lúc Âu Châu của ngàn năm thứ ba đang được xây dựng thì chiều kích tôn giáo của cuộc sống con người không thể bị loài trừ.

 

Ở đây vai trò đặc biệt của đại học hiện lên như là một vũ trụ về khoa học không chỉ giới hạn vào những thứ chuyên biệt khác nhau: trong tình hình hiện nay thì đại học đường không được dừng lại ở việc giảng dạy hay ở việc truyền đạt kiến thức về kỹ thuật và chuyên nghiệp là những khoa rất quan trọng nhưng chưa đủ, vì nó cũng cần phải thực hiện việc đóng một vai trò giáo dục đặc biệt để phục vụ các thế hệ mới nữa, bằng việc sử dụng di sản của các thứ lý tưởng và giá trị làm nên đặc tính của các thiên kỷ đã qua.

 

Nhờ đó, các việc đại học mới có thể giúp cho Âu Châu bảo trì và tái nhận thức được ‘cái hồn’ của nó, khi làm tái sinh động các căn gốc Kitô Giáo là những gì đã làm nên nó.

 

Quí tôn vị nữ nam, xin Thiên Chúa làm cho công cuộc của anh chị em và các nỗ lực của anh chị em mang lại lợi ích cho nhiều giới trẻ, thành phần là hy vọng của Âu Châu. Kèm theo niềm ước vọng này, tôi hứa cầu nguyện đặc biệt cho mỗi người trong anh chị em, và xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả anh chị em.

 

Đaminh Maria Cao tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2006/april/documents/hf_ben-xvi_spe_20060401_cath-educ_en.html

 

TOP

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI với Văn Phòng Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh và Thành Phần Đại Diện Tòa Thánh Ở Các Tổ Chức Quốc Tế hôm Thứ Bảy 19/3/2006

Đức Hồng Y cùng quí vị đại diện Tòa Thánh ở các tổ chức quốc tế thân mến,

 

Tôi thân ái tiếp đón quí vị trong cuộc gặp gỡ này, cuộc gặp gỡ lần đầu tiên tôi hân hoan có được, khi quí vị qui tụ lại ở Rôma để suy nghĩ về những vấn đề quan trọng của thời điểm hiện nay. Tôi thân ái chào tất cả quí vị và xin gửi đến Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh niềm chân thành cám ơn của tôi về những lời của ngài đại diện quí vị ngỏ cùng tôi.

 

Việc Tòa Thánh tham dự sâu rộng hơn vào các hoạt động quốc tế là những gì hết sức phấn khởi để Giáo Hội có thể tiếp tục lên tiếng nói với lương tâm của tất cả những ai làm nên cộng đồng quốc tế. Nó là việc phục vụ mềm mại và vất vả, một việc phục vụ, được nâng đỡ bởi quyền lực của chân lý, một  quyền lực có vẻ yếu kém nhưng hết sức thắng đoạt, nỗ lực cộng tác vào việc kiến tạo nên một xã hội quốc tế, một xã hội chú trọng hơn với phẩm vị của con người cũng như những đòi hỏi thực sự của con người.

 

Theo chiều hướng ấy, sự hiện diện của Tòa Thánh ở các tổ chức quốc tế liên chính quyền là những gì tiêu biểu cho việc đóng góp thiết yếu vào vấn đề tôn trọng nhân quyền và công ích, bởi đó, vào cả quyền tự do chân thực và công lý nữa. Chúng ta cần phải thực hiện một cuộc dấn thân chuyên biệt và đặc thù cho có hiệu nghiệm hơn, nếu cuộc dấn thân này kết hợp nỗ lực với những ai chân thành hiến mình cho sứ vụ của Giáo Hội trên thế giới này.

 

Những mối liên hệ giữa các quốc gia và trong quốc gia là những gì chân chính nếu chúng biết tôn trọng chân lý. Tuy nhiên, một khi sự thật bị coi thường thì hòa bình bị đe dọa, luật lệ gặp nguy khốn, kéo theo một hậu quả hợp tình hợp lý nữa đó là tình trạng bất công và tháo thứ. Đó là những lằn biên giới phân chia các quốc gia một cách còn sâu xa hơn cả những giới hạn được phác vẽ trên bản đồ địa dư, và thường chẳng những là những biên cương bờ cõi ngoại tại mà còn là nội tại đối với các quốc gia nữa.

 

Những thứ bất chính ấy cũng có những bộ mặt mới. Chẳng hạn, bộ mặt của tính cách thờ ơ lãnh đạm và hỗn loạn xẩy ra gây hại cho cơ cấu gia đình là tế bào căn bản của xã hội. Hay bộ mặt của chủ nghĩa độc đoán hay của tính cách ngạo mạn là những gì có thể được hợp pháp, làm câm nín đi những ai không có tiếng nói hay sức mạnh để được lắng nghe, như xẩy ra trong trường hợp bất công mà có lẽ ngày nay trường hợp bất công nhất là việc loại trừ đi sự sống con người vừa mới được phôi thai.

 

‘Thiên Chúa đã chọn thành phần yếu kém trên thế gian này để làm cho thành phần mạnh mẽ phải hổ ngươi’ (1Cor 1:27). Chớ gì tiêu chuẩn của tác động thần linh vẫn còn mạnh mẽ ngày nay ấy giúp cho quí vị không lấy làm ngỡ ngàng ngạc nhiên, lại càng không bị thất đảm nản lòng, trước những khó khăn và hiểu lầm. Thật vậy, quí vị biết rằng, nhờ chúng, quí vị tham dự một cách có thế lực vào trách nhiệm ngôn sứ của Giáo Hội, Một Giáo Hội nỗ lực để tiếp tục lên tiếng bênh vực con người, cho dù chính trị quốc gia hay đa số quần chúng có đi ngược chiều chăng nữa. Đúng vậy, sức mạnh của sự thật được chất chứa trong chính sự thật, chứ không phải ở con số ưng thuận nó nhận được.

 

Xin quí vị hãy tin rằng tôi đồng hành với quí vị trong sứ vụ vất vả và quan trọng của quí vị một cách ưu ái theo dõi và chân thành tri ân, và để bảo đảm việc tôi nhớ đến quí vị trong lời nguyện cầu của tôi, tôi ban cho tất cả quí vị phép lành tòa thánh của tôi.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 20/3/2006

 TOP

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI: Nguyên Văn Huấn Từ cho Đại Hội Thường Niên của Hội Đồng Tòa Thánh Về Truyền Thông Xã Hội

 

Sau đây là huấn từ của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI ngỏ cùng thành phần tham dự viên Đại Hội của Hội Đồng Tòa Thánh Về Truyền Thông Xã Hội, khi họ đến triều kiến ngài ngày 17/3/2006 tại Sảnh Đường Clementine trong Tông Dinh Vatican.

 

Quí Hồng Y,

Quí Giám Mục,

Anh Chị Em thân mến trong Chúa Kitô,

 

Thật là vui mừng được đón tiếp anh chị em ở Vatican hôm nay nhân dịp đại hội thường niên của Hội Đồng Giáo Hoàng Về Truyền Thông Xã Hội. Trước hết tôi xin cám ơn Đức Tổng Giám Mục Foley, chủ tịch của hội đồng này, về những lời lẽ mở đầu tốt đẹp của ngài, và thực sự là cám ơn tất cả anh chị em về việc anh chị em dấn thân cho hoạt động tông đồ truyền thông xã hội quan trọng, như là một hình thức trực tiếp từ truyền bá phúc âm hóa cũng là việc góp phần vào vấn đề cổ võ tất cả những gì là thiện hảo cùng chân thực cho hết mọi xã hội loài người.

 

Sứ điệp đầu tiên của tôi cho Ngày Thế Giới Truyền Thông đã nói đến vấn đề truyền thông đại chúng như là một cơ cấu trong việc làm dễ dàng hóa vấn đề truyền đạt, hiệp thông và hợp tác. Tôi nói như vậy khi nhắc lại rằng sắc lệnh của Công Đồng Chung Vaticanô II, “Inter Mirifica”, đã công nhận cái năng lực lớn lao của việc truyền thông đại chúng trong vấn đề làm cho tâm trí con người hiểu biết và khuôn đúc tâm tưởng của họ. Bốn mươi năm sau, chúng ta nhận thấy, hơn bao giờ hết, nhu cầu khẩn trương trong việc củng cố quyền lực này cho thiện ích của toàn thể nhân loại.

 

Thánh Phaolô đã nhắc nhở chúng ta rằng nhờ Chúa Kitô chúng ta không còn là những kẻ xa lạ và ngoại cuộc mà là thành phần công dân với các thánh và phần tử của gia đình Thiên Chúa, phát triển thành một đền thờ thánh hảo, một nơi Thiên Chúa ngự (x Eph 2:19-22). Hình ảnh cao đẹp về một đời sống hiệp thông bao gồm tất cả mọi khía cạnh của đời sống Kitô hữu chúng ta, nhất là đối với anh chị em, là những gì thách đố trong việc phấn khích các thứ truyền thông xã hội và các kỹ nghệ về giải trí trở thành những kẻ bênh vực chân lý và là những cổ động viên một thứ hòa bình xuất phát từ những cuộc sống theo sự thật giải phóng.  

 

Như anh chị em quá rõ, việc dấn thân này đòi hỏi một lòng can đảm và dứt khoát về nguyên tắc nơi những ai sở hữu và hoạt động trong kỹ nghệ truyền thông có một tầm ảnh hưởng vĩ đại ấy, hầu bảo đảm rằng việc cổ võ công ích không bao giờ được trở thành giá hy sinh cho việc tìm cầu mưu lợi cá nhân hay cho những hoạt động ý hệ thiếu trách nhiệm chung. Khi suy nghĩ tới các mối quan tâm ấy, tôi tin tưởng rằng việc nghiên cứu của anh chị em về bức tông thư ‘The Rapid Development – Việc Phát Triển Nhanh’ của vị Tiền Nhiệm yêu dấu của tôi sẽ là những gì hết sức ích lợi.

 

Qua sứ điệp của tôi năm nay,tôi cũng muốn kéo chú ý đặc biệt tới nhu cầu khẩn trương trong việc bênh đỡ và ủng hộ đời sống hôn nhân và gia đình là nền tảng của hết mọi văn hóa và xã hội. Bằng cách cộng tác với thành phần phụ huynh, các ngành truyền thông và kỹ nghệ giải trí có thể hỗ trợ ơn gọi dưỡng dục con cái tuy khó khăn nhưng cũng hết sức an ủi này, qua việc trình bày những mô phạm có tính cách xây dựng về cuộc sống và tình yêu thương nhân loại. Thật là buồn nản và thiệt hại biết bao cho tất cả chúng ta khi xẩy ra những gì ngược lại như thế! Lòng chúng ta đã chẳng kêu lân hay sao, nhất là khi giới trẻ của chúng ta chiều theo những thể hiện yêu thương đê hèn hay sai lầm là những gì tỏ ra nhạo báng diễu cợt phẩm vị thiên phú của con người và gây tác hại cho lợi ích gia đình?

 

Tóm lại, tôi xin anh chị em hãy lập lại những nỗ lực của mình trong việc hỗ trợ những ai hoạt động trong thế giới truyền thông đại chúng để cổ võ những gì là thiện hảo và chân thực, nhất là những gì liên quan tới ý nghĩa của cuộc sống con người và xã hội, cũng như để bài bác những gì là sai lầm, nhất là các chiều hướng độc hại đang tác hại tới cơ cấu của một xã hội dân sự xứng với con người. Chớ gì những lời của Thánh Phaolô làm cho chúng ta phấn khởi, đó là: Chúa Kitô là hòa bình của chúng ta: Nơi Người chúng ta là một (x Eph 2:14)! Và chớ gì chúng ta cùng nhau xây dựng mối hiệp thông yêu thương theo ý định của Đấng Hóa Công được tỏ ra qua Con của Ngài! Tôi thân ái ban phép lành tòa thánh cho tất cả mọi anh chị em, đồng nghiệp của anh chị em và phần tử thuộc gia đình của anh chị em ở nhà.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 17/3/2006

 

 

 

TOP

 

 

ĐTC Biển Đức XVI với Tham Dự Viên Hội Nghị Quốc Tế tại Hall of Blessings ngày 11/3/2006 Nhân Dịp 40 Năm Sắc Lệnh Về Truyền Giáo ‘Ad Gentes – Cho Muôn Dân’

 

Quí Hồng Y,

Chư Huynh Khả Kính trong Hàng Giáo Phẩm và Linh Mục,

Anh Chị Em thân mến,

Tôi thân ái chào tất cả anh chị em tham dự Hội Nghị Quốc Tế được Thánh Bộ Truyền Bá Phúc Âm Hóa Chư Dân và Đại Học Tòa Thánh Urban nhân dịp 40 năm kỷ niệm Sắc Lệnh Ad Gentes của Công Đồng Chung Vaticanô II.

Trước hết tôi xin chào ĐHY Crescenzio Sepe, Tổng Trưởng Thánh Bộ Truyền Bá Phúc Âm Hóa Chư Dân, và cám ơn ngài về những gì ngài ngỏ cùng tôi thay cho anh chị em. Tôi xin chào các vị Giám Mục và linh mục hiện diện nơi đây cùng tất cả những ai tham dự vào hội nghị này, một hội nghị hợp thời hơn bao giờ hết trong việc đáp ứng với nhu cầu cần phải tiếp tục đào sâu kiến thức về các giáo huấn của Công Đồng Chung Vaticanô II, hầu thể hiện cái quyền năng mãnh liệt được khóa họp Công Đồng này mang lại cho đời sống và sứ vụ của Giáo Hội.

Thật vậy, việc chuẩn nhận bản Sắc Lệnh Ad Gentes ngày 7/12/1965 này đã mang lại một tác lực mới cho sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội. Các cơ sở về thần học của việc dấn thân truyền giáo đã được rõ ràng nêu lên, cùng với giá trị và tính cách hợp thời của nó trước những đổi thay trên thế giới cũng như những thách đố của đời sống tân tiến đối với việc rao giảng Phúc Âm (x đoạn 1).

Giáo Hội đã có được một nhận thức rõ ràng hơn bao giờ hết về ơn gọi truyền giáo bẩm sinh của mình, khi nhìn nhận nó là yếu tố làm nên chính bản tính của mình.

Vì tuân theo lệnh truyền của Chúa Kitô, Đấng đã sai các môn đệ đi rao giảng Phúc Âm cho tất cả mọi dân nước (x Mt 28:18-20), cộng đồng Kitô hữu trong thời đại của chúng ta nữa cũng cảm thấy mình được sai đi đến với những con người nam nữ của đệ tam thiên niên, để làm cho họ quen thuộc với sự thật của sứ điệp Phúc Âm, nhờ đó giúp họ có thể tiến vào con đường cứu độ.

Và điều này, như tôi đã nói, không phải là một chọn lựa mà là một ơn gọi xứng hợp với Dân Chúa, một nhiệm vụ được úy thác cho Dân Chúa bởi lệnh truyền của chính Chúa Giêsu Kitô (x Evangelii Nuntiandi, đoạn 5).

Thật ra việc loan báo và làm chứng cho Phúc Âm là việc phục vụ tiên khởi Kitô hữu có thể mang đến cho hết mọi người cũng như cho toàn thể nhân loại, thành phần Kitô hữu được kêu gọi để truyền đạt cho tất cả mọi người tình yêu của Thiên Chúa đã được hoàn toàn tỏ hiện nơi Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc duy nhất của thế giới.

Việc ban hành Sắc Lệnh Ad Gentes của Công Đồng mà anh chị em đã giành ra để suy niệm này đã đề cao hơn nữa căn gốc nguyên thủy nơi sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội, tức là sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa, mạch nguồn được các Ngôi Vị Thần Linh tuôn đổ tác động yêu thương xuống trên nhân loại. Tất cả đều xuất phát từ Trái Tim của Chúa Cha trên trời, Đấng đã quá yêu thương thế gian đến ban Người Con Duy Nhất của mình để những ai tin vào Con thì không bị chết song được sự sống đời đời (x Jn 3:16).

Với mầu nhiệm Nhập Thể, Người Con Duy Nhất này đã trở thành Vị Trung Gian đích thực và tối cao giữa Chúa Cha và con người nam nữ. Nơi Đấng đã chết đi và sống lại, niềm trìu mến quan phòng của Chúa Cha vươn tới hết mọi người qua các hình thức và đường lối chỉ có Ngài biết mà thôi.

Phận sự của Giáo Hội là thông truyền tình yêu thần linh này ra không ngừng qua hành động sống động của Thánh Linh. Thật vậy, Thần Linh chính là Đấng biến đổi đời sống của người tín hữu, giải thoát họ khỏi tình trạng làm tôi cho tội lỗi và sự chết, khiến họ có thể làm chứng cho tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa, Đấng muốn làm cho nhân loại trở thành một gia đình duy nhất nơi Con của Ngài (x Thông Điệp Thiên Chúa Là Tình Yêu, đoạn 19).

Ngay từ đầu, Dân Kitô Giáo đã rõ ràng thấy được tầm quan trọng của việc chia sẻ những kho tàng của tình yêu thương này với những ai chưa biết Chúa Kitô, bằng hoạt động truyền giáo liên lỉ.

Nhu cầu cần phải tái khẳng định việc dấn thân này đã được cảm thấy thậm chí mãnh liệt hơn trong những năm gần đây, vì ở giai đoạn tân tiến này, như Vị Tiền Nhiệm yêu dấu Gioan Phaolô II của tôi đã nhận định, the mission ad gentes – truyền giáo cho muôn dân đôi khi đã dường như bị trì trệ bởi những khó khăn vì các đổi thay nơi những bối cảnh về nhân loại học, văn hóa, xã hội và tôn giáo của nhân loại.

Ngày nay, Giáo Hội được kêu gọi để đương đầu với những thách đố mới và để sẵn sàng đối thoại với các nền văn hóa và tôn giáo khác, cùng với thành phần thiện tâm tìm cách xây dựng việc đồng chung sống giữa các dân tộc.

Như thế, lãnh vực mission ad gentes – truyền giáo cho muôn dân được vươn rộng một cách đáng kể và không thể được ấn định chỉ nguyên về địa dư hay luật lệ; thật vậy, hoạt động truyền giáo của Dân Chúa không phải chỉ có ý nhắm tới các dân tộc không phải Kitô Giáo và những miền đất xa vắng, mà trước hết nhắm đến các môi trường và trung tâm về xã hội và văn hóa.

Việc thực thi lệnh truyền này một cách trung thành đòi phải nhẫn nại và nhìn xa trông rộng, can đảm và khiêm nhu, lắng nghe Lời Chúa và ý thức được ‘các dấu chỉ thời đại’. Sắc lệnh ‘Ad Gentes – cho muôn dân’ của Công Đồng này cho thấy việc Giáo Hội ý thức là, để ‘những gì Chúa Kitô hoàn tất cho phần rỗi của tất cả mọi người, qua giòng thời gian, có thể đạt được thành quả đại đồng (đoạn 3), cần phải đi con đường như Chúa Kitô đã đi, con đường dẫn đến cái chết trên cây thập tự giá.

Thật thế, hoạt động truyền bá phúc âm hóa “cần phải bước đi con đường được chính Chúa Kitô bước đi, con đường nghèo khó và tuân phục, con đường phục vụ và tự hiến cho tới chết, một cái chết từ đó Người trở thành vinh thắng… (ibid đoạn 5). Phải! Giáo Hội được kêu gọi để phục vụ nhân loại trong thời đại của chúng ta, bằng việc tin tưởng vào một mình Chúa Kitô, khi để cho Giáo Hội được Lời Ngài soi chiếu và bắt chước Người trong việc quảng đại tự hiến mình cho anh em. Giáo Hội là một dụng cụ trong tay Người, chính vì thế Giáo Hội làm những gì có thể, ý thức rằng Đấng làm hết mọi sự là Chúa.

Anh chị em thân mến, cám ơn anh chị em về những suy tư anh chị em đã khai triển trong những ngày này, đào sâu kiến thức của anh chị em về nội dung và cung cách của hoạt động truyền giáo trong thời đại của chúng ta, và suy nghĩ đặc biệt tới việc làm sáng tỏ vai trò thần học, một vai trò cũng đào sâu một cách có phương pháp về các khía cạnh khác nhau của việc Giáo Hội truyền giáo.

Nhờ việc góp phần của tất cả mọi Kitô hữu, việc loan báo Phúc Âm chắc chắn sẽ là những gì khả thức  và hiệu quả hơn bao giờ hết. Xin Mẹ Maria, Minh Tinh Truyền Bá Phúc Âm Hóa, hỗ trợ và nâng đỡ những ai ở nhiều miền đất trên thế giới đang hoạt động ở tiền tuyến Truyền Giáo.

Về vấn đề này, làm sao người ta quên được những vị, cả các vị mới đây nữa, đã hiến mạng sống mình vì Phúc Âm? Chớ gì việc hy sinh của các vị đạt được một mùa xuân mới, phong phú nơi hoa trái tông đồ cho việc truyền bá phúc âm hóa. Chúng ta hãy cầu nguyện cho vấn đề này, ký thác cho Chúa tất cả những ai làm việc qua những đường lối khác nhau ở đại vườn nho của Chúa.

Với những cảm thức ấy, tôi ban Phép Lành Tòa Thánh cho anh chị em đang hiện diện nơi đây, và tôi thân ái gửi phép lành Tòa Thánh cho các người thân yêu của anh chị em, cũng như cho các Cộng Đồng Giáo Hội anh chị em thuộc về.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2006/march/documents/hf_ben-xvi_spe_20060311_ad-gentes_en.html

 

TOP

 

Giáo Hoàng Biển Đức XVI với Hội Nghị Thường Niên của Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin 10/2/2006 ở Sảnh Đường Clementine

 

Quí Hồng Y,

Quí Huynh Khả Kính trong Hàng Giáo Phẩm và Linh Mục

Anh Chị Em thân mến,

 

Tôi hân hoan gặp gỡ Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin vào lúc kết thúc hội nghị hằng năm của nó, một thánh bộ tôi đã giữ vai trò làm chủ tịch hơn 20 năm theo ý của Vị Tiền Nhiệm của tôi là Giáo Hoàng khả kính Gioan Phaolô II.

 

Các khuôn mặt của anh chị em cũng làm cho tôi nhớ đến tất cả những ai hợp tác với phân bộ này trong những năm ấy: tôi nhớ đến tất cả những người trong họ với lòng biết ơn và cảm mến. Thật vậy, tôi không thể nào không cảm xúc khi nhớ tới giai đoạn rất cam go đầy hoa trái tôi đã có với thánh bộ này, một thánh bộ có nhiệm vụ phát động vào bảo toàn tín lý của đức tin và luân lý trong toàn thể Giáo Hội Công Giáo (x Pastor Bonus, 48).

 

Đức tin có một tầm vóc hết sức quan trọng trong đời sống Giáo Hội, vì tặng ân tỏ mình ra nơi Mạc Khải là những gì nồng cốt và tặng ân Thiên Chúa tỏ mình này là những gì được chấp nhận bằng đức tin.

 

Ở đây mới thấy được tính cách quan trọng nơi thánh bộ của anh chị em. Nhờ việc phục vụ của mình cho toàn thể Giáo Hội cũng như cho riêng các vị giám mục là thày dạy đức tin và là mục tử, thánh bộ này thực sự được kêu gọi trong tinh thần đoàn tính để phấn khích và nhắc nhở tính cách trọng yếu của đức tin Công Giáo qua việc thể hiện chân thực của nó.

 

Ngoài ra, bất cứ khi nào nhận định về tính cách trọng yếu này bị yếu kém đi thì kết cấu của đời sống Giáo Hội bị mất đi tính cách sáng ngời nguyên thủy của nó và trở thành mờ nhạt, ở chỗ, nó bị thoái hóa thành chủ nghĩa duy động cằn cỗi hay bị biến thành động cơ chính trị có mùi vị trần tục.

 

Trái lại, nếu sự thật của đức tin được chân thành và dứt khoát được đăt làm tâm điểm của đời sống Kitô Giáo thì sự sống con người sẽ được đổi mới và phục hồi bởi một tình yêu không biết mỏi mệt và giới hạn, như tôi cũng đã có dịp nhắc đến trong thông điệp ‘Thiên Chúa Là Tình Yêu” mới đây của tôi.

 

Đức bác ái, như tình yêu đổi mới tất cả mọi sự, chuyển từ Trái Tim của Thiên Chúa đến Trái Tim của Chúa Giêsu Kitô, và qua Thần Linh của Ngài đến khắp thế giới. Tình yêu thương này được bắt nguồn từ cuộc gặp gỡ Chúa Kitô trong đức tin: “Là Kitô hữu không phải là thành quả của việc chọn lựa về đạo lý hay của một ý nghĩ cao vời, mà là cuộc gặp gỡ nơi một biến cố, một con người, những gì cống hiến hồn sống cho một chân trời mới và một hướng đi quyết liệt” (Deus  Caritas Est, 1).

 

Chúa Giêsu Kitô là Sự Thật Được Nhân Cách Hóa, Đấng thu hút thế giới về với mình. Ánh sáng từ Chúa Giêsu chiếu tỏa là ánh quang chân lý. Hết mọi thứ sự thật khác là một mảnh của Sự Thật là Người và về Người này.

 

Chúa Giêsu là Ngôi Sao Bắc Đẩu của tự do con người: Không có Người, tự do bị mất đi cái cảm quan về chiều hướng, vì thiếu kiến thức về sự thật thì tự do bị suy thoái, trở thành cô lập và tác hành một cách vô công hiệu.

 

Với Người, tự do được tái nhận thức; nó được nhìn nhận là được dựng nên cho thiện ích của chúng ta và được thể hiện qua các hành động cùng cử chỉ bác ái. 

 

Bởi thế Chúa Giêsu làm cho con người nam nữ được hoàn toàn thân mật với sự thật và tiếp tục mời gọi họ hãy sống trong sự thật. Nó là sự thật được cống hiến như là một thực tại phục hồi con người đồng thời vượt trên con người và ở trên con người, như một Mầu Nhiệm bao gồm và đồng thời vượt quá khả năng của lý trí con người.

Không gì có thể thay thế được lòng mến yêu chân lý thúc đẩy con người hướng đến những  chân trời chưa được khám phá. Chúa Giêsu Kitô, Đấng là toàn chân, lôi kéo tâm hồn của mỗi một con người, mở rộng nó và làm cho nó tràn nay niềm vui. Thật vậy, chỉ một mình sự that mới có thể chiếm đoạt tâm trí và làm cho nó trọn vẹn hân hoan.

Chính niềm vui này làm gia tăng các chiều kích của tâm can con người, làm cho nó thoát khỏi tính cách hẹp hòi của lòng vị kỷ và cống hiến cho nó khả năng yêu thương đích thực. Đó là cảm nghiệm của niềm vui thúc nay và thu hút con người đến việc tự do tôn thờ, không phải bằng việc quị lụy đê hèn mà bằng lòng kính tôn chân thành trước Chân Lý họ gặp gỡ.

Bởi vậy, việc phục vụ cho đức tin, tức việc làm chứng cho Đấng là tất cả Sự Thật, cũng là việc phục vụ niềm vui, và đó là niềm vui Chúa Kitô muốn làm tràn lan trên khắp thế giới: Nó là niềm vui của lòng tin tưởng nơi Người, của sự thật được Người truyền đạt, của ơn cứu độ xuất phát từ Người! Chính niềm vui này chúng ta cảm thấy trong lòng khi chúng ta tin tưởng quì xuống tôn thờ Chúa Giêsu!

Lòng mến yêu chân lý này cũng tác động và hướng dẫn Kitô hữu tiến tới với thế giới hiện đại và với cuộc dấn thân truyền bá phúc âm hóa của Giáo Hội, những đề tài được anh chị em bỏ giờ ra để bàn luận trong cuộc hội nghị này của mình.

Giáo Hội hân hoan tiếp nhận những khám phá đích thực của kiến thức con người, và nhìn nhận rằng việc truyền bá phúc âm hóa cũng đòi hỏi cần phải thấu triệt một cách xứng hợp những chân trời cùng với những thách đố được kiến thức tân thời khám phá thấy. Thật vậy, mức tiến bộ cả thể của kiến thức khoa học như chúng ta đã thấy trong thế kỷ vừa qua đã giúp chúng ta hiểu được mầu nhiệm tạo dựng hơn và có một tính cách nhận thức sâu xa về tất cả mọi dân tộc.

Tuy nhiên, những tiến bộ của khoa học đôi khi nhanh đến nỗi làm cho việc nhận thức trở thành khó khăn ở chỗ không biết rằng chúng có phù hợp với các chân lý về con người và về thế giới như Thiên Chúa mạc khải cho biết hay chăng. Có những lúc, có những chủ trương theo kiến thức khoa học chống lại các sự thật này. Điều này làm cho tín hữu bị lẫn loan cách nào đó, khiến cho việc loan báo và chấp nhận Phúc Âm trở thành khó khăn.

Bởi thế, heat mọi việc học hỏi nghiên cứu nhắn đến chỗ đào sâu kiến thức về những chân lý được lý trí khám phá ra đều là những gì hết sức quan trọng, với niềm xác tín rằng không có “vấn đề tranh chấp nhau giữa lý trí và đức tin” (Thông Điệp Đức Tin và Lý Trí, khoản 17).

Chúng ta không được sợ hãi khi phải đối diện đương đầu với thách đố này: Chúa Giêsu Kitô thật sự là Chúa của tất cả mọi tạo sinh và của tất cả lịch sử. Người tín hữu quá biết rằng “tất cả mọi sự được tạo doing nên nhờ Người và cho Người… và trong Người tất cả mọi sự được liên kết với nhau” (Col 1:16,17).

Bằng việc liên tục đào sâu kiến thức về Chúa Kitô, trung tâm của vũ trụ và của lịch sử, chúng ta có thể cho con người nam nữ trong thời đại chúng ta thấy được rằng niềm tin tưởng nơi Người là những gì quan trọng đối với tương lai của nhân loại: Thật vậy, nó là việc hoàn thành cho tất cả những gì là nhân loại chân thực. Chỉ ở nơi quan điểm này chúng ta mới có thể cung ứng những giải đáp thuyết phục cho con người đang tìm kiếm chân lý.

Việc dấn thân này là những gì hết sức hệ trọng cho việc loan báo và truyền đạt đức tin trong thế giới hiện đại. Thật thế, ngày nay công việc truyền bá phúc âm hóa là một ưu tiên khẩn trương và đòi phải thực hiện việc dấn thân tương xứng.

Cuộc đối thoại giữa đức tin và lý trí, giữa tôn giáo và khoa học, không những làm cho nó có thể tỏ cho con người trong thời đại của chúng ta thấy được cái hợp tình hợp lý của niềm tin tưởng nơi Thiên Chúa một cách hiệu nghiệm và thuyết phục bao nhiêu có thể, mà còn chứng tỏ là việc hoàn toàn mãn nguyện hết mọi ước vọng chân thực của con người chỉ có ở nơi Chúa Giêsu Kitô mà thôi. Về vấn đề này, nỗ lực nghiêm trọng truyền bá phúc âm hóa không thể nào bỏ qua được những vấn đề cũng xuất phát từ các khám phá của khoa học và triết học ngày nay.

Lòng ước mong tìm thấy chân lý là những gì thuộc về chính bản tính của con người. Toàn thể tạo thành là lời mời gọi mãnh liệt hãy tìm kiếm những câu giải đáp hướng lý trí con người tới câu đại giải đáp lu6on được nó kiếm tìm và trông đợi: “Chân lý của mạc khải Kitô Giáo, được thấy nơi Chúa Giêsu Nazarét, là những gí có thể giúp con người nam nữ thấm nhiễm ‘mầu nhiệm’ về chính cuộc sống của họ. Là sự thật tuyệt đối, nó kêu gọi con người hãy hướng tới siêu việt thể, trong khi đó, vẫn tôn trọng tính cách độc lập của một tạo vật và quyền tự do của họ. Về điểm này, mối liên hệ giữa tự do và sự thật mới trọn vẹn, và chúng ta mới hiểu được ý nghĩa hoàn toàn của những lời Chúa Kitô nói:

“Quí vị sẽ nhận biết sự thật và sự thật sẽ giải phóng quí vị” (Jn 8:32) (Thông Điệp Đức Tin và Lý Trí, đoạn 15).

Nơi vấn đề này, thánh bộ đây thấy được động lực dấn thân của mình cùng với chân trời phục vụ của mình. Việc phục vụ của anh chị em cho một đức tin trọn vẹn là việc phục vụ cho chân lý, bởi thế cũng là việc phục vụ cho niềm vui, một niềm vui xuất phát từ tận đáp long, một niềm vui xuất phát từ những thẳm cung của tình yêu được Chúa Kitô mở ra từ Trái Tim của Người bị đâm thâu trên Thập Giá và là một tình yêu được Thần Linh của Người tuôn đổ một cách dồi dào bất tận vào thế giới. Theo chiều hướng ấy, thừa tác vụ về tín lý của anh chị em có thể được định nghĩa một cách thích hợp là “mục vụ”.

Thật thế, việc phục vụ của anh chị em, là việc phục vụ cho vấn đề làm cho lan tỏa trọn vẹn ánh sáng của Thiên Chúa trên thế giới này! Chớ gì ánh sáng của đức tin, được thể hiện qua tính cách trọn vẹn và nguyên vẹn của nó, luôn soi chiếu hoạt động của anh chị em và là “minh tinh” hướng dẫn anh chị em cùng giúp anh chị em hướng tâm hồn con người về với Chúa Kitô!

Đây là một công việc năng nề nhưng hào hứng thuộc về Vị Thừa Kế Thánh Phêrô nơi sứ vụ của ngài mà anh chị em được kêu gọi hợp tác. Cám ơn hoạt động của anh chị em và việc phục vụ của anh chị em!

Với những cảm thức ấy tôi ban pháp lành cho tất cà anh chị em.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2006/february/documents/hf_ben-xvi_spe_20060210_doctrine-faith_en.html 

TOP

 

ĐTC Biển Đức XVI với Hội Nghị Quốc Tế về Nhân Bào Phôi Thai 27/2

Hội Nghị Quốc Tế hai ngày (27-28/2/2006) ở Sảnh Đường Clementine về chủ đề “Nhân Bào Phôi Thai Trước Khi Được Cấy”, với sự tham dự của 350 nhân vật bao gồm khoa học gia, bác sĩ, chuyên viên đạo lý sinh học và thần học gia, đã được gặp gỡ Đức Thánh Cha hôm Thứ Hai 27/2, vị đã huấn dụ họ với những ý tưởng chính yếu như sau. Theo ngài, tình yêu thương của Thiên Chúa không phân biệt tuổi tác, nên Giáo Hội đã bênh vực tính chất bất khả vi phạm của họ ngay từ khi họ được thụ thai.

“Tình yêu thương của Thiên Chúa không phân biệt giữa thành phần phôi nhi mới được thụ thai trong lòng mẹ mình, với thành phần thơ nhi, thành phần giới trẻ, thành phần người lớn và thành phần lão nhân, vì nơi mỗi một người trong họ, Ngài đều thấy dấu hiệu về hình ảnh của Ngài và những gì giống như Ngài.

“Mối tình yêu thương vô bến bờ và hầu như khôn thấu này của Thiên Chúa đối với con người cho thấy những gì con người đáng được yêu thương đối với Ngài, bất kể những yếu tố khác như trí thông minh, vẻ đẹp, sức khỏe, trẻ trung, nguyên tuyền toàn vẹn v.v.

“Tóm lại, sự sống con người bao giờ cũng là một sự thiện, vì nó là một biểu hiện của Thiên Chúa trên thế giới, là dấu hiệu cho thấy việc hiện diện của Ngài, là ánh quang phản chiếu vinh hiển của Ngài.

“Thật vậy, con người được ban cho một phẩm vị cao cả, một phẩm vị được bắt nguồn từ mối liên hệ sâu xa thắt kết họ với Ngài là Đấng Hóa Công của họ: Nơi con người, nơi hết mọi người, nơi bất cứ giai đoạn hay tình trạng sự sống nào của họ, một phẩm vị chiếu tỏa chính thực tại về Thiên Chúa.

“Chính vì lý do đó mà huấn quyền của Giáo Hội đã liên lỉ rao giảng tính chất linh thánh bất khả vi phạm của hết mọi sự sống con người, từ khi nó được thụ thai cho tới khi tự nhiên qua đi. Phán quyết về luân lý này vốn có hiệu lực ngay từ khi bắt đầu có sự sống nơi phôi bào, ngay trước no được cấy vào lòng một bà mẹ, nơi bảo vệ và nuôi dưỡng nó trong 9 tháng cho tới khi ra đời.

“Chúng ta đã cải tiến kiến thức của chúng ta rất nhiều và khá hơn, một kiến thức đồng hóa với những hạn chế của việc vô tri của chúng ta, thế nhưng, đối với trí thông minh của con người, nó dường như trở thành quá khó khăn trong việc nhận thức rằng khi chiêm ngưỡng thiên nhiên tạo vật con người thấy được dấu chỉ của Đấng Hóa Công.

“Thật thế, ai mến yêu sự thật đều phải nhận thấy rằng việc nghiên cứu những đề tài sâu xa như thế làm cho chúng ta có thể thấy được và hầu như chạm tới bàn tay của Thiên Chúa.

“Ở bên ngoài những giới hạn của các phương pháp về thử nghiệm, ở những hạn chế của lãnh vực được một số người gọi là phân tích siêu hình, nơi nhận thức của cảm quan và các thử nghiệm của khoa học chẳng những không xứng hợp mà còn thậm chí bất khả, thì ở đó chính là khởi điểm của cuộc thám hiểm về siêu việt thể, cuộc dấn thân ‘vượt thoát’”

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 27/2/2006

   TOP

 

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI với Tòa Rota Rôma dịp hằng năm khai mạc năm pháp lý 28/1

 

Sáng ngày Thứ Bảy 28/1/2006, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã tiếp phái đoàn phục vụ tòa Rota ở Rôma nhân dịp hằng năm khai mạc năm pháp lý.

 

Trong bài huấn từ của mình, ngài đã nhắc lại di sản giáo huấn phong phú của Đức Gioan Phaolô II về vấn đề giáo luật được chất chứa trong Bản Hướng Dẫn “Dignitas connubii” liên quan tới các phương thức cần phải được tuân theo trong những việc điều tra cần để tiêu hôn. Ngài nói:

 

“Việc đóng góp lớn nhất của Bản Hướng Dẫn này, một bản hướng dẫn tôi hoàn toàn tin rằng được các tòa án của Giáo Hội áp dụng, bao gồm việc đề cập tới tầm mức và cách thức có những qui chuẩn đặc biệt ở những khoản giáo luật hiện hành cần phải áp dụng cho việc tiêu hôn, mà vẫn theo các qui chuẩn đặc biệt liên quan tới tình trạng của con người, hay liên quan tới thiện ích chung nữa”.

 

Ngài đã nhắc lại rằng, trong Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới hồi Tháng 10/2005 về Thánh Thể, các Nghị Phụ đã “kêu gọi các tòa án của Giáo Hội hãy hết sức nỗ lực để bảo đảm rằng các phần tử tín hữu không kết hôn theo giáo luật, sớm bao nhiêu có thể, được bình thường hóa tình trạng tại gia của họ”, nhờ đó được rước lễ lại. Tuy nhiên, ngài tiếp tục:

 

“Pháp lý giáo luật và Bản Hướng dẫn mới đây dường như đặt giới hạn cho vấn đề về mục vụ, như thể mối quan tâm về nguyên tắc là để làm trọn các thứ thủ tục về pháp lý, nhưng lại không lưu ý gì tới các mục đích mục vụ nơi tiến trình pháp lý. Ẩn nấp đằng sau đường lối này là một thứ xung khắc được cho là xẩy ra giữa luật lệ và việc chăm sóc mục vụ nói chung.

 

“Trong cuộc gặp gỡ của tôi với quí vị lần đầu tiên đây, tôi muốn chú ý tới một khía cạnh tiêu biểu cho vấn đề gặp gỡ chính yếu giữa luật lệ và việc chăm sóc mục vụ, đó là việc yêu chuộng chân lý”.

 

Theo chiều hướng này, ngài đã nhấn mạnh tới vấn đề “mục đích của một cuộc điều trần của tòa án là tuyên bố sự thật từ thành phần vô tư thứ ba” ra sao, sau khi cả đôi bên được dịp trình bày trường hợp của mình “trong mộït giới hạn bàn luận thích hợp…. Bởi thế, tất cả mọi hệ thống pháp luật cần phải có khuynh hướng bảo đảm tính cách khách quan, thời hạn và hiệu năng đối với các quyết định của chư vị thẩm phán”.

 

Sau đó ngài đã nói tới vấn đề các tòa án làm sao để có thể nhận thấy là họ đang giải quyết những vấn đề “vượt ngoài cả phạm vi của thành phần liên quan, vì những vấn đề ấy liên quan tới các thứ quyền lợi của toàn thể cộng đồng Giáo Hội”. Chính vì phương diện này mà “những lý do để công bố hủy hôn không thành. Thật vậy, hôn nhân theo chiều kích song hành của nó – tự nhiên và bí tích – không phải là những gì đôi phối ngẫu có thể tùy ý quyết định, hay, căn cứ vào tính chất xã hội và công khai của nó, không thể nghĩ ra một hình thức tự quyết nào đó”.

 

Sau khi nhấn mạnh rằng “không một cuộc điều trần nào ở tòa án tự bản chất ‘chống lại’ với bên kia, như thể mục đích của nó là để giáng xuống một hình thức trừng phạt nào đó. Mục đích của cuộc điều trần, ngược lại, là để công bố sự thật liên quan tới tính chất hiệu thành hay bất hiệu thành của một cuộc hôn nhân chuyên biệt; nói cách khác, là để công về về thực tại cốt lõi của cơ cấu gia đình, và là những gì quan tâm nhất đối với Giáo Hội cũng như với xã hội dân sự”.

 

Ngài tiếp tục cho biết làm thế nào “tiêu chuẩn của việc tìm kiếm sự thật” dẫn chúng ta tới việc xét tới một khía cạnh khác của vấn đề pháp lý: “Giá trị mục vụ của vấn đề pháp lý, một giá trị không thể được tách khỏi lòng mến yêu chân lý. Thật thế, có thể xẩy ra trường hợp là đức ái về khía cạnh mục vụ đôi khi bị ô nhiễm bởi những thái độ ve vuốt chiều chuộng nhau. Những thái độ này có vẻ như là mục vụ song thực tế chúng không đáp ứng với sự thiện của cá nhân, hay với sự thiện của cộng đồng Giáo Hội.

 

“Sự thật để hủy hôn không phải là… một sự thật trừu tượng, một sự thật hoàn toàn tách khỏi sự thiện của cá nhân. Nó là một sự thật hoàn toàn thuộc về cuộc hành trình nhân bản và Kitô giáo của mỗi một người tín hữu. Bởi vậy, thật là quan trọng đối với vấn đề tuyên bố về sự thật này cần phải xẩy ra trong khoảng thời gian hữu lý”.

 

Ngài cũng nhấn mạnh trách nhiệm quan hệ trong việc “mang hoạt động về cơ cấu này của Giáo Hội ở các pháp đình gần lại với tín hữu hơn”, nhu cầu cần phải “tìm cách tránh hủy hôn”, và tầm quan trọng của “các nỗ lực giúp đỡ những đôi phối ngẫu giải quyết những khó khăn của họ và tìm cách hòa giải”.

 

“Tôi hy vọng rằng những suy tư chia sẻ này là những gì giúp quí vị hiểu hơn về cách thức làm thế nào lòng yêu chuộc sự thật có thể nối kết giữa cơ cấu của việc cứu xét về giáo luật vấn đề hủy hôn, với cảm quan mục vụ chân thực là những gì làm cho những việc cứu xét ấy linh động. Nhìn theo chiều hướng ấy thì Bản Hướng Dẫn ‘Dignitas connubii’ và những quan tâm xuất phát từ Cuộc Thượng Nghị Giám Mục mới đây, hoàn toàn hòa hợp với nhau vậy”.

 

Trong buổi triều kiến Đức Giáo Hoàng này, vị chánh án tòa Rota là Đức Ông Antoni Stankiewicz đã nói tới tinh thần của Bản Hướng Dẫn về vấn đề hôn nhân “Dignitas Connulii”, được Hội Đồng Tòa Thánh Về Dẫn Giải Các Bản Văn Pháp Luật phổ biến ngày 25/1/2005, như sau:

 

“Nó không phải tìm cách làm cho các thủ tục về vấn đề hôn nhân trở nên phức tạp hơn, hay việc tuyên bố hủy hôn tự nó trở thành bất khả gánh vác, mà trở thành một thứ hiệu nghiệm ‘trợ giúp cho các vị thẩm phán và những ai hoạt động ở các Tòa Án Giáo Hội. Các thủ tục về pháp lý để hủy hôn chẳng những thực thi việc phục vụ chân lý mà còn cả đức ái nữa”.

 

Kể từ ngày 31/12/2005 có 1.054 vụ cần được tòa Rota cứu xét. Năm ngoái có 264 vụ được trình lên tòa Rota (163 ở Âu Châu, 73 ở Mỹ Châu và 10 ở Á Châu).

 

Các vị thẩm phán đã ban hành 289 án quyết, trong đó 141 án quyết có tính chất dứt khoát, và 1 trong 141 án quyết ấy có tính chất tội ác, không liên quan tới vấn để hủy hôn. Trong 140 án quyết này, có 69 án quyết công nhận là hôn nhân không thành, và 71 án quyết công nhận hôn nhân thật sự là hiệu thành.

 

Một ¼ các trường hợp được hưởng “việc bảo trợ miễn phí” là việc ấn định rằng các viên chức trong tiến trình cứu xét không được trả thù lao.

 

Hội Đồng Tòa Án Rota gồm có 20 da916ng bậc (giám mục hay tổng giám mục) kiểm viên: 9 Ý, 2 Balan, 2 Mỹ, 2 Labanon, 1 Tây Ban Nha, 1 Đức, 1 Pháp, 1 Ba Tây và 1 Tô Cách Lan.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo VIS (phần về bài nói của ĐTC) và Zenit (phần còn lại), 30/1/2006

 

 

TOP

 

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI với Hội Nghị của Hội Đồng Tòa Thánh Đồng Tâm về Thông Điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu” sắp ban hành của Ngài 23/1

 

Sáng Thứ Hai 23/1/2005, Hội Đồng Tòa Thánh Đồng Tâm Cor Unum tổ chức hai ngày hội nghị 23-24/1/2005, để sửa soạn cho và theo chiều hướng của Bức Thông Điệp “Thiên Chúa Là Tình Yêu” của tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI sẽ được ban hành chính thức vào Thứ Tư 25/1/2005, Lễ Thánh Phaolô Tông Đồ Trở Lại, kết Tuần Lễ Cầu Nguyện Cho Hiệp Nhất Kitô Giáo. Chủ đề của hội nghị dọn đường này cũng theo chiều hướng đức ái, đó là một câu được trích từ Thư Thứ Nhất Thánh Phaolô gửi Giáo Đoàn Côrintô: “… Thế nhưng, trọng nhất trong ba nhân đức này là đức ái”. Trong bài huấn từ của mình ngỏ cùng hội nghị này hôm nay, Đức Thánh Cha đã tiếp tục nóivề bức thông điệp của ngài như sau:

 

Cuộc hành trình vũ trụ được thi hào Dante, trong vở ‘Hài Kịch Thần Linh’, muốn độc giả theo dõi kết thúc trước ánh sáng vĩnh hằng là chính Thiên Chúa, trước thứ ánh sáng đồng thời cũng là ‘tình yêu tác động mặt trời cùng với các tinh tú khác’ ("Paradise" XXXIII, verse 145). Ánh sáng và yêu thương chỉ là một điều duy nhất. Chúng là quyền năng sáng tạo khởi nguyên tác động vũ trụ này.

 

Nếu những lời ấy của nhà thi sĩ đây tỏ lộ tư tưởng của Aristote, nhân vật đã thấy “cái tình ái” này là thứ quyền năng tác động thế giới, tuy nhiên, cái nhìn của thi sĩ Dante còn nhận thấy một cái gì đó hoàn toàn mới mẻ và không thể ngờ được đối với vị triết gia Hy Lạp này.

 

Ánh Sáng Vĩnh Hằng này chẳng những được hiện lên với ba vòng tròn được nhà thơ này nói đến bằng những câu nói sâu xa như chúng ta biết, đó là “Hỡi Ánh Sáng Vĩnh Hằng, Ngài chỉ ở trong Chính Mình Ngài, và chỉ có Ngài mới biết Ngài mà thôi; Ngài tự biết Mình, Ngài biết được Mình, Ngài yêu Mình và mỉm cười về Mình!” ("Paradise," XXXIII, verses 124-126). Thật vậy, nhận thức về một bộ mặt con người – bộ mặt của Chúa Giêsu Kitô – bộ mặt mà thi sĩ Dante thấy trong cái vòng tròn ánh sáng trọng tâm thậm chí còn trổi vượt hơn cả mạc khải về Thiên Chúa như cái vòng nhận thức và yêu thương Tam Vị nữa.

 

Thiên Chúa, Ánh Sáng vĩnh hằng, Đấng mà mầu nhiệm khôn lường về Ngài đã được vị triết gia Hy Lạp này trực giác thấy, Vị Thiên Chúa này có một dung nhan con người, và chúng ta có thể nói, có một trái tim nhân loại. Nhãn quan của Dante cho thấy cái liên tục giữa niềm tin tưởng của Kitô Giáo vào Thiên Chúa và việc tìm kiếm theo lý trí cũng như theo lãnh vực các tôn giáo; tuy nhiên, đồng thời cũng xuất hiện cả một cái gì mới mẻ vượt ra ngoài tất cả những gì con người tìm kiếm nữa, cái mới mẻ mà chỉ chính Thiên Chúa mới có thể tỏ ra cho chúng ta biết mà thôi, đó là cái mới mẻ của một tình yêu thúc đẩy Thiên Chúa mang lấy bộ mặt con người, còn hơn thế nữa, mặc lấy huyết nhục, lấy toàn thể con người.

 

“Cái tình ái” này của Thiên Chúa không phải chỉ là một thứ quyền lực khởi nguyên của vũ trụ, mà là tình yêu đã tác tạo nên con người và cúi xuống với họ, như người Samaritanô Nhân Lành cúi xuống với con người bị thương tích, nạn nhân của các tay trộm cướp, con người đang nằm bên lề đường dẫn từ Giêrusalem tới Giêricô

 

Tiếng ‘yêu thương’ ngày nay bị lu mờ, bại hoại và lạm dụng tới độ người ta hầu như sợ nói đến nó trên môi miệng. Tuy nhiên, nó lại là một lời nống cốt, một diễn đạt về một thực tại nguyên khởi; chúng ta không thể ngang nhiên loại bỏ nó đi, chúng ta cần phải lấy nó lại, thanh tẩy nó và trả lại cho nó thứ ánh quang rạng ngời nguyên thủy, để nó có thể soi chiếu đời sống của chúng ta và áp dụng nó một cách đúng đắn. Nhận thức này là những gì đã thúc đẩy tôi chọn yêu thương làm đề tài cho bức thông điệp đầu tay của tôi.

 

Tôi muốn cố gắng và trình bày, cho thời đại của chúng ta đây và cho cuộc sống của chúng ta đây, một điều gì đó được đại thi hào Dante gói ghém trong nhãn quan của ông. Ông nói về “nhận thức” của mình là những gì “được nẩy nở” khi nhìn vào nó, những gì làm ông thay đổi sâu xa (lời trích dẫn theo Anh ngữ là ‘Thế nhưng nhờ nhận thức này, một nhận thức trở thành vững mạnh nơi tôi khi nhìn ngắm, một dáng vẻ duy nhất từng làm thay đổi tôi như tôi đã đổi thay’ [cf. "Paradise," XXXIII, verses 112-114]). Chính vì thế mà đức tin có thể trở thành một nhãn kiến biến đổi chúng ta.

 

Tôi muốn nhấn mạnh tới trọng tâm của niềm tin tưởng nơi Thiên Chúa, nơi Vị Thiên Chúa đã mang một dung nhan con người và có một trái tim nhân loại. Đức tin không phải là một lý thuyết con người có thể nhận lấy hay bỏ qua. Nó là một cái gì đó rất cụ thể: Nó là tiêu chuẩn để quyết định lối sống của chúng ta. Trong một thời đại mà thù nghịch và tham lam đã trở thành những thứ siêu quyền lực, một thời đại chúng ta đang chứng kiến thấy cảnh lạm dụng tôn giáo tới độ lên tới tột đỉnh hận thù, thì thứ lập luận  trung dung tự mình không thể nào bảo vệ được chúng ta. Chúng ta cần đến Vị Thiên Chúa hằng sống đã yêu thương chúng ta cho tới chết.

 

Bởi thế mà trong bức Thông Điệp này, các đề tài về “Thiên Chúa”, về “Đức Kitô” và về “Tình Yêu” quyện lẫn với nhau, như những gì hướng dẫn chính yếu cho đức tin Kitô Giáo. Tôi muốn tỏ cho nhân lại thấy về đức tin, về những gì làm nên “tình ái”, về việc con người “chấp nhận” cái bản chất thể lý được Thiên Chúa dựng nên, một “chấp nhận” cái nguồn gốc ở việc tạo thành thứ hôn nhân bất khả phân ly giữa nam nữ. Để rồi nơi đức tin ấy, “tình ái” được biến thành “thiện ái”, thành tình yêu nhau không còn tìm mình nữa mà là quan tâm tới nhau, sẵn sàng hy sinh bản thân mình cho nhau và hướng tới tặng ân của một sự sống mới.

 

“Thiện ái” Kitô Giáo, tức tình yêu thương tha nhân theo gương Chúa Kitô, không phải là một điều gì đó xa lạ, thiên lệch hay một điều gì đó thậm chí phản lại với “tình ái”; trái lại, bằng việc tự hiến mình cho con người, Người đã cho thấy một chiều kích mới, một chiều kích Người đã phát triển hơn nữa theo giòng lịch sử nơi việc dấn thân bác ái của thành phần Kitô hữu cho người nghèo khổ cũng như cho thành phần khổ đau.

 

Thoạt tiên đọc bức Thông Điệp này có lẽ nẩy lên cảm tưởng là nó được chia làm hai phần không mấy liên hệ với nhau là bao: phần thứ nhất về lý thuyết bàn đến yếu tính của tình yêu, và phần thứ hai bao gồm đức bác ái của giáo hội cùng với những cơ cấu tổ chức bác ái của giáo hội. Tuy nhiên, tôi lại thực sự chú trọng tới mối liên kết giữa hai đề tài ấy, những đề tài chỉ có thể được hiểu một cách thích đáng nếu chúng được thấy như là một điều duy nhất.

 

Nhất là, cần phải tỏ cho thấy rằng con người được dựng nên để yêu thương, và tình yêu thương này, một tình yêu mới đầu trước hết được tỏ ra như là “những thứ tình ái – eros” giữa nam nữ, cần phải được biến đổi hoàn toàn thành “thiện ái  - agape”, qua việc hiến mình cho nhau để đáp ứng chính đáng bản chất chân thực của “tình ái”.  Theo đó, cần phải làm sáng tỏ là yếu tính của tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân được diễn tả trong Thánh Kinh là cốt lõi của đời sống Kitô Giáo, nó là hoa trái của đức tin.

 

Bởi thế, ở phần hai, cần phải nhấn mạnh rằng tác động hoàn toàn cá biệt của “thiện ái” không bao giờ lại chỉ một vấn đề thuần cá nhân, trái lại, nó còn cần phải trở thành một tác động thiết yếu của Giáo Hội như là một cộng đồng nữa, tức là, nó cũng cần đến một thứ hình thức cơ cấu được thể hiện nơi hoạt động cộng đồng của Giáo Hội. Cơ cấu tổ chức bác ái của Giáo Hội không phải là một hình thức trợ giúp xã hội, một thứ thêm thắt thường tình vào thực tại Giáo Hội, một sáng kiến mà người khác cũng có thể thực hiện.

 

Trái lại, nó thuộc về bản chất của Giáo Hội. Như việc loan báo của nhân loại, của lời đức tin cần phải tương ứng với “Lời” thần linh thế nào, thì “thiện ái” của Giáo Hội, hoạt động bác ái của Giáo Hội, cũng phải tương ứng với “Thiện Ái” là Thiên Chúa như vậy. Hoạt động này, ngoài ý nghĩa rất cụ thể trước hết của nó trong việc giúp đỡ tha nhân, cũng thông đạt cho người khác tình yêu Thiên Chúa là tình yêu chính chúng ta đã lãnh nhận. Nó cần phải làm cho Thiên Chúa hằng sống trở thành hiển hiện một cách nào đó. Trong một tổ chức bác ái thì Thiên Chúa và Đức Kitô không được trở thành những lời xa lạ; thật vậy, những lời này cho thấy nguồn gốc nguyên thủy của đức ái giáo hội. Sức mạnh của “Đức Ái” lệ thuộc vào sức mạnh đức tin của tất cả mọi phần tử và cộng sự viên của mình.

 

Cảnh tượng về con người khổ đau là những gì làm cho tâm can của chúng ta rung động. Thế nhưng, việc dấn thân làm việc bác ái có một ý nghĩa hoàn toàn vượt lên trên thứ thương tâm tầm thường này. Nó chính là Thiên Chúa, Đấng thôi thúc chúng ta ở trong tận thâm cung bản thân mình thực hiện việc xoa dịu cảnh khốn cùng. Nhờ thế chúng ta mang Ngài đến với thế giới khổ đau. Một khi càng ý thức và rõ ràng về việc chúng ta được diễm phúc mang Ngài thì tình yêu của chúng ta mới càng hiệu nghiệm hơn trong việc biến đổi thế giới này và trong việc làm bừng lên niềm hy vọng, một niềm hy vọng vượt qua sự chết.

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit và VIS phổ biến ngày 23/1/2006