VỚI CÁC PHÂN BỘ 2007

 

 

‘Lương tâm Kitô hữu ủng hộ quyền sống’

“Hãy sống và chia sẻ một cách bình an tin tưởng cái cảm nghiệm sầu thương và bệnh nạn, hiến dâng nó một cách tin tưởng cho Chúa Cha, nhờ đó hoàn tất nơi xác thịt của chúng ta những gì còn thiếu nơi các khổ đau của Chúa Kitô”

“Đời tận hiến, tự bản chất, là một đáp ứng trọn vẹn và dứt khoát, vô tư và thiết tha đối với Thiên  Chúa”

“Tất cả mọi hoạt động của Giáo Hội cũng như của tín hữu trong lãnh vực gia đình, cần phải dựa vào sự thật về hôn nhân cùng với chiều kích hợp lý nội tại của nó”

 

 

 

 

‘Lương tâm Kitô hữu ủng hộ quyền sống’

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI với Tham Dự Viên Tổng Nghị của Học Viện Tòa Thánh về Sự Sống Thứ Bảy 24/2/2007 tại Sảnh Đường Clementine

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Tôi lấy làm vui mừng được tiếp các Phần Tử thuộc Học Viện Tòa Thánh về Sự Sống trong buổi Triều Kiến này, được diễn ra vào dịp Tổng Nghị lần thứ 13, cũng như những ai tham dự vào Hội Nghị này về đề tài: ‘Lương tâm Kitô hữu ủng hộ quyền sống’.

 

Tôi chào ĐHY Javier Lozano Barragán, các vị Tổng Giám Mục và Giám Mục hiện diện, chư huynh linh mục, các thuyết trình viên Hội Nghị cùng toàn thể anh chị em, qui tụ lại từ các quốc gia khác nhau. Tôi đặc biệt chào ĐTGM Elio Sgreccia, Chủ Tịch Học Viện Tòa Thánh về Sự Sống, vị tôi xin cám ơn về những lời lẽ tốt đẹp ngỏ cùng tôi cũng như về hoạt động ngài thực hiện cùng với vị Phó Chủ Tịch, vị Chưởng Ấn và Hội Đồng Giám Đốc, thành phần thực thi những công việc tế nhị và to lớn của Học Viện Tòa Thánh này.

 

Đề tài anh chị em kéo chú ý của những tham dự viên, và vì thế kéo chú ý của Cộng Đồng Giáo Hội cũng như của công luận, là một đề tài quan trọng: lương tâm Kitô hữu thật sự có một nhu cầu nội tại trong việc nuôi dưỡng và kiên cường chính mình bằng muôn vàn động cơ sâu xa đang hoạt động cho quyền sống.

 

Nó là một quyền lợi cần phải được tất cả mọi người hỗ trợ duy trì, vì nó là quyền lợi nồng cốt đầu tiên của tất cả mọi quyền lợi con người. Thông Điệp Phúc Âm Sự Sống đã mạnh mẽ khẳng định quyền lợi này: ‘Cho dù ở giữa những khó khăn và bất ổn, hết mọi người thành tâm cởi mở trước sự thật và sự thiện đều có thể, nhờ ánh sáng của lý trí cùng với tác động âm thầm của ân sủng, tiến đến chỗ nhìn nhận nơi lề luật tự nhiên được ghi khắc trong tâm can (x Rm 2:14-15) cái giá trị linh thánh của sự sống con người từ khi nó được bắt đầu cho tới khi nó kết thúc, và đều có thể xác nhận quyền lợi của hết mọi người trong việc có được sự thiện nền tảng ấy được tôn trọng cho tới mức tối đa. Hết mọi cộng đồng con người và chính cộng đồng chính trị là những cộng đồng được xây dựng trên việc nhìn nhận về quyền sống ấy’ (đoạn 2).

 

Cũng bức thông điệp này còn nhắc lại rằng: “thành phần tín hữu tin tưởng vào Chúa Kitô cần phải bênh vực và cổ võ quyền lợi này, nhận thức như họ thuộc về cái sự thật tuyệt vời được Công Đồng Chung Vaticanô II nhắc nhở: ‘Bằng việc Nhập Thể, Con Thiên Chúa đã liên kết mình một cách nào đó với hết mọi người’ (Vui Mừng và Hy Vọng, 22). Biến cố cứu độ ấy tỏ cho nhân loại thấy chẳng những tình yêu vô biên của Thiên Chúa là Đấng ‘đã quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con một của mình’ (Jn 3:16), mà còn tỏ cho thấy giá trị khôn sánh của hết mọi người nữa’ (ibid).

 

Bởi thế, Kitô hữu tiếp tục được kêu gọi tỉnh táo hơn bao giờ hết để đối đầu với nhiều cuộc tấn công mà quyền sống phải chịu. Về điều này họ biết rằng họ có thể dựa vào những động lực sâu xa đâm rễ nơi luật tự nhiên và vì thế nó được chia sẻ bởi mọi người sống lương tâm chân chính.

 

Theo chiều kích này thì trước hết, sau khi ban hành Thông Điệp Phúc Âm Sự Sống, đã có nhiều điều được thực hiện để làm cho vấn đề này được ý thức hơn trong cộng đồng Kitô Giáo cũng như nơi xã hội dân sự, thế nhưng, cũng phải công nhận là các cuộc tấn công quyền sống khắp thế giới vẫn lan rộng và gia tăng, cũng như mặc lấy những hình thức mới.

 

Những áp lực trong việc hợp thức hóa vấn đề phá thai là những gì đang gia tăng ở các quốc gia Mỹ Châu Latinh cũng như ở các quốc gia đang phát tiển, cùng với việc sử dụng vấn đề giải phóng của các hình thức mới trong việc phá thai bằng hóa chất, dưới chiêu bài bảo toàn sức khỏe sản sinh: những chính sách kiểm soát dân số đang trên đà vươn lên, bất chấp chúng đã được công nhận là nguy hiểm về lãnh vực kinh tế và xã hội.

 

Đồng thời còn xẩy ra tình trạng hào hứng vào việc nghiên cứu vấn đề kỹ thuật sinh chất cho tinh luyện hơn đang gia tăng ở các quốc gia phát triển để tạo nên những phương pháp tinh vi khó thấy và tăng cấp sự sống, cho dù là cuộc nghiên cứu mập mờ để tạo nên ‘một đức nhỏ toàn vẹn’, bằng việc truyền bá việc truyền sinh nhân tạo và những hình thức định bệnh khác nhau nhắm tới chỗ bảo đẻm được việc chọn lựa tốt đẹp.

 

Một làn sóng mới của những thứ cải sinh tạo giống được chấp nhận nhân danh những gì được cho là phúc hạnh của cá nhân, và các luật lệ được tung ra để hợp thức hóa vấn đề triệt sinh an tử đặc biệt trong một thế giới tiến triển về kinh tế này.

 

Tất cả những điều ấy xẩy ra thì ngược lại cũng có những nỗ lực đang gia tăng trong việc hợp thức hóa mối liên kết được coi như là một thứ thay thế cho hôn nhân và chặn đứng vấn đề sinh sản tự nhiên.

 

Trong những trường hợp ấy, lương tâm, đôi khi bị vây bủa bởi tập thể truyền thông mạnh liệt, không đủ cảnh giác đối với tính cách trầm trọng của vấn đề đang diễn ra, và quyền lực của thành phần mạnh n hất làm yếu kém đi và dường như làm tê liệt ngay cả con người thành tâm thiện chí. Đó là lý do cần phải kêu gọi lương tâm, nhất là lương tâm Kitô hữu. Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo nói với chúng ta rằng: “Lương tâm là phán đoán của lý trí nhờ đó con người nhận ra tính chất của luân lý nơi một hành động cụ thể được họ sắp sửa thi hành, đang trong tiến trình thi hành hay đã hoàn tất. Trong tất cả những gì họ nói và làm, con người bắt buộc phải trung thành theo những gì họ biết là chân chính và đúng đắn” (số 1778).

 

Từ định nghĩa này mới thấy rằng lương tâm luân lý, để có thể phán đoán đúng đắn tác hành của con người, trước hết cần phải căn cứ vào nền tảng vững chắc của đức tin, tức là c ần phải được soi sáng để biết được giá trị chân thực của các hành động cùng với các qui chuẩn vững chắc để thẩm định. Bởi thế, cần phải làm sao để có thể phân biệt được lành với dữ, thậm chí ngay cả lúc mà môi trường xã hội, văn hóa đa dạng và những thứ khuynh hướng đầy phỉnh gạt không giúp cho nó làm như vậy.

 

Việc huấn luyện c ủa một lương tâm chân thực, vì nó được bắt nguồn từ sự thật, và công chính, vì nó cương quyết theo các thứ đòi hòi không mâu thuẫn, không phản bội và không hòa hoãn của nó, là một việc thực hiện khó khăn và khéo léo ngày nay, thế nhưng vẫn là những gì bất khả châm chước. Tiếc thay, nhiều yếu tố đang làm ngăn trở cho việc thực hiện này. Trước hết, trong giai đoạn tục hóa hiện nay, được gọi là giai đoạn hậu tân tiến và được đánh dấu bằng những hình thức nhân nhượng ba phải, một giai đoạn chẳng những đang gia tăng việc loại trừ phủ nhận truyền thống Kitô giáo mà còn ngờ vực cả khả năng của lý trí trong việc nhận thức sự thật, cũng đang làm cho chúng ta tách khỏi cái hương vị của việc suy tư phản tỉnh.

 

Theo một số người thì để lương tâm của cá nhân con người không bị thiên lệch thì nó cần phải thoát khỏi những thứ qui chiếu theo truyền thống lẫn những thứ qui chiếu theo lý trí của con người.

 

Bởi vậy mà lương tâm, như một tác động của lý trí nhắm tới sự thật của sự vật, không còn chiếu sáng nữa mà trở thành một màn ảnh thuần túy để xã hội của truyền thông chiếu lên những hình ảnh cũng như những bốc đồng ngược ngạo nhất.

 

Người ta cần phải được tái giáo dục về lòng mong muốn trong việc biết sự thật chân chính, trong việc bênh vực quyền tự do chọn lựa của mình liên quan tới hành vi cử chỉ hỗn độn cũng như tới những thứ quyến dũ được tuyên truyền, trong việc nuôi dưỡng đam mê trước vẻ đẹp luân lý và một lương tâm trong sáng. Đó là nhiệm vụ tinh tế của cha mẹ và các nhà giáo dục là thành phần giúp họ; và đó là nhiệm vụ của cộng đồng Kitô giáo đối với tín hữu của mình.

 

Về vấn đề lương tâm Kitô hữu, việc nó tăng trưởng và việc nuôi dưỡng nó, người ta không được mãn nguyện với sự liên hệ thoáng qua về những sự thật chính yếu của đức  tin còn đang ở trong tình trạng non dại, mà là một chương trình bổ sung cần thiết cho các giai đoạn khác nhau của đời sống, khi cởi mở tâm trí để đón nhận những nhiệm vụ cốt yếu là nền tảng cho đời sống của cá nhân cũng như của cộng đồng.

 

Chỉ có thế mới có thể sửa soạn cho giới trẻ thấu triệt được các giá trị của sự sống, của yêu thương, của hôn nhân và của gia đình mà thôi. Chỉ có thế họ mới có thể tiến tới chỗ cảm nhận vẻ đẹp và tính cách linh thánh của yêu thương, của niềm vui và của trách nhiệm làm cha mẹ và làm thành phần hợp tác của Thiên Chúa trong việc trao ban sự sống.

 

Thiếu vắng cuộc huấn luyện liên tục và chất lượng này, thì khả năng phán đoán những trục trặc gây ra bởi ngành y khoa sinh học về các lãnh vực tính dục, sự sống mới được hạ sinh, việc sinh sản, cũng như trong cả cách thức đối xử cùng chăm sóc cho các bệnh nhân và những phần tử yếu kém trong xã hội, thậm chí sẽ trở thành những gì rắc rối hơn nữa.

 

Chắn chắn là cần phải nói về các qui chuẩn luân lý liên quan tới những vấn đề này với thành phần chuyên nghiệp, với các vị bác sĩ và luật sư, để giúp họ có được một phán đoán khả chấp theo lương tâm, và nếu cần, cũng có được cả một lương tâm biết can đảm chống đối, thế nhưng, ở lãnh vực căn bản là gia đình và các cộng đồng giáo xứ, cũng cần phải thực hiện tiến trình huấn luyện cho giới trẻ và người lớn nữa. Về khía cạnh này, đi liền với việc huấn luyện Kitô Giáo, một việc huấn luyện có mục đích là để nhận biết Con Người Chúa Kitô, Lời của Người và các Bí Tích của Người theo tiến trình dạy đức tin cho trẻ em và thanh thiếu niên, người ta cũng cần phải nhất trí phổ biến việc diễn giải về các thứ giá trị luân lý liên quan tới thân xác, tính dục, tình yêu thương của con người, việc sản sinh, sự tôn trọng sự sống ở mọi lúc, đồng thời, căn cứ vào những lý do vững vàng và xác đáng, vạch ra cho thấy hành vi cử chỉ phản lại với những thứ giá trị căn bản ấy.

 

Trong lãnh vực đặc biệt này, công việc của các vị linh mục cần phải được hỗ trợ một cách thích hợp bởi việc dấn thân của thành phần giáo dục viên giáo dân, cũng như các chuyên viên, chuyên tâm với nhiệm vụ hướng dẫn thực tại giáo hội bằng kiến thức được đức tin soi dẫn của họ.

 

Bởi thế, tôi xin Chúa gửi đến nơi anh chị em, hỡi anh chị em thân mến, cũng như nơi những ai dấn thân cho khoa học, cho y khoa, cho luật pháp và cho chính trị, những chứng nhân được trang bị với những lương tâm chân thực và công chính để bênh vực và cổ võ ‘chân lý rạng ngời’ và bảo trì tặng ân và mầu nhiệm sự sống.

 

Tôi tin tưởng vào sự giúp đỡ của anh chị em là thánh phần chuyên nghiệp, triết gia, thần học gia, khoa học gia và bác sĩ thân thương nhất. Trong một xã hội có những lúc chao đảo và bạo động, với những tính chất về văn hóa của anh chị em, bằng việc giảng dạy và gương sáng, anh chị em có thể góp phần vào việc làm thức tỉnh nơi nhiều tâm can tiếng nói sống động và rõ ràng của lương tâm.

 

Công Đồng Chung Vaticanô II dạy chúng ta rằng ‘con người có được nơi tâm can của mình một thứ lề luật được Thiên Chúa ghi khắc. Phẩm vị của họ là ở chỗ tuân giữ lề luật này, và họ sẽ được phân xử căn cứ vào đó’ (Gaudium et Spes, n. 16). Công Đồng này đã cống hiến những điều hướng dẫn khôn ngoan nhờ đó ‘tín hữu cần phải biết phần biệt một cách cẩn thận những quyền lợi và nhiệm vụ mà họ có như phần tử thuộc về Giáo Hội, cũng như  những quyền lợi và nghĩa vụ của họ nhữ là phần tử của xã hội loài người’, và ‘họ sẽ nỗ lực để liên kết cả hai thứ lại với nhau một cách hòa hợp, nhớ rằng nơi hết mọi công việc trần thế họ được hướng dẫn bởi lương tâm Kitô giáo, bởi vì bất cứ một hoạt động nào của con người, cho dù là công việc trần thế chăng nữa, lại được phép thoát khỏi quyền thống trị của Thiên Chúa” (Lumen Gentium, 36).

 

Chính vì lý do này mà Công Đồng đã khuyên dụ thành phần tín hữu giáo dân hãy đón nhận ‘những gì được các vị Mục Tử quyết định như thày dạy và hướng đạo viên của Giáo Hội’, và khuyên nhủ là ‘các vị Chủ Chiên… cần phải công nhận và cổ võ phẩm giá cùng trách nhiệm của thành phần giáo dân trong giáo hội. Các vị cần phải sẵn sàng lợi dụng lời khuyên khôn ngoan của họ’, rồi kết luận rằng ‘có bất cứ (nhiều) thiện ích nào cho Giáo Hội đều mong được  xuất phát từ mối liên hệ thân thuộc này giữa thành phần giáo dân và Chủ Chăn’ (x Lumen Gentium, 37). 

 

Khi giá tri về sự sống con người bị nguy hiểm thì mối hòa hợp này giữa phận vụ huấn quyền và thành phần giáo dân dấn thân trở thành những gì hết sức quan trọng: sự sống là sự thiện đệ nhất được lãnh nhận từ Thiên Chúa và là nền tảng cho tất cả những gì khác; để bảo đảm quyền sống cho tất cả mọi người, cũng thế tất cả mọi người đều có nhiệm vụ xây dựng tương lai của nhân loại. Tầm quan trọng của cuộc họp học hỏi này của anh chị em cũng xuất phát từ quan điểm này.

 

Tôi ký thác công việc này và các thàn h quả của nó cho việc chuyển cầu của Trinh Nữ Maria, v ị được truyền thống Kitô Giáo chào kính như là ‘Mẹ của tất cả sinh sinh’. Chớ gì Mẹ hỗ trợ và hướng dẫn an h chị em! Để chứng nhận niềm ước ao này, tôi hân hoan ban cho tất cả anh chị em, cho gia đình của anh chị em và những cộng tác viên của anh chị em Phép Lành Tòa Thánh.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2007/february/documents/hf_ben-xvi_spe_20070224_academy-life_en.html

 

TOP

 

 

 

“Hãy sống và chia sẻ một cách bình an tin tưởng cái cảm nghiệm sầu thương và bệnh nạn, hiến dâng nó một cách tin tưởng cho Chúa Cha, nhờ đó hoàn tất nơi xác thịt của chúng ta những gì còn thiếu nơi các khổ đau của Chúa Kitô”

 

ĐTC BĐXVI – Huấn Từ Cuối Lễ cho Ngày Thế Giới Bệnh Nhân lần XV ngày Lễ Mẹ Lộ Đức 11/2/2007

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Thật là vui mừng được gặp gỡ anh chị em ở đây, nơi Đền Thờ Vatican vào ngày Lễ Mẹ Lộ Đức và là Ngày Thế Giới Bệnh Nhân hằng năm, vào cuối Thánh Lễ được ĐHY Camilo Ruini chủ tế.

 

Trước hết tôi xin chào ngài, một lời chào tôi cũng muốn gửi tới tất cả anh chị em hiện diện nơi đây, đến Cha Sở Đền Thờ này là ĐTGM Angelo Comastri, đến các vị Giám Mục, linh mục cùng Tu Sĩ. Tôi chào n hững vị lãnh đạo cùng phần tử thuộc tổ chức UNITALSI, thành phần dấn thân cho việc chuyên chở và chăm sóc bệnh nhân về cuộc hành hương này cũng như những biến cố có ý nghĩa khác.

 

Tôi chào những vị lãnh đạo và phần tử thuộc tổ chức “Opera Romana Pellegrinaggi” và những ai sẽ tham dự vào Công Nghị Toàn Quốc  về Thần  Học và Mục Vụ, cả từ Ý quốc lẫn hải ngoại. Tôi gửi lời chào tới cả thành phần đại biểu đại diện của tổ chức “Cammini d’Europa”.

 

Thế nhưng, lời chào thân ái nhất của tôi xin hướng về anh chị em, hỡi anh chị em bệnh nhân  thân mến, đến gia đình của an h chị em cũng như đến những tình nguyện viên lo việc chăm sóc cho anh chị em vàưu ái hộ tống anh chị em hôm nay đây. Cùng với tất cả anh chị em, tôi muốn liên kết mình với những ai hôm  nay đang tham dự vào các biến cố khác nhau của Ngày Thế Giới Bệnh  Nhân được tổ chức ở Seoul, Nam Hàn. Ở đó, ĐHY Javier Lozano Barragán, Chủ Tịch Hội Đồng Tòa Thánh Đặc Trách Việc Chăm Sóc Mục Vụ Sức Khỏe, thay tôi chủ sự cuộc cử hành này.

 

Hôm nay là Lễ Đức Trinh Nữ Maria Lộ Đức, vị mà gần 150 năm trước đây đã hiện ra với một con người trẻ quê mùa chất phác là Thánh Bernadette Soubirous, tỏ mình ra là Vị Đầu Thai Vô Nhiễm Tội.

 

Cũng trong cuộc hiện ra này, Đức Mẹ đã tỏ mình ra như là một người mẹ dịu dàng đối với con cái Mẹ, nhắc nhở rằng thành phần bé nhỏ, nghèo nàn là thành phần yêu dấu của Thiên Chúa và là thành phần được tỏ cho b iết mầu nhiệm về Nước Trời.

 

Các bạn thân mến, Mẹ Maria, vị đã lấy đức tin hộ tống với Con Mẹ ở dưới chân cây Thập Giá, vị bởi dự án mầu nhiệm đã liên kết với những khổ đau của Chúa Kitô Con Mẹ, không bao giờ thôi kêu gọi chúng ta hãy sống và chia sẻ một cách bình an tin tưởng cái cảm nghiệm sầu thương và bệnh nạn, hiến dâng nó một cách tin tưởng cho Chúa Cha, nhờ đó hoàn tất nơi xác thịt của chúng ta những gì còn thiếu nơi các khổ đau của Chúa Kitô (x Col 1:24).

 

Về vấn đề này, tôi muốn  nhắc lại những lời được vị Tiền Nhiệm khả kính của tôi là Đức Phaolô VI sử dụng để kết thúc Tông Huấn “Marialis Cultus”: “Được chiêm ngưỡng nơi các đoạn Phúc Âm cũng như nơi cái thực tại mà Mẹ có được trong Thành Đô Thiên Chúa, Đức Trinh Nữ Maria cống hiến một nhãn quan bình lặng và một lời bảo đảm cho con người tân  tiến, con người thường bị xâu xé giữa buồn đau và hy vọng, con người bị xâm chiếm bởi cảm quan hữu hạn của mình và bị tấn công bởi những khát vọng vô hạn của mình, con người bị rối loạn trong trí khôn và chia cắt trong tâm hồn, mơ hồ trước cái u uẩn của chết chóc, con người bị lẻ loi cô độc đè nén nhưng lại khát mong hiệp thông, con người là mồi ngon cho buồn chán và ghê rợn. Mẹ tỏ cho thấy cái chiến  thắng của niềm hy vọng trên tâm trạng buồn đau, của mối hiệp thông trên tâm trạng cô độc, của hòa bình trên lo âu, của niềm vui và diễm lệ trên buồn chán và ghê rợn, của những nhãn quan vĩnh hằng trên những nhãn quan trần tục, của sự sống trên sự chết” (số 57).  

 

Chúng là những lời lẽ làm sáng tỏ đường lối của chúng ta, thậm chí cả vào lúc mà cảm quan hy vọng và niềm tin chữa lành dường như biến mất; chúng là những lời lẽ tôi muốn dùng để đặc biệt an ủi những ai đang bị quằn quại với các thứ bệnh nạn và đớn đau trầm kha.

 

Và chính vì những người anh chị em đặc biệt bị thử thách này của chúng ta mà Ngày Thế Giới B ệnh N hân hôm nay mới được chú trọng đặc biệt. Chúng ta muốn  họ cảm thấy sự gần gũi về vật chất và thiêng liêng của toàn thể cộng đồng Kitô hữu.

 

Vấn đề cần thiết là đừng để họ cảm thấy bị bỏ rơi và cô quạnh trong khi họ đang phải cố gắng đối đầu với từng giây phút rất mong manh trong cuộc đời họ. Đáng ca ngợi cho những ai nhẫn nại và ưu ái tận dụng khả năng chuyên môn của mình cùng với tình nồng hậu con người để phục vụ họ.

 

Tôi nghĩ đến các bác sĩ, y tá, cán sự xã hội về sức khỏe, các tình nguyện viên, Tu Sĩ và linh mục, thành phần không quản ngại cúi mình xuống với họ như Người Samaritanô Nhân Lành, không quan tâm gì tới thân phận về xã hội của họ, mầu da hay tôn giáo, mà chỉ chú ý tới các nhu cầu của họ mà thôi. Trước mặt hết mọi người, nhất là những người bị thử thách và thất sắc bởi bệnh tật, hãy chiếu giải Dung Nhan Chúa Kitô là Đấng đã phán: “Khi các người làm điều ấy cho một trong những người hèn mọn nhất trong anh em Ta đây là các người làm điều ấy cho chính Ta vậy” (Mt 25:40).

 

Anh chị em thân mến, trong chốc lát nữa đây, tối hôm nay, sẽ diễn ra một cuộc rước nến ý nghĩa làm bừng lên một bầu không khí được tạo nên nơi thành phần hành hương và những ai tôn sùng Lộ Đức. Tâm trí chúng ta hướng về hang Massabielle, nơi các nỗi buồn sầu và hy vọng, sợ hãi và tin tưởng gặp gỡ nhau.

 

Có biết bao nhiêu là những người hành hương, được an ủi bởi ánh mắt Người Mẹ này của họ, đã tìm thấy ở Lộ Đức sức mạnh để làm trọn một cách dễ dàng hơn ý muốn của Thiên Chúa, cho dù nó đòi phải từ bỏ và đau thương, với nhận thức như Tông Đồ Phaolô khẳng định là tất cả mọi sự xẩy ra đều vì lợi ích của những ai mến yêu Chúa (x Rm 8:28).

 

Anh chị em thân mến, chớ gì đối với anh chị em, cây nến sáng anh chị em đang cầm trong tay trở thành dấu hiệu của tấm lòng chân thành muốn bước đi với Chúa Giêsu, niềm bình an phát tỏa, Đấng chiếu soi trong tăm tối và thúc đẩy chún g ta trở thành ánh sáng và nâng đỡ những ai gần gũi với chúng ta.

 

Chớ gì đừng có một ai, nhất là những ai thấy mình gặp phải tình trạng khó khăn, cảm thấy lẻ loi cô độc và bị bỏ rơi.

 

Tôi xin ký thác tất cả anh chị em cho Trinh Nữ Maria. Mẹ, sau khi trải qua khổ đau khôn xiết, đã được mông triệu về Trời, nơi Mẹ đang đợi chờ chúng ta và là nơi cả chún g ta nữa hy vọng có thể vào một ngày kia chia sẻ vinh quang của Người Con Thần Linh của Mẹ, một niềm vui bất tận.

 

Với những cảm thức này, tôi ban Phép Lành của tôi cho tất cả anh chị em hiện diện nơi đây và những người thân yêu của anh chị em.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2007/february/documents/hf_ben-xvi_spe_20070211_messa-malati_en.html

 

TOP

 

 

“Đời tận hiến, tự bản chất, là một đáp ứng trọn vẹn và dứt khoát, vô tư và thiết tha đối với Thiên  Chúa”

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI – Huấn Từ cho Ngày Thế Giới Đời Tận Hiến lần 11 ngày Thứ Sáu 2/2/2007  tại Đền Thờ Vatican

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Tôi hân hoan được gặp gỡ anh chị em vào cuối cuộc Cử Hành Thánh Thể là biến cố đã qui tụ anh chị em lại nơi Đền Thờ đây vào cả năm nay nữa, vào một dịp rất ý nghĩa với việc anh chị em thuộc về những Dòng Tu, Tổ Chức, Hội Sống Đời Tông Đồ cũng như các Hình Thức Mới Sống Đời Tận Hiến; anh chị em làm thành một yếu tố đặc biệt quan trọng cho Nhiệm Thể Chúa Kitô.

 

Phụng vụ hôm nay nhắc lại việc Hiến Dâng Chúa trong Đền Thờ, một lễ được Vị Tiền Nhiệm Gioan Phaolô II khả kính của tôi chọn làm ‘Ngày Đời Tận Hiến’.

 

Tôi hết sức vui mừng gửi lời chào thân ái tới mỗi một người trong anh chị em hiện diện nơi đây, trước hết là ĐHY Franc Rodé, Tổng Trưởng Phân Bộ của anh chị em, vị tôi xin cám ơn về những lời lẽ tốt đẹp ngỏ cùng tôi thay cho anh chị em. Rồi tôi gửi lời chào tới vị Bí Thư cùng toàn thể phần tử thuộc Thánh Bộ đặc trách một lãnh vực quan trọng của Giáo Hội. Việc cử hành hôm nay đặc biệt thích hợp để xin Chúa ban tặng ân có được sự hiện diện liên tục và sáng ngời hơn bao giờ hết thành phần nam nữ tu sĩ  và tận hiến trong Giáo Hội đang lữ hành trên các nẻo đường thế giới.

 

Anh chị em thân mến, ngày Lễ chúng ta đang cử hành đây nhắc nhoở chúng ta rằng chứng từ Phúc Âm của anh chị em, để thực sự tác hiệu, cần phải xuất phát từ một việc đáp ứng dứt khoát đối với việc khởi động của Thiên Chúa là Đấng đã thánh hiến anh chị em cho Ngài bằng một tác động yêu thương đặc biệt.

 

Như vị lão thành Simeon và Anna mong được thấy Đấng Thiên Sai trước khi chết và đã nói về Người ‘với tất cả những ai mong chờ việc cứu chuộc của Giêrusalem’ (x Lk 2:26,38) thế nào, thì cả trong thời đại của chúng ta nữa, nhất là nơi thành phần giới trẻ, đang có một nhu cầu rộng rãi muốn gặp gỡ Thiên Chúa.

 

Những ai được Thiên Chúa tuyển chọn sống đời tận hiến là thành phần làm cho niềm mong mỏi thiêng liêng này trở thành của riêng mình một cách quyết liệt. Thật vậy, nơi cuộc đời tận hiến ấy, họ chỉ có một niềm mong ước duy nhất, đó là Vương Quốc của Thiên Chúa, là Thiên Chúa ngự trị ý muốn của chúng ta, tâm can của chúng ta, thế giới của chúng ta. Nơi họ bừng lên một niềm khát khao yêu thương duy nhất là những gì chỉ được thỏa mãn bởi một mình Đấng Hằng Hữu mà thôi.

 

Bằng gương lành của mình, họ loan truyền cho một thế giới thường bị hoang mang bối rối nhưng thực sự lại đang gia tăng việc tìm kiếm ý nghĩa rằng Thiên Chúa là Chúa của sự sống và tình Ngài ‘yêu thương là những gì hơn cả sự sống’ (Ps 63[62]:4[3]).

 

Bằng việc chọn đời sống tuân phục, khó nghèo và thanh tịnh vì Nước Trời, họ chứng thực rằng bất cứ một quyến luyến nào hay lòng yêu thích người và vật đều không thể hoàn toàn thỏa mãn tâm can; rằng cuộc sống trần gian là một giai đoạn không dài thì ngắn đợi chờ cuộc hội ngộ ‘trực diện’ với Vị Phu Quân thần linh, một niềm mong ngóng được sống bằng một con tim hằng tỉnh thức, lúc nào cũng nhận ra Người và nghênh đón Người khi Người đến.

 

Bởi thế, đời tận hiến, tự bản chất, là một đáp ứng trọn vẹn và dứt khoát, vô tư và thiết tha đối với Thiên  Chúa (x ‘Đời Tận Hiến – Vita Consecrata’, 17). Nhờ đó, khi con người từ bỏ mọi sự để theo Chúa Kitô, khi con người hiến dâng cho Người tất cả những gì họ trân quí nhất, bất chấp mọi hy sinh như Vị Sư Phụ thần linh đã sống, thì con người tận hiến theo chân Chúa Kitô cũng cần phải trở thành ‘một dấu hiệu xung khắc’, vì lối suy tư và sống động của họ thường là những gì ngược lại với lý lẽ của thế gian, thứ lý lẽ hầu như bao giờ cũng được hiển hiện ở lãnh vực truyền thông. 

 

Thật thế, trong việc chọn Chúa Kitô, chúng ta để mình được Người ‘chiếm đoạt’ một cách dứt khoát. Biết bao nhiêu là con người khát khao chân lý đã cảm thấy xúc động trước lòng can đảm này và được thu hút bởi những ai không ngần ngại hiến đời mình, hiến cuộc sống riêng của mình cho niềm tin tưởng của họ.

 

Phải chăng đó là lòng trung thành sâu xa của phúc âm mà hết mọi con người sống đời tận hiến được kêu gọi thực hiện trong thời đại của chúng ta nữa? Chúng ta hãy tạ ơn Chúa, để nhiều Tu Sĩ nam nữ ở khắp mọi nơi trên thế giới biết tiếp tục cống hiến chứng từ yêu thương cao cả và trung thành đối với Thiên Chúa cũng như với anh chị em của mình, một chứng từ thường được ghi dấu bằng máu tử đạo. Chúng ta cũng tạ ơn Thiên Chúa, để những gương sáng ấy được tiếp tục tác động nơi tâm hồn của nhiều giới trẻ niềm ước vọng theo Chúa Kitô luôn mãi một cách thân tình và trọn vẹn.

 

Anh chị em thân mến, đừng bao giờ quên rằng đời tận hiến là một tặng ân thần linh, và Chúa trước hết là Đấng bảo đảm việc thành đạt của nó theo dự án của Ngài. Niềm tin tưởng này là ở chỗ Chúa đưa chúng ta tới một kết thúc thành công cho dù chúng ta hèn yếu; niềm tin tưởng này cần phải trở thành niềm ủi an cho anh chị em, bảo vệ anh chị em khỏi cảm thấy chán chường trước những khó khăn bất khả tránh của đời sống cùng nhiều thách đố của thời đại tân tiến này. Thật vậy, trong giai đoạn khó khăn chúng ta đang sống đây, nhiều Tổ Chức dòng tu có thể cảm thấy mất tinh thần trước những thất bại họ nhận thấy nơi mình cũng như trước nhiều chướng ngại vật họ gặp phải khi thi hành sứ vụ của họ.

 

Hôm nay Con Trẻ Giêsu được hiến dâng ở Đền Thờ đang sống động giữa chúng ta và vô hình nâng đỡ chúng ta nhờ đó chúng ta có thể trung thành hợp tác với Người vào công cuộc cứu độ, và Người không bỏ rơi chúng ta đâu.

 

Phụng vụ hôm nay đặc biệt là những gì khơi động, vì phụng vụ này được đánh dấu bằng biểu hiểu ánh sáng. Cuộc long trọng rước nến anh chị em thực hiện ở đầu lễ là những gì ám chỉ đến Chúa Kitô, ánh sáng thực của thế giới, Đấng chiếu soi trong đêm tối tăm của lịch sử và chiếu rọi hết mọi kẻ tìm kiếm chân lý. Anh chị em sống đời tận hiến thân mến, hãy bừng lên bằng ngọn lửa này và làm cho nó rạng ngời qua đời sống của anh chị em, để luồng sáng chiếu tỏa từ Chúa Giêsu, Đấng là chân lý rạng ngời, được soi chiếu khắp mọi nơi. 

 

Bằng việc hoàn toàn hiến mình cho Người (x Vita Consecrata, 15), anh chị em làm chứng cho sự thật có sức thu hút của Chúa Kitô và cho niềm vui xuất phát từ lòng anh chị em mến yêu Người. Trong việc chiêm niệm cũng như trong việc hoạt động, trong thinh lặng và trong tình huynh đệ, trong việc phục vụ người nghèo khổ và người thấp hèn, trong việc hướng dẫn riêng tư cũng như ở những công nghị tân thời, anh chị em hãy sẵn sàng loan truyền và làm chứng  rằng Thiên Chúa là Tình Yêu và mến yêu Ngài là những gì ngọt ngào êm ái.

 

Chớ gì Mẹ Maria, Vị là Toàn Mỹ – Tota Pulchra , dạy cho anh chị em biết truyền đạt cho con người nam nữ ngày nay cái thu hút thần linh này, một thứ thu hút cần phải được thoát ra từ những lời nói và việc làm của anh chị em. Trong khi tôi đã bày tỏ cùng anh chị em lòng cảm mến tri ân của tôi về việc anh chị em phục vụ Giáo Hội, tôi hứa luôn nhớ đến anh chị em trong lời nguyện cầu và ân cần chúc lành cho tất cả mọi anh chị em.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2007/february/documents/hf_ben-xvi_spe_20070202_festa-presentazione_en.html

 

 

TOP

 

 

“Tất cả mọi hoạt động của Giáo Hội cũng như của tín hữu trong lãnh vực gia đình, cần phải dựa vào sự thật về hôn nhân cùng với chiều kích hợp lý nội tại của nó”.

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI với Pháp Tòa RôTa Rôma ngày Thứ Bảy 27/1/2007 ở Sảnh Đường  Clementine

 

Trong cuộc khủng hoảng đến phá sản về hôn nhân gia đình từ thập niên 1960 đến nay, đối với Kitô hữu, vấn đề có thể nói là hấp dẫn nhất và thắc mắc nhất đó là vấn đề giải hôn. Theo chiều hướng chung chung thì hễ vợ chồng có chuyện, không phải chỉ liên quan tới vấn đề trầm trọng phạm tới chính bản tính hôn nhân là ngoại tình hay phản bội nhau, mà còn liên quan cả đến tính nết xung khắc nhau nữa, là họ liền nghĩ đến chuyện ly dị, hơn là tìm cách áp dụng đức tin và đời sống nội tâm để khắc phục khó khăn, rồi vì muốn ly dị chứ không phải ly thân, họ tất nhiên sẽ tiến đến chỗ tái hôn, cuối cùng để tái hôn họ nghĩ đến và cần đến việc giải hôn theo phép đạo.

 

Về vấn đề giải hôn, theo chiều hướng duy nhân bản, chiều hướng pro choice, chiều hướng tôn sùng nữ thần tự do và ngẫu tượng dân chủ nhân quyền, nhất là ở xã hội tân tiến theo cá nhân chủ nghĩa và duy thực dụng chủ nghĩa, thì ngoại trừ thể lệ phức tạp và lâu dài một chút, thường không có gì là khó khăn cho lắm. Bởi vì “người ta” cho rằng, thứ nhất nếu không tháo gỡ cho họ thì họ cũng phạm tội thôi; thứ hai, đó là khi lấy nhau họ chưa đủ khôn ngoan chín chắn.

 

Vậy thì căn cứ vào đâu để biết là con người đã đủ khôn ngoan chín chắn, cho dù ngay đầu bí tích hôn phối họ đã rõ ràng trả lời là tự nguyện lấy nhau chứ không bị ép buộc? Kinh nghiệm nhân sinh và tâm lý tự nhiên cho thấy cho dù có già đời đến đâu đi nữa, con người vẫn còn cảm thấy mình có những lúc ngu ngốc, khờ khạo. Vậy thì hôn nhân lúc nào cũng giải được hay sao? Nếu áp dụng nguyên tắc chưa đủ khôn ngoan này thì các linh mục cũng có thể được hoàn tục dễ dàng, vì các vị chịu chức thường ở vào tuổi chưa tam thập nhi lập, đủ trưởng thành để dấn thân v.v.

 

Vậy nhận định và ý hướng của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI của chúng ta trong vấn đề giải hôn này ra sao, như ngài huấn dụ thành phần chuyên gia luật pháp thuộc Tòa Án Rôta Rôma, trong cuộc gặp gỡ truyền thống hằng năm, hôm Thứ Bảy 27/1/2007, để khai mạc Năm Pháp Đình mới của cơ quan đây?

 

Tòa Án  Rôta Rôma là Pháp Đình của Tòa Thánh để cứu xét các vụ án được chuyển lên từ các tòa án thuộc giáo hội địa phương. Theo Đức Giám Mục Antoni Stankiewicz, vị Trưởng Tòa của Pháp Đình Rôta này cho biết trong cuộc triều kiến của thành phần chuyên gia pháp luật của Tòa Thánh với Đức Thánh Cha hôm Thứ Bảy 27/1/2007, thì mở màn cho năm pháp đình mới 2007, cơ quan pháp đình trung ương của Tòa Thánh Vatican đang cứu xét 1.181 vụ. Năm 2006 có 1.679 vụ, và năm 2005 có 1.637 vụ.

 

Như thế, con số 1.181 vụ mở đầu cho năm pháp đình 2007 sẽ còn tăng lên trong cả năm, có thể tương đương hay hơn hai năm trước ở khoảng 1.700 vụ. Cũng theo vị Giám Mục Trưởng Tòa này thì trong số 1.181 vụ mở đầu cho năm 2007 có 687 vụ từ Âu Châu, 413 vụ từ toàn Mỹ Châu, 64 vụ từ Á Châu, 12 vụ từ Phi Châu và 5 vụ từ Đại Dương Châu.

 

Ngoài ra, vị giám mục đại diện pháp đình trung ương còn cho biết “các vụ bất hiệu thành về hôn nhân là các vụ thông dụng nhất ở Pháp Đình Rôta”: năm 2006 pháp đình này đã giải quyết 262 vụ, trong số đó đã công nhận 69 vụ hôn nhân là bất thành; và những nước có nhiều vụ về hôn nhân được kháng án lên Pháp Đình Rôta trung ương của Tòa Thánh này là Ý với 128 vụ, Hoa Kỳ 38 vụ, Balan 19 vụ và Lebanon 12 vụ.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,

(Dẫn nhập cho bài huấn từ của ĐTC với Pháp Tòa RôTa Rôma ngày Thứ Bảy 27/1/2007 dưới đây)

 

Quí Kiểm Thính Viên Giáo Phẩm thân mến,

Cùng Chư Vị Viên Chức và Cộng Sự thuộc Pháp Đình Rôta Rôma,

 

Tôi đặc biệt lấy làm vui được gặp gỡ quí vị một lần  nữa nhân dịp khai mạc năm pháp đình này.

 

Tôi thân ái gửi lời chào tới Hội Đồng Chư Vị Giáo Phẩm Kiểm Thính Viên, trước hết là Đức Giám  Mục Trưởng Tòa Antoni Stankiewicz về những lời lẽ mở đầu cho buổi gặp gỡ của chúng ta đây. Đoạn tôi gửi lời c hào tới Chư  Vị Viên Chức, Chư Vị Biện Hộ Viên và Chư V ị Cộng Sự khác thuộc Pháp Đình này, cũng như các Phần Tử khác của Studio Rotale và tất cả mọi người hiện diện  nơi đây. Tôi muốn lợi dụng cơ hội này để bày tỏ cùng quí vị lòng biết ơn của tôi, đồng thời tái khẳng định tầm quan trọng của thừa tác vụ hội thánh của quí vị nơi lãnh vực quan trọng như lãnh vực hoạt động về pháp lý này. Tôi rất chú trọng tới hoạt động sáng giá quí vị cần phải thi hành một cách khôn ngoan và cực kỳ thận trọng thay cho Tòa Thánh và sứ vụ của Tòa Thánh. Công việc phục vụ tế nhị của quí vị đối với sự thật một cách chính đáng là những gì được hỗ trợ bởi các truyền thống lừng lẫy của Pháp Đình này, những truyền thống quí vị cảm thấy buộc phải tỏ ra trân trọng.

 

Năm ngoái, ở cuộc gặp gỡ đầu tiên của tôi với quí vị, tôi đã tìm cách khảo sát những đường lối để thắng vượt cái tương phản hiển nhiên giữa nội dung của những nguyên nhân nơi việc hủy hôn với mối quan tâm chân thực về mục vụ. Theo chiều hướng ấy thì lòng mến chuộng chân lý hiện lên như một điểm qui hợp giữa tiến trình cứu xét và việc mục vụ trợ giúp con người. Tuy nhiên, chúng ta không được quên rằng nơi những nguyên nhân của việc giải hôn, thì sự thật về pháp lý chất chứa chính ‘sự thật về hôn nhân’. Thế nhưng, câu phát biểu ‘sự thật về hôn nhân’ đây đang mất đi tầm quan trọng hiện hữu của nó nơi một môi trường văn hóa thấm đẫm những gì là tương đối chủ nghĩa và thực chứng chủ nghĩa về pháp lý, một thứ thực chứng chủ nghĩa về pháp lý coi hôn nhân như là một thứ hợp thức hóa thuần túy về xã hội các mối liên hệ về cảm xúc. 

 

Bởi thế, hôn nhân chẳng những trở thành những gì ngẫu nhiên tình cờ phụ thuộc, như chính cảm tình của con người, hôn nhân còn được trình bày cho thấy như là một thứ siêu cấu trúc pháp lý của ý muốn con người, một thứ hôn nhân có thể được mạo dụng lèo lái một cách độc đoán, và thậm chí còn có thể bị tước mất đi tính chất dị tính của nó nữa. 

 

Cuộc khủng hoảng về ý nghĩa của hôn nhân này cũng đang ảnh hưởng tới thái độ của nhiều tín hữu. Những hiệu quả thực tế của những gì được tôi gọi là ‘việc dẫn giải có tính cách bất liên tục và đoạn tuyệt’ đối với giáo huấn của Công Đồng Chung Vaticanô II (cf. Address to the Roman Curia, 22 December 2005; L'Osservatore Romano English edition [ORE], 4 January 2006, p. 4), là những gì được đặc biệt cảm nghiệm thấy một cách rõ ràng nơi lãnh vực hôn nhân và gia đình.

 

Thật vậy, đối với một số người thì giáo huấn của công đồng về hôn nhân, nhất là việc diễn tả cơ cấu này như ‘intima communitas vitae et amoris – cộng đồng mật thiết của sự sống và yêu thương’ (Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội ‘Vui Mừng và Hy Vọng’, khoản 48), cần phải dẫn tới chỗ phủ nhận cái hiện hữu của mối giây phối ngẫu bất khả phân ly, vì giáo huấn ấy là vấn đề của một thứ ‘lý tưởng’ mà ‘thành phần  Kitô hữu bình thường’ không thể nào ‘bị ép buộc’ theo đuổi.

 

Đúng thế, hiện cũng đang lan tràn ở một số lãnh vực trong giáo hội cho rằng thiện ích về mục vụ của con người trong tình trạng hôn nhân bất thường là những gì đòi phải thực hiện một thứ qui tắc hóa về giáo luật, không dính dáng gì tới vấn đề hiệu thành hay vô hiệu cuộc hôn nhân của họ, tức là không liên quan gì tới ‘sự thật’ về tình trạng riêng tư của họ. Tiến trình công bố vô hiệu hôn nhân thực sự được coi như là một phương tiện về pháp lý để đạt được mục tiêu ấy, theo lập luận là luật lệ trở thành những gì hợp thức hóa các đòi hỏi chủ quan. Về vấn đề này, trước hết cần phải vạch ra rằng Công Đồng Chung Vaticanô II thực sự đã diễn tả hôn nhân như là một cộng đồng mật thiết của sự sống và yêu thương - intima communitas vitae et amoris, thế nhưng, cộng đồng này, theo truyền thống của Giáo Hội, được ấn định bởi cả một loạt nguyên tắc của luật lệ thần linh làm nên ý nghĩa nhân loại học đích thực và vĩnh tại của nó (xem cùng nguồn vừa dẫn).

 

Ngoài ra, các Giáo Huấn của Đức Phaolô VI và Gioan Phaolô II, cũng như hành động về pháp lý của cả Bộ Giáo Luật Latinh và Đông Phương, đã áp dụng Công Đồng Chung Vaticanô II, bằng việc trung thành dẫn giải liên quan tới cả tín lý và kỷ luật của hôn nhân, nhờ đó đã kiên trì với nỗ lực của công đồng trong việc ‘canh tân’ hay ‘canh tân một cách liên tục’ (cf. Address to the Roman Curia, op. cit.). Diễn tiến này được căn cứ vào chủ trương bất khả tranh cãi là hôn nhân có một sự thật riêng biệt – sự thật đó là, nhờ Lời Chúa sáng soi, con người biết được thực tại khác nhau về phái tính nơi người nam và người nữ, cùng với nhu cầu sâu xa của họ trong việc họ cần phải bổ khuyết lẫn nhau, cần phải trọn vẹn hiến thân cho nhau và chỉ thuộc về nhau thôi – và việc nhận thức về sự thật này cùng với việc đào sâu lý lẽ và đức tin về sự thật ấy là những gì hòa hợp góp phần.

 

Sự thật về nhân loại học và cứu độ của hôn nhân – cũng theo chiều kích pháp lý của nó – là những gì đã được trình bày trong Thánh Kinh. Rõ ràng nhất là câu Chúa Giêsu trả lời cho những người Pharisiêu muốn hỏi ý của Người về tính cách pháp lý hợp lệ của vấn đề ruồng rẫy vợ: ‘Quí vị không đọc thấy hay sao Ngài là Đấng từ ban đầu đã dựng nên họ có nam có nữ, và phán vì lý do này mà người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ mình mà liên kết với vợ mình, rồi cả hai sẽ thành một? Vậy họ không còn là hai song là một. Bởi vậy những gì Thiên Chúa đã liên kết thì không ai được phân rẽ’ (Mt 19:4-6).

 

Những lời trích dẫn từ Sách Khởi Nguyên (1:27; 2:24) ấy cho thấy sự thật về hôn nhân theo ‘nguyên tắc’, một sự thật được nên trọn ở mối hiệp nhất giữa Chúa Kitô với Giáo Hội (x Eph 5:30-31), và trở thành đối tượng cho những chia sẻ sâu rộng của Đức  Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong loạt bài giáo lý về tình yêu của con người theo dự án thần linh.

 

Căn cứ vào mối hiệp nhất lưỡng diện này của đôi phối ngẫu mới có thể thực hiện một khoa nhân loại học về hôn nhân theo pháp lý đích thực. Bởi thế mà những lời kết luận của Chúa Giêsu mới là những gì đặc biệt sáng tỏ: ‘Vậy những gì Thiên Chúa đã liên kết thì không ai được phân ly’. Dĩ nhiên hết mọi cuộc hôn nhân là thành quả của việc tự do đồng ý lấy nhau của người nam và người nữ, thế nhưng trong thực tế thì quyền tự do này của họ bày tỏ cái khả năng tự nhiên được bẩm sinh nơi nam tính và nữ tính của họ.

 

Mối liên kết này diễn ra bởi chính dự án của Thiên Chúa là Đấng đã dựng nên họ có nam có nữ và ban cho họ khả năng vĩnh viễn liên kết những chiều kích tự nhiên và bổ khuyết của con người họ.

 

Tính cách bất khả phân ly của hôn nhân không xuất phát từ quyết tâm vĩnh viễn của những ai hứa quyết giữ nó, mà là những gì nội tại theo bản chất của ‘mối liên hệ mãnh liệt do Đấng Hóa Công thiết lập’ (John Paul II, Catechesis, General Audience 21 November 1979, n. 2; ORE, 26 November 1979, p, 1).

 

Con người lập gia đình cần phải dứt khoát dấn thân cho hôn nhân vì hôn nhân thuộc về dự án tạo dựng và cứu chuộc. Và tính chất pháp lý thiết yếu này của hôn nhân là những gì thực sự vốn có ở nơi mối liên hệ hôn nhân ấy, một tính chất hôn nhân đối với nam nhân cũng như đối với nữ nhân là những gì tiêu biểu cho việc đòi hỏi của công lý và yêu thương, những đòi hỏi mà họ, vì thiện ích của họ cũng như của tất cả mọi người, không được hủy bỏ kẻo phản nghịch lại với những gì được chính Thiên Chúa ghi khắc nơi họ.

 

Cần phải học hỏi về khía cạnh này hơn nữa, chẳng những vì quí vị đóng vai trò là thành phần luật sư giáo luật, mà còn vì việc hiểu biết toàn diện về cơ cấu hôn nhân này cũng cần phải được sáng tỏ nơi chiều kích thẩm quyền của nó nữa. Tuy nhiên, những quan niệm về bản chất của mối liên hệ này có thể rất khác nhau. Đối với chủ nghĩa thực chứng thì phạm vi pháp lý của mối liên hệ hôn nhân chỉ là thành quả của vấn đề áp dụng một thứ tiêu chuẩn hợp lệ và hiệu nghiệm chính thức của con người mà thôi. Như thế, thực tại về sự sống và tình yêu hôn nhân của con người là những gì nằm ở ngoài cơ cấu ‘hợp lý’ của hôn nhân. Giữa luật lệ và đời sống của con người nẩy sinh một thứ gián đoạn hoàn toàn chối bỏ cái khả thể của một nền  tảng về nhân loại học nơi luật lệ.

 

Vai trò truyền thống của Giáo Hội là những gì hoàn toàn khác biệt nơi việc hiểu biết chiều kích hợp lý của mối hiệp nhất hôn nhân theo giáo huấn của Chúa Giêsu, của các Tông Đồ và của các Đức Thánh Cha. Thánh Âu Quốc Tinh chẳng hạn, khi trích lại lời của Thánh Phaolô, đã mạnh mẽ khẳng định rằng: ‘Cui fidei (coniugali) tantum iuris tribuit Apostolus, ut eam potestatem appellaret, dicens:  Mulier non habet potestatem corporis sui, sed vir, similiter autem et vir non habet potestatem corporis sui, sed mulier (1Cor 7:4)’ (De Bono Coniugali, 4, 4).

 

Thánh Phaolô, vị giải thích rất sâu xa trong Thư gửi Giáo Đoàn Êphêsô về ‘mầu nhiệm cao cả – mysterion mega’ của tình yêu phối ngẫu liên quan tới mối hiệp nhất giữa Chúa Kitô và Giáo Hội (5:22-31), đã không ngần ngại áp dụng vào hôn nhân những từ ngữ pháp lý mạnh mẽ nhất để nói lên mối liên hệ hợp lý thắt kết các đôi phối ngẫu lại nơi chiều kích phái tính của họ. Đối với Thánh Âu Quốc Tinh cũng thế, tính cách pháp lý là những gì thiết yếu nơi mỗi một thiện ích trong thứ 3 thiện ích (proles, fides, sacramentum) làm nồng cốt cho chủ trương tín lý về hôn nhân  của ngài.

 

Trước tình trạng tương đối hóa theo chủ quan và tự do nơi cảm nghiệm về tính dục, truyền thống của Giáo Hội minh nhiên khẳng định tính chất hợp lý tự nhiên của hôn nhân, tức là sự kiện tự bản chất nó thuộc về phạm vi của công lý nơi những tương quan liên ngôi vị.

 

Theo chiều hướng ấy thì luật lệ thực sự được đan kết với sự sống và yêu thương như là một trong những trách nhiệm nội tại của việc nó hiện hữu. Thế nên, như tôi đã viết trong Bức Thông Điệp đầu tay của mình, ‘theo quan điểm của việc tạo dựng thì erostình ái là những gì hướng con người tới hôn nhân , đến một mối liên hệ đặc thù và tối hậu; nhờ đó và chỉ nhờ đó nó mới hoàn trọn mục đích sâu xa nhất của nó’ (Deus Caritas Est, n. 11).

 

Bởi vậy, tình yêu và luật lệ có thể liên kết ở chỗ bảo đảm là người chồng và người vợ mắc nợ lẫn nhau thứ tình yêu nhờ đó họ tự nhiên yêu thương nhau: tình yêu trong họ này là hoa trái của lòng họ tự do mong ước thiện ích của nhau và của con cái họ; tình yêu, ngoài ra, còn là một đòi hỏi yêu thương cho thiện ích thực sự của bản thân họ.

 

Tất cả mọi hoạt động của Giáo Hội cũng như của tín hữu trong lãnh vực gia đình, cần phải dựa vào sự thật về hôn nhân này cùng với chiều kích hợp lý nội tại của nó. Cho dù như vậy, như tôi đã nhắc nhở trước đây, cái tâm thức tương đối, một cách công khai hay tinh quái không nhiều thì ít, cũng có thể lọt vào cộng đồng giáo hội.

 

Quí vị đã quá rõ đó là mối nguy cơ của thời đại chúng ta, một mối nguy cơ đôi khi được thể hiện nơi những thứ dẫn giải méo mó về những qui tắc giáo luật đang có hiệu lực. Người ta cần phải đáp lại khuynh hướng này một cách can đảm và tin tưởng, liên lỉ áp dụng việc dẫn giải có tính cách canh tân trong liên tục, chứ đừng để mình bị dụ dẫm bởi những hình thức dẫn giải dính dáng tới một thứ đứt đoạn với truyền thống Kitô Giáo.

 

Những đường lối ấy là những gì dẫn đến chỗ tách khỏi yếu tính thực sự của hôn nhân, cũng như khỏi chiều kích hợp lý nội tại của nó, và ẩn nấp dưới những danh xưng hấp dẫn khác nhau không nhiều thì ít, tìm cách che đậy một thực tại giả tạo về hôn nhân.

 

Bởi vậy đôi khi vấn đề tiến tới chỗ chủ trương rằng chẳng có gì là đúng hay sai trong mối liên hệ vợ chồng cả, nếu nó tương hợp với việc chiếm đạt được những khát vọng chủ quan của mỗi bên. Theo chiều hướng này thì ý nghĩ về hôn nhân bị chao đảo ‘in facto esse’ giữa những mối liên hệ thực sự với chiều kích thực chứng về pháp lý, khi coi thường yếu tính của nó vốn là một mối liên hệ nội tại chính đáng giữa những ngôi vị của người nam và người nữ.

 

Việc đóng góp của các tòa án của giáo hội trong việc thắng vượt cuộc khủng khoảng về ý nghĩa của hôn nhân, trong Giáo Hội cũng như nơi xã hội dân  sự, đối với một số người có thể được coi như là một cái gì đó phụ thuộc hay chẳng quan trọng là bao.

 

Tuy nhiên, chính vì hôn nhân có một chiều kích hợp lý nội tại, mà việc trở nên những người tôi tớ khôn ngoan và tin tưởng của công lý trong lãnh vực tế nhị và rất quan trọng này có một giá trị chứng từ đáng kể và trở thành một thứ tái bảo đảm sâu xa cho tất cả mọi người. Quị Kiểm Thính Viên Giáo Phẩm thân mến, quí vị đang dẫn đầu cuộc dấn thân lãnh một trách nhiệm đối với sự thật được thể hiện một cách đặc biệt trong thời đại của chúng ta.

 

Trong việc tỏ ra trung thành với công việc của mình, hãy tin tưởng rằng hành động của quí vị thích hợp một cách hài hòa với việc tài nhận thức được toàn diện vẻ đẹp của ‘sự thật về hôn nhân’, sự thật về ‘nguyên tắc’ được Chúa Giêsu đã trọn vẹn dạy cho chúng ta và là nguyên tắc được Thánh Thần  tiếp tục nhắc nhở chúng ta trong Giáo Hội ngày nay.

 

Quí Kiểm Thính Viên  Giáo Phẩm, Chư Viên Chức và chư vị cộng sự viên, đó là những quan tâm tôi cảm thấy cần phải mời gọi quí vị chú trọng, với  niềm tin tưởng rằng tôi sẽ thấy nơi quí vị là những thẩm phán và quan tòa biết sẵn sàng chia sẻ và chấp nhận áp dụng một giáo huấn rất quan trọng và nghiêm trọng. 

 

Tôi đặc biệt bày tỏ cùng mỗi người và mọi người việc tôi cảm thấy hân hoan và tin tưởng là Tông Pháp Đình Rôta Rôma này, một biểu lộ hiệu nghiệm và thế giá cho đức khôn ngoan thẩm quyền của Giáo Hội, sẽ tiếp tục thi hành một cách nhất trí munus – vai trò không dễ dàng của mình, để phục vụ dự án thần linh là những gì được Đấng Hóa Công và Cứu Chuộc theo đuổi nơi cơ cấu hôn nhân.

 

Tôi thân ái ban Phép Lành Tòa Thánh đặc biệt cho tất cả quí vị khi kêu cầu ơn  trợ giúp thần linh xuống cho hoạt động của quí vị.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2007/january/documents/hf_ben-xvi_spe_20070127_roman-rota_en.html

 

Phân tích bài huấn từ của ĐTC với Pháp Tòa RôTa Rôma ngày Thứ Bảy 27/1/2007 trên đây.

 

Nếu đọc kỹ toàn bài huấn  từ của ngài, chúng ta thấy đại ý của bài huấn dụ của ngài được tóm gọn trong  câu sau đây: Tất cả mọi hoạt động của Giáo Hội cũng như của tín hữu trong lãnh vực gia đình, cần phải dựa vào sự thật về hôn nhân cùng với chiều kích hợp lý nội tại của hôn nhân”.

 

Trong câu đại ý này, chúng ta thấy ngài nhấn mạnh đến hai chi tiết quan trọng được khai triển dài dòng trong toàn bài nói, chi tiết thứ nhất đó là “sự thật về hôn nhân, và chi tiết thứ hai đó là “chiều kích hợp lý nội tại của hôn nhân”.

 

Trước hết, đối với “sự thật về hôn nhân”, ngài đã nhận định và xác định như sau:

 

1.      “Thế nhưng, câu phát biểu ‘sự thật về hôn nhân’ đây đang mất đi tầm quan trọng hiện hữu của nó nơi một môi trường văn hóa thấm đẫm những gì là tương đối chủ nghĩa và thực chứng chủ nghĩa về pháp lý, một thứ thực chứng chủ nghĩa về pháp lý coi hôn nhân như là một thứ hợp thức hóa thuần túy về xã hội các mối liên hệ về cảm xúc”.

 

2.      “Bởi thế, hôn nhân chẳng những trở thành những gì ngẫu nhiên tình cờ phụ thuộc, như chính cảm tình của con người, hôn nhân còn được trình bày cho thấy như là một thứ siêu cấu trúc pháp lý của ý muốn con người, một thứ hôn nhân có thể được mạo dụng lèo lái một cách độc đoán, và thậm chí còn có thể bị tước mất đi tính chất dị tính của nó nữa”. 

 

3.      “Cuộc khủng hoảng về ý nghĩa của hôn nhân này cũng đang ảnh hưởng tới thái độ của nhiều tín hữu…. Thật vậy, đối với một số người thì giáo huấn của công đồng về hôn nhân, nhất là việc diễn tả cơ cấu này như ‘intima communitas vitae et amoris – cộng đồng mật thiết của sự sống và yêu thương’ (Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội ‘Vui Mừng và Hy Vọng’, khoản 48), cần phải dẫn tới chỗ phủ nhận cái hiện hữu của mối giây phối ngẫu bất khả phân ly, vì giáo huấn ấy là vấn đề của một thứ ‘lý tưởng’ mà ‘thành phần  Kitô hữu bình thường’ không thể nào ‘bị ép buộc’ theo đuổi.

 

4.      “Đúng thế, hiện cũng đang lan tràn ở một số lãnh vực trong giáo hội cho rằng thiện ích về mục vụ của con người trong tình trạng hôn nhân bất thường là những gì đòi phải thực hiện một thứ qui tắc hóa về giáo luật, không dính dáng gì tới vấn đề hiệu thành hay vô hiệu cuộc hôn nhân của họ, tức là không liên quan gì tới ‘sự thật’ về tình trạng riêng tư của họ. Tiến trình công bố vô hiệu hôn nhân thực sự được coi như là một phương tiện về pháp lý để đạt được mục tiêu ấy, theo lập luận là luật lệ trở thành những gì hợp thức hóa các đòi hỏi chủ quan.

 

5.      “Hôn nhân có một sự thật riêng biệt – sự thật đó là, nhờ Lời Chúa sáng soi, con người biết được thực tại khác nhau về phái tính nơi người nam và người nữ, cùng với nhu cầu sâu xa của họ trong việc họ cần phải bổ khuyết lẫn nhau, cần phải trọn vẹn hiến thân cho nhau và chỉ thuộc về nhau thôi”.

 

6.      “Sự thật về nhân loại học và cứu độ của hôn nhân – cũng theo chiều kích pháp lý của nó – là những gì đã được trình bày trong Thánh Kinh. Rõ ràng nhất là câu Chúa Giêsu trả lời cho những người Pharisiêu muốn hỏi ý của Người về tính cách pháp lý hợp lệ của vấn đề ruồng rẫy vợ: ‘Quí vị không đọc thấy hay sao Ngài là Đấng từ ban đầu đã dựng nên họ có nam có nữ, và phán vì lý do này mà người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ mình mà liên kết với vợ mình, rồi cả hai sẽ thành một? Vậy họ không còn là hai song là một. Bởi vậy những gì Thiên Chúa đã liên kết thì không ai được phân rẽ’ (Mt 19:4-6)”.

 

7.      “Những lời trích dẫn từ Sách Khởi Nguyên (1:27; 2:24) ấy cho thấy sự thật về hôn nhân theo ‘nguyên tắc’, một sự thật được nên trọn ở mối hiệp nhất giữa Chúa Kitô với Giáo Hội (x Eph 5:30-31)”.

 

Sau nữa, về “chiều kích hợp lý nội tại của hôn nhân”, Đức Thánh Cha cũng nhận định và xác định như thế này:

 

1.      “Con người lập gia đình cần phải dứt khoát dấn thân cho hôn nhân vì hôn nhân thuộc về dự án tạo dựng và cứu chuộc. Và tính chất pháp lý thiết yếu này của hôn nhân là những gì thực sự vốn có ở nơi mối liên hệ hôn nhân ấy, một tính chất hôn nhân đối với nam nhân cũng như đối với nữ nhân là những gì tiêu biểu cho việc đòi hỏi của công lý và yêu thương, những đòi hỏi mà họ, vì thiện ích của họ cũng như của tất cả mọi người, không được hủy bỏ kẻo phản nghịch lại với những gì được chính Thiên Chúa ghi khắc nơi họ”.

 

2.      “Trước tình trạng tương đối hóa theo chủ quan và tự do nơi cảm nghiệm về tính dục, truyền thống của Giáo Hội minh nhiên khẳng định tính chất hợp lý tự nhiên của hôn nhân, tức là sự kiện tự bản chất nó thuộc về phạm vi của công lý nơi những tương quan liên ngôi vị.

 

3.      “Theo chiều hướng ấy thì luật lệ thực sự được đan kết với sự sống và yêu thương như là một trong những trách nhiệm nội tại của việc nó hiện hữu. Thế nên, như tôi đã viết trong Bức Thông Điệp đầu tay của mình, ‘theo quan điểm của việc tạo dựng thì erostình ái là những gì hướng con người tới hôn nhân , đến một mối liên hệ đặc thù và tối hậu; nhờ đó và chỉ nhờ đó nó mới hoàn trọn mục đích sâu xa nhất của nó’ (Deus Caritas Est, n. 11).

 

4.      “Bởi vậy, tình yêu và luật lệ có thể liên kết ở chỗ bảo đảm là người chồng và người vợ mắc nợ lẫn nhau thứ tình yêu nhờ đó họ tự nhiên yêu thương nhau: tình yêu trong họ này là hoa trái của lòng họ tự do mong ước thiện ích của nhau và của con cái họ; tình yêu, ngoài ra, còn là một đòi hỏi yêu thương cho thiện ích thực sự của bản thân họ.

 

5.      “Tất cả mọi hoạt động của Giáo Hội cũng như của tín hữu trong lãnh vực gia đình, cần phải dựa vào sự thật về hôn nhân này cùng với chiều kích hợp lý nội tại của nó. Cho dù như vậy, như tôi đã nhắc nhở trước đây, cái tâm thức tương đối, một cách công khai hay tinh quái không nhiều thì ít, cũng có thể lọt vào cộng đồng giáo hội.

 

6.      “Quí vị đã quá rõ đó là mối nguy cơ của thời đại chúng ta, một mối nguy cơ đôi khi được thể hiện nơi những thứ dẫn giải méo mó về những qui tắc giáo luật đang có hiệu lực. Người ta cần phải đáp lại khuynh hướng này một cách can đảm và tin tưởng, liên lỉ áp dụng việc dẫn giải có tính cách canh tân trong liên tục, chứ đừng để mình bị dụ dẫm bởi những hình thức dẫn giải dính dáng tới một thứ đứt đoạn với truyền thống Kitô Giáo.

 

7.      “Những đường lối ấy là những gì dẫn đến chỗ tách khỏi yếu tính thực sự của hôn nhân, cũng như khỏi chiều kích hợp lý nội tại của nó, và ẩn nấp dưới những danh xưng hấp dẫn khác nhau không nhiều thì ít, tìm cách che đậy một thực tại giả tạo về hôn nhân.

 

8.      “Bởi vậy đôi khi vấn đề tiến tới chỗ chủ trương rằng chẳng có gì là đúng hay sai trong mối liên hệ vợ chồng cả, nếu nó tương hợp với việc chiếm đạt được những khát vọng chủ quan của mỗi bên. Theo chiều hướng này thì ý nghĩ về hôn nhân bị chao đảo ‘in facto esse’ giữa những mối liên hệ thực sự với chiều kích thực chứng về pháp lý, khi coi thường yếu tính của nó vốn là một mối liên hệ nội tại chính đáng giữa những ngôi vị của người nam và người nữ.

 

9.      “Việc đóng góp của các tòa án của giáo hội trong việc thắng vượt cuộc khủng khoảng về ý nghĩa của hôn nhân, trong Giáo Hội cũng như nơi xã hội dân  sự, đối với một số người có thể được coi như là một cái gì đó phụ thuộc hay chẳng quan trọng là bao”.

 

Tóm lại, vấn đề được ĐTC nói trong bài huấn từ với pháp đình Rôta Rôma để khai mạc cho tân niên  pháp đình liên quan tới “sự thật về hôn nhân cùng với chiều kích hợp lý nội tại của hôn nhâncó thể được tóm gọn ở chỗ, nếu người ta còn ý thức hôn nhân là một ơn  gọi, biết chấp nhận nhau trong Chúa và như Chúa muốn, họ sẽ sống trọn dự án thần linh và cứu chuộc của cơ cấu hôn nhân, và đời sống hôn nhân gia đình của họ chắc chắn sẽ trung thực phản ảnh mầu nhiệm cao cả là Chúa Kitô và Giáo Hội.

 

TOP