“Đối Thoại giữa Văn Hóa và Tôn
Giáo”
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI:
Sứ Điệp gửi các Chủ Tịch Hội Đồng Đối Thoại Liên Tôn và Văn Hóa
nhân Ngày Học Hỏi 4/12/2008
Kính gửi ĐHY Jean-Louis Tauran,
Chủ Tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Đối Thoại Liên Tôn và
ĐTGM Gianfranco Ravasi,
Chủ Tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Văn Hóa
Trước hết tôi muốn bày tỏ lòng chân thành hài lòng của tôi trước
việc cùng khởi động của Hội Đồng Tòa Thánh về Đối Thoại Liên Tôn
và Hội Đồng Tòa Thánh về Văn Hóa, những hội đồng đứng ra tổ chức
một NGày Học Hỏi đề tài “Cuộc Đối Thoại giữa ác Nền Văn Hóa và
chư Tôn Giáo”, như việc Tòa Thánh tham dự vào sáng kiến của Khối
Hiệp Nhất Âu Châu được phê chuẩn vào tháng 12 năm 2006 khi công
bố năm 2008 là “Năm Âu Châu Đối Thoại Liên Văn Hóa”. Cùng với
các vị chủ tịch của những hội động trên đây, tôi thân ái gửi lời
chào tới các vị hồng y, các chư huynh khả kính của tôi trong
hàng giáo phẩm, các phần tử thượng hạng thuộc phái đoàn ngoại
giao làm việc với Tòa Thánh, cũng như những vị đại diện thuộc
thành phần tham dự viên từ các tôn giáo khác nhau vào cuộc họp ý
nghĩa này.
Qua nhiều năm nay, Âu Châu đã từng ý thức được mối hiệp nhất
thiết yếu về văn hóa của mình, bất chấp cái chùm của các th71
văn hóa quốc gia đã hình thành nên nó. Cần phải nhấn mạnh
là Âu Châu hiện đại, đang nhìn thẳng vào ngàn năm thứ ba, là hoa
trái của hai ngàn năm văn minh. Nền văn hóa này đâm rễ vào cả
hai gia sản cổ kính lớn lao là Nhã Điển và Rôma, nhất là vào
mảnh đất phì nhiêu Kitô Giáo, một mảnh đất đã cho thấy khả năng
tạo nên những thứ gia sản văn hóa mới khi lãnh nhận phần đóng
góp nguyên khôi của mỗi một nền văn minh. Tân nhân bản, một thứ
tân nhân bản xuất phát từ việc loan truyền sứ điệp phúc âm, là
những gì thăng hóa tất cả mọi yếu tố xứng đáng với con người
cùng với ơn gọi siêu việt của họ, thanh tẩy chúng khỏi những gì
là cặn bã làm lu mờ gương mặt chân thực của nhân loại được dựng
nên theo hình ảnh và tương tự Thiên Chúa. Nhờ đó, Âu Châu xuất
hiện trước chúng ta ngày nay như là một tấm vải quí giá, với
những sợi tơ được hình thành bởi những nguyên tắc và giá trị của
Phúc Âm, trong lúc các nền văn hóa quốc gia đã có thể nói lên
những quan điểm bao rộng cho thấy những khả năng về tôn giáo,
trí tuệ, kỹ thuật, khoa học và nghệ thuật của một “Homo Europeus”.
Theo chiều hướng ấy, chúng ta có thể nói rằng Âu Châu đã gây và
đang gây tác dụng về văn hóa trên toàn thể nhân loại, và không
thể nào lại không đặc biệt cảm thấy trách nhiệm chẳng những đối
với tương lai của mình mà còn của cả nhân loại nữa.
Trong bối cảnh hiện nay, một bối cảnh mà những người đồng thời
của chúng ta hơn bao giờ hết thường tự hỏi những vấn nạn thiết
yếu vế ý nghĩa cuộc đời cùng những giá trị của nó, thì lại càng
cần hơn bao giờ hết suy nghĩ về những gốc rễ xa xưa đã làm xuất
phát ra dồi dào nhựa sống qua các thế kỷ. Cuộc đối thoại liên
văn hóa và liên tôn hiện lên như là những gì ưu tiên đối với
Khối Hiệp Nhất Âu Châu, cho thiện ích theo hàng ngang cho các
lãnh vực văn hóa và truyền thông, giáo dục và khoa học, di dân
và thiểu số, giới trẻ và lao nhân. Một khi tính cách đa dạng
được chấp nhận như là một sự kiện tích cực thì cần phải làm cho
con người chấp nhận chẳng những sự hiện hữu các nền văn hóa của
nhau, mà còn ước muốn được phong phú hóa bởi nó nữa.
Khi ngỏ cùng những
người Công Giáo, vị tiền nhiệm của tôi là Người Tôi Tớ Chúa
Phaolô VI, đã bày tỏ niềm xác tín sâu xa của mình bằng những lời
lẽ này: “Giáo Hội cần phải tham gia cuộc dối thoại với thế giới
Giáo Hội đang sống. Giáo Hội trở thành thế giới, Giáo Hội trở
thành sứ điệp, Giáo Hội trở thành cuộc đàm thoại” (Thông Điệp
Ecclesiam Suam, 67). Chúng ta đang sống trong những gì thường
gọi là một “thế giới đa phương”, được đánh dấu bằng tốc độ
truyền thông, tình trạng di động của các dân tộc cùng với nền
kinh tế của họ, việc liên thuộc về chính trị và văn hóa. Chính ở
nơi cái thế giới đa phương ấy, có lẽ đang ở trong giờ khắc thảm
thương, cho dù chẳng may nhiều người dân Âu Châu dường như
đã quên đi những cội rễ Kitô Giáo của Âu Châu, thì những cội rễ
Kitô Giáo của Âu Châu vẫn đang tồn tại và cần phải vạch
vẽ đường đi nước bước cùng nuôi dưỡng niềm hy vọng của hằng
triệu người công dân chủ trương nắm giữ những giá trị như nhau.
Thành phần tín hữu bao giờ cũng cần phải sẵn sàng cổ võ những
khởi động cho cuộc đối thoại về liên văn hóa và liên tôn, phấn
khích việc hợp tác về những đề tài tương ích, chẳng hạn như phẩm
giá con người, việc tìm cầu công ích, việc xây dựng hòa bình và
phát triển. Với ý hướng này, Tòa Thánh muốn cống hiến một ý
nghĩa đặc biệt cho việc tham dự của mình vào cuộc đối thoại cao
cấp về vấn đề hiểu biết giữa chư tôn giáo và các nền văn hóa,
cũng như về việc hợp tác cho hòa bình, theo nội dung của Đại Hội
Đồng Liên Hiệp Quốc lần thứ 62 (4-5/10/2007). Muốn trung
thực, việc đối thoại cần phải tránh vấn đề chiều theo chủ nghĩa
tương đối và chủ nghĩa hòa đồng, và cần phải được tác động bởi
lòng chân thành tôn trọng nhau cũng như bằng một tinh thần quảng
đại giải hòa và huynh đệ.
Tôi khuyến khích tất cả những ai dấn thân vào việc xây dựng một
Âu Châu thân tình và dễ thương trung thành với những cội nguồn
của mình hơn bao giờ hết, đặc biệt tôi muốn kêu gọi thành phần
tín hữu hãy góp phần chẳng những vào việc nhiệt liệt bảo vệ gia
sản văn hóa và thiêng liêng là những gì làm cho họ khác biệt và
làm nên yếu tố nguyên vẹn cho lịch sử của họ, mà còn dấn thân
gia công tìm kiếm những cách thức mới mẻ để giải quyết cách
thích đáng những thách đố lớn lao đánh dấu thời đại tân tiến này.
Trong những thứ thách đố ấy, tôi muốn đề cập tới việc
bênh vực sự sống của con người qua tất cả mọi giai đoạn của nó,
việc bảo toàn tất cả mọi quyền lợi của con người và gia đình,
việc kiến tạo một thế giới chân chính và cảm thương, việc tôn
trọng thiên nhiên, và việc đối thoại liên văn hóa và liên tôn.
Theo chiều hướng ấy, tôi chúc cho ngày học hỏi này được thành
đạt như dự tính và xin xin muôn vàn ơn phúc của Thiên Chúa xuống
trên tất cả mọi tham dự viên.
Tại Vatican ngày 3/12/2008
Biển Đức XVI
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được
Zenit phổ biến ngày 9/2/008
(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc
làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)
"Việc hiến cơ phận là một chứng
từ đặc biệt của đức bác ái"
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Huấn Từ cho buổi
triều kiến của tham dự viên hội nghị quốc tế về sự sống Thứ Sáu
7/11/2008
Hội nghị này được bảo trợ bởi Giáo Hoàng Học Viện về Sự Sống,
Liên Hiệp Quốc Tế Chư Hiệp Hội Y Khoa Công Giáo, và Trung Tâm
Chuyển Ghép Cơ Phận Quốc Gia Ý Đại Lợi, kết thúc vào ngày Thứ
Bảy 8/11/2008, chủ đề “Một Tặng Ân cho Sự Sống. Những Quan Tâm
đến Việc Hiến Cơ Phận”.
Chư huynh khả kính trong hàng giáo phẩm,
Anh chị em thân mến:
Việc hiến cơ phận là một chứng từ đặc biệt của đức bác ái.
Trong một thời điểm như của chúng ta đây, thường được đánh dấu
bằng các hình thức khác nhau của chủ nghĩa duy ngã độc tôn, thì
lại càng cần hơn nữa để hiểu được tại sao cần phải đi sâu vào
cái lý lẽ của lòng tri ân hầu biết được sự sống cách đúng đắn.
Thật vậy, vẫn có một thứ trách nhiệm của lòng yêu thương
và đức bác ái thôi thúc con người biến mình thành một quà tặng
cho người khác, nếu họ thật sự tìm kiếm chính tầm mức viên trọn
của mình. Như Chúa Giêsu đã dạy chúng ta, các con cứu
được sự sống của mình chỉ khi nào trao hiến nó đi mà thôi (cf Lk
9:24).
(tiếp theo là hai đoạn chào tạ vắn)
Lịch sử của ngành y khoa cho thấy chứng cớ về những tiến triển
cả thể đã đạt được trong việc cống hiến mỗi ngày một hơn phẩm vị
cho thành phần chịu đựng khổ đau. Việc chuyển ghép mô và cơ phận
cho thấy một chiến thắng lớn lao của khoa y học, và thật sự là
những dấu hiệu của niềm hy vọng cho những ai đang trải qua những
bệnh nạn nghiêm trọng và thường là trầm trọng.
Nếu chúng ta nhìn đến toàn thể thế giới chúng ta sẽ dễ thấy được
nhiều trường hợp phức tạp mà nhờ các kỹ thuật chuyển ghép cơ
phận, nhiều người đã thắng vượt được những thứ bệnh nạn cực kỳ
trầm trọng, và lấy lại được niềm vui. Điều này sẽ chẳng
bao giờ xẩy ra nếu việc dấn thân của các vị y sĩ và khả năng
chuyên môn của các nhà nghiên cứu không được đáp ứng bởi lòng
quảng đại và vị tha của những ai cống hiến cơ phận của họ.
Tiếc thay, vấn đề
thiếu những cơ phận quan trọng trong tay không phải là một vấn
đề về lý thuyết mà là một vấn đề đáng kể về thực tế; người ta có
thể nhìn thấy điều này nơi bản liệt kê chờ đợi dài của những ai
nuôi một niềm hy vọng sống còn được gắn liền với con số nhỏ của
những thứ trao tặng vô bổ.
Theo chiều hướng ấy,
trước hết, thật là hữu ích để suy nghĩ về sự tiến bộ này của
khoa học, nhờ đó việc gia tăng thỉnh nguyện chuyển ghép cơ phận
không làm thay đổi những nguyên tắc về đạo lý cần phải tuân theo.
Như tôi đã nói trong bức thông điệp đầu tiên của tôi là
không bao giờ được coi
thân thể
như một đồ vật
thuần túy (cf. "Deus Caritas Est," No. 5); bằng
không nó sẽ bị áp đặt bởi một thứ lý lẽ của thị trường.
Thân thể của mỗi người, cùng với tâm thần là những gì được
ban cho từng người một cách cá thể, tạo nên một mối hiệp nhất
bất khả phân ly phản ánh hình ảnh của chính Thiên Chúa.
Không lưu ý tới chiều kích này trí khôn con người không thể nào
hiểu được cái toàn thể của mầu nhiệm hiện diện nơi từng con
người. Bởi vậy, cần phải ưu tiên tôn trọng phẩm giá của con
người và việc bảo vệ căn tính của mỗi người.
Về vấn đề kỹ thuật chuyển
ghép cơ phận, thì điều này có nghĩa là người ta chỉ có thể
hiến cơ phận của mình nếu hành động ấy không gây nguy hiểm trầm
trọng cho sức khỏe và căn tính của riêng họ, và nếu nó được thực
hiện vì một lý do thành hiệu về luân lý và tương hợp.
Ngoài ra, bất cứ những lý do nào khác liên quan tới vấn đề
mua bán cơ phận, hay tới việc chấp thuận các tiêu chuẩn thực
dụng và kỳ thị, sẽ đi tới chỗ làm vô hiệu hóa ý nghĩa của tặng
ân, biến chúng thành những hành động bất hợp pháp về luân lý.
Những thứ lạm dụng trong vấn đề chuyển ghép cơ phận và buôn bán
cơ phận, những gì thường ảnh hưởng tới thành phần vô tội, như rẻ
em chẳng hạn, cần phải được cộng đồng khoa học và y khoa liên
kết chối từ. Họ cần phải cương quyết lên án như là những gì ghê
tởm.
Nguyên tắc về đạo lý
tương tự cũng cần phải được lập lại nơi trường hợp tạo nên và
hủy hoại các phôi bào con người nhắm mục đích trị liệu.
Chính ý nghĩ coi phôi bào con người này như là “chất trị liệu”
là những gì phản lại với những nền tảng về văn hóa, dân sự và
đạo lý bắt nguồn từ phẩm giá của con người.
Việc chuyển ghép cơ
phận thường xẩy ra như là một cử chỉ hoàn toàn nhưng không từ
phần tử của gia đình được thật sự công bố là đã chết.
Trong những trường hợp ấy, việc đồng ý một cách ý thức là điều
kiện tự do tiên quyết để việc chuyển ghép này có thể được coi là
một tặng ân và không bị hiểu là một hành động cưỡng bức và lạm
dụng. Trong bất cứ trường hợp nào, cần phải nhớ rằng những
cơ phận quan trọng khác nhau có thể được lấy “ex cadavere” (từ
thân thể của người chết), một thi thể vẫn có phẩm vị riêng của
nó và cần phải được tôn trọng. Trong những năm gần đây
khoa học đã đạt được những tiến bộ hơn nữa trong việc xác định
cái chết của một bệnh nhân. Bởi vậy, những thành quả đạt được ấy
cần phải được đồng thuận của toàn thể cộng đồng khoa học trong
vấn đề tìm kiếm những giải đáp giúp cho mọi người an tâm. Trong
những trường hợp như thế thì không được có một mảy may ngờ vực
tùy ý nào, và cần phải tiến tới chỗ hoàn toàn chắc chắn, theo
đúng nguyên tắc cẩn trọng.
Muốn được như thế thì cần
phải gia tăng việc nghiên cứu và học hỏi liên ngành để quần
chúng thấy được sự thật sáng tỏ nhất về những ý nghĩa của một
thứ chuyển ghép cơ phận theo nhân loại học, xã hội, đạo lý và
pháp lý. Ở những trường hợp này, việc tôn trọng sự sống của hiến
nhân cần phải được coi là tiêu chuẩn chính yếu, hầu việc lấy các
cơ phận ra khỏi thi thể của họ chỉ xẩy ra sau khi chắc chắn họ
đã chết (cf. Compendium of the Catechism of the Catholic Church,
No. 476).
Tác động yêu thương,
một tác động được thể hiện bằng tặng ân hiến các cơ phận quan
trọng của mình, là một chứng từ đích thực của đức bác ái
vượt ra ngoài cái chết để sự sống luôn là những gì khải thắng.
Lãnh nhận nhân cần phải ý thức được giá trị của cử chỉ họ
nhận lãnh ấy, giá trị của một tặng ân vượt lên trên lợi ích về
trị liệu nữa. Những gì họ lãnh nhận là một chứng từ yêu thương,
và nó cần phải tạo nên một đáp ứng quảng đại tương đương, nhờ đó
gia tăng thứ văn hóa của việc trao ban và lòng biết ơn.
Đường lối phải theo đuổi
thực hiện này, cho đến khi khoa học khám phá ra những trị liệu
khả hữu mới mẻ và tân tiến hơn, cần phải là đường lối cho việc
hình thành và truyền bá của một thứ văn hóa có đặc tính đoàn kết
và hướng về người khác không loại trừ một ai. Việc chuyển ghép
các cơ phận theo chiều hướng đạo lý của việc hiến tặng đòi tất
cả mọi người dấn thân trong việc đầu tư hết mọi nỗ lực khả dĩ
trong vấn đề hình thành và phổ biến để càng ngày càng thức tỉnh
lương tâm con người trước một vấn đề trực tiếp ảnh hưởng tới sự
sống của rất nhiều người.
Bởi thế, cần phải thắng
vượt những thành kiến và hiểu lầm, phải đánh tan những ngờ vực
và hãi sợ và thay thế chúng bằng những gì là chắc chắn và bảo
đảm, hầu tạo nên nơi tất cả mọi người một ý thức, rộng rãi hơn
bao giờ hết, về một tặng ân cao cả của sự sống.
Mong rằng mỗi một người
trong anh chị em tiếp tục việc dấn thân của mình hợp với khả
năng và chuyên nghiệp của mình, tôi nguyện xin ơn Chúa giúp đỡ
xuống cho các khóa họp của hội nghị này và hết lòng ban phép
lành cho tất cả anh chị em.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được
Zenit phổ biến ngày 7/11/2008
(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc
làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)
Khoa Học Minh Thức về Vấn Đề Tiến
Hóa của Vũ Trụ và của Sự Sống
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Diễn Từ ngỏ cùng Tham Dự Viên Đại
Hội Giáo Hoàng Học Viện Các Khoa Học Thứ Sáu 31/10/2008
Cùng Quí Vị Tôn Nữ Tôn Nam.
Tôi hân hoan gửi lời chào đến quí vị, các phần tử thuộc Giáo
Hoàng Học Viện Các Khoc Học, nhân dịp Đại Hội của quí vị, và tôi
xin cám ơn Giáo Sư Nicola Cabibbo về những lời kẽ tốt đẹp ngỏ
cùng tôi thay cho quí vị.
Trong việc chọn đề tài Khoa Học Minh Thức nơi Vấn Đề Tiến
Hóa của Vũ Trụ và của Sự Sống, quí vị muốn tập trung vào
lãnh vực tìm hiểu gây nhiều quan tâm. Thật vậy, nhiều
người đương thời của chúng ta ngày nay muốn suy nghĩ về nguồn
gốc tối hậu của các hữu thể, căn nguyên của chúng và cùng đích
của chúng, cùng với ý nghĩa của lịch sử con người và vũ trụ này.
Theo chiều hướng ấy, tự nhiên sẽ đi đến chỗ xẩy ra những vấn đề
liên quan tới mối liên hệ giữa kiến thức của khoa học về thế
giới và kiến thức của Mạc Khải Kitô Giáo.
Các vị tiền nhiệm của tôi là Đức Giáo Hoàng Piô XII và Gioan
Phaolô II đã nhận định là không có vấn đề phản nghịch nhau
giữa kiến thức của đức tin về việc thiên nhiên tạo vật với chứng
cớ của các khoa học thực nghiệm. Ở vào những giai đoạn
tiên khởi của mình, triết lý đã đưa ra những hình ảnh để cắt
nghĩa về nguồn gốc của vũ trụ này, dựa trên một yếu tố hay vài
yếu tố thuộc thế giới thể lý. Tình trạng nguyên khởi này
đã không được coi như là việc tạo dựng, mà là một thứ thay đổi
hay biến đổi; nó liên quan tới một thứ giải thích theo
chiều ngang nào đó về nguồn gốc của thế giới này. Vấn đề triến
triển quan trọng nơi kiến thức về nguồn gốc của vũ trụ đó là
việc coi hữu thể như là hữu thể cùng với mối quan tâm về siêu
hình học nơi vấn nạn nồng cốt nhất về nguồn gốc ban đầu hay
nguồn gốc siêu việt của hữu thể dự phần. Để tiến triển và
tiến hóa, trước hết thế giới này cần phải là hư không, và do đó,
từ hư không thành hữu thể. Nói cách khác, nó cần phải được dựng
nên bởi Hữu Thể đệ nhất là Đấng tự hiện hữu.
Nói rằng nền tảng của vũ trụ này cùng với những tiến triển của
nó là những gì khôn ngoan quan phòng của Đấng Hóa Công thì không
phải là nói rằng thiên nhiên tạo vật chỉ liên quan tới thuở ban
đầu của lịch sử thế giới và sự sống.
Trái lại, nó cố ý nói là Đấng Hóa Công đã đặt nền móng cho
những triển triển này và nâng đỡ chúng, liên lỉ củng cố chúng và
bảo trì chúng. Thánh Toma Aquina dạy rằng ý niệm về việc
tạo dựng cần phải vượt lên trên cái nguồn gốc theo chiều ngang
của việc thể hiện các biến cố tức là lịch sử, và bởi thế, vượt
lên trên tất cả những cách thức thuần tự nhiên của chúng ta khi
suy nghĩ và nói về vấn đề tiến hóa của thế giới này. Thánh Tôma
đã nhận định rằng thiên nhiên tạo vật không phải là một
biến chuyển và cũng chẳng phải là một đổi thay. Trái lại, nó là
mối liên hệ sâu xa và liên tục liên kết tạo vật với Tạo Hóa, vì
Ngài là căn nguyên của hết mọi hữu thể cũng như tất cả mọi biến
thể (xem Tổng Luận Thần Học tập I, vấn nạn 45, vấn đáp
3).
Động từ “tiến hóa” theo nghĩa đen là “mở ra một cuộn sách”, tức
là đọc sách.
Hình ảnh về thiên nhiên tạo vật như là một cuốn sách đã
được bắt nguồn từ Kitô giáo và đã được nhiều khoa học
gia thích thú chủ trương như vậy. Galileo đã thấy thiên
nhiên tạo vật như là một cuốn sách mà tác giả của nó là Thiên
Chúa cũng như Thánh Kinh có Ngài là tác giả vậy.
Nó là một cuốn sách mà việc tiến hóa của nó, “bản văn” và ý
nghĩa của nó, chúng ta “hiểu” theo những cách thức khác nhau của
các khoa học, trong khi đó lúc nào cũng bao hàm sự hiện diện
trọng yếu của vị tác giả muốn tỏ mình ra qua đó. Hình
ảnh này cũng giúp chúng ta hiểu rằng thế giới này giống
như là một cuốn sách được cấu trúc đàng hoàng, chứ không xuất
phát từ những gì là hỗn mang lộn xộn; nó là một hệ thống hài hòa.
Không kể những yếu tố vô tri, hỗn loạn và việc hủy hoại nơi
những tiến trình thay đổi lâu dài trong vũ trụ, thì chất thể như
thế là những gì “dễ hiểu”. Nó có sẵn một “môn toán học”.
Nhờ đó, trí khôn của con người có thể chẳng những biết được
những hiện tượng có thể đo lường nơi “vũ trụ thái” mà còn thấy
được cái lý lẽ nội tại hiện lộ của vũ trụ nơi “vũ trụ học” nữa.
Thoạt tiên chúng ta không thể thấy được cả mối hài hòa của tổng
thể lẫn mối hài hòa nơi những liên hệ của các phần riêng, hoặc
mối liên hệ của chúng với tổng thể. Tuy nhiên, bao giờ cũng có
một khoảng rộng lớn ở nơi các biến cố khả tri, và tiến trình này
là những gì hợp lý ở chỗ nó cho thấy một trật tự về những tương
ứng hiển nhiên cùng với những cứu cánh tính không thể phủ nhận:
nơi thế giới vô cấu thể, giữa tiểu cấu thể và đại cấu thể; nơi
thế giới cấu thể và thú vật, giữa cơ cấu và sinh hoạt; và nơi
thế giới linh thiêng, giữa kiến thức về chân lý và nỗi khát vọng
tự do. Việc tra cứu theo kinh nghiệm và triết lý dần dần
khám phá thấy những thứ tự lớp lang ấy; nó thấy chúng hoạt động
để tiếp tục hiện hữu, để bênh vực chúng cho khỏi bị mất quân
bình, và để thắng vượt những trở ngại. Nhờ các
khoa học tự nhiên, chúng ta đã gia tăng rất nhiều kiến thức của
chúng ta về tính cách đặc thù chuyên nhất về vị thế của nhân
loại nơi vũ trụ này.
Việc phân biệt giữa một hữu thể sống động đơn thuần và một hữu
thể linh thiêng là capax Dei cho thấy việc hiện hữu của hồn linh
của một chủ thể siêu việt tự do. Thế nên Huấn Quyền của Giáo Hội
đã liên lỉ khẳng định rằng “hết mọi hồn thiêng đều được
tạo dựng trực tiếp bởi Thiên Chúa – nó không phải là sản phẩm
của cha mẹ – và nó là những gì bất tử” (Giáo Lý Giáo Hội
Công Giáo, 366). Điều này cho thấy tính chất đặc chuyên của khoa
nhân loại học, và mời gọi khối óc tân thời hãy khảo sát nó.
Cùng quí tôn vị hàn lâm, tôi muốn kết thúc bằng việc nhắc lại
những lời được vị tiền nhiệm Gioan Phaolô II của tôi ngỏ cùng
quí vị vào tháng 11/2003: “sự thật về khoa học, một sự
thật tự nó tham dự vào Sự Thật thần linh, có thể giúp cho triết
học và thần học hiểu được trọn vẹn hơn nữa con người và Mạc Khải
của Thiên Chúa về con người, một Mạc Khải đã được hoàn thành và
trọn hảo nơi Chúa Giêsu Kitô. Cùng với toàn thể Giáo Hội, tôi
hết lòng tri ân về cái phong phú hỗ tương quan trọng này trong
việc tìm kiếm sự thật cùng với thiện ích của nhân loại”.
Tôi thân ái xin phúc lành khôn ngoan và an bình của Thiên Chúa
xuống trên quí vị và gia đình của quí vị, cũng như những ai có
liên quan tới hoạt động của Học Viện Giáo Hoàng Các Khoa Học.
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit
phổ biến ngày 26/10/2008
(những chỗ được in
đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những
điểm chính yếu quan trọng)
|