Với Các Vị Giám Mục

 

2003

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

ĐTC Gioan Phaolô II với Các Vị Giám Mục Pháp đợt 3 về việc canh tân đời sống tận hiến

Sáng Thứ Năm 18/12/2003, ĐTC đã tiếp các vị giám mục Pháp vào dịp các vị kết thúc cuộc viếng thăm Tòa Thánh ngũ niên của các vị, những vị thuộc giáo tỉnh Marseille.

Trước tiên, ĐTC đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của “đời sống tận hiến là tặng ân Thiên Chúa ban cho Giáo Hội nơi tất cả mọi hình thức của đời sống này, dù cũ hay mới… Thật vậy, một giáo phận không có những cộng đồng tận hiến ‘sẽ thiếu mất nhiều tặng ân thiêng liêng, thiếu những nơi giành riêng để tìm kiếm Thiên Chúa, thiếu những hoạt động tông đồ cũng như những phương pháp mục vụ đặc biệt’.

Căn cứ vào bản tường trình của các vị giám mục về tình trạng khủng hoảng liên quan đến các cộng đồng sống đời tận hiến, ĐTC nói rằng cuộc khủng hoảng này “được đánh dấu đáng kể nơi những hội dòng hoạt động tông đồ, ở chỗ giảm thiểu một cách liên tục và nhanh chóng con số các phần tử thuộc những viện tu khác nhau, … cũng như ở con số ít ỏi các ứng viên trở thành tập sinh… Các phần tử đang già đi, gây ra những hậu quả không thể nào tránh được nơi đời sống của các viện tu, nơi chứng từ của họ, nơi việc quản trị của họ, thậm chí nơi những quyết định liên quan đến sứ vụ của họ cũng như đến những nguồn lợi nhắm tới của họ… Các vị lãnh đạo những tu hội này cần phải chú trọng đến việc thường xuyên đào luyện phần tử của mình, nhất là về những lãnh vực thần học và tu đức”.

ĐTC cũng tỏ lời khen ngợi hoạt động của thành phần sống đời tận hiến “ở Pháp cũng như ở các xứ sở nghèo khổ nhất, đặc biệt là ở Phi Châu”. Ngài nhấn mạnh nhiều lần đến việc cần phải chú trọng đến giới trẻ, nhất là việc huấn luyện trong những năm đầu đời của họ, cách riêng thành phần đang tìm hiểu ơn gọi sống đời tận hiến. ĐTC cũng nêu lên vấn đề đối thoại tốt đẹp giữa các viện tu và hội dòng ở cả lãnh vực toàn quốc và giáo phận. ĐTC cũng đề cập đến tình trạng “trong giáo phận của quí huynh, đời sống tận hiến có nhiều bộ mặt, bằng việc chung sống bên nhau giữa các cộng đồng cũ mới….”. Ngài còn nhắc lại ý hướng của nhiều vị giám mục thấy rằng vai trò của các dòng tu chiêm niệm đóng một vai trò quan trọng trong giáo phận của các vị.

ĐTC GPII với các vị Giám Mục Sudan về Thái Độ của Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành

Ngày Thứ Hai 15/12/2003, ĐTC đã gặp các vị giám mục Sudan dịp các ngài viếng thăm Tòa Thánh ngũ niên. Sau đây là những ý tưởng tiêu biểu nổi bật trong bài huấn từ mục vụ của vị lãnh đạo hàng giáo phẩm Công Giáo toàn cầu:

1. … “Khi chúng ta cùng nhau suy nghĩ về sứ vụ chúng ta đã lãnh nhận từ Chúa cũng như về việc đặc biệt áp dụng sứ vụ này đối với quí huynh cùng cộng đồng của quí huynh, Tôi muốn nhắc đến hai hình ảnh của những vị chứng nhân can trường sống đức tin, hai con người thánh thiện sống cuộc đời có liên hệ mật thiết với đất nước của quí huynh, đó là Thánh Josephine Bakhita và Thánh Daniel Comboni. Tôi tin rằng mẫu gương của việc kiên trì dấn thân và của đức bác ái Kitô giáo nơi hai vị đầy tớ nhiệt tình này của Chúa có thể chiếu giãi nhiều ánh sáng vào những thực tại hiện nay gây khó dễ cho Giáo Hội nơi xứ sở của quí huynh.

2.     Từ những năm còn thơ bé, Thánh Josephine Bakhita đã biết đến cái dã man và tàn bạo loài người đối xử với anh em đồng loại của mình. Bị bắt cóc bán làm nô lệ như một đứa trẻ nhỏ, thánh nhân cũng hết sức quen thuộc với khổ đau và với việc trở thành nạn nhân hằng hành hạ vô số con người nam nữ ở quê hương mình cũng như ở khắp Phi Châu và trên thế giới. Đời sống của thánh nhân muốn dấn thân hoạt động một cách tốt đẹp trong việc giải phóng con người khỏi bị áp bức và bạo lực, bảo đảm là nhân phẩm của họ được tôn trọng ở chỗ họ hoàn toàn được hành sử các thứ quyền lợi của họ. Cũng cùng một quyết tâm này cần phải hướng dẫn Giáo Hội ở Sudan ngày nay, khi mà quốc gia này đang đi từ chỗ hận thù và xung khắc đến chỗ hòa bình và hòa hợp. Thánh Bakhita là một nhà tranh đấu sáng giá cho việc giải phóng chân thực. Đời sống của thánh nhân rõ ràng cho thấy là chủ nghĩa bộ lạc tộc cùng với những hình thức kỳ thị theo nguồn gốc chủng tộc, ngôn ngữ và văn hóa không thuộc về một thứ xã hội văn minh hóa và hoàn toàn không có chỗ đứng nơi cộng đồng tín hữu…

Theo chiều hướng ấy, quí huynh có nhiệm vụ phải nói lên những vấn đề quan trọng đụng chạm tới đời sống xã hội, kinh tế, chính trị và văn hóa nơi xứ sở của quí huynh (x “Giáo Hội t5ai Phi Châu, 110). Như quí huynh đã quá rõ, Giáo Hội cần phải lên tiếng một cách minh bạch nhân danh những ai không có tiếng nói, cũng như phải trở thành men hòa bình và tình đoàn kết, nhất là ở những nơi các thứ lý tưởng này có vẻ mong manh và bị de dọa. Là những vị Giám Mục, những lời nói và việc làm của quí huynh không bao giờ thể hiện những chiều hướng chính trị cá nhân nhưng bao giờ cũng phải phản ảnh thái độ của Chúa Kitô Mục Tử.

3.     Với hình ảnh của Vị Mục Tử Nhân Lành này, giờ đây Tôi hướng về hình ảnh của Thánh Daniel Comboni, vị là linh mục và là giám mục thừa sai, đã không ngừng hoạt động để làm cho Chúa Kitô được nhận biết và đón nhận nơi Trung Phi, bao gồm cả Sudan. Thánh Daniel đã hết sức lưu ý là những người Phi Châu phải đóng vai trò chủ yếu trong việc truyền bá phúc âm hóa châu lục này, và ngài đã hứng khởi phác thảo bản họa đồ truyền giáo cho miền này, một “dự án tái sinh Phi Châu”, một dự án bao gồm cả việc hỗ trợ của chính các dân tộc bản xứ. Trong thời gian hoạt động truyền giáo của mình, thánh nhân đã không để cho những đau khổ lớn lao cùng nhiều khốn khó ngài phải chịu, như thiếu thốn, kiệt sức, bệnh nạn, bị ngờ vực, chi phối công việc giảng dạy Tin Mừng của Chúa Kitô.

Đức Giám Mục Comboni đặc biệt là một nhà tranh đấu mãnh liệt cho việc hội nhập văn hóa đức tin. Ngài đã phải chịu đựng rất nhiều để làm quen với những thứ văn hóa và ngôn ngữ của các dân chúng địa phương ngài phục vụ. Nhờ đó ngài đã có thể trình bày Phúc Âm theo cách thức và hợp với các tục lệ làm người nghe dễ hiểu. Một cách hết sức thực tế, đời sống của ngài là một gương mẫu cho chúng ta hôm nay đây, rõ ràng cho thấy rằng “việc truyền bá phúc âm hóa văn hóa và việc hội nhập văn hóa của phúc âm là những gì thuộc về toàn cục diện của vấn đề tân truyền bá phúc âm hóa, do đó cũng thuộc về mối quan tâm đặc biệt của vai trò thuộc hàng giáo phẩm” ("Pastores Gregis," No. 30).

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tài liệu của Tòa Thánh do Zenit phổ biến ngày 15/12/2003

 

ĐTC Gioan Phaolô II với Các Vị Giám Mục Pháp đợt 2 về cuộc khủng hoảng ơn gọi linh mục

Trong cuộc gặp gỡ các vị giám mục Pháp đợt hai thuộc hai giáo tỉnh Rennes và Rouen sang thăm Tòa Thánh ngũ niên kết thúc hôm Thứ Sáu 5/12/2003, ĐTC đã nhấn mạnh đến tình trạng khủng hoảng ơn gọi linh mục ở bản quốc các vị, một cuộc khủng hoảng xẩy ra chung ở các nước Tây phương, như thường được thấy trong các bản tường trình của các vị.

Theo ĐTC thì cuộc khủng hoảng ơn gọi này là “một thứ băng qua sa mạc tạo nên một cuộc thử thách đức tin thực sự đối với cả các vị mục tử lẫn thành phần tín hữu”. Tuy nhiên, ĐTC phấn khích, thay vì cảm thấy “chán nản”, “hãy chấp nhận thách đố bằng một niềm hy vọng mạnh mẽ”, bằng cách chú trọng đặc biệt đến việc huấn luyện các vị linh mục tương lai trong chủng viện. Việc huấn luyện thành phần ứng sinh làm linh mục cần phải để ý tới 4 khía cạnh hỗ tương là “nhân bản, đạo đức, tri thức và mục vụ”. Nhận định là “môi trường xã hội, được đánh dấu bằng một thứ chủ nghĩa tương đối tổng quát về các gía trị được giới truyền thông phổ biến cũng như bằng việc đi đến chỗ coi thường vấn đề dục tính”, ĐTC khuyên các vị giám mục hãy chú trọng tới “việc huấn luyện về nhân bản, tình cảm và luân lý cho các ứng sinh”.

ĐTC nhấn mạnh đến cốt lõi “nơi vấn đề huấn luyện về nhân bản và tình cảm của các ứng sinh làm linh mục, cũng như nơi tất cả mọi khía cạnh khác của việc huấn luyện, đó là vấn đề tìm kiếm và chiêm ngưỡng Chúa Kitô, Lời Nhập Thể, và là một con người mới, một con người toàn hảo. Đó là vấn đề lấy Người làm mô phạm để noi gương bắt chước trong mọi sự, để trở thành một vị linh mục vì danh Người”.

Ba lý do khiến giới trẻ cảm thấy khó khăn nên sợ không dám dấn thân theo đuổi ơn gọi làm linh mục:

“Cái khó khăn thứ nhất đó là cảm giác lo sợ về việc dấn thân lâu dài, vì họ sợ chấp nhận những liều lĩnh trước một tương lai không nắm chắc trong tay, khi họ sống trong một thế giới thay đổi, với những thứ lợi lộc sôi nổi thoáng qua, liên quan chính yếu tới việc thỏa mãn cấp thời…”

Cái khó khăn thứ hai đối với thành phần giới trẻ gia nhập chủng viện đó là “chương trình của chính thừa tác vụ linh mục”. Theo ĐTC, “Đối với một số thế hệ thì thừa tác vụ của các vị linh mục đã được thay đổi nhiều về hình thức của nó; có những lúc chính những thâm tín của nhiều vị linh mục về căn tính riêng của mình đã bị rung chuyển một cách mãnh liệt”. Thật vậy, ĐTC nhận định: “trước con mắt quần chúng thì thừa tác vụ linh mục thường bị hạ giá. Ngày nay, hình thức của việc mục vụ này vẫn còn thiếu sáng tỏ, khiến cho giới trẻ khó lòng nhận thấy được nó… Bởi thế, cần phải nâng đỡ thừa tác vụ thánh chức, giành cho nó một chỗ nguyên vẹn trong lòng Giáo Hội, bằng một tinh thần của mối hiệp thông biết tôn trọng những khác biệt cũng như những bổ khuyết đích thực của những khác biệt này” với thành phần giáo dân.

Cái khó khăn thứ ba và là “cái nồng cốt nhất” chi phối mối liên hệ của giới trẻ với Chúa. Ở chỗ, như ĐTC nhận định, “kiến thức của họ về Chúa Kitô thường nông cạn và tương đối, pha trộn đầy những dự tưởng về tôn giáo, trong khi đó lòng mong muốn trở thành một vị linh mục được nuôi dưỡng chính yếu bởi mối thân tình với Chúa, bằng một cuộc trao đổi hoàn toàn riêng tư được bộc lộ trước hết nơi ước muốn được ở với Người. Dĩ nhiên mọi sự đều có thể giúp vào việc nuôi dưỡng nơi trẻ em cũng như nơi giới trẻ việc thực sự khám phá ra con người của Chúa Giêsu cũng như mối liên hệ quan trọng với Người, một mối liên hệ được thể hiện nơi đời sống bí tích, nơi việc cầu nguyện, và nơi việc phục vụ anh em của mình, một mối liên hệ sẽ có ích lợi cho việc làm bừng dậy những ơn kêu gọi”.

ĐTC tiếp các Giám Mục Bỉ về tình trạng sống đạo ở quốc gia này

Thứ Bảy 22/11/2003, ĐTC Gioan Phaolô II đã tiếp các ĐGM Bỉ và chia sẻ mục vụ với các vị như sau: “Tín liệu Tôi nhận được về tình hình của Giáo Hội ở xứ sở của quí huynh đặc biệt làm tôi lo lắng. Không thể che đậy mối quan tâm thực sự và nghiêm trọng về tình trạng thường xuyên khan hiếm và tầm quan trọng của việc sống đạo nơi xứ sở của quí huynh làm ảnh hưởng đến Lễ Chúa Nhật cũng như đến các phép bí tích, nhất là phép rửa, giải tội và hôn phối. Chưa hết, tình trạng cứ giảm sút con số linh mục và cuộc khủng hoảng liên lỉ về ơn gọi là một quan tâm lớn đối với quí huynh.

“Những biến chuyển nhanh chóng quí huynh nhận thấy chắc chắn là vấn đề hợp với cuộc tiến hóa theo cảm quan của xã hội mang đặc tính tục hóa khiến người ta nghĩ rằng xã hội Bỉ đã trở lưng lại với những căn tính của mình. Ngoài ra, xứ sở của quí huynh gần đây mới chấp thuận đạo luật mới mẻ và đang quan ngại liên quan tới những chiều kích sâu xa của đời sống con người và xã hội, như việc sinh sản, hôn nhân va ụ gia đình, bệnh nạn và chết chóc. Qúi huynh đã không ngừng nêu lên những vấn đề này… những vấn đề ảnh hưởng sâu xa đến chiều kích đạo lý của đời sống con người. …

“Trong một xã hội lạc mất những điểm qui chiếu truyền thống và phát động chiêu hướng tương đối tổng quát nhân danh đa số, thì nhiệm vụ đầu tiên của chúng ta đó là mang Chúa Kitô tới, mang Phúc Âm hòa bình của Ngài tới để chiếu tỏa một tia sáng mới trên định mệnh của con người… Bởi thế Tôi mời gọi quí huynh hãy chủ động tiếp tục đối thoại với xã hội dân sự và nhân dân Bỉ quốc… và hãy minh nhiên nêu lên những giá trị của đức tin Kitô giáo cùng với kinh nghiệm phong phú của nhân loại qua giòng lịch sử và các thứ văn hóa, không phải để áp đặt mô phạm riêng của quí huynh mà là vì tôn trọng sự thật mà quí huynh là thừa tác viên nhân danh Chúa Kitô cũng như vì tôn trọng chính việc đối thoại đòi phải chú trọng tới căn tính hợp pháp và riêng tư của mỗi một con người…

“Ngoài những khó khăn… quí huynh còn nhấn mạnh đến những dấu hiệu của một cơ hội canh tân, đó là sự sốt sắng đi hành hương, cái hấp dẫn của sự thinh lặng nơi các đan viện, việc tăng thêm con số giáo lý viên người lớn, …. Lòng ước muốn sống một đời sống thiêng liêng chân thực hơn…”.

ĐTC Gioan Phaolô II với các vị giám mục Ấn Độ về tinh thần đoàn kết

ĐTC đã gặp các vị giám mục Ấn Độ ở các giáo tỉnh Madras-Mylapore, Madurai và Pondicherry-Cuddalore vào ngày 17/11/2003.

Quí Huynh Giám Mục thân mến,

1. ……..
Những bài nói trước đây của Tôi chia sẻ với các vị Giám Mục anh em của quí huynh thường đề cập đến tầm quan trọng của việc cổ võ một thứ tinh thần liên kết chân thực trong Giáo Hội cũng như nơi xã hội. Cộng đồng Kitô hữu không chỉ nắm giữ nguyên tắc đoàn kết như là một lý tưởng cao quí; trái lại, nó phải được coi như là qui chuẩn giao tiếp của nhân loại, một thứ đoàn kết, theo ngôn từ vị tiền nhiệm Piô XII của Tôi đã nói, “được niêm ấn bằng hy tế cứu chuộc được Chúa Giêsu Kitô hiến dâng trên bàn thờ thập giá cho Cha Trên Trời của Người thay cho nhân loại tội lỗi” ("Summi Pontificatus"). Tôi chia sẻ với quí huynh những tư tưởng này hôm nay khi đặt những suy tư này của Tôi theo chiều hướng của nguyên tắc căn bản về các mối liên hệ nhân bản và Kitô giáo.

2.     Chúng ta không thể hy vọng truyền bá tinh thần hiệp nhất này giữa anh chị em của mình mà lại thiếu tình đoàn kết thực sự nơi các dân tộc. Như rất nhiều nơi trên thế giới, Ấn Độ bị bủa vây bởi nhiều vấn đề xã hội. Một cách nào đó, những thách đố này gia tăng vì hệ thống bất công phân chia giai cấp chối bỏ phẩm giá làm người của cả những nhóm người. Về khía cạnh này Tôi xin lập lại những gì Tôi đã nói trong chuyến tông du đầu tiên tới xứ sở của quí huynh: “Tình trạng thiếu hiểu biết và thành kiến cần phải được thay thế bằng khoan dung và thông cảm. Tình trạng dửng dưng và tranh đấu giai cấp cần phải được biến thành tình huynh đệ và dấn thân phục vụ. Tình trạng kỳ thị theo chủng tộc, mầu da, tín ngưỡng, phái tính và nguồn gốc sắc dân cần phải được loại trừ như những gì hoàn toàn coi thường phẩm giá con người” (Bài Giảng trong Thánh Lễ ở Indira Gandhi Stadium, New Delhi ngày 2/2/1986).

Tôi có lời khen nhiều sáng kiến đã được Hội Đồng Giám Mục và các Giáo Hội riêng thực hiện để chiến đấu với tình trạng bất công này. Những hành động anh hùng quí huynh đã tỏ ra để chữa trị vấn đề này, chẳng hạn những những hành động của Hội Đồng Giám Mục Tamil Nadu năm 1992, đáng làm gương sáng cho những nơi khác noi theo. Lúc nào quí huynh cũng phải tiếp tục thực sự chú trọng đặc biệt đến những ai thuộc về giai cấp thấp nhất, nhất là giai cấp cùng đinh Dalits. Không bao giờ được phân cách họ khỏi các phần tử khác trong xã hội. Bất cứ thành kiến về giai cấp nào nơi những mối liên hệ Kitô hữu đều là một phản chứng cho tình đoàn kết nhân loại chân thực, đều là mối đe dọa cho việc sống đạo chuyên chính và là một thứ cản trở trầm trọng cho sứ vụ truyền bá phúc âm hóa của Giáo Hội. Bởi thế, những thứ tục lệ hay truyền thống kéo dài hay củng cố việc phân chia giai cấp cần phải được khôn khéo cải cách để chúng trở thành một diễn đạt tình đoàn kết của toàn thể cộng đồng Kitô hữu. Thánh Tông Đồ đã dạy chúng ta là “nếu một phần tử đau khổ thì tất cả mọi phần thể đều khổ chung” (1Cor 12:26). Giáo Hội có trách nhiệm phải không ngừng hoạt động để thay đổi các tâm hồn, giúp cho tất cả mọi người thấy được mọi người đều là con cái Thiên Chúa, là anh chị em của Chúa Kitô, và vì thế là một phần tử của gia đình nhân loại chúng ta.

3.     Việc hiệp thông thực sự với Thiên Chúa và với nhau phải khiến cho tất cả mọi Kitô hữu loan báo Tin Mừng cho những ai chưa xem thấy hay nghe thấy (x Jn 1:1). Giáo Hội đã được trao phó cho một sứ vụ chuyên nhất trong việc phục vụ “Nước Trời bằng việc phổ biến khắp thế giới ‘những giá trị Phúc Âm’ cho thấy Nước Trời và giúp cho con người chấp nhận dự án của Thiên Chúa” (Thông Điệp Redemptoris Missio, 20). Thật vậy, chính tinh thần phúc âm này đã phấn khích ngay cả những ai theo những truyền thống khác nhau cùng nhau hoạt động hướng về mục đích chung trong việc loan báo Phúc Âm (cf. Huấn Dụ ngỏ cùng các vị giám mục Ấn Độ thuộc vùng Syro-Malabar, ngày 13 May 2003).

Nhiều người trong quí huynh đã bày tỏ niềm hy vọng là Giáo Hội ở Ấn Độ sẽ tiếp tục nỗ lực của mình trong việc chủ động dấn thân cho “việc tân truyền bá phúc âm hóa”. Đây là một vấn đề đặc biệt quan trọng trong các xã hội tân tiến, những xã hội phần lớn dân chúng trải qua những hoàn cảnh thất vọng thường dẫn họ tới chỗ tìm kiếm những giải pháp mau chóng và dễ dàng cho các thứ vấn đề phức tạp của họ. Cái cảm thức vô vọng này một phần có thể cho thấy tại sao rất nhiều người, trẻ cũng như già, đều bị lôi cuốn vào các giáo phái cực đoan mang lại cho họ sự sống sắng về cảm xúc chóng qua cùng với những bảo đảm về giầu có và những thành đạt về thế tục. Việc chúng ta đáp ứng với tình trạng này phải là việc “tái truyền bá phúc âm hóa”, và việc thành công trong vấn đề này lệ thuộc vào khả năng của chúng ta chẳng những có thể tỏ cho con người thấy được cái rỗng trống của những thứ hứa hẹn như thế, mà còn cho họ thấy rằng Chúa Kitô và Thân Thể của Người chia sẻ những đau thương của họ, và nhắc nhở họ hãy “tìm kiếm vương quốc của Ngài và sự công chính của Ngài trước” (Mt 6:33).

4.     Trong Tông Huấn mới đây của Tôi, “Pastores Gregis”, Tôi đã ghi nhận là Giám Mục là “thừa tác viên ân sủng của thiên chức linh mục cao cả”, khi thi hành vai trò của mình bằng việc rao giảng, hướng dẫn thiêng liêng và cử hành các phép bí tích (x số 32). Là Các Vị Mục Tử của đàn chiên Chúa, quí huynh thấy rõ là quí huynh không thể thi hành các nhiệm vụ của mình một cách hiệu nghiệm được nếu không có những người cộng tác tận tâm để hỗ trợ quí huynh trong vai trò của quí huynh. Vì lý do này quí huynh cần phải tiếp tục cổ võ tình đoàn kết nơi hành giáo sĩ và mối hiệp nhất hơn nữa giữa giám mục và giáo sĩ của mình. Tôi tin tưởng rằng các vị linh mục ở xứ sở của quí huynh “sẽ sống và làm việc trong tinh thần hiệp thông và cộng tác với các Vị Giám Mục cũng như với tất cả mọi tín hữu, làm chứng cho tình yêu của Chúa Giêsu là tình yêu được Người tuyên bố là dấu chứng đích thực của thành phần môn đệ Người” ("Ecclesia in Asia," 43).

Tiếc thay, ngay cả những người đã được thụ phong để phục vụ có những lúc đã trở thành nạn nhân của những chiều hướng văn hóa và xã hội thiếu lành mạnh làm suy yếu uy tín của họ và gây trở ngại trầm trọng cho sứ vụ của họ. Là những con người của đức tin, cácd vị linh mục không được chạy theo xu hướng quyền lực, hay việc chiếm hữu vật chất chi phối ơn gọi của họ, hay để cho sự khác biệt về sắc tộc hay giai cấp làm cho họ lệch lạc trách nhiệm chính yếu của họ trong việc truyền bá phúc âm. Là những người cha anh, các vị Giám Mục phải yêu thương và tôn trọng linh mục của mình. Cũng thế, các vị linh mục phải yêu mến và tôn kính các vị Giám Mục của mình. Quí huynh và các vị linh mục của quí huynh là những người rao giảng Phúc Âm và là những tay xây dựng hiệp nhất ở Ấn Độ. Những cái khác nhau về cá nhân hay những cái xẩy ra bẩm sinh ngoài ý muốn không bao giờ được làm suy yếu đi vai trò thiết yếu này (cf. Huấn từ cho các linh mục Ấn Độ ở Goa ngày 7/2/986).

5.     Việc dấn thân bền vững trong việc hỗ trợ nhau là những gì bảo đảm cho mối hiệp nhất của chúng ta trong sứ vụ truyền giáo, một sứ vụ được căn cứ vào chính Chúa Kitô và “cho phép chúng ta tiến đến với tất cả mọi nền văn hóa, với tất cả mọi quan niệm về ý hệ, với tất cả mọi thành phần thiện chí” ("Redemptor Hominis," 12). Chúng ta bao giờ cũng phải nhớ những lời của Thánh Phaolô vị ngài dạy rằng “không ai trong chúng ta được sống cho chính mình, và không ai được chết cho chính mình” (Rm 14:7). Giáo Hội cũng thúc giục tín hữu hãy khôn ngoan và bác ái tham dự vào cuộc trao đổi và hợp tác với các phần tử thuộc các tôn giáo khác. Một khi chúng ta tham gia với anh chị em của mình, chúng ta mới có thể hướng các nỗ lực của chúng ta về tình đoàn kết bền bỉ giữa các tôn giáo. Cùng nhau chúng ta sẽ cố gằng để nhận thấy nhiệm vụ của chúng ta trong việc xây dựng hiệp nhất và bác ái giữa con người với nhau, bằng việc phản ảnh những gì chúng ta chia sẻ chung cùng với những gì có thể phát triển hơn nữa mối giao hữu nơi chúng ta (cf. "Nostra Aetate," 1, 2).

Việc phấn khích tìm kiếm sự thật đòi phải có một tấm lòng tôn trọng sâu xa hết mọi sự phát xuất nơi con người bởi Thần Linh “muốn thổi đâu thì thổi” (Jn 3:8). Sự thật được mạc khải cho chúng ta bắt chúng ta phải là bảo quản viên của sự thật và là thày dạy sự thật. Trong việc truyền đạt sự thật của Thiên Chúa, chúng ta phải luôn luôn tỏ ra “sâu xa tôn trọng con người, tôn trọng lý trí của họ, ý muốn của họ, lương tâm của họ và tự do của họ. Như thế, chính phẩm vị của con người làm nên thành phần thuộc nội dung cho việc loan truyền sự thật, chẳng những được gói ghém nơi ngôn từ mà còn bằng thái độ đối với sự thật nữa” (x Thông Điệp Redemptor Hominis, 12). Giáo Hội Công Giáo ở Ấn Độ đã liên lỉ cổ võ phẩm giá của hết mọi người và duy trì quyền lợi tương hợp của tất cả mọi dân nước đối với vấn đề tự do tôn giáo. Việc Giáo Hội khuyến khích khoan nhượng và tôn trọng các tôn giáo khác được bày tỏ nơi nhiều chương trình trao đổi liên tôn được quí huynh phát triển ở cả lãnh vực toàn quốc cũng như địa phương. Tôi xin quí huynh hãy tiếp tục những việc bàn thảo thẳng thắn và hữu ích này với những người thuộc tôn giáo khác. Những cuộc bàn thảo như vậy sẽ giúp cho chúng ta vun trồng việc cùng nhau tìm kiếm sự thật, hòa hợp và bình an.

6.     Quí Huynh thân mến, Những Vị Chủ Chăn của Dân Chúa, vào đầu đệ tam thiên kỷ này, chúng ta hãy tái dấn thân cho việc mang con người nam nữ cùng nhau tiến vào mối hiệp nhất của mục đích và hiểu biết…..


(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, tài liệu từ Vatican Press Office được Zenit phổ biến ngày 17/11/2003)

 

ĐTC Gioan Phaolô II với các vị Giám Mục Phi Luật Tân đợt 3 về vấn đề dấn thân tham gia vào “việc tân truyền bá phúc âm hóa toàn vẹn”.

ĐTC hộm nay 30/10/2003 đã tiếp phái đoàn Giám Mục Phi Luật Tân đợt ba sang thăm tòa thánh ngũ niên, những vị thuộc các giáo tỉnh Manila, Lingayen-Dagupan, Nueva Segovia, San Fernando, Tuguegarao và the military ordinariate

Quí Huynh thân mến trong Hàng Giáo Phẩm,

1.-     Tôi rất vui mừng được đón tiếp quí huynh là nhóm Giám Mục Phi Luật Tân đợt ba vào lúc chúng ta kết thúc một loạt viếng thăm Tòa Thánh ngũ niên này…. Tôi tạ ơn Chúa Toàn Năng vì trong mấy tháng vừa qua đã cho Tôi được hân hạnh gặp gỡ hầu hết mọi vị giám mục thuộc xứ sở của quí huynh, nơi có nhiều người Công giáo nhất ở Á Châu và là nơi có những cộng đồng Công giáo sinh động nhất trên thế giới. Những cuộc viếng thăm này chẳng những củng cố mối liên kết giữa chúng ta, mà còn cống hiến cho chúng ta một cơ hội đặc biệt để nhìn kỹ hơn vào những thành đạt chiếm được cũng như những thách đố vẫn đang gây khó khăn cho Giáo Hội tại Phi Luật Tân. Về khía cạnh này, Tôi muốn trao phó cho tất cả quí huynh về hoạt động thành công của quí huynh ở Cuộc Tham Vấn Mục Vụ Toàn Quốc. Quí huynh quá rõ là việc áp dụng một dự án có tầm vóc rộng lớn như thế không phải là một việc dễ làm, song quí huynh cũng nên ý thức rằng quí huynh không đảm trách việc này một mình đâu. Thật vậy, như “những vị Mục Tử coi sóc đàn chiên Chúa”, quí huynh biết rằng quí huynh có thể cậy dựa vào ân sủng thần linh khi quí huynh thi hành thừa tác vụ làm giám mục của mình (cf. "Pastores Gregis," 1).

Vì đã bàn đến những đề tài liên quan đến vấn đề Giáo Hội của người nghèo cũng như vấn đề cộng đồng môn đệ Chúa Kitô, Tôi muốn suy tư về vấn đề dấn thấn tham gia vào “việc tân truyền bá phúc âm hóa toàn vẹn”.

2.     Chúa Kitô đã để lại cho những ai Người yêu lệnh truyền phổ biến Phúc Âm cho tất cả mọi dân nước khắp mọi nơi (x Mk 16:15). Lời đoàn nguyền của Giáo Hội tại Phi Luật Tân dấn thân vào việc tân truyền bá phúc âm hóa toàn vẹn cho thấy Giáo Hội muốn bảo đảm là đức tin cùng với các giá trị Kitô giáo phải được thấm nhiễm vào hết mọi khía cạnh của xã hội. Bản Văn Viễn Ảnh Sứ Vụ diễn tả việc truyền bá phúc âm hóa như thế này: “Chúng ta sẽ phải bắt đầu việc tân truyền bá phúc âm hóa toàn vẹn và việc làm chứng cho Phúc Âm cứu độ và giải phóng của Chúa Giêsu Kitô bằng lời nói, việc làm và đời sống của chúng ta”. Lời diễn tả về “việc tân truyền bá phúc âm hóa” này nhìn nhận một cách rõ ràng là yếu tố thiết yếu của tiến trình ấy là việc làm chứng. Thế giới ngày nay là một thế giới lúc nào cũng đầy ắp những ngôn từ và tín liệu. Vì lý do ấy và có lẽ hơn lúc nào hết trong giòng lịch sử gần đây, những điều Kitô hữu cần phải nói thì vang to hơn những điều họ nói. Có lẽ đó là lý do tại sao đời sống của Mẹ Têrêsa Calcutta nói với rất nhiều tâm hồn. Mẹ đã mang những gì đã nghe ra hoạt động, loan truyền tình yêu của Chúa Kitô cho tất cả mọi người Mẹ gặp, lúc nào Mẹ cũng nhìn nhận rằng “vấn đề không phải là chúng ta đã làm bao nhiêu, mà là chúng ta đã yêu thương bao nhiêu nơi những gì chúng ta làm” mới là điều đáng kể. Thật vậy, “dân chúng ngày nay đặt tin tưởng vào các chứng nhân hơn vào các bậc thày, vào cảm nghiệm hơn vào giảng dạy, và vào đời sống và hoạt động hơn vào lý thuyết”. Bởi thế, chứng từ yêu thương của đời sống Kitô hữu bao giờ cũng là “hình thức trên hết và bất khả thay thế của việc truyền giáo” ("Redemptoris Missio," 42).

3.     Những con người nam nữ ngày nay mong muốn có những mẫu sống của thành phần chứng nhân đích thực cho Phúc Âm. Họ mong mỏi được nên giống Chúa Kitô hơn, và điều này hiển nhiên nơi nhiều cách thức được người Công giáo Phi Luật Tân dùng để bày tỏ đức tin của họ. Một thí dụ về nỗ lực mang Chúa Kitô cho người khác được thấy nơi việc Giáo Hội phát triển những chương trình an sinh xã hội giành cho người nghèo và người bị ruồng bỏ, cả ở cấp độ quốc gia lẫn địa phương. Việc dấn thân truyền bá Tin Mừng này cũng hiển nhiên tỏ hiện nơi việc sử dụng một cách hiệu nghiệm các phương tiện truyền thông đại chúng để nhấn mạnh đến tính chất tinh tế về luân lý cũng như để phấn khích mối quan tâm về các vấn đề xã hội. Ngoài những thánh đạt đáng kể ấy vẫn còn có những chướng ngại vật khác nhau, như sự kiện có một số người Công giáo gia nhập các giáo phái chỉ biết mê tín dị đoan; tình trạng không quen thuộc với các giáo huấn của Giáo Hội; sự kiện chấp nhận của một số thái độ phản sự sống đã tỏ ra chủ động cổ võ vấn đề ngừa thai, phá thai và tử án; và, như Tôi đã đề cập đến ở bài chia sẻ vừa rồi với các vị giám mục Phi Luật Tân, tình trạng phân rẽ kéo dài giữa đức tin và đời sống (cf. Proceedings and Addresses of the NPCCR, January 2001, p. 146).

Đường lối vững chắc để nói lên những mối quan tâm này được tìm thấy nơi việc quí huynh dấn thân để làm sinh động và phát triển sứ vụ truyền giáo “cho muôn dân”. Chúa Giêsu, “nhà truyền bá phúc âm hóa chính”, đã chỉ định các vị tông đồ hãy theo bước chân của Người bằng việc trở nên những “đặc phái viên” riêng của Người. Là những người thừa kế của các vị, nhiệm vụ linh thánh của quí huynh là bảo đảm rằng những ai phụ giúp quí huynh trong việc mục vụ thừa tác đều phải sẵn sàng mang sứ điệp của Chúa Kitô đến cho thế giới (cf. Catechism of the Catholic Church, 858-859). Quí huynh có thể bảo đảm được việc sẵn sàng như thế nếu quí huynh bảo đảm là những người Phi Luật Tân có được những cơ hội thuận tiện để nghe lời Chúa, để cầu nguyện và chiêm niệm, để cử hành mầu nhiệm của Chúa Giêsu trong các bí tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể, cũng như để nhìn thấy các gương mẫu của “mối hiệp thông thực sự của sự sống và tính cách nguyên vẹn của yêu thương” (Giáo Hội tại Á Châu, 23). Một lần nữa, Tôi khẳng định là “Cộng đoàn Kitô hữu càng được bắt nguồn từ cảm nghiệm về Thiên Chúa, một cảm nghiệm phát xuất từ một đức tin sống động, cộng đoàn này càng có uy tín để loan báo cho kẻ khác biết hoàn tất của vương quốc Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô” (ibid)

4.     Những biến cố xẩy ra trong những năm gần đây ở Phi Luật Tân cho thấy rõ ràng nhu cầu khẩn trương cho việc truyền bá phúc âm hóa toàn vẹn tất cả mọi lãnh vực xã hội, nhất là nơi những gì liên quan đến chính quyền và chính sách chung. Là những Kitô hữu và công dân thế giới quan tâm, chúng ta không bao giờ được coi thường “sự dữ bại hoại đang làm suy yếu việc phát triển về xã hội và chính trị của rất nhiều dân tộc” (Message for the 1998 World Day of Peace, 5). Về khía cạnh này, cần phải làm sáng tỏ vấn đề là không một vai trò phục vụ công chúng nào có thể được coi như là sản vật tư riêng hay như là một đặc quyền riêng tư. Coi vai trò phục vụ công chúng như là một thứ lợi nhuận chắc chắn sẽ đi đến chỗ thiên vị là những gì dẫn tới việc lạm dụng hay sử dụng sai trái công quĩ, hối lộ, nịnh hót, xui xiểm, và băng hoại (cf. Proceedings and Addresses of the NPCCR, January 2001, p. 120).

Dân chúng Phi Luật Tân biết rằng để công khai cáo giác tình trạng băng hoại đòi phải có một lòng can đảm mạnh mẽ. Để loại trừ tình trạng băng hoại cần phải được tất cả mọi người công dân dấn thân hỗ trợ, phải được các vị có thẩm quyền dứt khoát giải quyết và phải có một lương tâm vững chắc về luân lý. Ở chỗ này, Giáo Hội giữ một vai trò trọng yếu vì Giáo Hội là tác nhân chính trong việc hình thành lương tâm của con người một cách thích đáng. Trách vụ của Giáo Hội, theo nguyên tắc, không phải là trách vụ trực tiếp can thiệp vào những vấn đề hoàn toàn chính trị, mà là trách vụ hoán cải con người cũng như truyền bá phúc âm hóa văn hóa, để nhờ đó tự xã hội có thể tiếp tục công cuộc cổ võ việc biến đổi xã hội và phát triển một cảm quan sắc bén về tính cách trong sáng nơi chính quyền và về tính cách ghê tởm của sự băng hoại (cf. "Apostolicam Actuositatem," 7, and the Message for the 1998 World Day of Peace, 5).

5.     Cách duy nhất có thể bảo đảm xã hội chủ động và trung thành tham dự vào cuộc truyền bá phúc âm hóa đó là thực hiện việc huấn luyện xứng hợp cho giới trẻ một cách sớm sủa trong cuộc hành trình đức tin và đời sống của họ. Việc Tôi đến với Ngày Giới Trẻ ở Manila năm 1995 đã cho Tôi lần đầu tiên thấy được nhiệt tình giới trẻ tỏ ra đối với Chúa Kitô cũng như đối với Giáo Hội của Người. Lòng nhiệt thành muốn biết hơn nữa về đức tin của họ đã được chứng tỏ cho thấy nơi nhiều giới trẻ tham gia vào sinh hoạt giáo xứ. Tôi có lời khen ngợi Giáo Hội tại Phi Luật Tân về tất cả những gì Giáo Hội ở đây đã làm để cung cấp việc chăm sóc mục vụ thích hợp cho giới trẻ. Nhiều giáo phận của quí huynh đã thực hiện những cuộc cấm trại mùa hè, những cuộc tĩnh tâm, những Thánh Lễ giới trẻ thường xuyên và những văn phòng huấn luyện giới trẻ. Điều đáng chú ý nhất là cách thức các cộng đồng địa phương của quí huynh tỏ ra lắng nghe những quan tâm và đề nghị của giới trẻ, khiến họ có tiếng nói chủ động trong Giáo Hội (cf. "Ecclesia in Asia," 47).

Việc truyền bá phúc âm hóa nơi giới trẻ đồng thời cũng vẫn có những chướng ngại vật. Nơi một số gia đình cha mẹ không khuyến khích con cái tham gia vào các sinh hoạt được Giáo Hội bảo trợ. Khả năng của giới trẻ bị đe dọa bởi nạn mù chữ, bởi lòng ham muốn các thứ của cải vật chất, bởi thái độ xu thời đối với vấn đề dục tính cũng như đối với chước cám dỗ nghiện hút và say men. Quí huynh đã đề cập đến việc quí huynh cảm thấy buồn nản về nhiều giới trẻ đã bỏ Giáo Hội Công Giáo theo các giáo phái cực đoan, trong đó có nhiều giáo phái chú trọng tới vấn đề giầu sang vật chất hơn là vấn đề phong phú thiêng liêng. Để đáp ứng cho những mối quan tâm này, Tôi cầu xin để quí huynh tiếp tục gắn bó với giới trẻ, nhất là thành phần đang gặp nguy hiểm, bằng cách cung cấp cho họ phương tiện để được hưởng một nền giáo dục Công giáo khả thủ cùng với những sinh hoạt được Giáo Hội hỗ trợ, cũng như bằng cách giúp cho họ hiểu biết hơn nữa là chỉ có một mình Chúa Kitô mới có những lời ban sự sống đời đời mà thôi” (x Jn 6:63).

6.     Sau hết, quí huynh thân mến, Tôi xin quí huynh hãy tiếp tục khích lệ hàng giáo sĩ và tu sĩ là thành phần đang bỏ rất nhiều thời gian và nghị lực của mình để cố gắng khai triển những đường lối mới mẻ và hiệu nghiệm để truyền bá sứ điệp cứu độ của Chúa Kitô. Hãy bảo đảm với họ rằng vai trò chuyên nhất của họ là những người truyền bá Phúc Âm là những gì thiết yếu cho việc thành công của vấn đề truyền bá phúc âm hóa toàn vẹn. Về vấn đề này, Tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn của Tôi với cả những vị thừa sai và tu sĩ trong quá khứ đã mang Chúa Giêsu đến cho nhân dân Phi Luật Tân, lẫn những ai tiếp tục làm cho Người hiện diện hôm nay đây. Chúng ta tạ ơn Thiến Chúa vì, như Công Đồng Chung Vaticanô II đã nói: “Chúa luôn luôn kêu gọi từ số những môn đệ của Người những ai Người muốn… đ63 Người sai họ đi rao giảng cho các dân nước” ("Ad Gentes," 23). Tôi hy vọng rằng tất cả mọi tín hữu của Giáo Hội sẽ tiếp tục phấn khích những con người nam nữ trẻ trung đáp ứng tiếng kêu mời sống “ơn gọi đặc biệt” được mô phỏng theo ơn gọi của các vị tông đồ này (cf. "Redemptoris Missio," 65).

7.     Quí Huynh Giám Mục thân mến, vào lúc quí huynh lên đường trở về với các Giáo Hội địa phương của mình, Tôi xin Chúa kiên cường quí huynh trong việc quí huynh dấn thân thực hiện việc tân truyền bá phúc âm hóa toàn vẹn, trong những nỗ lực của quí huynh để “trình bày cho thấy Đấng khai mở một kỷ nguyên mới lịch sử và là Đấng loan báo cho thế giới tin mừng của một ơn cứu độ trọn vẹn và đại đồng chất chứa niềm hứa hẹn về một thế giới mới sẽ không còn đau thương và bất chính mà là vui mừng và mỹ lệ” ("Pastores Gregis," 65). Ký thác quí huynh, hàng giáo sĩ, tu sĩ và tín hữu giáo dân Phi Luật Tân cho Mẹ Maria Mẹ Giáo Hội phù hộ, Tôi thân ái ban phép lành tòa thánh của Tôi.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến ngày 30/10/2003


 

ĐTC GPII với các vị Giám Mục Anh Quốc và Wales ngày 23/10/2003 về Tình Trạng Vấn Đề Tục Hóa và việc Truyền Ba Phúc Âm Hóa Văn Hóa

1. …. Việc qúi huynh viếng thăm Tòa Thánh ngũ niên lần đầu tiên cho thiên kỷ mới này là cơ hội để quí huynh xác nhận việc quí huynh dấn thân trong việc làm cho dung nhan của Chúa Kitô càng ngày càng hiện tỏ hơn trong Giáo Hội cũng như xã hội, bằng việc nhất trí làm chứng cho Phúc Âm là chính Chúa Giêsu (x Tông Huấn Giáo Hội tại Âu Châu”, đoạn 6).

2.     Anh Quốc và Wales, mặc dù có một nguồn gốc phong phú gia sản Kitô giáo, ngày nay cũng phải đối diện với tình trạng tăng phát khắp nơi trào lưu tục hóa. Cốt lõi của tình trạng này là nỗ lực phát động một nhãn quan về con người lìa xa Thiên Chúa và tách khỏi Chúa Kitô. Nó là một thứ tâm thức làm tăng bội khuynh hướng cá nhân chủ nghĩa, làm phân nứt mối liên kết thiết yếu giữa tự do và sự thật, và bởi đó làm hủy hoại đi mối ràng buộc hỗ tương làm nên sinh hoạt xã hội. Cái mất mát cảm quan về Thiên Chúa này thường được cảm nghiệm như “tình trạng rơi rụng của con người” (ibid., 9). Việc phân hóa xã hội, những cái đe dọa cho đời sống gia đình, cũng như những ám ảnh ghê rợn sợ hãi của thái độ bất khoan nhượng về chủng tộc và chiến tranh, đã làm cho nhiều con người nam nữ, nhất là giới trẻ, cảm thấy phiêu lưu và thậm chí nhiều khi cảm thấy vô vọng. Như thế, không phải chỉ có Giáo Hội mới đụng đầu với những tác dụng rắc rối do trào lưu tục hóa gây ra mà cả đời sống dân sự cũng bị nữa.

Chúa Giêsu Kitô đang sống động trong Giáo Hội của Người mới là Đấng giúp chúng ta thắng vượt được tình trạng hỗn loạn của thời đại chúng ta. Là những vị Giám Mục, chúng ta được kêu gọi để linh hoạt thi hành nhiệm vụ của mình trong việc loan báo bằng một niềm xác tín rõ ràng và hào hùng là Chúa Giêsu Kitô là nguồn mạch hy vọng; một hy vọng không làm thất vọng (x Rm 5:5). Tín hữu Anh quốc và Wales hết lòng mong đợi quí huynh giảng dạy một Phúc Âm đánh tan bóng tối và chiếu soi đường lối sự sống. Việc loan báo Phúc Âm hằng ngày và đời sống thánh đức là ơn gọi của Giáo Hội ở hết mọi thời và mọi nơi. Phận vụ bộc lộ căn tính sâu xa của Giáo Hội này cần phải được hết sức quan tâm.

Hiện tượng tục hóa và tình trạng đầy những khô đạo, tình trạng giảm sút ơn gọi linh mục và Tu Sĩ, và những cái hết sức khó khăn cha mẹ cảm thấy trong việc cố gắng dạy dỗ giáo lý cho con cái của mình, tất cả đều chứng thực rằng các vị Giám Mục cần phải gắn bó với sứ vụ căn bản của mình trong việc trở thành những nhà rao giảng Lời Chúa chân truyền và uy tín (Tông Huấn “Pastores Gregis”, 29). Để đạt được điều này, các vị Giám Mục, được Chúa Kitô kêu gọi làm bậc thày dạy đức tin, “có nhiệm vụ phải nuôi dưỡng và bảo toàn mối hiệp nhất đức tin cũng như phải hỗ trợ nề nếp kỷ cương là những gì áp dụng chung cho toàn thể Giáo Hội” (Lumen Gentium, 23). Chính nhờ việc trung thành với huấn quyền bình thường của Giáo Hội, nhờ việc gắn bó với kỷ cương của Giáo Hội hoàn vũ, và nhờ những lời lẽ tích cực để rõ ràng hướng dẫn tín hữu, mà vị Giám Mục gìn giữ dân Chúa khỏi bị những lệch lạc và sai xuất, cũng như bảo đảm cho họ có cơ hội khách quan để tuyên xưng niềm tin chân thực không sai lầm (x. Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, 890).

3.     Quí Huynh thân mến, các bản tường trình của quí huynh cho thấy là quí huynh đã ấp ủ niềm xác tín sâu xa của Tôi đó là tân thiên kỷ đòi phải có ‘một tác lực mới trong sinh hoạt Kitô giáo’ (Tông Thư Mở Màn Thiên Kỷ Mới, 29). Nếu Giáo Hội cần phải làm thỏa mãn cơn khát của con người nam nữ trong việc tìm kiếm chân lý và các thứ giá trị chân thực là những gì xây dựng cuộc sống của họ, thì phải vận dụng mọi nỗ lực trong việc tìm tòi những sáng kiến mục vụ hữu hiệu để làm cho Chúa Giêsu Kitô được nhận biết.

Trước những tác lực hoạt động gây chia rẽ, nghi ngờ và chống đối, chúng ta đang phải đương đầu với một thách đố lớn lao đó là làm sao cho Giáo Hội trở thành một ngôi nhà và một học đường hiệp thông (x inid., 43), nhìn nhận Giáo Hội là “một dân tộc được mang tới mối hiệp nhất từ mối hiệp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Thần” (Lumen Gentium, 4). Bởi thế vấn đề hết sức quan trọng là các chương trình giáo dục về giáo lý và đạo đức quí huynh đã khơi mào cần phải được tiếp tục để tín hữu có một kiến thức và tình yêu sâu xa đối với Chúa Kitô và Giáo Hội của Người. Phương pháp sư phạm thực sự dạy nguyện cầu, việc dạy giáo lý một cách thấm thía về ý nghĩa của phụng vụ và tầm quan trọng của vấn đề cử hành Thánh Thể Chúa Nhật, và việc phát động năng lãnh nhận Bí Tích Hòa Giải (cf. Congregation for Clergy: Instruction: "The Priest, Pastor and Leader of the Parish Community," 27), sẽ là những gì góp phần rất nhiều để đạt được mục tiêu mục vụ này, cũng như để làm bột phát lên nơi tâm can dân chúng của quí huynh niềm vui và sự an bình bởi tham phần vào đời sống và sứ vụ của Giáo Hội.

4.     Gắn liền với việc thành đạt nơi những chương trình về canh tân mục vụ của quí huynh là vai trò của thừa tác vụ linh mục. Giáo Hội cần những vị linh mục khiêm tốn và thánh thiện, với cuộc hành trình hoán cải hằng ngày của các vị làm phấn khởi toàn thể Dân Chúa trong việc nên thánh theo ơn gọi của mình (x Lumen Gentium, 9). Gắn bó sâu xa bằng một mối liên hệ và thân tình hiệp thông riêng tư sâu xa với Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành, vị linh mục chẳng những tìm kiếm việc thánh hóa bản thân mà còn trở thành một mô phạm thánh đức cho thành phần dân Chúa được ngài phục vụ. Quí huynh hãy bảo đảm với các linh mục của quí huynh là thành phần tín hữu Kitô giáo, thực sự cả xã hội nói chung, đều lệ thuộc vào các vị ấy và hết sức biết ơn các vị. Tôi tin rằng về khía cạnh này quí huynh sẽ tỏ cho các linh mục của mình thấy lòng quí huynh đặc biệt cảm mến họ, bằng việc quí huynh đồng hành với họ như bậc cha anh suốt các nẻo đường của đời sống thừa tác họ trải qua (cf. "Pastores Gregis," 47).

(……. về đời sống tu trì liên quan đến “văn hóa ơn gọi” và giới trẻ liên quan tới “giới trẻ 2000”…….)

5.     Việc truyền bá phúc âm hóa văn hóa là một khía cạnh chính yếu của việc tân truyền bá phúc âm hóa, vì “ở tâm điểm của hết mọi văn hóa là thái độ con người tỏ ra trước mầu nhiệm cao cả nhất, đó là mầu nhiệm về Thiên Chúa” (Thông Điệp Bách Niên, 24). Là các vị Giám Mục, quí huynh có quyền tìm cách để trình bày sự thật về Chúa Kitô hợp với diễn trường quần chúng. Về khía cạnh này Tôi thấy được việc đóng góp tốt đẹp của quí huynh qua những bức thư và phát ngôn mục vụ về những vấn đề đáng quan tâm nơi xã hội của quí huynh. Tôi xin quí huynh hãy tiếp tục bảo đảm là những lời phát biểu ấy hoàn toàn bộc lộ một cách rõ ràng tất cả giáo thuyết thuộc huấn quyền của Giáo Hội. Cần phải đặc biệt quan tâm đến việc nâng đỡ tính cách độc nhất của đời sống hôn nhân như là một cuộc hiệp nhất trọn đời giữa một người nam và một người nữ, một cuộc hiệp nhất với tư cách là vợ chồng họ được tham dự vào công cuộc tạo dựng ưu ái của Thiên Chúa. Việc làm cho đời sống hôn nhân ngang hàng với các hình thức gắn bó khác là làm lu mờ đi linh thánh tính của hôn nhân và phạm đến giá trị cao quí của nó theo những gì Thiên Chúa ấn định cho loài người (cf. "Familiaris Consortio," 3).

Yếu tố chính yếu thực sự hình thành văn hóa ngày nay là vấn đề truyền thông đại chúng. Điều đòi hỏi căn bản về luân lý đối với tất cả mọi thứ truyền thông đó là vấn đề tôn trọng sự thật và phục vụ sự thật. Những nỗ lực của quí huynh trong việc hỗ trợ những ai hoạt động trong ngành này thực thi trách vụ của họ là những gì đáng khen. Mặc dù các nỗ lực ấy có những lúc gặp chống đối, Tôi vẫn xin quí huynh hãy cố gắng cùng nhau hoạt động với những con người nam nữ truyền thông. Hãy mời họ bắt tay cùng với quí huynh trong việc phá đổ những chướng ngại vật thiếu tin tưởng, và cố gắng mang các thành phần lại với nhau trong sự thông cảm và tôn trọng.

6. Sau hết, trong vấn đề truyền bá phúc âm hóa văn hóa, Tôi muốn tri ân việc đóng góp tốt đẹp do các trường học Công giáo của quí huynh thực hiện trong việc vừa thăng tiến đức tin của cộng đồng Công giáo lẫn phát triển cái tuyệt hảo nơi đời sống dân sự nói chung. Thấy được những thay đổi sâu xa chi phối thế giới giáo dục, Tôi xin các thày cô, giáo dân hay tu sĩ, thực hiện sứ vụ chính yếu của mình để bảo đảm là những ai đã lãnh nhận phép rửa “mỗi ngày một cảm nhận được tặng ân đức tin họ đã lãnh nhận” ("Gravissimum Educationis," 2). Vấn đề giáo dục đạo lý, tâm điểm của bất cứ trường học Công giáo nào, dù ngày nay đang là một việc tông đồ cam go và trầm mình, cũng có nhiều dấu hiệu cho thấy giới trẻ muốn học về đức tin và mạnh mẽ thực hành đức tin.

Nếu tình trạng bừng lên về đức tin này tăng phát, chúng ta cần những thày cô hiểu biết một cách rõ ràng và xác đáng bản chất và vai trò đặc biệt của việc giáo dục Công giáo. Điều này cần phải nêu lên ở mọi trình độ nếu giới trẻ của chúng ta và gia đình họ cần phải cảm nghiệm được mối hòa hợp giữa đức tin, đời sống và văn hóa (cf. Congregation for Catholic Education, "Consecrated Persons and their Mission in Schools," 6). Đến đây Tôi muốn đặc biệt kêu gọi thành phần Tu Sĩ của quí huynh đừng loại bỏ việc tông đồ học đường (cf. "Pastores Gregis," 53), và thực sự lập lại việc họ dấn thân phục vụ ở cả những trường học tọa lạc ở những khu vực nghèo nàn. Ở những nơi có nhiều điều thu hút giới trẻ xa rời con đường chân lý và tự do chân thực thì chứng từ của con người tận hiến đối với các lời khuyên phúc âm là một tặng ân bất khả thế.

7. (chào chúc và phép lành tòa thánh).

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến ngày 23/10/2003

 

Cộng Đồng Môn Đệ Chúa Kitô

Bài chia sẻ của ĐTC với các vị Giám Mục Phi Luật Tân đợt thứ hai thăm tòa thánh

ĐTC đã gặp gỡ các vị giám mục Phi Luật Tân đợt 2 sang thăm tòa thánh ngũ niên, những vị thuộc các giáo tỉnh Caceres, Capiz, Cebu, Jaro và Palo, và đã tiếp tục chia sẻ về một trong ba điểm chính được Giáo Hội ở Phi Luật Tân đề ra và thực hiện. Với đợt một, ĐTC đã nói về vấn đề Giáo Hội của người nghèo, lần này, với đợt thứ hai, Ngài đã nói đến vấn đề phát triển để trở thành một cộng đồng môn đệ Chúa Kitô. Sau đây là bài chia sẻ của Ngài.

1. ….

Như Tôi đã đề cập đến với nhóm các Vị Giám Mục Phi Luật Tân đợt nhất, các biến cố quan trọng của giáo hội là Đại Công Hội Lần hai năm 1991 và Cuộc Tham Luận Mục Vụ Toàn Quốc gần đây hơn về vấn đề Canh Tân Giáo Hội đã có những tác dụng tích cực bền bỉ nơi đời sống của những người Công Giáo Phi Luật Tân. Đại Công Hội đã nhấn mạnh đến nhu cầu thực hiện ba việc mục vụ căn bản, đó là trở thành một Giáo Hội cho người nghèo, phát triển thành một cộng đoàn các môn đệ của Chúa, và dấn thân vào việc làm mới lại vấn đề truyền bá phúc âm hóa toàn diện. Thật vậy, cái thách đố của việc thực hiện trọn vẹn dự án tam diện này tiếp tục thổi một luồng sự sống mới vào Giáo Hội Phi Luật Tân và xã hội Phi Luật Tân nói chung. Vì đã khai triển đề tài Giáo Hội của người nghèo với nhóm Giám Mục đợt nhất, giờ đây Tôi chú trọng đến ưu tiên thứ hai, đó là vấn đề trở thành thực sự một cộng đoàn môn đệ Chúa.

2.     Cuộc Tham Luận Mục Vụ Toàn Quốc đã diễn tả Giáo Hội ở Phi Luật Tân là “cộng đồng của thành phần các môn đệ mạnh mẽ tin vào Chúa Giêsu và là thành phần vui sống trong thuận thảo và đoàn kết với nhau, với tạo vật và với Thiên Chúa” (Vision-Mission Statement of the Church in the Philippines). Điều này nhắc chúng ta nhớ đến giáo huấn của Chúa Giêsu trong Phúc Âm Thánh Gioan khi Người cắt nghĩa rằng là môn đệ của Chúa không phải là một quyết định bất bình thường mà là một đáp ứng nghiêm cẩn, ưu ái trước một lời mời gọi tư riêng: “Không phải các con đã chọn Thày song Thày đã chọn các con và sai các con đi sinh hoa kết trái, cho hoa trái của các con tồn tại. Thày truyền cho các điều này là các con hãy mến thương nhau” (Jn 15:16,17). Cách thức các môn đệ bày tỏ tình yêu của mình là một trong nhiều đề tài được quí huynh và Anh Em Giám Mục của quí huynh tìm cách nói lên, minh nhiên dạy rằng để trở nên một người môn đệ đích thực của Chúa Kitô cần phải được “huấn luyện toàn bộ đức tin”.Thật vậy, chỉ nhờ có tính cách làm môn đệ chân chính này, một tính cách dựa trên căn bản tình đoàn kết yêu thương, mà người Phi Luật Tân mới có thể bắt đầu giải quyết được tình trạng phân rẽ đáng lo ngại giữa đức tin và đời sống là tình trạng lan tràn rất nhiều xã hội tân tiến ngày nay.

3.     Trong Tông Huấn Hậu Thượng Hội Giám Mục Á Châu “Giáo Hội Tại Á Châu”, Tôi đã đề cập đến cái hãnh diện người Á Châu có được nơi các giá trị tôn giáo và văn hóa của một thứ yêu chuộng sự thinh lặng, chiêm niệm, giản dị và ôn hòa, chỉ cần liệt kê một ít vậy thôi. “Tất cả những điều này cho thấy một thứ minh thức thiêng liêng sâu xa và một thứ khôn ngoan về luân thường nơi tâm hồn người Á Châu” (đoạn 6). Cái “minh thức thiêng liêng” này được chứng tỏ hiển nhiên nơi những cảm thức tôn giáo sâu xa của dân chúng Phi Luật Tân và là một mảnh đất phì nhiêu bồi dưỡng cho môi trường thuận lợi giúp cho mọi Kitô hữu đóng vai trò làm môn đệ Chúa đích thực hơn. Bức Thư Mục Vụ của quí huynh về linh đạo trình bày là chính việc dấn thân lấy Chúa Kitô làm trọng tâm cho thấy dân chúng của quí huynh như là những kẻ lữ hành trên con đường về quê hương chân thật. Việc thường xuyên tham dự Lễ Chúa Nhật, việc chủ động tham gia các sinh hoạt giáo xứ và các ngày lễ, những việc tôn sùng Thánh Mẫu đáng khâm phục và rất nhiều đền thánh có tầm mức quốc gia nơi xứ sở của quí huynh chỉ là một ít tỉ dụ về gia sản Kitô giáo phong phú làm nên một phần toàn vẹn của đời sống và văn hóa. Ngoài những khía cạnh tích cực này, vẫn còn có một số xung khắc giữa Kitô hữu cũng như nơi xã hội Phi Luật Tân nói chung. Những điều phi lý này chỉ có thể được chỉnh lại bằng việc quí huynh hoàn toàn cởi mở trước tinh thần của Chúa Kitô, đi vào lòng đời và biến đổi nó thành một thứ văn hóa của công lý và hòa bình (cf. "Apostolicam Actuositatem," 4).

4.     Trong việc hoàn thành những mục đích caoi quí ấy quí huynh cần phải dấn thân trong việc sửa soạn cho thành phần tín hữu giáo dân được trở thành những người môn đệ đích thực trước thế giới. Chính những Vị Mục Tử của các Giáo Hội địa phương phải làm sao cho giáo dân có những chương trình dự bị về tu đức cũng như về giáo lý để sửa soạn cho họ thi hành sứ vụ này. Tôi lấy làm phấn khởi khi thấy Giáo Hội ở Phi Luật Tân đã nỗ lực tìm nhiều cách để hoàn thành trách nhiệm ấy. Đây là một điều hiển nhiên, chẳng những nơi những cơ hội về giáo dục được rất nhiều Giáo Phận cung ứng, mà còn nơi những tổ chức giáo dân khác nhau cũng như nơi các cộng đồng và phong trào đức tin nhỏ bé đang phát triển ở xứ sở của quí huynh. Mặc dù mới nhìn thì những nhóm này có vẻ rất khác nhau, nhưng “chúng tất cả cùng hướng về một qui điểm bao gồm hết mọi sự và sâu xa theo chiều kích mục đích chung của chúng” (Tông Huấn Người Tín Hữu Giáo dân "Christifideles Laici," 29). Đặc biệt là trường hợp những nhóm như thế biết chủ động dấn thân tham gia vào sinh hoạt giáo xứ và bảo tồn mối liên hệ hiệp thông cởi mở thiết tha với nhau, với các vị linh mục giáo xứ cũng như với các vị Giám Mục của họ. Như Chúa Kitô đã dạy: “Căn cứ vào điều này mà tất cả mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ của Thày, đó là các con yêu thương nhau” (Jn 13:34).

5.     Một trong những đóng góp chính Giáo Hội có thể thực hiện trong vấn đề bảo đảm cho một cuộc sửa soạn vững chắc của thành phần giáo dân đó là làm sao bảo đảm được rằng các chủng viện cũng như các tu viện đang huấn luyện các vị linh mục tương lai biết hiến mình làm môn đệ của Lời Chúa và Bí Tích. Nó là một tiến trình phức tạp được bắt đầu bằng việc tuyển chọn các ứng viên. Về khía cạnh này, Tôi đề nghị là quí huynh và các vị linh mục của quí huynh phải chủ động tìm kiếm những con người trẻ tốt lành, đạo hạnh và thăng bằng cho thiên chức linh mục, và thách đố họ đừng lo sợ “thả lưới ở chỗ nước sâu” để đánh được một mẻ giá trị khôn lường (cf. "Novo Millennio Ineunte," 1).

Một khi đã tuyển chọn ứng viên làm linh mục, tiến trình sửa soạn cho họ trở thành một vị linh mục tốt lành và thánh đức bắt đầu. Điều này đòi phải có “một cuộc huấn luyện về thiêng liêng cũng như về giáo huấn về tín lý cho những sinh viên trong chủng viện hòa hợp với nhau” ("Codex Iuris Canonici," c. 244), và phải được trông coi bởi những huấn luyện viên tinh tường. Chúng ta có thể nói đến ở đây về các mẫu huấn luyện khác nhau: huấn luyện về nhân bản để giúp các ứng viên sống và đi sâu vào các nhân đức linh mục, nhất là những nhân đức giản dị, thanh sạch, khôn ngoan, nhẫn nại và vâng lời; huấn luyện về tri thức nhấn mạnh đến việc học hỏi sâu xa kỹ lưỡng về triết lý và thần học, bao giờ cũng trung thành với các giáo huấn của Huấn Quyền; huấn luyện về mục vụ để giúp cho các ứng viên áp dụng các nguyên tắc thần học vào các trường hợp mục vụ; và huấn luyện về tu đức nhấn mạnh đến nhu cầu thiết yếu trong việc thường xuyên cử hành các bí tích, nhất là bí tích thống hối, cũng như thực hành việc cầu nguyện chung riêng và năng bàn hỏi với vị linh hướng (cf. "Pastores Dabo Vobis," 43-59, "Codex Iuris Canonici," c. 246 ). Bất cứ khoa học huấn luyện linh mục nào cung cấp những yếu tố ấy mới thực sự làm phát sinh ra những thừa tác viên vui lòng “chiến đấu để trung thành với Chúa cũng như để kiên quyết phục vụ đoàn chiên của mình” ("Pastores Dabo Vobis," 82).

6.     Hội Đồng Mục Vụ Toàn Quốc đã bàn dài dòng đến nhu cầu nâng đỡ và hỗ trợ các vị linh mục thi hành thừa tác vụ của các vị, và đã quyết tâm “tìm kiếm những đường lối mới mẻ cho việc tiếp tục huấn luyện” hàng giáo sĩ (Proceedings and Addresses of the NPCCR, January 2001, p. 59). Vấn đề này tương tự như việc canh tân liên lỉ về “tinh thần và tâm trí” được Thánh Phaolô viết đến trong Thư gửi giáo đoàn Êphêsô (x. 4:23-24). Trong trường hợp huấn luyện các chủng sinh, huấn luyện linh mục đòi phải có một đường lối “hòa hợp” bao giờ cũng cổ võ những nhân đức linh mục là bác ái, cầu nguyện, thanh tịnh và trung thành cử hành phụng vụ, những thực hành bị văn hóa tân tiến cùng với ngành truyền thông đại chúng của nó coi thường, thậm chí loại bỏ.

Giáo sĩ ngày nay phải cẩn thận trong việc chấp nhận quan điểm trần tục coi vai trò linh mục như là một thứ “nghề nghiệp” và là phương kế sinh nhai. Trái lại, giáo sĩ phải thấy vai trò linh mục như là một ơn gọi phục vụ yêu thương vô vị kỷ, hết sức tha thiết với “tặng ân độc thân quí hóa” cũng như tất cả những gì thuộc về tặng ân này. Đến đây Tôi muốn nhấn mạnh là vấn đề độc thân được coi là một phần toàn diện thuộc đời sống ngoại tại và nội tại của vị linh mục, chứ không phải chỉ là một lý tưởng lâu đời cần phải được tôn trọng” (cf. "Presbyterorum Ordinis," 16). Đáng buồn thay, lối sống của một số giáo sĩ đã trở thành một thứ phản chứng đối với tinh thần của những lời khuyên Phúc Âm là những gì phải làm nên linh đạo của hết mọi vị linh mục. Hành vi cử chỉ gương mù gương xấu của một số ít này đã làm suy yếu đi uy tín của nhiều người. Tôi muốn quí huynh hiểu rằng Tôi biết đến cách thức tế nhị quí huynh đã nỗ lực nói lên vấn đề này, và Tôi xin quí huynh đừng thất vọng. Tính cách làm môn đệ đích thực đòi phải yêu thương, thương cảm và có những lúc nghiêm ngặt để phục vụ công ích. Luôn luôn phải chính trực song bao giờ cũng phải xót thương.

7. … (nguyện cầu và chúc lành)

Ðaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch ừ tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến ngày 9/10/2003

 

 

ĐTC chia sẻ mục vụ với các vị giám mục Phi Luật Tân về đề tài “Giáo Hội cho Người Nghèo”

 

Hôm Thứ Năm 25/9/2003, ĐTC Gioan Phaolô II đã gặp phái đoàn giám mục Phi Luật Tân thuộc các hạt tỉnh Cagayan de Oro, Cotabato, Davao, Lipa, Ozamis và Zamboanga, và chia sẻ mục vụ với các vị về một trong những vấn đề đã được hội đồng giám mục các vị phác họa từ năm 2000.

 

Qúi Huynh trong Hàng Giáo Phẩm thân mến,

 

1.     Tôi hết sức vui mừng chào đón quí huynh, những vị Giám Mục Phi Luật Tân thuộc các tỉnh hạt Cagayan de Oro, Cotabato, Davao, Lipa, Ozamis và Zamboanga, dịp quí huynh viếng thăm tòa thánh ngũ niên. Quí huynh thuộc về đợt thứ nhất trong ba đợt Giám Mục Phi Luật Tân, trong vòng hai tháng tới, sẽ đến Rôma để “gặp Phêrô” (x Gal 1:18), để chia sẻ với ngài “các niềm vui và hy vọng, nỗi buồn và lo âu” (Hiến Chế Gaudium et Spes, 1) nơi các cộng đồng địa phương của quí huynh. Những ngày này là một thời gian ân sủng cho quí huynh khi quí huynh cầu nguyện tại mồ hai thánh Tông Đồ, và tìm kiếm sức mạnh trong việc rao giảng “những kho tàng khôn thấu của Chúa Kitô”, làm tỏ hiện “dự án của mầu nhiệm đã được giữ kín qua các thế hệ trong Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên tất cả mọi sự” (Eph 3:8-9).

 

Hôm nay Tôi muốn nói với quí huynh, cũng như với những chư huynh Tôi sẽ ngỏ lời với các vị giám mục của quí huynh ở hai đợt tới, nhắm đến tất cả quí huynh ở Phi Luật Tân với nhiệm vụ “chăn dắt đàn chiên của Chúa thuộc phần nhiệm của mình” (1Pt 5:2).

 

2.     Vào lúc mở màn cho tân thiên niên kỷ này, sau khi bế mạc Đại Năm Thánh 2000 ít lâu, các Vị Giám Mục Phi Luật Tân đã triệu tập một Cuộc Tham Vấn Mục Vụ Toàn Quốc về Việc Canh Tân Giáo Hội, một lần nữa tiếp tục đề tài của 10 năm trước đã là cảm hứng cho một trong những biến cố quan trọng nhất của lịch sử giáo hội địa phương của quí huynh, đó là biến cố Đại Công Đồng Phi Luật Tân Lần Hai. Thật vậy, Cuộc Tham Vấn Toàn Quốc chú trọng tới những thành quả của Công Đồng này, bằng việc cẩn thận và thực tế nhìn vào việc liên tục áp dụng những sắc lệnh của công đồng này.

 

Để chia sẻ với quí huynh, Tôi cũng muốn những suy tư của Tôi theo chiều hướng của Công Đồng này cũng như những nghị trình của Công Đồng ấy. Có ba vấn đề ưu tiên mục vụ chính được công đồng đề ra, đó là nhu cầu cần phải trở thành một Giáo Hội của người nghèo, lời hứa quyết trở nên một cộng đồng các môn đệ Chúa Kitô, và việc dấn thân tham gia thực hiện vấn đề truyền bá phúc âm hóa toàn diện mới mẻ. Vì các vị Giám Mục Phi Luật Tân sẽ thực hiện cuộc thăm viếng ngũ niên 3 đợt, Tôi sẽ lợi dụng từng vấn đề này như một thứ bố cục bao rộng để chia sẻ với từng đợt. Với đợt của quí huynh, Tôi bắt đầu bằng vấn đề ưu tiên thứ nhất, đó là vấn đề Giáo Hội của người nghèo.

 

3.     Trong Lời Phát Biểu Viễn Ảnh Truyền Giáo về Giáo Hội ở Phi Luật Tân, chúng ta đọc thấy lời tuyên ngôn đơn sơ song dứt khoát này: “Theo đường lối của Chúa chúng ta, chúng ta quyết trở thành một thứ Giáo Hội của người nghèo”. Công đồng này đã trình bày một cách sâu rộng những gì để có thể trở thành một thứ Giáo Hội của người nghèo (cf. Acts and Decrees of the Second Plenary Council of the Philippines, 122-136). Công đồng đã diễn tả ngắn gọn về Giáo Hội của người nghèo như là một cộng đồng đức tin “ôm ấp và thực hiện tinh thần khó nghèo của Phúc Âm là tinh thần bao gồm việc từ bỏ những sở hữu vật bằng một lòng tin tưởng sâu xa nơi Chúa là nguồn mạch cứu độ duy nhất (ibid 125). Điều này là âm vang của Phúc Đức thứ nhất “Phúc cho ai nghèo khó trong tinh thần, vì nước trời là của họ” (Mt 5:3).

 

Chúng ta cũng cần phải ghi nhận là chiều hướng ưu tiên cho người nghèo này không loại trừ mà bao gồm tất cả mọi người bất kể tầng lớp sinh sống hay giai cấp xã hội. Tuy nhiên, đây là một thứ Giáo Hội chú trọng đặc biệt tới người nghèo, bằng việc tìm cách chia sẻ thời giờ và nguồn lợi để làm giảm bớt nỗi khổ đau. Đó là một thứ Giáo Hội hoạt động với tất cả mọi lãnh vực xã hội, bao gồm cả chính người nghèo, tìm những biện pháp giải quyết cho các vấn đề bần cùng, nhờ đó giải phóng con người khỏi những cuộc sống lầm than và thiếu thốn. Đó còn là một thứ Giáo Hội biết lợi dụng tài năng và tặng ân của người nghèo, cậy nhờ họ trong sứ vụ truyền bá phúc âm hóa. Giáo Hội của người nghèo là một Giáo Hội người nghèo được tiếp nhận, lắng nghe và chủ động tham gia.

 

4.     Bởi vậy, một cách rất chân thực, một Giáo Hội thực sự của người nghèo là một giáo hội góp phần nhiều vào việc biến đổi cần thiết của xã hội, vào việc canh tân xã hội theo nhãn quan và các thứ giá trị của Phúc Âm. Việc canh tân này là một đảm trách lấy thành phần tín hữu giáo dân làm tác nhân chính yếu và thiết yếu của mình: do đó, giáo dân cần phải được trao cho các thứ dụng cụ cần thiết để thi hành vai trò này một cách thành hiệu. Vấn đề này đòi phải có một cuộc huấn luyện toàn diện về học thuyết xã hội của Giáo Hội, cũng như đòi phải có một cuộc trao đổi liên lỉ với hàng giáo sĩ và tu sĩ liên quan đến những vấn đề về xã hội và văn hóa. Là những vị Mục Tử và các nhà lãnh đạo tinh thần, việc quí huynh cẩn thận chú tâm đến những công việc này sẽ phục vụ nhiều cho việc Giáo Hội truyền giáo “ad gentes”: vì “theo ân sủng và ơn gọi của Pháp Rửa và Thêm Sức, tất cả mọi giáo dân đều là các nhà truyền giáo; và đấu trường cho việc truyền giáo của họ là cả một thế giới phức tạp về chính trị, kinh tế, kỹ nghệ, giáo dục, truyền thông, khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật và thể thao” (Tông Huấn Giáo Hội Tại Á Châu, 45).

 

5.     Dĩ nhiên, chúng ta không được phép bỏ qua sự kiện là đấu trường trực tiếp và có lẽ quan trọng nhất của chứng từ giáo dân cho đức tin Kitô giáo đó là đời sống hôn nhân và gia đình. Một khi đời sống gia đình lành mạnh và phát triển thì cũng phát hiện một cảm quan mạnh mẽ về cộng đồng và tình đoàn kết- hai yếu tố thiết yếu cho Giáo Hội của người nghèo. Gia đình chẳng những là đối tượng cho việc mục vụ của Giáo Hội mà còn là một tác nhân truyền bá phúc âm hóa hiệu năng nhất. Thật vậy, “các gia đình Kitô hữu ngày nay được kêu gọi để làm chứng cho Phúc Âm trong những lúc và hoàn cảnh khốn khó, khi mà chính gia đình bị đe dọa bởi một màng lực lượng” (ibid. 46). Quí huynh và các vị linh mục của quí huynh, bởi thế, phải sẵn sàng giúp cho các cặp vợ chồng sống đời sống gia đình một cách cụ thể theo đời sống và sứ vụ của Giáo Hội (cf. "Familiaris Consortio," 49), bồi dưỡng đời sống thiêng liêng cho cha mẹ và con cái bằng việc cầu nguyện, bằng lời Chúa, bằng các phép bí tích, bằng các gương thánh đức về đời sống và đức bác ái.

 

Chứng từ phát xuất từ việc là Giáo Hội của người nghèo cũng sẽ có một giá trị khôn lường cho gia đình về ơn gọi Kitô giáo và xã hội của nó. Thật vậy, nếu lưu ý tới những tác dụng độc địa của trào lưu tục hóa hay của việc lập pháp làm băng hoại ý nghĩa đời sống gia đình, hôn nhân và ngay cả chính sự sống, chúng ta có thể nhận thấy rằng cảnh nghèo khổ phải là một trong những yếu tố chính đẩy các gia đình Phi Luật Tân vào mối nguy cơ bất ổn và bị phân mảnh. Có biết bao nhiêu là trẻ em sống thiếu cha hay mẹ vì một hay cả hai người phải tìm việc làm ăn sinh sống ở nước ngoài? Thêm vào đó, còn có nhiều thứ khai thác khác nhau làm suy yếu đời sống gia đình, như tình trạng trẻ em lao động, khiêu dâm và mãi dâm, thường gắn liền với những điều kiện kinh tế ngặt nghèo. Một Giáo Hội của người nghèo có thể làm nhiều hơn nữa trong việc củng cố gia đình cũng như trong việc chiến đấu với việc khai thác của con người.

 

Trước khi chấm dứt đề tài về gia đình, Tôi phải có lời khen ngợi các Vị Giám Mục Phi Luật Tân cũng như tất cả những ai hoạt động với quí huynh để thực hiện Cuộc Họp Thế Giới Của Các Gia Đình Lần Thứ Tư, được tổ chức ở Manilla đầu năm nay, thật là thành công.

 

6.     Quí huynh thân mến, việc Tôi chia sẻ với quí huynh hôm nay sẽ không trọn vẹn nếu Tôi không đề cập tới tình trạng không ngớt xẩy ra hoạt động khủng bố ở Phi Luật Tân cũng như tới những giai đoạn bạo động ghê gớm bùng nổ ở đó. Thật sự đây là nguyên cớ cần phải hết sức quan tâm, và Tôi muốn quí huynh biết rằng Tôi thông cảm với những bận bịu của qúi huynh, gần gũi quí huynh và nhân dân của quí huynh trong những hoàn cảnh đau thương và buồn thảm này. Cùng với quí huynh, Tôi không thể nào không cương quyết lên án những hành động ấy. Tôi kêu gọi những phe phái trong cuộc hãy buông những thứ khí giới của chết chóc và hủy hoại, loại trừ nỗi thất vọng và hận thù bởi đó mà ra, cũng như hãy mang lấy những thứ khí giới của thông cảm lẫn nhau, của việc dấn thân và của niềm hy vọng. Đó là những nền tảng vững chắc cho việc xây dựng một tương lai hòa bình và công lý chân thực cho tất cả mọi người.

 

Trong cuộc vận động chống khủng bố và bạo lực, các vị lãnh đạo tôn giáo đóng một vai trò quan trọng. “Các niềm tin khác nhau của Kitô giáo, cũng như chư đại tôn giáo trên thế giới, cần phải cùng nhau hoạt động để loại trừ những căn gốc về xã hội và văn hóa của nạn khủng bố. Các vị có thể làm điều này bằng việc giảng dạy tính cách cao cả của nhân phẩm con người, cũng như bằng việc truyền bá một cảm quan sáng ngời hơn về mối hiệp nhất của gia đình nhân loại” (Sứ Điệp cho Ngày Hòa Bình Thế Giới 2002, đoạn 12). Quí huynh ơi, đây là tiếng gọi hiển nhiên đối với việc đối thoại và hợp tác đại kết và liên tôn, những việc tự chúng là những yếu tố sâu xa hơn của một thứ Giáo Hội thực sự của người nghèo. Tôi khuyên quí huynh hãy nỗ lực theo chiều hướng này và xin quí huynh tăng thêm cho chính quí huynh cũng như cho cộng đồng của quí huynh những cơ hội tham dự vào những thứ trao đổi hiệu lực với các tín hữu khác trong Chúa Kitô cũng như với anh chị em Hồi giáo của quí huynh.
……..

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến ngày 25/9/2003

 

Quí huynh hãy sống thánh thiện!

Thứ Sáu 19/9/2003, ĐTC đã chia sẻ và kêu gọi 180 tham dự viên khóa huấn luyện cho các vị giám mục ở các địa điểm truyền giáo nói tiếng Anh, được Thánh Bộ Truyền Bá Phúc Âm Cho Các Dân Tộc của Tòa Thánh tổ chức.

Quí Huynh trong hàng giáo phẩm thân mến!

1.     Tôi vui mừng gặp gỡ quí huynh trong dịp khóa huấn luyện được Thánh Bộ về Việc Truyền Bá Phúc Âm Hóa Các Dân Tộc tổ chức…. (lời chào hỏi)

2.     Quí Huynh Giám Mục thân mến và khả kính! Bằng việc quảng đại dấn thân của quí huynh, quí huynh làm cho việc hiện diện của Chúa Kitô trên thế giới sinh hoa kết trái và quí huynh làm phong phú những hoạt động khác nhau của Giáo Hội Người. Việc quí huynh tham dự vào giai đoạn huấn luyện chuyên biệt được Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin phát động này cho thấy một dấu hiệu rõ hơn nữa về việc quí huynh càng mong muốn phát triển hoạt động truyền giáo khắp thế giới. Hoạt động truyền giáo vẫn là một đảm nhiệm tông đồ khẩn trương ở vào thời đại của chúng ta đây, và quí huynh được kêu gọi để trở thành những con người can đảm và nhiệt thành ủng hộ việc đảm nhiệm này giữa những khó khăn và thử thách thường nhật.

Như Tôi đã nhận định trong Thông Điệp “Redemptoris Missio”, với thừa tác vụ của mình, các vị Giám Mục có trách nhiệm truyền bá phúc âm hóa thế giới, với tư cách vừa là phần tử của Giáo Phẩm Đoàn vừa là những vị Mục Tử của Giáo Hội riêng (x số 63). Việc loan báo Phúc Âm ở khắp mọi phần đất trên thế giới thuộc về các vị Mục Tử, những vị đã được thánh hiến không phải chỉ cho một Giáo Phận mà là cho phần rỗi của toàn thế giới (x ibid). Tôi đã viết trong bức thông điệp này rằng “Tôi cảm thấy đã đến lúc phải dồn tất cả mọi nghị lực của Giáo Hội vào việc tân truyền bá phúc âm hóa cũng như cho việc truyền giáo cho muôn dân ‘ad gentes’. Không một người nào tin vào Chúa Kitô, không một cơ cấu nào của Giáo Hội, được tránh né nhiệm vụ tối hậu này: nhiệm vụ loan báo Chúa Kitô cho tất cả mọi dân tộc” (ibid, 3). Bởi thế, toàn thể Giáo Hội, ở các phần thể của mình, được thôi thúc để truyền bá Phúc Âm cho tới những vùng xa xôi nhất của mọi lục địa.

3.     Quí Huynh thân mến và khả kính, tiếng gọi của Chúa Giêsu cũng mãnh liệt vang dội đến cả quí huynh nữa: “Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Phúc Âm cho tất cả mọi tạo vật” (Mk 16:15).

Trong số các nhiệm vụ của quí huynh là nhiệm vụ truyền đạt tặng ân đức tin và thúc giục cộng đồng của quí huynh trở thành những tay truyền bá phúc âm hóa. Trong vườn nho Chúa có chỗ cho hết mọi người. Không ai quá nghèo đến nỗi không có gì để cho; không ai quá giầu đến nỗi không nhận lãnh điều gì.

Chớ gì tâm hồn của quí huynh hằng ngày nghe thấy âm vang của lời Đấng Cứu Chuộc huấn dụ: “Hãy thả lưới ở chỗ nước sâu!”. Đây là lời kêu gọi hãy tung “những thứ lưới thiêng liêng” vào biển cả trần gian. Để rồi, những ai tin tưởng vào Vị Thày Thần Linh sẽ cảm nghiệm thấy cái kỳ diệu của mẻ cá lạ. Đó là những gì Chúa Giêsu hứa hẹn, Đấng đã không làm thất vọng những ai đặt tin tưởng nơi Người, như Thánh Phaolô và rất nhiều vị thánh trong các thiên kỷ này đã làm cho Giáo Hội được hiển vinh.

Phải, đúng thế! “Thiên Chúa đang sửa soạn một mùa xuân rực rỡ cho Kitô giáo, và chúng ta đã thấy được những dấu hiệu đầu tiên của nó” (ibid. 86). Bởi thế, quí huynh hãy tin tưởng và vững vàng nhìn về tương lai trong mọi hoàn cảnh. Chúa là Đấng, như Người đã trấn an chúng ta, luôn ở cùng chúng ta.

4.     Quí huynh hãy sống thánh thiện! Vào nhiều dịp khác nhau, Tôi đã nhận định thánh thiện là nhu cầu mục vụ khẩn trương ở thời đại chúng ta. Nó là một đòi hỏi cấp bách trước hết đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi phục vụ Ngài thiết tha hơn. Thật vậy, để trở thành những bảo quản viên khôn ngoan coi sóc đàn chiên của Chúa, để bảo vệ đoàn chiên này khỏi tất cả mọi thứ nguy hiểm, để nuôi dưỡng chúng bằng lương thực lời Chúa và Thánh Thể, chính các vị Mục Tử cần phải được nuôi dưỡngbằng đời sống thiết tha và liên lỉ nguyện cầu cũng như phải lo sống mật thiết sâu xa với Chúa Kitô. Chỉ có như thế các vị mới trở nên, trước mắt thành phần linh mục và giáo dân, mẫu gương trung thành và là những chứng nhân của một lòng nhiệt thành tông đồ do Chúa Thánh Thần tác động.

Việc nâng đỡ và phát triển hết mọi đảm trách tông đồ được tìm thấy nơi mối hiệp thông với Thiên Chúa. Thế nên, Quí Huynh thân mến và khả kính, quí huynh phải là thành phần đầu tiên trong việc củng cố đời sống nội tâm của quí huynh, bằng việc kín múc từ nguồn mạch ân sủng thần linh, luôn luôn nhớ lại hình ảnh thánh kinh của một Moisen cầu nguyện trên núi: “Khi nào Moisen giơ tay lên thì Do Thái thắng trận” (Ex 17:11).

5.     Không một hoạt động nào, dù quan trọng đến đâu, được làm cho quí huynh lơ đãng với cái ưu tiên thiêng liêng làm nên đặc tính của sứ vụ tông đồ phát xuất từ việc lãnh nhận giáo phẩm quyền này. Chúa Giêsu, vị Mục Tử Nhân Lành, đã làm cho quí huynh thành đồng nghiệp của Người trong việc phục vụ dân Kitô giáo với tư cách là một người cha, một bậc thày và là mục tử. Quí huynh hãy hỗ trợ việc không ngừng loan báo đức tin bằng chứng từ thiết tha và hân hoan với Phúc Âm của mình, vì “Giáo Hội sẽ truyền bá phúc âm hóa thế giới bằng chính việc làm và đời sống của mình, nói cách khác, bằng chứng từ sống động trung thành với Chúa Giêsu của Giáo Hội, một chứng từ của sự khó nghèo và không dính bén, của tự do trước các thứ quyền lực của thế gian này, tóm lại, một chứng từ của sự thánh thiện” (Thông Điệp Evangelii Nuntiandi, 41). ]

Cộng đồng của quí huynh cử hành việc tưởng nhớ đến các vị thánh, các vị tử đạo, các vị giải tội, các vị giảng thuyết can trường cho sứ điệp cứu độ, những người, bằng chính đời sống của họ hơn là bằng lời nói của họ, làm cho tình yêu Chúa Kitô được tỏ hiện, thậm chí chúng ta có thể nói rằng hầu như hiển hiện một cách thể lý. Hãy theo chân các vị ấy! Hãy là những vị mục tử, bằng gương lành hơn ngôn từ, tôn kính Phúc Âm và tác động nơi những người chung quanh quí huynh ước muốn hiểu biết Phúc Âm hơn nữa và mang Phúc Âm ra thực hành.

Xin Đức Trinh Nữ Maria, Nữ Vương của các Cuộc Truyền Giáo, bảo vệ quí huynh. Tôi hứa hằng ngày nhớ đến quí huynh trong lời cầu nguyện của Tôi và Tôi thân ái ban phép lành cho quí huynh cùng cộng đồng của quí huynh.

Ðaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, trích dịch từ tài liệu được Zenit phổ biến ngày 19/9/2003

 

ĐTC với các Giám Mục Ấn Độ thăm Tòa Thánh đợt 4 về vấn đề ý thức truyền giáo và điều hành nội bộ

Sáng nay, Thứ Năm 3/7/2003, ĐTC tiếp 19 vị Giám Mục Ấn Độ đợt 4 dịp các ngài Thăm Tòa Thánh Ngũ Niên, những vị thuộc các giáo tỉnh Bangalore, Hederabad và Visakhapatnam. Trong bài chia sẻ của mình, ĐTC nhắc đến sư ỉ kiện trùng hợp cho cuộc gặp gỡ này là rơi vào “ngày lễ kính Thánh Tông Đồ Tôma vinh hiển, vị được nhân dân Quí Huynh rất sùng kính”.

ĐTC tiếp tục chủ đề truyền giáo của mình với các vị giám mục Ấn Độ đợt bốn này, như Ngài đã chia sẻ với các vị 3 đợt trước vào tháng 5 và 6 năm nay. Lần này Ngài nhấn mạnh đến cả “vấn đề tân truyền bá phúc âm hóa lẫn hoạt động truyền giáo mới lại” là những gì Ngài đã kêu gọi toàn thể Giáo Hội. Ngài đặc biệt nhấn mạnh là “việc hiểu biết xác đáng về mối liên hệ giữa văn hóa và đức tin Kitô giáo là vấn đề quan trọng cho việc truyền bá phúc âm hóa được hiệu nghiệm”. Ở phần lục địa Ấn Độ của mình, Quí Huynh đối diện với những thứ văn hóa phong phú về các truyền thống tôn giáo và triết lý”. Tuy nhiên, Ngài cảnh giác rằng “bất cứ một thư ù thần học về truyền giáo nào gạt bỏ việc kêu gọi thật lòng trở về với Chúa Kitô và chối bỏ việc biến đổi văn hóa do việc hoán cải này đòi hỏi là thứ thần học truyền giáo trình bày sai lầm về thực tại đức tin của chúng ta, một thực tại đức tin bao giờ cũng được bắt đầu bằng cuộc sống trong Đấng duy nhất là ‘đường, là sự thật và là sự sống’”.

“Về khía cạnh này, chúng ta tái xác nhận rằng vấn đề đối thoại liên tôn không thay thế cho việc truyền giáo cho các dân tộc ‘missio ad gentes’, song chỉ là một phần của việc truyền giáo cho các dân tộc thôi. Cũng thế, cần phải lưu ý là những giải thích tương đối về tính cách đa diện tôn giáo, những thứ giải thích cho rằng đức tin Kitô giáo cũng không hơn gì các niềm tin khác, là những gì thật sự làm cho Kitô giáo không còn cái cốt lõi Kitô học minh định của mình nữa, vì đức tin tách khỏi Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế duy nhất không còn là đức tin Kitô giáo nữa, không còn là đức tin thần học nữa. Lại càng trình bày sai lạc hơn nữa về đức tin của chúng ta khi khuynh hướng tương đối đi đến chỗ dung hòa hỗn hợp, vì một thứ ‘kiến trúc thiêng liêng’ nhân tạo vặn vẹo rồi làm méo mó bản chất thiết yếu, khách quan, có tính cách mạc khải của Kitô giáo”.

Thế rồi, từ những cảnh giác về lý thuyết liên quan đến đức tin là cốt lõi cho việc truyền giáo trên đây, ĐTC đã đi vào thực tế của hiện trạng Giáo Hội tại Ấn Độ. Ngài trước hết nhận thấy sự kiện tích cực, đó là con số người lớn rửa tội đông dù bị chống đối về vấn đề trở lại, phần trăm tham dư ỉ Thánh Lễ Chúa Nhật rất, và việc giáo dân tham gia vào vấn đề phụng vụ cùng với thành phần linh mục, tu sĩ và giáo lý viên nhiệt thành. Riêng về vai trò của các vị giám mục, ĐTC cảnh giác rằng: “Về bản thân của mình Quí Huynh là nguồn mạch và là nền tảng hữu hình của mối hiệp nhất ở các Giáo Hội riêng của Quí Huynh. Cùng với Giáo Hoàng, tất cả mọi vị giám mục tiêu biểu cho toàn thể Giáo Hội hiệp nhất trong an bình, yêu thương và hiệp nhất. Về khía cạnh này, không bao giờ được coi vị giám mục chỉ là đại biểu của một nhóm xã hội hay ngôn ngữ đặc biệt nào đó, trái lại, bao giờ cũng phải nhìn nhận ngài đóng vai thừa kế các Vị Tông Đồ lãnh nhận sứ vụ từ Chúa Kitô. Việc không chấp nhận một giám mục, bởi cá nhân hay phái nhóm, bao giờ cũng là việc vi phạm đến mối hiệp thông giáo hội do dó trơ ũ thành một thứ gương mù cho tín hữu cũng như trở thành một thứ phản chứng trước mắt các tín đồ của các tôn giáo khác”.

Ở phần kết, ĐTC còn nhắc đến vần đề tự lập của mỗi Giáo Phận. Ngài nhận định là việc phát triển của Các Giáo Hội Riêng thường “lệ thuộc vào thừa tác vụ của các vị thừa sai cũng như vào việc rộng lượng đóng góp tài chính của các người ân nhân ngoại quốc”. Tuy nhiên, theo Ngài, “cần phải nói rằng các Giáo Hội riêng, bao gồm cả nhưnõng giáo hội ở thế giới đang phát triển, phải tìm cách thiết lập lấy cho mình các nguồn tại lợi để phát động việc truyền bá phúc âm hóa ở địa phương và kiến thiết các trung tâm cũng như các cơ cấu giáo dục cùng hoạt động bác ái từ thiện”. Cuối cùng ĐTC khuyên các vị giám mục phải “bảo đảm việc điều hành ‘các thứ sản vật cho tất cả mọi người’ không bao giờ được nhiễm lây bởi những khuynh hướng duy vật hay thiên vị, mà phải khôn ngoan thực hiện để đáp lại các nhu cầu của thành phần nghèo khổ về tinh thần hay vật chất”.

ĐTC với các vị Giám Mục Ấn Độ viếng thăm Tòa Thánh ngũ niên đợt ba về thách đố truyền giáo và đối thoại liên tôn.

Sáng nay, Thứ Năm 26/6/2003, Đức Thánh Cha gặp gỡ các vị Giám Mục Ấn Độ thuộc các giáo tỉnh Cuttack-Bhubaneswar, Patna và Ranchi, và Ngài tiếp tục nói với các vị về vấn đề truyền bá phúc âm hóa và đối thoại liên tôn, nhất là những trở ngại trong việc thực hiện những công việc này tại Ấn Độ, những vấn đề Ngài đã nói với các vị giám mục hai đợt trước.

Sau khi nhắc lại trách vụ của tất cả mọi người đã lãnh nhận phép rửa về việc truyền bá phúc âm hóa, việc “rao giảng Phúc Âm cho tất cả mọi tạo vật”, ĐTC nói: “Nhưng lại bất hạnh thay thậm chí ngay cả ngày hôm nay đây ở nhiều nơi tại Ấn Độ đã xẩy ra những chướng ngại không đáng làm ngăn trở việc rao giảng Phúc Âm này. Các người công dân của nền dân chủ hiện đại không thể nào lại phải chịu đựng khổ đau vì niềm tin tưởng của mình. Người ta cũng không thể nào lại cảm thấy mình bị bắt buộc phải che giấu tín ngưỡng của mình để hoan hưởng những thứ nhân quyền căn bản, như đực học hành và có công ăn việc làm”.

Đức Thánh Cha đặc biệt nhấn mạnh đến tình trạng khó khăn xẩy ra cho “việc truyền bá phúc âm hóa lần đầu tiên”, ở chỗ việc liên lạc tiên khởi vùi những ai chưa hề nghe thấy Phúc Âm “cần thấy nơi tất cả chúng ta một biểu lộ đức tin rõ ràng và khả tín”. Bởi thế, Ngài thúc giục các vị giám mục hãy làm sao để có được “thành phần giáo dân được huấn luyện kỹ càng để trang bị sẵn sàng trở thành các bậc thày dạy đức tin. Đồng thời những quan điểm cá nhân bắt nguồn từ mối liên hệ giai cấp xã hội hay bộ tộc cũng không bao giờ được phép làm mờ đi giáo huấn chân thực của Giáo Hội”.

Về vấn đề đối thoại liên tôn, Đức Thánh Cha nhắc lại là Giáo Hội luôn tôn trọng những nền văn hóa khác nhau cũng như con người thuộc các tôn giáo khác. Ngài nói: “Việc đối thoại liên tôn chẳng những làm tăng thêm sự hiểu biết nhau và tôn trọng nhau, mà còn giúp vào việc phát triển xã hội hợp với các quyền lợi và phẩm giá của tất cả mọi người nữa”. Nhận định là Giáo Hội cũng đang cố gắng “đối thoại” qua các cơ quan của mình, như học đường, bệnh viện và các trạm phát thuốc, Ngài nói: “Tiếc thay, có một số những nỗ lực chân thực nhất của Giáo Hội hướng về việc đối thoại liên tôn ở cấp căn bản nhất đôi khi cũng bị ngăn trở bởi tình trạng không cộng tác của chính quyền cũng như bởi tình trạng gây phiền nhiễu của một số nhóm cực thủ. Ấn Độ đã có những truyền thống lâu dài về việc tôn trọng những khác biệt về tôn giáo”.

Đức Thánh Cha cho các vị giám mục biết rằng Ngài “biết hết sức rõ ràng về những thử thách” các vị phải đương đầu ấy. Ngài chia sẻ với các vị: “Thật là đáng buồn khi thấy công việc của Giáo Hội thường phải nhượng bước bởi trào lưu bộ tộc ở một số phần đất ở Ấn Độ. Có những lúc trào lưu bộ tộc này mạnh mẽ đến nỗi có một cố nhóm thậm chí đã không chịu chấp nhận các vị giám mục và linh mục không thuộc về tộc của họ, bởi đó đã làm cho hoạt động xứng hợp của Giáo Hội vị khập khễnh, và làm cho bản chất chính yếu của Giáo Hội là hiệp thông bị lu mờ. Không bao giờ được sử dụng những cái khác biệt về bộ tộc và sắc tộc như lý do để loại bỏ một con người mang lời Chúa”.

ĐTC hy vọng rằng các vị giám mục, linh mục và tu sĩ sẽ không mất lòng nhiệt thành trong việc thi hành các thừa tác vụ của mình trước những khốn khó họ phải chịu đựng. “Tôi hy vọng rằng tất cả Quí Huynh sẽ tiếp tục cùng nhau gắn bó hoạt động. Trong các hoàn cảnh của ngày hôm nay lại càng cần phải có những mối liên hệ hỗ tương hơn nữa. Một số những xung khắc khó khăn và đau thương liên quan tới việc điều hành các tổ chức cũng như liên quan đến chủ quyền tài sản đã xẩy ra ở miền của Quí Huynh. Tuy nhiên, những vấn đề này không phải là bất khả thắng vượt đối với những ai sống Phúc Âm theo tinh thần yêu thương huynh đệ và phục vụ”.

ĐTC với các vị giám mục Ấn Độ về tình trạng sống đạo trong một thế giới toàn cầu hóa và bị bách hại

 

Ngày Thứ Ba 3/6/2003, ĐTC đã gặp gỡ nhóm thứ hai các vị giám mục Ấn Độ Công Giáo lễ nghi Latinh sang thăm Tòa Thánh Ngũ Niên.

 

Quí Huynh Giám Mục thân mến,

...
3. Thật là phấn khởi khi thấy con số khả quan ơn gọi tu trì và giáo phận ở Giáo Tỉnh của Qúi Huynh, cũng như khi thấy số đông tín hữu tham dự Lễ Chúa Nhật. Cho dù các Giáo Phận địa phương của Quí Huynh nghèo nàn về vật chất, nhất là só sánh với các cộng đồng Kitô hữu khác, nhưng họ lại giầu có về những nguồn lực nhân bản. Điều này rõ ràng được thấy nơi nhiều cộng đồng Kitô hữu căn bản, những phong trào và hội đoàn giáo dân đóng vai trò quan trọng trong sinh hoạt giáo hội ở các vùng của Quí Huynh. Ngoài những dấu hiệu tích cực này, Giáo Phận của Quí Huynh cũng phải đương đầu với các khó khăn thách đố nữa. Những ảnh hưởng tiêu cực của các phương tiện truyền thông đại chúng, tình trạng tục hóa, chủ nghĩa duy vật và khuynh hướng hưởng thụ hòa lẫn với những hứa hẹn giả tạo của một số ít nhóm cực bảo thủ, đã thu hút một số người Công giáo đi đến chỗ bỏ đi đức tin của mình. Thật là thảm, thậm chí có một số phần tử thuộc hàng giáo sĩ nhiều lúc cũng bị lôi kéo theo những lời hứa hẹn rỗng tuyếch của bạc tiền, của tiện nghi và của quyền lực.

 

Khi đối diện với những vấn đề này, người ta có khuynh hướng đặt ra cùng vấn nạn được các môn đệ nêu lên cho Thánh Phêrô ngay sau Ngày Lễ Ngữ Tuần: “Chúng tôi phải làm gì đây?” (Acts 2:37). Về khía cạnh ấy an ủi biết bao khi thấy nhiều Giáo Phận của Quí Huynh đang đáp lại vấn đề bằng những Công Nghị và việc phác ra dự án mục vụ, đối diện với các vấn đề một cách thận trọng nhờ đó tránh được những cuộc khủng hoảng mai hậu. Như Tôi đã nói trong Tông Thư Mở Màn Cho Một Tân Thiên Kỷ, những sáng kiến mục vụ bao giờ cũng phải bao gồm 4 cột trụ Kitô giáo đó là thánh thiện, nguyện cầu, bí tích và lời Chúa (x 30-41), luôn luôn nhớ rằng “bởi vậy ở đây không phải là vấn đề sáng tạo nên một chương trình mới. Chương trình vốn đã hiện hữu rồi, đó là dự án trong Phúc Âm cũng như trong Truyền Thống, một dự án không bao giờ thay đổi” (ibid. 29).

 

4. Việc phác họa dự án mục vụ hiệu nghiệm cần phải được môi trường hóa ở chỗ nó cho thấy những vấn đề đặc biệt do xã hội tân tiến tạo nên. Cũng giống như ở nhiều xứ sở khác, Ấn Độ cũng cảm thấy bị lôi cuốn theo trào lưu của một nền văn hóa sự chết, như được thấy, chẳng hạn, nơi những đe dọa nguy hiểm nhắm đến các thai nhi, nhất là những nữ thai nhi. Quí Huynh Giám Mục, Tôi xin Quí Huynh hãy tỉnh táo nơi những nỗ lực của Qúi Huynh trong việc mạnh dạn giảng dạy giáo huấn nhất trí của Giáo Hội liên quan đến quyền bất khả vi phạm đối với sự sống của hết mọi con người vô tội. Những nỗ lực phối hợp để chế ngự văn hóa sự chết cần phải có sự dấn thân của toàn thể cộng đồng Công giáo. Như thế, bất cứ biện pháp nào về vấn đề này đều phải bao gồm cá nhân, gia đình, phong trào và hội đoàn dấn thân xây dựng “một xã hội biết nhìn nhận và bảo vệ phẩm giá của từng người, cũng như bênh vực và bồi bổ sự sống của tất cả mọi người” (Thông Điệp Phúc Âm Sự Sống, 90).

 

Vấn đề toàn cầu hóa cũng làm khó dễ các thứ phong tục cổ truyền và luân thường đạo lý. Điều này hiển nhiên nơi việc áp đặt trên xã hội Á Châu những kiểu bất khả chấp theo luân lý vấn đề kế hoạch hóa gia đình và những đường lối sức khỏe sản sinh. Đồng thời việc hiểu biết sai lầm về lề luật luân lý đã dẫn nhiều người đến chỗ biện minh cho việc làm sinh lý vô luân dưới chiêu bài tự do, một chiêu bài đã đưa tới chỗ tự nhiên chấp nhận ý hệ phá thai (x Tông Huấn Familiaris Consortio, 6). Các thành quả của một thứ việc làm vô trách nhiệm như vậy chẳng những gây đe dọa đến cơ cấu gia đình mà còn góp phần vào cả việc làm lan truyền Khuẩn Liệt Kháng nữa, một thứ khuẩn đang tiến tới chỗ lan truyền đều nhau ở các phần đất thuộc xứ sở của Quí Huynh. Việc đáp ứng của Giáo Hội ở Ấn Độ cần phải được tiếp tục cổ võ sự thánh thiện của cuộc sống hôn nhân, cũng như “thứ ngôn ngữ mật thiết bộc lộ việc hoàn toàn trao tặng vợ chồng” (x Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, 2370). Giáo Hội được kêu gọi để loan báo rằng tình yêu chân thực là tình yêu Kitô giáo, và tình yêu Kitô giáo là tình yêu thanh sạch. Tôi khuyến khích Quí Huynh hãy ủng hộ các chương trình giáo dục nhấn mạnh đến giáo huấn của Giáo Hội về vấn đề này.

 

Đồng thời những nỗ lực trong việc tỏ ra tôn trọng phẩm giá cùng các thứ quyền lợi của người phụ nữ cũng cần phải được bảo đảm để phát động “một thứ tân nữ tính” ở tất cả mọi lãnh vực. Điều này sẽ “loại trừ đi khuynh hướng ‘thống trị của nam giới’, nhơ ụ đó mới nhìn nhận và xác nhận cái tinh túy thực sự của nữ giới trong hết mọi khía cạnh của đời sống xã hội, cũng như mới thắng vượt được tất cả mọi kỳ thị, bạo lực và khai thác” (x Thông Điệp Phúc Âm Sự Sống, 99).

 

5. Khi mở đầu cho buổi gặp gỡ này, Tôi đã nói về Thánh Phanxicô Xavier, vị đã hết sức truyền bá Kitô Giáo ở Ấn Độ. Ngài có một khả năng làm thừa tác vụ một cách thành công nơi một môi trường không phải là Kitô giáo. Tôi cầu nguyện để Giáo Hội ở Ấn Độ, khi bắt chước gương của ngài, sẽ loan truyền Phúc Âm của Chúa Giêsu Kitô một cách tôn trọng nhưng can đảm. Đây không phải là một công việc dễ làm, nhất là nơi những miền dân chúng cảm thấy bị thù ghét, bị kỳ thị, thậm chí bị tấn công vì niềm tin tôn giáo của mình hay vì liên hệ bộ tộc của mình. Những vấn đề khó khăn này lại càng trở nên trầm trọng hơn nữa bởi hoạt động tăng phát của một ít nhóm Ấn giáo cực bảo thủ, thành phần đang gây nên nỗi nghi ngờ về Giáo Hội cũng như về các tôn giáo khác. Tiếc thay, ở một số vùng, chính quyền Tiểu Bang lại bị lấn át trước áp lực của những thành phần cực đoan này và đã ban nhưnõng khoản luật bất công chống trở lại đạo, cấm không được thực thi quyền tự do tôn giáo, hay những ai thuộc các giai cấp muốn trơ ũ lại Kitô giáo không được Tiểu Bang giúp đỡ nữa.

 

Bất chấp những khó khăn và khổ đau trầm trọng gây ra bởi tình trạng này, Giáo Hội ở Ấn Độ không bao giờ được bỏ qua công việc chính yếu truyền bá phúc âm hóa của mình. Tôi hy vọng rằng Qúi Huynh, hỡi Quí Huynh Giám Mục thân mến, cùng với tín hữu, sẽ tiếp tục liên hệ với các vị lãnh đạo thuộc niềm tin khác bằng một cuộc đối thoại liên tôn đưa đến chỗ hiểu biết nhau hơn và cộng tác với nhau hơn. Cũng thế, Quí Huynh cũng phải bảo trì việc đối thoại chính yếu với các vị thẩm quyền địa phương và quốc gia, để bảo đảm là Ấn Độ tiếp tục việc cổ võ và bảo vệ các thứ quyền lợi căn bản của tất cả mọi người công dân. Yếu tố nguyên vẹn của một nền dân chủ “thực sự phục vụ thiện ích của cá nhân cũng như của các dân tộc đó là tôn trọng quyền tự do tôn giáo, vì đây là một thứ quyền chạm đến quyền tự do riêng tư và chủ lực nhất của con người” (cf. Bài Diễn Từ với tân lãnh sự Ấn Độ, 13/12/2002).

 

6. “’Như Cha đã sai Thày thế nào, Thày cũng sai các con như vậy’ (x Jn 20:21). Từ việc vĩnh tại hiến tế Thập Giá cũng như từ việc được hiệp thông với mình máu Chúa Kitô trong Bí Tích Thánh Thể, Giáo Hội lấy được sức mạnh thiêng liêng cần phải có để thi hành sứ vụ của mình” (Thông Điệp Ecclesia de Eucharistia, 22)…..

 

(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến ngày 3/6/2003)

 

ĐTC Tiếp Các ĐGM Ấn Độ: Vấn đề truyền giáo và Mẹ Têrêsa Calcutta là mẫu gương bác ái

Sáng nay, 23/5/2003, ĐTC đã tiếp các vị Giám Mục Ấn Độ thuộc vùng Calcutta, Guwahati và Shillong dịp viếng thăm Tòa Thánh ngũ niên của các vị. ĐTC đã nhận định và chia sẻ về vấn đề văn hóa và bác ái như sau:

“Qua nhiều thế kỷ, những người Công giáo ở Ấn Độ đã thi hành công việc truyền bá phúc âm hóa thiết yếu, nhất là ở những lãnh vực giáo dục và dịch vụ xã hội, hoàn toàn miễn phí cho cả Kitô hữu lẫn không phải là Kitô hữu… Thật là bất công hết sức khi một người muốn trở thành Kitô hữu lại cần phải có phép của chính quyền địa phương, có những người bị mất quyền được xã hội trợ giúp và được gia đình nâng đỡ. Có những người còn bị kìm kẹp hay bị trục xuất ra khỏi làng mạc của họ. Tiếc thay một số phong trào cực bảo thủ đang tạo nên lộn xộn nơi một số người Công Giáo, thậm chí trực tiếp gây khó khăn cho nỗ lực truyền bá phúc âm hóa. Tôi hy vọng rằng, là những vị thủ lãnh đức tin, Quí Huynh sẽ không thất đảm trước những thứ bất công ấy, trái lại, tiếp tục dấn thân vào xã hội bằng một đường lối có thể ngăn chặn những chiều hướng báo động này…

“Những chướng ngại về vấn đề trở lại không phải bao giờ cũng phát xuất từ bên ngoài mà có thể xẩy ra từ bên trong cộng đồng của Quí Huynh nữa. Điều này có thể xẩy ra khi những người thuộc các tôn giáo khác thấy được những bất đồng, gương mù và chia rẽ nơi các cơ cấu tổ chức của Công Giáo chúng ta. Vì lý do này, vấn đề quan trọng là linh mục, tu sĩ và giáo dân tất cả phải cùng nhau làm việc, nhất là phải cộng tác với vị Giám Mục là dấu hiệu và là nguồn mạch hiệp nhất của mình.

“Ấn Độ may mắn có được một nhắc nhở trực tiếp về ơn gọi của Giáo Hội trong việc yêu thương thành phần hèn kém nhất là chứng từ và mẫu gương của Mẹ Têrêsa Calcutta là vị sắp sửa được phong chân phước. Quí Huynh cũng được kêu gọi để trở thành những mẫu gương nổi bật về tính chất đơn sơ, khiêm hạ và bác ái với những ai được tráo phó cho Quí Huynh chăm sóc… Quí Huynh sẽ sử dụng mẫu gương của Mẹ Têrêsa như một kiểu mẫu cho những hoạt động bác ái nơi cộng đồng của Qúi Huynh...

“Thế giới ngày nay quá yêu chuộng những thứ vật chất đến nỗi ngay cả thành phần giầu có cũng cảm thấy mình bị lôi cuốn lao đầu vào một cuộc lùng kiếm để được giầu có hơn nữa, bằng một nỗ lực vô bổ trong việc làm thỏa nguyện cái trống rỗng của cuộc sống hằng ngày. Đây là một khuynh hướng báo động nơi giới trẻ của chúng ta, thành phần mà nhiều người trong họ đã sống bần cùng về tinh thần, đang tìm kiếm những câu giải đáp bằng những đường lối chỉ phát sinh ra thêm những vấn nạn hơn nữa. Tuy nhiên, đối với Kitô hữu lại không thế. Mắt của chúng ta đã được Chúa Giêsu Kitô khai mở, nhờ đó chúng ta có thể nhận ra cái khờ dại của những thứ khuynh hướng ấy. Tất cả mọi Kitô hữu, nhất là các vị Giám Mục, linh mục và Tu Sĩ được kêu gọi để biệt lập, sống một đời sống nghèo khó theo phúc âm một cách đơn sơ giản dị song hoàn trọn, làm chứng cho thấy sự kiện Thiên Chúa là kho tàng thực sự của con tim nhân loại.

"Trong một thế giới có rất nhiều người đặt thật nhiều vấn đề thì chỉ có nơi một mình Chúa Kitô họ mới có thể tìn thấy những câu giải đáp vững vàng mà thôi. Chỉ khi nào tham dự một cách chủ động và dấn thân vào mầu nhiệm hòa giải mới có thể mang lại bình an đích thực và đáp ứng chân chính cho những gánh nặng đè nén linh hồn. Tôi lấy làm hài lòng khi nghe thấy nơi nhiều giáo phận của Quí Huynh tín hữu thường xuyên chạy đến với ân sủng của bí tích Hòa Giải, Tôi khuyến khích Quí Huynh hãy tiếp tục nhấn mạnh đến tầm quan trọng của bí tích này”.
 

Chúng ta đừng để cho thảm trạng của con người trở thành một tai họa cho tôn giáo”

Bài chia sẻ của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II với Hội Đồng Giám Mục Nam Dương 29/3/2003

Quí Huynh Giám Mục thân mến,

1. ………

2. Vai trò lãnh đạo của Quí Huynh giúp vào việc bảo đảm là Giáo Hội đang đi tiên phong trong việc bảo trì hòa bình và hòa hợp ở một xứ sở có rất nhiều phái nhóm khác nhau. Thật vậy, Hội Đồng Giám Mục của Quí Huynh đang tìm cách để làm phản ánh khẩu hiệu Bihneka Tungal lka “hiệp nhất trong đa dạng”, một câu khẩu hiệu được thấy trên cầu vai áo của đất nước Quí Huynh. Các thứ gia sản về sắc tộc và văn hóa khác nhau, được qui tụ lại trong một bầu khí của niềm tin, của việc trao đổi đối thoại và của lòng tin tưởng lẫn nhau, có thể mang lại một kiểu mẫu hy vọng cho tất cả mọi người ở Nam Dương. Ở vào lúc mở màn cho một kỷ nguyên mới, Nam Dương đang phải đương đầu với cơn thử thách trong việc xây dựng nên một xã hội được đặt trên nền tảng các nguyên tắc dân chủ của tự do và bình đẳng giữa thành phần công dân của mình, bất kể ngôn ngữ, nòi giống, đường nét sắc tộc, gia sản văn hóa hay tôn giáo. Tôi tin rằng Giáo Hội này vẫn chủ động tham gia vào nỗ lực này, bằng việc phấn khích tất cả mọi người hãy tiếp tục liên kết với nhau trong việc thực thi các trách nhiệm dân sự của mình bằng đối thoại và cởi mở, tránh hết mọi thứ thành kiến hay cố chấp. Việc phát triển của một xã hội thể hiện những lý tưởng dân chủ này sẽ giúp ngăn chặn vấn đề bạo lực hỗn loạn là những gì đã gây tai ương buồn thảm cho xứ sở của Quí Huynh trong mấy năm vừa qua.

Vấn đề tự do tôn giáo, một vấn đề vẫn là một trong những đặc tính truyền thống của Xã Hội Nam Dương, được bảo đảm bởi Hiến Pháp Quốc Gia. Giáo Hội lúc nào cũng cần phải khôn ngoan tỉnh táo để bảo đảm là nguyên tắc này được cả liên bang lẫn địa phương tôn trọng. Tôi hy vọng rằng những nỗ lực này sẽ giúp kiến tạo nên một bầu khí trong đó vấn đề tôn trọng qui tắc luật lệ trở thành một tâm thức mới cho một xã hội dân chủ dung nhượng và bất bạo động. Bước quan trọng đầu tiên này được bắt đầu bằng việc huấn luyện nhân bản. Như Tôi đã nói đến trong Bức Thông Điệp Bách Niên, việc giúp cho “cá nhân con người qua vấn đề giáo dục và huấn luyện theo những lý tưởng chân thực” là một yếu tố cần thiết cho việc kiến tạo nên một trật tự dân sự được đánh dấu bằng mối quan tâm thực sự đến công ích (x đoạn 46).

Về vấn đề này thành phần nghèo khổ cần phải dược chú trọng đặc biệt. Vấn đề Giáo Hội quan tâm là “việc tiến bộ của người nghèotạo nên một cơ hội tốt cho tình trạng phát triển về luân lý và văn hóa của toàn thể nhân loại” (ibid., 28). Vì sứ điệp của Chúa Kitô là một sứ điệp hy vọng mà các môn đệ của Người cũng phải luôn bảo đảm là thành phần bất hạnh ở nơi chúng ta, bất kể tôn giáo hay đặc tính sắc tộc, đều được đối xử theo phẩm vị và tôn trọng như Phúc Aâm đòi buộc. Việc cổ võ những quyền lợi chính yếu của kẻ yếu là một con đường chứng tỏ hướng tới một xã hội ổn định và phát triển. Giáo Hội được kêu gọi để “đứng bên người nghèo, để nhìn thấy công lý nơi những điều họ yêu cầu và giúp đáp ứng những đòi hỏi ấy” (x Thông Điệp Sollicitudo Rei Socialis, đoạn 39).

3. Một trong những đường lối hiệu nghiệm nhất đối với cộng đồng Kitô hữu trong việc giúp đỡ thành phần nghèo khổ là nhờ ở việc giáo dục. Trong lãnh vực này, cũng như trong tổ chức các cơ quan từ thiện bác ái của mình, Giáo Hội ở Nam Dương đã được khen tặng. Mặc dù người Công Giáo chỉ là một phần nhỏ trong tổng số dân, họ cũng đã phát triển được một hệ thống trường sở rộng lớn và đáng nể. Hoạt động của Giáo Hội trong lãnh vực giáo dục được công nhận như là một trong những đóng góp quan trọng nhất của Quí Huynh cho xã hội Nam Dương, và chắc chắn nó vẫn là phương tiện hiệu nghiệm để truyền đạt những giá trị của Phúc Âm. Việc giáo dục của Công Giáo, như là một phần quan trọng thuộc sứ vụ giảng dạy giáo lý và truyền bá phúc âm hóa của Giáo Hội, cần phải được có một nền tảng triết lý giúp cho đức tin và văn hóa dung hợp với nhau (x Congregation for Catholic Education, The Religious Dimension of Education in a Catholic School, 34). Các nỗ lực của Quí Huynh để bảo trì các trường sở Công Giáo, nhất là ở những miền không phải Công Giáo nghèo nàn và gặp khốn khó về vấn đề tài chính, chứng tỏ việc Quí Huynh mạnh mẽ dấn thân hoạt động cho tình đoàn kết liên văn hóa cũng như cho việc đáp ứng đòi hỏi của tình yêu phúc âm đối với tất cả mọi người. Trong khi cần phải để ý tới mức độ mù chữ cao trong dân chúng, người ta không thể không chú trọng tới con số giới trẻ không tiếp tục theo bậc trung học. Giới trẻ của Quí Huynh cần phải được phấn khích đừng bỏ bê việc học hành của mình để chạy theo cái cuốn hút của khuynh hướng duy vật nông nổi mau qua. Về khía cạnh này, Tôi cũng muốn đề cao công việc thiết yếu của các giáo lý viên ở những xứ sở như Nam Dương, nơi thành phần tín hữu là một thiểu số nhỏ như thế. Thiếu phương tiện cắp sách đến trường Công Giáo ở một số miền nghèo túng, cộng với một môi trường có những lúc xung khắc, hay thậm chí thù nghịch với Kitô giáo, cho thấy cần phải cung cấp những chương trình triệt để huấn luyện về giáo lý cho giới trẻ cũng như giới già. Cộng đồng giáo hội có trách nhiệm bảo đảm là các phần tử của mình được đón tiếp vào “một môi trường họ có thể sống trọn vẹn bao nhiêu có thể những gì họ đã học được” (Sách Giáo Lý Công Đồng Triđentinô, số 24). Dạy giáo lý là công việc của toàn thể cộng đồng đức tin và là việc nối dài thừa tác vụ giảng lời Chúa được ủy thác cho vị Giám Mục và hàng giáo sĩ. Nó là một trách nhiệm của giáo hội đòi phải được huấn luyện đầy đủ về tín lý và sư phạm. Tôi xin Quí Huynh hãy hết mình nâng đỡ những ai sẵn lòng chấp nhận cái khó khăn và công việc gian nan để cung cấp dịch vụ thiết yếu được cả Giáo Hội biết ơn này.

4. Có những lúc Hội Đồng Giám Mục của Quí Huynh nhìn nhận rằng việc truyền bá phúc âm hóa đi liền với việc hội nhập văn hóa một cách sâu xa, từ từ và chính xác. Chân lý của Phúc Âm bao giờ cũng phải được loan báo bằng một đường lối thu phục và hợp thời. Đây là vấn đề đặc biệt quan trọng trong một xã hội phức tạp như xã hội của Quí Huynh, nơi mà ở một số miền và ở một số nhóm, Công Giáo có những lúc được đặt thành vấn đề. Công việc tế nhị của Quí Huynh là trông coi để làm sao Phúc Âm vẫn giữ được ý nghĩa sâu xa của mình, hiệu lực đối với toàn dân và các thứ văn hóa, trong khi đó lại truyền đạt mình ra ở chỗ chú trọng tới những giá trị truyền thống và gia đình. Như Tôi đã nói trong chuyến Tông Du Mục Vụ của mình ở Nam Dương năm 1989, “mẫu gương của Chúa Kitô và quyền lực của Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người thẩm thấu, thanh tẩy và thăng hóa tất cả mọi văn hóa và từng văn hóa” (Homily at Yogyakarta, 10 October 1989).

Việc hội nhập văn hóa thành đạt lệ thuộc vào các đôi phối ngẫu cũng như các gia đình là thành phần làm hiện thực nhãn quan Kitô Giáo về ơn gọi và trách nhiệm của họ. Bởi thế, Tôi xin Quí Huynh hãy tiếp tục cổ võ những giá trị truyền thống về gia đình rất gắn liền với văn hóa Á Châu (x Tông Huấn Giáo Hội Tại Á Châu, số 6), bằng cách làm cho những giá trị ấy thấm nhập với một sức sống mới phát xuất từ Phúc Âm. Không được coi thường những quan tâm nghiêm trọng về những mối đe dọa mỗi ngày một hơn đối với đời sống gia đình đã được Quí Huynh lên tiếng ở nhiều dịp. Một “mưu đồ chống lại sự sống” (x Thông Điệp Evangelium Vitae, số 17) và gia đình thực sự đang xuất hiện qua nhiều hình thức, như phá thai, yếm thế tính dục, khiêu dâm, nghiện hút và những áp lực buộc phải chấp nhận những phương pháp kiểm soát dân số không thể chấp nhận về phương diện luân lý. Không kể đến những khó khăn liên quan đến việc đương đầu với những khuynh hướng này nơi một xã hội không phải Kitô Giáo, Quí Huynh, với tư cách là những vị Giám Mục, là “những người đầu tiên được kêu gọi làm bậc thày hăng say giảng dạy Phúc Âm sự sống” (ibid, số 82). Ở mọi thời đại, tiếng nói ngôn sứ của Giáo Hội phải vang lên những gì cần phải tôn trọng và cổ võ lề luật thần linh đã được ghi khắc nơi hết mọi con tim (x Rm 2:15). Bằng việc lắng nghe, đối thoại và nhận thức, các vị Giám Mục phải giúp đỡ đàn chiên của mình sống Phúc Âm ở chỗ hoàn toàn hợp với kho tàng đức tin và những mối hiệp thông giáo hội (x Thông Điệp Redemptoris Missio, số 54).

5. Như một số trong Quí Huynh đã đề cập tới là Giáo Hội ở Nam Dương là một Giáo Hội sống động và chịu khổ với dân, bằng việc đương đầu với những thách đố xẩy ra từ việc liên hệ hằng ngày với một xã hội không phải Kitô giáo. Giáo Hội này là một cộng đồng tìm cách phát triển toàn vẹn con người trong bối cảnh hòa hợp và dung chấp tôn giáo, ở chỗ cống hiến và nhận lãnh trong một môi trường văn hóa phức tạp. Ở xứ sở của Quí Huynh đã đạt tới một mức độ đáng khen trong vấn đề đối thoại liên tôn trên bình diện cơ cấu. Việc trao đổi với nhau về các cảm nghiệm tôn giáo đã được thể hiện cụ thể nơi các dự án bác ái từ thiện cũng như nơi việc hợp tác đã được thực hiện, nhất là sau những vụ thiên tai. Ngay cả ở những miền hầu hết Hồi Giáo, Giáo Hội này cũng có mặt một cách sinh động nơi những nhà bảo anh, nơi các y viện và các cơ quan dấn thân phục vụ thành phần bị đàn áp. Đó là một thể hiện tuyệt vời nói lên bản chất vô biên của tình yêu Chúa Kitô; một tình yêu không phải chỉ giành cho một số ít mà là cho tất cả mọi người.

Đến đây, Tôi muốn bảo đảm với Quí Huynh về mối quan tâm sâu xa của Tôi đối với nhân dân Nam Dương quí mến ở vào lúc cả cộng đồng thế giới đang căng thẳng đến cao độ này. Chiến tranh không bao giờ được phép chia rẽ các tôn giáo trên thế giới. Tôi xin Quí Huynh hãy lợi dụng thời điểm bất ổn này như một cơ hội để cùng nhau, như những người anh em dấn thân cho hòa bình, hoạt động với nhân dân của Quí Huynh, với những ai thuộc các niềm tin tôn giáo khác cũng như với tất cả mọi con người nam nữ thiện tâm, hầu bảo toàn sự hiểu biết, cộng tác và kết đoàn. Chúng ta đừng để cho thảm trạng của con người trở thành một tai họa cho tôn giáo (cf. Address to the Interreligious Delegation from Indonesia, 20 February 2003).

Tôi cũng quá biết là một số nơi thuộc cộng đồng Kitô hữu ở xứ sở của Quí Huynh đã phải chịu đựng bởi tình trạng kỳ thị và thành kiến, trong khi đó một số nơi khác đã trở thành nạn nhân của những hành động phá hoại và tàn phá. Ở một số miền cộng đồng Kitô hữu đã bị từ chối không được phép xây cất những nơi thờ phượng và nguyện cầu. Nam Dương cùng với cộng đồng quốc tế vừa mới bàng hoàng trước việc thiệt mạng kinh hoàng bởi cuộc ném bom khủng bố ở Bali. Tuy nhiên, trong tất cả mọi trường hợp như thế bởi những hành động của một thiếu số quá khích, người ta phải thận trọng không được chiều theo khuynh hướng vơ đũa cả nắm đối với các nhóm dân chúng chỉ vì hành động của một thiểu số quá khích. Tôn giáo đích thực không bênh vực khủng bố hay bạo lực, song tìm hết cách cổ võ mối hiệp nhất và an bình cho toàn thể gia đình nhân loại.

6. Vì Kitô hữu tạo nên một thiểu số rất nhỏ ở xứ sở của Quí Huynh mà họ được đặc biệt gọi là “men trong đấu bột” (Mt 13:33). Bất chấp khốn khó và hy sinh, thành phần linh mục và tu sĩ của Quí Huynh vẫn tiếp tục làm chứng hằng ngày cho Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô, mang nhiều người trở về với Phúc Âm. Vì “Giáo Hội tại Á Châu thấy mình ở giữa thành phần bày tỏ lòng khát khao Thiên Chúa” (Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu, đoạn 9), mà Quí Huynh đã gặp khó khăn trong việc tìm những đường lối cụ thể để đáp ứng nhu cầu này. Thật vậy, nỗ lực của Quí Huynh trong việc cổ võ ơn kêu gọi linh mục và tu sĩ cho thấy Quí Huynh ý thức được nhiệm vụ này. Tôi xin Quí Huynh hãy kiên trì bảo tồn mức độ cao trong việc giáo dục và huấn luyện tại các chủng viện cũng như tại các nhà dòng. Việc quan tâm và chú ý nơi vấn đề tuyển chọn và huấn luyện các dự sinh linh mục và tu sĩ lúc nào cũng phải làm sao có thể mang lại lợi ích cho Giáo Hội địa phương…

Vì việc huấn luyện và phát triển thiêng liêng này là những tiến trình suốt đời, mà các vị Giám Mục có nhiệm vụ thiết yếu trong việc hỗ trợ linh mục của mình, bằng việc sẵn sàng cung cấp cho họ các chương trình huấn luyện liên tục, những cuộc cấm phòng và thời gian cầu nguyện và chia sẻ. Một yếu tố quan trọng trong việc huấn luyện này, cả ở giai đoạn khởi đầu và liên tục, đó là việc huấn luyện đầy đủ về thần học cũng như về đời sống thiêng liêng phụng vụ…..

7……….

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, trích dịc theo tài liệu của Tòa Thánh do Zenit phổ biến ngày 30/3/2003

 

“Ở những miền đất đã được phúc âm hóa nhiều thế kỷ trước đây và đã ăn rễ sâu vào Kitô Giáo, không còn cái thực tại của một ‘xã hội Kitô Giáo’ nữa… (cần phải được) tân truyền bá phúc âm hóa (bằng) sự thánh thiện”

ĐTC Gioan Phaolô II với Các ĐGM Tô Cách Lan dịp viếng thăm ngũ niên 4/3/2003

Quí Huynh Giám Mục thân mến,

1. “Chúc anh em ân sủng và bình an của Thiên Chúa là Cha chúng ta và của Chúa Giêsu Kitô” (Rm 1:7)…

2. Những bản tường trình Quí Huynh mang đến từ các Giáo Phận khác nhau chứng thực cho thấy những tình trạng mới mẻ và khẩn thiết liên quan đến những thách đố về mục vụ đối với Giáo Hội ngày nay. Thật vậy, chúng ta có thể nhận thấy điều này ở Tô Cách Lan, cũng như ở những miền đất đã được phúc âm hóa nhiều thế kỷ trước đây và đã ăn rễ sâu vào Kitô Giáo, không còn cái thực tại của một “xã hội Kitô Giáo” nữa, tức là, một xã hội mà, bất chấp những yếu hèn và sa ngã của con người, lấy Phúc Âm làm thước đo duy nhất cho đời sống cũng như cho các giá trị. Trái lại, nền văn minh tân tiến, mặc dù có nhiều phát triển về kỹ thuật, lại thường bị ngăn chặn việc phát triển chiều sâu của nó bởi khuynh hướng loại trừ Thiên Chúa hay đẩy Ngài ra xa. Đó là những gì Tôi đã đề cập tới trong Tông Thư “Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến” như là một “cuộc khủng hoảng văn minh”, một cuộc khủng hoảng phải được đối đầu bằng “văn minh yêu thương là thứ văn minh được đặt nền tảng trên những giá trị phổ quát về hòa bình, về tình đoàn kết, về công lý và về tự do là những gì đạt đến tầm mức trọn vẹn của mình nơi Chúa Kitô” (số 52). Việc tân truyền bá phúc âm hóa mà Tôi đã kêu gọi toàn thể Giáo Hội (x Tông Thư Mở Màn Cho Ngàn Năm Mới số 40) có thể chứng tỏ cho thấy mình là một khí cụ hiệu nghiệm đặc biệt giúp vào việc mở đường dẫn lối tiến vào nền văn minh yêu thương này.

Dĩ nhiên, việc tân truyền bá phúc âm hóa này, cũng như tất cả mọi cuộc truyền bá phúc âm hóa chân thực của Kitô Giáo, cần phải được đánh dấu bằng niềm hy vọng. Vì chính niềm hy vọng Kitô Giáo đã duy trì việc loan báo chân lý giải phóng của Chúa Kitô, đã làm dậy men các cộng đồng đức tin và đã làm thăng hóa xã hội bằng những giá trị của Phúc Âm sự sống, một Phúc Âm bao giờ cũng bảo hộ phẩm vị con người và tô bồi cho công ích. Như thế, chính đời sống Kitô hữu được tái sinh động và những việc mục vụ lại càng dễ hướng về cùng đích chân thật duy nhất của mình là sự thánh thiện. Thật vậy, thánh thiện là khía cạnh nội tại và chính yếu của Giáo Hội, ở chỗ, nhờ thánh thiện mà cả cá nhân cũng như các cộng đồng được nên giống Chúa Kitô. Bởi phép rửa, người tín hữu đã được hiệp thông với sự thánh thiện của chính Thiên Chúa, khi được tháp nhập vào Chúa Kitô và trở nên nơi cư trú của Thần Linh Ngài. Thế nên, thánh thiện là một tặng ân, nhưng lại là một tặng ân biến thành một việc làm, một nhiệm vụ “cần phải là hình thành toàn thể cuộc sống Kitô hữu” (Tông Thư Mở Màn Tân Thiên Kỷ, đoạn 30). Nó là dấu hiệu chứng tỏ cho thấy môn đệ tính chân thực của Kitô hữu, có thể đạt được bởi tất cả những ai thực sự muốn hết lòng, hết trí khôn và hết linh hồn theo Chúa Giêsu (x Mt 22:37).

3. Quan niệm về sự thánh thiện không được cho là một cái gì đó ngoại thường, một cái gì đó ở bên ngoài giới hạn của cuộc sống hằng ngày. Vì Thiên Chúa đã kêu gọi dân của Ngài sống đời sống thánh thiện trong những hoàn cảnh bình thường của họ ở gia đình, trong giáo xứ, nơi làm việc, tại trường học, trên sân chơi. Có nhiều thứ trong xã hội, đôi khi có ý, lôi kéo con người xa khỏi cái khó khăn mà thực ra lại sâu xa làm thỏa nguyện ước vọng tìm kiếm sự thánh thiện. Là những vị mục tử của các linh hồn, Quí Huynh không bao giờ được cảm thấy chán nản trong nỗ lực hướng dẫn cả đời sống Kitô hữu cũng như toàn thể cộng đồng Kitô hữu tiến xa hơn trên con đường thánh thiện. Bởi thế, mối quan tâm mục vụ chính yếu của Quí Huynh là việc đào luyện cho tất cả mọi đàn chiên của mình sống thánh thiện một cách thực tế và hân hoan, theo một thứ linh đạo lành mạnh hợp với thần học (x. Congregation for the Clergy, Instruction The Priest, Pastor and Leader of the Parish Community, 28). Nó đòi hỏi tất cả mọi phần vụ trong sinh hoạt giáo phận phải dấn thân tham dự. Việc làm của các vị linh mục, phó tế, Tu Sĩ và giáo dân ở giáo xứ cũng như học đường, ở các ngành chăm sóc sức khỏe và dịch vụ xã hội, đều góp phần một cách vô giá vào việc đạt tới cuộc sống thánh thiện mà tất cả mọi tín hữu được kêu gọi theo đuổi. Nó có thể cho thấy lợi ích đặc biệt đạt được nơi việc tích cực dấn thân của các cộng đồng đan viện cũng như các cộng đồng Sống Đời Tận Hiến khác trong phạm vi xứng hợp với đặc sủng và hoạt động tông đồ riêng của họ, nhất là nơi những dự án nhắm đến việc huấn luyện giới trẻ ở học đường thánh thiện.

4. Một khía cạnh quan trọng của việc tân truyền bá phúc âm hóa này là nhu cầu cần phải cảm thấy truyền bá phúc âm hóa văn hóa. Các thứ văn hóa của loài người tự chúng không cố định mà là đổi thay liên lỉ qua những liên lạc của dân chúng đối với nhau, cũng như qua những cảm nghiệm mới mẻ họ chia sẻ cho nhau. Việc truyền đạt các thứ giá trị là những gì làm cho một thứ văn hóa có thể tồn tại và phát triển. Môi trường văn hóa tự chúng thấm nhập vào cuộc sống theo đức tin Kitô giáo, một cuộc sống trái lại góp phần vào việc hình thành cái môi trường văn hóa này. Bởi thế, Kitô hữu được kêu gọi mang chân lý bất biến của Thiên Chúa đến cho hết mọi thứ văn hóa. Và vì “cộng đồng của thành phần đã lãnh nhận phép rửa được đánh dấu bằng một tính cách đại đồng có thể bao gồm hết mọi sự” mà tín hữu cần phải được giúp cho biết nuôi dưỡng những gì nội tại nơi các thứ văn hóa, “cho đến độ nó hoàn toàn được hiện lộ trong ánh sáng của chân lý” (Thông Điệp Đức Tin Và Lý Trí, đoạn 71).

Ở những xã hội mà đức tin và tôn giáo được coi như là một cái gì đó cần phải giới hạn trong phạm vi tư riêng, từ đó không có chỗ đứng trong cuộc công luận hay chính luận thì lại càng quan trọng hơn nữa trong việc hiểu biết rõ ràng bản chất của sứ điệp Kitô giáo, đó là một thứ Tin Mừng chân lý và yêu thương giải phóng con người nam nữ. Khi những nền tảng của một thứ văn hóa đặc biệt nào đó căn cứ vào Kitô Giáo thì tiếng nói của Kitô Giáo không thể nào lại có thể im hơi lặng tiếng mà không làm cho thứ văn hóa đó trở thành hết sức tầm thường. Ngoài ra, nếu văn hóa là môi trường làm cho cá nhân biến đổi chính mình thì việc loại trừ Đấng Tuyệt Đối ra khỏi thứ văn hóa này, hay cho Vị ấy ra rìa như thể lỗi thời, thì sẽ đi đến chỗ thực tại bị phân mảnh nguy hiểm và gây ra những cuộc khủng hoảng, khi văn hóa không còn có thể làm cho thế hệ trẻ thấy được mạch nguồn của nghĩa lý cũng như của khôn ngoan chúng hết sức tìm kiếm. Đó là lý do Kitô hữu cần phải hiệp nhất trong việc đối thoại với xã hội, ở chỗ, bằng một tinh thần thực sự của việc hợp tác đại kết, với việc Qúi Huynh chủ động tham phần, thành phần môn đệ của Chúa Kitô không bao giờ thôi làm cho của giáo huấn Chúa Kitô về phẩm vị con người sáng tỏ nơi tất cả mọi lãnh vực của cuộc sống chung riêng.

Đó là thứ ánh sáng của chân lý đánh tan tăm tối của những lợi lộc vị kỷ cũng như của tình trạng băng hoại xã hội, thứ ánh sáng soi chiếu con đường phát triển kinh tế chân chính cho tất cả mọi người. Kitô hữu không lẻ loi trong việc làm cho ánh sáng này chiếu soi rạng ngời hơn trong xã hội. Cùng với con người nam nữ của các niềm tin tôn giáo khác, cũng như với thành phần thành tâm thiện chí cùng họ chia sẻ những giá trị và nguyên tắc chung, các cộng đồng Kitô hữu của Quí Huynh được kêu gọi hoạt động cho sự tiến bộ của xã hội cũng như cho việc chung sống hòa bình của các dân tộc và của các thứ văn hóa. Như thế, việc dấn thân và sát cánh liên tôn cũng là một động năng quan trọng trong việc phục vụ gia đình nhân loại. Thật vậy, một khi ánh sáng của chân lý không chiếu soi nơi công luận thì lầm lỗi và lầm tưởng dễ dàng lan tràn và thường đi đến chỗ chi phối các quyết định chính trị. Tình trạng này càng nguy hiểm hơn nữa khi những kẻ đã đánh mất hay loại trừ niềm tin tưởng vào Thiên Chúa ra tay tấn công tôn giáo, làm phát sinh một tình trạng mới về phe phái xẩy ra đớn đau thê thảm, càng gây thêm tính cách chia rẽ trong xã hội.

5. Trong công việc truyền bá phúc âm hóa, có lẽ không có nhóm nào Quí Huynh cần phải lưu ý hơn và tỏ ra quan tâm hơn là giới trẻ. Họ là thế hệ dựng xây mới trong việc đáp ứng khát vọng của nhân loại đối với một thứ văn minh yêu thương được đánh dấu bằng tự do chân thực và hòa bình chuyên chính. Ở Ngày Giới Trẻ Thế Giới năm ngoái tại Torontô, Tôi đã tin tưởng trao phó chính nhiệm vụ này cho họ, và Tôi khuyến khích Quí Huynh hãy làm như vậy, hãy trợ giúp họ bao nhiêu có thể để họ đương đầu với thách đố ấy. Theo các bản tường trình của Quí Huynh, Tôi hân hoan thấy rằng giới trẻ Tô Cách Lan đang tỏ ra nhiệt tình với đức tin của họ cũng như đang mong muốn hơn nữa trong việc gặp gỡ và làm việc với Quí Huynh là các Vị Giám Mục của họ. Giáo Hội, với tư cách “mater et magistra” là mẹ và là thày, phải hướng dẫn họ tiến đến chỗ hiểu biết và cảm nghiệm hoàn toàn hơn trong niềm tin vào Chúa Giêsu Nazarét: vì chỉ có một mình Chúa Giêsu mới là đá tảng và là nền tảng vững vàng cho đời sống của họ; chỉ có một mình Người mới làm cho họ có thể hoàn toàn thấu triệt được “mầu nhiệm” của đời sống họ (x Thông Điệp Đức Tin và Lý Trí, đoạn 15).

Các thứ lực lượng dũng mạnh của truyền thông đại chúng cùng với ngành kỹ nghệ giải trí hầu hết nhắm đến giới trẻ, thành phần cảm thấy mình trở thành mục tiêu cho các ý hệ tranh đoạt đang muốn khuôn đúc và chi phối các thái độ và tác hành của họ. Tình trạng lầm lẫn xẩy ra khi giới trẻ bị bủa vây bởi trào lưu luân lý tương đối và tình trạng dửng dưng đạo lý. Làm sao họ có thể tiến đến chỗ nắm được vấn đề sự thật cùng với những đòi hỏi cần phải nhất trí nơi hành vi cử chỉ về luân lý, khi mà nền văn hóa tân tiến dạy cho chúng sống như thể chẳng có một giá trị tuyệt đối nào, hay xui họ bằng lòng với một thứ tôn giáo tính mơ hồ vậy thôi? Việc lan tràn của tình trạng mất đi cái cảm quan siêu việt của đời sống con người dẫn đến tình trạng thảm hại về đời sống luân lý và xã hội. Quí Huynh thân mến, công việc của Quí Huynh là chứng tỏ cho những con người nam nữ đương thời, cũng như cho thế hệ trẻ, thấy tính cách hết sức hợp thời của Chúa Giêsu Kitô và Phúc Âm của Người, vì chính ở nơi đây mà các ước vọng và nhu cầu sâu xa nhất của nhân loại được nên trọn. Cần phải tái rao giảng sứ điệp cứu độ của Chúa Giêsu Kitô với tất cả tính cách mới mẻ và quyền năng của sứ điệp này, để sứ điệp ấy được hoàn toàn cảm nghiệm và nếm hưởng!

6. Nói đến vấn đề tân truyền bá phúc âm hóa, chúng ta không nói đến một “thứ chương trình mới” mà là lập lại một lần nữa tiếng gọi của Phúc Âm như đã được thể hiện nơi Truyền Thống sống động của Giáo Hội. Tuy nhiên, việc tái sinh động đời sống Kitô hữu thực sự cần phải có những hoạt động mục vụ thích ứng với các hoàn cảnh thực tế của mỗi một cộng đồng, những việc mục vụ được thực hiện bằng đối thoại và được hình thành bởi sự tham dự của các phần vụ khác nhau của dân thánh Chúa. Những nỗ lực liên hợp của các Vị Giám Mục, linh mục, phó tế, Tu Sĩ và giáo dân là những gì thiết yếu để nói lên những vấn đề cần phải hết sức quan tâm chẳng những đối với Giáo Hội mà còn đối với toàn thể xã hội Tô Cách Lan nữa. Đời sống hôn nhân và gia đình là tiêu biểu cho lãnh vực của việc hợp tác chẳng những nên làm mà còn cần thiết ấy: về vấn đề này Tôi hân hoan biết được sẽ có một cuộc họp của các Vị Giám Mục Tô Cách Lan với các cơ quan liên quan đến các lãnh vực này. Một vấn đề khác đã được tất cả mọi tín hữu hợp lực sẽ chứng tỏ cho thấy đặc biệt có giá trị trong việc các cộng đồng của Quí Huynh tỏ ra đón tiếp những người tị nạn và những ai lánh nạn, nhất là qua những chương trình nhắm đến việc trợ giúp, giáo dục và hội nhập xã hội. Cũng thế, tiến trình tham vấn và phác họa đã được Quí Huynh bắt đầu liên quan tới vấn đề của các chủng viện ở Tô Cách Lan đã cho thấy tầm quan trọng của một đường lối hợp tác trong việc đương đầu với những vấn đề trầm trọng liên quan tới Giáo Hội ở tầm cấp quốc gia, giáo phận hay địa phương.

7. Vấn đề đào luyện linh mục dĩ nhiên vẫn là một trong những ưu tiên nhất của Quí Huynh. Các dự sinh làm linh mục cần phải được đi sâu vào mối liên hệ hiệp thông và thân tình sâu xa với Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành (x. Tông Huấn "Pastores Dabo Vobis," 42). Thiếu mối liên hệ tư riêng này, nhờ đó chúng ta “lòng kề lòng nói chuyện với Chúa” (Instruction The Priest, Pastor and Leader of the Parish Community, 27), thì niềm khát khao theo đuổi sự thánh thiện là những gì làm cho vai trò linh mục trở thành một đời sống thân mật với Thiên Chúa bị vắng bóng và làm suy yếu chẳng những cá nhân linh mục mà cả cộng đồng nữa. Ngày nay, hơn bao giờ hết, Giáo Hội cần những vị linh mục thánh thiện thực hiện việc hoán cải hằng ngày gây tác động nơi những người khác ước muốn tìm kiếm sự thánh thiện là những gì toàn thể Dân Chúa được kêu gọi theo đuổi thực hiện (x Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân, đoạn 39). Bởi thế, nhưng con người được huấn luyện làm linh mục, trong lúc họ sửa soạn để trở thành khí cụ và là môn đệ của Chúa Kitô linh mục đời đời, cần phải hết sức hỗ trợ trong việc nỗ lực sống một cuộc đời thực sự nghèo khó, thanh tịnh và khiêm tốn theo gương Chúa Kitô, Thượng Tế Đời Đời là Đấng họ trở thành hình ảnh sống động (Tông Huấn "Pastores Dabo Vobis," 33).

Cũng trong lãnh vực này, chúng ta có thể thấy được rằng việc thường xuyên đào luyện cho hàng giáo sĩ cần được coi như là một phần hoàn toàn của đời sống linh mục. Trong Tông Huấn Hậu Thượng Hội Giám Mục “Pastores Dabo Vobis”, Tôi đã dẫn giải và nói thêm về vấn đề huấn luyện hậu chủng viện của Công Đồng Chung Vaticanô II (x Sắc Lệnh về Linh Mục “Optatam Totius”, 22). Không cần phải lập lại tất cả những gì đã được đề cập tới ở bản văn kiện này, Tôi chỉ muốn nhấn mạnh đến vấn đề là “việc tiếp tục đào luyện linh mục, dù thuộc giáo phận hay dòng tu, là một vấn đề tiếp tục hết sức cần thiết của tiến trình làm nên cá vị linh mục” (số 71). Tôi thiết tha xin Quí Huynh hãy luôn luôn coi các linh mục của mình như “là con cái và bạn hữu” (Sắc Lệnh về Giám Mục “Christus Dominus”, đoạn 16), và hãy lưu tâm đến phúc hạnh thuộc đời sống linh mục của họ ở những khía cạnh nhân bản, thiêng liêng, tri thức và mục vụ, ở chỗ, hãy gần gũi họ, lắng nghe họ và khích lệ tình huynh đệ và thân hữu giữa họ với nhau.

8.    Quí Huynh thân mến, đây là một vài tư tưởng nhắc nhở Quí Huynh dịp Qúi Huynh viếng thăm một của Hai Vị Tông Đồ…….. Trong năm Mân Côi này, Tôi ký thác Quí Huynh cho Mẹ Maria, “Ngôi Sao Truyền Bá Phúc Âm Hóa”, để Mẹ giúp Quí Huynh được khôn ngoan về mục vụ, kiên cường Quí Huynh mạnh mẽ và thắp lên trong Quí Huynh tình yêu thương và lòng thương cảm. Tôi thân ái ban Phép Lành Tòa Thánh của Tôi cho Quí Huynh và các linh mục, phó tế, Tu Sĩ, và giáo dân trong các Giáo Phận của Quí Huynh.
 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, trích dịch theo tài liệu do Zenit phổ biến ngày 4/3/2003

 

 

Diễn Từ của Đức Thánh Cha với Các Vị Giám Mục Ba Tây thuộc Miền Nam Vùng 1

Sáng ngày Thứ Năm 23/1/2003, ĐTC đã gặp các vị giám mục này dịp Viếng Thăm Ngũ Niên của các vị. Ngài đã bố cục bài nói của Ngài vào ít là bốn vấn đề thực tế hiện tại cần Giáo Hội Ba Tây phải để ý, như vấn đề giáo phái, vấn đề truyền bá phúc âm hóa, vấn đề hội nhập văn hóa và vấn đề phụng vụ.

Trước hết, ĐTC nhận định là dân chúng Ba tây “theo truyền thống đã gắn liền với những nguyên tắc chính yếu của Kitô giáo nhưng đã đầu hàng trước những ảnh hưởng tiêu cực dưới những hình thức khác nhau”, kể cả nạn giáo phái đang lan tràn khắp xứ sở và đang hoành hành mạnh mẽ ở một số vùng. Ngài đã đặt vấn đề như sau: “Đây chẳng lẽ không phải là một dấu hiệu cụ thể cho thấy lòng khát vọng khôn thỏa hướng về chiều kích siêu nhiên hay sao?”. Nhưng dầu sao, theo ĐTC, đó là “một thách đố thực sự” đối với các vị mục tử, những vị cần phải “canh tân cung cách tiếp nhận trong những cộng đồng giáo hội và cũng như làm tái sinh động lòng phấn khởi thực hiện việc hăng say tươi trẻ truyền bá phúc âm hóa”. ĐTC thêm: “Việc huấn luyện về đạo giáo nhiều lần đã rất thiếu gây ra hậu quả hờ hững với nhu cầu đức tin vào Chúa Kitô và gắn bó với Giáo Hội Người đã thiết lập. Có khuynh hướng chủ trương các tôn giáo cũng như các cảm nghiệm thiêng liêng khác nhau đều bình đẳng với nhau theo một mẫu số chung, nên chúng hầu như tương đương nhau, khiến mọi người cảm thấy mình thoải mái một cách bất phân biệt trong việc theo đuổi một trong những đường lối cứu độ được đề ra”.

ĐTC nhắc đến Đại Hội Thánh Thể Toàn Quốc lần thứ 14 được tổ chức ở Ba Tây và nhấn mạnh đến tầm vóc quan trọng của Thánh Thể trong đời sống Kitô hữu: “Thánh thể là sự thiện thiêng liêng thượng hạng của Giáo Hội, và phải là tâm điểm của việc mục vụ để truyền đạt sức mạnh siêu nhiên cho tất cả mọi lãnh vực Kitô giáo, như lãnh vực truyền bá phúc âm hóa, lãnh vực dạy giáo lý, và lãnh vực của muôn vàn sinh hoạt bác ái, dấn thân cho việc canh tân xã hội và cho việc tranh đấu công lý cho mọi người, bắt đầu bằngỉ việc tôn trọng sự sống cùng các quyền lợi của mỗi người và bằng việc dấn thân phục vụ các gia đình”. Tuy nhiên, Ngài nhấn mạnh thêm là “để hy tế Thánh Thể sinh trọn vẹn hiệu quả của mình, bao giờ cũng phải cử hành mầu nhiệm này một cách xứng đáng và chân chính, theo đúng tín lý và chỉ dẫn của Giáo Hội, như Tôi đã nhắc nhở ở những dịp khác nhau… Bất cứ sự lạm dụng nào trong những yếu tố ấy (việc công bố Lời Chúa, các kinh nguyện, lễ nghi và tất cả mọi biểu hiệu của Giáo Hội) đều có một tác hiệu tiêu cực đối với việc giáo dục đức tin”, trái lại, nếu cử hành phụng vụ một cách đúng dắn và chân chính sẽ “xây dựng đức tin và đời sống của người tín hữu”. ĐTC còn nêu lên vấn đề “phụng vụ chỉ được qui định bởi những thẩm quyền xứng hợp mà thôi, những gì đòi mọi người phải hết sức kính cẩn trung thành giữ những lễ nghi và bản văn nguyên chính. Việc áp dụng sai lạc về giá trị do óc sáng tạo và bột phát tự nhiên trong các việc cử hành mà ra, cho dù việc áp dụng này có thông dụng với nhiều việc bộc lộ nơi đời sống dân chúng của quí huynh, cũng không bao giờ được làm thay đổi các lễ nghi và bản văn, nhất là, thay đổi cái cảm nghiệm về mầu nhiệm được cử hành trong phụng vụ”.

Đức Thánh Cha công nhận là Ba Tây là một xã hội đa chủng tộc, đa văn hóa và mỗi một sắc dân có một thứ văn hóa riêng, chính vì thế mới liên quan “đến vấn đề tế nhị của việc hội nhập văn hóa, nhất là vào các lễ nghi phụng vụ, ngôn từ, ca nhạc và những bộc lộ bề ngoài phù hợp với văn hóa afro-Brazilian”. Tuy nhiên, cần phải “áp dụng nghiêm khắc cái ý thức nghiêm chỉnh và sâu xa liên quan đến tính cách thích hợp của nó với Sự Thật được Chúa Giêsu Kitô mạc khải”. Phụng vụ Công Giáo chân chính không được thay hình đổi dạng hay không được lẫn lộn với “đền miếu thần linh và những thần linh của các thứ cúng tế Phi Châu… Giáo Hội để ý đến những thứ cúng tế này nhưng cho là có hại ở cái tính cách tương đối hóa thực sự của việc thi hành chung cả hai lễ nghi hay của một thứ lễ nghi hỗn hợp, như thể hai thứ lễ nghi ấy có cùng một giá trị, và Giáo Hội cũng coi nó nguy hiểm cho cả căn tính của đức tin Công Giáo”.