VỚI CÁC VỊ LINH MỤC

 

2004

 

Tháng Thánh Tâm 2004 ÐTC muốn có một ngày cầu nguyện đặc biệt cho các linh mục

Trong tháng Thánh Tâm 6/2004 này, ĐTC đã chỉ định dùng ngày 18/6 Lễ Thánh Tâm Chúa là Ngày Cầu Nguyện Cho Việc Thánh Hóa Các Linh Mục.

Trung tâm của việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa là ở Paray-le-Monial, một làng nhỏ ở Burgundy nơi Thánh Nữ Margaret Mary Alacoque (1647-1690) đã sống. Thánh nữ là một chị dòng Thăm Viếng đã được Chúa Giêsu hiện ra vào lần đầu tiên ngày 27/12/1673, và sứ điệp Người nhắn gửi chị là hình ảnh một vị Thiên Chúa hoàn toàn khác với khuynh hướng và chủ trương của bè rối Jansenist bấy giờ, một bè rối phát xuất từ thần học gia kiêm giám mục Cornelius Jansen/Jansenius (1585-1638), một bè rối chủ trương hai điều đặc biệt, đó là không có vấn đề siêu nhiên và không có vấn đề Chúa Tình Thương gì cả.

Chúa Giêsu đã nói với chị thánh nữ này rằng: “Trái Tim Thần Linh của Cha thiết tha yêu thương con người, đặc biệt là con, đến nỗi chất chứa nơi mình những ngọn lửa nồng nàn yêu mến, cần phải được lan tràn qua con”.

ĐTC GPII đã đến viếng thăm Paray-le-Monial ngày 5/10/1986. Những cuộc tĩnh tâm do các linh mục thuộc Cộng Đồng Thiên Chúa Ở Giữa Chúng ta, một thực thể mới của giáo hội bắt nguồn từ tổ chức Canh Tân Đặc Sủng Công Giáo. Qua một số năm, cộng đồng này đã tổ chức những khóa tĩnh tâm mùa hè cho giới trẻ và các gia đình. Có khoảng 20 ngàn người tham dự. Những cuộc tĩnh tâm này được đồng thời chuyển dịch sang 15 thứ tiếng khác nhau, kể cả tiếng Nhật Bản và Trung Hoa.

“Chúa Giêsu bao giờ cũng phải là tâm điểm của đời sống anh em”

Bài giảng Lễ Truyền Chức cho 26 tân linh mục trong Chúa Nhật Chúa Chiên Lành

Theo ý nghĩa của bài Phúc Âm, Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh được gọi là Chúa Nhật Lễ Kính Chúa Tình Thương, Chúa Nhật Thứ Tư Mùa Phục Sinh cũng thế, cũng được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, thời điểm thường được Giáo Hội sử dụng để truyền chức linh mục. Năm nay Chúa Nhật này rơi vào ngày 2/5/2004, ĐTC GPII đã truyền chức 26 tân linh mục tại Đền Thờ Thánh Phêrô. Sau đây là bài giảng của Ngài:

1.     “Vị Mục Tử Nhân Lành đã sống lại, Đấng đã ban sự sống của mình cho chiên… Alleluia” (Ca Hiệp Lễ).

Hôm nay, phụng vụ mời gọi chúng ta hãy gắn mắt nhìn lên Chúa Kitô, Vị Mục Tử Nhân Lành. “Agnus redemit oves”, Bài Ca Tiếp Liên Lễ Phục Sinh đã xướng lên rằng: “Con Chiên đã cứu chuộc đàn chiên của mình”. Người Con duy nhất của Chúa Cha, Vị Mục Tử của nhân loại là Đấng chết trên cây thập giá đã phục sinh vào ngày thứ ba.

Đó là Tin Mừng được các Vị Tông Đồ loan báo cho tất cả mọi dân tộc, khởi đầu từ Giêrusalem, theo thúc động của Thánh Thần (x Lk 24:47-49). Đây là một lời rao giảng vui mừng tiếp tục âm vang vào đầu thiên niên kỷ thứ ba này. Bắt nguồn từ cái nhìn đầy cảm thương của Chúa Kitô, Vị Mục Từ Nhân Lành phục sinh đã phát xuất nơi Giáo Hội tặng ân và mầu nhiệm ơn gọi thừa tác vụ mục tử.

2.     Các vị phó tế thân mến, những người một chút nữa đây sẽ được truyền chức linh mục, từ tặng ân yêu thương này mới có ơn gọi làm linh mục của anh em. Tôi ưu ái tiếp nhận anh em và chào mừng từng người trong anh em…. (ĐTC cũng chào ban giáo sự và gia đình của các vị phó tế sắp được lãnh chức linh mục ấy)

3.     Anh em trở thành những vị linh mục vào lúc mà, cả ở Rôma đây nữa, những chiều hướng văn hóa mãnh liệt dường như đang muốn làm cho con người quên đi Thiên Chúa, nhất là nơi thành phần giới trẻ cũng như nơi các gia đình. Thế nhưng, anh em đừng sợ: Thiên Chúa luôn luôn ở với anh em! Với ơn trợ giúp của Ngài, anh em mới có thể bước đi trên những con đường dẫn đến tâm can của hết mọi con người và loan báo cho họ rằng Vị Mục Tử Nhân Lành đã ban sự sống của Người cho họ và muốn họ tham dự vào mầu nhiệm yêu thương và cứu độ của Người.

Để thi hành công việc này, một công việc rất cần thiết, Chúa Giêsu bao giờ cũng phải là tâm điểm của đời sống anh em, và anh em phải sống thân mật với Người bằng việc nguyện cầu, bằng việc hằng ngày suy niệm, bằng việc trung thành với Phụng Vụ Giờ Kinh và nhất là bằng việc sốt sắng cử hành Thánh Thể mỗi ngày. Nếu anh em tràn đầy Thiên Chúa, anh em sẽ thực sự là những vị tông đồ cho việc tân truyền bá phúc âm hóa, vì không ai có thể cho những gì mình không có trong lòng.

Chớ gì Mẹ Maria, Người Mẹ yêu dấu của Vị Mục Tử Nhân Lành, Người Mẹ Tôi muốn kêu gọi anh em hãy luôn luôn có một lòng sùng mến thảo hiếu, đồng hành với anh em và canh chừng anh em luôn mãi. Amen.

 

 

“Chúng ta được hạ sinh từ Thánh Thể… Thiên Chức Linh Mục cũng là một mầu nhiệm đức tin”


ĐTC GPII gửi Thư Thứ Năm Tuần Thánh 2004 Cho Hàng Linh Mục


Các Linh Mục thân mến!


1.     Thật là vui mừng và cảm mến khi viết Bức Thư Thứ Năm Tuần Này này cho anh em, theo truyền thống được bắt đầu từ Lễ Phục Sinh đầu tiên của Tôi với tư cách là Giám Mục Rôma 25 năm trước đây. Cuộc hội ngộ hằng năm của chúng ta qua Bức Thư này là một cuộc hội ngộ đặc biệt huynh đệ, nhờ việc chúng ta chia sẻ chung về Thiên Chức Linh Mục của Chúa Kitô, và việc chia sẻ này diễn ra vào khung cảnh phụng vụ của một ngày thánh được đánh dấu bằng hai việc cử hành quan trọng, đó là Lễ Truyền Dầu ban sáng và Lễ Tiệc Ly ban chiều.


Tôi nghĩ đến anh em nhất là khi anh em tụ họp lại ở vương cung thánh đường thuộc các Giáo Phận khác nhau của anh em bên những Vị Bản Quyền đương nhiệm của anh em để lập lại những lới hứa linh mục của anh em. Lễ nghi sống động này xẩy ra sau việc thánh hiến các thứ Dầu Thánh, nhất là Dầu Thơm Olive, và là lễ nghi rất xứng hợp với Lễ Truyền Dầu, một Lễ cho thấy hình ảnh Giáo Hội là một dân tư tế được thánh hóa nhờ các phép bí tích và được sai đi khắp thế giới như hương thơm của Đức Kitô Cứu Thế (2Cor 2:14-16).


Vào lúc trời tối, Tôi thấy anh em tiến vào Căn Thượng Lầu để bắt đầu Tam Nhật Thánh. Chính ở “căn lầu rộng” (Lk 22:12) ấy Chúa Giêsu đã kêu mời chúng ta hãy trở lại vào mỗi Ngày Thứ Năm Tuần Thánh, và cũng chính ở nơi đó , hơn bất cứ ở đâu khác, Tôi hết sức vui mừng được gặp gỡ anh em thân yêu của Tôi trong thiên chức linh mục. Ở tại Bữa Tiệc Ly, chúng ta đã được sinh ra là những linh mục: vì thế chúng ta vừa hoan hỉ vừa phải qui tụ lại với nhau một lần nữa ở Căn Thượng Lầu này, để nhắc nhở nhau, bằng lòng thành thực tri ân, sứ vụ cao quí của chúng ta.


2.     Chúng ta đã được hạ sinh từ Thánh Thể. Nếu chúng ta thực sự nói rằng toàn thể Giáo Hội sống bởi Thánh Thể (“Ecclesia de Eucharistia vivit”), như Tôi đã tái xác nhận trong Thông Điệp mới đây, chúng ta có thể nói tương tự như thế về thiên chức linh mục thừa tác: một thiên chức linh mục thừa tác được hạ sinh, sống động và sinh hoa kết trái từ Thánh Thể “de Eucharistia” (cf. Council of Trent, Sess. XXII, canon 2: DS 1752). “Không thể nào có Thánh Thể nếu không có chức linh mục, cũng như không thể nào có chức linh mục nếu không có Thánh Thể” (cf. "Gift and Mystery. On the Fiftieth Anniversary of My Priestly Ordination," New York, 1996, pp. 77-78).


Thừa tác vụ thánh, một thừa tác vụ không bao giờ được biến thành một chiều kích thuần hành sự, vì nó thuộc về cấp độ “bản chất”, làm cho vị linh mục có thể tác hành thay cho Chúa Kitô “in persona Christi” mà giây phút tột đỉnh xẩy ra là lúc vị linh mục thánh hiến bánh và rượu, lập lại những cử chỉ và lời nói của Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly.


Trước thực tại phi thường này, chúng ta cảm thấy ngỡ ngàng và chất ngất trước sự khiêm hạ thật thẳm sâu của một Vị Thiên Chúa “cúi xuống” để liên kết bản thân mình với con người! Nếu chúng ta bị cảm kích trước máng cỏ Sinh Nhật, khi chúng ta chiêm ngưỡng Lời Nhập Thể, thì chúng ta phải cảm thấy ra sao trước bàn thờ là nơi, nhờ bàn tay tầm thường của vị linh mục, Chúa Kitô hiện thực hóa Hiến Tế của Người trong thời gian? Chúng ta chỉ còn biết quì xuống mà âm thầm tôn thờ mầu nhiệm đức tin siêu việt này mà thôi.


3.     Mầu nhiệm đức tin “mysterium fidei”, vị linh mục công bố lời này sau khi truyền phép. Thánh Thể là một mầu nhiệm đức tin, tuy nhiên, chính thiên chức linh mục, nhờ phản ảnh Thánh Thể, cũng là một mầu nhiệm đức tin nữa (x. ibid, p. 78). Cũng là một mầu nhiệm thánh hóa và yêu thương, việc làm của Chúa Thánh Thần, một việc biến bánh và rượu trở nên Mình và Máu của Chúa Kitô, tác hành nơi con người của vị thừa tác viên vào lúc chịu chức linh mục. Có một tương giao đặc biệt giữa Thánh Thể và chức linh mục, một tương giao bắt nguồn từ Căn Thượng Lầu, ở chỗ, hai Bí Tích này được hạ sinh cùng một lúc và định mệnh của cả hai được gắn liền với nhau bất khả phân ly cho đến tận thế.


Đến đây chúng ta chạm đến những gì được gọi là “tính cách tông đồ của Thánh Thể” (x Thông Điệp Ecclesia de Eucharistia, 26-33). Bí tích Thánh Thể, như bí tích Hòa Giải, được Chúa Kitô trao phó cho các Thánh Tông Đồ và đã được các vị cùng với những ai thừa kế các vị truyền lại cho mọi thế hệ. Vào lúc mở màn cho cuộc sống công khai của mình, Đấng Thiên Sai đã kêu gọi 12 Vị, chỉ định các vị “ở với Người” và sai các vị đi truyền giáo (x Mk 3:14-15). Ở Bữa Tiệc Ly, việc các Tông Đồ “ở với” Chúa Giêsu đã lên đến tuyệt đỉnh. Bằng việc cử hành bữa Vượt Qua và thiết lập Thánh Thể, vị Tôn Sư thần linh làm cho ơn gọi của họ nên trọn. Khi nói rằng “các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày”, là Người đóng ấn tín lên sứ vụ của các vị, và bằng việc liên kết các vị với chính bản thân Người trong mối hiệp thông về bí tích, Người truyền cho các vị phải kéo dài tác động rất thánh này để nhớ đến Người.

Khi công bố những lời “Các con hãy làm điều này…”, Chúa Giêsu nghĩ đến những người thừa kế của các Tông Đồ, đến những ai sẽ tiếp tục sứ vụ các ngài bằng việc phân phát lương thực sự sống cho đến tận cùng trái đất. Bởi thế, chư huynh linh mục thân mến, một cách nào đó, ở Căn Thượng Lầu, chúng ta cũng được kêu gọi một cách riêng tư, mỗi một người trong chúng ta, “bằng một tình yêu thương huynh đệ” (Lời Nguyện Mở Đầu Lễ Truyền Dầu), để lãnh nhận từ đôi thay thánh hảo của Chúa Bánh Thánh Thể và bẻ Bánh này ra để làm lương thực ban phát cho Dân Chúa trên lộ trình họ tiến qua thời gian về quê hương thiên đình vĩnh cửu.


4.     Thánh Thể, như thiên chức linh mục, là tặng ân của Thiên Chúa “hoàn toàn vượt trên quyền năng của cộng đồng” và cộng đồng “lãnh nhận qua việc thừa kế của hàng giáo phẩm được truyền từ các Thánh Tông Đồ” (Thông Điệp Ecclesia de Eucharistia, 29). Công Đồng Chung Vaticanô II dạy rằng “vị linh mục thừa tác, bằng linh quyền có được… thay cho Chúa Kitô làm hiệu nghiệm hóa Hy Tế Thánh Thể và nhân danh toàn thể dân chúng hiến dâng Thánh Thể lên Thiên Chúa” Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, 10). Cộng đồng tín hữu, hiệp nhất trong đức tin cũng như trong Thần Linh và là cộng đồng được trang bị bằng nhiều tặng ân khác nhau, cho dù có là nơi Chúa Kitô “hiện diện nơi Giáo Hội của Người, nhất là nơi những việc cử hành phụng vụ của Giáo Hội” (Hiến Chế Phụng Vụ Thánh, 7), tự mình vẫn không thể cử hành Thánh Thể hay cung cấp thành phần thừa tác thánh chức.


Bởi thế, thật là chính đáng khi dân Kitô giáo dâng lời cảm tạ Thiên Chúa về tặng ân Thánh Thể và tặng ân linh mục, đồng thời cũng không ngừng cầu nguyện để Giáo Hội không bao giờ bị thiếu hụt linh mục. Con số linh mục không bao giờ đủ đáp ứng các nhu cầu truyền bá phúc âm hóa không ngừng tăng phát cũng như nhu cầu chăm sóc mục vụ cho tín hữu. Ở một số nơi trên thế giới tình trạng thiếu hụt linh mục là tất cả những gì khẩn trương, vì ngày nay con số linh mục đang bị giảm sút không đủ thay thế bởi thế hệ trẻ. Ở những nơi khác, cám ơn Chúa, chúng ta thấy một mùa xuân hứa hẹn ơn gọi. Dân Chúa cũng càng ngày càng ý thức được nhu cầu cần phải cầu nguyện và tích cực hoạt động để cổ võ ơn gọi linh mục và đời tận hiến.


5.     Ơn gọi thật sự là một tặng ân của Thiên Chúa mà chúng ta cần phải liên lỉ nguyện cầu. Theo lời mời gọi của Chúa Giêsu, chúng ta cần cầu cùng Chủ mùa hay sai thợ đến làm mùa của Ngài (x Mt 9:37). Việc cầu nguyện được hỗ trợ bằng cách âm thầm hiến dâng các nỗi khổ đau, vẫn là cách thức trước hết và hiệu nghiệm nhất của hoạt động mục vụ cổ võ ơn gọi. Cầu nguyện nghĩa là gắn mắt nhìn lên Chúa Kitô, tin tưởng rằng từ Người, Vị Thượng Tế duy nhất, cũng như từ hiến tế thần linh của Người, sẽ phát xuất, qua công cuộc của Chúa Thánh Thần, muôn vàn hạt giống ơn gọi cần thiết cho đời sống và sứ vụ của Giáo Hội ở mọi thời đại.


Chúng ta hãy dừng lại ở Căn Thượng Lầu để chiêm ngưỡng Đấng Cứu Chuộc, Đấng đã thiết lập Bị Tích Thánh Thể và thiên chức linh mục trong Bữa Tiệc Ly. Trong đêm thánh ấy, Người đã gọi tên của mỗi và mọi vị linh mục xuất hiện trong thời gian. Người đã nhìn đến mỗi một người trong họ bằng cùng một ánh mắt đầy ưu ái phấn khởi Người đã nhìn Simon và Anrê, nhìn Giacôbê và Gioan, nhìn Nathanael ở dưới cây vả, và nhìn Mathêu đang ngồi ở bàn thâu thuế. Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta, và, bằng các đường lối khác nhau, Người tiếp tục mời gọi nhiều người khác nữa làm thừa tác viên cho Người.


Từ Căn Thượng Lầu này, Chúa Kitô không ngừng tìm kiếm và mời gọi. Ở đây chúng ta thấy được nguồn gốc và nguồn mạch nguyên thủy của việc mục vụ thực sự cổ võ ơn gọi linh mục. Anh em thân mến, chúng ta hãy coi mình là những người đầu tiên lãnh trách nhiệm ở lãnh vực này, sẵn sàng giúp cho tất cả những ai Chúa Kitô muốn kêu gọi đến với thiên chức linh mục của Người biết đáp ứng một cách quảng đại lời Người mời gọi.


Tuy nhiên, trước hết, hơn bất cứ nỗ lực nào khác hoạt động cho ơn gọi, không thể nào thiếu được lòng trung thành của chúng ta. Vấn đề cần ở đây là việc chúng ta dấn thân theo Chúa Kitô, là lòng chúng ta yêu mến Thánh Thể, là việc chúng ta sốt sắng cử hành Thánh Thể, là việc chúng ta sùng bái tôn thờ Thánh Thể, và là lòng nhiệt thành của chúng ta trong việc trao ban Thánh Thể cho anh chị em của chúng ta, nhất là cho thành phần bệnh nhân. Chúc Giêsu Thượng Tế tiếp tục mời gọi những người thợ mới đến làm vườn nho cho Người, thế nhưng trước hết Người muốn tùy thuộc vào sự hợp tác chủ động của chúng ta. Các vị linh mục mến yêu Thánh Thể có khả năng truyền đạt cho trẻ em và giới trẻ “cái chất ngất Thánh Thể” đã được Tôi tìm cách khêu lên nơi Thông Điệp Ecclesia de Eucharistia (x. đoạn 6). Nói chung thì họ là những vị linh mục dẫn chúng tới con đường làm linh mục, như lịch sử ơn gọi của chúng ta dễ dàng cho thấy.


6.     Chư huynh linh mục thân mến, theo chiều hướng này, Tôi xin anh em, trong số những hoạt động của mình, anh em hãy đặc biệt lưu ý tới các em giúp lễ, thành phần như là một “mảnh vườn” của ơn gọi linh mục. Nhóm giúp lễ được anh em hướng dẫn như là một phần thuộc cộng đồng giáo xứ, có thể cảm nghiệm thấy cái giá trị của nền giáo dục Kitô giáo và trở thành một loại tiền chủng viện. Anh em hãy giúp giáo xứ, như là một gia đình bởi nhiều gia đình, coi những em giúp lễ như con cái của họ, như “những chồi Olive chung quanh bàn” của Chúa Giêsu Kitô là Bánh Sự Sống (x Ps 127:3).


Nhờ sự giúp đỡ của các gia đình và các giáo lý viên, anh em hãy đặc biệt quan tâm đến nhóm giúp lễ, để qua việc phục vụ bàn thờ của họ, mỗi người trong họ biết lớn lên trong tình yêu Chúa Giêsu, biết nhìn nhận Người thực sự hiện diện trong Thánh Thể, và biết cảm nghiệm cảm được vẻ đẹp của phụng vụ. Cần phải cỏ võ và khích lệ những hoạt động của thành phần giúp lễ ở cầp giáo phận hay địa phương, lưu ý tới những lứa tuổi khác nhau. Trong những năm thi hành thừa tác vụ giáo phẩm của mình ở Krakow, Tôi đã thấy được nhiều thiện ích đạt được từ mối quan tâm đến việc huấn luyện về nhân bản, tu đức và phụng vụ của chúng. Khi trẻ em hay giới trẻ hân hoan và nhiệt tâm giúp lễ là chúng cống hiến cho bạn bè của chúng một chứng từ hùng hồn cho tầm quan trọng và vẻ đẹp của Thánh Thần. Nhờ óc tưởng tượng sinh động của chúng, cũng như nhờ sự dẫn giải và gương sáng của các vị linh mục cùng bạn bè lớn tuổi nhơn mình, thì ngay cả những trẻ em còn bé cũng có thể phát triển trong đức tin và phát triển lòng yêu mến những thực tại thiêng liêng.


Sau hết, anh em đừng quên rằng chính anh em là những “Vị Tông Đồ” tiên khởi của Chúa Giêsu Thượng Phẩm. Chứng từ của anh em đáng giá hơn bất cứ những gì khác. Thành phần giúp lễ thấy anh em dâng Lễ Chúa Nhật và ngày thường là chúng thấy nơi đôi tay của anh em Thánh Thể “diễn ra”, trên bộ mặt của anh em phản ảnh mầu nhiệm Thánh Thể, và trong tâm can của anh em chúng cảm thấy được kêu gọi sống yêu thương cao cả hơn. Chớ gì, đối với chúng, anh em là những người cha, những thày dạy, và những chứng nhân của lòng sùng mộ Thánh Thể cũng như của đời sống thánh thiện!


7.     Anh em linh mục thân mến, sứ vụ đặc biệt của anh em trong Giáo Hội đòi anh em phải là “bạn hữu” của Chúa Kitô, liên lỉ chiêm ngưỡng dung nhan của Người bằng tấm lòng đơn sơ tại học đường của Đức Maria Rất Thánh. Anh em hãy cầu nguyện không ngừng, như Thánh Tông Đồ đã khuyên dụ (x 1Thess 5:17), và khuyến khích tín hữu hãy cầu nguyện cho ơn gọi, cho việc kiên trì của những vị đã được kêu gọi sống đời linh mục cũng như cho việc thánh hóa tất cả mọi vị linh mục. Anh em hãy giúp cho cộng đồng của anh em biết yêu mến trọn vẹn hơn nữa cái “tặng ân và mầu nhiệm” đặc biệt là thiên chức linh mục thừa tác này.


Trong khung cảnh nguyện cầu của Thứ Năm Tuần Thánh, một lần nữa Tôi xin lập lại một số lời nguyện của Kinh Cầu Chúa Giêsu Kitô Tư Tế Và Hiến Tế (x tác phẩm Tặng Ân và Mầu Nhiệm, trang 108-114), là những lời nguyện cầu Tôi đã đọc nhiều năm và được nhiều lợi ích thiêng liêng:


Iesu, Sacerdos et Victima,
Chúa Giêsu là Vị Tư Tế và Vật Hiến Tế
Iesu, Sacerdos qui in novissima Cena formam sacrificii perennis instituisti,
ChúaGiêsu trong Bữa Tiệc Ly đã thiết lập một hình thức hiến tế đời đời
Iesu, Pontifex ex hominibus assumpte,
Chúa Giêsu là Vị Thượng Tế được tuyển chọn giữa loài người
Iesu, Pontifex pro hominibus constitute,
Chúa Giêsu được phong làm Thượng Tế vì loài người
Iesus, Pontifex qui tradidisti temetipsum Deo oblationem et hostiam,
Chúa Giêsu là Vị Thượng Tế hiến mình cho Chúa Cha như lễ dâng và tế vật
miserere nobis!
cầu cho chúng con!

Ut pastores secundum cor tuum populo tuo providere digneris,
Xin Chúa nhân lành ban cho dân Chúa các vị mục tử như lòng mong ước của Chúa
ut in messem tuam operarios fideles mittere digneris,
Xin Chúa nhân lành sai những người thợ trung thành đến làm mùa cho Chúa
ut fideles mysteriorum tuorum dispensatores multiplicare digneris,
Xin Chúa nhân lành tăng thêm những vị trung thành phân phát các mầu nhiệm của Chúa
Te rogamus, audi nos!
Xin Chúa nhậm lời chúng con!

8. Tôi xin ký thác cho mỗi một người trong anh em cũng như trao phó thừa tác vụ hằng ngày của anh em cho Mẹ Maria, Mẹ của Các Vị Linh Mục. Trong khi lần hạt mân Côi, mầu nhiệm ánh sáng thứ năm dẫn chúng ta tới chỗ chiêm ngắm tặng ân Thánh Thể bằng đôi mắt của Mẹ Maria, đến chỗ say đắm tình yêu “đến cùng” của Chúa Giêsu (Jn 13:1) trong Căn Thượng Lầu, cũng như nơi việc hiện diện khiêm hạ của Người trong hết mọi nhà tạm. Chớ gì Trinh Nữ Maria cầu cho anh em được ơn không bao giờ coi thường mầu nhiệm được trao phó vào tay anh em. Bằng tất cả tấm lòng tri ân cảm tạ Chúa về tặng ân Mình Máu lạ lùng của Người, chớ gì anh em trung thành kiên trì với thừa tác vụ tư tế của anh em.

Hỡi Mẹ Maria, Mẹ của Chúa Kitô, Vị Thượng Tế của chúng con, xin Mẹ cầu bầu để Giáo Hội luôn luôn có nhiều ơn gọi thánh thiện, có các vị thừa tác viên phục vụ bàn thánh trung thành và quảng đại!

Chư huynh linh mục thân mến, Tôi chúc cho anh em và cộng đồng của anh em một Lễ Phục Sinh Thánh Thiện và Tôi ưu ái ban phép lành của Tôi cho tất cả anh em.

Tại Vatican ngày 28/3, Chúa Nhật Thứ Năm Mùa Chay, năm 2004, năm thứ 26 của giáo triều Tôi.

Gioan Phaolô II

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến ngày 6/4/2004


Tổng Quan về Ơn Gọi Linh Mục trong 4 Thập Niên (1961-2001)

Trong Thư Thứ Năm Tuần Thánh Gửi Linh Mục 2004, ĐTC đặc biệt nhấn mạnh đến ơn gọi linh mục. Trong cuộc họp báo ra mắt Bức Thư này tại phòng báo chí của Tòa Thánh hôm Thứ Ba 6/4/2004, vị bí thư của Thánh Bộ Giáo Sĩ là ĐTGM Csaba Ternyak đã cho biết thống kê về ơn gọi linh mục như sau. Nói chung, trong khi ơn gọi linh mục giảm sút trầm trọng ở Tây Phương thì lại tăng phát ở các nơi khác trên thế giới, đến nỗi, trong giáo triều của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, con số đã tăng gấp đôi. Vào năm 1978, khi Ngài được bầu làm giáo hoàng, chỉ có 63.882 đại chủng sinh trên thế giới, nhưng vào năm 2001, con số này đã lên đến 112,982.

“Chưa bao giờ trong lịch sử Giáo Hội đã có rất nhiều chủng sinh học triết học và thần học như thế. Điều tuyệt vời là ở chỗ những ơn gọi này càng vững hơn là 30 năm trước đây. Phần trăm của những chủng sinh bỏ ơn gọi là 9.09% ở vào đầu giáo triều của Ngài; trong khi hiện tại chỉ có 6.93%”.

Riêng ở thế giới Tây Phương, vị bí thư của Thánh Bộ Giáo Sĩ cho biết sở dĩ con số linh mục bị giảm xuống tới độ, như ĐTC cảnh giác là không thể thay thế bởi thế hệ trẻ, “là vì tình trạng cao tuổi ở dân chúng địa phương, vì hiện tượng giảm sút sinh sản đáng lo ngại, và vì hiện tượng phát triển của một thứ văn hóa trần tục”. Theo vì này thì cuộc khủng hoảng ơn gọi bắt đầu xẩy ra từ cuối thập niên 1960, nhất là ở Âu Châu, Hiệp Chủng Quốc và Gia Nã Đại.

Ở Âu Châu vào năm 1961 có 250.859 linh mục, vào năm 2001 chỉ còn 206.761; ở Bắc Mỹ Châu vào năm 1961 có 71.725 và vào năm 2001 còn 57.988.

Ngược lại, ở Nam Mỹ Châu, vào năm 1961 có 43.202 nhưng 4 thập niên sau, tức vào năm 2001 tăng lên thêm 20 ngàn nữa, tức lên tới 63.159 vị. Ở Phi Châu, cũng trong cùng giai đoạn 4 thập niên này tăng từ 16.541 tới 27.988. Ở Á Châu từ 25.535 tới 44.446. Đại Dương Châu không được đề cập tới, hình như cũng giảm như ở Âu Châu và Bắc Mỹ Châu, vì là thế giới Anh ngữ, thế giới văn minh.

Chung thế giới, năm 1961 có 404.082 linh mục, năm 2001 có 405.067 vị. Tuy nhiên, dù con số linh mục không giảm, nhưng dân số thế giới trong giai đoạn này lại tăng lên gần gấp đôi.

 

ĐTC với hàng giáo sĩ Rôma về đề tài hôn nhân và gia đình

Theo truyền thống, vào đầu Mùa Chay hằng năm, như năm 2004 vào sáng ngày 26/2 Thứ Năm, ĐTC GPII đã gặp hàng giáo sĩ thuộc giáo phận Rôma, trong đó có cả ĐHY Ruini, vị chủ chiên cùng với ĐGM Rôma là chính ĐTC cai quản Giáo Phận Rôma. Sau khi nghe ĐHY Ruini đại diện hàng giáo sĩ Rôma dâng lên Ngài những lời chào chúc, ĐTC đã nói với các vị một cách ngắn gọn, và đưa cho họ sứ điệp Ngài đã viết gửi họ. Sau đây là những gì Ngài đã trực tiếp nói và sau đó là những gì Ngài viết để đọc:

“Trước hết, Rôma: Rôma nghĩa là gì? Là một thành đô thuộc sứ vụ của vị thừa kế Thánh Phêrô. Và hết mọi giáo xứ đều thuộc về sứ vụ của vị thừa kế Thánh Phêrô. Có tất cả là 340 giáo xứ ở Rôma và Tôi đã đến thăm được 300 giáo xứ rồi. Còn 40 giáo xứ nữa cần phải viếng thăm. Thế nhưng, Thứ Bảy này chúng ta sẽ tiếp tục những cuộc viếng thăm này. Hy vọng là tất cả sẽ xẩy ra thuận lợi.

“Đề tài của chúng ta là gia đình. Gia đình nghĩa là: ‘Ngài đã tạo dựng nên họ có nam có nữ. Tức là: yêu thương và trách nhiệm. Tất cả mọi thứ hệ quả đều phát xuất từ những lời lẽ này. Chúng ta đã nói nhiều đến những thứ hệ quả có liên quan tới hôn nhân, gia đình, cha mẹ, con cái, học đường này.

“Tôi rất cám ơn anh em vì anh em đã làm sáng tỏ những thứ hệ quả này, sáng tỏ thực tại này. Thực sự tất cả mọi giáo xứ cần phải để ý tới mối quan tâm ấy. Trong thời gian trước đây khi Tôi còn ở Krakow, Tôi đã biết sống gần gũi với các cặp vợ chồng, với các gia đình. Tôi cũng đã chú ý tới đường lối dẫn đưa hai con người, một nam và một nữ, tới chỗ tạo lập gia đình với nhau, và nhờ đời sống hôn nhân, tới chỗ trở thành những cặp vợ chồng và những bậc làm cha mẹ, chấp nhận tất cả mọi hệ quả chúng ta đã quá rõ.

“Cám ơn anh em về mối quan tâm mục vụ anh em giành cho các gia đình, cũng như về việc anh em tìm cách giải quyết tất cả mọi vấn đề các gia đình đang gặp phải. Tôi chúc anh em thành đạt trong việc anh em tiếp tục lãnh vực rất quan trọng này, vì tương lai của Giáo Hội cũng như của thế giới là ở nơi các gia đình. Tôi hy vọng anh em sửa soạn cho Rôma, cho quê hương Ý quốc của anh em, cũng như cho thế giới một tương lai tốt đẹp. Chúc anh em những điều tốt đẹp nhất!

“Đây là bài viết Tôi đã soạn nhưng Tôi không đọc! Anh em có thể đọc bài viết này trên tờ L’Osservatore Romano!

“Trong bài này, có một số câu được viết theo thổ âm Rôma… Chúng ta hãy yêu thương nhau! Chúng ta đều là những người Rôma cả mà! Tôi không bao giờ học thổ âm Rôma, thì chẳng lẽ Tôi lại không phải là một Vị Giám Mục Rôma tốt lành hay sao?”

Trong bản viết của mình, ĐTC đã xác nhận rằng: “Việc nhìn nhận tính cách trọng yếu của gia đình theo dự án của Thiên Chúa giành cho con người và vì thế cũng giành cho sự sống của Giáo Hội cũng như của xã hội, là một công việc không bao giờ có thể bị bỏ bê, một công việc đã làm năng động 25 năm giáo triều của Tôi, cũng như trước đó, đã làm năng động thừa tác vụ linh mục và giám mục của Tôi, đã là việc dấn thân của Tôi khi Tôi còn là sinh viên và là giáo sư đại học”.

ĐTC nhận định tiếp, khi tạo dựng nên con người có nam có nữ theo hình ảnh của mình, Thiên Chúa đã ghi khắc nơi họ một ơn gọi “và vì thế cả khả năng và trách nhiệm yêu thương và hiệp thông. Ơn gọi này có thể được thi hành bằng hai đường lối đặc biệt, đó là hôn nhân và đồng trinh. Hôn nhân và gia đình bởi thế không thể bị coi như là một sản phẩm thuần túy của những môi trường lịch sử, hay như là một siêu cấu trúc được áp đặt trên tình yêu của con người từ bên ngoài. Trái lại, hôn nhân và gia đình là một đòi hỏi nội tại của tình yêu này nhờ đó tình yêu ấy có thể thực thi trong chân thật cũng như trong việc hoàn toàn trao hiến bản thân”.

Việc hiệp nhất, tính cách bất khả phân ly và việc hướng về sự sống, những đặc tính của mối hiệp nhất phối ngẫu, ĐTC cho biết, “là những gì ngày nay thường bị hiểu lầm và loại bỏ, là những gì cần thiết cho một giao ước yêu thương chân thực. Chính vì thế mà mối liên kết thắt nối con người nam nữ lại với nhau trở thành một hình ảnh và biểu hiệu cho cuộc liên kết giữa Thiên Chúa và Dân của Ngài… Bởi thế, hôn nhân giữa hai con người đã lãnh nhận phép rửa là một bí tích, một dấu hiệu tác lực của ân sủng và cứu độ”.