Thánh Stephanô Phó Tế Tử Đạo

 

ĐTC Biển Đức XVI - Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 10/1/2007

Bài 28 trong loạt bài Giáo Lý về Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền

 

 

 

Anh Chị Em thân mến:

 

Sau những ngày lễ, chúng ta trở lại với loạt bài giáo lý của chúng ta. Tôi đã suy niệm với anh chị em về các hình ảnh của 12 Tông Đồ và về Thánh Phaolô. Từ đó chúng ta đã bắt đầu chia sẻ về các hìn h ảnh khác thuộc Giáo Hội sơ khai. Bởi vậy, hôm nay, chúng ta muốn suy niệm về Thánh Stêphanô, vị Thánh được Giáo Hội mừng kính ngay sau Lễ Giáng Sinh. Thánh Stêphanô là vị tiểu biểu nhất của một nhóm 7 đồng bạn. Truyền thống thấy nơi nhóm này hạt giống của thừa tác vụ phó tế sau này, mặc dù chúng ta cần  phải xác nhận là dan h xưng này không có trong sách Tông Vụ. Dù sao đi nữa, tầm quan trọng của Thánh Stêphanô đã hiển nhiên ở sự kiện là, trong cuốn sách quan trọng này, Thánh Luca đã giành riêng 2 đoạn cho ngài.

 

Trình thuật của Thánh Luca bắt đầu bằng việc cho thấy tình trạng ngầm chia rẽ xẩy ra nơi Giáo Hội tiên  khởi Giêrusalem, ở chỗ, Giáo Hội này hoàn toàn được làm nên bởi các Kitô hữu gốc Do Thái (Jewish), thế nhưng, trong số thành phần Kitô hữu này một số là dân bản xứ ở đất Yến Duyên (Israel) và được gọi là những “Người Do Thái” (Hebrews), trong khi các người khác xuất thân từ niềm tin Do Thái thời Cựu Ước thuộc cộng đồng Do Thái nói tiếng Hy Lạp và được gọi là những “Người Theo Văn Hóa Hy Lạp” (Hellenists). Bởi thế mà vấn đề đã diễn ra là thành phần thiếu thốn nhất trong số những người Do Thái theo văn hóa Hy Lạp, nhất là nữ giới góa bụa không được trợ giúp gì về xã hội, có nguy cơ bị bỏ rơi trong việc trợ giúp về dưỡng thực hằng ngày của họ.

 

Để thắng vượt những khó khăn này, các vị tông đồ, để duy trì cho các vị việc cầu nguyện và thừa tác v ụ lời Chúa như là công việc chính yếu của các vị, đã quyết định bổ nhiệm “7 nam nhân có tiếng tốt, đầy Thần Linh và khôn ngoan” vào nhiệm vụ ấy, tức là, vào việc phucï vụ bác ái xã hội. Như Thánh Luca viết, theo chiều hướng mục tiêu ấy và trước lời mời gọi của các vị tông đồ, các môn đệ đã tuyển chọn ra 7 người nam. Chúng ta thấy tên tuổi của các vị. Đó là: ‘Stêphanô, một con người đầy đức tin và Thánh Thần, cũng như Philip, Prochorus, Nicanor, Timon, Parmenas, và Nicholas ở Antiokia, một người trở lại Do Thái Giáo. Họ trình cho các vị tông đồ những nam nhân ấy và được các vị tông đồ nguyện cầu và đạt tay trên họ’ (Acts 6:5-6).

 

Cử chỉ đặt tay có một số ý nghĩa. Theo Cựu Ước  thì cử chỉ này trước hết có ý nghĩa truyền đạt một nhiệm vụ quan trọng, như Moisen đã làm cho Gioduệ (x Num 27:18-23) để ủy thác cho việc thừa kế mình. Theo đó, Giáo Hội Antiôkia cũng sử dụng cùng một cử chỉ này để sai Thánh Phaolô và Barnabas đi truyền giáo cho các dân tộc trên thế giới (x Acts 13:3). Chi tiết về việc đặt tay như vậy cũng được đề cập tới, ở trường hợp Timôthêu, để truyền đạt một nhiệm vụ chính thức, trong hai bức thư gửi Thánh Phaolô gửi cho ngài (x 1Tim 4:14; 2Tim 1:6). Sự kiện của việc đặt tay là một hành động quan trọng, một hành động được thi hành sau khi nhận thức, là điều được suy diễn từ những gì đọc thấy ở bức thư thứ nhất gửi cho Timôthêu: ‘Đừng vội vàng hấp tấp trong việc đặt tay, cũng đừng can dự vào tội lỗi của kẻ khác’ (5:22).

 

Bởi thế, chúng ta thấy rằng cử chỉ đặt tay xẩy ra theo ý nghĩa của một dấu hiệu bí tích. Trong trường hợp của Thánh Stêphanô và đồng bạn của ngài thì đây thật sự là một việc các vị tông đồ chính thức chính thức truyền đạt một nhiệm vụ, đồng thời các vị cũng cầu xin ơn ban  để thi hành nhiệm vụ ấy.

 

Điều quan trọng ở đây đó là, ngoài những việc phục vụ bác ái, Thánh Stêphanô cũng thi hành cả công việc truyền bá phúc âm hóa nữa nơi thành phần đồng hương của mình, thành phần được gọi là ‘Những Người theo Văn Hóa Hy Lạp’. Thật vậy, Thánh Luca đã nhấn mạnh đến sự kiện là Thánh Stêphanô, ‘đầy ân sủng và quyền  năng” (Acts 6:8), đã nhân danh Chúa Giêsu, trình bày cho thấy một dẫn giải mới  về Moisen cũng như về chính Luật của Thiên Chúa, đọc lại Cựu Ước theo chiều kích loan báo cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu. Việc đọc lại Cựu Ước này, một việc đọc lại theo chiều kích Kitô học, đã làm bừng lên các phản ứng nơi người Do Thái cho rằng những lời lẽ của ngài là phạm thượng (x Acts 6:11-14). Bởi thế mà ngài bị kết tội bị ném đá. Và Thánh Luca đã để lại cho chúng ta bài nói cuối cùng của vị thánh này, một tổng luận cho việc ngài rao giảng.

 

Như Chúa Giêsu đã giải thích cho các môn đệ đi Emmau rằng toàn thể Cựu Ước đều nói về Người, về thập giá của Người và về cuộc phục sinh của Người thế nào thì cũng thế, Thánh Stêphanô, theo giáo huấn của Chúa Giêsu, đã đọc toàn thể Cựu Ước theo cái then chốt Kitô học. Ngài đã chứng minh rằng mầu nhiệm thập giá là tâm điểm của lịch sử cứu độ đã được trình thuật trong Cựu Ước, ngài thực sự chứng tỏ rằng Chúa Giêsu, Đấng tử giá và phục sinh, là ‘đền  thờ’ mới và đích thực.

 

Chính việc ‘phủ nhận’ này đối với đền thờ và việc tôn thờ ở đền thờ đã mang lại bản án cho Thánh Stêphanô, vị mà lúc ấy – Thánh Luca cho chúng ta biết rằng – ngước mắt lên trời đã thấy vinh hiển của Thiên Chúa và Chúa Giêsu ở bên hữu Thiên Chúa. Và khi nhìn lên trời, lên Thiên Chúa và Chúa Giêsu, Thánh Stêphanô đã nói: ‘Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con người đứng bên  hữu Thiên Chúa’ (Acts 7:56). Cuộc tử đạo của ngài thực sự giống với Cuộc Khổ Nạn của c hính Chúa Giêsu, khi ngài trút linh hồn mình cho Chúa và nguyện cầu ơn thứ tha cho những ai sát hại ngài (x Acts 7:59-60).

 

Vị trí xẩy ra cuộc tử đạo của Thánh Stêphanô ở Giêrusalem theo truyền thống ở ngay bên  ngoài Cổng Damasco phía bắc, nơi thực sự có một ngôi thánh đường Thánh Stêphanô hiện ở đó, gần ‘Trường Thánh Kinh’ nổi tiếng của tu sĩ Dòng Đaminh. Cuộc sát hại Thánh Stêphanô, vị tử đạo tiên khởi của Kitô Giáo, đã mở màn cho một cuộc bách hại ở địa phương đối với thành phần  môn đệ Chúa Giêsu (x Acts 8:1), một cuộc bách hại đầu tiên được chứng thực trong lịch sử của Giáo Hội. Nó là một cơ hội cụ thể trong việc xua đẩy nhóm Kitô hữu Hebrew-Hellenist chạy thoát khỏi Giêrusalem và tản mát đi khắp nơi. Bị tống khứ khỏi Giêrusalem, họ trở thành các nhà truyền giáo lưu động. ‘Bấy giờ nhữn g ai bị tản mát đã ra đi rao giảng Lời Chúa’ (Acts 8:4). Cuộc bách hại ấy và việc phân tán kèm theo đã trở thành cuộc truyền  giáo. Nhờ đó, Phúc Âm đã được truyền bá ở Samaria, Phoenicia và Syria, cho đến khi tiến đến một thành phố lớn là Antiôkia, nơi mà theo Thánh Luca, Phúc Âm được truyền giảng cho dân ngoại (x Acts 11:19-20) và cũng là nơi danh xưng ‘Kitô hữu’ được vang lên lần đầu tiên (x Acts 11:26).

 

Thánh Luca đặc biệt cho rõ là những ai ném đá Thán h Stêphanô ‘đã đặt án xống của mình ở dưới chân một con người trẻ gọi là Saulê’ (Acts 7:58), cũng là con người từ một kẻ bách hại trở thành một v ị Tổng Đồ Phúc Âm long danh. Điều này có nghĩa là con người trẻ Saulê chắc chắn d0ã nghe thấy việc rao giảng của Thánh Stêphanô  và đã biết được những gì c hính yếu. Và Thánh Phaolô có lẽ trong số những ai theo dõi và lắng nghe bài diễn từ n ày ‘đã tỏ ra điên tiết lên’ và ‘nghiến răng tức giận ngài’ (Acts 7:54). Như thế chúng ta có thể thấy được những diệu kỳ của Đấng Quan Phòng Thần Linh, ở chỗ, Saulê, một đối thủ cứng lòng trước nhãn quan của Thánh Stêphanô, sau cuộc hội ngộ với Chúa Kitô phục sinh trên đường đi Damascô, đã tiếp tục việc dẫn giải Cựu Ước theo chiều kích Kitô học được vị tử đạo tiên khởi này thực hiện, một cách sâu xa hơn và trọn vẹn hơn, nhờ đó đã trở thành ‘Vị Tông Đồ Dân Ngoại’. Thánh Phaolô dạy rằng lề luật được nên trọn nơi thập giá của Chúa Kitô. Và niềm tin vào Chúa Kitô, mối hiệp thông với tình yêu Chúa Kitô, thực sự là những gì làm trọn toàn lề luật. Đó là nội dung của việc Thánh Phaolô rao giảng. Như thế, ngài cho thấy rằng vị Thiên Chúa của Abraham đã trở thành v ị Thiên Chúa của tất cả mọi người. Và tất cả những ai tin vào Chúa Giêsu Kitô, như con cái của Abraham, đều trở thành những kẻ chung phần vào các lời hứa. Nhãn quan của Thánh Stêphanô đã được nên trọn nơi việc truyền giáo của Thánh Phaolô.

 

Câu truyện về Thánh Stêphanô đã dạy cho chúng ta nhiều điều. Chẳng hạn, nó dạy chún g ta rằng chúng ta không b ao giờ được tách rời việc dấn thân  làm việc bác ái xã hội với việc can đảm truyền bá đức tin. Ngài là một trong 7 người đã được ủy thác trước hết là đức bác ái. Thế nhưng, cũng không thể nào tách biệt bác ái khỏi việc rao giảng. Bởi thế, bằng đức bác ái, ngài đã loan truyền Chúa Kitô chịu đóng đanh, cho đến độ chấp nhận cả việc tử đạo. Đây là bài học đầu tiên chúng ta có thể học nơi hình ảnh Thánh Stêphanô: Bác ái và việc rao giảng bao giờ cũng đi với nhau.

 

Thánh Stêphanô nói với chúng ta trước hết về Chúa Kitô, về Chúa Kitô tử giá và phục sinh như là tâm điểm của lịch sử cũng như của đời sống chúng ta. Chúng ta có thể hiểu rằng Thập Giá bao giờ cũng chiếm chỗ chính yếu trong đời sống của Giáo Hội cũng như trong cuộc sống riêng tư của chúng ta. Khổ nạn và bách hại không bao giờ thiếu nơi lịch sử của Giáo Hội. Và chính vì bách hại, theo câu nói long dan h của giáo phụ Tertulliano, trở thành nguồn mạch truyền giáo cho các tân Kitô hữu. Tôi xin trích lại những lời của ông: ‘Chúng tôi tăng triển hết mọi lúc chúng tôi được gặt hái bởi quí ngài: Máu của Kitô hữu là một thứ hạt giống’ ("Apologetico" 50,13: "Plures efficimur quoties metimur a vobis: semen est sanguis christianorum").

 

Thế nhưng, trong cả đời sống của chúng ta nữa, thập giá, một thập giá không bao giờ vắng vóng, trở thành một phúc lành. Và, khi chấp nhận thập giá, biết rằng nó trở thành và là một phúc lành, chúng ta  cảm thấy được niềm vui của Kitô Giáo, thậm chí trong những lúc khó khăn. Giá trị của chứng từ này là những gì bất khả thay thế, vì Phúc Âm dẫn đến với Người và Giáo Hội được nuôi dưỡng bởi Người. Thánh Stêphanô dạy chúng ta hãy học lấy những bài học ấy, ngài dạy chúng ta hãy mến yêu thập giá, vì nó thực sự là đường lối nhờ đó Chúa Giêsu luôn làm cho mình tái hiện diện nơi chúng ta. 

 


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo Zenit ngày 10/1/2007