Iraq và Thế Giới

sau ngày Pho Tượng Sađam Hussein bị giật đổ

 


Vấn Ðề Vũ Khí Cấm: Chất Vấn Ðược Giải Ðáp Nhưng Vẫn Không Tin Tưởng

Hôm Thứ Hai 28/4/2003, các viên chức Hoa Kỳ nói với CNN rằng ông nguyên phó thủ tướng Iraq là Tariq Aziz hiện đang bị giam giữ đã cho các thẩm vấn viên biết rằng sau cuộc dội bom ngay lúc mở màn cuộc chiến tranh giải giới Iraq để triệt hạ tổng thống Iraq bấy giờ, ông vẫn trông thấy Sađam Hussein, nhưng sau lần dội bom thứ hai vào Tháng Tư với cùng mục đích thì ông không thấy vị tổng thống này đâu nữa.

Còn ông Ahmad Chalabi, vị lãnh đạo của Hội Nghị Toàn Quốc Iraq, đã nói với CNN rằng các viên chức tình báo Iraq đã nói với nhóm của ông rằng nguyên tổng thống Sađam Hussein và viên bí thư riêng của tổng thống này là Abid Hamid, đã được huấn luyện để sử dụng áo khoác bùng nổ, nhưng ông Chalabi cho biết: “Tôi không biết ông ta đã quyết định ra sao. Tôi cố ý nói là ông ta có khả năng làm điều ấy song liệu ông ta có muốn tự sát hay cùng chết với những ai đến bắt ông ta hay chăng”.

Ngoài ra, về vấn đề các thứ vũ khí đại công phá, vị nguyên phó thủ tướng này cho biết là Iraq đã hủy hoại các thứ này khi quân đội Hoa Kỳ đến vùng Trung Đông. Tuy nhiên, chính vì những lời cung khai này không hợp với ý nghĩ của mình nên cả Hoa Kỳ lẫn Thủ Tướng Tony Blair đều cảm thấy hồ nghi không biết những lời nói ấy có thật hay chăng. Phần Thủ Tướng Balir hôm Thứ Hai đã cho các phóng viên báo chí biết rằng: “Tôi vẫn tin rằng sẽ tìm thấy những thứ này”.

Riêng về vấn đề các thứ vũ khí đại công phá ở Iraq, Hoa Kỳ, cũng vào hôm Thứ Hai, đang cố thử lại ở cả Hoa Kỳ lẫn Iraq, những gì đã tìm thấy ở phía bắc Iraq trước đây, những thứ mà trước đây đã được thử tại chỗ hai lần cho thấy có chứa những hóa chất, song vào cuộc thử lần ba thì lại không thấy gì. Ông Mohamed ElBaradei, tổng giám đốc Cơ Quan Nguyên Tử Lực Quốc Tế IAEA cũng cho CNN biết hôm Chúa Nhật 27/3/2003 biết rằng các thanh tra viên Liên Hiệp Quốc là “những người hay nhất để làm việc ấy”, việc tìm kiếm các thứ vũ khí đại công phá ở Iraq và cần phải được trở lại để làm việc ấy sớm bao nhiêu có thể.

Tuy nhiên, Nassi Hindawi, con người được coi là làm đầu chương trình chế tạo các thứ vũ khí này đã cho CNN biết hôm Thứ Hai là việc chế tạo đã được chấm dứt nhiều năm trước như chế độ Sađam Husêin đã công bố, nên các nhóm truy lùng của Hoa Kỳ sẽ không thể tìm thấy chứng cớ về những thư ù ấy. Ông cho biết ông đã bỏ chương trình chế tạo các thứ vũ khí này từ năm 1989, và cuộc cấm vận kinh tế sau khi Iraq xâm chiếm Kuwait vào năm 1990 đã làm cản trở chương trình chế tạo ấy, vì những chất liệu Iraq có được trước cuộc xâm chiếm Kuwait không đủ để tiếp tục chương trình này.

Thoidiemmaria.net: Như thế là lời của ông Nassi và Aziz ăn khớp với nhau: Ông Aziz nói Iraq đã hủy hoại các thứ vũ khí đại công phá từ khi Hoa Kỳ đặt chân đến vùng Trung Đông, tức từ khi được dịp ra tay cứu Kuwait khỏi bị Iraq xâm chiếm, đúng như ông Nassi cho biết. Phần phe chủ chiến, nếu chấp nhận những lời lẽ ăn khớp với nhau của hai vị chức sắc Iraq có uy thế này thì không phải là phe chủ chiến tự phản hay sao, vì họ cố ý qua mặt Liên Hiệp Quốc trong việc đơn phương tự động sử dụng bạo lực để giải giới Iraq chẳng lẽ lại không đạt được mục đích, bằng không phe của họ sẽ bị bẽ mặt với thế giới, bị mang tiếng là xâm chiếm, bị cho là lớn ăn hiếp bé, bị mang tiếng là lấy lý để chiếm dầu hỏa, bị mang tiếng là tình báo của hai đệ nhất siêu cường là đồ bỏ v.v.
 

“Chúng tôi cảm thấy phải dấn thân cho các xứ sở này…”

Phó Thủ Tướng Iraq 67 tuổi là ông Aziz, vị đã gặp Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ngày Thứ Sáu 14/2/2003 và đã đến cầu nguyện ở Assissi hôm sau, đã tự ra đầu hàng chiều Thứ Năm 24/4/2003 sau những ngày, như gia đình của ông cho CNN biết, điều đình với phe giải giới. Cũng theo gia đình của ông thì việc ông tự đầu hàng là vì ông muốn giữ danh dự chứ không muốn bị bắt nhục nhã. Ngôi biệt thư sang trọng của vị phó thủ tướng này đã bị cướp giật sau ngày giải phóng. Ông phải trú ngụ ở một nhà họ hàng gần thủ đô Baghdad. Ông phó thủ tướng này đã chung vai sát cánh với Tổng Thống Sađam Hussein cả 50 năm trời và là những tay năng động của Đảng Baath. Ông là một Kitô hữu và là một trường hợp rất đặc biệt trong hàng ngũ hầu hết thuộc sắc tộc Sunni. Tuy nhiên, việc ông vốn thuộc về tay trong của Tổng Thống Sađam Hussein trở thành phó thủ tướng là dấu hiệu cho thấy ông đã không được trọng dụng. Bởi thế, chưa chắc ông đã biết tất cả những bí mật của chế độ cũ, như các thứ khí giới đại công phá hay nơi ẩn nấp của vị lãnh đạo Iraq.

Trường hợp của vị phó thủ tướng qui hàng này chưa được giải quyết, vì gia đình cho biết họ được các viên chức liên minh bảo là ông Aziz chỉ cần trả lời một số câu hỏi thôi chứ không cần phải vào tù, vì ông được liệt kê thứ 43 trong danh sách 55 nhân vật bị lực lượng liên minh lùng bắt. Tướng Tommy Franks, Tổng Tư Lệnh lực lượng Hoa Kỳ tấn công Iraq đã bay từ tổng hành dinh ở Qatar tới Abu Dhabi để nói chuyện với vị phó thủ tướng đã bị bắt giữ từ hôm Thứ Năm, nhưng vị tướng này vẫn cảm thấy những câu trả lời của vị phó thủ tướng không biết có đúng hay chăng. Vị phó thủ tướng tuyên bố trước khi cuộc chiến xẩy ra là ông thà chết chứ không chịu để cho Hoa Kỳ bắt, vừa bị bệnh tim tấn công hai lần liền. Tuy nhiên, theo phát ngôn viên của Quốc Hội Quốc Gia Iraq là Nabil Musawi, một nhóm chống đối lâu đời, cho biết là việc giam giữ Aziz và các viên chức cao cấp của chế độ cũ sẽ làm giảm bớt sợ hãi nơi người Iraq về việc đảng viên Baath sẽ trở về nắm quyền hành. Hôm Thứ Bảy 26/4, các ký giả của tờ Sunday Telegraph đã tiết lộ họ đã tím thấy các giấy tờ về những móc nối ở Baghdad giữa Iraq và al-Qaeda cho thấy cả hai rất thù ghét Hoa Kỳ và Saudi Arabia.

Còn vấn đề Hoa Kỳ sẽ ở lại Iraq bao lâu và cho tới khi nào, bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Donald Rumsfeld đã cho các phóng viên báo chí ở Ái Nhĩ Lan biết hôm Thứ Bảy 26/4/2003 trên đường ông đến Trung Đông thăm cả Iraq và A Phú Hãn, là: “Chúng tôi cảm thấy phải dấn thân cho các xứ sở này. Chúng tôi có ý định ở đó và cùng với các quốc gia hoạt động trợ giúp họ trong việc chuyển tiếp… từ guồng máy độc quyền ở mỗi trường hợp, từ hệ thống đàn áp ở mỗi trường hợp, đến một điều gì đó hướng về một tổ chức dân chủ hơn”. Trong khi đó, hôm Chúa Nhật 27/4/2003, Vua nước Jordan là ông Abdullah đã nói với CNN rằng lực lượng liên minh cần phải rời bỏ Iraq sớm bao nhiêu có thể và để lại xứ sở này cho nhân dân Iraq tự lo lấy.

Vị thứ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Wolfowitz cũng cho biết hôm Thứ Bảy là quân đội Hoa Kỳ quyết tâm ở lại Iraq cho tới khi nước này có một tân chính phủ hoạt động và vững vàng cũng như cho tới khi Iraq được hoàn toàn giải giới. Để đạt mục đích này, những người Iraq lưu vong từ thập niên 1970 và 1980 đang tổ chức một Hội Đồng Tái Thiết và Phát Triển Iraq để cung cấp chuyên môn về kỹ thuật cho các hoạt động của chính phủ được tái hoạt động trước khi để cho chính phủ lâm thời kiêm nhiệm những hoạt động đó.

Ngoài ra, vào Thứ Hai, 28/4/2003, sẽ có một cuộc họp cho đủ mọi thành phần Iraq, bao gồm cả những người Kurds và Quốc Hội Quốc Gia Iraq. Cuộc họp này là để kiểm điểm cuộc họp hôm 15/4 ở Nasiriyah, một cuộc họp đã đồng ý về 13 nguyên tắc, trong đó có vấn đề Iraq là một quốc gia dân chủ, đảng Baath phải được giải tán và nước Iraq được tổ chức thành liên bang. Các viên chức Hoa Kỳ ước lượng có khoảng 150 tham dự viên cuộc họp này, gần gấp đôi phiên họp trước. Phiên họp Thứ Hai sẽ có cả những đại diện của Hội Đồng Tối Thượng Cách Mạng Hồi Giáo ở Iraq, một nhóm người Shiite có trụ sở ở Iran, thành phần nói rằng cuộc họp này phải do chính người Iraq mời chứ không phải Hoa Kỳ. Vị lãnh đạo của Hội Đồng này là Mohammed Baqir al-Hakim đã được mời cùng với năm nhà chính trị Iraq khác cũng được mời. là Ayad Alawi, lãnh đạo Iraqi National Accord, một nhóm Sunni Muslim, Ahmad Chalabi thuộc Iraqi National Congress, một nhóm Shiite, Jalal Talabani thuộc Patriotic Union của người Kurdistan, vị lãnh đạo Kurdistan Democratic Party là Massoud Barzani, và Adnan Pachachi thuộc Iraqi Independent Democrats Movement. Hôm Chúa Nhật, 27/4/2003, sau ba ngày họp tại Maní Tây Ban Nha, những đảng phái Iraq chống đối chế độ cũ đã phổ biến một bản tuyên ngôn kêu gọi một “chế độ dân chủ liên bang đa đảng ở Iraq” và yêu cầu Sađam Hussein phải được xử án về tội ác phãm đến nhân loại.

Cũng vào Ngày Thứ Bảy 26/4/2003, tại miền nam thủ đô Baghdad, cả hàng trăm người Iraq đã xuống đường chống lại Hoa Kỳ sau vụ nổ của những thứ khí giới chôn dấu làm thiệt mạng 6 người (theo Hoa Kỳ) hay 14 người (theo dân địa phương), và 4 người bị thương (theo Hoa Kỳ) hay 30 người (theo dân địa phương). Những người địa phương Zafraniya này cho biết họ rất tức giận vì họ đã cảnh giác lính Hoa Kỳ về bãi thải quân liệu nguy hiểm này rồi. Thế nhưng bên Hoa Kỳ lại bảo một người lính Hoa Kỳ bị thương trong một cuộc đụng độ với “một số người” tấn công lực lượng canh gác bãi thải quân liệu này và bắn “một thứ bom đạn gì đó” vào bãi ấy mới làm bùng nổ như vậy.

Trong khi đó, thế giới đang lo âu về số tử vong do SARS gây ra mỗi ngày một tăng, đến nỗi phải đóng cửa các trường học, phải lắp những máy lọc khí ở các phi trường, ngăn chặn ở các bệnh viện, biệt lập những người có bệnh v.v. Nơi bị nặng nhất trên thế giới hiện nay là Hồng Kông, nơi có tổng số 6.7 triệu dân, hôm Thứ Năm 24/4/2003, con số tử vong đã từ 5% lên tới 7.2%. Mặc dù đã có 567 người trong số 1.488 bị SARS được khỏi, những vẫn còn 108 người đang ở trong khu cấp cứu của bệnh viện, và con số tử vong đã lên tới 109 người vào hôm Thứ Năm.

Thoidiemmaria.net: Về trường hợp của Phó Thủ Tướng Iraq Aziz, Hoa Kỳ lấy tư cách gì mà bắt người ta? Nguyên việc Hoa Kỳ tự ý qua mặt Liên Hiệp Quốc xông vào nhà người ta đã là một việc sai trái rồi, nay lại còn lấy quyền bắt người ta nữa. Nếu họ có tội với nhân dân của họ thì nhân dân trị tội họ, chứ đâu phải Hoa Kỳ. Vị thủ tướng này có tội gì với Hoa Kỳ hay chăng? Phải chăng tội ông đã cộng tác làm việc với Tổng Thống Sađam Hussein? Nếu cộng tác với Sađam Hussein là tội phạm đến Hoa Kỳ mà vị tổng thống này đã làm gì phạm đến Hoa Kỳ chưa? Nếu vị tổng thống này chỉ là một nhà độc tài với dân tộc của ông ta thì để dân tộc này giải quyết lấy, tại sao lại xía vào chuyện tư của đất nước người khác? Nếu Hoa Kỳ muốn giải phóng các dân tộc như Iraq dưới chế độ “độc tài” Sađam Hussein, tại sao không dám làm gì Trung Cộng, Cuba, các nước Cộng Sản v.v. toàn là chế độ độc đảng độc quyền? Nếu bảo hạ Sađam Hussein vì trong tay nhà độc tài dường như có liên hệ với tổ chức khủng bố quốc tế này có các thứ vũ khí đại công phá có thể nguy hiểm đến riêng Hoa Kỳ và chung thế giới thì những thứ này đâu?

Bởi thế, nếu việc Hoa Kỳ bạo lực giải giới Iraq là một hành động bất chính và sai lầm thì chính Hoa Kỳ phải lên tiếng xin lỗi thế giới, xin lỗi Liên Hiệp Quốc và nhân dân Iraq, và phải bồi thường tất cả những thiệt hại đã gây ra cho riêng Iraq và chung cộng đồng quốc tế, chứ đừng nói đến chuyện bắt người và tìm cách thoát thân bằng việc nghi ngờ Syria để tìm cách đánh tiếp như đã đánh A Phú Hãn và Iraq.

Về vấn đề quân đội Hoa Kỳ ở lại Iraq cho tới khi nước này có chính phủ tự trị và có thể tự trị theo chế độ dân chủ thì không biết tới bao giờ, vì theo tình hình cho thấy, các đảng phái và sắc dân ở nước này vốn chia rẽ và tranh đoạt, (xin lỗi, chẳng khác gì như một cộng đồng Việt Nam hải ngoại từ trước đến nay), nếu không chịu bỏ đi tất cả những tư lợi và khuynh hướng chính trị của mình để đồng tâm nhất trí tái thiết đất nước, họ khó có thể tiến đến chỗ thống nhất và biến Iraq thành một quốc gia đầy tương lai, trái lại, Iraq có nguy bị phân mảnh và xâu xé, (như trường hợp nhân dân lợi dụng tình thế bất ổn đã hôi của thế nào, các tay chính trị cũng lợi dụng thay đổi hôi quyền vơ lực như vậy), đấy là chưa nói đến tình trạng có thể bị đô hộ bởi một thứ đế quốc tư bản tân thực dân.

Do đó, đẹp nhất là Hoa Kỳ, sau khi lên tiếng xin lỗi thế giới và tìm cách bù đắp những thiệt hại gây ra do lầm lỗi của mình, Hoa Kỳ chính thức nhường chỗ cho Liên Hiệp Quốc vào làm tất cả những gì họ đang muốn tiếp tục làm ở Iraq thời hậu chiến, kể cả việc tiếp tục truy tìm các thứ vũ khí đại công phá, đến việc lập chính phủ lâm thời và việc trợ giúp nhân đạo cho nhân dân Iraq.

 

Tại sao cho đến nay vẫn chưa thấy khói súng?

Bộ trưởng nội vụ Hoa Kỳ Powell đã trả lời trong cuộc phỏng vấn với chương trình truyền hình Charlie Rose hôm Thứ Ba 22/4 cho biết Hoa Kỳ đã xét lại mối liên hệ với Pháp là nước đã dẫn đầu việc phản đối và chống lại Hoa Kỳ đối với quyết định của Hoa Kỳ muốn dùng võ lực giải giới Iraq. Ông còn nói mạnh là việc chống lại Hoa Kỳ. Để đối lại với lời hăm đe của vị bộ trưởng nội vụ này, ngoại trưởng Pháp Dominique de Villepin, ngày hôm sau Thứ Tư, trong chuyến viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ, đã cho biết Pháp sẽ tiếp tục giữ nguyên tắc đối với những vấn đề như trường hợp của Iraq: “Suốt cuộc khủng hoảng Iraq, Pháp cùng với đại đa số cộng đồng quốc tế đã tác hành hợp với các niềm xác tín của cộng đồng này cùng với những nguyên tắc của nó trong việc bênh vực luật lệ quốc tế. Pháp sẽ tiếp tục làm như thế trong tất cả mọi trường hợp”.

Trong khi đó, ở Hiệp Vương Quốc, vấn đề tìm kiếm những thứ vũ khí đại công phá ở Iraq là một vấn đề hết sức quan trọng đối với Thủ Tướng Tony Blair. Tại sao? Tại vì, sở dĩ các nhà lập pháp Hiệp Vương Quốc ủng hộ hành động quân sự hôm 18/3/2003 là do vị thủ tướng này nói Iraq có các thứ vũ khí đại công phá nguy hiểm cho nền hòa bình và an ninh thế giới. Đối với quốc hội Hiệp Vương Quốc thì không có vấn đề lật đổ Sađam Hussein, mà chỉ có vấn đề vũ khí đại công phá mà thôi, và họ đồng ý cho quân đi giải giới. Trước khi bỏ phiếu, vị thủ tướng này còn được hỏi kỹ là liệu ông tin rằng Iraq vẫn còn các thứ vũ khí cấm ấy chăng, ông trả lời là “Phải, đúng thế. Chẳng có hồ nghi tí nào về những năm Iraq đã có những thứ vũ khí này. Chúng tôi đang được chất vấn là liệu chúng tôi có tin rằng, sau khi các thanh tra viên bị đẩy ra khỏi Iraq năm 1998, chế độ này đã tự nguyện từ bỏ các thứ vũ khí ấy hay chăng. Tôi bao giờ cũng nghĩ rằng điều này không thể nào tin nổi”. Thế nhưng, những người thuộc đảng MP của vị thủ tươnùng này, những người đã ủng hộ cuộc chiến một cách lưỡng lực giờ đây đặt vấn đề một cách gay gắt là tại sao cho đến nay vẫn không thấy khói súng bốc lên. Một số người còn đặt vấn đề là nếu những thứ khí giới ấy thật sự nguy hiểm thì tại sao chúng không được Sađam Hussein sử dụng để tự vệ chứ? Vần đề cuối cùng này đã được thoidiemmaria.net, trong bài “Ai Thắng Ai Thua trong cuộc chiến giải giới Iraq” được phổ biến ngày Thứ Năm 10/4 (ở cả dongcong.net) nêu lên như sau:

“Nếu quả thực Iraq hoàn toàn và thực sự không có những thứ vũ khí đại công phá ấy thì không phải là nhà độc tài Sađam Hussein đúng hay sao? Bởi thế, dù thua về quân sự Iraq nói chung và nhà độc tài Sađam Hussein nói riêng này đã thắng về tinh thần, ở chỗ, đã nói thật, chúng tôi không có những thứ vũ khí cấm là không có, (đó là lý do Iraq đã không ngại để cho LHQ thanh tra vũ khí ba tháng trời). Ngoài ra, nếu quả thực Iraq có những thứ vũ khí nguy hiểm ấy, tại sao nhà độc tài Sađam Hussein không chịu sử dụng để phản công trước khi hoàn toàn thất thủ? Phải chăng vì ông ta không kịp trở tay? Thế còn các nhân viên thân cận nhất của ông thì sao, họ vẫn có thể sử dụng chúng thay ông vậy? Chẳng lẽ họ chết hết một lúc? Nhà lãnh đạo Hội Nghị Quốc Gia Iraq là Ahmad Chalabi đã cho CNN biết hôm Thứ Tư 9/4/2003 là có những lời tường trình cho rằng tổng thống Iraq đã ẩn nấp ở thành phố Baqubah, phía đông bắc thủ đô Baghdad: ‘Chúng tôi không có chứng cớ là họ đã bị giết trong cuộc tấn công này. Ít là chúng tôi biết được rằng Qusay, con trai của vị tổng thống này, còn sống và anh ta đang chiếm đóng ở một số nhà trong miền Diyala’. Cũng những nguồn tin này còn cho biết Tướng Ali Hassan al-Majeed, biệt danh là ‘Chemical Ali’, đã bị thương nhưng còn sống và đang ở một địa điểm này với Qusay. Vậy, nếu cho đến giây phút cuối cùng Iraq vẫn không sử dụng vũ khí cấm đã cho thấy, một là họ thực sự và hoàn toàn không có những thứ này, hai là họ nhân đạo và quảng đại hơn thành phần sử dụng bạo lực để giải giới chính cái ảo tưởng của thành phần tấn công này. Vậy thì thử hỏi ai thắng ai thua trong trận chiến tranh bạo lực giải giới được gọi là cuộc hành quân giải phóng Iraq này của US và UK?”
 

Bão phải có mưa - Mừng mà vẫn sợ!

Khi cuộc chiến Iraq kể như vừa chấm dứt sau ba tuần lễ vào ngày pho tượng Sađam Hussein ở thủ đô Baghdad bị giật đổ, tượng trưng cho một chế độ cũ sụp đổ, thì thế giới đã phải đương đầu với một trận chiến khác, với một cuộc khủng bố của Hội Chứng Khủng Hoảng Hô Hấp Trầm Trọng SARS (severe acute respiratory syndrome), một hội chứng được Tổ Chức Sức Khỏe Quốc Tế WHO (World Health Organization) khám phá thấy phát xuất từ Đông Nam Á vào đầu năm 2003.

 

Cho tới ngày Chúa Nhật Phục Sinh 20/4/2003, con số được CNN phổ biến, những người mắc bệnh và bị chết vì cuộc khủng bố của SARS lên tới 3.741 vụ, trong đó có 190 người đã qua đời, trên khắp thế giới như sau: Úc Châu 3, Ba Tây 2, Canada 304 có 13 chết, Trung Hoa 1.512 có 65 chết, Pháp 5, Đức 6, Hồng Kông 1.380 có 88 chết, Ấn Độ 1, Nam Dương 1, Ý 3, Ái Nhĩ Lan 1, Nhật 4, Kuwaitt 1, Mã Lai 5 có 1 chết, Mông Cổ 3, Phi Luật Tân 1, Rômania 1, Singapore 177 có 16 chết, Nam Phi 1, Tây Ban Nha 1, Thụy Điển 3, Thụy Sĩ 1, Đài Loan 29, Thái Lan 7 có 2 chết, Hiệp Vương Quốc 6, Hiệp Chủng Quốc 220, Việt Nam 63 có 5 chết.

Tình hình hậu chiến Iraq đang xẩy ra là, trước hết là tình trạng hỗn loạn xẩy ra tại thủ đô Baghdad ngay sau khi Iraq “được giải phóng”, nhất là nạn trộm cướp, đặc biệt là nạn trộm cướp Bảo Tàng Viện Quốc Gia là một trong những bảo tàng quí nhất trên thế giới; sau đó đến phản ứng chống đối của Khối Hồi Giáo Đông Nam Á; tới Khối Ả Rập lân bang Iraq; sang tới Khối Hiệp Nhất Âu Châu; đến Khối Hồi Giáo Trung Đông.

 

Trước hết, về nạn trộm cướp: Vị phó giám đốc của Bảo Tàng Viện Quốc Gia Iraq ở thủ đô Baghdad là bà Nabhal Amin hôm Thứ Bảy 12/4/2003 đã khóc khi nói với thông tấn xã Reuters rằng: “Họ đã lấy mất hay hủy hoại 170 ngàn thứ đồ cổ cả ngàn năm trước… Chúng trị giá cả bao nhiêu tỉ Mỹ kim”. Bà qui trách cho quân đội Hoa Kỳ, lực lượng kiểm soát Baghdad từ khi chính phủ Sađam Hussein sụp đổ vào hôm Thứ Tư 9/4/2003 vừa rồi, một lực lượng làm chủ tình thế bấy giờ nhưng không chịu nghe lời của nhân viên bảo tàng viện này trong việc ngăn cản dân chúng ùa vào bảo tàng này hôm Thứ Sáu 11/4/2003 để lấy đồ. “Các người Hoa Kỳ đáng lẽ phải bảo vệ bảo tàng viện này. Nếu họ có một chiếc xe tăng và hai người lính thì không thể nào những điều như vậy lại xẩy ra được. Tôi cho rằng các binh sĩ Hoa Kỳ phải chịu trách nhiệm về những gì xẩy ra cho bảo tàng viện đây”.

Tiếp đến là phản ứng của Khối Hồi Giáo Đông Nam Á: Trong khi một số dân chúng Iraq ở thủ đô Baghdad vui mừng hớn hở như đã được lực lượng liên minh giải phóng, đến nỗi thành phần dân chúng này đã giật đổ pho tượng Sađam Hussein, thì tại vùng Đông Nam Á, các nước Hồi Giáo như Nam Dương và Mã Lai, kể cả Thái Lan với 10% Hồi Giáo, đều tỏ ra ngờ vực về thành quả của hành động quân sự của lực lượng liên minh nhất là Hoa Kỳ. Nhiều người thấy cuộc chiến tranh của Hoa Kỳ là cuộc chiến tranh của một thực dân đế quốc chứ không phải là một thứ phát triển dân chủ và nhân quyền.

 

 

Vị thủ lãnh của nhóm Muhammadiyah 30 triệu người Hồi Giáo, một nhóm Hồi Giáo đứng hàng thứ hai tại Nam Dương, đã cho biết: “Niềm vui này không hoàn toàn nguyên trọn. Những lực lượng ở đó giống như những tay thực dân. Ở đáy lòng của nhiều người, lòng căm hận Hoa Kỳ sẽ kéo dài, lòng căm ghét rất ư là sâu đậm. Tôi không ủng hộ Sađam nhưng việc hủy diệt Iraq là việc hủy diệt đi lương tâm thiện hảo cũng như hủy diệt đi những giá trị nhân bản cao quí nhất”. Ông này còn so sánh Tổng Thống Bush với Thành Cát Tư Hãn của đế quốc Mông Cổ. Phần nhà lãnh đạo của đảng Thủ Tướng Mã Lai Mahathir Mahamad cho biết việc sụp đổ của Sađam Hussein cho thấy thế giới đã bị Hoa Kỳ làm chủ và Liên Hiệp Quốc đang bị mất thế giá: “Điều này báo một dấu hiệu rất xấu cho các quốc gia Hồi Giáo, đó là dấu hiệu cho biết rằng những ai phạm đến Do Thái có thể phải đương đầu với áp lực về kinh tế hay quân sự của Hiệp Chủng Quốc. Chúng tôi không thấy những người Hồi Giáo ở Mã Lai nhẩy mừng”.

Sang đến Khối Ả Rập lân bang Iraq: Khi thấy những người lính Hoa Kỳ lái xe tăng đến trung tâm thủ đô Baghdad để chụp lá cờ Hoa Kỳ trên bức tượng Sađam Hussein ở Công Trường Firdos, đã tỏ ra cẩn trọng và nghi ngờ hành động tấn công của Hoa Kỳ. Hình ảnh bức tượng Sađam Hussein bị bịt bằng lá cờ Hoa Kỳ, tức trước khi được binh lính thay bằng lá cờ Iraq, là hình ảnh đã được đăng trên trang nhất của các tờ báo trong vùng hôm Thứ Năm 8/4/2003. Truyền hình Ả Rập cho đó là một việc làm “sai lầm” Đài Al-Jazeera đã nói: “Đó là biểu hiệu cho những gì đang xẩy ra. Hết mọi sự sẽ trở thành Mỹ”. Vị chủ bút của tờ Cairo Times là Hisahm Kassem đã cho biết: “Hôm nay là cái mốc điểm của lịch sử Ả Rập. Đây là cuộc sụp đổ đầu tiên của một chế độ quyền trị… Tôi nghĩ rằng sẽ xẩy ra một cuộc ảnh hưởng giây chuyền khắp cả vùng Ả Rập”.

Phần phe phản chiến Nga-Đức-Pháp: Trong cuộc gặp gỡ ở Nga cuối tuần 11-12/4/2003, theo Reuters, tổng thống Nga Putin nói rằng: “Mục tiêu của chiến tranh là giải giới Iraq chưa đạt được… Chúng ta không được lẫn lộn ý niệm. Không ai lại thích chế độ Iraq dính dáng tới Sađam Hussein, thế nhưng đó không phải là vấn đề”. Cơ quan thông tín Associcated Press cho biết tổng thống Pháp đã nói là: “Công việc phục hồi guồng máy chính trị, kinh tế và xã hội của Iraq là một việc rộng lớn. Chỉ Liên Hiệỉp Quốc mới hợp lý làm điều này”.

Đối với Âu Châu, hôm Thứ Năm 17/4/2003, sau hai ngày họp hội, các vị lãnh đạo Âu Châu vừa tuyên bố tại Nhã Điển rằng Khối Hiệp Nhất Âu Châu và Liên Hiệp Quốc phải đóng vai trò quan trọng trong việc tái thiết Âu Châu. Bản tuyên cáo do Nước Hy Lạp đang nắm vai trò chủ tịch của khối này nói rằng: “Liên Hiệp Quốc phải đóng vai trò chính yếu, bao gồm cả tiến trình dẫn đến chính phủ tự trị cho nhân dân Iraq, bằng cách sử dụng khả năng chuyên nhất và kinh nghiệm của họ trong việc kiến thiết vào thời hậu chiến. Ở vào giai đoạn này, liên minh có nhiệm vụ phải bảo đảm an toàn cho môi trường sinh sống, bao gồm cả khoản trợ giúp về nhân đạo cũng như khoản bảo về gia sản về văn hóa cùng với các bảo tàng viện”.

Tới Khối Hồi Giáo Trung Đông: Thứ Sáu 18/4/2003, sau cuộc họp miền ở thủ đô Riyadh nước Saudi, các vị ngoại trưởng thuộc 8 quốc gia trong miền (trong đó có 6 nước lân bang Iraq là Saudi Arabia, Syria, Turkey, Iran, Kuwait và Jordan, và hai nước khác là Egypt và Bahrain), đã ra một bản tuyên ngôn gọi lực lượng liên minh hãy giúp cho Iraq hình thành một tân chính phủ nhưng đừng chi phối nội bộ của xứ sở này, việc tái thiết xứ sở Iraq thuộc về vai trò của Liên Hiệp Quốc. Các vị ngoại trưởng trong cuộc họp này cũng phản đối những lời tố cáo của chính phủ Hoa Kỳ đối với Syria như muốn lấy lý để tấn công Syria sau A Phú Hãn và Iraq. Ông Hoàng Saud Al-Faisal, ngoại trưởng nước Saudi, sau cuộc họp, đã lập đi lập lại cảm nhận của ông về lực lượng liên minh như là một lực lượng “xâm chiếm” và mong rằng lực lượng này rút khỏi Iraq “sớm bao nhiêu có thể”. Đối với ông, lực lượng liên minh trước hết phải giữ an ninh cho nước này rồi mới được ra đi và phải ra đi: “Trách nhiệm phải bảo trì an ninh. Thế nhưng ở lại là không đúng. Đó là trách nhiệm phải làm sao tạo lập cho cho tình hình có thể ra đi”.

Cũng trong ngày Thứ Sáu 18/4/2003 này, tại thủ đô Baghdad, chung quanh Đền Abu Hanifa, dưới sự tổ chức của những người Hồi Giáo thuộc sắc tộc Sunni và Shiite, hàng mấy ngàn người Iraq đã xuống đường gần trung tâm Baghdad sau những buổi cầu nguyện, lên tiếng đòi phải chấm dứt những gì họ gọi là việc liên minh “xâm chiếm” đất nước của họ. Đoàn người biểu tình mang những biển ngữ có hàng chữ như “nước Iraq phải được người Iraq chủ trị”, “Không có vấn đề xâm chiếm và Hiệp Nhất”. Họ hô hoán những câu chống đối người Hoa Kỳ.

Trong khi đó, thành phần Kitô hữu Iraq cảm thấy nhẹ gánh trước tình trạng sụp đổ của chế độ cũ, song vẫn cảm thấy lo âu về tương lai liên quan đến tình trạng hỗn loạn và thành phần cực bảo thủ Hồi Giáo. ĐTGM Jean Benjamin Sleiman ở thủ đô Baghdad, vị lãnh đạo 800 ngàn Kitô hữu ở xứ sở này đã cho biết nhận định của mình như sau: “Ở nơi đây không hế có ý niệm tư do như là một thứ quyền lợi. Cả ý niệm về giáo dân cũng thế, thường được áp dụng cho xứ sở này cũng phải hiểu một cách thận trọng. Tôi không biết những gì sẽ xẩy ra cho mai này nếu ảnh hưởng và áp lực của những nhóm cực đoan đang tăng phát thế lực của mình trong tương lai. Tôi không thấy được một cách chắc chắn là quan niệm về dân chủ đã gần kề. Một đàng các người Kitô hữu không muốn bị dội bom, nhưng đàng khác lại muốn có sự thay đổi”.

Tại Thủ Đô Baghdad có một viện mồ côi ở số 52 đường Al Wada do 4 sơ thuộc dòng Thừa Sai Bác Ái của Mẹ Têrêsa Calcutta trông coi có 22 trẻ em bị tật nguyền về tâm trí và tàn tật về thể lý. Dì Carol đã cho biết: “Trong khi xẩy ra chiến tranh, trẻ em cho là đang có một điều gì đó xẩy ra không tốt. Giữa những cuộc dội bom, chúng tôi bảo các em rằng đó là một trận bão lớn. Một số em đã hỏi chúng tôi cho chúng thấy trời mưa”. Trong ba tuần lễ chiến tranh, các nhà thờ đã trở thành nơi trú ngụ cho dân chúng bất kể tôn giáo. Sau đó họ đã trở ved62 nhà mình. Chỉ có một nhà thương Thánh Raphael ở Baghdad không bị cướp phá sau chiến cuộc vì có hai người canh gác có khí giới, cũng có thể là vì dân chúng tôn kính các dì Phanxicô ở đây. Dì Maryanne Pierre phụ trách bệnh viện này cho biết nhà thương không thiếu gì cả, về thuốc men, lương thực, nước uống, chỉ sợ cái máy điện duy nhất bị hư thôi vì nó phải làm việc ngày đêm: “Khi cuộc chiến đang xẩy ra, chúng tôi đặc biệt lo cho phân bộ các bà đẻ. Nỗi sợ hãi đã làm cho nhiều phụ nữ sinh non; có 350 thai nhi được sinh ra trong vàong 3 hai tuần lễ”. Các bà mẹ sinh xong về nhà liền sau hai ngày vì lo cho gia đình trong thời chiến. Sở này còn cho biết: “Đối với một người Hồi Giáo thì binh lính Hoa Kỳ là các người Kitô hữu và cuộc xung đột được coi như là một cuốc tấn công Hồi Giáo”.

Hôm Thứ Ba 22/4/2003, ông trưởng ban thanh tra vũ khí Hans Blix đã nói với Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc là ban thanh tra sửa soạn trở lại kiểm soát các thứ vũ khí đại công phá ở Iraq. Thế nhưng, Tòa Bạch Ốc cho biết là Hoa Kỳ đã làm việc này rồi thay cho ban thanh tra quốc tế của ông. Đó là lý do Hoa Kỳ đã qua mặt Liên Hiệp Quốc để tự động ra tay giải giới Iraq bằng võ lực, và vì đã leo lên lưng ngựa họ khó có thể xuống ngựa khi chưa thực sự tìm ra những gì họ muốn, bằng không họ sẽ không biết ăn nói làm sao với thế giới, không đạt được mục đích chiến tranh của họ. Pháp lên tiếng kêu gọi dung hòa cộng tác giữa hai nhóm thanh tra của lực lượng liên minh và Liên Hiệp Quốc. Cho tới nay vẫn chưa thấy dấu vết nào của những thứ vũ khí này.

 

“Nước Iraq phải được người Iraq chủ trị”

Hôm Thứ Năm 17/4/2003, sau hai ngày họp hội, các vị lãnh đạo Âu Châu vừa tuyên bố tại Nhã Điển rằng Khối Hiệp Nhất Âu Châu và Liên Hiệp Quốc phải đóng vai trò quan trọng trong việc tái thiết Âu Châu. Bản tuyên cáo do Nước Hy Lạp đang nắm vai trò chủ tịch của khối này nói rằng: “Liên Hiệp Quốc phải đóng vai trò chính yếu, bao gồm cả tiến trình dẫn đến chính phủ tự trị cho nhân dân Iraq, bằng cách sử dụng khả năng chuyên nhất và kinh nghiệm của họ trong việc kiến thiết vào thời hậu chiến. Ở vào giai đoạn này, liên minh có nhiệm vụ phải bảo đảm an toàn cho môi trường sinh sống, bao gồm cả khoản trợ giúp về nhân đạo cũng như khoản bảo về gia sản về văn hóa cùng với các bảo tàng viện”. Khối Hiệp Nhất Âu Châu quyết tâm “đóng vai trò đáng kể trong việc tái kiến thiết chính trị và kinh tế” của Iraq.

Bản tuyên cáo này đã được soạn thảo bởi Hiệp Vương Quốc, Pháp, Đức và Tây Ban Nha, và được bàn hỏi với vị tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Kofi Annan ở Nhã Điển trước khi được 15 quốc gia hội viên chấp thuận. Tổng Thống Pháp Chirac cho biết “Liên Hiệp Quốc là cơ cấu duy nhất có khả năng và pháp hiến để tìm cách giải quyết cuộc khủng hoảng này”, và thêm ngay rằng tình trạng an ninh hiện nay vẫn thuộc về trách nhiệm của lực lượng liên minh.  Riêng về vấn đề đóng vai trò đáng kể trong việc tái thiết Iraq, một vấn đề đã gây ra chia rẽ trầm trọng nơi Khối này, cả giữa các nước hội viên lẫn các nước đang là dự viên. “Khối Hiệp Nhất này nói lên quyết tâm chung của chúng ta trong việc chấm dứt các thế kỷ xung đột cũng như trong việc thắng vượt những chia rẽ trước đây nơi địa lục của chúng ta… Chúng ta quyết tâm chấp nhận các thứ trách nhiệm hoàn vũ của chúng ta. Chúng ta sẽ ủng hộ việc ngăn ngừa xung khắc, cổ võ công lý, trợ giúp bảo toàn hòa bình và bảo vệ tình trạng ổn định của thế giới. Chúng ta quyết tâm hoạt động ở tất cả mọi tầng cấp trong việc triệt hạ nạn khủng bố thế giới cũng như trong việc nghiêm ngặt về các thứ vũ khí đại công phá”. Cũng vào ngày Thứ Tư mở đầu cho hai ngày của cuộc họp thượng đỉnh ấy, 10 quốc gia mới đã ký một hiệp ước gia nhập khối Hiệp Nhất Âu Châu này vào Tháng 5/2004 là Cyprus, the Czech Republic, Estonia, Hungary, Latvia, Lithuania, Malta, Poland, Slovakia và Slovenia.

Vào ngày thứ nhất của cuộc họp thượng đỉnh Khối Hiệp Nhất Âu Châu này, cảnh sát Hy Lạp đã phải gay go đương đầu với hàng ngàn những người xuống đường phản chiến, thành phần muốn phá hàng rào cảnh sát ở Công Trường Syntagma là nơi cách cuộc họp thượng đỉnh này mấy trăm mét. Những người xuống đường này đã ném đá, các lọ sơn và các trái bom dầu vào các toà lãnh sự Ý, Pháp, Hoa Kỳ và Hiệp Vương Quốc; còn cảnh sát đã bắn hơi cay vào đám đông sau khi đám đông trở nên bạo loạn và đập phá. Cảnh sát cho biết có cả 8 ngàn người tham dự cuộc xuống đương hăng máu này, trong đó có 108 người bị bắt nhốt sau hai tiếng bạo loạn.

Sau cuộc họp thượng đỉnh của Khối Hiệp Nhất Âu Châu một ngày, tức vào hôm Thứ Sáu 18/4/2003, Đài Truyền Hình Abu Dhabi đã cho phát hình một cuốn băng hình cho thấy một người được cho là Sađam Hussein chào hỏi các người ủng hộ mình trong ngày Thứ Tư 9/4/2003, ngày thủ đô Baghdad thất thủ. Lời nói của người trong cuốn băng hình này tuyên bố là “chúng ta tin tưởng rằng cuối cùng chiến thắng sẽ lọt vào tay của chúng ta”.

Cũng trong ngày này, tại thủ đô Baghdad, chung quanh Đền Abu Hanifa, dưới sự tổ chức của những người Hồi Giáo thuộc sắc tộc Sunni và Shiite, hàng mấy ngàn người Iraq đã xuống đường gần trung tâm Baghdad sau những buổi cầu nguyện, lên tiếng đòi phải chấm dứt những gì họ gọi là việc liên minh “xâm chiếm” đất nước của họ. Đoàn người biểu tình mang những biển ngữ có hàng chữ như “nước Iraq phải được người Iraq chủ trị”, “Không có vấn đề xâm chiếm và Hiệp Nhất”. Họ hô hoán những câu chống đối người Hoa Kỳ.

Tổng Hành Dinh của Bộ Tư Lệnh Hoa Kỳ ở Qatar, trong một cuộc tường trình, tướng Vincent Brooks đã nói là các người Iraq có quyền bày tỏ nơi một nước Iraq tự do và muốn nghe họ nói về những gì họ nghĩ về lực lượng đồng minh: “Sẽ có một số người muốn thấy lực lượng liên minh ra đi, một số muốn thấy được việc phục hồi của thứ quyền lực trước đây, những người khác muốn nắm quyền lực để nhắc nhở chúng tôi rằng đây là nước Iraq giành cho nhân dân Iraq, chúng tôi quá biết như vậy và chúng tôi tôn trọng điều ấy”.

Trong khi đó, cũng vào ngày thứ sáu này, Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh của Giáo Hội Công Giáo, tại hí trường Colosseum ở Rôma, đã diễn ra một cuộc đi Đường Thánh Giá theo truyền thống tổ chức vào ngày này. Thế nhưng, năm nay, một gia đình người Iraq đã được Tòa Thánh mời đi theo đường thánh giá là bà quả phụ và người con trai của bác sĩ Carlo Urbani, vị giám đốc của WHO (World Health Organization) đã khám phá ra trùng SARS ở Hà Nội Việt Nam vào đầu năm nay và rồi lại bị chết vì trùng này.

 

"Xin hãy cẩn thận về những gì đang xẩy ra... Nó không phải là một cái gì giỡn chơi”

Trước hết, về vấn đề giải giới Iraq, Iraq cương quyết tuyên bố họ không có những thứ vũ khí cấm, trong khi Hoa Kỳ vẫn cứ khăng khăng cho là có, đến nỗi, đã dám qua mặt cả Liên Hiệp Quốc trong việc đơn phương sử dụng bạo lực để giải giới Iraq. Nếu không tìm được những thứ vũ khí cấm này, Hoa Kỳ thực sự chẳng những sai về nguyên tắc qua mặt Liên Hiệp Quốc, mà còn sai cả về thực tế vì đã không đạt được mục đích giải giới. Không biết Hoa Kỳ có ý định tìm cho bằng được những thứ khí giới này tại Iraq hay chăng, để chứng minh cho thấy cái “chính đáng” của cuộc chiến tranh giải phóng nhân dân Iraq như Tổng Thống Bush rao rêu tuyên bố? Chỉ biết rằng, hôm Thứ Hai 4/4, CNN loan tải rằng “một vị tướng của Hoa Kỳ hôm Thứ hai nói rằng những người lính Hiệp Chủng Quốc đã tìm thấy được 11 phòng thí nghiệm di động được chôn dấu ở miền nam thủ đô Baghdad là những gì có khả năng sử dụng sinh trùng và hóa chất”. Ngày hôm sau, Thứ Ba, 15/4/2003, CNN lại cho biết: “Theo vị làm đầu của nhóm chuyên viên khảo sát thì những phòng thí nghiệm di động được chôn dấu do các quân lính Hiệp Chủng Quốc tìm thấy tuần vừa rồi không phải là những phòng thí nghiệm các thứ khí giới hóa chất và sinh trùng như một vị tướng lãnh Hoa Kỳ lầm tưởng”.

Về vấn đề Syria, ông bộ trưởng nội vụ Colin Powell hôm Thứ Ba 15/4/2003 đã nói với Trung Tâm Báo Chí Hải Ngoại ở Washington biết là chính phủ Hoa Kỳ không có dự định tấn công bất cứ một quốc gia nào khác “vì mục đích lật đổ vai trò lãnh đạo của các nước ấy hay vì mục đích áp đặt giá trị dân chủ trên các nước này. (Thoidiemmaria: thực tế đã cho thấy khác hẳn, như trường hợp Tổng Thống Diệm ở Việt Nam năm 1963. Những gì Hoa Kỳ nói cần phải đăt lại, chẳng hạn Hoa Kỳ rất thích bản quyết định 1441 của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc vì đã được chấp thuận 100%, nhưng thấy không thành công, đã không chấp nhận bản quyết định thanh tra vũ khí nữa, bằng việc tự động đơn phương tấn công Iraq). Iraq là một trường hợp chuyên biệt. Iraq không phải chỉ là vấn đề của một nhà độc tài ở đó mà là một nhà độc tài khủng bố nhân dân của mình… ngoài ra, lại còn xâm chiếm các nước lân bang, đe dọa toàn thể thế giới bằng các thứ vũ khí đại công phá và ủng hộ các hoạt động khủng bố”.

(Thoidiemmaria: cũng vẫn là những lời tố cáo của Hoa Kỳ, nhất là vấn đề cuối cùng ở đây vẫn chưa được kiểm chứng, nhưng Hoa Kỳ đã bất chấp công pháp quốc tế trong việc tự động đơn phương tấn công Iraq bằng võ lực). Ông nói thêm chính phủ Saddam Hussein đã coi thường “ý muốn của cộng đồng quốc tế bảo ông ta bỏ đi những thứ vũ khí này suốt cả một thời gian 12 năm”. (Thoidiemmaria: vậy thì còn Hoa Kỳ tự động tấn công Iraq không phải là việc làm trái với ý muốn của cộng đồng quốc tế qua Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc hay sao?). “Chúng tôi đang để ý tới việc Syria chế tạo các thứ vũ khí đại công phá, chúng tôi đang quan tâm tới việc Syria tiếp tục ủng hộ các tổ chức khủng bố và trong mấy tuần gần đây chúng tôi đã để ý tới việc chuyển vận các chất liệu vào Iraq qua ngả biên giới, cũng như việc chuyển vận người ngợm qua lại. Chúng tôi đang có những quan tâm đã được chúng tôi bày tỏ một cách trực tiếp hay cứng cỏi với những người Syria về sự kiện có một số viên chức Iraq phạm tội ác, hay ít là rất đáng hồ nghi đã phạm tội ác, có thể đang tìm cách trú ẩn ở Syria. Chúng tôi không tin rằng Syria vì lợi lộc của mình thấy được điều này”.

Vị phó lãnh sự Syria ở Liên Hiệp Quốc là Imad Moustapha đã nói với CNN cũng vào cùng ngày Thứ Ba là Hiệp Chủng Quốc bắt đầu giống như một quốc gia “muốn tấn công một xứ sở nhỏ này đến một xứ sở nhỏ khác. Xin hãy cẩn thận về những gì đang xẩy ra. Đây không phải là một trò dễ chơi. Nó không phải là một cái gì giỡn chơi”. Thật vậy, theo CNN, “Thế nhưng cho tới nay các viên chức Hoa Kỳ vẫn chưa cung cấp được nhiều chứng cớ công khai cho những gì họ cáo buộc Syria”.

Còn về vấn đề các loại vũ khí đại công phá thì theo các nguồn tin ngoại giao cho CNN biết là Syria quả thực là có. Khi vị phó lãnh sự trên, cũng vào hôm Thứ Ba, được hỏi là liệu Syria có dám để thành phần thanh tra viên trung lập vào xứ sở của mình để khám xét các thứ vũ khí ấy chăng, ông đã xoay ngược vấn đề vặn lại liệu Hoa Kỳ có dám gửi thanh tra viên đến khám xét Do Thái hay chăng: “Xin để tôi làm sáng tỏ vấn đề này: Syria bao giờ cũng kêu gọi cộng đồng quốc tế hãy làm cho vùng Trung Đông thành một vùng phi các thư vũ khí đại công phá”.

Cũng vào hôm Thứ Ba, Tổng Thống Pháp Chirac đã gọi điện thoại cho Tổng Thống Bush. Theo các viên chức trong chính phủ Hoa Kỳ cho biết, hai vị lãnh đạo này đồng ý với nhau là Syria không nên dung chứa các nhà lãnh đạo Iraq, và việc làm cho Iraq không còn Saddam Hussein nữa vẫn tốt hơn. (Thoidiemmaria: tuy nhiên, chắc chắn vị tổng thống Pháp đã từng chống Hoa Kỳ ra mặt trong việc cứ muốn sử dụng võ lực tấn công Iraq vẫn không đồng ý về được lối hành sử của Hoa Kỳ. Và chắc chắn vị tổng thống Pháp cũng chỉ đồng ý là Syria không nên dung chứa các nhà lãnh đạo Iraq, nhưng như thế không có nghĩa là ông đã đồng ý việc Syria đã thực sự làm điều này).

Hôm Thứ Ba này còn là ngày xẩy ra cuộc họp đầu tiên của các nhóm chống đối chính quyền Saddam Hussein, một cuộc họp được Hoa Kỳ hứa hẹn là Hoa Kỳ không có ý cai trị xứ sở này. Sau cuộc bỏ phiếu đầu tiên được diễn ra trong cuộc họp này, thành phần đại biểu đã quyết định trở lại gặp nhau vào 10 ngày sau để bàn đến những dự thảo cụ thể cho việc kiến thiết một chính phủ mới hậu Saddam. Theo bản văn 13 điều được Bộ Tư Lệnh Trung Ương Hoa Kỳ phổ biến sau cuộc họp ở thành Ur này thì các đại biểu thuộc các nhóm Sunni, Shiite và Kurdish, cũng như những nhà chính trị xuất xứ tránh né chế độ Saddam, tất cả tham dự viên chừng 60 người, đồng ý thực hiện một guồng máy dân chủ liên bang “không dưa trên căn tính chung”, một căn tính sẽ được “xây dựng trên việc tôn trọng tính cách đa dạng, bao gồm cả việc tôn trong vai trò của nữ giới”. Tất cả mọi thứ bạo lực về chính trị đều “phải được loại trừ”, và đảng Baath “phải giải thể cùng với các thứ ảnh hưởng của nó nơi xã hội nữa”. Thành phần tham dự cuộc họp đầu tiên này do Hoa Kỳ chọn lọc, Hoa Kỳ nói là Hoa Kỳ muốn thấy được một chính quyền lâm thời “sớm bao nhiêu có thể”. (Thoidiemmaria: Đây là một chứng cớ rõ ràng cho thấy Hoa Kỳ đưa những người Iraq của mình vào cuộc, thành phần sẽ bị Hoa Kỳ sai khiến, dù sau này có được dân chúng bầu lên cho có vẻ dân chủ).

Còn vấn đề Russia có dính dáng tới Iraq thì như thế này. Hôm Thứ Ba, một viên chức cao cấp ngoại giao Hoa Kỳ ở Nga là ông Alexander Vershbow cho một tờ nhật báo của Hiệp Vương Quốc Sunday Telegraph biết là có những tài liệu cho thấy Nga đã có những trao đổi mật vụ với Baghdad cả mấy tháng trước khi xẩy ra chiến tranh Hoa Kỳ tấn công Iraq. Theo tờ nhật báo này thì Nga đã chuyền tín liệu thu thập được từ các nước Tây Phương về quyết định của US và UK muốn tấn công Iraq. Hãng Thông tấn Associated Press trích lại lời của vị lãnh sự này nói trong tở nhật báo Nga Vremya Novostei như thế này:

“Chúng tôi biết rằng đã có những liên lạc giữa tình báo Iraq và Nga. Thế nhưng quá sớm để thẩm định vấn đề này. Chúng tôi đang cần thêm các dữ kiện”. Vị ký giả của tờ nhật báo này là David Harrison đã cho CNN biết rằng, tuần vừa rồi, sau khi chế độ Saddam Hussein sụp đổ, ông đã đi vào bộ thông tin là nơi vừa bị dội bom vừa bị cháy ở thủ đô Baghdad và thấy những văn liệu về sự trợ giúp của Nga: “Chúng tôi đã lục khắp các hộc tủ, hồ sơ và ngăn kéo, và đã tìm ra một số tín liệu bất thường về các giao dịch giữa Iraq và Moscow. Chúng tôi đã thấy… chứng cớ là những người Nga đã do thám Thủ Tướng Tony Blair và đã báo tin cho những người Iraq biết. Tôi đã khám phá thấy một bản tường trình bàn đến việc gửi quân đến Iraq. Bản tường trình này được đề ngày 5/3 năm ngoái. Cuộc trao đổi này được những người Nga ghi chép có liên quan đến việc gửi quân đến Iraq. Tony Blair đã nói với Thủ Tướng Ý Sylvio Berlusconi là ông chưa sẵn sàng để làm điều này trong khi Hiệp Vương Quốc vẫn còn quân đội tại A Phú Hãn… điều này còn quá sớm”. Harrison còn nói ông cũng thấy có những bản tường trình về các cuộc nói chuyện giữa Tổng Thống Bush và các nhà lãnh đạo quốc gia khác về ý định ông muốn gây chiến và vấn đề ấy quan trọng ra sao trong việc Iraq phải tuân hợp với các quyết định giải giới của Liên Hiệp Quốc. Cũng trong tuần vừa qua được biết ngay trước khi chiến tranh xẩy ra đã gửi một sứ điệp cho Tổng Thống Sađam Hussein khuyên ông này từ nhiệm.

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

Thông Điệp “Hòa Bình dưới thế” và vai trò chính yếu của LHQ

Vào tối Thứ Sáu 11/4/2003, ngày kỷ niệm đúng 40 năm ban hành Bức Thông Điệp “Hòa Bình dưới thế” (Pacem in Terra) của Đức Thánh Cha Gioan XXIII, tại Viện Đại Học Tòa Thánh Lateranô đã có một cuộc cử hành mừng kỷ niệm được đặt dưới quyền chủ tọa của Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Angelo Sodano với lời mở đầu và ĐTGM chủ tịch Hội Đồng Công Lý và Hòa Bình của Tòa Thánh là Renato Martino với lời trình bày.

ĐHY Quốc Vụ Khanh nói: “Chính vào cùng ngày hôm nay 40 năm trước đây, một sứ điệp hy vọng nữa đã được gửi cho toàn thể thế giới phát đi từ Rôma”. Sau cuộc cử hành mừng này, các ký giả đã phỏng vấn ngài về vị thế của Tòa Thánh trong tình hình quốc tế hiện nay. ĐHY đã cho biết: “Tòa Thánh tiếp tục chiều hướng hoạt động của mình; chiều hướng một đàng rao giảng Huấn Quyền của mình kèm theo đường lối ngoại giao. Trước khi cuộc chiến hiện nay xẩy ra, chúng tôi đã hết sức để ngăn cản nó đừng xẩy ra. Một khi nó đã xẩy ra, chúng tôi hoạt động để cho nó sớm chấm dứt và giờ đây hy vọng là thành phần thường dân sớm được phục hồi, và việc đối thoại liên tôn vẫn không hề bị sứt mẻ”. Được hỏi về vai trò chính yếu của Liên Hiệp Quốc, ĐHY trả lời: “Chắc chắn là thế, Đức Giáo Hoàng đã nói vậy, chúng ta là một gia đình các dân nước và chúng ta phải cộng tác, đó là định mệnh của các dân tộc”. Được hỏi vai trò chính yếu của Liên Hiệp Quốc được thực hiện cả ở Iraq hậu chiến hay sao, ĐHY đáp: “Ngay cả ở Iraq nữa”. Được các ký giả lập lại về nỗi lo sợ của Tòa Thánh đối với các cuộc xung đột khác ở Trung Đông gây ra bởi cuộc chiến Iraq, ĐHY cho biết: “Chúng tôi không phải là những vị tiên tri lên án. Chắc chắn chúng tôi hy vọng là Liên Hiệp Quốc sẽ lại đóng vai trò của mình, như quí vị đã nghe trong các bài nói chuyện ở đây trong cuộc họp này về các giáo huấn của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII”.

Một bản thông cáo của Hội Đồng Công Lý và Hòa Bình của Tòa Thánh đã tóm tắt bài nói chuyện của ĐTGM chủ tịch hội đồng đã từng là quan sát viên thường trực của Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc 16 năm này như sau: “Tình hình khủng hoảng của Liên Hiệp Quốc, sau quyết định dùng chiến tranh tấn công Iraq, chẳng những không phản lại mà còn củng cố và trở thành khẩn trương hơn nữa những lời kêu gọi của Thông Điệp Hòa Bình dưới thế liên quan đến một thẩm quyền chính trị thế giới trong việc bảo toàn hòa bình và phát triển các dân tộc”. Theo lời của ĐTGM chủ tịch thì: “tình trạng yếu kém của các tổ chức quốc tế bao hàm tình trạng yếu kém trong việc trở nên một gia đình, thế nhưng những tổ chức quốc tế này sẽ không được củng cố nếu khả năng của những tổ chức này trong việc thể hiện vấn đề luân lý cũng như trong việc thực hiện một đường lối phụ trợ về thẩm quyền cho một chính quyền quốc tế không được củng cố”.

Hôm Thứ Bảy 12/4/2003, vị lãnh sự Hoa Kỳ James Nicholson ở Vatican trong một cuộc phỏng vấn với tờ nhật báo Corriere della Sera về nhận định của ông đối với mối liên hệ giữa Tòa Thánh và Hoa Kỳ về vụ Iraq. Nói chung, theo ông cho biết Tòa Thánh và Hoa Kỳ “thật sự gần gũi nhau về các giá trị” và vụ Iraq không làm “đông lạnh” mối liên hệ giữa đôi bên. Nói nói:

“Tổng Thống Bush và Tòa Thánh Vatican thật sự có nhiều điều giống nhau, như vấn đề tôn trọng sự sống (thoidiemmmaria: tôn trọng sự sống không phải chỉ liên quan đến vấn đề thai nhi mà cả đến sinh mạng của thành phần vô tội ở A Phú Hãn, ở Iraq, và cả của quân nhân Hoa Kỳ cùng lính tráng đối phương nữa), tôn trọng nhân phẩm con người, tôn trọng quyền tự do tôn giáo và tôn trọng nhân quyền (thoidiemmaria: tôn trọng nhân quyền gì mà Hoa Kỳ lại qua mặt Liên Hiệp Quốc, cho mình có quyền  hơn hết mọi quốc gia khác?). Khi nói với các nhà ngoại giao của toàn thể thế giới (hôm 13/1/2003), Đức Giáo Hoàng đã nói: ‘đừng có đánh nhau. Chiến tranh không phải là không thể tránh được’. Về điều này, Hiệp Chủng Quốc hoàn toàn đồng ý như vậy. Ngài thêm: ‘Chiến tranh phải là biện pháp cuối cùng’. Chúng tôi cũng đồng ý cả điều này nữa. Một ít hôm sau, Ngài lại nói về vấn đề ấy như sau: ‘chiến tranh là một thất bại của nhân loại’. Chúng tôi cũng đồng ý về trường hợp này nữa. Thực sự chúng tôi chưa từng phản đối các lời phát biểu của Ngài. Ngài là một con người hòa bình; Ngài không thể bày tỏ khác đi được (thoidiemmaria: như thế có nghĩa là nếu ngài không phải là giáo hoàng thì ngài cũng theo chủ trương võ lực của Hoa Kỳ hay chăng?). Ngoài ra, Ngài chưa hề nói: ‘Chiến tranh là vô luân’. Giáo lý của Công Giáo đồng ý thuyết chiến tranh chính đáng, chẳng hạn như trong trường hợp một xứ sở bị tấn công hay gặp nguy cơ bị tấn công đến nơi. Tổng Thống Bush tin rằng Hiệp Chủng Quốc đang đối diện với một tình trạng như thế (thoidiemmaria: vậy thì hễ bất cứ cái gì kẻ có quyền lực trong tay, kẻ cả trước mặt thiên hạ tin đều là đúng và do đó được quyền làm theo những gì mình tin, như trường hợp tổng thống Hoa Kỳ đã làm cho Iraq hay sao?). Đức Giáo Hoàng không đồng ý với phán đoán này… Hiệp Chủng Quốc hy vọng rằng thế giới (thoidiemmaria: ngoại trừ hay bao gồm cả Hoa Kỳ?) sẽ nghe theo lời huấn dụ của Đức Giáo Hoàng khuyên ‘Con người phải biết sống trong sự chấp nhận lẫn nhau’ (thoidiemmaria: đối với Hoa Kỳ là ở chỗ nào đây?). Mục tiêu của Hiệp Chủng Quốc là tránh gây ra cuộc đụng độ giữa các nền văn minh (thoidiemmmaria: nhưng thực tế lại hoàn toàn ngược lại, chỉ vì lợi ích của mình?)”.
 

 

Một Iraq hỗn loạn sau khi được “giải phóng”

Vị phó giám đốc của Bảo Tàng Viện Quốc Gia Iraq ở thủ đô Baghdad là bà Nabhal Amin hôm Thứ Bảy 12/4/2003 đã khóc khi nói với thông tấn xã Reuters rằng: “Họ đã lấy mất hay hủy hoại 170 ngàn thứ đồ cổ cả ngàn năm trước… Chúng trị giá cả bao nhiêu tỉ Mỹ kim”. Bà qui trách cho quân đội Hoa Kỳ, lực lượng kiểm soát Baghdad từ khi chính phủ Sađam Hussein sụp đổ vào hôm Thứ Tư 9/4/2003 vừa rồi, một lực lượng làm chủ tình thế bấy giờ nhưng không chịu nghe lời của nhân viên bảo tàng viện này trong việc ngăn cản dân chúng ùa vào bảo tàng này hôm Thứ Sáu 11/4/2003 để lấy đồ. “Các người Hoa Kỳ đáng lẽ phải bảo vệ bảo tàng viện này. Nếu họ có một chiếc xe tăng và hai người lính thì không thể nào những điều như vậy lại xẩy ra được. Tôi cho rằng các binh sĩ Hoa Kỳ phải chịu trách nhiệm về những gì xẩy ra cho bảo tàng viện đây”.

Một nhân viên canh gác 30 năm ở bảo tàng viện này là Muhsen Kadhim cho biết ông không ngờ mà có quá nhiều người nhào vô cướp giật như thế. Ông cho biết “ngay khi tôi thấy quân đội Hoa Kỳ ở gần bảo tàng viện này, tôi đã xin họ hãy bảo vệ nó, nhưng đến ngày thứ hai thì các người cướp giật đã đến lấy trộm hay phá hủy tất cả những thứ đồ cổ”.

Bà Amin đã nói với 4 người canh gác cầm súng để bảo vệ những thứ còn lại. Bảo tàng viện này vừa mở cửa cho công chúng vào xem vào Tháng Tư năm 2000, sau khi đóng cửa vào đầu Cuộc Chiến Vùng Vịnh 1991. Bảo tàng này đã thoát cuộc thủ đô Baghdad bị Hoa Kỳ dội bom năm 1991 và cả cuộc tấn công vào thủ đô này của Hoa Kỳ vừa rồi. Bảo tàng này trưng bày các thứ đồ cổ quí giá của văn hóa Babylon và Nineveh, các thứ tượng Sumeria, các bức họa Assyria và các thứ tấm ghi những chữ viết cả 5 ngàn năm trước. Ngoài ra bảo tàng này còn có những mũ và chén bằng vàng và bạc của nghĩa trang ở Ur, quê hương Abraham xưa. Iraq, cái nôi văn minh xa xưa trước cả các đế quốc Ai Cập, Hy Lạp hay Rôma, là nơi của các triều đại vua thiết lập nền canh nông và tạo ra chữ viết, cùng xây cất các thành Nineve, Numrud và Babylon.

Sau khi bảo tàng viện quốc gia Iraq ở thủ đô Baghdad này bị dân chúng nhào vô cướp phá sau khi quân đội Hoa Kỳ hoàn toàn làm chủ tình thế, cơ quan Liên Hiệp Quốc UNESCO (United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization), qua vị tổng giám đốc là Koichiro Matsuura, cũng vào hôm Thứ Bảy 12/4/2003, đã lên tiếng kêu gọi hãy bảo vệ “những thu góp và là một gia sản được coi như một gia sản phong phú nhất thế giới”. Vị tổng giám đốc cơ quan Liên Hiệp Quốc này cũng yêu cầu cảnh sát quốc tế và các thẩm quyền của các quốc gia lân bang với Iraq hãy ngăn chặn “những thứ xuất cảng bất hợp pháp các đồ vật văn hóa của Iraq” và đồng thời kêu gọi “những người chuyên nghề về thị trường nghệ thuật” hãy hợp tác với UNESCO “để ngăn chặn việc thất thoát các thứ đồ vật bị đánh cắp”.

Trước tình trạng vô chính phủ tha hồ nhào vô ăn cướp các thứ đồ công tư tại thủ đô Baghdad sau khi thành phố này lọt vào tay lực lượng xâm chiếm Hoa Kỳ, ngoài cơ quan về văn hóa của Liên Hiệp Quốc trên đây lên tiếng kêu gọi về việc bảo tồn các thứ đồ cổ quí giá, còn có chính lực lượng nhân dân Iraq hôm Chúa Nhật 13/4/2003 đã lên tiếng: “Chúng tôi không muốn có một nhà lãnh đạo. Chúng tôi không muốn nói về quá khứ. Chúng tôi muốn tiến lên”, khi họ nghe thấy phát ngôn viên của nhà chính trị lưu vong Zubaydi gọi vị này là lãnh tụ trong một cuộc họp hỗn hợp để kêu gọi bắt tay ổn định tình hình hiện nay. Dầu sao cuộc họp này cũng là một nỗ lực đầu tiên của người Iraq muốn tái lập một chính phủ dân sự. Nhiều người trong họ cho biết họ muốn chứng tỏ cho thế giới thấy họ có khả năng xây dựng lại đất nươcùc của họ trên cái hoang tàn của chế độ cũ.

Vào hôm Thứ Bảy 12/4/2003, Ngũ Giác Đài Hoa Kỳ tổng kết chiến tranh về phíc Hoa Kỳ như sau: 114 tử thương, kể cả 7 người mới ngày hôm trước, ít là 399 người bị thương, 6 bị mất tích và 7 bị bắt làm tù binh. Tuy nhiên vào ngày Chúa Nhật 13/4/2003, 7 tù binh Hoa Kỳ này đã được lực lượng Iraq ở phía bắc Baghdad thả ra và đã được máy bay C-130 chở sang Kuwait City. Các người lính trẻ Iraq canh giữ 7 tù binh Hoa Kỳ này đã mang họ tới cho đơn vị Thủy Quân Lực Chiến Hoa Kỳ ở phía bắc Samarra, khoảng 25 dặm về phía nam tỉnh Tikrit, quê hương của Tổng Thống Sađam Hussein, nơi cuối cùng chưa chịu đầu hàng lực lượng Hoa Kỳ.

Cũng vào hôm Thứ Bảy 12/4/2003, vị lãnh sự Hoa Kỳ James Nicholson ở Vatican trong một cuộc phỏng vấn với tờ nhật báo Corriere della Sera về nhận định của ông đối với mối liên hệ giữa Tòa Thánh và Hoa Kỳ về vụ Iraq. Nói chung, theo ông cho biết Tòa Thánh và Hoa Kỳ “thật sự gần gũi nhau về các giá trị” và vụ Iraq không làm “đông lạnh” mối liên hệ giữa đôi bên. Nói nói:

“Tổng Thống Bush và Tòa Thánh Vatican thật sự có nhiều điều giống nhau, như vấn đề tôn trọng sự sống, tôn trọng nhân phẩm con người, tôn trọng quyền tự do tôn giáo và tôn trọng nhân quyền. Khi nói với các nhà ngoại giao của toàn thể thế giới (hôm 13/1/2003), Đức Giáo Hoàng đã nói: ‘đừng có đánh nhau. Chiến tranh không phải là không thể tránh được’. Về điều này, Hiệp Chủng Quốc hoàn toàn đồng ý như vậy. Ngài thêm: ‘Chiến tranh phải là biện pháp cuối cùng’. Chúng tôi cũng đồng ý cả điều này nữa. Một ít hôm sau, Ngài lại nói về vấn đề ấy như sau: ‘chiến tranh là một thất bại của nhân loại’. Chúng tôi cũng đồng ý về trường hợp này nữa. Thực sự chúng tôi chưa từng phản đối các lời phát biểu của Ngài. Ngài là một con người hòa bình; Ngài không thể bày tỏ khác đi được. Ngoài ra, Ngài chưa hề nói: ‘Chiến tranh là vô luân’. Giáo lý của Công Giáo đồng ý thuyết chiến tranh chính đáng, chẳng hạn như trong trường hợp một xứ sở bị tấn công hay gặp nguy cơ bị tấn công đến nơi. Tổng Thống Bush tin rằng Hiệp Chủng Quốc đang đối diện với một tình trạng như thế. Đức Giáo Hoàng không đồng ý với phán đoán này… Hiệp Chủng Quốc hy vọng rằng thế giới sẽ nghe theo lời huấn dụ của Đức Giáo Hoàng khuyên ‘Con người phải biết sống trong sự chấp nhận lẫn nhau’. Mục tiêu của Hiệp Chủng Quốc là tránh gây ra cuộc đụng độ giữa các nền văn minh”.
 

“Mục tiêu của chiến tranh là giải giới Iraq chưa đạt được…”

 

Trong cuộc gặp gỡ của phe phản chiến Nga-Đức-Pháp ở Nga cuối tuần 11-12/4/2003, theo Reuters, tổng thống Nga Putin nói rằng: “Mục tiêu của chiến tranh là giải giới Iraq chưa đạt được… Chúng ta không được lẫn lộn ý niệm. Không ai lại thích chế độ Iraq dính dáng tới Sađam Hussein, thế nhưng đó không phải là vấn đề”. Thoidiemmaria.net đã nói đến vấn đề Hoa Kỳ không đạt được mục đích giải giới của mình trong bài "Ai Thắng Ai Thua trong cuộc chiến giải giới Iraq" được phổ biến hôm Thứ Năm 10/4/2003 trên cả dongcong.net và thoidiemmaria.net, thời điểm sau 3 tuần bạo lực Hoa Kỳ giải giới Iraq: "Nếu Hoa Kỳ muốn qua mặt thế giới để tự động dùng võ lực tấn công Iraq để giải giới Iraq hầu cứu Hoa Kỳ và thế giới khỏi nhà độc tài Sađam Hussein khủng bố tấn công bằng những thứ vũ khí nguy hiểm, mà chẳng thấy những thứ vũ khí ấy đâu, thì không phải là chính Hoa Kỳ đã chứng tỏ cho thế giới thấy rằng Hoa Kỳ hoàn toàn tố cáo bậy bạ cho Iraq và đã thực sự sai lầm trong việc đánh Iraq". Cơ quan thông tín Associcated Press cho biết tổng thống Pháp đã nói là: “Công việc phục hồi guồng máy chính trị, kinh tế và xã hội của Iraq là một việc rộng lớn. Chỉ Liên Hiệỉp Quốc mới hợp lý làm điều này”.


Trước đó, trong cùng tuần lễ, thứ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ là Paul Wolfowitz khi ngỏ lời với hội đồng thượng viện Hoa Kỳ đã cho biết LHQ “không thể lãnh trách nhiệm ấy”. Ngoài ra ông này còn nói nếu phe phản chiến là Nga, Pháp và Đức muốn đóng góp vào việc tái thiết Iraq thì hãy tha nợ cho Iraq cả chục tỉ bạc do Sađam Hussein vay mượn. Để đáp lại lời thách đố này, tổng thống Putin nói điều này không buộc Nga nhưng có thể thực hiện; còn Pháp và Đức cho biết điều này nói đến quá sớm. Hiện tại Iraq đang nợ Nga 12 tỉ, Pháp 8 tỉ và Đức 4 tỉ Mỹ kim.

 

Vị thứ trưởng Hoa Kỳ này hôm Thứ Năm 10/4/2003 còn hăm dọa Syria liên quan đến chiến tranh Iraq như thế này: “Trong những ngày gần đây, những người Syria đã gửi những tay sát nhân đến Iraq để sát hại những người Hoa Kỳ, chúng tôi không hoan nghênh điều ấy. Tôi nghĩ rằng các nước lân bang của Iraq không được pha mình vào chuyện Iraq. Nếu họ tiếp tục, chúng tôi cần phải nghĩ tới chính sách của mình về xứ sở che chở cho những tay khủng bố hay những tay tội ác chiến tranh, hay những lần vừa rồi đã chuyển đồ vật đến cho Iraq”. Một viên chức cao cấp Hoa Kỳ đã cho CNN biết rằng: “Chúng tôi đang nói chuyện với họ, nói riêng cũng như nói công khai, họ cần hiểu rằng ngoài kia là một thế giới mới”.

 

Cũng cuối tuần này, ngoại trưởng Pháp là De Villepin đã đến Syria để gặp gỡ tổng thống nước này là ông Basher al-Assad một ngày sau khi Syria đóng cửa biên giới sát với Iraq vì bị Hoa Kỳ làm áp lực bằng những lời tố cáo như đe dọa như trên. Trong một cuộc tường trình tin tức, ngoại trưởng Syria là Farouk al-Sharaa hôm Thứ Bảy 12/4/2003 đã cho biết: “Đôi khi tôi không nghĩ rằng những người Hoa Kỳ họ biết được những gì họ muốn nữa. Họ cáo giác chúng tôi là giấu diếm những thứ vũ khí đại công phá của Iraq, thế nhưng họ lại không chịu nghe khi chúng tôi nói cho họ biết rằng chúng tôi không có những thứ ấy. Chúng tôi không có những thứ vũ khí và chúng tôi không che chở ai, họ chẳng có trưng dẫn bằng cớ nào cho chúng tôi cả”. Khi nói về cuộc giải giới bạo lực của Hoa Kỳ, ông ngoại trưởng này cho biết:

 

“Hãy nhìn xem những điều này: A Phú Hãn có yên ổn hay chăng? Những mục tiêu của họ đã đạt được chưa? Họ đã tìm thấy Osama bin Laden chưa?”. Đối với Iraq, ông này đề cập đến tình trạng “lợi dụng lấy đồ và vô luật pháp” ở Iraq sau khi pho tượng Sađam Hussein bị giật đổ: “Họ đã để lại cả một tình trạng be bét ở cả hai xứ sở này và họ chưa hoàn thành việc của họ. Giờ đây họ lại nhắm đến một quốc gia thứ ba. Các sử gia đang nói đến Thế Chiến Thứ Hai và cách thức những người Đức cần phải được chặn đứng sớm hơn”. Ngay trước khi vị ngoại trưởng Syria này sắp sửa lên tiếng công khai so sánh chính phủ Bush với Đảng Nazi Đức Quốc Xã thì ngoại trưởng Pháp đã chặn ông ta lại bằng câu: “Ông không muốn đưa ra cái so sánh này. Đừng so sánh như vậy”.

 

Về nhận định của vị ngoại trưởng Syria trên đây về hai cuộc chiến tranh đánh A Phú Hãn và Iraq của Hoa Kỳ, cũng cùng bài viết như trên đã đề cập tới, thoidiemmaria.net đã nhận định: "Nếu Hoa Kỳ tấn công A Phú Hãn để bắt cho bằng được tên chúa trùm khủng bố thế giới là bin Laden mà họ cho là chủ mưu trong vụ khủng bố tấn công 911 song cho đến nay vẫn chẳng biết nhân vật này ở đâu, nay tấn công Iraq để triệt hạ nhà độc tài Sađam Hussein, song cũng chẳng thấy xác của nhà độc tài này đâu, thì phải chăng Hoa Kỳ đã thực sự triệt hạ được những mầm mống nguy hiểm cho họ và cho thế giới? Vì chưa đạt được mục đích của chiến tranh tấn công và hủy diệt khủng bố, trong đó có hai nhân vật hết sức nguy hiểm là bin Laden và Sađam Hussein, thử hỏi Hoa Kỳ đã thắng trận hay chưa, hay là đang phiêu lưu trong cuộc đối đầu với ma quái là những gì đã, đang và còn làm cho một đệ nhất siêu cường Hoa Kỳ kinh hoàng và hoảng sợ. Nếu sau trận chiến bạo lực giải giới Iraq một cách sai lầm này (sai lầm vì qua mặt quốc tế và không tìm thấy vũ khí cấm ở Iraq) này, Hoa Kỳ biết nghĩ lại chính sách ngoại giao của mình thì tốt, bằng cách hoàn toàn để cho Liên Hiệp Quốc tái thiết Iraq, và có thể cứu vãn được tình thế về sau, bằng không, Hoa Kỳ thực sự đang đi vào một con đường không lối thoát, một ngõ cụt, death end - no way out".


Iraq: Hình Ảnh vào ngày Thứ Bảy 12/4/2003

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

“Đó là biểu hiệu cho những gì đang xẩy ra. Hết mọi sự sẽ trở thành Mỹ”

Binh lính liên minh được trao cho một danh sách 55 tên tuổi của các nhà lãnh đạo Iraq thuộc chế độ cũ; danh sách này được kèm theo hình ảnh để dễ nhận diện. Ngoài ra, lực lượng đồng minh còn treo những hình ảnh hay giấy tờ tại nhiều nơi khác nhau ở Iraq để truy lùng những người này cho bằng được. Tướng Vincent Brooks nói với các ký giả tại tổng hành dinh Bộ Tư Lệnh đồng minh ở Qatar là các tay lãnh đạo được liệt kê trong danh sách được “truy lùng, giết chết hay bắt giữ”.

Trong khi một số dân chúng Iraq ở thủ đô Baghdad vui mừng hớn hở như đã được lực lượng liên minh giải phóng, đến nỗi thành phần dân chúng này đã giật đổ pho tượng Sađam Hussein, thì tại vùng Đông Nam Á, các nước Hồi Giáo như Nam Dương và Mã Lai, kể cả Thái Lan với 10% Hồi Giáo, đều tỏ ra ngờ vực về thành quả của hành động quân sự của lực lượng liên minh nhất là Hoa Kỳ. Nhiều người thấy cuộc chiến tranh của Hoa Kỳ là cuộc chiến tranh của một thực dân đế quốc chứ không phải là một thứ phát triển dân chủ và nhân quyền.

Vị thủ lãnh của nhóm Muhammadiyah 30 triệu người Hồi Giáo, một nhóm Hồi Giáo đứng hàng thứ hai tại Nam Dương, đã cho biết: “Niềm vui này không hoàn toàn nguyên trọn. Những lực lượng ở đó giống như những tay thực dân. Ở đáy lòng của nhiều người, lòng căm hận Hoa Kỳ sẽ kéo dài, lòng căm ghét rất ư là sâu đậm. Tôi không ủng hộ Sađam nhưng việc hủy diệt Iraq là việc hủy diệt đi lương tâm thiện hảo cũng như hủy diệt đi những giá trị nhân bản cao quí nhất”. Ông này còn so sánh Tổng Thống Bush với Thành Cát Tư Hãn của đế quốc Mông Cổ.

Phần nhà lãnh đạo của đảng Thủ Tướng Mã Lai Mahathir Mahamad cho biết việc sụp đổ của Sađam Hussein cho thấy thế giới đã bị Hoa Kỳ làm chủ và Liên Hiệp Quốc đang bị mất thế giá: “Điều này báo một dấu hiệu rất xấu cho các quốc gia Hồi Giáo, đó là dấu hiệu cho biết rằng những ai phạm đến Do Thái có thể phải đương đầu với áp lực về kinh tế hay quân sự của Hiệp Chủng Quốc. Chúng tôi không thấy những người Hồi Giáo ở Mã Lai nhẩy mừng”.

Vị phó tổng thư ký của Ủy Ban Trung Ương Hồi Giáo Thái Lan là Kariya Kijjarak cho biết: “Chúng ta không thể dừng lại sau khi chiến tranh chấm dứt. Hiệp Chủng Quốc cho rằng họ đi giải phóng. Thế nhưng các xứ sở Hồi Giáo khác đang được cai trị bằng chế độ quân chủ chứ không phải dân chủ. Vậy thì nếu Hiệp Chủng Quốc sau này cho rằng họ đi giải phóng các xứ sở ấy thì sao?”

Còn ở chính các quốc gia Ả Rập lân bang Iraq, khi thấy những người lính Hoa Kỳ lái xe tăng đến trung tâm thủ đô Baghdad để chụp lá cờ Hoa Kỳ trên bức tượng Sađam Hussein ở Công Trường Firdos, đã tỏ ra cẩn trọng và nghi ngờ hành động tấn công của Hoa Kỳ. Hình ảnh bức tượng Sađam Hussein bị bịt bằng lá cờ Hoa Kỳ, tức trước khi được binh lính thay bằng lá cờ Iraq, là hình ảnh đã được đăng trên trang nhất của các tờ báo trong vùng hôm Thứ Năm 8/4/2003. Truyền hình Ả Rập cho đó là một việc làm “sai lầm” Đài Al-Jazeera đã nói: “Đó là biểu hiệu cho những gì đang xẩy ra. Hết mọi sự sẽ trở thành Mỹ”. Vị chủ bút của tờ Cairo Times là Hisahm Kassem đã cho biết: “Hôm nay là cái mốc điểm của lịch sử Ả Rập. Đây là cuộc sụp đổ đầu tiên của một chế độ quyền trị… Tôi nghĩ rằng sẽ xẩy ra một cuộc ảnh hưởng giây chuyền khắp cả vùng Ả Rập”.

Giới truyền thông Ả Rập hết sức thất vọng trước sự sụp đổ mau chóng của chế độ Iraq. Tờ nhật báo Al-fajr ở Algeria đã đặt vấn đề: “Phải chăng Sađam đã mật giao gì với những người Hoa Kỳ và Nga Sô để rời Baghdad hai ngày trước đó hay chăng? Điều này cho thấy cảnh tan hàng của bao hàng ngàn binh sĩ”.

Riêng về việc tìm kiếm tông tích của các tay lãnh đạo Iraq, như được liệt kê trong danh sách 50 người, Syria là nước chống Hoa Kỳ tấn công Iraq và bị Hoa Kỳ cảnh cáo vì đã viện trợ cho Iraq trong khi chiến tranh xẩy ra, đã lên tiếng thanh minh trước về vấn đề này, kẻo lại bị Hoa Kỳ gán ghép và tấn công như Iraq liên quan đến Sađam Hussein và A Phú Hãn liên quan đến bin Laden. Vị phó ngoại trưởng Syria ở Hiệp Chủng Quốc đã cho CNN biết rằng “Quân đội Hoa Kỳ đã kiểm soát ở các vùng biên giới giữa Iraq và Syria từ những ngày đầu của cuộc xung đột. Họ là những người đã kiểm soát những vùng biên giới ấy. Hãy để họ quyết định ai là người… họ muốn cho sang Syria hay ơ ũ lại Iraq”. Ông cũng cho biết người Syria không tin rằng nước của họ là nước Hoa Kỳ sẽ tấn công kế tiếp sau A Phú Hãn và Iraq, dù ông tin rằng một số viên chức Hoa Kỳ muốn sử dụng quân sự xâm chiếm vùng Trung Đông: “Chúng tôi tin rằng Syria, Ai Cập, Saudi Arabia và các quốc gia Ả Rập khác là những mục tiêu mơ ước đối với một số thức giả tân bảo thủ ở Hiệp Chủng Quốc đây…” Về cảnh hoan hỉ của dân chúng Iraq nhẩy nhót hớn hở ở các đường phố, ông này cho là những hình ảnh lừa bịp vì nhiều người Iraq buồn thảm không được thu vào ống kính.

Đó là bên phía Hồi Giáo Đông Nam Á và phía Ả Rập Trung Đông, còn phía Tây Phương Âu Châu thì sao?

Ngoại trưởng Nga là Igor Ivanov đã nói vào hôm Thứ Sáu 11/3/2003 là tùy Liên Hiệp Quốc trong vấn đề bảo toàn nền hòa bình và an ninh thế giới: “Chúng tôi hy vọng là Liên Hiệp Quốc sẽ thi hành vai trò chủ chốt này, nhất là trong việc ổn định tình hình hậu chiến của Iraq. Phải sử dụng thẩm quyền này để đạt được việc dàn xếp chính trị ở Iraq trong một thời gian ngắn nhất có thể. Điều này nhắm vào những lợi ích của nhân dân Iraq. Điều ấy nhắm vào những lời ích của cả miền ấy”.

Thế nhưng, bộ trưởng nội vụ Hoa Kỳ Colin Powell đã nói với tờ Los Angeles Times là ông không rõ vấn đề vai trò chính yếu của Liên Hiệp Quốc theo các nhà lãnh đạo Âu Châu đây là gì. Theo ông: “Ý nghĩ mà một số vị thân hữu của tôi có thể đưa ra không đúng là giờ đây những gì liên minh đã làm xong tất cả những điều ấy rồi và đã giải phóng Iraq rồi, thì xin cám ơn rất nhiều, và làm ơn tránh sang một bên để Hội Đồng Bảo An bắt đầu đảm nhiệm hết mọi sự. Họ biết điều ấy. Và họ được nói cho biết như vậy”.

Tổng Thống Putin, cũng vào cùng ngày Thứ Sáu, cho biết thế giới không có Sađam Hussein thì tốt hơn nhưng vẫn không đồng ý giải pháp quân sự. Bên cạnh Thủ Tướng Đức Gerhard Schoroeder tại một buổi họp, vị tổng thống này nói: “Chúng tôi bao giờ cũng nói rằng chế độ Sađam Hussein không hợp với nền dân chủ và nhân quyền… nhưng quí vị không thể giải quyết vấn đề bằng đường lối quân sự”. Ông đặt vấn đề thế giới hiện nay có tới 80% không hợp với tiêu chuẩn dân chủ của Tây Phương, vậy thì “chúng ta sẽ đi gây chiến với tất cả con số này hay sao? Nếu chúng ta đưa lên bàn cân xem phần lợi và hại trong kết quả của cuộc chiến tranh này – rõ ràng là chúng ta loại trừ được một chế độ tàn bạo. Thế nhưng bằng đường lối nào? Mất mát, tàn phá và thiệt mạng dân chúng. Đó là kết quả tiêu cực”. Ba vị lãnh đạo của phe phản chiến này, Tổng Thống Nga Putin, Tổng Thống Pháp Chirac và Thủ Tướng Đức Schroeder họp nhau ở thành phố của tổng thống Nga để chung tiếng kêu gọi Liên Hiệp Quốc hãy giữ vai trò chủ yếu trong việc tái thiết Iraq. “Chúng tôi chủ trương một cuộc trở lại nhanh chóng nhất vần đề theo phạm vi của Liên Hiệp Quốc này. Nga và Đức thiên về giải phạm chính trị…”.

Cũng vào cùng ngày Thứ Sáu, cựu ngoại trưởng Nga là Yevgeny Primakov, người đã được cả cựu Tổng Thống Gorbachev cách đây 12 năm và Tổng Thống đương kim Putin sai đến Iraq ngày 17/3/2003 gặp Tổng Thống Sađam Hussein để khuyên can vị tổng thống này, đã cho các ký giả biết rằng: “Vladimir Putin nói là cần phải làm hết mọi sự để ngăn tránh một cuộc xâm chiếm bằng võ lực, vì khó tránh được một con số lớn tử thương trong thành phần dân chúng”. Ông cựu ngoại trưởng này cho biết ông đã nói với Tổng Thống Sađam Hussein là nếu ông “yêu quê hương của ông và nhân dân của ông và muốn tránh thương vong cho họ thì ông nên từ chức”. Kết thúc buổi gặp gỡ, Tổng Thống Sađam Hussein đã vỗ vai từ giã ông Primakov với lời hứa sẽ tích cực hợp tác hơn nữa vơiùi các thanh tra viên Liên Hiệp Quốc.

 

 

Tòa Thánh Vatican: Những diễn tiến cuối cùng ở Baghdad… Một khi vũ khí im hơi lặng tiếng


Chiều Thứ Năm, 10/4/2003, tức một ngày sau khi tượng Sađam Hussein ở thủ đô Baghdad bị dân chúng giật đổ, một biến cố tượng trưng cho một chế độ cũ ở Iraq qua đi, như Bức Tường Bá Linh bị phá đổ cuối năm 1989 tiêu biểu cho thời điểm chấm dứt thời chiến tranh lạnh, chấm dứt tình trạng phân cách loài người, Tòa Thánh đã lên tiếng như sau:


“Được tin về những diễn tiến cuối cùng ở Baghdad đánh dấu một khúc quanh quan trọng trong cuộc xung đột ở Iraq và là một cơ hội đáng kể cho tương lai của dân tộc này, Bộ Nội Vụ của Tòa Thánh hy vọng rằng các cuộc hành quân đang diễn ra ở các nơi khác tại đất nước này sẽ sớm chấm dứt để tránh gây thêm số nạn nhân, thường dân hay quân đội, cũng như gây thêm đau khổ cho những thành phần này. Đối với vấn đề tiến tới việc tái thiết về vật chất, chính trị và xã hội của xứ sở này, Giáo Hội Công Giáo vẫn đang sẵn sàng, qua các cơ quan xã hội và từ thiện bác ái của mình, đóng góp những trợ giúp cần thiết. Các giáo phận ở Iraq cũng sẵn sàng cống hiến các cơ cấu của mình trong việc góp phần vào vấn đề phân phối trợ giúp nhân đạo một cách công bình. Một lần nữa, Bộ Nội Vụ của Tòa Thánh hy vọng rằng, một khi vũ khí im hơi lặng tiếng thì dân Iraq và cộng đồng quốc tế sẽ biết đương đầu với thách đố khẩn trương hiện tại đó là vấn đề dứt khoát mang lại một kỷ nguyên hòa bình cho miền Trung Đông”.

 

Iraq: hình ảnh Thứ Năm 10/4/2003

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Iraq: Hình ảnh ngày Thứ Sáu 11/4/2003