Thân Phận Làm Con
 



Hôm Chúa Nhật 22/9/2002 vừa rồi, cả gia đình tôi đưa cháu trai lớn nhất vô UCI, Đại Học của Tiểu Bang California ở Irvine Nam California, vì cháu học nội trú trong viện đại học này. Tất nhiên, với tất cả lòng quí mến con cái và trách nhiệm của mình, là cha mẹ, chúng tôi đã căn dặn cháu tất cả những gì cần thiết để cháu chẳng những thành đạt về việc học vấn mà còn về cả tư cách làm người nữa. Riêng tôi đã nói với cháu rằng: các môn học tự nhiên con sẽ học, như toán, vạn vật, lịch sử, kinh tế, xã hội học hay thậm chí kể cả khoa tâm lý học đi nữa v.v. cũng không thể nào giúp cho con nên người, cụ thể là giúp cho con tránh được những cám dỗ xấu xa, hay chịu đựng được những đau khổ trên đời, mà là những gì bố đã khuyên con thực hành hằng ngày về đời sống tâm linh của con, nhất là trong thời gian con bắt đầu cuộc sống tự lập ở một môi trường học hỏi về kiến thức tự nhiên như thế này. Trên đường về, tôi ngậm ngùi nhớ lại mới ngày nào thằng bé lên 18 tháng này còn ngồi trên chiếc xe gắn máy trò chơi, chạy vòng vòng dưới sân khu chung cư hai tầng, nơi gia đình tôi đã cư ngụ 18 năm về trước, mà nay nó đã vào đại học rồi. Thời gian trôi qua nhanh quá. Con người phát triển cuộc đời. Sự sống không ngừng tiến hóa.

Con Cái Kính Trọng Cha Mẹ

Thật vậy, nếu sự sống tiến hóa được bắt đầu từ khi con người còn là một mầm thai trong lòng mẹ, cho đến khi thành hình người trong tử cung thai mẫu và thành nhân trong lòng đời thế nào, thì sau này dù họ có trở thành một bà lão con đàn cháu đống, hay có trở thành một ông cụ đa tử đa tôn đa phú quí đi nữa, ông cụ bà lão răng long đầu bạc lưng còng này cũng đã là một người con, đã trải qua cuộc đời làm con, đã là hậu sinh trước khi trở thành tiền bối. Đó là lý do phận sự đầu tiên của thân phận làm con, thân phận hậu sinh, được thể hiện qua việc kính trọng cha mẹ, thành phần tiền bối của mình, thành phần đi trước mình, khôn ngoan hơn mình, hiểu biết hơn mình, kinh nghiệm hơn mình, để chỉ dẫn cho mình những ngõ tắt hầu nhờ đó mình có thể đạt tới mục đích của cuộc đời một cách nhanh chóng, dễ dàng, tốt đẹp, hay ít là giúp mình tránh được những ngõ cụt cuộc đời, những “dead end” – “no way out”, hay có thể tránh được những đường cùng lầm lẫn, tránh được những cạm bẫy của cuộc đời nhiều khi xảo quyệt điêu ngoa khôn lường, làm cho cuộc đời mình bị hư trầm khốn nạn vô cùng đáng thương đáng tiếc. Nếu biết kính trọng và thật lòng kính trọng cha mẹ là những vị tiền bối khả kính của mình, con cái có thể “back to the future” không khó khăn gì, bởi vì, những vị tiền bối, hay đúng hơn, chính cái vốn liếng khôn ngoan quá khứ nhiều khi hết sức chua cay đắng đót đắt đỏ của những vị tiền bối mẹ cha truyền thụ lại cho con cái chính là những gì xây dựng tương lai cho chúng vậy.

Tôi đang phục vụ một phong trào giới trẻ. Hằng năm các em có những dịp huấn luyện về khả năng tự nhiên cũng như học hỏi về kiến thức và trau dồi về tinh thần. Có lần, để mở màn cho một khóa huấn luyện về tinh thần, tôi hỏi các em rằng có em nào không muốn được tôn trọng chăng? Không em nào giơ tay lên. Tôi nhấn mạnh, nếu vậy là các em cho rằng các em biết tự trọng phải không? Các em đều thưa vâng rất nhanh và rất đều. Tôi tiếp tục đặt vấn đề cho các em thấy như sau: Thế nhưng, nếu các em muốn chúng tôi tin tưởng các em, tức là để tỏ ra các em thật sự biết tự trọng, các em phải tuân giữ tất cả những gì được ban tổ chức ấn định, về giờ giấc cũng như kỷ luật, không cần phải được ai nhắc nhở phải không? Các em ngần ngừ trả lời song cuối cùng cũng cố gật đầu đồng ý. Lần nào cũng như lần ấy, nhắc nhở như thế rồi, ý thức như vậy rồi, thế mà các em vẫn cứ có những điều cần phải nhắc nhở và sửa sai. Mỗi lần xẩy ra tôi lại lợi dụng để nói với các em rằng, đó, các em thấy không, dù sao các em vẫn chưa trưởng thành, trong khi các em muốn được người lớn tin tưởng mà các em lại có những hành động khiến cho chính các em mất uy tín. Thế nhưng, với thiện chí muốn tự trọng sẵn có của các em, nhất là sau khi sai lỗi biết can đảm nhận lỗi và quyết chí sửa sai, tôi cam đoan với các em là con người nhân vô thập toàn của chúng ta chắc chắn không thành công cũng thành nhân.

Con Cái Yêu Mến Cha Mẹ

Thế nhưng, vì thành phần tiến bối truyền đạt cho con cái những kinh nghiệm sống đời và làm người ấy không phải chỉ là một người lớn nào đó, như thày cô trong trường, hay những thần tượng cuộc đời, như minh tinh màn ảnh hoặc thể thao, mà là chính những bậc sinh thành ra mình, nên con cái chẳng những phải kính trọng mà còn có phận sự phải yêu mến các vị nữa. Nếu không ai có quyền chọn sinh ra đời hay chăng thì cũng không ai có quyền chọn cha mẹ, giống hệt như trường hợp những người làm cha làm mẹ cũng không có quyền chọn cho mình những đứa con do họ sinh ra. Bởi thế, sở dĩ cha mẹ con cái tự nhiên yêu thương nhau là vì tình nghĩa ruột thịt máu mủ, “máu chảy ruột mềm” là vậy.

Cách đây mấy năm, vào một buổi giáo huấn hằng tuần, tôi đã tâm sự với các con tôi là cách đây 25 năm bố không hề biết mẹ và mẹ cũng chẳng hề biết bố, thế rồi thiên duyên tiền định đã kết hợp bố mẹ lại thành vợ thành chồng, rồi thành cha thành mẹ của chúng con. Cách đây 20 năm, các con cũng đâu biết bố mẹ là ai và bố mẹ cũng chẳng biết các con là ai, nhưng cũng do thiên duyên tiền định, chúng ta đã trở thành một gia đình chỉ có 5 người, 5 con người với mặt mũi, tên tuổi, tính nết và khả năng độc nhất vô nhị của mình trong cả biết bao nhiêu tỉ người từ tạo thiên lập địa cho tới năm cùng tháng tận sống với nhau ở vào thời điểm lịch sử cuối ngàn năm thứ hai và sang ngàn năm thứ ba đây. Bởi thế, là phần tử trong cùng một gia đình với nhau, chúng ta phải yêu thương quí mến nhau, phải chấp nhận nhau như ruột thịt của mình, như những gì mình không thể bỏ đi hay thiếu được. Chúng ta đừng bao giờ hất hủi nhau, phủ nhận nhau, dù ai trong chúng ta có thế nào chăng nữa. Thậm chí bố mẹ có bê bối về luân lý đi nữa, cũng vẫn là những người sinh ra các con, không phải vì thế mà bố mẹ không phải là hay không còn là bố mẹ của các con nữa, dù các con không chịu chấp nhận bố mẹ nữa, hay dù các con có cảm thấy hết sức xấu hổ vì bố mẹ chăng nữa. Ngược lại, dù các con có hư thân mất nết đến thế nào đi nữa, có làm cho bố mẹ trở thành những kẻ không biết dạy con đi nữa, thậm chí dù bố mẹ có công khai từ các con trước mặt mọi người đi nữa, không phải vì thế mà các con không phải là hay không còn là những con người do bố mẹ sinh ra và dưỡng dục. Chúng ta hãy chấp nhận nhau và tha thứ cho nhau, chứ đừng đợi cho tới khi ai trong chúng ta nằm xuống bấy giờ chúng ta mới chịu tha thứ cho nhau, mới khóc thương và tiếc xót nhau thì đã muộn mất rồi. Chúng ta chẳng sống trên đời này với nhau bao lâu. Sau khi chết chúng ta không bao giờ còn trở lại cuộc sống gia đình như bây giờ nữa. Chúng ta hãy yêu thương nhau và gắn bó với nhau ngay từ lúc này. Chính tình yêu thương nhau mới làm chúng ta sống, mới làm cho chúng ta hạnh phúc. Tình yêu không phải chỉ ở chỗ lo lắng cho nhau, giúp đỡ nhau, chỉ bảo nhau, mà nhất là ở chỗ chấp nhận nhau và bao dung tha thứ cho nhau. Tôi thỉnh thoảng lập lại những tư tưởng trên đây với con cái của tôi.

Tuy nhiên, thực tế cũng như tâm lý cho thấy cha mẹ thương yêu con cái nhiều hơn là con cái mến yêu cha mẹ: “mẹ yêu con như trời như bể, con yêu mẹ con kể từng ngày” là như thế, “có nuôi con mới biết lòng cha mẹ” là vì vậy. Bởi thế, con cái không thể nào lấy bất cứ một sự gì vật chất để có thể báo hiếu công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ cho xứng đáng và đầy đủ được, nếu chính tấm lòng của chúng lại không biết hiếu thảo và mến yêu các ngài. Chính vì không biết ơn cha mẹ, không có sẵn lòng hiếu thảo với cha mẹ, con cái rất dễ tính toán với các vị, nhất là trừ công ơn của các vị đi bằng những lỗi lầm của các vị, đặc biệt là những gì các vị đã vì trách nhiệm phải đụng chạm đến quyền lợi của chúng, kể cả đến những gì chúng vốn không ưa không thích. Không thiếu gì những trường hợp đã xẩy ra ở xã hội văn minh ngày nay, cha mẹ vừa sang đoàn tụ với con cháu thì nản chí chỉ muốn trở về Việt Nam. Có những vị có con cái làm ăn lên, nhà cửa khang trang sang trọng nhưng lại lủi thủi ở trong dưỡng lão viện. Đứa làm ăn lên thì bảo là do tôi mượn tiền học, rồi làm đám cưới cũng do tôi bỏ tiền ra, thậm chí khi tôi còn bé ông bà cũng nhờ tôi dưới 18 tuổi mới được hưởng trợ cấp xã hội. Đứa long đong lận đận cũng đổ lỗi cho cha mẹ nghèo, không tạo cơ hội cho chúng tiến thân, hay cha mẹ chỉ ham làm ăn không có giờ cho chúng v.v. Trái lại, nếu tự bản chất đứa con nào vốn hiếu thảo với mẹ cha, thì cha mẹ có thế nào chăng nữa, chúng vẫn thông cảm và mến yêu các ngài, thậm chí dám lên tiếng bênh vực các ngài trước mặt những người anh chị em bất mãn nào của họ, dù họ có bị những người anh chị em ấy ghét bỏ chăng nữa. Không gì an ủi cha mẹ bằng những đứa con này, đối với các vị nó là đứa con thật sự đã trả hiếu cho các vị một cách xứng đáng. Nhưng cũng không gì an ủi cho cha mẹ bằng những đứa con tỏ ra hư hỗn với các vị một lúc nào đó đã nghĩ lại trở về xin lỗi các vị.

Con Cái Tin Tưởng Cha Mẹ

Con cái trọng kính cha mẹ là những vị tiền bối đi trước hướng dẫn mình là hậu sinh đi sau, và con cái yêu mến cha mẹ vì các vị là những bậc sinh thành và dưỡng dục mình cho khôn lớn. Thế nhưng, để tỏ ra thực sự kính trọng và mến yêu cha mẹ, con cái còn cần phải tỏ ra tin tưởng các vị nữa. Nếu con cái kính trọng cha mẹ vì các ngài là các vị tiền bối, và nếu con cái mến yêu cha mẹ là vì cha mẹ là những bậc sinh thành, thì con cái tin tưởng cha mẹ vì không ai yêu thương con cái bằng mẹ cha. Sở dĩ con cái không vâng lời cha mẹ là vì chúng không tin tưởng cha mẹ chúng. Và sở dĩ con cái không tin tưởng cha mẹ, một là vì cha mẹ không có đủ uy tín, hai là vì chúng tin chúng hơn cha mẹ, cho mình khôn hơn cha mẹ, ba là vì bản tính vốn hay lo sợ quá trớn.

Về lý do thứ ba liên quan đến việc thiếu tin tưởng này, tôi nhớ đến việc tập bơi cho đứa con gái của tôi tại Salt Lake vào mùa hè năm 1999. Nơi biển hồ Salk Lake này ai cố bơi thì dù chưa biết bơi cũng bơi được, vì nồng độ mặn của nước biển hồ ở đây. Lợi dụng dịp này tôi giục con gái của tôi bơi đi, nó cũng không dám bơi. Tôi nói thế thì để bố đỡ bụng con cho con bơi, nó cũng không dám, vì sợ chìm. Trường hợp đứa con rai thứ hai của tôi cũng thế, song hơi khác một chút. Đó là, tôi tập xe số tay cho cháu, để cháu có thể sử dụng chiếc Honda Civic 2001 của anh nó, người anh vừa vào nội trú đại học, để nó có thể tự động chở em nó đi học mỗi ngày. Vì trường tư thục của hai cháu ở hai nơi khác nhau, cách nhà hơn nửa tiếng lái xe đường trong. Khi tập cho cháu, tôi thấy cháu lái rất khá, nhưng cháu vẫn không dám lái một mình, vì cảm thấy sợ. Để cháu có thể tự tin hơn, tôi nhất định bắt cháu lái xe đi học một mình, chứ không theo kiểu tôi cứ ngồi trên xe cho cháu lái đến trường. Con nói với tôi: “Bố muốn để cho con chết hay sao?”. Bởi thế, để cháu yên trí hơn, tôi đã cho cháu biết rằng tôi lái xe riêng của tôi đi theo sau xe của cháu. Tối về tôi hỏi cháu: ngày mai con còn muốn bố đi theo xe của con nữa thôi, cháu đáp: cám ơn bố, con có thể lái xe đi học một mình được rồi.

Ngoài ra, còn những vấn đề khác, tôi cũng thường dùng đòn tin tưởng này để thúc giục các con tôi chấp nhận những gì chúng tôi là cha mẹ làm cho chúng nó hay bảo ban chúng nó. Chẳng hạn về vấn đề ăn uống, khi thấy chúng không thích ăn món này món kia do mẹ chúng dọn ra, tôi nói với các cháu: nếu món nào các con ăn mà bị đau bụng hay ói mửa, bố sẽ không bao giờ bắt các con ăn hay mẹ nấu cho các con ăn cả. Đằng này mẹ đi mua toàn là những món ăn chẳng những bổ béo và mắc tiền, lại còn mất công nấu cho các con ăn sau một ngày làm việc vất vả, mà các con chỉ vì không thích mà không ăn thì các con có thấy fair với mẹ không? Thế là các con tôi từ đó đã không ăn nhiều thì ít, không bao giờ dám kêu ca nữa, thậm chí có những món ăn rồi đâm thích muốn ăn nữa. Là những đưa trẻ sinh tại Mỹ mà lại có thể và thích thú đồ ăn Việt Nam, như phở, bò bẩy món, cơm phần v.v. Về những gì liên quan đến luân lý cũng vậy, mỗi lần thấy chúng hơi tỏ ra ngần ngại, ương ương hay khó chịu một chút, tôi liền nhỏ nhẹ nhắc nhở các cháu rằng, các con có tin rằng bố mẹ bao giờ cũng yêu thương các con? Tất nhiên các cháu trả lời là có. Vậy nếu bố mẹ thương yêu các con thì các con cũng phải tin rằng bố mẹ dạy bảo các con làm toàn những gì tốt cho các con, lợi cho các con mà thôi. Bố mẹ cũng thông cảm với các con là những điều tốt lành và lợi lộc cho các con theo ý bố mẹ ấy nhiều khi chắc chắn sẽ làm cho các con khó chịu, vì nghịch với ý thích của các con, ý nghĩ của các con, ý muốn của các con. Thế nhưng, các con chọn đằng nào, một là theo sở thích của các con, những thứ junk foods làm cho các con ăn ngon miệng nhưng chẳng bổ béo gì cho sức khoẻ, đôi khi ăn nhiều còn hại nữa là đàng khác, hai là theo ý bố mẹ, những thứ multi-vitamin tuy không khoái khẩu, không hợp thị hiếu của các con chút nào, song chắc chắn sẽ bồi bổ cho tâm hồn và đời sống làm người của các con. Những tư tưởng này dầu sao cũng đã làm cho các cháu suy nghĩ, và không biết chúng đã thấm đến đâu, thực tế cho thấy các cháu mỗi ngày một ngoan ngoãn dễ bảo.

Con Cái Vâng Lời Cha Mẹ

Phải, nếu công ơn sinh thành khiến cho con cái mến yêu thảo hiếu với cha mẹ, thì tình yêu thương chân thành thiết tha của cha mẹ đối với chúng trong cuộc đời sẽ làm cho chúng tin tưởng các vị hơn, và vì tin tưởng cha mẹ, tin tưởng rằng cha mẹ thương yêu mình, không bao giờ làm hại mình, trái lại, các ngài làm gì, nói gì, tỏ thái độ gì, dù cấm cản hay không cho phép mình làm những gì mình thích hoặc thấy hay, cũng chỉ vì thương mình, chúng sẽ dễ nghe lời của các vị hơn. Ngoài ra, con cái cần phải vâng lời cha mẹ còn có một lý do khác, đó là vì các vị có trách nhiệm đối với con cái, nhất là trách nhiệm giáo dục cho chúng nên người, không được để những gì tai hại xẩy ra cho chúng. Về vấn đề trách nhiệm của cha mẹ, thực tế cho thấy hai điều tương phản nhau sau đây: thứ nhất, đôi khi hay nhiều khi cha mẹ quá lo đến trách nhiệm của mình đến nỗi làm át mất cả quyền tự do của con cái lẫn lòng tự trọng của chúng, chạm đến tự ái làm người của chúng, nhất là những đứa đến tuổi dậy thì và thành niên; thứ hai, chính vì thế đã làm cho con cái ở vào tuổi này chẳng những không thấy cha mẹ thực sự thương mình hơn là thương các vị, mà còn thấy một cái gì đó độc đoán và độc ác trong việc cha mẹ sợ trách nhiệm của các vị nữa, từ đó mới xẩy ra những đối chọi, đụng độ, chia rẽ, thậm chí tới độ cha mẹ thì chửi rủa con cái, con cái thì vùng lên hỗn láo với cha mẹ. Bởi thế, vấn đề ở đây là phải làm sao dung hòa giữa trách nhiệm của cha mẹ với lòng tự trọng của con cái.

Khi nào có dịp, tôi vẫn nói với các con tôi hay với nhóm giới trẻ tôi đang phục vụ rằng, phận sự chính yếu của con cái là vâng lời cha mẹ, nếu cha mẹ không dạy bảo con cái làm những điều gì hay tránh những việc gì hoàn toàn sai trái hay thực sự tội lỗi theo khách quan, thì con cái buộc phải nghe lời các vị, dù không thích hay hết sức khó chịu. Vì các vị có quyền làm cha làm mẹ, có trách nhiệm đối với con cái. Tất cả những hành động bất mãn và bất tuân phục cha mẹ, dù có lý mấy đi nữa, tự chúng, vẫn là những thái độ và hành động bất kính, thiếu lòng yêu mến và tin tưởng nơi các cha mẹ. Từ đó, những đứa con này sẽ dễ đi đến chỗ coi thường cha mẹ, một là bỏ nhà đi hoang, hai là sống một cách lộng hành trong gia đình, muốn làm gì thì làm, không ai bảo được nữa. Không gì hổ nhục cho cha mẹ bằng bị mang tiếng là đã sinh ra những đứa con mất dạy, không biết dạy con. Nhưng còn tủi nhục hơn nữa cho những người làm cha làm mẹ thực tình thương con, mong cho chúng nên người, hết mình dạy bảo chúng một cách khôn ngoan theo tầm mức hiểu biết và khả năng giáo dục tự nhiên của mình, mà lại bị chúng hiểu lầm và khinh thường, đến nỗi có những vị đã phải thắt quặn thốt lên: “biết vậy thà đừng sinh ra chúng nữa thì hơn”. Tuy nhiên, có những trường hợp chính cha mẹ đã được giáo dục bởi việc con cái khiêm tốn hiếu thảo vâng lời các vị.

 



Tâm Phương Cao Tấn Tĩnh,
(Bài chia sẻ cho buổi phát thanh Vui Mừng Và Hy Vọng 37, 29/9/2002)

 

 




C H O T R Ò N C H Ữ H I Ế U
 


Trần Mỹ Duyệt


 




“Làm con phải hiếu”. Có lẽ đây là điểm quan trọng nhất của bổn phận người làm con. Vì khi một người con có hiếu - tức là chu toàn đạo hiếu đối với cha mẹ - thì không còn điều gì phải phàn nàn về người con đó cả. Chính do lòng hiếu thảo mà người con biết vâng lời, trọng kính, và biết ơn cha mẹ. Mà vâng lời, trọng kính và biết ơn là tất cả những gì cha mẹ mong mỏi nơi con cái. Thật vậy, cha mẹ có thể mong mỏi con cái giầu sang, quyền qúy và thành đạt. Nhưng trên hết vẫn là mong con cái biết suy nghĩ, biết sống một cuộc đời hiếu thảo.

Có lẽ không có nơi nào trong các điều luật về tôn giáo, hoặc ngay cả dân sự dậy cha mẹ phải hiếu thảo với con mình. Ngay cả đến tình thương yêu và săn sóc cho con cũng là bản năng và phát xuất ngay trong thiên chức làm cha hoặc làm mẹ. Qua thiên chức này, nẩy sinh bản năng tự biết bảo vệ và lo lắng cho con. Điều này chúng ta có thể thấy xuất hiện ngay cả trong thế giới loài vật. Nhưng về phần con cái thì ngược lại, Thượng Đế đã phải ra lệnh, đã phải truyền đạt ý định của Ngài, và buộc con cái phải “hiếu thảo” cha mẹ.

Phật Giáo khi đề cập tới hiếu thảo đã coi đây là đạo. Một một bổn phận thiêng liêng của người con. Trong tinh thần ấy, Phật Giáo coi cha mẹ là “phật sống” tại nhà: “Nơi đâu không có Phật, thì cha mẹ chính là Phật”. Điều này có nghĩa là cha mẹ là hiện thân của Thượng Đế mà con cái phải hết lòng yêu kính, vâng lời, và thảo hiếu. Truyện nhà Phật có kể về Đức Mục Kiền Liên đã xin xuống chin tầng địa ngục để tìm và giải thoát mẹ. Ngài Mục Kiền Liên do đó đã trở thành một mẫu gương sống đạo cho mọi Phật Tử. Gương hiếu thảo của Ngài luôn được nhắc nhở, đặc biệt là vào những dịp Vu Lan, mùa báo hiếu của Phật tử.

Thiên Chúa Giáo, trong 10 Giới Răn Thượng Đế ban cho nhân loại, Ngài đã dành riêng một giới răn cho cha mẹ: “Hãy thảo kính cha mẹ ngươi”. Giới răn này, được xếp ngay sau ba giới răn dành riêng cho Thượng Đế. Điều này cũng có nghĩa rằng, ngay sau Thượng Đế, cha mẹ là người quan trọng nhất, cần thiết nhất, và gần gũi nhất với người con. Và điều này cũng có nghĩa là, sau những bổn phận cần thiết con người đối với Thượng Đế, thì điều con người phải lo lắng và phải chu toàn là bổn phận và nghĩa vụ đối với đấng sinh thành. Không hiếu thảo với cha mẹ, người con cũng vẫn có thể bị trầm luân như không tuân giữ các huấn lệnh khác của Ngài vậy.

Đòi hỏi của Thượng Đế có quá đáng đối với người con không? Thật ra, đòi hỏi của Ngài không có gì là quá đáng. Một người con dù có làm gì cho cha mẹ đi nữa, cũng không trả nổi công ơn trời bể mà cha mẹ đã làm cho mình. Ai đã có dịp nghiên cứu về tâm sinh lý, hoặc tâm lý phát triển và giáo dục đều nhận thấy rõ điều này, một người con khi hoài thai trong lòng mẹ cho đến khi chào đời, và được nuôi dưỡng, giáo dục thành một người trưởng thành về cả tâm lý và thể lý, thì công ơn đó tiền bạc, hay bất cứ điều gì có tính cách vật chất và giá trị vật chất đều không thể so sánh và trả giá nổi. Ca dao Việt Nam đã diễn tả rất hay và rất ý nghĩa về lòng yêu thương và sự hy sinh của cha mẹ đối với con cái như sau: “Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chẩy ra”. Đứng trước công ơn trời biển ấy, thì lời khuyên dành cho con cái là phải sống sao “cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.

Chữ hiếu do đó, gắn liền với đạo làm con – Đạo hiếu. Một con đường dẫn tới hành vi hiếu thảo, và hoàn chỉnh đời sống nơi con cái. Nó không những chỉ đòi hỏi một ngày, một tháng, một năm, mà bao lâu người con còn sống, thì họ phải sống và thực hành hiếu thảo. Bất cứ ai đã làm con đều phải chu toàn đạo sống này. Không ai có quyền châm chước hoặc coi thường, vì một người con không thể nào sống trọn đạo, nếu họ không thảo hiếu đối với cha mẹ. Một người dù ăn chay trường, đi chùa, đi lễ và rất hăng say trong các công tác cộng đồng, đoàn thể, nhưng nếu họ lơ là với cha mẹ, không hiếu kính cha mẹ, chúng ta có quyền nghi ngờ về sự chay tịnh và những hành động xã hội của họ. Vì một người đã sinh thành ra họ, hy sinh cuộc sống mình cho họ, mà họ không yêu kính, không hiếu thảo, thử hỏi họ làm sao đối đãi công bình, trọng kính và yêu thương được những người khác.

“Cho tròn chữ hiếu”, hình ảnh của sự tròn trịa là không góc cạnh, không vết nứt, không sứt mẻ. Do đó, khi đề cập đến sự tròn đầy của lòng thảo hiếu là nói đến một chữ hiếu không vụ lợi, không hình thức, hoặc không gượng ép. Người con phải hiếu thảo và yêu thương cha mẹ như chính sự đầy đặn và thương yêu vô điều kiện của cha mẹ dành cho mình. Bởi thế, hành động hiếu thảo cũng không phải là cho mẹ, cho cha vài trăm, vài ngàn, hay vài chục ngàn. Hoặc cho cha mẹ bữa ăn, hay mua sắm vật này, vật khác. Của cải hay vật chất đối với nhiều người trẻ là quan trọng, nhưng đối với những người đã già, đã hiểu rõ thế nào là giá trị đồng tiền, và đã có thời nắm giữ tiền, hoặc đã trải qua nhiều thay đổi của cuộc sống, thì tiền bạc và những thứ lệ thuộc bên ngoài cuộc sống không có nghĩa gì đối với những người này cả. Cái mà những người lớn tuổi tìm kiếm là niềm vui vì nhìn thấy con cháu hạnh phúc và thăng tiến, thương yêu nhau. Do đó, đạo hiếu đòi hỏi người con không những giúp đỡ cha mẹ khi túng thiếu, mà còn làm sao cho cha mẹ được vui, nhất là khi cha mẹ đã bước vào tuổi già.

Tâm lý của những người già thường luôn hướng về quá khứ, rất dễ mủi lòng, và rất giầu tình cảm. Người già không có gì để nhìn về phía trước nữa, có chăng là ngôi mộ đang chờ đón họ. Do đó, người già ít bon chen, ít hồ hởi, và dường như không tha thiết với những lợi danh mà họ cho là phù phiếm. Khuynh hướng và tâm lý nhìn lại quá khứ như một yên ủi, và niềm hãnh diện để người già can đảm đi nốt quãng đường còn lại.

Vì có quá nhiều kinh nghiệm và từng trải qua nhiều gian nan, thách đố, nên tuổi già rất bén nhậy với những tiếp xúc bên ngoài, và do đó cũng rất nhậy cảm và giầu cảm xúc. Về mặt tình cảm, người Việt Nam có câu nói rất hay về tâm lý người cao niên: “Một già một trẻ bằng nhau”. Do tâm lý tế nhị và bén nhậy ấy mà người con hiếu thảo phải làm thế nào để cho cha mẹ không phải mủi lòng, không buồn phiền về cách đối xử và hành động của mình. Một nhận xét thực tế mà hầu như rất nhiều người quên sót, đó là, khi còn thơ trẻ, người con được cha mẹ lo lắng, săn sóc rất cẩn thận. Tuổi thơ với những bước đầu đời chập chững, cha mẹ đi theo sau hoặc đứng phía trước hồi hộp, nhẫn nại chờ đợi để hướng dẫn, nâng đỡ những bước chân run rẩy của con. Nhưng khi về già thì con cái lại đi sau hoặc trước nóng nẩy, khó chịu, cằn nhằn, và hối thúc những bước chân rủi rẩy của cha mẹ.

Đối với tuổi trẻ, hành động sống đạo hiếu là vâng lời cha mẹ. Một trong những điều khiến cha mẹ buồn phiền nhất, khổ tâm nhất là thái độ từ chối không vâng lời của con cái. Nhưng hành động này lại là một lỗi lầm trầm trọng nhất của tuổi trẻ. Rất nhiều người trẻ khi nhận ra lỗi lầm của mình, thì cha mẹ đã trở thành người thiên cổ. Lúc đó có khóc lóc, có ăn năn, hoặc có thống hối thì đã muộn. Thống kê cho hay, hằng năm riêng tại Hoa Kỳ có tới hơn 1 triệu trẻ vị thành niên bỏ nhà đi hoang, mong vượt thoát vòng tay của cha me, không muốn học và thực hành bài học vâng lời. Câu hỏi là những thành phần trẻ này đi đâu?

Cũng trong một khảo cứu khác cho hay, các em bỏ nhà ra đi đều mang một tâm trạng chung là hối hận và thèm khát mái ấm gia đình. Nhưng một khi đã ra đi, thì việc trở lại gặp rất nhiều khó khăn. Biết bao em gái vị thành niên đã bị dụ dỗ và bán vào các ổ mãi dâm. Biết bao em trai vị thành niên đã bị đẩy vào con đường tội phạm liên quan đến nghiện hút, trộm cướp, băng đảng cũng chỉ vì không vâng lời cha mẹ. Người ta không biết đã có bao nhiêu sông hồ để chứa những giọt nước mắt của cha mẹ, nhất là người mẹ trước cuộc sống của những ngưòi con này. Đây cũng là lời khuyên và cũng là lời cảnh tỉnh chung cho các em tuổi vị thành niên đang muốn làm người tự do, đang nuôi ước mơ tìm khung trời thần tiên bằng con đường thoát ly gia đình, bằng việc từ chối không vâng lời cha mẹ. Tóm lại, đối với tuổi trẻ, lối sống hiếu thảo nhất là vâng lời, và chuyên chăm vào việc học hành lo cho tương lai. Đây là hình thức hiếu thảo mà tất cả mọi cha mẹ đều mong mỏi nơi con cái.

Đạo hiếu, một bổn phận hay trách nhiệm vừa tinh thần và vừa thực tiễn của người con. Một người con ngoan, một người con tốt không thể thiếu sót bổn phận này đối với cha mẹ. Dù họ ở vào lứa tuổi nào, còn bé, vị thành niên, hay đã trưởng thành, điều quan trọng hơn hết vẫn là sự hiếu thảo. Hiếu thảo sẽ chỉ cho người con biết phải làm thế nào để vui lòng cha mẹ. Tròn đầy chữ hiếu tức tức là chu toàn bổn phận quan trọng nhất của người làm con: “Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.