THỜI GIAN VÀ GIÁ TRỊ
CUỘC ĐỜI
Trần Mỹ Duyệt
Vào những thế kỷ đầu của văn minh nhân loại, khi khoa học còn sơ khai, con người
dùng ngựa như một phương tiện di chuyển nhanh nhất. Để so sánh giá trị thời gian,
người Việt Nam thường ví: “Đời người như bóng câu qua cửa”. Ý nói, cuộc sống con
người vụt nhanh như bóng con ngựa chạy qua cửa nhà mình. Với những phát minh tân
kỳ của thời đại hôm nay, câu nói ấy bây giờ cần phải hiểu rằng, đời người vụt
nhanh như bóng một vệ tinh, một phi thuyền, một phi cơ, hay một chiếc xe qua cửa
nhà.
Đi tìm giá trị thời gian, có lẽ không đâu bằng ở nhà thương, hay một nghĩa trang.
Ở nhà thương, thời gian được đo đếm bằng giây và bằng phút; còn ở nghĩa trang,
thời gian là vĩnh hằng. Chúng ta ai cũng đã có dịp chứng kiến nhiều cảnh đau
thương, bồi hồi, và xúc động, khi mới hôm qua, tuần trước, tháng trước, năm
trước người thân hay bạn hữu mình vẫn còn đó, vẫn vui cười, hớn hở, mà chợt quay
lại không thấy họ trên dương gian nữa. Khi suy về đề tài này, ngồi yên lặng, tìm
gặp trong trí nhớ của tôi hình ảnh những người mà tôi đã từng quen biết, và như
một trùng hợp, cứ mỗi năm sống của tôi được đếm bằng một người bạn, người thân
đã đi về bên kia thế giới. Trước sự ra đi của bạn bè và người thân như thế, tôi
lại nhới lại bài thơ khuyết danh mà tôi đã học được lúc còn là một em học sinh
tiểu học vào năm 1958:
Ai ơi hãy trèo bức tường đổ,
Trông cánh đồng xa,
Mồ con, mả lớn,
Trước cũng người cả,
Mà bây giờ đã ra ma rồi.
Nào vợ, nào con,
Nào tiền, nào của,
Nào cửa, nào nhà,
Nào lợn, nào gà,
Nào câu đối đỏ,
Nào mành mành hoa.
Nào đâu, đâu cả,
Mà bây giờ chỉ thấy sương mù, nắng giã, với mưa sa.
Câu kết của bài thơ đã cho tôi một âm hưởng thấm thía về giá trị cuộc đời, và
cái mong manh, mau chóng của kiếp người.
Khoa học ngày nay, với sự tiến bộ của ngành y khoa và dược, người ta đang cố kéo
dài sự sống, tức kéo dài thời gian hiện diện của một người trên dương thế. Nhưng
dựa vào những thống kê mà ta có được, thì tuổi thọ hiện nay vẫn chưa vượt qua ra
khỏi con số 120. Điều lạ lùng là những người có tuổi thọ cao lại là những người
ít dùng tới thuốc, và không cần đến các bác sĩ. Thật vậy, con người ngày nay
đang cố gắng chạy đua với tuổi thọ. Nhưng càng hối hả, càng lo lắng, và càng băn
khoăn về tuổi thọ, thì tuổi thọ càng chạy trốn con người. Cuộc sống này với rất
nhiều lo lắng, dồn nén, và thách đố đang đục đẽo, gậm nhấm, và soi mòn tuổi thọ.
Chính cái yếu tố tâm lý và tâm linh ấy mới là những căn bệnh trầm kha, không
thuốc chữa, chứ không phải là những triệu chứng nhức đầu, sổ mũi, đau lưng, nhức
mỏi, đau tim, đau gan, đau dạ dầy, đau thận hay ung thư.
Ngày xưa con người tuy ăn lông, ở lỗ, nhưng họ sống lâu, sống khoẻ và sống hạnh
phúc. Ngược lại ngày nay con người văn minh ăn sang, mặc đẹp, nhưng lại mang
trong mình một túi bệnh, sống trong hoang mang và hồi hộp. Lý do dường như ai
cũng hiểu, chính vì con người ngày nay đã xa khỏi ảnh hưởng của tâm linh, vượt
quá những gì mà giới hạn của con người có thể đạt được. Kết quả là con người
ngày nay đang tự mình chuốc lấy những lo âu, kinh hoàng, và sợ hãi. Từ những bất
ổn tâm lý ấy, cộng thêm với sức ép của cuộc sống, của bon chen, của tháo thứ,
làm sao con người có thể sống an bình, và kéo dài tuổi thọ. Tóm lại, yếu tố tâm
lý và tâm linh giữ vai trò hết sức quan trọng trong cái gọi là hạnh phúc, bằng
an, và tuổi thọ của một người.
Mặt khác, do sự mong manh và cái vụt bay của thời gian cũng cho ta một ý niệm về
vĩnh hằng và về Thượng Đế. Thượng Đế không có quá khứ, không có tương lai, nhưng
trước nhan Ngài chỉ là một hiện tại vĩnh hằng. Ngài là chủ tể của thời gian. Chỉ
mình Ngài thấu hiểu quá khứ, hiện tại, và tương lai con người và từng người. Ý
niệm này dẫn đến xác quyết rằng những người tin ma, thờ quái, những kẻ bói toán,
đồng bóng đều là những kẻ dối gạt. Và sự tin tưởng vào những người đó là một
khuyết điểm lớn nhất của kẻ nhẹ dạ và thiếu tự tín. Vì có ai làm chủ được thời
gian, ngoại trừ Thượng Đế.
Nhưng điều quan trọng về ý nghĩa thời gian trong cuộc đời của một người không
hoàn toàn lệ thuộc vào thời gian vật thể, tức là mấy năm, hay mấy tháng người đó
có mặt trên dương thế. Nó dựa vào giá trị và hành động tốt mà người ấy đã cống
hiến cho đời, và cho nhân loại trong thời gian mà họ có mặt trên cõi trần. Lấy
một thí dụ rất điển hình, 7 phi hành gia đã tử nạn trên bầu trời trong lúc phi
thuyền của họ đang chuẩn bị hạ cánh vào sáng ngày 1 tháng 2 năm 2003 vừa qua. Họ
là những người còn trẻ. Sức khoẻ của họ tuyệt vời. Trí khôn và tài năng của họ
tuyệt vời. Tóm lại, họ rất tuyệt vời theo đúng ý nghĩa của một cái nhìn tự nhiên,
và họ là những người đã và đang dự trù đóng góp cho nhân loại những phát minh,
những nghiên cứu của họ. Nhưng họ đã ra đi và bỏ lại đàng sau tất cả, vì thời
gian của họ đã hết. Họ đã làm trọn sứ mạng được trao phó trong một thời gian ấn
định của Thượng Đế.
Mỗi giây phút qua đi là không bao giờ trở lại. Người ta không thể níu kéo quá
khứ. Ngay cả trong tâm lý, sống với quá khứ được coi là một tư tưởng bệnh hoạn.
Không ai có thể trở lại sống với quá khứ, có chăng chỉ là hoài tưởng. Những gì
qua là đã qua. Đúng ra cũng không có gì bảo đảm cho cái đang tới, dù chỉ ít phút
trước mặt như trường hợp 7 phi hành gia vừa nhắc tới ở trên. Như vậy, con người
chỉ có cái giây phút hiện hữu rất mong manh, nhưng lại giá trị hầu như vĩnh cửu
là thuộc về mình. Ta có thể khái niệm về thời gian qua cái nhìn tâm lý bằng một
thí dụ thời gian của hai kẻ yêu nhau ngồi chờ nhau. Thời gian này là một thời
gian rất lâu dù trên thực tế, nó chỉ là năm hay mười phút. Mỗi giây phút trôi
qua kể như thiên thu. Nhưng khi người yêu vừa xuất hiện, thì cái thiên thu ấy
lại trở thành một khoảng khắc của hiện tại khiến cho tất cả những thao thức và
lâu dài của thời gian như ngừng đọng vào giây phút hiện tại ấy.
Ngoài ra, thời gian còn được coi như vĩnh hằng, vì chỉ cần một khoảng cách của
một tích tắc cũng đủ để cho một người làm một việc tốt, hay ngược lại, một việc
xấu. Và do đó, con người có thể dùng thời gian để mua lấy vĩnh hằng là thế.
Ý niệm thời gian như vừa trình bày trên khiến con người cần phải nghĩ tới việc
lợi dụng những giây phút hiện có để sống với trọn vẹn ý nghĩa của đời mình. Hãy
cứ làm mỗi giây hiện hữu của mình tốt, tự nhiên ta có một đời sống tốt. Quá khứ
tốt, hiện tại tốt, tương lai sẽ hứa hẹn tốt. Đây là một phần trong tâm lý trị
liệu. Khi con người chú tâm vào với cái mình đang có và hiện có, tự nhiên có
nhiều nghị lực, tự tin, và khả năng để thực hiện. Và khi thực hiện được một việc
tốt, tự nhiên có hứng thú, và được khích lệ để nối tiếp những việc tốt khác.
Tóm lại, thời gian không thuộc về con người. Thời gian của con người trên dương
thế bao gồm quá khứ, hiện tại, và tương lai. Quá khứ hoàn toàn qua khỏi, tương
lai chưa tới, và chỉ có một khoảnh khắc hiện tại là con người được quyền sở hữu
và kể như thuộc về con người. Nhưng đã mấy ai xử dụng những khoảnh khắc ấy một
cách có ý nghĩa, hay ngược lại chỉ hận thù, tiếc nuối quá khứ và mơ màng, thêu
dệt cho tương lai để rồi lại quên mất hiện tại.
Thời Gian
Thời Gian Hiện Thân nơi Không Gian
Nói đến thời gian là nói đến quá khứ, hiện tại và tương lai. Thế nhưng, có thể
nói, nếu không có con người cũng không có thời gian… Tại sao? Tại vì, trong tất
cả mọi sự thuộc thế giới không gian, tức thế giới thiên nhiên tạo vật, chỉ có
con người mới nhận thức được thời gian, mới đi làm lịch sử, mới tiến hóa theo
thời gian, nói đúng hơn, mới làm cho thời gian đạt được mục đích hiện hữu của nó
với vai trò là một thực tại trung gian, một thực tại qui hướng về vĩnh cửu, về
Thực Tại Thần Linh toàn hảo tối thượng là cùng đích của tất cả mọi sự nói chung
và nhất là của loài linh ư vạn vật nói riêng. Bởi thế, không có con người, thì
dù hiện hữu, giá trị của thời gian sẽ là gì và ở chỗ nào? Phải chăng nó là một
tiến trình mù quáng của vật chất, của thiên nhiên tạo vật?
Vẫn biết không gian và thời gian đồng qui ở chỗ hữu hạn, ở chỗ có cùng, có bắt
đầu và có kết thúc, và dù cho thời gian và không gian có hội ngộ nhau ở bốn mùa
thời tiết xuân, hạ, thu, đông, vì “thời” đây là thời gian và “tiết” đây thuộc về
không gian. Thế nhưng, theo hiện tượng vật lý, thời gian hoàn toàn tùy thuộc vào
không gian và được con người sử dụng làm phương tiện đo đếm không gian. Bởi vì,
theo con người hiểu biết và khám phá về khoa học, ngày giờ năm tháng của thời
gian trên trái đất này lệ thuộc vào cuộc xoay vần vận chuyển của không trung vũ
trụ, như một ngày là do kết quả của một vòng xoay (rotation) của trái đất chung
quanh chính tâm trục của nó, hay một năm là do kết quả của một vòng quay
(movement) của trái đất chung quanh mặt trời v.v. Ở những nơi có đủ bốn mùa xuân,
hạ, thu, đông, như ở Hoa Kỳ hay ở miền Bắc Việt Nam, thì ngày dài vào mùa hè và
đêm dài vào mùa đông. Thế nhưng, vấn đề cần phải giải quyết ở đây là thái dương
hệ, tiêu biểu cho không gian vũ trụ đây, được hình thành từ lúc nào và bắt đầu
hoạt động chuyển vận của nó như thế bao lâu rồi?
Đó là lý do, theo triết lý, nếu không gian vũ trụ hay thiên nhiên tạo vật không
tự mình mà có thì nó phải có trong thời gian và tồn tại cũng như phát triển theo
thời gian. Theo quan sát khoa học, nếu xẩy ra đúng như định luật tự nhiên, thì
mọi sự, nhất là loài sinh vật, xuất hiện ở một lúc nào đó, rồi phát triển theo
thời gian, cho đến khi hết thời của nó. Chẳng hạn, sau cuộc ân ái của vợ chồng
vào đúng thời gian trứng rụng của người vợ, thì bình thường trong thời gian tối
đa 48 tiếng là người vợ có thể mang bầu, và qua thời gian ấn định 9 tháng 10
ngày sau đó là người con ra đời; và con người mới này, sau khoảng thời gian ấu
nhi và thiếu nhi, họ sẽ bắt đầu tiến vào thời gian dậy thì, thời gian phát triển
sinh lý, với những phát triển mới mẻ trên thân xác liên quan đến cơ phận sinh
dục của họ v.v. Thế rồi, cũng theo tiến trình bình thường, vào một thời gian nào
đó, 70 tuổi hay 100 tuổi, cuối cùng, con người sẽ qua đi. Không phải con người
chết là hết thời mà là vì hết thời của mình nên con người chết đi. Bởi thế, sau
khi con người chết đi, thời gian vẫn còn đó. Và dù con người có muốn làm chủ
thời gian, ở chỗ, họ muốn chết vào ngày giờ do họ ấn định, bằng cách tự tử đi
nữa, họ vẫn lệ thuộc vào thời gian, bởi vì, những vụ tự tử không thành đã hùng
hồn chứng thực điều này, do đó, những vụ tự tử thành công cũng chính là lúc thực
sự hết thời của con người tuyệt vọng chán đời.
Thời Gian là Thực Tại Tỏ Hiện
Như thế, thời gian có tính cách thần linh, chất chứa nơi nó tất cả những dự định
thần linh, được thể hiện qua các định luật tự nhiên, những định luật mà bất cứ
tạo vật nào, nhất là sinh vật, cách riêng loài người, đến nỗi, một khi cả dám
làm ngược lại hay chống lại, con người có lý trí khôn ngoan suy xét và có tự do
chọn lựa lành dữ sẽ phải chịu một hậu quả tai hại khôn lường. Điển hình là nếu
họ uống thuốc ngừa thai họ có thể sẽ bị ung thư ngực, uống kích thích tố
(hormone) sau khi hết kinh nguyệt để giữ nét trẻ trung có thể sẽ dễ bị mục xương,
ăn nhiều quá sẽ bị bội thực, uống rượu nhiều quá sẽ bị say. Tại sao ở Mỹ ung thư
là một tác nhân đệ nhất sát hại mạng sống con người cả nam lẫn nữ như thống kê
cho thấy, nếu không phải con người ở đây đã ăn uống mọi sự hầu như có chất hóa
học, kể cả thịt thà được cung cấp từ những con vật được nuôi bằng những chất
dinh dưỡng hóa học, hay rau cỏ được tưới bón bằng những thứ phân hóa học. Sự
kiện suy diễn này không biết có chính xác hay chăng, chỉ biết rằng, ngày xưa,
khi còn sống sát với thiên nhiên, còn ăn tươi nuốt sống những thứ có thể cho
được vào bụng, thì con người sống khỏe mạnh và thọ hơn con người văn minh vật
chất sau họ!
Tuy nhiên, như thế không có nghĩa là con người phải sống theo thời gian, phó mặc
cho định mệnh là những gì vốn chất chứa trong thời gian và là những gì sẽ được
hiện lộ khi tới thời điểm (time) của nó, khi tới lúc (moment) của nó. Chẳng hạn
như bị bệnh nguy tử không chịu chạy chữa, cho rằng, nếu hết thời của mình thì dù
có đi bác sĩ hay uống thuốc tiên cũng chết. Đúng thế, sinh vật nói chung và con
người nói riêng, vì sống trong thời gian và hoàn toàn lệ thuộc vào thời gian,
nếu hết thời của mình thì tự nhiên sẽ qua đi, không thể thoát được, dù có đề
phòng cách mấy đi nữa. Tuy nhiên, định luật tự nhiên cũng bao gồm cả định luật
bảo tồn và tự vệ, định luật khôn sống mống chết, như vẫn thấy nơi loài thú vật.
Nếu đói không ăn, theo định luật tự nhiên, con người chắc chắn sẽ chết thế nào,
thì bị bệnh nguy tử không chữa, theo định luật tự nhiên, họ cũng khó lòng thoát
được bàn tay tử thần như vậy. Bởi thế, cái chết của con người không chịu chữa
trị khi bị bệnh nguy tử đây không phải bị gây ra bởi họ buông xuôi theo định
luật tự nhiên cho bằng chỉ vì họ đã đi ngược chiều với định luật tự nhiên, định
luật bảo tồn, khuynh hướng sinh tồn. Tai nạn xẩy ra hay tất cả mọi tai ương biến
loạn trong thiên nhiên vũ trụ nói chung và trong xã hội loài người nói riêng này,
kể cả nhân tai lẫn thiên tai, không phải đã bị gây ra bởi những hiện tượng hay
sự kiện ngược ngạo và đối địch nhau liên quan đến định luật tự nhiên hay sao?
Thế nhưng, nói chung, như lịch sử loài người cho thấy, qua giòng thời gian hiện
hữu của mình, từ thời ăn lông ở lỗ sống để mà ăn như con vật, đến thời điểm văn
minh văn hóa ăn để mà sống thuần túy loài người hiện nay, con người càng ngày
càng khám phá ra sự thật về thiên nhiên tạo vật nói chung nhất là về chính bản
thân mình nói riêng. Qua thời gian, con người đã không khám phá ra thiên nhiên
tạo vật chung quanh mình bằng những khám phá khoa học hay sao, về đủ mọi lãnh
vực, từ bầu trời cao đến đáy biển cả, từ đại không gian đến tiểu vũ trụ, nhất là
về lãnh vực tạo sinh cải giống từ thập niên cuối cùng của thế kỷ 20 và đầu thiên
kỷ thứ ba hiện nay hay sao? Cũng qua thời gian, con người đã thực sự khám phá ra
chính mình, bằng việc ý thức được mối liên hệ đại đồng, một mối liên hệ chỉ được
tồn tại nếu xã hội loài người muốn duy trì và phát triển, ở chỗ, con người cần
phải nhìn nhận, tôn trọng và bảo vệ phẩm giá cùng quyền lợi làm người bẩm sinh
của mỗi người cũng như của mọi người trong xã hội, như được ý thức và công bố
trong Bản Tuyên Ngôn Chung Về Nhân Quyền của Tổ Chức Liên Hiệp Quốc năm 1948 sau
hai trận Thế Chiến Thứ I & II.
Thời Gian Nên Trọn nơi Con Người
Nếu qua thời gian, con người đã khám phá ra trong thời gian tất cả sự thật về
thiên nhiên tạo vật cũng như về chính bản thân mình như thế, một sự thật đã có
trước họ và tồn tại sau khi từng thế hệ nhân gian của họ qua đi, và nếu họ biết
sống đúng với sự thật ấy, họ sẽ chẳng những có thể làm chủ trái đất, mà còn có
thể làm chủ cả thời gian nữa. Thật vậy, nếu sự thật là một thực tại bất biến,
một thực tại chi phối tất cả không gian, được từ từ hiện lộ trong thời gian và
được khám phá thấy bởi nhân gian, thì một khi con người đã biết lợi dụng sự thật
tự nhiên bằng khả năng khoa học của mình để làm chủ trái đất này thế nào, họ
cũng có thể biết lợi dụng cả sự thật về con người nhân bản của mình bằng ý thức
luân lý, nhờ đó họ làm chủ được cả thời gian như vậy. Vì sống trong sự thật và
sống theo sự thật, một thực tại bất biến, một thực tại tối thượng, con người hữu
hình và hữu hạn, cho dù có chết về phần xác, có bị thiếu hụt về thể lý, tâm lý
và luân lý trên đời này, họ sẽ không bao giờ qua đi, không bao giờ cảm thấy
thiếu thốn, trái lại, họ sẽ vĩnh viễn tồn tại, có thể nói, họ đã đạt đến cùng
đích của mình ngay khi họ còn sống trong thời gian. Hay nói cách khác, thời gian
cô đọng lại nơi con người sống sự thật, hội tụ lại nơi con người sống trong sự
thật. Nếu không gian thu hẹp lại nơi con người sống yêu thương thế nào, hay
không gian được yêu thương bao trùm thế nào, thì thời gian cũng tụ lại nơi con
người chân thực như thế, hay thời gian được chân lý bao trùm như vậy.
Đó là lý do thực tế cho thấy, con người khôn ngoan, một khôn ngoan trung thực
phản ánh sự thật, là một con người sống hiện tại với cả quá khứ lẫn tương lai.
Bởi vì, tất cả những gì họ tác hành, hay phản ứng, hoặc giải quyết, trong giây
phút hiện tại và cho cuộc sống hiện tại của cá nhân họ, những gì liên quan đến
cả xã hội hay cho xã hội, họ đều căn cứ vào những kinh nghiệm sống họ đã được
truyền thụ bởi các bậc tiền bối cha ông họ, nhất là do chính họ rút tỉa được từ
cuộc sống riêng tư trong thời gian quá khứ của họ, để làm sao cho bản thân họ
cũng như cho chung nhân gian chẳng những được tồn tại mà còn phát triển, hầu đạt
đến một chân trời tương lai rạng ngời chân lý và thiện hảo, đúng như dự án thần
linh của Thượng Trí Quan Phòng là Chân Lý Tối Cao và là Nguyên Lý Đệ Nhất. Một
con người sống sự thật, hay sống trong sự thật, sống theo sự thật, là một con
người làm chủ thời gian, làm cho thời gian được kết tụ lại nơi họ, ở chỗ họ đang
sống trung thành, trước sau như một, sống thủy chung (từ đầu đến cuối), bất chấp
mọi bất trắc và ngãng trở xẩy ra trong cuộc sống. Dù trước mắt thế gian họ có bị
coi là ngu dại, nhưng sự thật vẫn là sự thật. Họ có chết đi cho chân lý và vì
chân lý, như trường hợp của những con người tranh đấu cho công lý và hòa bình,
hay như trường hợp của những vị tử đạo chân chính, những anh hùng vị quốc vong
thân, nhân gian lịch sử sẽ không bao giờ quên họ, và họ sẽ vĩnh viễn tồn tại với
lịch sử, với thời gian, thậm chí vượt ra ngoài thời gian và không gian, ở chỗ họ
sẽ bất diệt và bất tận như chính sự thật vậy.
Để có thể sống trong hiện tại một cách khôn ngoan, một cách chân thật như thế,
ngoài tác động ý thức liên quan mật thiết tới hiện tại, con người còn cần phải
có một ký ức sống động và một phán đoán chính xác nữa, một ký ức liên quan đến
quá khứ và một phán đoán liên quan đến tương lai. Thật vậy, con người cần đến ký
ức là yếu tố tâm lý liên quan đến quá khứ, vì thời gian chất chứa sự thật và tỏ
hiện sự thật, nên tất cả những gì xẩy ra trong cuộc đời con người và cho cuộc
đời con người đều mang con người đến gần sự thật hay đều tỏ cho con người biết
sự thật về bản thân họ cũng như về ngoại cảnh chung quanh họ. Bởi thế, càng sống
con người càng khôn ra là vậy, con người càng cảm thấy mình biết đời hơn và biết
mình hơn, hành sử một cách hiệu quả hơn, không còn vụng về, dại dột, ngớ ngẫn,
thất sách như trước nữa. Thế nhưng, nếu con người không biết rút kinh nghiệm và
lưu trữ những cảm nhận cuộc đời, họ khó mà có thể tiến thân, có thể trưởng thành.
Tưởng niệm là một yếu tố tối ư quan trọng của Do Thái Giáo cũng như của Kitô
Giáo. Bởi vì, ơn cứu độ của họ không phải là một thực tại mơ hồ, mà là một biến
cố lịch sử, một biến cố họ chẳng những cần phải tưởng nhớ mà còn phải liên tục
long trọng cử hành nữa.
Thời Gian Sống Động trong Cuộc Đời
Biến cố lịch sử cứu độ của Do Thái Giáo là biến cố Vượt Qua, biến cố họ được Vị
Thiên Chúa chân thật duy nhất, Vị Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho tổ phụ họ là
Abramham, Isaac và Giacóp, Vị Thiên Chúa đã tự động lập Giao Ước với các vị cha
ông của họ ấy và thực sự đã hoàn tất giao ước của Ngài với con cháu các vị, cụ
thể nhất là việc Ngài chẳng những dùng nhân vật Moisen để giải thoát họ khỏi
cảnh làm tôi cho dân Ai Cập 450 năm, mà còn dùng Gioduệ để đưa họ vào chính mảnh
đất Ngài đã hứa với các vị là mảnh đất Palestine thấm đẫm huyết lệ nhất trên thế
giới hiện nay. Đó là lý do Do Thái Giáo, từ biến cố lịch sử cứu độ vô tiền
khoáng hậu đó tới nay, hằng năm, họ vẫn cử hành tuần lễ Vượt Qua để, trong khi
tưởng nhớ đến Vị Thiên Chúa Cứu Độ của mình, họ ý thức ngay trong hiện tại những
gì họ cần phải sống một cách xứng đáng với ơn cứu độ của họ.
Biến cố lịch sử cứu độ của Kitô Giáo cũng là Biến Cố Vượt Qua, một cuộc vượt qua
đã được báo trước bằng chính cuộc vượt qua của dân Do Thái. Biến Cố Vượt Qua mà
Kitô Giáo nói chung và Giáo Hội Công Giáo nói riêng long trọng cử hành vào mỗi
Chúa Nhật hằng tuần trong năm, nhất là vào Tuần Thánh, với cao điểm là Lễ Phục
Sinh, đó là biến cố vượt qua của Vị Sáng Lập họ tôn thờ, Đấng đã chịu chết trên
cây thập giá, nhưng đã tự mình sống lại từ trong kẻ chết vào ngày thứ ba. Theo ý
nghĩa vượt qua này, cũng như nhờ biến cố lịch sử vượt qua này của Vị Sáng Lập,
Kitô hữu, qua Bí Tích Rửa Tội, chẳng những được cứu độ cho khỏi tội lỗi và sự
chết, mà còn được sự sống và là một sự sống viên mãn, một sự sống thần linh, một
sự sống hoàn toàn tự do siêu thoát, khiến họ có khả năng chế ngự sự dữ bằng sự
lành, nhất là khả năng làm chứng cho chân lý, khả năng làm cho con người nhận
biết chân lý và sống trong chân lý, một sự sống trường sinh bất diệt, một sự
sống thần linh toàn hảo. Như thế, nếu biến cố Vượt Qua của Kitô Giáo, qua con
người Kitô hữu, có thể làm cho nhân gian nhận biết sự thật và sống trong sự thật,
một sự thật là nguồn gốc và là cốt lõi của văn hóa nhân bản đích thực, thì biến
cố này không phải chỉ là biến cố lịch sử thuần túy đã hoàn toàn qua đi và cần
phải tưởng niệm, mà còn là một biến cố hiện thực sống động nơi việc cử hành
phụng vụ của cộng đồng Kitô hữu nữa.
Để có thể sống trong hiện tại một cách khôn ngoan, một cách chân thật, con người
chẳng những cần phải có một ký ức sống động liên quan đến quá khứ mà còn phải có
một phán đoán chính xác liên quan đến cả tương lai nữa. Đúng thế, cho dù ký ức
có nhớ kỹ lưỡng và đầy đủ những gì xẩy ra trong quá khứ, nhưng nếu con người
không biết lợi dụng những kinh nghiệm lợi hại, tốt xấu đã qua ấy để áp dụng vào
môi trường và hiện cảnh cuộc sống của mình thì tương lai trước mắt họ vẫn chỉ là
một ảo tưởng, hiện tại của họ vẫn là một cuộc dậm chân tại chỗ, thậm chí có
những lúc trở thành một vũng lầy, càng nhúc nhích cựa quậy con người càng bị lún
xuống sâu hơn, cho đến lúc không còn cứu được nữa. Nhận định này không đúng hay
sao, bằng không tại sao con người càng văn minh lại càng lo âu sợ hãi chính mình,
sợ hãi chính những gì mình làm ra, sợ hãi nhau, không tin tưởng nhau. Đến nỗi,
kinh nghiệm của hai trận Thế Chiến I và II chưa đủ, con người hiện nay hình như
sắp sửa cần đến một trận Thế Chiến III nữa mới được? Bởi thế, phán đoán của con
người không thể chỉ căn cứ vào nguyên kinh nghiệm quá khứ để quyết định cho số
phận của tương lai, bằng không, tương lai chỉ là lập lại quá khứ, như giòng nước
chảy ngược. Vì không bài học nào giống bài học nào, lại còn vấn đề hoàn cảnh mỗi
thời đại mỗi khác nữa, mà con người hiện tại cần phải hết sức sáng suốt, ở chỗ,
họ làm sao để kinh nghiệm quá khứ có thể kết trái tương lai. Thế nhưng, nếu kinh
nghiệm quá khứ, tự bản chất của nó, là cảm nghiệm của con người về sự thật, thì
càng kinh nghiệm cuộc đời, con người càng gần gũi sự thật, càng thông suốt sự
thật, càng thấu triệt sự thật mới đúng. Như thế, chỉ cần con người nhận biết sự
thật, qua kinh nghiệm và nhờ kinh nghiệm quá khứ, cũng như qua những dấu chỉ và
môi trường hiện tại, họ có thể an tâm tiến vào tương lai, dù chân trời tương lai
mù mịt giông ba bão táp. Bởi vì, sự thật chẳng những là Thực Tại Thần Linh Tối
Thượng mà con người phải đạt tới như cùng đích của mình, mà còn là ánh sáng soi
đường dẫn lối cho con người thiện tâm bước đi và là sức mạnh thúc đẩy con người
khao khát kiếm tìm chân thiện mỹ tiến bước về cõi trường sinh vĩnh hằng.
Tâm Phương Cao Tấn Tĩnh, BVL
(Bài chia sẻ cho buổi phát thanh Vui Mừng Và Hy Vọng 57, 16/2/2003)