Triết Lý Về Thân Xác Con Người
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,cảm hứng theo Thần Học về Thân Xác của ÐTC GPII
Tác Hiệu của Thần Học về Thân Xác Con Người
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chẳng những là một triết gia mà còn là một thần học gia về nhân bản nữa, qua những chủ trương của Ngài về con người cần phải nên hoàn hảo theo Đấng đã hóa thân làm người, một ý tưởng then chốt hay được Ngài trích dẫn và nhắc lại từ Hiến Chế Mục Vụ Gaudium et Spes của Công Đồng Chung Vaticanô II (đoạn 22). Một trong những chủ trương nổi bật nhất của Ngài về thần học nhân bản này đó là Thần Học Về Thân Thể (theology of body) liên quan đến đời tình yêu phái tính và đời sống hôn nhân gia đình. Đó là lý do, trong giáo triều 25 năm của mình, để bắt đầu mở màn cho toàn bộ giáo lý của Giáo Hội Kitô Giáo về đủ mọi vấn đề (Nhân Bản, Ba Ngôi, Giáo Hội, Thánh Mẫu, Năm Thánh, Thánh Vịnh) vào các buổi triều kiến chung Thứ Tư hằng tuần ở Vatican, Vị Giáo Hoàng chủ trương áp dụng giáo huấn và tinh thần của Công Đồng Chung Vaticanô II này đã mở màn bằng loạt bài giáo lý về nhân bản Kitô giáo (nhân loại học siêu nhiên) trong suốt 5 năm đầu giáo triều của Ngài.Thật vậy, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã dùng 5 năm trời (1979-1984) để khai triển đề tài “tình yêu con người theo ý định của Thiên Chúa”. Đề tài này có thể được chia ra làm ba phần, phần nhất được bắt đầu bằng một loạt 23 bài giáo lý về sự hiệp nhất nguyên thủy giữa người nam và người nữ theo sách Khởi Nguyên, trong khoảng thời gian từ ngày 5-9-1979 đến ngày 2-4-1980. Sau đó chuyển sang phần hai với 41 bài giáo lý về phúc cho ai có lòng trong sạch theo bài giảng trên núi và thư thánh Phaolô, thời khoảng từ ngày 16-4-1980 đến ngày 6-5-1981. Trước khi sang phần ba, loạt bài giáo lý bị gián đoạn vì sức khỏe của Đức Thánh Cha sau khi ngài bị ám sát hụt vào hôm 13-5-1981, và đã được xen kẽ bằng 3 bài chia sẻ của ngài, thời khoảng từ ngày 14-10-1981 đến 28-10-1981, liên quan đến việc ngài bị ám sát và lòng thứ tha. Cuối cùng, phần ba đã được bắt đầu với 50 bài về thần học hôn nhân và độc thân theo ý nghĩa phục sinh của thân xác, thời khoảng từ ngày 11-11-1981 đến ngày 4-7-1984. Loạt bài giáo lý về tài “tình yêu con người theo ý định của Thiên Chúa” được chia làm 3 phần trên đây cuối cùng được kết thúc bằng 12 bài, thời khoảng từ ngày 11-7 đến 21-11-1984, về việc ôn lại Thông Điệp “Sự Sống Con Người” của Đức Thánh Phaolô VI.
Riêng vấn đề Thần Học Về Thân Thể của mình, ĐTC đã khai triển thành 63 bài giáo lý từ ngày 5/9/1979 đến 6/5/1981. Những bài giáo lý này đã được một nữ tâm lý gia người Mễ Tây Cơ là Leticia Soberón phân tích trong tác phẩm của mình do Edimurtra xuất bản, đó là tác phẩm "Perlas: Teología del Cuerpo en Juan Pablo II" (Những Viên Ngọc Trai: Thần Học Về Thân Thể của Đức Gioan Phaolô II). Tác giả của cuốn sách này sinh tại Mexico City, đang làm việc ở Hội Đồng Truyền Thông Xã Hội của Tòa Thánh, với phận sự điều hợp Cơ Cấu Thông Tín của Giáo Hội Mỹ Châu Latinh (RIIAL: Information Network of the Church in Latin America). Nữ tâm lý gia này đã chia sẻ với màn điện toán Zenit về tác phẩm của mình cũng như về thần học thân thể, một cuộc phỏng vấn đã được Zenit phổ biến ngày 11/1/2004.
Nhận xét của nữ tâm lý giả tác giả trong cuộc phỏng vấn với màn điện toán Zenit trên đây ở câu vấn đáp thứ hai: “Những ai lắng nghe những thứ giáo huấn này sẽ có thể tự điều giải bản thân họ; họ sẽ cảm thấy hạnh phúc và được kêu gọi thực hiện một công việc lạ lùng trong vấn đề luyện tập yêu thương và liên hệ với những người khác”, quả nhiên đã được chứng thực nơi hai trường hợp sau đây, nhất là trường hợp thứ hai.
Trường hợp thứ nhất liên quan đến cặp vợ chồng mới lấy nhau, Jason và Crystalina Evert, đang làm việc cho tờ nguyệt san Catholic Answers, ở San Diego California, đã là chứng nhân cho nhận định này, khi họ đi chia sẻ ở các trường trung học khắp nước Mỹ, dù là trường công, trường Kitô giáo hay trường Công giáo. Cả chục ngàn giới trẻ đã hào hứng đến nghe cặp vợ chồng diễn giả này. Riêng Jason còn là tác giả cuốn “Nếu Chàng/Nàng Thực Sự Yêu Tôi” do Catholic Answers xuất bản. Người tác giả này đã chia sẻ cảm nhận của mình về giới trẻ đối với dự án của Thiên Chúa nơi hôn nhân liên quan đến tính dục, cũng như về thành phần phụ huynh làm sao để giúp cho con cái của mình sống thanh tịnh, một cuộc phỏng vấn đã được Zenit phổ biến ngày 12/12/2003, trong đó có đề cập đến vấn đề Thần Học Về Thần Thể như sau.
• “Việc chúng mở lòng ra hào hứng đón nghe những gì chúng tôi muốn truyền đạt cho chúng là một điều phải nhận là tuyệt vời. Thế nhưng, tôi cần phải nói thêm thế này, đó không phải những gì chúng tôi truyền đạt, vì chúng tôi không thể chiếm công của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II về thứ “thần học thân thể” của Ngài”.
Trường hợp thứ hai liên quan tới ký giả David Morrison, ở Arlington Virginia, đã từng sống đời đồng tính nhưng đã trở về sống thanh tịnh như một người trở lại Công Giáo, và là tác giả cuốn “Beyond Gay” (Bên Trên Cuộc Đồng Tính Nam Nhân) do Tuần San Our Sunday Visitor xuất bản, hiện là sáng lập viên và điều hành viên Mạng Điện Toán Can Trường. Anh đã chia sẻ cảm nghiệm của mình với màn điện toán Zenit về cách thức sống thanh tịnh đã giúp giảm bớt mức độ của những thứ hấp lực đồng phái tính, một cuộc phỏng vấn đã được Zenit phổ biến ngày 9/1/2004, trong đó có đề cập đến vấn đề Thần Học Về Thần Thể như sau.
Vấn: Các thứ giáo huấn của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II có giúp được gì anh không? Tại sao?
Đáp: Tôi nghĩ Đức Gioan Phaolô đã phục vụ Kitô hữu, thậm chí cả những người không phải là Kitô hữu nữa, bằng việc Ngài đã cẩn thận giải thích và loan truyền một thứ thần học về thân thể. Tôi nghĩ rằng ngày nay đang xẩy ra một thứ lầm lẫn về vai trò thân thể chúng ta đóng trong đời sống tâm linh của chúng ta cũng như về tầm quan trọng của thân thể của chúng ta như là những gì chúng ta được tạo dựng nên. Đức Gioan Phaolô II đã đặt một nền móng cho một phần rất quan trọng nơi sứ điệp của Giáo Hội thuộc những ngàn năm tới đây.
Ngoài ra, một điểm đặc biệt về thần học về thân xác của ĐTC Gioan Phaolô II
cũng cần phải được đề cập đến ở đây là, thứ thần học về thân xác này chẳng
những có chiều kích hiện thế của thân xác mà còn liên hệ cả đến chiều kích
cánh chung của thân xác nữa. Ở chỗ, thân xác của con người sẽ được cứu độ,
theo chiều hướng được Vị Tông Đồ Dân Ngoại giảng dạy trong Thư gửi giáo đoàn
Rôma: “Ôi tôi là con người yếu đuối dường nào! Ai có thể cứu tôi khỏi thân xác
ở dưới quyền lực sự chết” (7:24); “Mặc dù có hoa trái đầu mùa là Thần Linh,
chính chúng ta cũng phải quằn quại đợi chờ việc cứu chuộc của thân xác chúng
ta” (8:23).
Thật ra, cuối cùng thân xác của con người, dù lành hay dữ cũng sẽ được sống
lại. Tuy nhiên, thân xác của con người được cứu độ đây không phải là thân xác
sống lại để đời đời bị trầm luân, mà là thân xác được biến đổi nên giống như
thân xác hiển vinh của Chúa Kitô phục sinh (x Ph 3:21). Vậy, để thân xác con
người được cứu độ, được biến đổi nên giống như thân xác hiển vinh của Chúa
Kitô phục sinh, thân xác của con người cần phải được điều khiển bởi Thần Linh
Chúa Kitô để sự sống của Chúa Kitô hiện tỏ nơi thân xác của họ (x 2Cor 4:10),
tức con người không được sống theo xác thịt mà là theo Thần Linh (x Rm 8:8-9),
không được sử dụng thân xác của mình làm khí cụ cho gian ác (như cho gian dâm
nhục dục) mà là cho đức công chính (x Rm 6:13).
Chiều Kích Triết Lý về Thân Xác Con Người
Đối
với kẻ viết bài này, thần học về thân thể không phải chỉ liên quan đến vấn đề
tình dục và hôn nhân kèm theo chiều hướng cánh chung theo ý định của Thiên
Chúa thôi. Thần học về thân thể còn phải bao gồm cả lãnh vực triết lý nữa.
Đúng thế, theo nhân loại học và hiện tượng học thì thân xác của con người
chẳng những là cơ sở hiện hữu của con người còn là dấu hiệu cho thấy ngôi vị
(person) của con người và là hấp lực lẫn phương tiên để con người sống ngôi vị
của mình nữa.
Thật vậy, yếu tố chính yếu tạo nên con người là linh hồn chứ không phải thân
xác. Linh hồn là mô thể (form) và thân xác là chất thể (matter). Tuy nhiên,
nếu không có thân xác cũng không có con người và không phải là con người. Con
người chỉ hiện hữu với thân xác và trong thân xác mà thôi. Thế nhưng, theo dự
án của Đấng dựng nên con người theo hình ảnh thần linh và tương tự như thần
linh (x Gen 1:26) thì thân xác có một giá trị, như trên vừa nhận định, không
phải chỉ để làm cơ sở hiện hữu của con người và cho con người, mà còn là dấu
hiệu cho thấy con người là một ngôi vị và là phương tiện thể hiện ngôi vị con
người. Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa ở chỗ có ngôi vị và là
một ngôi vị, một ngôi vị có những đặc thù của mình và có khuynh hướng cùng khả
năng hiệp thông, tương tự như Ba Ngôi Thiên Chúa, mỗi Ngôi đều biệt phân song
lại chỉ là một Thiên Chúa duy nhất. Nếu con người được dựng nên theo hình ảnh
Thiên Chúa ở chỗ có ngôi vị và là một ngôi vị thì họ tương tự như Thiên Chúa ở
chỗ còn biết yêu thương và hiệp thông.
Thân xác của con người là dấu cho thấy con người có ngôi vị, là một cá thể hay
chủ thể (subject) độc lập, ở chỗ, từ tạo thiên lập địa tới tận thế, người nào,
cá nhân nào, ngôi vị nào cũng có một bộ mặt riêng, có một chỉ tay không giống
ai, có một giọng nói, kiểu nói, cách nói, hầu như không giống ai. Chính cái riêng biệt nơi thân xác này của con người, khác hẳn với “khối”
loài vật, chứng tỏ họ là một ngôi vị, và đã là một ngôi vị thì con người cần
phải có tự do hay mới có tự do, để nhờ đó họ có thể bộc lộ những gì là chuyên
biệt, là cá biệt, là ngôi vị của mình. Có thể nói thân thể là “cái tôi” của
con người. Và người khác chỉ nhận ra tôi, tôi là ai và tôi như thế nào, qua/nơi
thân xác mang những dấu vết ID (căn cước chuyên biệt theo ngôi vị) của tôi mà
thôi.
Đó là lý do, nếu phương pháp tạo sinh sao bản phi tính dục (cloning) là cách
tạo nên hai sinh vật giống hệt như nhau, thì khoa học và kỹ thuật dù có tân kỳ
đến đâu đi nữa, chắc chắn sẽ không thể nào có thể sao bản con người có ngôi vị
được. Nếu chỉ thiếu một nhiễm sắc thể (chromosome) trong thai bào (cần phải có
đủ 46 sợi: 23 từ tế bào tinh trùng và 23 từ tế bào noãn sào) mà con người được
sinh ra với hội chứng lạc diện (Down Syndrome, hội chứng có một bộ mặt bèn bẹt
không thật, tương tự như nhau ở bất cứ mầu da hay phái tính nào), thì phương
pháp tạo sinh sao bản phi tính dục, cần phải bỏ hết nhân trung nơi tế bào
trứng đi, chỉ có thể tạo nên, nếu thành công, một quái thai hay một thứ được
gọi là “nửa người nửa ngợm nửa đười ươi” thôi.
Vì thân xác của con người đã là dấu cho thấy ngôi vị của con người, cho thấy
một chủ thể có tự do, mà thân xác cũng là một hấp lực của ngôi vị và trở thành
phương tiện để con người sống ngôi vị của mình, điển hình nhất là nơi đời sống
hôn nhân. Thân thể là hấp lực của ngôi vị ở chỗ thu hút ngôi vị con người có
duyên với mình. Thân thể trở thành phương tiện cho ngôi vị bộc lộ tình yêu
thương và gắn bó nên một của mình. Chiều kích yêu thương, vừa là hấp lực vừa
là bộc lộ này của thân xác con người được thể hiện rõ ràng nhất nơi đời sống
hôn nhân, một đời sống cho thấy hai con người nam nữ cảm thấy đắm đuối và
quyến luyến nhau, đi đến chỗ trao thân cho nhau bằng tác động giao hợp.
Ngoài ra, triết lý về thân xác, theo tôi, chẳng những liên quan đến ngôi vị
của con người, đến chủ thể tự do tác hành của con người, đến vấn đề hiệp thông
hôn nhân, như vừa nhận định trên đây, mà còn liên quan đến riêng nữ giới nữa.
Tại sao? Bởi vì, theo bản chất, nữ giới tự nhiên thiên về những gì liên quan
đến thân thể, chẳng hạn đặc tính của nữ giới tự nhiên vốn chú trọng về nhu cầu
ăn uống (thích ăn vặt chẳng hạn) và có khả năng chuyên môn về nấu nướng, hay
thích làm đẹp bộ diện và làm dáng toàn thân v.v. Có thể nói nữ giới là bộ mặt
của con người, là vóc dáng của con người.
Chính nơi thân phận nữ giới này mà thần học về thân xác và triết lý về thân
xác đã gặp nhau. Thật vậy, theo thần học, tức theo Mạc Khải Thần Linh, thì đối
với Thiên Chúa, Đấng Hóa Công và Cứu Độ của mình, con người tạo vật đóng vai
thụ nhận, cưu mang và sinh hoa trái như một nữ giới trong đời sống hôn nhân.
Thực tại về thân phận nữ giới đối với thần linh này đã được Chúa Kitô minh
định trong Bữa Tiệc Ly khi nói với các tông đồ rằng: “Thày là cây nho, các con
là cành, ai sống trong Thày và Thày sống trong họ sẽ trổ sinh muôn vàn hoa
trái” (Jn 15:5). Nếu vấn đề thụ nhận, cưu mang và sinh sản thiêng liêng trực
tiếp liên quan đến thân phận nữ giới, thì quả thực cũng là những gì thuộc về
chức phận riêng của thân thể con người, một cơ sở được Đấng Hóa Công dựng nên
để thụ nhận một mầm mống sự sống là linh hồn, cưu mang những tâm tưởng của
linh hồn và sinh sản những hành vi cử chỉ của linh hồn. Ngoài ra, nếu theo
thần học, thân xác của con người chỉ được cứu, tức chỉ được biến đổi nên giống
thân xác hiển vinh của Chúa Kitô phục sinh tái giáng, nếu nó trở thành một cơ
sở thần hiển hay trở thành một phương tiện hoạt động cho công lý, thì thân xác
của con người không phải chỉ nguyên sống bởi bánh mà còn bởi đạo lý (x Deut
8:3), để có thể trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa (x Mt 22:21).
Thân Xác mang Dấu Chứng Ơn Gọi Làm Người
Trong cuốn Cuối Trời Yêu Thương, xuất bản năm 1998, ở chương 4, tôi đã chia sẻ những gì tôi cảm nhận được ơn gọi làm người qua hiện tượng thân xác của con người như sau:
Là một tạo vật duy nhất trên đời có cả hồn lẫn xác, vừa hữu hình lại vừa vô hình, vừa linh thiêng lại vừa vật chất, trong mầu nhiệm tạo dựng, con người là một tổng hợp đất trời, và là một tụ điểm trong trời đất.
Thế nhưng, con người vẫn không phải là trung tâm điểm của vũ trụ, trái lại, con người vẫn phải tự xoay vần lấy bản thân mình và còn phải xoay mình chung quanh mặt trời Thần Linh nữa mới có thể tồn tại. Thực tế đã cho thấy, bao lâu còn biết lắng nghe tiếng lương tâm chân chính, theo hấp lực của Mặt Trời Chân-Thiện-Mỹ tối cao bất biến, thì con người, cá nhân cũng như xã hội, mới có thể sinh tồn trong bình an thịnh đạt. Bằng không, sống bất hòa hợp với định luật thiên nhiên của trời đất, nhất là với qui luật luân lý phổ quát của tâm linh, con người chỉ gặp toàn bất trắc và bất hạnh, mà nếu không kịp thời cải thiện, chính con người sẽ trở thành một tận điểm tự diệt vong!
Cũng có thân xác như con vật, nhưng hình thức cấu trúc nơi thân xác của con người khác hẳn với của con vật, thân xác của con người đã là một ấn tích làm người của họ, và cả hồn xác của con người là một bí tích hiệp thông của trời đất.
Về thể chất và theo hình thức, con người chẳng khác gì con vật. Nhưng về nội dung, con người chẳng những có lý trí để tìm kiếm Sự Chân Thật, có lòng muốn để tìm kiếm Sự Thiện Hảo, có tình cảm để tìm kiếm Sự Mỹ Lệ, mà còn có cả lương tâm để nhận thức Chân-Thiện-Mỹ và có tinh thần để có thể đạt đến Chân-Thiện-Mỹ cũng như để hiệp thông với Chân-Thiện-Mỹ nữa.
Phải chăng vì thế mà:
Thân của con người không nằm ngang, tức không nằm song song với mặt đất như thân thể của con vật, một thế nằm như nói lên rằng con người cũng chỉ có một giá trị ngang hàng với vật chất, mà là một thế thẳng đứng trên mặt đất, hoàn toàn vượt trên vật chất.
Đầu của con người không hướng hạ, chúi xuống mặt đất, một hướng chiều như công nhận vật chất là cùng đích của mình, mà là hướng thượng, vươn thẳng lên trời cao, như hướng về quê hương vĩnh cửu của mình.
Mắt của con người không nhìn xuống mặt đất, như coi mặt đất là đối tượng mình phải đạt đến, mà là nhìn thẳng về phía trước mặt, như hướng về và tìm kiếm một tương lai vĩnh cửu, một hạnh phúc trường sinh bất diệt.
Bụng của con người không nằm sát với mặt đất, như dính chặt với bản năng thú tính sống để mà ăn, nhưng được đặt nằm ở trên đôi chân đạp mặt đất, vì con người bao giờ cũng phải làm chủ mặt đất, có quyền sử dụng vật chất chứ không làm tôi lệ thuộc vật chất.
Tay của con người không phải để bò như một cặp chân phụ giống con vật, loài dùng bốn chân trong việc đi kiếm ăn, mà được dùng để làm việc canh tác trái đất và phục vụ tha nhân đồng loại của mình.
Chính vì thế:
Con người là một tạo vật cao cả vươn lên, chứ không phải là một loài thấp kém thường hèn. Vì thân của con người thẳng đứng như một cây mọc trên mặt đất. Chân như rễ cây đâm sâu xuống lòng đất, để hút lấy từ ngoại giới kinh nghiệm làm nhựa sống cho tâm linh của mình, nhờ đó, càng bước đi trên mặt đất, con người lại càng từng trải trong cuộc Hành Trình Niềm Tin.
Con người là một tạo vật hướng thượng, chứ không phải là một loài hướng hạ. Vì đầu của con người hướng thẳng lên trời như hướng về một cõi siêu linh cao cả, với mớ tóc tư tưởng khôn ngoan như hoa lá, trổ sinh từ trí óc suy luận của con người khoa học, để được sinh hoa kết thành một nền văn hóa nhân bản cho cuộc sống nhân sinh.
Con người là một tạo vật của vô biên vĩnh cửu, chứ không phải là một loài của vật chất hiện sinh. Vì đôi mắt của con người nhìn thẳng trước mặt, như hướng về một tương lai với bao ước mơ và hy vọng, và sẽ luôn luôn tìm kiếm cho đến khi được viên mãn. Nằm ngửa mà ngủ, con người như đợi chờ một cuộc sống trường sinh bất diệt.
Con người là một tạo vật được dựng nên để làm chủ, chứ không phải là một loài hiện hữu để làm tôi. Bụng của con người được đặt trên đôi chân đạp mặt đất, như con người ăn để mà sống. Đôi tay của con người thong dong không bám sát mặt đất như đôi chân, để có thể tạo nên cho mình một nền văn minh nhân sinh, bằng cách sử dụng tất cả mọi khả năng của mình trong việc khai thác tất cả mọi tài nguyên thiên nhiên, trong việc khám phá hữu ích về khoa học thực nghiệm, và trong việc sáng chế những tiện nghi về kỹ thuật, tạo thoải mái cho đời sống làm người của mình trên mặt đất.
Con người đúng là một Hạt Giống Thần Linh được gieo vào mặt đất trần gian, mà thân xác của con người là lớp vỏ, cần phải bị mục nát đi theo định luật tự nhiên, để hồn thiêng là nhân sự sống có thể nẩy mầm, phát triển và sinh hoa kết trái, một sản phẩm thần linh bất diệt của Chân-Thiện-Mỹ.
Chưa hết, cũng trong cùng cuốn Tiểu Thuyết Cuối Trời Yêu Thương, chương 5, tôi còn cảm nhận thêm thế này:
Thật vậy, thân xác bẩm sinh của chúng ta nói chung không phải của chính bản thân mình cho bằng của tha nhân. Điển hình nhất là thân xác của người mẹ. Chính vì làm mẹ mà họ được sinh ra với thân phận phụ nữ dưới hình dạng và thân xác đàn bà, để có thể thụ thai, cưu mang và sinh nở. Sở dĩ họ có sữa là vì họ có con, tức nếu không có con họ sẽ không bao giờ có sữa. Vậy sữa đó là của người con hơn là của người mẹ, vẫn biết sữa đó từ thân xác của người mẹ mà có. Và vì sữa nơi người mẹ là của người con hơn của người mẹ mà nếu bà không chịu cho con mình bú, nó sẽ tự động hết đi và không còn nữa. Nếu thân xác của riêng người mẹ cũng như của chung nhân loại chúng ta là của tha nhân hơn là của chính mình như thế, chúng ta không có toàn quyền định đoạt trên thân xác của mình, theo ý riêng và tư lợi, tác hại đến tha nhân, như trường hợp người mẹ phá thai vì bào thai ở trong bụng mình. Ngày nào nhân loại chúng ta còn qui về mình, còn tìm mình, còn ích kỷ, thì ngày đó chúng ta còn đi ngược chiều sống, chúng ta sẽ gặp tai nạn, không bao giờ được an tâm, hoàn toàn bình an hạnh phúc, như thực tế đã cho ... thấy rõ điều đó. Tóm lại, theo kinh nghiệm sống nửa đời người của tôi, hạnh phúc đích thực của con người ở trên đời này là tự nguyện sống cho tha nhân, trở nên mọi sự cho mọi người, vui với kẻ vui, khóc với kẻ khóc. Tôi hoàn toàn thực nghiệm được rằng tự do là một năng quyền để cho đi, và càng cho đi càng còn và càng có dồi dào, càng dồi dào lại càng sung mãn sự sống. Đối với tôi, hạnh phúc là viên mãn yêu thương.