Ý Thức Nhân Bản
Trên tờ 1 Dollar Mỹ, chúng ta thấy có hai con số lịch sử liên quan đến nhân quyền. Con số thứ nhất là 1776, Năm Khai Sinh Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, con số được viết bằng hàng mẫu tự La Mã MDCCLXXVI nằm ở mặt mầu xanh lá cây của đồng tiền, dưới chân hình Kim Tự Tháp; và con số thứ hai là 1789, Năm Cách Mạng Pháp, con số được viết bằng số Hy Lạp, nằm ở mặt mầu trắng của đồng tiền, dưới đáy vòng chữ Bộ Ngân Khố “The Department of the Treasury”.
Phải, năm 1776 và 1789, theo lịch sử thế giới, là hai năm thuộc hậu bán thế kỷ 18, một thế kỷ đã đánh dấu những bước đầu tiên của một kỷ nguyên văn minh chẳng những về khoa học kỹ thuật mà còn cả về nhân bản nữa, ở chỗ con người đã bắt đầu ý thức được nhân quyền của mình. Tuy nhiên, dầu sao hai năm lịch sử này cũng mới chỉ là thời điểm mở màn cho một màn bi hùng kịch được kết thúc vào năm 1948, với Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Tổ Chức Liên Hiệp Quốc ban bố ngày 10/12, một bản tuyên ngôn có tầm vóc quốc tế chứ không phải chỉ có tầm vóc của một quốc gia, như Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ được ban hành ngày 4/7/1776. Thế nhưng, để biết được tiến trình lịch sử về văn minh nhân bản của con người từ hậu bán thế kỷ 18 đến trung bán thế kỷ 20, chúng ta cũng nên đọc lại và suy tư một số những khoản trọng yếu trực tiếp liên quan đến Nhân Quyền trong hai bản Tuyên Ngôn quan trọng này. Những Ý Thức về Nhân Quyền thuộc lãnh vực trần thế này rất gần gũi với Học Thuyết Xã Hội Kitô Giáo, một học thuyết phát xuất từ Phúc Âm Chúa Kitô, một Tin Mừng Sự Sống đã thấm nhuần và làm nên chân dung văn hóa đích thực của Âu Châu, một Âu Châu đã đi khắp thế giới để truyền bá văn minh phúc âm hóa từ thế kỷ 16.
Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ
Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ được chia làm 4 phần rõ rệt: phần thứ nhất là Lời Ngỏ Mở Đầu, phần thứ hai là Tuyên Ngôn Quyền Lợi, phần thứ ba là Cáo Thị Luận Bác và phần thứ bốn là Công Bố Độc Lập. Trong bốn phần này, căn bản nhất và trọng yếu nhất là phần thứ hai, phần Tuyên Ngôn Quyền Lợi. Vì những Ý Thức về Nhân Quyền trong phần thứ hai về Tuyên Ngôn Quyền Lợi này mới dẫn đến phần ba là phần bao gồm những Cáo Buộc Luận Bác đối với Vua Đại Anh Quốc, một quyền bính đã áp đặt chế độ thực dân trên Hoa Kỳ, hoàn toàn phản lại với những Ý Thức về Nhân Quyền trong phần hai, một tình trạng cần phải được tái thiết lập theo đúng như những Ý Thức về Nhân Quyền, được thể hiện bằng việc tranh đấu để giành Tự Do và Độc Lập, một cuộc tranh đấu đã được kết thúc bằng việc Công Bố Độc Lập, phần thứ tư của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ. Vậy phần Tuyên Ngôn Quyền Lợi hết sức quan trọng trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ đã được Quốc Hội công nhận ngày 4/7/1776 và sau đó đã được đa số 56 vị đại diện thuộc 13 tiểu bang tiên khởi của Hoa Kỳ ký ngày 2/8/1776, bao gồm những Ý Thức về Nhân Quyền ra sao?
“Chúng tôi chủ trương đây là những chân lý minh nhiên, đó là, tất cả mọi con người đều được dựng nên bình đẳng, đó là, họ được Hóa Công ban cho một số Quyền Lợi bất khả xúc phạm, đó là, trong số những quyền lợi này có Quyền Sống, Quyền Tự Do và Quyền theo đuổi Hạnh Phúc.
“Đó là, để bảo toàn những quyền lợi này, cần phải thiết lập Chính Quyền nơi Con Người, với quyền hạn chính đáng được phát xuất từ sự ưng thuận của dân chúng.
“Đó là, bất cứ Thể Chế Chính Quyền nào trở thành nguy hại cho những mục tiêu quyền lợi ấy thì Dân Chúng Có Quyền thay đổi hay loại trừ nó, để thiết lập một Chính Quyền mới, được đặt căn bản trên những nguyên tắc quyền lợi này, và tổ chức quyền hạn của nó theo một thể chế có thể đối với họ mang lại hiệu quả tốt đẹp cho tình trạng An Sinh và Hạnh Phúc của họ”.
Căn cứ vào Tuyên Ngôn Quyền Lợi thuộc phần thứ hai trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ, chúng ta thấy những điểm chính yếu sau đây:
• Về phương diện bẩm sinh cá nhân, có ba Quyền Lợi chính: đó là Quyền Sống, Quyền Tự Do và Quyền theo đuổi Hạnh Phúc;
• Về phương diện tổ chức xã hội, cũng có ba Quyền Lợi chính: đó là Quyền Tuyển Chọn Thể Chế Công Quyền, Quyền Truất Phế Thể Chế Bạo Quyền, và Quyền Tái Lập Thể Chế Chính Quyền.
Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Tổ Chức Liên Hiệp Quốc
Trước hết, về nguồn gốc của chính Tổ Chức Liên Hiệp Quốc (The United Nations), cơ quan quốc tế này được thành lập ngày 24/10/1945 sau Thế Chiến Thứ Hai. Tổ Chức Liên Hiệp Quốc này được phỏng theo và tiếp nối tổ chức quốc tế đã được hình thành sau Thế Chiến Thứ Nhất, đó là Tổ Chức Liên Minh Chư Quốc (League of Nations). Tổ Chức Liên Minh Chư Quốc được các nước dự phần vào cuộc chiến thắng Đại Chiến Thứ Nhất là Pháp, Đại Anh Quốc, Ý , Nhật và Hoa Kỳ thành lập vào tháng Giêng năm 1920 với trụ sở chính ở Geneva Thụy Sĩ. Tổng Thống Woodrow Wilson Hoa Kỳ là người chủ chốt trong việc thành lập tổ chức quốc tế này, nhưng đã thất bại trong việc chinh phục Hoa Kỳ tham gia vào tổ chức này, một tổ chức bị giải tán vào tháng 6/1946, sau khi Tổ Chức Liên Hiệp Quốc thành hình. Tổ Chức Liên Hiệp Quốc cũng được đa số các nước sáng lập Tổ Chức Liên Minh Chư Quốc đứng ra thành lập. Đại diện của các nước này đã gặp nhau ở San Francisco vào tháng Tư năm 1945 để phác họa một dự án bảo vệ hòa bình thế giới, dự án được gọi là Hiến Chương Liên Hiệp Quốc (the Charter of the United Nations). Tháng 6/1945, đã có 50 nước ký nhận Bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc này và đã trở thành hội viên đầu tiên của Tổ Chức Liên Hiệp Quốc. Cho tới nay, các nước hội viên Liên Hiệp Quốc đã lên đến 159, trong đó có Việt Nam (gia nhập từ năm 1977). Trụ sở chính của Liên Hiệp Quốc được đặt tại Nữu Ước Hoa Kỳ. Lá cờ của Liên Hiệp Quốc cũng cho thấy mục đích phục vụ hòa bình của tổ chức này, đó là hình ảnh thế giới được bao đỡ bởi hai cành lá Olive tượng trưng cho hòa bình.
Mục đích chính của Tổ Chức Liên Hiệp Quốc, đó là phục vụ Hòa Bình Thế Giới và Nhân Phẩm Con Người. Mục đích phục vụ Hòa Bình Thế Giới của Liên Hiệp Quốc đã được xác nhận trong Bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc (the Charter of the United Nations), nhất là ở ngay phần Lời Ngỏ Mở Đầu của bản văn kiện này, do Jan Christiaan Smuts nước Nam Phi soạn thảo, và mục đích phục vụ Nhân Phẩm Con Người cũng đã được thể hiện nơi Bản Tuyên Ngôn Chung Về Nhân Quyền (the Universal Declaration of Human Rights).
Bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc: Lời Ngỏ Mở Đầu
“Các dân tộc thuộc Tổ Chức Liên Hiệp Quốc chúng tôi quyết định:• Cứu vớt các thế hệ sau này khỏi những cuộc hoạn nạn chiến tranh đã hai lần mang lại trong thời đại của chúng tôi tình trạng buồn đau khôn tả cho loài người,
• Tái xác nhận niềm tin tưởng nơi các quyền lợi căn bản của con người, nơi phẩm vị cũng như giá trị của loài người, nơi quyền bình đẳng của con người nam nữ cũng như của các quốc gia lớn nhỏ,
• Thiết lập những điều kiện có thể bảo trì công lý và việc tôn trọng cần phải tỏ ra đối với những đòi buộc của các hiệp định cũng như của các nguồn khác thuộc công pháp quốc tế,
• Phát động tình trạng tiến bộ xã hội cùng với những qui chuẩn sống trong tự do thoải mái tốt đẹp hơn.
Và vì những mục tiêu sau đây:
• Thể hiện việc dung nhượng và chung sống hòa bình với nhau như là những cận nhân tốt lành,
• Hiệp nhất sức mạnh của chúng ta để bảo trì hòa bình và an ninh quốc tế,
• Bảo đảm lực lượng quân sự không được sử dụng nữa thì góp phần vào việc sinh lợi ích chung, bằng việc chấp nhận những nguyên tắc cũng như bằng việc thiết lập những phương pháp, và
• Sử dụng guồng máy quốc tế để đẩy mạnh tình trạng tiến bộ về kinh tế cũng như xã hội cho tất cả mọi dân tộc,
Chúng tôi đã quyết tâm hợp lực để hoàn thành những mục đích ấy. Bởi thế, những Chính Quyền hiện hành chúng tôi, qua các vị đại diện họp nhau ở thành phố San Francisco, những người có đầy đủ quyền hạn hiệu năng và xứng hợp, đã ưng thuận với Bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc này, để thiết lập một tổ chức quốc tế được gọi là Liên Hiệp Quốc này”.
Thực tế cho thấy, từ ngày thành lập đến nay, Tổ Chức Liên Hiệp Quốc đã phục vụ Hòa Bình Thế Giới qua những trường hợp điển hình sau đây:
Năm 1947, giải quyết Chiến Tranh Trung Đông giữa Dân Do Thái và Khối Palestine, bằng việc chia đất Palestine thành hai quốc gia, Do Thái và Ả Rập, nhưng Thành Giêrusalem trực thuộc Liên Hiệp Quốc. Khối Ả Rập chống lại dự án này, và ngay sau ngày khi quốc gia Do Thái hình thành, 14/5/1948, tới nay, giữa năm 2002, Chiến Tranh Trung Đông vẫn kéo dài, với những cuộc mắt đền mắt, răng đền răng, Palestine khủng bố tấn công, Do Thái tấn công khủng bố, hầu như không ai có thể can thiệp nổi.
Năm 1947, giải quyết cuộc Tranh Giành quyền trị giữa Cộng Hòa Nam Dương với Hòa Lan, nước muốn tái đô hộ Nam Dương nói chung và miền Đông Tân Giunê nói riêng sau Thế Chiến II, cuộc Tranh Giành đã được hoàn toàn ổn định vào năm 1963 và 1969.
Năm 1948, can thiệp vào cuộc xung đột giữa Ấn Độ và Pakistan xẩy ra từ năm 1947 về miền đất Kashmir, cuộc xung đột nhờ Liên Bang Nga đã tạm ổn vào năm 1966. Nhưng cho tới nay, giữa năm 2002, hai nước này vẫn chưa nguôi xung đột như giữa Dân Do Thái và Khối Palestine ở Trung Đông.
Năm 1948, nhúng tay vào Chiến Tranh Đại Hàn, bằng việc công nhận Cộng Hòa Nam Hàn và coi chính phủ Nam Hàn là chính phủ chính thức duy nhất của Đại Hàn; thế nhưng, Bắc Hàn đã tấn công Nam Hàn từ ngày 25/6/1950, và Liên Hiệp Quốc đã giúp Nam Hàn chống cộng từ ngày 7/7/1950, thế rồi vào tháng 10 cùng năm, Trung Cộng đã nhẩy vào vòng chiến cho tới ngày 27/7/1953. Tuy nhiên, cho tới nay Đại Hàn vẫn chưa hoàn toàn thống nhất.
Năm 1954, can thiệp vào Cuộc Xung Đột ở Cyprus, một nước bấy giờ đang thuộc quyền đô hộ của Anh và bao gồm hai sắc dân, Hy Lạp chiếm 80% muốn đảo Cyprus sát nhập vào Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ chiếm đa số trong 20% còn lại. Cuộc xung đột dữ dội vào tháng 2/1957 đã thúc LHQ yêu cầu ba nước Anh Quốc, Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ giải quyết vấn đề và nhờ đó đã giúp Cyprus trở thành một Nước Cộng Hòa ngày 16/8/1960. Tuy nhiên, sau đó, Cộng Hòa Cyprus vẫn tiếp tục là nơi xung đột giữa hai Nước Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, một lần vào tháng 12/1963, đến nỗi LHQ đã phải gửi quân tới để giữ an ninh cho đảo này, và một lần vào tháng 7/1974, kết quả là vào năm 1983, sau khi xâm chiếm Cyprus, Thổ Nhĩ Kỳ đã tuyên bố Cộng Hòa Thổ Nhĩ Kỳ Miền Bắc Cyprus, nhưng công bố này đã bị LHQ lên án.
Năm 1960, nhúng tay vào tình hình Congo, một nước đã được độc lập ngày 30/6/1960 sau 55 năm bị Bỉ đô hộ. Thế nhưng, sau khi Bỉ rút lui, nước này đã bùng nổ nội chiến. Quân Bỉ đã phải trở lại để giữ an ninh. Quân Congo yêu cầu LHQ giúp đỡ, một lực lượng đã phục hồi an ninh cho nước này và rút khỏi nước này ngày 30/6/1964. Thế nhưng, chi phí cho cuộc vãn hồi này lên đến 450 triệu Mỹ kim, một chi phí LHQ phải một mình gánh chịu vì Nga, Pháp và một số nước không đồng ý chung lưng gánh chịu.
Năm 1962, can thiệp vụ đầu đạn nguyên tử ở Vịnh Cuba. Ngày 22/10, Tổng Thống Hoa Kỳ Kennedy loan báo cho thế giới biết rằng Nga Sô đang thiết lập những căn cứ đầu đạn nguyên tử bí mật ở Cuba, nơi có thể tấn công Hoa Kỳ qua ngả Florida với khoảng cách độ 90 dặm. Ngày 24/10 LHQ đã yêu cầu hai cường quốc đệ nhất hoàn cầu giải quyết vấn đề với nhau. Ngày 28/10, hai bên đã giải quyết vấn đề ổn thỏa.
Bản Tuyên Ngôn Chung Về Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc
Văn kiện lịch sử hết sức quan trọng nàycó hai phần rõ rệt, phần Ý Thức và phần Xác Quyết. Phần Ý Thức cho thấy 7 lý do thúc đẩy Liên Hiệp Quốc phác họa Bản Tuyên Ngôn Chung Về Nhân Quyền. Phần Xác Quyết gồm 30 khoản gồm tóm tất cả mọi quyền lợi bẩm sinh bất khả vi phạm của con người, xứng với phẩm giá làm người của họ, bao gồm đủ mọi lãnh vực về con người, như sự sống (khoản 3), phẩm vị (khoản 4, 12, 25), phát triển (khoản 22, 28, 29), kiện cáo (khoản 5-11), hôn nhân (khoản 16), giáo dục (khoản 26), di chuyển (khoản 13, 14, 15), sinh sống (khoản 22, 23, 24), sở hữu (khoản 17, 27), hành đạo (khoản 18), chính trị (khoản 21). Sau đây là toàn bản văn kiện Tuyên Ngôn Chung Về Nhân Quyền:
• Xét rằng, việc nhìn nhận phẩm vị bẩm sinh và những quyền lợi bình đẳng bất khả vi phạm của tất cả mọi phần tử thuộc gia đình nhân loại là nến tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới,
• Xét rằng, việc coi thường và khinh thị nhân quyền đã gây nên những hành động man rợ làm cho lương tâm con người uất hận, mà việc thăng tiến của một thế giới làm cho nhân loại được hoan hưởng quyền tự do phát biểu và tin tưởng, tự do an vui và thoải mái, đã được công nhận là một ước vọng cao nhất của chung con người,
• Xét rằng, nếu con người không bị bắt buộc phải sử dụng đến việc nổi loạn như là phương tiện bất đắc dĩ để chống lại với bạo quyền và đàn áp, thì nhân quyền thực sự cần phải được qui luật pháp lý bênh vực,
• Xét rằng cần phải đẩy mạnh việc phát triển các mối liên hệ thân hữu giữa các dân nước,
• Xét rằng các dân tộc thuộc Tổ Chức Liên Hiệp Quốc đã tái xác nhận trong Bản Hiến Chương của mình về niềm tin của họ nơi các nhân quyền căn bản, nơi phẩm vị và giá trị của con người cũng như nơi quyền bình đẳng nam nữ, và đã quyết tâm phát động tình trạng tiến bộ về xã hội cùng với những qui chuẩn sống tự do thoải mái hơn,
• Xét rằng Các Quốc Gia Phần Tử đã tự hứa quyết cộng tác với Tổ Chức Liên Hiệp Quốc trong việc đạt đến vấn đề cổ võ lòng tôn trọng phổ quát cũng như vấn đề tuân giữ nhân quyền và những quyền tự do căn bản,
• Xét rằng việc hiểu biết chung về những quyền lợi và tự do này có một vai trò hết sức quan trọng cho việc hoàn toàn thể hiện lời đoan quyết này,
Bởi vậy, giờ đây, Đại Hội Đồng xin tuyên bố
Bản Tuyên Ngôn Chung Về Nhân Quyền, như là một qui chuẩn chung đối với tất cả mọi dân tộc cũng như tất cả mọi đất nước, để giúp cho hết mọi người và hết mọi cơ cấu xã hội, khi liên lỉ ghi nhớ bản Tuyên Ngôn này, nỗ lực đạt đến mục đích ấy, bằng cách dạy dỗ và giáo dục để cổ võ lòng tôn trọng những quyền lợi và tự do này, cũng như bằng những biện pháp tân tiến, cả ở lãnh vực quốc gia lẫn quốc tế, để rõ ràng cho thấy họ thực sự nhìn nhận và tuân giữ một cách phổ quát và có tác hiệu, cả nơi dân tộc của Các Nước Phần Tử cũng như nơi dân tộc thuộc các lãnh địa thuộc phạm vi quyền hạn của họ.
1. Tất cả mọi con người được sinh ra có tự do và bình đẳng về phẩm giá cũng như quyền lợi. Họ được ban cho có trí khôn và lương tâm, và phải tác hành hướng về nhau trong tinh thần huynh đệ.
2. Hết mọi người đều có quyền hưởng tất cả mọi quyền lợi và tự do được Bản Tuyên Ngôn này phác họa, không phân biệt thứ loại, như giống nòi, mầu da, phái tính, ngôn ngữ, tôn giáo, tư kiến chính trị ra sao, gốc gác quốc gia hay xã hội, của cải sản vật, hoàn cảnh sinh vào đời thế nào. Ngoài ra, không được phân biệt căn cứ vào vị thế chính trị, pháp vực hay quốc tế của xứ sở hay lãnh thổ con người thuộc về, cho dù độc lập, tùy thuộc, không tự trị hay bị bất cứ một giới hạn về quyền trị nào.
3. Hết mọi người đều có quyền sống, tự do và an ninh bản thân.
4. Không ai phải bị bắt làm nô lệ hay tôi mọi; tất cả mọi hình thức nô lệ và buôn bán nô lệ đều bị cấm chỉ.
5. Không ai phải bị hành sử hay trừng phạt một cách tàn bạo hay dã man, nhục nhã và đê hèn.
6. Hết mọi người đều có quyền được nhìn nhận là một ngôi vị trước luật pháp ở khắp mọi nơi.
7. Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được luật pháp bảo vệ như nhau. Tất cả mọi người đều được bảo vệ như nhau khỏi bất kỳ một kỳ thị nào phạm đến Bản Tuyên Ngôn này cũng như khỏi bất cứ một xui giục nào đưa đến một kỳ thị như vậy.
8. Hết mọi người đều có quyền được các pháp đình quốc gia thẩm quyền bênh chữa một cách hiệu lực đối với những hành động vi phạm đến các quyền lợi của họ theo hiến định hay luật định.
9. Không ai phải bị tù ngục, giam giữ hay đầy ải một cách độc đoán.
10. Hết mọi người đều được đầy đủ quyền lợi như nhau trong việc khiếu nại một cách công bằng và công khai để tòa án độc lập và vô tư phán quyết về các quyền lợi và trách vụ của họ, cũng như về tội trạng họ bị tố cáo.
11. 1) Hết mọi người bị cáo buộc phạm tội đáng bị trừng phạt đều được giả thiết là vô tội cho đến khi chứng minh thấy họ có tội theo luật pháp trước một phiên tòa công khai để họ có tất cả những bảo đảm cần thiết trong việc bênh chữa cho họ. 2) Không ai sẽ bị coi là có tội về bất cứ vi phạm đáng phạt nào, nếu bất cứ việc làm nào hay việc bỏ qua không làm nào vốn không phải là một vi phạm đáng phạt theo luật quốc gia hay quốc tế vào lúc xẩy ra vấp phạm đó. Cũng không được ra hình phạt nặng hơn hình phạt ở vào lúc tội phạm xẩy ra.
12. Không ai bị ngang nhiên xía vào đời tư, gia đình, nhà cửa hay thư tín của họ, cũng như bị tấn công đến danh dự và tiếng tăm của họ. Hết mọi người đều có quyền được luật pháp bảo vệ khỏi những xía xỏ và tấn công này.
13. 1) Hết mọi người đều có quyền tự do di chuyển và cư trú trong ranh giới của mỗi một quốc gia. 2) Hết mọi người đều có quyền lìa bỏ bất cứ xứ sở nào, bao gồm cả quê hương xứ sở của mình, cũng như có quyền trở về xứ sở của mình.
14. 1) Hết mọi người đều có quyền tìm cách tị nạn và được hưởng tị nạn ở những xứ sở khác để lánh nạn bắt bớ. 2) Không được rút lại quyền này trong trường hợp những cuộc bắt bớ hoàn toàn gây ra bởi những tội ác phi chính trị nhưng lại trái với những mục đích và nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc.
15. 1) Hết mọi người đều được hưởng quyền có một quốc tịch. 2) Không một ai sẽ bị tước đoạt một cách ngang xương quốc tịch của họ hay bị từ chối không cho họ thay đổi quốc tịch.
16. 1) Những con người nam nữ thành nhân, bất kể nòi giống, quốc tịch hay tôn giáo, đều có quyền kết hôn và lập gia đình. Họ có quyền ngang nhau trong việc kết hôn với nhau, trong việc sống đời hôn nhân với nhau cũng như trong việc hủy bỏ hôn nhân. 2) Việc hôn nhân phải được hai người muốn lấy nhau thực hiện một cách tự do và hoàn toàn chấp nhận nhau. 3) Gia đình là đơn vị nhóm theo tự nhiên và căn bản của xã hội và được hưởng quyền bảo vệ của xã hội và quốc gia.
17. 1) Hết mọi người đều có quyền sở hữu tài sản riêng của mình cũng như với những người khác. 2) Không một ai bị tước đoạt một cách ngang xương tài sản của họ.
18. Hết mọi người đều có quyền tự do suy nghĩ, tự do theo lương tâm và tự do theo đạo; quyền này bao gồm quyền tự do thay đổi tôn giáo hay niềm tin của mình, cũng như quyền tự do biểu lộ tôn giáo hay niềm tin của mình qua giáo huấn, qua việc hành đạo, qua việc phượng tự cũng như qua việc giữ luật đạo, theo cá nhân hay với những người khác trong cộng đồng, một cách công khai hay âm thầm.
19. Hết mọi người đều được quyền tự do có ý kiến và phát biểu; quyền này bao gồm quyền tự do giữ ý kiến của mình mà không bị gây khó dễ, cũng như quyền được tự do tìm kiếm, lãnh nhận và truyền đạt tín liệu cũng như tư tưởng bằng bất cứ phương tiện truyền thông nào, bất kể giới tuyến.
20. 1) Hết mọi người đều được quyền tự do hội họp với nhau một cách trật tự và gia nhập hiệp hội. 2) Không ai bị bắt buộc phải thuộc về một hiệp hội nào.
21. 1) Hết mọi người đều có quyền tham gia vào việc cai trị xứ sở của mình, một cách trực tiếp hay qua những vị đại diện được tự do tuyển chọn. 2) Hết mọi người đều có quyền ngang nhau trong việc hưởng dịch vụ công cộng nơi xứ sở của mình. 3) Ý của dân chúng phải là nền tảng cho quyền bính của chính phủ; ý dân này được thể hiện nơi những cuộc tuyển cử định kỳ và chuyên chính, bằng cuộc đầu phiếu chung và bình đẳng, cũng như bằng phiếu kín hay bằng những phương thức tự do bỏ phiếu tương đương.
22. Hết mọi người, với tư cách là phần tử của xã hội, đều có quyền được hưởng an sinh xã hội, và được quyền hiện thực những quyền lợi về kinh tế, xã hội và văn hóa bất khả thiếu đối với phẩm vị của họ cũng như đối với việc phát triển nhân cách của họ, nhờ việc nỗ lực của quốc gia cũng như việc hợp tác quốc tế, hợp với việc tổ chức và các nguồn lợi của mỗi Quốc Gia.
23. 1) Hết mọi người đều có quyền làm việc, có quyền tự do chọn công ăn việc làm, quyền chọn những điều kiện chính đáng và thuận lợi để làm việc, và quyền được bảo vệ cho khỏi bị cảnh thất nghiệp. 2) Hết mọi người không trừ ai đều được hưởng lương bổng đồng đều cho việc làm như nhau. 3) Hết mọi người làm việc đều có quyền được hưởng công thưởng chính đáng và bổng lợi hầu bảo đảm cho họ cũng như cho gia đình họ một cuộc sống xứng đáng với phẩm vị con người, và, nếu cần, họ còn được xã hội trợ cấp bằng những phương cách bảo vệ khác. 4) Hết mọi người đều có quyền thành lập và tham gia những nghiệp đoàn để bảo vệ những ích lợi của họ.
24. Hết mọi người đều có quyền nghỉ ngơi và giải trí, bao gồm cả việc ấn định hợp lý về giờ giấc làm việc cũng như về những ngày nghỉ lễ vẫn có lương.
25. 1) Hết mọi người đều có quyền hưởng một tiêu chuẩn sống đầy đủ, bao gồm thực phẩm, quần áo, nhà cửa, dịch vụ ý tế, và những dịch vụ xã hội cần thiết, hợp với sức khỏe và tình trạng an lành của chính họ cũng như của gia đình họ, cũng như quyền hưởng an sinh trong trường hợp bị thất nghiệp, bệnh nạn, tật nguyền, góa bụa, giả cả, hay thiếu hụt khác của cuộc sống ở vào những hoàn cảnh xẩy ra ngoài ý muốn của họ. 2) Vai trò làm mẹ và làm con được quyền hưởng những chăm sóc và trợ giúp đặc biệt. Tất cả mọi trẻ em, bất kể được sinh ra trong hôn nhân hay ngoại hôn, đều phải được xã hội bảo vệ như nhau.
26. 1) Hết mọi người có quyền được học hành. Việc giáo dục phải miễn phí, ít là ở những giai đoạn tiểu học và căn bản. Giáo dục ở bậc tiểu học là việc bắt buộc. Việc giáo dục về kỹ thuật và chuyên môn phải thuận lợi cho chung mọi người, và việc giáo dục cao cấp phải dễ dàng theo đuổi như nhau đối với tất cả mọi người có cùng một khả năng. 2) Việc giáo dục phải nhắm đến tình trạng phát triển trọn vẹn nhân cách của con người và việc củng cố lòng tôn trọng đối với các quyền lợi của con người cùng với các quyền tự do của họ. Nó phải cổ võ việc hiểu biết, lòng dung nhượng và tình hữu nghị nơi tất cả mọi dân nước, mọi nhóm chủng tộc hay tôn giáo, và phải làm phát triển những hoạt động của Liên Hiệp Quốc trong việc bảo trì hòa bình. 3) Phụ huynh có quyền ưu tiên trong việc chọn lựa vấn đề giáo dục cho con em của mình.
27. 1) Hết mọi người đều có quyền tự do tham dự vào sinh hoạt văn hóa của cộng đồng, hoan hưởng những nghệ thuật và tham phần vào những tiến bộ về khoa học cùng với những tiện ích của nó. 2) Hết mọi người có quyền được bảo toàn những ích lợi luân lý và thể lý phát xuất từ những sản phẩm về khoa học, văn chương hay nghệ thuật mà họ là tác giả.
28. Hết mọi người đều được quyền hưởng trật tự xã hội và quốc tế có thể giúp vào việc hoàn toàn thể hiện các quyền lợi và quyền tự do được phác họa trong Bản Tuyên Ngôn này.
29. 1) Hết mọi người có nhiệm vụ đối với cộng đồng giúp họ có thể hiện thực việc phát triển tự do và trọn vẹn nhân cách của họ. 2) Trong việc hành sử các quyền lợi và quyền tự do của mình, hết mọi người chỉ phải tùy thuộc vào những giới hạn luật định để bảo đảm việc nhìn nhận và tôn trọng những quyền lợi và quyền tự do của người khác, cũng như để đáp ứng những đòi hỏi chính đáng của luân lý, của phạm vi công quyền cũng như của tình trạng an sinh chung trong một xã hội quân chủ. 3) Những quyền lợi và tự do này không bao giờ được hành sử nghịch lại với những mục đích và nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc.
30. Không một điều nào trong Bản Tuyên Ngôn này được cắt nghĩa như hàm ý giành cho một Quốc Gia nào, phái nhóm hay con người nào, quyền lợi tham gia vào bất cứ hoạt động hay thi hành bất cứ hành động nào nhắm vào việc hủy hoại bất cứ một quyền lợi và tự do được phác họa ở đây.
Điển hình của những gì Tổ Chức Liên Hiệp Quốc đã nỗ lực để phục vụ Phẩm Giá Con Người liên quan đến Bản Tuyên Ngôn Chung Về Nhân Quyền, thế giới có thể thấy được, đó là Cuộc Họp Thượng Đỉnh Thiên Kỷ của Liên Hiệp Quốc (United Nations Millennium Summit), một cuộc họp thượng đỉnh đông đảo chưa bao giờ có, với sự góp mặt của 150/159 đại diện các nước hội viên, diễn ra vào ngày 6-8/9/2000 tại Nữu Ước Hoa Kỳ, Tổng Hành Dinh của Liên Hiệp Quốc. Trong cuộc họp thượng đỉnh này, các vị lãnh đạo quốc gia tham dự viên đã quyết định những điều liên quan đến việc phục vụ Phẩm Giá Con Người như sau. Đó là, vào năm 2015, sẽ giảm một nửa số dân chúng trên thế giới đang sống ở mức kiếm được dưới 1 Mỹ kim một ngày; chặn đứng hay đảo ngược lại việc lan truyền khuẩn liệt kháng HIV, khuẩn gây ra Chứng Liệt Kháng AIDS; và đưa hết mọi trẻ em đến học đường.
(Tài liệu nghiên cứu và trích dịch trong bài này được lấy từ Bộ Bách Khoa World Book)
Vấn đề ở đây là tại sao con người đã ý thức được nhân quyền của mình, qua hai văn kiện lịch sử là Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ năm 1776, nhất là Bản Tuyên Ngôn Chung Về Nhân Quyền của Tổ Chức Liên Hiệp Quốc năm 1948, mà con người vẫn chưa thể sống trong công lý và hòa bình, trái lại, như lịch sử cho thấy, con người chẳng những càng ngày lại càng kỳ thị nhau hơn và xung khắc với nhau hơn bao giờ hết, giữa các chủng tộc với nhau, như ở Âu Châu sau Biến Cố Đông Âu 1989, nhất là ở cuộc Chiến Tranh Trung Đông, giữa các tôn giáo với nhau, như giữa Hồi Giáo và Kitô Giáo, giữa các chủ nghĩa với nhau, như giữa Tư Bản và Cộng Sản, giữa tôn giáo và văn minh, như giữa Hồi Giáo và Âu Mỹ, mà còn càng ngày càng biến loạn hơn bao giờ hết, với những thứ quyền lợi và quyền hạn được pháp luật chính thức công nhận, như quyền ly dị và phá thai, quyền đồng tính luyến ái và đồng tính hôn nhân v.v. Tại sao? Phải chăng một khi lên đến tuyệt đỉnh văn minh về nhân quyền, con người bắt đầu đi xuống?? Thế nhưng, cái gì sẽ lên thay thế vị trí tuyệt đỉnh nhân quyền này???Tâm Phương Cao Tấn Tĩnh