(1)

Thiên Chúa, Đấng Tỏ Mình ra,

là Nguồn Đức Tin của Chúng Ta

 

 

K

hởi điểm cho loạt bài giáo lý về Thiên Chúa là Đấng tỏ mình ra vẫn là đoạn văn của Công Đồng Vaticanô II: “Theo sự thiện hảo và khôn ngoan của mình, Thiên Chúa đã muốn mạc khải mình ra cũng như muốn tỏ chúng ta biết mục đích kín đáo của ý Ngài muốn (x.Eph.1:9), nhờ đó, qua Đức Kitô, Lời đã hóa thành nhục thể, con người có thể, trong Thánh Linh, đến được cùng Cha và thông phần bản tính thần linh” (x.Eph.2:18; 2Pet.1:4). Bởi thế, qua mạc khải này, Thiên Chúa vô hình (x.Col.1:15; 1Tim.1:17), bởi sự viên mãn của tình yêu mình, đã nói với con người như bạn hữu (x.Ex.33:11; Jn.15:14-15) và sống giữa họ (x.Bar.3:38), để Ngài có thể mời gọi và làm cho họ được hiệp thông với Ngài” (Hiến Chế Dei Verbum, đoạn 2).

            Thế nhưng, chúng ta đã xét đến việc có thể nhận biết Thiên Chúa nhờ nguyên tài năng lý trí của con người. Theo giáo huấn liên tục của Giáo Hội, được Công Đồng Chung Vaticanô I đặc biệt diễn tả (Hiến Chế Tín Lý Dei Filius, đoạn 2) và được Công Đồng Chung Vaticanô II lập lại (Hiến Chế Tín Lý Dei Verbum, đoạn 6), thì lý trí con người có khả năng và khả kiện này: “Thiên Chúa, nguyên ủy và là cùng đích tất cả mọi sự, có thể được nhận biết một cách chắc chắn qua thế giới thụ tạo bằng ánh sáng của lý trí con người (x.Rm.1:20)”. Tuy nhiên, mạc khải thần linh lại cần thiết “để những chân lý tôn giáo, mà theo bản chất của chúng lý trí nhân loại vốn có thể nhận ra, có thể được tất cả mọi người nhận biết một cách dễ dàng, vững chắc, không mang dấu vết sai lầm, ngay cả ở tình trạng hiện tại của nhân loại”.

            Kiến thức về Thiên Chúa nhờ lý trí này, một kiến thức đạt đến Ngài “qua các sự vật tạo thành”, thì gắn liền với bản chất suy luận của con người. Kiến thức ấy cũng gắn liền với dự án nguyên thủy của Thiên Chúa, Đấng muốn con người, bằng việc ban cho họ bản chất suy luận này, có thể nhận biết Ngài. “Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên tất cả mọi sự bởi Lời (x.Jn.1:3) và bảo tồn chúng hiện hữu, ban cho con người một chứng cớ về mình kéo dài nơi các thực tại tạo thành (x.Rm.1:19-20)” (Hiến Chế Dei Verbum, đoạn 3). Chứng cớ này được ban cho như một tặng ân, đồng thời được lưu lại như một đối tượng để học hỏi về phần lý trí của con người. Nhờ kỹ lưỡng và kiên trì đọc chứng cớ nơi những sự vật tạo thành này mà lý trí con người hướng về Thiên Chúa và tiến đến với Ngài. Theo một nghĩa nào đó thì đây là một lối “lên”. Sử dụng những bậc thang tạo vật, con người tiến lên cùng Thiên Chúa bằng việc đọc thấy chứng cớ nơi sự có, sự thật, sự thiện và sự mỹ mà các tạo vật mang trong mình.

            Cách thức hiểu biết này, ở một nghĩa nào đó, bắt nguồn từ con người và lý trí của họ, khiến tạo vật lên cùng Hóa Công. Chúng ta có thể gọi nó là đường lối “nhận biết”. Có một đường lối thứ hai, đó là đường lối “đức tin”, một đường lối bắt nguồn hoàn toàn nơi Thiên Chúa. Hai đường lối này khác nhau, song chúng đều gặp nhau nơi chính con người, và theo một nghĩa nào đó, hoàn toàn hỗ tương và trợ giúp nhau.

            Không giống như kiến thức nhờ lý trí mà có, một kiến thức bắt đầu nơi “tạo vật” và chỉ gián tiếp dẫn đến Thiên Chúa, kiến thức nhờ đức tin lấy từ nguồn mạc khải mà có, một kiến thức nhờ đó Thiên Chúa trực tiếp “tỏ mình ra”. Thiên Chúa mạc khải mình ra. Ngài để cho mình được nhận biết, bằng việc bộc lộ “mục đích kín nhiệm của ý Ngài muốn” (Eph.1:9). Ý của Thiên Chúa muốn là, con người, nhờ Đức Kitô, Lời làm người, có thể đến cùng Cha trong Thần Linh và trở nên thành phần được thông phần vào bản tính thần linh. Bởi thế, cùng một lúc tỏ dự án cứu độ con người của mình ra, Thiên Chúa cũng mạc khải “bản thân mình” cho con người. Một mình lý trí con người không thể nào biết được dự án cứu độ nhiệm mầu của Thiên Chúa. Ngay cả con người tinh khôn nhất, đọc thấy chứng cớ của Thiên Chúa nơi các sự vật tạo thành, cũng không thể nào tỏ cho trí khôn nhân loại biết được những chân trời siêu nhiên này. Trí khôn nhân loại không vươn tới “con đường cứu độ cao cả” (như lối diễn tả của Hiến Chế Dei Verbum, đoạn 3), một đường lối gắn liền với “tặng ân Thiên Chúa ban tặng chính mình” cho con người. Trong việc mạc khải chính mình, tự Thiên Chúa “mời gọi và làm cho con người được hiệp thông với Ngài” (x. Hiến Chế Verbum Dei, đoạn 2).

            Chỉ việc nhớ kỹ những điều này thì chúng ta có thể hiểu được đức tin thực sự là gì, nội dung của lời tuyên xưng “tôi tin kính” ra sao.

            Nếu công nhận rằng đức tin ở tại việc chấp nhận những gì Thiên Chúa mạc khải là thực, thì Công Đồng Chung Vaticanô II đã có lý nhấn mạnh đức tin cũng là một đáp ứng của cả con người, khi đề cao chiều kích “hiện hữu” và “cá nhân” của tác động đáp ứng này. Thật vậy, nếu Thiên Chúa “mạc khải chính mình” và bộc lộ “mục đích kín nhiệm của ý Ngài muốn” trong việc cứu độ, thì cũng hợp lý để chứng tỏ cùng Thiên Chúa, Đấng mạc khải chính mình, một “lòng tuân phục tin tưởng” được thể hiện qua tác động cả con người tự nguyện phó mình cho Thiên Chúa, bằng việc cho Ngài thấy “sự suy phục của trí khôn với lòng muốn” (Công Đồng Chung Vaticanô I) và “việc tự tình chấp nhận chân lý Ngài mạc khải” (Hiến Chế Dei Verbum, đoạn 5).

            Trong việc hiểu biết bằng đức tin, con người chấp nhận tất cả nội dung siêu nhiên cứu độ của mạc khải là chân thật. Thế nhưng, sự kiện này đồng thời cũng dẫn họ vào một mối liên hệ riêng tư sâu xa với Thiên Chúa là Đấng mạc khải mình ra. Nếu chính nội dung của mạc khải là việc “thông mình” cứu độ của Thiên Chúa, thì việc đáp ứng của đức tin cũng đúng thực ở chỗ con người - khi chấp nhận nội dung cứu độ đó như là một sự thật - đồng thời cũng “phó trót toàn thân mình cho Thiên Chúa”. Chỉ khi nào con người hoàn toàn “phó mình cho Thiên Chúa” họ mới đáp ứng cách xứng hợp.

 

(Bài Giáo Lý ngày 27 tháng 3 năm 1985)