(10)
Thiên Chúa là Tình Yêu,
Chân Lý tột đỉnh của Đức
Tin
T |
hiên Chúa là tình yêu...”. Những lời này được chứa đựng
ở một trong những cuốn sách Tân Ước cuối
cùng, đó là Bức Thư Thứ Nhất của Thánh Gioan
(
Đức
tin của Giáo Hội tiến đến tuyệt đỉnh
của mình nơi sự thật cao cả này: Thiên Chúa là tình
yêu! Nơi thập giá và cuộc phục sinh của
Đức Kitô, Thiên Chúa cuối cùng đã tỏ mình ra như
là tình yêu. “Chúng ta nhận biết và tin tưởng tình
yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta. Thiên Chúa là tình yêu, ai ở trong tình
yêu là ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong họ” (1Jn.4:16).
Chân lý Thiên Chúa là tình yêu làm nên đích điểm của
tất cả những gì đã được mạc khải,
“qua các tiên tri và trong những ngày sau hết này qua Người
Con” như được phát biểu trong Bức Thư gửi
giáo đoàn Do Thái. Chân lý này soi sáng tất cả những
gì chứa đựng trong mạc khải thần linh, nhất
là thực tại mạc khải về việc tạo dựng
cũng như việc thiết lập giao ước. Việc tạo dựng tỏ lộ quyền toàn
năng của Thiên Chúa Hóa Công. Thế nhưng,
việc thực hiện quyền toàn năng này hoàn toàn là vì
yêu thương. Thiên Chúa đã tạo thành
vì Ngài có thể làm như vậy, vì Ngài toàn năng. Tuy nhiên, quyền toàn năng của Ngài đã được
hướng dẫn bởi sự khôn ngoan và được
thúc đẩy bởi tình yêu. Đó là công
việc tạo thành. Công việc cứu chuộc còn hùng
hồn hơn nữa và hiến cho chúng ta một biểu chứng
sâu vững hơn nữa. Tình yêu vẫn là một
diễn đạt của quyền toàn năng đối
diện với sự dữ, đối diện với tội
lỗi của các thụ sinh. Chỉ có tình
yêu toàn năng mới có thể rút được sự lành
từ sự dữ, sự sống mới từ tội lỗi
và sự chết thôi.
Tình
yêu như một quyền lực ban sự sống và làm
sinh động. Tình yêu hiện diện trong toàn
thể mạc khải. Thiên Chúa hằng sống, vị
Thiên Chúa ban sự sống cho tất cả mọi hữu
thể sống động, là Đấng được
Thánh Vịnh nói rằng: “Tất cả đều ngước
trông lên Ngài để Ngài đến bữa cho ăn. Khi Ngài
ban cho thì chúng thu lượm lấy; khi
Ngài mở tay ra thì chúng no đầy điều thiện hảo.
Khi Ngài khuất diện thì chúng chới với; khi Ngài lấy
hơi thở của chúng thì chúng chết đi và trở về
tro bụi” (Ps.104:27-29). Hình ảnh này được
rút ra từ trọng tâm của việc tạo thành. Bức tranh này có những đặc tính nhân thể
học (như nhiều bản văn Thánh Kinh khác). Thế nhưng, khuynh hướng nhân thể học
này được khơi dậy từ thánh kinh. Thấy
con người được dựng nên theo
hình ảnh Thiên Chúa và tương tự như Ngài thì cũng
có lý do để nói rằng Thiên Chúa “theo hình ảnh và tương
tự như” con người. Tuy nhiên, khuynh hướng nhân
thể học này không làm lu mờ siêu việt
tính của Thiên Chúa. Nó không kéo Thiên Chúa xuống
tầm kích loài người. Nó tuân giữ
tất cả mọi đường lối của việc
so sánh và ngôn ngữ của việc so sánh, cũng như những
đường lối của việc so sánh nơi đức
tin.
Thiên Chúa tỏ mình ra trong việc thiết lập
giao ước, trước hết, với dân tuyển chọn
của Ngài. Vị Thiên Chúa của giao ước tỏ
lộ những đặc tính của Hữu Thể Ngài, theo thứ tự tiến trình của nghệ
thuật giáo huấn. Những đặc tính
này thường được gọi là các ưu phẩm
của Ngài. Trước hết chúng là những
ưu phẩm thuộc về cấp trật luân lý, một
cấp trật luân lý được Thiên Chúa là tình yêu sử
dụng để dần dần tỏ mình ra. Thiên Chúa tỏ mình ra - đặc biệt nơi
giao ước núi Sinai - như một nhà lập luật, một
tối thượng nguyên của lề luật. Quyền bính lập pháp này được trọn
vẹn diễn đạt và vững chắc nơi các ưu
phẩm của tác động thần linh được
Thánh Kinh tỏ cho chúng ta thấy.
Các cuốn sách thần hứng của Cựu Ước
đã cho chúng ta thấy các ưu phẩm này. Chẳng
hạn, chúng ta đọc trong Sách Khôn Ngoan: “Sức mạnh
của Ngài là nguồn mạch công chính, và quyền thống
trị của Ngài ở trên tất cả mọi sự khiến
Ngài khoan dung với tất cả...Ngài là Đấng thống
trị bằng sức mạnh phân xử dịu hiền, và
Ngài cai quản chúng tôi bằng lượng cả bao dung; vì
Ngài có quyền làm bất cứ khi nào Ngài muốn”
(Wis.12:16-18).
Còn
nữa: “Ai có thể đo được quyền năng
cao cả của Ngài? Và ai có thể kể lại
trọn vẹn các việc Ngài xót thương?”
(Sir.18:5).
Các
bản văn Cựu Ước nhấn mạnh đức
công minh của Thiên Chúa, cả lòng từ ái và xót thương
của Ngài.
Các
bản văn này nhấn mạnh đặc biệt đến
lòng trung thành của Thiên Chúa đối với giao ước
là một phương diện của “tính chất bất
biến dịch” nơi Ngài (x.Ps.111:7-9; Is.65:1-2,16-19).
Các
bản văn này cũng nói về việc Thiên Chúa thịnh
nộ, song việc thịnh nộ này luôn luôn là việc thịnh
nộ chính đáng của một vị Thiên Chúa là Đấng
“chậm bất bình và giầu lòng nhân ái” (Ps.145:8). Chúng luôn
luôn cho thấy, theo quan niệm nhân thể
học đã được đề cập đến ở
trên, “việc hờn ghen” của Thiên Chúa đối với
dân Ngài trong việc họ không giữ giao ước của
Ngài. Thế nhưng, chúng luôn luôn trình bày việc hờn ghen
này như là một ưu phẩm của tình yêu: “Nhiệt tình
của Chúa các đạo binh” (Is.9:7).
Chúng ta đã nói rằng các ưu phẩm của
Thiên Chúa không khác biệt với yếu tính của Ngài.
Thế nên, nói cho đúng hơn thì không phải chúng ta nói về
một Thiên Chúa công chính, trung thành, từ ái mà là về Thiên
Chúa, Đấng là sự công chính, trung thành, từ ái, xót thương
- giống như Thánh Gioan đã viết “Thiên Chúa là tình yêu”
(1Jn.4:16) vậy.
Cựu Ước, với vô số đoạn văn
thần hứng, đã sửa soạn cho mạc khải tối
hậu của Thiên Chúa như là tình yêu. Nơi một
trong những đoạn văn này, chúng ta đọc thấy:
“Ngài xót thương tất cả mọi người, vì Ngài
có thể làm tất cả mọi sự... Ngài
yêu thương tất cả mọi sự hiện hữu
và không gớm ghét một sự gì Ngài đã dựng nên, bởi
nếu Ngài ghét bất cứ sự gì thì Ngài đã không dựng
nên nó. Cái gì có thể bền vững nếu Ngài không còn
muốn nó nữa?... Ngài khoan dung với
tất cả mọi sự vì chúng là của Ngài, Oâi Chúa là Đấng
yêu thương sinh linh” (Wis.11:23-26).
Những
lời của Sách Khôn Ngoan này đã không có ý nói rõ ràng hay sao
Thiên Chúa là Đấng là tình yêu (Amor-Caritas)
bởi “Hữu Thể” tạo hóa của Thiên Chúa?
Thế
nhưng, chúng ta cũng thấy các bản văn khác, như
các đoạn Sách Giona: “Vì tôi biết rằng Ngài là Thiên Chúa
khoan hậu và xót thương, chậm bất bình và giầu
lòng nhân ái” (Jon.4:2).
Hay
Thánh Vịnh 145 cũng thế: “Chúa khoan hậu và xót thương,
chậm bất bình và giầu nhân ái. Chúa thiện hảo với
tất cả mọi người, lòng nhân hậu của Ngài
ở trên tất cả những gì Ngài làm nên” (Ps.145:8-9).
Chúng
ta càng đọc các bản văn của các tiên tri chính, khuôn
mặt của Thiên Chúa yêu thương càng tỏ hiện ra
cho chúng ta. Chúa đã nói với dân Yến Duyên qua miệng tiên
tri Giêrêmia: “Ta đã yêu thương ngươi bằng một
tình yêu vĩnh cửu; thế nên, Ta vẫn tiếp tục
trung thành với ngươi” (hesed
tiếng Do Thái) (Jer.31:3).
Để
trích những lời của tiên tri Isaia: “Thế nhưng,
Sion nói: ‘Chúa đã bỏ rơi tôi, Chúa của tôi đã lãng
quên tôi’. ‘Có thể nào một người mẹ quên được
con mình, không
thương đứa con bởi lòng dạ của mình chăng?
Cho dù bà có quên đi nữa, Ta sẽ không thể quên ngươi’”
(Is.49:14-15).
Những trích dẫn về tình yêu từ mẫu nơi
các lời của Thiên Chúa có một tầm vóc quan trọng
biết bao. Tình thương của Thiên
Chúa đã tỏ cho thấy nơi sự dịu dàng không
ngang hàng với tình của một người làm mẹ, cũng
như đã được tỏ ra cho chúng ta thấy nơi
tình phụ tử. Tiên tri Isaia còn viết: “Các núi có thể
rời đi và đồi có thể chuyển chỗ, nhưng
tình yêu kiên trung của Ta sẽ không bao giờ rời xa ngươi,
và giao ước an bình của Ta sẽ không bao giờ bị
dẹp bỏ, Chúa là Đấng cảm thương ngươi
phán” (Is.54:10).
Việc
sửa soạn tuyệt vời do Thiên Chúa thực hiện
nơi lịch sử Cựu Ước này, nhất là bởi
các vị tiên tri, đã đợi chờ việc hoàn tất
tối hậu của nó. Lời nói cuối cùng
của Thiên-Chúa-Tình-Yêu thốt lên ở nơi Chúa Kitô.
Lời này không phải chỉ được
thốt lên, mà là được sống động trong mầu
nhiệm vượt qua của thập giá và cuộc phục
sinh. Thánh Phaolô đã loan báo lời này trong Thư gửi
giáo đoàn Eâphêsô: “Thiên Chúa, Đấng giầu tình thương,
bởi tình yêu cao cả mà Ngài đã yêu thương chúng ta,
ngay cả khi chúng ta còn chết trong tội lỗi của mình,
thì Ngài đã làm chúng ta cùng sống với Đức Kitô (bởi
ân sủng anh em đã được cứu rỗi)”
(2:4-5).
Thật
vậy, chúng ta có thể hoàn toàn tuyên xưng đức tin của
chúng ta nơi “Thiên Chúa là Cha Toàn Năng, Đấng Tạo
Thành trời đất” bằng câu định nghĩa hết
sức tuyệt vời của Thánh Gioan: “Thiên Chúa là tình yêu”
(1Jn.4:16).
(Bài Giáo Lý ngày 2 tháng 10 năm 1985)