(11)
Thiên Chúa la ø
Thiên Chúa Ba Ngôi,
là Cha và Con và Thánh Thần
G |
iáo Hội tuyên xưng đức
tin của mình nơi Thiên Chúa duy nhất, Đấng đồng
thời cũng là Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh và khôn tả: Cha, Con
và Thánh Linh. Giáo Hội đã sống bởi chân
lý được chứa đựng trong những mẫu
tuyên xưng đức tin cổ kính nhất này. Đức
Phaolô VI đã nhắc lại chân lý này vào thời đại
chúng ta, dịp kỷ niệm 1900 tử đạo của
hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô (1968), trong một mẫu
tuyên xưng đức tin ngài đã diễn đạt được
gọi là Kinh Tin Kính của Dân
Thiên Chúa.
Chỉ
có “Đấng muốn tỏ mình cho chúng ta và Đấng “ở
trong một ánh sáng không thể đạt tới” (1Tim.6:16),
tự mình ở trên mọi danh xưng, trên mọi sự và
trên mọi thụ tạo có lý trí... mới có thể ban cho
chúng ta một kiến thức chính xác và trọn vẹn về
thực tại này, bằng việc tỏ mình ra là Cha và Con
và Thánh Thần, Đấng mà chúng ta, nhờ ân sủng, được
thông phần sự sống đời đời, trong một
đức tin tăm tối ở dưới thế này và
trong một ánh sáng vĩnh cửu đời sau...” (L’Osservatore Romano, ấn
bản Anh Ngữ, 11/7/1968, trang 4).
Đối với chúng ta, Thiên Chúa không thể nào
hiểu thấu. Ngài muốn tỏ mình cho chúng ta, không
chỉ như Đấng Tạo Hóa và là Cha Toàn Năng duy
nhất, mà còn là Cha và Con và Thánh Thần. Mạc khải này
tỏ ra cho thấy, ngay trong chính nguồn gốc của mình,
sự thật về Thiên Chúa, Đấng là tình yêu: Thiên Chúa
là tình yêu trong chính sự sống nội tại của một
thần tính duy nhất. Tình yêu này được tỏ ra
như là một mối hiệp thông khôn dò của các ngôi vị.
Mầu
nhiệm này - mầu nhiệm sâu xa nhất, mầu nhiệm
sự sống nội tại của chính Thiên Chúa - đã được
Chúa Giêsu Kitô tỏ ra cho chúng ta: “Người là Đấng ở
nơi Cha và là Đấng đã tỏ Cha ra” (Jn.1:18). Những
lời cuối cùng Đức Kitô đã phán với các tông đồ
để kết thúc sứ mệnh trần thế của
mình sau khi phục sinh, theo Phúc Aâm Thánh Mathêu,
là: “Vậy các con hãy đi tuyển mộ các môn đồ nơi
khắp các dân nước. Các con hãy rửa tội cho họ
nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt.28:19). Những
lời này khởi sự cho sứ mệnh của Giáo Hội
và nói lên công việc nòng cốt tạo nên Giáo Hội.
Công việc trước hết của Giáo Hội là giảng
dạy và làm phép rửa - làm phép rửa tức là “dìm xuống”
(bởi thế người ta mới rửa tội bằng
nước) - để tất cả được thông
phần sự sống Ba Ngôi Thiên Chúa.
Qua
những lời cuối cùng này, Chúa Giêsu Kitô đã nói lên tất
cả những gì trước đó Người đã giảng
dạy về Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần. Từ ban đầu
Người đã loan truyền sự thật về Thiên
Chúa duy nhất hợp với truyền thống của dân
Yến Duyên. Chúa Giêsu đã trả lời vấn nạn:
“Giới răn nào cao trọng nhất trong các giới răn?”
khi nói: “Giới răn cao trọng nhất là, ‘Hỡi Yến
Duyên, hãy nghe đây: Chúa, Thiên Chúa của chúng ta, là Chúa duy nhất’”
(Mk.12:29). Đồng thời, Chúa Giêsu cũng luôn luôn gọi
Thiên Chúa như “Cha của Người”, cho đến nỗi
xác nhận: “Tôi và Cha Tôi là một” (Jn.10:30). Cũng thế,
Người đã mạc khải “Thần Chân Lý là Đấng
nhiệm xuất từ Cha” và là Đấng - như Người
bảo đảm với chúng ta - “Thày sẽ từ Cha sai đến
cùng các con” (Jn.15:26).
Những
lời ban phép rửa tội “nhân danh Chúa Cha, nhân danh Chúa Con
và nhân danh Thánh Linh”, do Chúa Giêsu ký thác cho các tông đồ vào
lúc kết thúc sứ mệnh trần thế của Người
có một tầm mức quan trọng đặc biệt. Những lời này đã đúc kết sự thật
về Ba Ngôi Chí Thánh, bằng việc đặt sự thật
này làm nền tảng cho đời sống bí tích của Giáo
Hội. Sự sống đức tin của
tất cả Kitô hữu bắt đầu ở bí tích rửa
tội, bằng việc dìm mình vào mầu nhiệm của
Thiên Chúa hằng sống. Những bức thư của các tông đồ đã chứng
tỏ điều này, nhất là những bức thư của
Thánh Phaolô. Trong số các mẫu tuyên xưng Ba Ngôi nơi các
bức thư này, câu nổi nhất cũng là câu luôn được
dùng trong phụng vụ đó là câu ở Bức Thư Thứ
Hai gửi giáo đoàn Côrintô: “Nguyện xin ân sủng của
Chúa Giêsu Kitô, tình yêu của Thiên Chúa (Cha) và ơn thông hiệp
của Thánh Linh ở cùng tất cả anh chị em” (13:14).
Chúng ta còn thấy những câu khác trong Bức Thư Thứ
Nhất gửi giáo đoàn Côrintô, Bức Thư gửi giáo đoàn
Eâphêsô, cũng như trong Bức Thư Thứ Nhất của
Thánh Phêrô, ngay phần mở của chương thứ nhất
(1Pt.1:1-2).
Toàn
thể việc phát triển đời sống cầu nguyện
của Giáo Hội đã gián tiếp mặc lấy ý thức
và chiều hướng Ba Ngôi - trong Thần Linh, nhờ Đức
Kitô, đến Chúa Cha.
Đức
tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi từ ban đầu đã đi vào truyền
thống của đời sống Giáo Hội cũng như
Kitô hữu là như thế. Để rồi,
toàn thể phụng vụ đã mang - và đang mang - thực
sự tính cách Chúa Ba Ngôi, vì phụng vụ diễn đạt
một công cuộc thần linh. Người ta phải
nhấn mạnh rằng đức tin vào ơn cứu độ,
tức là đức tin vào công việc cứu độ của
Chúa Kitô, đã đóng góp vào việc hiểu biết mầu
nhiệm Ba Ngôi Thánh Hảo cao cả này. Mầu nhiệm này
tỏ hiện sứ mệnh của Chúa Con cũng như sứ
mệnh của Thánh Linh là Đấng nhiệm xuất “từ
Cha” trong cung lòng Ba Ngôi hằng hữu. Mầu
nhiệm này tỏ cho thấy “công cuộc của Ba Ngôi” hiện
diện nơi công việc cứu chuộc cũng như nơi
công việc thánh hóa. Trước hết, Ba Ngôi Thánh Hảo
được loan truyền qua việc cứu độ,
tức là, qua kiến thức về “công cuộc cứu độ”,
một công cuộc Đức Kitô đã loan báo và thực hiện
trong sứ mệnh thiên sai của Người. Đường
lối dẫn đến kiến thức về Ba Ngôi “hòa
nhập”, về mầu nhiệm sự sống nội tại
của Thiên Chúa, được bắt đầu từ kiến
thức này.
Theo ý nghĩa ấy thì Tân Ước chứa đựng
trọn vẹn mạc khải Ba Ngôi. Thiên
Chúa tỏ mình ra vừa là Thiên Chúa đối với chúng ta
và vừa là Thiên Chúa ở nơi chính mình Ngài, tức ở
trong sự sống nội tại của Ngài, bằng việc
mạc khải về mình nơi Chúa Giêsu Kitô. Sự thật
“Thiên Chúa là tình yêu” (1Jn.4:16), được Thư Thứ Nhất
của Thánh Gioan nói lên, ở đây là một nguyên tố chính.
Sự thật này tỏ cho thấy Đấng
là Thiên Chúa đối với chúng ta. Sự
thật này cũng tỏ cho thấy Đấng là Thiên Chúa
trong chính mình Ngài, (tùy khả năng trí khôn con người
hiểu biết và ngôn ngữ con người diễn đạt).
Ngài là một Hiệp Nhất, tức là, Hiệp
Thông giữa Cha, Con và Thánh Linh.
Cựu
Ước không tỏ cho thấy sự thật này một
cách rõ ràng. Cựu Ước dọn đường cho sự
thật này bằng cách tỏ cho thấy Vai Trò Thân Phụ của
Thiên Chúa nơi việc thiết lập giao ước với
dân Ngài, và bằng cách tỏ ra việc Ngài hoạt động
nơi thế gian với Sự Khôn Ngoan, với Lời và với
Thần Linh (x.Wis.7:22-30; Pro.8:22-30; Ps.33:4-6, 147:15; Is.55:11;
Wis.12:1; Is.11:2; Sir.48:12). Cựu Ước đã đúc kết
trọn vẹn sự thật về Thiên Chúa duy nhất, một
móc nối nơi tôn giáo độc thần, trước hết
nơi dân Yến Duyên rồi sau đó ở ngoài dân tộc
này. Thế nên, người ta phải kết
luận rằng Tân Ước đã mang lại trọn vẹn
mạc khải về Ba Ngôi Thánh Hảo. Sự thật
về Ba Ngôi từ ban đầu, nhờ phép rửa và phụng
vụ, đã là nền tảng của đức tin sống
động nơi cộng đồng Kitô hữu. Các qui luật
đức tin mà chúng ta thường gặp thấy cả
trong những bức thư của các tông
đồ cũng như trong lời rao giảng tiên khởi
đều có chỗ đứng của mình nơi giáo lý cũng
như nơi lời cầu nguyện của Giáo Hội.
Việc hình thành tín lý Chúa Ba Ngôi liên quan đến
việc bảo chống các lạc thuyết của các thế
kỷ đầu là một đề tài biệt lập.
Sự thật về Thiên Chúa Ba Ngôi là một
mầu nhiệm sâu xa nhất của đức tin và cũng
là mầu nhiệm khó hiểu nhất. Việc có thể
cắt nghĩa sai lầm đã xẩy ra, nhất là khi Kitô
giáo giao tiếp với văn hóa và triết lý Hy Lạp. Đó
là trường hợp “ghi khắc” cho đúng mầu nhiệm
Thiên Chúa Ba Ngôi “vào ngôn từ hữu thể”. Tức là để
diễn tả mầu nhiệm này, bằng một thể
thức chính xác, theo ngôn ngữ triết học thời đại,
các ý niệm xác nhận dứt khoát cả sự hiệp nhất
lẫn ba ngôi vị nơi Thiên Chúa theo mạc khải của
chúng ta.
Việc này đã thực hiện trước hết
ở hai đại Công Đồng Chung Nicêa (325) và Contantinôpôli
(381). Kinh Tin Kính Nicêa-Contantinôpôli là hoa trái
trổ sinh từ Huấn quyền của hai công đồng
này. Giáo Hội từ thời đó đã nói lên đức
tin của mình vào Thiên Chúa Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần.
Khi nhắc lại việc của các công đồng là người
ta đề cập đến một số thần học
gia đặc biệt nổi nang, nhất là những vị
trong số các Giáo Phụ của Hội Thánh. Trước
thời Công Đồng Chung Nicêa, chúng ta có thể kể đến
Giáo Phụ Tertullianô, Cyprianô, Origin, Irênêô; trong thời công đồng
này có Giáo Phụ Anathasiô và Eâphêsô người Syrian; thời
trước Công Đồng Chung Contantinôpôli, chúng ta nhớ đến
các vị Giáo Phụ Basiliô Cả, Gregoriô Nazianzenô và Gregoriô
Nyssia, Hylariô xuống tới Giáo Phụ Ambrosiô, Augustinô và Lêô
Cả.
Từ
thế kỷ thứ năm, chúng ta có kinh tin kính được
gọi là Kinh Tin Kính Athanasiô là kinh bắt đầu với
chữ Quicumque. Kinh này như là một loại dẫn giải Kinh
Tin Kính Nicêa-Contantinôpôli.
Kinh
Tin Kính Dân Chúa của Đức Phaolô VI xác nhận đức
tin của Giáo Hội nguyên khai khi tuyên xưng: “Mối liên kết
nhau đời đời làm nên Ba Ngôi, những ngôi vị đều
là Hữu Thể Thần Linh và cùng là một Hữu Thể
Thần Linh, là sự sống sâu thẳm phúc đức nhất
của Thiên Chúa ba lần thánh, vô cùng vượt trên tất
cả những gì chúng ta có thể hiểu được
theo tầm mức con người” (x.DS 804) (L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 11/7/1968,
trang 4) - thực sự là Thiên Chúa Ba Ngôi khôn tả và Chí Thánh
- Thiên Chúa Duy Nhất.
(Bài Giáo Lý ngày 9 tháng 10 năm 1985)