(17)
Mối Hiệp Nhất và Biệt
Phân
trong Sự Hiệp Thông Đời Đời
của Chúa Ba Ngôi
M |
ột Thiên Chúa duy nhất Ba
Ngôi…
Công Đồng Tôlêđô (675),
cùng với hai đại Công Đồng Chung Nicêa và
Contantinopoli ở thế kỷ thứ bốn, đã diễn
đạt đức tin của Giáo Hội vào Thiên Chúa Ba Ngôi
bằng công thức vắn gọn này,.
Vào
thời của chúng ta, Đức Phaolô VI đã diễn đạt
cùng một chân lý như thế trong Kinh Tin Kính Dân Thiên Chúa, bằng những lời đã
được trích dẫn ở các bài giáo lý trước đây:
“Mối tương hệ, một mối tương hệ
đời đời làm nên Ba Ngôi Vị, mà mỗi ngôi là một
Hữu Thể Thần Linh duy nhất, chính là sự sống
nội tâm thánh hảo của Thiên Chúa ba lần thánh, tuyệt
đối vượt trên tất cả những gì chúng ta
có thể quan niệm được theo tầm mức loài
người” (L’Osservatore Romano,
bản Anh ngữ, 11/7/1968, trang 4).
Thiên
Chúa khôn tả và khôn thấu. Theo yếu tính của mình, Thiên
Chúa là một mầu nhiệm khôn dò, một mầu nhiệm
mà chúng ta đã tìm cách dẫn chứng sự thật của
nó ở những bài giáo lý trước đây. Trước
Thiên Chúa Ba Ngôi Rất Thánh thể hiện sự sống nội
tâm của Thiên Chúa, người ta phải lập lại lòng
tin của mình và phải công nhận Các Vị bằng một
niềm xác tín mạnh mẽ hơn nữa. Sự hiệp
nhất của thần tính nơi Các Vị trong Ba Ngôi thực
sự là một mầu nhiệm khôn tả và khôn dò! “Nếu
anh em hiểu được nó thì nó không phải là Thiên Chúa
nữa”.
Đức
Phaolô VI tiếp tục nơi bản văn được
trích dẫn trên đây: “Thế nhưng, chúng tôi cảm tạ
sự thiện thần linh mà rất nhiều tín hữu có
thể chứng thực với chúng tôi trước con người
về sự hiệp nhất của Thiên Chúa, mặc dù họ
không biết đến mầu nhiệm Ba Ngôi Chí Thánh”.
Theo
niềm tin Thiên Chúa Ba Ngôi của mình, Hội Thánh cảm thấy
Hội Thánh được hiệp nhất với tất
cả những ai tuyên xưng một Thiên Chúa duy nhất. Đức
tin nơi Ba Ngôi Thiên Chúa không ảnh hưởng gì đến
chân lý Thiên Chúa duy nhất. Trái lại, đức tin này còn làm
sáng tỏ hơn sự phong phú của mình, sáng tỏ hơn
nội dung mầu nhiệm của mình – nội dung của đức
tin này là sự sống nội tâm của Thiên Chúa.
Đức
tin này khởi nguồn – một nguồn duy nhất – từ
mạc khải Tân Ước. Kiến thức về sự
thật Thiên Chúa Ba Ngôi chỉ khả thủ nhờ mạc
khải đó mà thôi. Sự thật này, theo Công Đồng
Chung Vaticanô I, là một trong “những mầu nhiệm được
giữ kín nơi Thiên Chúa không thể nào biết được
ngoại trừ được Thiên Chúa mạc khải” (Hiến
Chế Dei Filius, IV).
Tín
điều Ba Ngôi Chí Thánh luôn luôn được coi là một
mầu nhiệm của Kitô giáo – một mầu nhiệm chính
yếu nhất và khôn thấu nhất. Chính Chúa Giêsu Kitô phán:
“Không ai biết được Con ngoài Cha, và không ai biết
được Cha ngoài Con và những ai Con muốn tỏ Ngài
ra cho” (Mt.11:27).
Công
Đồng Chung Vaticanô I dạy rằng: “Các mầu nhiệm
thần linh tự mình vượt trên trí tuệ của tạo
thành đến độ, cho dù đã được tỏ
ra cho thấy bằng mạc khải và được chấp
nhận bằng đức tin, chúng vẫn bị bao phủ
bằng một tấm màn của cùng một đức tin
và bị vây bọc bằng một thứ mù mịt khi còn sống
ở cuộc đời tạm bợ làm ‘chúng ta xa cách Chúa, vì chúng ta bước
đi bởi đức tin hơn là nhìn thấy’ (2Cor.5:6)” (Hiến Chế Dei Filius, IV).
Câu
phát biểu này đặc biệt đúng với mầu nhiệm
Ba Ngôi Chí Thánh. Ngay cả sau khi đã được Mạc
khải rồi, mầu nhiệm này vẫn là một mầu
nhiệm đức tin sâu xa. Tự trí khôn không thể nào hiểu
biết hay thấu triệt được mầu nhiệm
ấy. Thế nhưng, được soi sáng bởi đức
tin, trí khôn cũng có thể hiểu được và cắt
nghĩa được phần nào ý nghĩa của tín điều
này. Nhờ đó, nó có thể đem mầu nhiệm nội
tâm của Thiên Chúa Ba Ngôi sát gần lại với con người.
Tác
phẩm của nhiều nhà thần học, nhất là của
các Vị Giáo Phụ Giáo Hội, hay định nghĩa của
các Công Đồng, đã cho thấy tầm quan trọng và
cốt yếu đặc biệt của ý niệm về
“bản vị”, được phân biệt với ý niệm
về “bản tính” (hay yếu tính). Một bản vị là
một người nam hay một người nữ hiện
hữu như là một con người cụ thể, như
một cá nhân có nhân tính, tức có bản tính con người.
Bản tính (yếu tính) là tất cả những gì làm cho cái
cụ thể hiện hữu là cái nó là. Thí dụ, khi chúng
ta nói về “bản tính nhân loại”, chúng ta có ý nói đến
cái làm cho một con người là một con người, với
tất cả những cấu hợp và đặc tính chính yếu của họ.
Aùp
dụng việc phân biệt này vào trường hợp Thiên
Chúa, chúng ta thấy được sự hiệp nhất của
bản tính, tức sự hiệp nhất của thần tính,
một sự hiệp nhất tuyệt đối và chuyên
biệt thuộc về Ngài là Đấng hiện hữu như
một vị Thiên Chúa. Ngoài ra, ánh sáng của nguyên lý trí, nhất
là ánh sáng mạc khải, còn làm nẩy lên trong chúng ta một
niềm xác tín rằng Ngài là một Thiên Chúa có bản vị.
Thiên Chúa Hóa Công phải hiện lên như một Hữu Thể
có bản vị, cho dù đối với những ai không chấp
nhận mạc khải về sự hiện hữu Ba Ngôi
nơi Thiên Chúa. Bản vị là điều hoàn hảo nhất
trên thế gian này (id quod est
perfectissimum in tota natura: Thánh Tôma, Summa Theol., I, q.29, a.3). Người ta không thể không
qui ghép tính cách bản vị này về cho Đấng Hóa Công,
cho dù Ngài là Đấng vô cùng siêu việt (x. Thánh Tôma, Summa Theol., I, q. 29, a.3). Chính vì lý
do ấy các tôn giáo độc thần không phải Kitô giáo đều
hiểu Thiên Chúa như là một bản vị vô cùng hoàn hảo
và tuyệt đối siêu việt đối với thế
gian.
Chung
tiếng với mọi tín đồ khác, chúng ta hãy nâng lòng lên cùng Thiên Chúa hằng sống
có bản vị, một Thiên Chúa duy nhất, Đấng đã
tạo thành thế gian, cũng là nguyên thủy của tất
cả mọi sự thiện hảo, mỹ diệu và thánh
thiện. Muôn đời chúc tụng và tôn vinh Ngài.
(Bài
Giáo Lý ngày 27 tháng 11 năm 1985)