(19)
Thiên Chúa Ba Lần Thánh
“T |
hánh,
Thánh, Thánh, Chúa là Thiên Chúa quyền năng và mãnh lực, trời
đất đầy vinh quang Chúa” (Phụng Vụ Thánh Thể).
Ngày nào Giáo Hội cũng tuyên xưng sự thánh
thiện của Thiên Chúa. Việc tuyên xưng này được
thực hiện đặc biệt trong phụng vụ Thánh
Lễ, sau Kinh Tiền Tụng, lúc bắt đầu Kinh
Nguyện Thánh Thể. Dân Thiên Chúa dâng lời chúc tụng lên
Thiên Chúa Ba Ngôi và tuyên xưng sự siêu việt tối cao cùng
sự hoàn hảo khôn đạt của Ngài, bằng việc
lập đi lập lại ba lần chữ “thánh”.
Những lời của Phụng Vụ Thánh Thể
được lấy từ Sách Tiên Tri Isaia, những lời
diễn tả cho thấy việc tỏ hiện của thần
tính trọn hảo mà vị tiên tri đã được phép
chiêm ngưỡng. Vị tiên tri đã trông thấy sự
uy linh cao cả của
vinh quang Thiên Chúa để đem loan báo cho dân chúng:
“Tôi đã thấy Chúa ngồi
trên ngai tòa cao thẳm… có các thần Seraphim chầu chực
bên trên Ngài… các vị
kêu gọi chúc tụng rằng: ‘Thánh, thánh, thánh Chúa
các đạo binh; toàn trái đất đầy vinh quang Chúa’”
(Is.6:1-3).
Sự thánh thiện
của Thiên Chúa cũng đồng nghĩa với vinh hiển
của Ngài (kabod Yahweh), một
hiển vinh chất chứa trong mầu nhiệm nội tại
của thần tính Ngài, đồng thời cũng chiếu
tỏa ra toàn thể tạo thành.
Sách Khải Huyền, cuốn
sách cuối cùng của Tân Ước, đã lấy nhiều
yếu tố từ Cựu Ước. Cuốn Sách này đã
lập lại “Ba Lần Thánh” của Tiên Tri Isaia, cùng với
các yếu tố lấy từ cuộc thần hiển khác
được thấy trong Sách Tiên Tri Eâzêkiên (Ez.1:26). Nơi
mối tương quan này, chúng ta lại được
nghe thấy một lời tuyên dương mới:
“Thánh, thánh, thánh,
Chúa là Thiên Chúa Toàn Năng, Đấng đã có, đang có và
sẽ đến!”
(Rev.4:8).
Trong Cựu Ước,
chữ “thánh” tương đương với tiếng “gados” của Do Thái. Nguyên ngữ của nó bao gồm
ý tưởng về ánh sáng – “được soi sáng, sáng
soi”. Các cuộc thần hiển Cựu Ước chứa đựng
yếu tố lửa, như cuộc tỏ hiện thần
tính cho Mosen (Ex.3:2), và cuộc thần hiển ở Núi Sinai
(Dt.4:12). Những cuộc thần hiển này cũng phản
ánh ý tưởng về một ánh sáng chói lòa, như thị
kiến của Tiên Tri Eâzêkiên (
Nguyên ngữ học của Cựu
Ước ấy cũng làm sáng tỏ câu sau đây của
Thư gửi Do Thái: “Thiên Chúa của chúng ta là một ngọn
lửa thiêu” (12:29; x.Dt.4:24), cũng như những lời của
Thánh Gioan ở Sông Dược Đăng liên quan đến
Đấng Thiên Sai: “Người sẽ rửa các người
trong Thánh Linh và trong lửa” (Mt.3:11). Chúng ta cũng đã biết,
trong việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ
xẩy ra nơi Nhà Tiệc Ly ở Gialiêm, “đã có các lưỡi
như lửa xuất hiện” (Acts 2:3).
Các học giả tân tiến
về môn triết giáo (như Rudolph Otto) thấy nơi cảm
nghiệm của con người về sự thánh thiện
của Thiên Chúa những yếu tố “thu hút” và “cung kính”. Điều này được xác nhận bởi cả
nguyên ngữ học của từ vựng Cựu Ước,
như đã nhắc đến, cũng như bởi cả
các cuộc thần hiển trong Thánh Kinh có yếu tố lửa.
Lửa biểu hiệu cho sự rạng ngời,
sự chiếu tỏa của vinh quang Thiên Chúa (fascinosum). Nó cũng biểu
hiệu cho nhiệt năng thiêu đốt, và theo một nghĩa nào đó, xua tan nỗi sợ
hãi gây ra từ sự thánh thiện (cung kính) của Ngài. Chữ
“gados” trong Cựu Ước
bao gồm cả “sự thu hút” hấp dẫn cũng như
cả nỗi “sợ hãi” dội lại bằng việc tỏ
ra “tách biệt” do đó có cả tính cách bất khả đạt
thấu.
Đã có một đôi
lần trong loạt bài giáo lý này, chúng ta nói đến cuộc
thần hiển của Sách Xuất Hành. Ở chân Núi Horeb trong sa mạc, Moisen đã thấy một bụi
cây cháy mà không bị thiêu rụi (x.Ex.3:2). Khi ông tiến đến
gần bụi cây thì nghe thấy tiếng nói: “Ngươi
chớ có đến gần; hãy cởi giầy của ngươi
ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh”
(Ex.3:5). Những lời này nhấn mạnh đến
sự thánh thiện của Thiên Chúa. Từ bụi cây
cháy, Thiên Chúa đã mạc khải danh xưng của Ngài ra
cho Moisen: “Ta là Đấng hiện hữu”. Nhân danh này, Thiên
Chúa đã sai Moisen đi giải phóng Yến Duyên khỏi đất
Ai Cập. Cuộc tỏ hiện này đã chất chứa
một yếu tố “sợ hãi”. Sự thánh thiện của
Thiên Chúa đối với con người vẫn khôn đạt
thấu – “ngươi chớ có đến gần”. Ngoài ra, toàn cục diện của việc thiết
lập giao ước ở Núi Sinai (Ex.19-20) cũng có những
đặc tính tương tự như vậy.
Sau đó, trong giáo huấn của
các tiên tri, đặc tính này nơi sự thánh thiện của
Thiên Chúa, bất khả thấu đối với con người,
nhường lối cho việc Thiên Chúa “đến gần
gũi”, cho tính cách khả đạt của Ngài, cho việc
hạ mình của Ngài.
Chúng ta đọc thấy nơi
Tiên Tri Isaia:
“Vì vậy Đấng cao vời
phán,
ai ở trong vĩnh hằng thì
tên của vị ấy là Thánh:
‘Ta ngự ở nơi cao cả
và thánh hảo,
và cũng ở với ai có tâm
thần thống hối khiêm cung,
để hồi sinh tinh thần cho kẻ
thấp kém,
và phục hồi tâm can cho kẻ
ăn năn’” (Is.57:15).
Cũng tương tự như
thế nơi Tiên Tri Hôsêa:
“Ta là Thiên Chúa chứ không phải
loài người, là Đấng Thánh ở giữa các ngươi,
và Ta đến không phải để hủy hoại”
(Hos.11:9).
Thiên Chúa đã ban cho chúng ta chứng
cớ cao cả nhất của việc Ngài gần gũi chúng ta bằng cách sai Lời của Ngài
đến trần gian. Ngôi thứ hai của
Ba Ngôi Chí Thánh mặc lấy xác thể như chúng ta để
đến sống giữa chúng ta.
Bằng tấm lòng biết ơn
về việc hạ mình này của Thiên Chúa, Đấng muốn
sát gần lại với chúng ta, Ngài không chỉ nói với
chúng ta qua các tiên tri, mà còn nói với chúng ta nơi ngôi vị
của Con duy nhất Ngài, chúng ta hãy lấy đức tin
khiêm hạ và hân hoan lập lại rằng: “Tu solus Sanctus…” “Lạy Chúa Giêsu
Kitô, chỉ có Chúa là Đấng Thánh, chỉ có Chúa là Chúa, chỉ
có Chúa là Đấng Tối Cao, cùng với Chúa Thánh Thần
trong vinh quang Thiên Chúa Cha. Amen”.
(Bài
Giáo Lý ngày 11 tháng 12 năm 1985)