(2)
Thiên Chúa tỏ mình ra
tuyệt đỉnh nơi Chúa
Giêsu Kitô
Đ |
ức tin - được gồm
tóm trong lời tuyên xưng “tôi tin kính” - có liên hệ chính yếu
với mạc khải. Việc đáp ứng
đối với sự việc Thiên Chúa mạc khải “bản
thân mình” cho con người - đồng thời tỏ cho họ
biết mầu nhiệm của ý định muôn đời
của Ngài trong việc cứu độ con người
qua việc “chia sẻ bản tính thần linh” - là việc
con người “phó mình cho Thiên Chúa”. Đức tin là sự
tuân phục của trí khôn và lòng muốn đối với
Thiên Chúa là Đấng tỏ mình ra. Việc tuân
phục này, trên hết mọi sự, đó là việc chấp
nhận những gì Thiên Chúa mạc khải “như là một
chân lý”. Con người vẫn hòa hợp với lý trí
tự nhiên của mình trong việc chấp nhận nội
dung của mạc khải. Thế nhưng, bởi đức
tin, con người phó toàn thân mình cho vị Thiên Chúa là Đấng
tỏ mình ra cho họ này - để rồi, trong khi họ
nhận được tặng ân “từ trên cao”, họ đáp
lại Thiên Chúa bằng việc trao tặng nhân tính của
mình. Như thế, bằng việc tuân phục của lý trí
và lòng muốn cho Thiên Chúa là Đấng tỏ mình ra, một
đường lối hiện hữu mới trong mối
liên hệ với Thiên Chúa được bắt đầu
cho cả toàn thân con người.
Mạc
khải - mà theo đó là đức tin -
“vượt ra ngoài” con người, vì mạc khải mở
ra cho họ những nhãn quan siêu nhiên. Thế nhưng, trong
những nhãn quan này có chất chứa cả niềm mãn nguyện
sâu xa nhất của các khao khát
và ước vọng bắt nguồn từ bản tính linh
thiêng của con người - sự thật, sự thiện,
yêu thương, niềm vui, an bình. Thánh Augustinô đã diễn
tả thực tại này bằng một câu nói thời danh:
“Lòng chúng con khắc khoải cho tới khi được
nghỉ yên trong Chúa” (Tự Thú,
I,1). Thánh Tôma đã dùng tất cả các vấn
nạn thứ nhất trong phần hai của bộ Tổng Luận Thần
Học của mình để trình bày, như thể muốn
khai triển tư tưởng của Thánh Augustinô, sự
thể hiện trọn vẹn tầm mức hoàn hảo của
con người mà vì thế định mệnh của con
người chỉ có nơi nhãn quan và tình yêu Thiên Chúa.
Bởi lý do này, mạc khải thần linh gặp gỡ,
trong đức tin, khả năng siêu việt của tâm
linh con người mở ra trước Lời Thiên Chúa.
Hiến
Chế Công Đồng Dei Verbum
nhận định rằng “công cuộc mạc khải” này
đã được khai triển ngay từ ban đầu
của lịch sử loài người. Công cuộc mạc
khải này “được hiện thực bởi những
việc làm và lời nói sâu xa hòa hợp với nhau: những
việc làm do Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử cứu
rỗi tỏ ra và xác nhận giáo huấn cùng các thực tại
được biểu hiệu bằng các lời nói, trong
khi các lời nói công bố các việc làm và làm sáng tỏ mầu
nhiệm hàm chất trong các việc làm” (đoạn 2). Chúng ta có thể nói rằng công cuộc mạc khải
chứa đựng một “giáo huấn thần linh” đặc
biệt. Thiên Chúa từ từ “mạc khải
mình ra” cho con người, dẫn họ từng bước
đến “mạc khải bản thân” siêu nhiên của Thiên
Chúa, cho đến tột đỉnh là Chúa Giêsu Kitô.
Toàn thể công cuộc mạc khải đồng
thời cũng được thể hiện như một
lịch sử cứu độ. Tiến trình này thấm
nhập lịch sử của con người ngay từ đầu.
“Thiên Chúa, Đấng đã tác tạo mọi sự nhờ
Lời” (x.Jn.1:3) và đã giữ cho chúng hiện hữu, ban
cho con người một chứng cớ kéo dài về mình nơi
các thực tại tạo thành (x.Rm.1:19-20). Trong dự án tỏ
cho thấy con đường cứu rỗi cao cả, Ngài
đã đi xa hơn, và ngay từ khởi sự, đã tỏ
mình cho các vị cha mẹ đầu tiên của chúng ta” (Hiến
Chế Dei Verbum, đoạn
3).
Như
từ đầu “chứng cớ nơi các thực tại
tạo thành” nói với con người, kéo tâm trí họ hướng
về Đấng Hóa Công vô hình, thì cũng từ đầu,
kéo dài trong lịch sử nhân loại, việc Thiên Chúa mạc
khải mình ra, một mạc khải cần được
đáp ứng xứng hợp bằng lời “tôi tin kính” của
con người. Mạc khải này không bị
tội lỗi của các vị cha mẹ đầu tiên của
chúng ta làm gián đoạn. Thực sự, Thiên Chúa, “sau
khi họ sa ngã, lời hứa cứu chuộc của nNgài đã
gợi lên trong họ niềm hy vọng được cứu
rỗi (x.Gn.3:15), và từ lúc đó trở đi, Ngài đã
không ngừng chăm sóc loài người, ban sự sống đời
đời cho những ai kiên trì làm lành để tìm kiếm
ơn cứu độ (x.Rm.2:6-7). Thế rồi, Ngài đã
vừa chọn và gọi Abraham để từ ông làm nên một
dân tộc lớn (x.Gn.12:2). Nhờ các tổ phụ, và sau họ
đến Moisen và các tiên tri, Ngài đã dạy dân tộc này
công nhận Ngài như Thiên Chúa hằng sống và chân thật
duy nhất, là Cha quan phóng và là thẩm phán công minh, cũng như
dạy họ đón chờ Đấng Cứu Tinh Ngài hứa
ban. Theo cách thức này, Ngài đã dọn đường
cho Phúc Aâm qua các thế hệ” (Hiến Chế Dei Verbum, đoạn 3).
Đức
tin như là việc đáp ứng lời mạc khải thần
linh đã đi vào giai đoạn sau cùng nơi việc Chúa
Kitô đến, khi Thiên Chúa “nói với chúng ta qua Con Ngài trong
thời sau hết này” (Heb.1:1-2).
“Thế nên, Chúa Giêsu Kitô, Lời đã hóa thành nhục
thể, được sai đến như ‘một con người
nói với loài người’. Người ‘nói những
lời của Thiên Chúa’ (Jn.3:34), và hoàn tất việc cứu
độ mà Cha Người đã truyền Người làm
(x.Jn.5:36;17:4). Thấy Chúa Giêsu là thấy
Cha Người (Jn.14:9). Vì lý do này Chúa Giêsu đã hoàn trọn
mạc khải bằng cách chu tất mạc khải này qua
tất cả việc Người hiện diện và tỏ
mình ra - nơi lời nói và hành động, nơi các dấu
lạ và sự lạ của Người, nhất là nơi
sự chết và phục sinh vinh hiển từ trong cõi chết
của Người, sau cùng nơi việc sai Thần Chân Lý
đến. Hơn nữa, Người còn xác nhận bằng
chứng cớ thần linh điều mạc khải đã
loan báo - đó là Thiên Chúa ở với chúng ta để giải
thoát chúng ta khỏi bóng tối tội lỗi và sự chết,
cũng như để nâng chúng ta lên đến sự sống
đời đời” (Hiến Chế Dei Verbum, đoạn 4).
Theo
ý nghĩa của Kitô giáo thì “tin tưởng” nghĩa là chấp
nhận việc Thiên Chúa mạc khải mình ra tối hậu
nơi Đức Giêsu Kitô, bằng việc đáp lại mạc
khải này ở chỗ “phó mình cho Thiên Chúa”, một việc
phó mình có chính Đức Kitô là nền tảng, là mẫu gương
sống động và là Đấng trung gian cứu độ.
Một
đức tin như vậy bao gồm việc chấp nhận
toàn thể “công cuộc (cứu độ) của Kitô giáo”
như một giao ước mới và tối hậu “sẽ
không bao giờ qua đi”. Như Công Đồng Chung Vaticanô
II dạy: “Hiện nay chúng ta không còn đợi chờ một
mạc khải chung mới nào nữa trước khi Chúa Giêsu
Kitô của chúng ta vinh quang tỏ hiện” (Hiến Chế Dei Verbum, đoạn 4).
Như
thế là Công Đồng, qua Hiến Chế Dei Verbum trình bày một cách tóm gọn song đầy đủ
cho chúng ta toàn bộ “giáo huấn” của mạc khải thần
linh, đồng thời cũng dạy cho chúng ta đức
tin là gì. Công Đồng dạy “tin tưởng” là gì, nhất
là “tin tưởng như những người Kitô hữu”,
như để đáp lại lời yêu cầu của chính
Chúa Giêsu: “Các con hãy tin tưởng vào Thiên Chúa và hãy tin tưởng
nơi Thày” (Jn.14:1).
(Bài
Giáo Lý ngày 3 tháng 4 năm 1985)