(21)
Trong việc tạo dựng
Thiên Chúa làm cho thế gian
hiện hữu từ hư không
S |
ự
thật tuyên xưng Thiên Chúa tạo dựng – tức Ngài đã
làm cho tất cả mọi sự ngoài Ngài hiện hữu,
cả thế gian và con người – đã được
nói đến ở ngay trang nhất của Sách Thánh, mặc
dù ý nghĩa của chân lý này chỉ được nên trọn
nơi tiến trình mạc khải sau đó.
Sách Khởi
Nguyên mở đầu bằng hai trình thuật về việc
tạo dựng. Các học giả thánh
kinh cho rằng trình thuật thứ hai xưa hơn. Nó có một đặc tính bóng bảy và cụ thể
hơn; nó xưng với Thiên Chúa bằng tên gọi “Giavê”, và
vì thế nó được coi là “nguồn trình thuật Giavê”.
Trình thuật thứ nhất,
theo thời gian được viết
sau, lại có hệ thống và tính cách thần học hơn.
Nó dùng chữ “Elohim”
để chỉ Thiên Chúa. Nó phân chia công
cuộc tạo dựng ra một loạt sáu ngày. Các học
giả đã kết luận rằng bản văn này có nguồn
gốc theo ảnh hưởng tư tế
và phượng tự, vì ngày thứ bảy được
trình bày như là ngày Thiên Chúa nghỉ ngơi. Nó cho con người
lao công thấy mẫu gương của
Thiên Chúa Đấng Tạo Thành. Tác giả của
chương nhất Sách Khởi Nguyên muốn xác nhận giáo
huấn của Mười Điều Răn, bằng việc
nhấn mạnh đến việc bắt buộc phải
giữ thánh hảo ngày thứ bảy.
Trình thuật
về công cuộc tạo dựng xứng đáng được
đọc và suy niệm thường xuyên trong phụng vụ
cũng như ngoài phụng vụ. Về từng ngày
tạo dựng riêng biệt, người ta khám phá thấy
giữa đoạn này với đoạn kia
có một sự liên tục chặt chẽ và tương đồng
rõ ràng. Trình thuật bắt đầu với những lời:
“Từ khởi nguyên Thiên Chúa đã dựng nên các tầng trời
và đất”, tức là, toàn thể thế giới hữu
hình. Đoạn tả đến từng ngày một thì diễn
tả thế này: “Thiên Chúa phán: Hãy có…”. Bằng quyền năng của lời Tạo Hóa
phán này – “fiat, hãy có”, thế
giới hữu hình dần dần hiện lên. Từ khởi nguyên đất còn “vô thể và trống
không”. Sau đó, theo tác động của lời Thiên
Chúa sáng tạo, nó bắt đầu trở nên xứng hợp
với sự sống và tràn đầy những hữu thể
sống động, cây cối và thú vật, trong số các
hữu thể sống động này, Thiên Chúa cuối cùng đã
dựng nên con người “theo hình ảnh Ngài” (Gn.1:27).
Trước hết,
đoạn văn này có một tầm quan trọng về đạo
giáo và thần học. Nó không bao gồm những yếu
tố theo quan điểm khoa học tự
nhiên. Việc tìm kiếm về nguồn gốc và phát triển của từng giống
loại trong thiên nhiên không hề tìm thấy trong đoạn
diễn tả này bất cứ một tiêu chuẩn nhất
định nào hay những đóng góp tích cực thực sự
có lợi nào. Thật vậy, lý thuyết về việc tiến
hóa tự nhiên, hiểu theo ý nghĩa của
nó, nếu không loại trừ nguyên tố thần linh, thì
theo nguyên tắc, không phản lại với sự thật
về việc tạo dựng của thế giới hữu
hình, như Sách Khởi Nguyên diễn trình.
Nhìn tổng quát, hình ảnh
thế gian được ngòi bút của vị tác giả hứng
khởi phác họa với những đặc tính của
nguồn gốc vũ trụ theo thời
gian. Nơi những đặc tính này, tác giả đã chen tính chất nguồn gốc tuyệt đối
vào sự thật về việc Thiên Chúa duy nhất tạo
dựng mọi sự – đây là một chân lý mạc khải.
Đoạn văn thánh kinh này xác nhận việc
thế giới hữu hình hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa,
Đấng là Hóa Công có toàn quyền năng trên mọi thụ
tạo (dominum altum). Nó tỏ cho thấy giá trị của
tất cả mọi tạo vật trước con mắt
Thiên Chúa. Vào cuối mỗi một ngày tạo dựng, nó đầu
lập lại câu: “Thiên Chúa thấy là tốt lành”. Vào ngày thứ
sáu, sau khi tạo nên con người, trung tâm của vũ hoàn,
chúng ta đọc thấy: “Thiên Chúa thấy mọi sự
Ngài đã làm nên rất là tốt lành” (Gn.1:31).
Việc kinh thánh
diễn tả công cuộc tạo dựng có một đặc
tính siêu hình học, tức là nói về hữu thể.
Đồng thời việc diễn tả này
cũng có đặc tính thẩm vị học vì nó minh chứng
cho giá trị. Bằng việc tạo dựng
nên thế gian như để biểu lộ sự thiện
hảo vô cùng của mình, Thiên Chúa đã dựng nên nó tốt
lành. Giáo huấn chính yếu này chúng ta học được
từ nguồn gốc của vũ trụ theo
thánh kinh, và nhất là từ đoạn diễn tả mở
đầu của Sách Khởi Nguyên.
Cùng với tất cả những
gì Sách Thánh nói về việc tạo dựng cũng như về
Thiên Chúa Hóa Công ở nhiều nơi khác nhau, đoạn văn
diễn tả này cho phép chúng ta đặt ra một số
yếu tố sau đây:
1) Thiên Chúa đã tự mình tạo dựng
nên thế gian.
Quyền năng tạo dựng này là một
quyền năng bất chuyển nhượng – incommunicabilis.
2) Thiên Chúa đã tạo dựng
nên thế gian không bởi một thúc đẩy bên ngoài nào
hay bởi một bó buộc bên trong nào.
3) Thế gian đã được
Thiên Chúa dựng nên theo thời gian, bởi
thế, nó không vĩnh hằng. Nó được
bắt đầu trong thời gian.
4) Thế gian do Thiên Chúa dựng
nên được liên lỉ tồn hữu bởi Hóa Công.
“Việc bảo tồn” này, theo một
nghĩa nào đó, là một việc tạo dựng liên tục
(conservatio est continua creatio).
Qua gần hai ngàn
năm, Giáo Hội nhất trí tuyên xưng và công bố sự
thật việc tạo dựng thế giới hữu hình
và vô hình là công cuộc của Thiên Chúa. Việc tuyên xưng
và công bố này là việc tiếp nối đức tin mà dân
Yến Duyên, Dân của Thiên Chúa trong cựu ước, tuyên
xưng và công bố. Giáo Hội cắt nghĩa và khảo
sát toàn bộ sự thật này bằng việc sử dụng
đến triết thuyết hữu thể, và Giáo Hội
bảo vệ sự thật này khỏi bị lệnh lạc
theo tư tưởng của con người qua giòng thời
gian của lịch sử. Ơû Công Đồng Chung Vaticanô
I, để đáp lại các xu hướng phiếm thần
và tư tưởng duy vật của thời bấy giờ,
Huấn Quyền của Giáo Hội đã long trọng mạnh
mẽ xác nhận sự thật về việc tạo thành
là công cuộc của Thiên Chúa. Những chiều
hướng tương tự như vậy cũng đang
luân lưu trong thế kỷ của chúng ta đây, nơi một
số phát tiển của các khoa học thực nghiệm cũng
như các ý hệ vô thần.
Trong Hiến Chế Dei Filius của Công Đồng
Chung Vaticanô I, chúng ta đọc thấy: “Vị Thiên Chúa chân
thật duy nhất này, theo sự thiện hảo và ‘quyền
toàn năng’ của mình, không phải để tăng thêm hạnh
phúc cho riêng mình, cũng không phải để đạt tới
mà là biểu hiện sự toàn hảo của mình qua tặng
ân Ngài ban phát cho các tạo vật, bằng một quyết định
tuyệt đối tự do, ‘từ khởi đầu thời
gian, đã cùng một lúc, kéo ra khỏi hư không cả tạo
vật này lẫn tạo vật kia, vô hình lẫn hữu hình,
tức là, thần thiêng lẫn vật thể, rồi đến
tạo vật loài người, thành phần được
thực sự thông phần vào cả hai cấp trật, gồm
cả tinh thần lẫn thể xác’ (Conc.Lat.IV)’” (DS 3002).
Theo “các khoản” được
thêm vào bản văn giáo huấn này, Công Đồng Chung
Vaticanô I đã xác nhận các chân lý sau đây:
1) Vị Thiên Chúa
chân thật duy nhất là Tạo Hóa và là Chúa “của các vật
hữu hình và vô hình” (DS 3021).
2) Nếu nhận rằng chỉ
có vật chất mới hiện hữu (chủ nghĩa
duy vật) là phản lại đức tin (DS 3022).
3) Nếu cho rằng Thiên Chúa
thực sự đồng nhất với thế gian (thuyết
phiếm thần) là trái với đức tin (DS 3023).
4) Nếu chủ trương
rằng các tạo vật, dù thần thiêng đi nữa, là
phóng thể của bản thể thần linh, hay nếu thừa
nhận rằng Hữu Thể thần linh trở thành mọi
sự khi tỏ mình ra hay tiến hóa, là phản nghịch với
đức tin.
5) Nếu nghĩ rằng Thiên
Chúa là một hữu thể phổ quát và bất định,
một khi trở nên nhất định, hữu thể đã
cấu tạo nên vũ hoàn thành giống, loại và cá thể,
cũng nghịch với đức tin (DS 3024).
6) Nếu chối bỏ thế
gian và tất cả mọi sự trong thế gian, dù thần
thiêng hay vật thể, trong toàn bản thể của mình, đã
được Thiên Chúa dựng nên từ hư không, cũng ngược với đức tin
(DS 3025).
Việc bàn đến
cùng đích của công cuộc tạo dựng thì cần phải
bàn đến riêng.
Vấn đề này đã chiếm nhiều
chỗ trong mạc khải, trong Huấn Quyền của Giáo
Hội cũng như trong thần học.
Tạm thời, để kết
thúc suy niệm của chúng ta, cần phải nhắc đến
đoạn Sách Khôn Ngoan tuyệt vời, một đoạn
chúc tụng Thiên Chúa về tình yêu mà Ngài đã thương tạo
dựng nên vũ trụ và bảo tồn cho nó hiện hữu:
“Vì Ngài yêu thương tất
cả mọi sự hiện hữu,
và không ghê tởm một sự
gì
Ngài đã tạo nên,
vì Ngài đã không tạo nên bất
cứ sự gì
mà Ngài ghét bỏ.
Sự gì có thể tồn tại
được
nếu Ngài không muốn có?
Hay sự gì Ngài không gọi đến
tên
mà lại được bảo
trì?
Ngài bao dung với tất cả
mọi sự, vì chúng là của Ngài,
Oâi Chúa là Đấng yêu thương
sinh linh”
(
(Bài Giáo Lý ngày 29 tháng 1 năm 1986)