(24)
Thiên Chúa đã dựng nên
con người là một hữu thể
có hồn thiêng và xác chất
Đ |
ược dựng nên theo hình
ảnh Thiên Chúa, con người là một hữu thể vừa
có hồn thiêng vừa có xác chất. Dù thuộc về thế
giới ngoại tại, con người cũng trổi vượt
hơn nó. Ngoài việc là một tạo vật xác phàm, con người
còn là một bản vị như thần linh. Chân lý về
con người này là đối tượng của đức
tin, như chân lý thánh kinh về hữu thể của con người
được cấu tạo nên theo “hình ảnh và tương
tự như” Thiên Chúa. Nó là một sự thật được
Huấn Quyền liên lỉ truyền dạy qua các thế kỷ.
Theo
giòng lịch sử, sự thật ấy đã không ngừng
là đối tượng cho việc tìm hiểu về kiến
thức, cả ở lãnh vực triết học cũng như
ở nhiều khoa học nhân bản khác nữa. Tóm lại,
nó là đối tượng của nhân loại học.
Con
người là một thần linh nhập thể, hay nếu
muốn chúng ta cũng có thể nói, là một xác thể được
truyền khiến bởi một linh thể bất tử.
Sự thật này, một cách nào đó, có thể suy ra từ
trình thuật tạo dựng trong Sách Khởi Nguyên, đặc
biệtø trong trình thuật “Giavê”. Trình thuật Giavê đã sử
dụng đến một cảnh trí và những hình ảnh
nhân thể học. Chúng ta đọc thấy rằng: “Chúa
là Thiên Chúa đã hình thành con người từ bụi đất,
và đã thở hơi sống vào mũi con người; và
con người đã trở nên một hữu thể sống
động” (Gn.2:7). Bản văn thánh kinh liên tục giúp chúng
ta hiểu rõ ràng là, được dựng nên như thế,
con người nổi vượt trên toàn thể thế giới
hữu hình, nhất là thế giới thú vật. “Hơi sống”
đã làm cho con người có khả năng biết được
các hữu thể loài vật này, biết đặt tên cho
chúng, và biết nhận ra mình khác với chúng (x.Gn.2:18-20). Trình
thuật “Giavê” không nói đến “linh hồn”. Tuy nhiên, chúng
ta có thể dễ dàng suy diễn từ trình thuật này là
sự sống được ban cho con người qua tác động
tạo thành vượt trên lãnh vực thuần thể chất
(một lãnh vực xứng hợp với loài thú). Vượt
trên chất thể, sự sống ấy vươn tới
lãnh vực thần linh, một lãnh vực có nguồn gốc
sâu xa nơi “hình ảnh Thiên Chúa”, như Sách Khởi Nguyên đoạn
1 câu 27 cho thấy về con người.
Con
người là một đơn vị. Họ tự mình là
một. Thế nhưng, tình trạng đơn nhất này
lại kép đôi. Sách Thánh đã cho thấy về tình trạng
vừa đơn nhất (bản vị) lại vừa kép
đôi (xác hồn) này. Người ta nghĩ đến Sách
Huấn Ca có câu: “Chúa đã dựng nên con người từ
bụi đất và trả họ về đất bụi”;
rõ hơn nữa: “Ngài tạo nên con người với miệng
lưỡi, mắt nhìn, tai nghe, và ban cho chúng một con tim
hiểu biết. Ngài làm cho chúng đầy khôn ngoan và kiến
thức; Ngài tỏ cho chúng thấy sự lành sự dữ”
(17:1, 5-6).
Theo
quan điểm này thì đặc biệt phải nói đến
Thánh Vịnh 8. Trong việc tôn vinh con người, câu Thánh Vịnh
đã thân thưa cùng Thiên Chúa những lời sau đây: “Loài
người là chi mà Ngài nghĩ tới, hay con cái loài người
là gì mà Ngài phải chăm nom? Ngài đã dựng nên họ kém
thiên thần một chút, và đã đội triều thiên
vinh quang và vinh dự cho họ. Ngài đã ban cho họ quyền
cai trị trên các công cuộc tay Ngài làm ra, khi đặt tất
cả mọi sự ở dưới chân của họ”
(5-7).
Truyền
thống thánh kinh thường đặc biệt nhấn mạnh
đến tình trạng đơn nhất bản vị của
hữu thể con người, bằng việc sử dụng
từ ngữ “xác thể” để chỉ toàn thể con
người (x.Ps.145:21, Jl.3:1; Is.66:23; Jn.1:14). Nhận định
này chính xác. Thế nhưng, ngoài tình trạng đơn nhất
bản vị của hữu thể con người này, tình
trạng kép đôi nơi con người cũng được
truyền thống thánh kinh cho thấy, đôi khi rất rõ ràng.
Những lời của Chúa Kitô đã cho thấy truyền
thống thánh kinh này: “Các con đừng sợ những kẻ
sát hại được thân xác mà không hủy hoại được
linh hồn. Hơn là hãy sợ Đấng có thể hủy
diệt được cả hồn lẫn xác trong Hỏa
Ngục” (Mt.10:28).
Các nguồn kinh thánh cho phép chúng
ta thấy con người vừa là một đơn nhất
bản vị vừa là một hiệp nhất hồn xác.
Quan niệm này đã được diễn đạt bởi
toàn thể Truyền Thống và giáo huấn của Giáo Hội.
Giáo huấn này chẳng những hòa hợp những nguồn
thánh kinh, mà còn hòa hợp cả những diễn giải thần
học nữa, những dẫn giải thần học này
có được là nhờ việc khai triển những phân
tách của một số trường phái triết học
Hy Lạp (như trường phái triết học Aristote).
Việc khai triển này là một việc liên lỉ ngẫm nghĩ từ từ. Nhờ
ảnh hưởng của Thánh Tôma Aquinô, việc khai triển
này đã thực sự đạt tới việc Công Đồng
ở Viên (1312) công bố, gọi linh hồn là “mô thể” của
thân xác: forma corporis humani per se et
essentialiter (DS 902). Là một yếu tố làm nên bản
thể hữu thể “con người”, “mô thể” có một
bản chất linh thiêng. “Mô thể” linh thiêng là linh hồn
này thì bất tử. Về sau, Công Đồng Lateranô V
(1513) đã lấy quyền phán quyết về điều ấy
– linh hồn thì bất tử, ngược với thân xác thì
phải chết (x.DS 1440). Trường phái Thánh Tôma đồng
thời cũng nhấn mạnh rằng, bởi việc hiệp
nhất thực sự của xác và hồn mà linh hồn,
ngay cả sau khi con người chết, cũng không thôi “muốn”
được tái hợp với thân xác. Điều này được
xác nhận bởi chân lý mạc khải về cuộc phục
sinh của thân xác.
Ngữ học có tính cách triết
lý được sử dụng để diễn đạt
tình trạng đơn nhất và phức hợp (kép đôi)
nơi con người đôi khi cũng bị chỉ trích.
Thế nhưng, chắc chắn một điều là giáo lý
về tình trạng đơn nhất của bản vị
con người, cũng như về tình trạng kép đôi
của con người, vừa linh thiêng vừa thể chất,
hoàn toàn được bắt nguồn từ Thánh Kinh và Thánh
Truyền. Niềm xác tín con người là “hình ảnh Thiên
Chúa”, vì có linh hồn, thường hay được nói đến.
Thế nhưng, giáo lý truyền thống không phải là không
xác tín rằng thân xác cũng được tham phần vào
phẩm vị là “hình ảnh Thiên Chúa”, theo cách thức riêng
của nó, như nó tham dự vào phẩm vị của con
người vậy.
Vào thời buổi tân tiến,
thuyết tiến hóa đã gây khó khăn cho giáo lý mạc khải
về việc tạo dựng con người như là một
hữu thể được cấu tạo bởi cả
hồn lẫn xác. Bằng các phương pháp riêng của mình,
nhiều khoa học gia về phương diện tự
nhiên đã tìm hiểu vấn đề nguồn gốc sự
sống con người trên trái đất này. Một số
chủ trương, hoàn toàn trái ngược với đồng
nghiệp của mình, chẳng những về sự hiện
hữu liên kết giữa con người với đại
đồng thiên nhiên, mà còn về sự phát xuất của
con người từ các giống vật cao đẳng. Vấn
đề này đã làm bận tâm các khoa học gia thế kỷ
vừa rồi, và cũng đã kéo theo biết bao nhiêu là tầng
lớp ý kiến công khai.
Huấn Quyền đã trả
lời trong thông điệp Humani
Generi của Đức Piô XII năm 1950. Chúng ta đọc
thấy trong bức thông điệp này là: “Huấn Quyền
của Hội Thánh không chống lại thuyết tiến hóa
đang là đối tượng nghiên cứu và bàn cãi của
các nhà chuyên môn. Ơû đây, thuyết tiến hóa được
hiểu như là một cuộc tìm xét về nguồn gốc
của thân thể con người từ vật sống có
trước nó, vì đức tin Công Giáo buộc chúng ta phải
chấp nhận rằng linh hồn được Thiên Chúa
trực tiếp dựng nên…” (DS 3896).
Bởi thế, có thể nói rằng,
theo quan điểm giáo lý đức tin, thì không khó khăn gì
trong việc nhờ thuyết tiến hóa để giải
thích về nguồn gốc con người liên quan đến
thân xác của họ. Thế nhưng, cũng phải thêm rằng,
giả thiết này chỉ đưa ra một tính chất
khả thể mà thôi, chứ không phải là một xác đáng
về khoa học. Tuy nhiên, giáo lý đức tin xác nhận
nguyên vẹn là hồn thiêng của con người được
Thiên Chúa trực tiếp dựng nên. Theo giả thiết được
nhắc đến, thân xác của con người có thể,
theo cấp độ về các thứ nhiệt năng của
sự sống do Thiên Chúa ấn định, có thể đã
được tuần tự sửa soạn nơi các hình
thể của các hữu thể sống động trước
mình. Tuy vậy, linh hồn con người là yếu tố
làm nên nhân tính của con người, không thể nào phát sinh
từ vật chất, vì linh hồn có một bản chất
linh thiêng.
Tổng hợp về việc
tạo dựng đúng đắn như trên đây đề
cập đến cũng được Công đồng
Chung Vaticanô II nhắc nhở: “Mặc dù được dựng
nên có xác thể và hồn thiêng, con người cũng chỉ
là một. Nhờ cấu trúc thân xác của mình, con người
tụ hợp cho mình những yếu tố của thế
giới vật chất; như thế, nhờ con ngườiù,
những yếu tố này đạt tới tuyệt đỉnh
của mình” (Hiến Chế Gaudium
et Spes, đoạn 14). Tiếp theo đó, Công Đồng
còn nói: “Con người cũng không sai lầm khi coi mình cao cả
hơn những giá trị vật thể, khá hơn vụn
vặt thiên nhiên hay hơn là một phần tử vô danh tiểu
tốt trong xã hội loài người. Vì, bởi các tính chất
nội tại của mình, con người qua mặt toàn khối
thuần vật thể” (cùng đoạn 14 trên).
Vậy, như thế là cùng một
sự thật về tình trạng đơn nhất và kép đôi
(phức hợp) nơi bản tính con người có thể
được diễn đạt bằng một ngôn ngữ
gần gũi hơn với ý hệ tân tiến.
(Bài Giáo Lý
ngày 16 tháng 4 năm 1986)