(28)
Thiên Chúa quan phòng
và Tự Do của Con Người
T |
rong cuộc hành trình tiến sâu vào
mầu nhiệm Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng, chúng ta thường
đụng phải vấn nạn này: nếu Thiên Chúa hiện
diện và hoạt động nơi mọi sự thì con người
có tự do thế nào được? Tự do của con người
trước hết mang một ý nghĩa và tác hành ra sao? Theo
ý nghĩa của Việc Quan Phòng thần linh, chúng ta phải
hiểu thế nào về hoa trái xấu xa của tội lỗi
phát hiện từ việc lạm dụng tự do?
Chúng
ta hãy lập lại lời tuyên xưng long trọng của
Công Đồng Chung Vaticanô I: “Tất cả mọi sự
Thiên Chúa đã dựng nên thì Ngài bảo tồn và điều
khiển bằng Việc Quan Phòng của Ngài ‘một cách quyền
năng cho đến tận biên cương bờ cõi và quản
trị tất cả mọi sự đâu vào đó”
(x.Wis.8:1). ‘Tất cả mọi sự phơi bầy và hiện
lộ trước mắt của Ngài’ (x.Heb.4:13), ngay cả
những gì sẽ xẩy ra bởi việc khơi động
tự do nơi tạo vật” (DS 3003).
Mầu nhiệm của Việc Quan Phòng thần
linh đã được in sâu vào toàn thể công cuộc tạo
dựng. Với tư cách biểu hiện cho sự khôn
ngoan đời đời của Thiên Chúa, dự án Quan Phòng có trước công cuộc tạo
dựng. Với tư cách biểu hiện cho
quyền năng hằng hữu của Ngài, Việc Quan Phòng
này chi phối công cuộc tạo dựng và làm cho công cuộc
tạo dựng hiệu thành. Theo một ý
nghĩa nào đó, có thể nói rằng, Việc Quan Phòng được
hiện thực nơi công cuộc tạo dựng. Việc Quan Phòng này là một Việc Quan Phòng siêu
việt, đồng thời cũng có sẵn nơi các sự
vật, nơi tất cả mọi sự. Theo bản
văn của Công Đồng chúng ta vừa đọc, điều
này đặc biệt đúng trong trường hợp của
tạo vật được ban cho minh trí và ý muốn tự do.
Trong
khi dung hòa “một cách quyền năng và đặt định
đâu vào đó” toàn thể tạo thành, thì Việc Quan Phòng
lại đặc biệt ôm ấp những thụ tạo
được dựng nên theo hình ảnh
và tương tự như Thiên Chúa. Họ tham hưởng,
nhờ niềm tự do được Tạo Hóa ban cho,
“việc tự lập của các hữu thể tạo thành”,
hiểu theo ý nghĩa của Công Đồng
Chung Vaticanô II (x.Hiến Chế Gaudium
et Spes, đoạn 36). Các hữu thể được
tạo dựng có bản tính thuần linh cũng bao gồm
trong khối những tạo vật này. Chúng
ta sẽ nói về các vị này sau. Các vị
làm nên thế giới vô hình. Trong thế
giới hữu hình, con người là đối tượng
được Việc Quan Phòng thần linh đặc biệt
chú trọng. Theo giáo huấn của Công Đồng
Chung Vaticanô II thì con người “là tạo vật duy nhất
trên thế gian này được Thiên Chúa dựng nên cho chính
họ” (Hiến Chế Gaudium et Spes, đoạn 24), và cũng
chính vì lý do này mà “con người… không thể nào hoàn toàn tìm
thấy chính mình trừ phi ban tặng bản thân mình” (cùng đoạn
trên).
Sự
kiện thế giới hữu hình được vinh vang bởi
việc con người tạo thành đã mở ra trước
mắt chúng ta những nhãn quan hoàn toàn mới mẻ về
mầu nhiệm của Việc Quan Phòng thần linh. Nhãn
quan hoàn toàn mới mẻ này được đề cập
đến nơi câu tuyên ngôn tín lý của Công Đồng
Chung Vaticanô I, ở cho, câu này nhấn mạnh đến trường
hợp, trước con mắt khôn ngoan và hiểu biết
thần linh, tất cả mọi sự đều được
phơi “trần ra” (“mở ra”), và trần trụi, ở một
nghĩa nào đó – cho dù loài tạo vật có lý trí tác hành
theo tự do của mình. Điều này bao gồm những
gì gây ra bởi việc chọn lựa có ý thức và bởi
việc quyết định tự do của bản vị
con người. Ngay cả về lãnh vực này, Việc
Quan Phòng thần linh cũng vẫn đóng vai trò là nguyên nhân
sáng tạo và điều hành theo thượng quyền của mình. Thượng
quyền này là một thượng quyền siêu việt của
Sự Khôn Ngoan yêu thương, và bởi yêu thương đã
tác hành một cách mãnh liệt và từ ái.
Việc Quan Phòng này là một Việc Quan Phòng quan tâm bằng
tình phụ tử, một Việc Quan Phòng rất sâu xa nơi
tạo vật song vẫn tôn trọng tự do của tạo
vật, trong việc hướng dẫn, đỡ nâng và dìu
dắt tạo vật của mình đến đích điểm
của chúng.
Ơû
nơi điểm gặp gỡ này, giữa dự án sáng tạo
hằng hữu của Thiên Chúa với niềm tự do của
con người, bừng lên một mầu nhiệm không thể
hồ nghi, vừa khôn thấu, vừa đáng tôn thờ. Mầu nhiệm này là ở mối liên hệ thâm sâu,
trước hết về siêu hình rồi đến tâm lý,
giữa tác động thần linh và việc con người
tự quyết. Chúng ta biết rằng,
việc tự do quyết định này liên quan đến
sinh hoạt tự nhiên của loài tạo vật có lý trí.
Theo kinh nghiệm, chúng ta cũng biết đến sự
kiện về niềm tự do của con người, một
tự do đích thực, cho dù nó có bị thương tích và
yếu đuối. Về vấn đề liên hệ giữa
niềm tự do này của con người với nguyên nhân
thần linh, tốt nhất là nhắc lại việc Thánh
Tôma Aquinô nhấn mạnh đến ý niệm về Việc
Quan Phòng như là một thể hiện của Sự Khôn
Ngoan thần linh trong việc sắp xếp sao cho tất cả
mọi sự đạt đến đích điểm xứng
hợp của chúng: ratio ordinis
rerum in finem, “việc sắp xếp hợp lý cho các sự
vật hướng về đích điểm của chúng”
(x. Summa Theol., I, 22, 2). Tất cả những gì Thiên Chúa tạo thành đều
có cùng đích này, và vì thế đã trở nên đối tượng
của Việc Quan Phòng thần linh (x.Summa Theol., I, 22, 2). Nơi con người – là
loài được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa – toàn
thể tạo vật hữu hình phải được kéo
đến gần Thiên Chúa, tìm thấy ở nơi họ,
một lần nữa, đường lối của tình
trạng vẹn toàn cuối cùng của mình. Tư tưởng
này là một trong những tư tưởng khác đã được
Thánh Irênêô nói đến (Adv.
Haer., 4, 38; 1105-1109). Nó được vang vọng nơi
giáo huấn của Công Đồng Chung Vaticanô II về công
cuộc phát triển thế giới nhờ việc làm của
nhân loại (x.Hiến Chế Gaudium
et Spes, đoạn 7). Con người được
kêu gọi để thực hiện trên thế giới một
cuộc phát triển thực sự. Việc phát triển này
phải có một đặc tính không phải chỉ thuần
“kỹ thuật”, mà nhất là phải “đạo đức”,
để làm cho vương quốc của Thiên Chúa trị
đến trong thế giới tạo sinh (x. Hiến
Chế Gaudium et Spes, đoạn
35, 43, 57, 62).
Được
dựng nên theo hình ảnh và tương tự như Thiên
Chúa, con người là một tạo vật hữu hình duy
nhất mà Tạo Hóa đã “muốn dựng nên cho chính họ”
(Hiến Chế Gaudium et Spes,
đoạn 24). Trong một thế giới lệ thuộc
vào sự khôn ngoan và quyền năng siêu việt của Thiên
Chúa, con người cũng là một hữu thể, một
hữu thể lấy mình làm đích điểm, cho dù họ
vẫn nhắm đến cùng đích của mình nơi Thiên
Chúa. Là một bản vị, con người có
cùng đích riêng của mình (auto-teleology), vì thế họ mới
hướng đến việc tự nhận thức bản
thân. Con người được phong phú bởi tặng
ân làm nên nhiệm vụ của họ. Họ được bao phủ trong mầu nhiệm
của Việc Quan Phòng thần linh. Chúng ta đọc
thấy trong Sách Huấn Ca:
“Chúa
đã dựng nên con người từ bụi đất…
Ngài
đã ban cho họ quyền bính
Trên
các vật ở trái đất này…
Ngài
làm cho con người có miệng lưỡi, mắt, tai,
Và
ban cho chúng một con tim hiểu biết;
Ngài
làm cho chúng đầy khôn ngoan và hiểu biết;
Ngài
tỏ cho chúng thiện
ác.
Ngài
thích thú nhìn đến tâm can chúng,
Và
tỏ cho chúng các việc hiển vinh của Ngài…
Ngài
bầy ra trước chúng kiến thức,
Một
lề luật sống như gia nghiệp của chúng…”
(Sir.17:1-2,5-7,9).
Được trang bị bằng một hành trang
“hiện hữu” như thế, con người bắt đầu
cuộc hành trình của mình trên thế gian. Họ khởi sự viết lên giòng lịch sử
của mình. Việc Quan Phòng thần linh đi
kèm với họ trong suốt cuộc hành trình của họ.
Chúng ta đọc lại Sách Huấn Ca:
“Đường
lối chúng vẫn hiện tỏ trước nhan Ngài,
Chúng
không thể ẩn khuất trước mắt của Ngài…
Tất
cả các tác động của chúng đều sáng tỏ
như ban ngày trước nhan Ngài,
Con
mắt của Ngài vẫn hằng theo dõi
chúng”
(Sir.17:13,15).
Tác
giả Thánh Vịnh cũng nói lên một cách cảm kích cũng
sự thật này như sau:
“Cho
dù tôi có cất cánh hừng đông,
dù cho tôi có ở chân trời góc biển,
thì ở đó tay Ngài cũng sẽ dẫn dắt
tôi,
và tay phải của Ngài nắm giữ lấy
tôi”.
(Ps.139:14-15)
“Ngài
quá rõ biết tôi;
Xương
cốt tôi cũng không dấu được Ngài…”
(Ps.139:14-15)
Như
thế thì Việc Quan Phòng thần linh tỏ mình ra nơi lịch
sử loài người, trong lịch sử tâm tư và tự
do, trong lịch sử tim óc và lương
tri. Nơi con người và với con người, tác động
của Việc Quan Phòng cần có một chiều kích “lịch
sử”. Tác động Quan Phòng cần có một chiều kích
lịch sử như vậy, ở chỗ, tác động
này chiều theo nhịp điệu cùng hòa mình với lề
luật phát triển bản tính con người, trong khi siêu
việt tính tối thượng nơi hữu thể tự
tại của mình vẫn không bị đổi thay và không
thể thay đổi. Việc Quan Phòng là một
hiện diện vĩnh hằng nơi lịch sử nhân loại
– lịch sử cá nhân cũng như cộng đồng.
Lịch sử của các dân tộc và của toàn thể nhân
loại mở ra dưới “con mắt” của Thiên Chúa và
chịu ảnh hưởng tác động quyền năng
của Ngài. Tất cả những gì được
tạo dựng đều “được chăm sóc” và quản
trị bởi Đấng Quan Phòng. Đầy lòng quan
tâm phụ tử, quyền bính của Thiên Chúa bao hàm việc
hoàn toàn tôn trọng tự do đối với các hữu thể
có lý trí và tự do. Trong thế giới tạo thành, niềm
tự do này là một biểu hiệu cho hình ảnh của
và nét tương tự như chính Hữu Thể thần
linh, chính tự do thần linh.
Việc tôn trọng niềm tự
do đã ban cho tạo vật thiết yếu đến nỗi,
trong Việc Quan Phòng của mình, Thiên Chúa đã từng cho
phép con người sa ngã phạm tội (kể
cả tội của các thiên thần). Trổi vượt
hơn tất cả mọi loài song vẫn luôn luôn bị hạn
hữu và bất toàn, tạo vật minh trí có thể lạm
dụng tự do và có thể dùng nó phản lại Thiên Chúa,
Đấng Hóa Công. Nó là một vấn đề đau thương
cho tâm trí con người, và Sách Huấn Ca đã suy tư về
vấn đề này bằng những lời sâu thẳm sau
đây:
“Khi Thiên Chúa dựng nên con người
từ ban đầu,
Ngài đã dựng nên họ được
quyền tự do chọn lựa.
Nếu ngươi muốn ngươi
có thể giữ các giới lệnh;
Đó là việc trung thành làm theo ý Ngài.
Trước mặt ngươi
là lửa và nước;
Hãy đưa tay
ra chọn những gì ngươi muốn.
Sự khôn ngoan của Chúa thì
vô biên;
Ngài mãnh lực
trong quyền năng, và toàn tri.
Mắt của Thiên Chúa nhìn thấy
tất cả những gì Ngài đã làm nên;
Ngài hiểu biết mọi việc
con người làm.
Ngài không truyền cho ai phạm
tội,
Ngài không ban sức cho ai gian dối”
(Sir.15:14-20)
“Ai có thể khám phá những sơ
xuất?”, tác giả Thánh Vịnh đã hỏi
như thế (x.Ps.19:13). Tuy nhiên, Việc Quan Phòng thần
linh đã sáng soi cho ngay cả việc sơ xẩy (bởi
tội lỗi) thầm kín này của con người, để
chúng ta biết tránh lánh vấp phạm.
(Bài Giáo Lý ngày 21 tháng 5 năm 1986)