(3)
Thiên Chúa tỏ mình ra
trong Chúa Thánh Linh,
Đấng hoàn hảo hóa đức
tin
C |
húng ta đã nói nhiều lần
ở các buổi giáo lý này rằng đức tin là một đáp
ứng đặc biệt về phía con người đối
với lời của Thiên Chúa là Đấng mạc khải
mình ra cho đến mạc khải tối hậu nơi Chúa
Giêsu Kitô. Rõ ràng là việc đáp ứng này có đặc tính
tri thức. Việc đáp ứng này làm cho con người
có khả kiện để nhận lãnh kiến thức này
(kiến thức biết mình) mà Thiên Chúa “chia sẻ” với
họ.
Việc
chấp nhận kiến thức của Thiên Chúa này, một
kiến thức mà ở đời này chỉ là một phần
nào, tạm vậy và bất toàn, hiến cho con người
khả kiện của việc được tham phần
vào sự thật tối hậu và toàn vẹn sẽ tỏ
hiện cho họ một ngày kia trong diện kiến Thiên Chúa
nhãn tiền. Trong “việc hoàn toàn phó mình cho Thiên Chúa” theo đáp ứng đối với việc
Ngài tỏ mình ra, con người tham dự vào sự thật
này. Từ việc tham dự như thế, một sự sống
siêu nhiên mới, một sự sống được Chúa
Giêsu gọi là “sự sống đời đời”
(Jn.17:3) và được Thư gửi giáo đoàn Do Thái xác
định là “sự sống bởi đức tin”: “kẻ
công chính của Ta sẽ sống bởi đức tin”
(Heb.10:38).
Vậy
nếu chúng ta muốn đi sâu vào việc hiểu biết
về bản chất của đức tin và ý nghĩa tác động
“tin tưởng” là gì, thì cái chúng ta đụng phải đầu
tiên là nguồn gốc của đức tin, so với kiến
thức suy tư về Thiên Chúa căn cứ vào “các vật
tạo thành”.
Trước hết, nguồn gốc của đức
tin ở tại đặc tính siêu nhiên của nó. Nhờ
đức tin, con người đáp lại việc “Thiên
Chúa tỏ mình ra” và chấp nhận dự án
cứu độ của Ngài cho việc tham dự vào bản
tính và sự sống nội tâm của chính Thiên Chúa. Một
đáp ứng như vậy phải dẫn con người
vượt ra ngoài mọi sự chính con người có được
bởi những quan năng và khả năng nơi bản
tính tự nhiên của họ, cả về kiến thức
cũng như ý muốn. Việc đáp ứng này là vấn
đề của kiến thức về một chân lý vô cùng
và về tình trạng thỏa nguyện siêu việt các khao
khát thiện hảo và hạnh phúc bắt nguồn từ lòng
muốn và con tim. Việc đáp
ứng này là vấn đề “sự sống đời đời”.
Chúng ta đọc thấy trong Hiến Chế Dei Verbum “Nhờ mạc khải
thần linh, Thiên Chúa đã muốn tỏ mình và thông mình cùng
với quyết định đời đời của ý
Ngài muốn trong việc cứu độ con người.
Tức là Ngài đã muốn ‘chia sẻ với
họ những kho tàng thần linh này, một kho tàng hoàn toàn
vượt trên kiến thức của trí khôn con người”
(đoạn 6). Ở đây, Hiến Chế
này đã trích lại những lời của Công Đồng
Chung Vaticanô I (trong Hiến Chế Tín Lý Dei Filius, đoạn 12), những lời nhấn mạnh
đến đặc tính siêu nhiên của đức tin.
Như
thế, việc đáp ứng của con người đối
với việc Thiên Chúa tỏ mình ra, nhất là đối
với việc Ngài tỏ mình ra sau hết nơi Chúa Giêsu
Kitô, được hình thành một cách nội tại theo
quyền năng soi sáng của chính Thiên Chúa. Thiên Chúa làm việc
nơi thẳm cung của các quan năng tâm linh con người,
và bằng một cách nào đó, nơi toàn khối nghị lực
và tính chất của họ. Quyền năng thần linh này
được gọi là ân sủng, đúng
hơn, là ân sủng đức tin.
Chúng
ta hãy đọc lại cùng một Hiến Chế của Công
Đồng Chung Vaticanô II: “Để thực hiện tác động
đức tin này, cần phải có ân sủng của Thiên
Chúa cùng với sự trợ giúp nội tâm của Thánh Linh
dẫn lối và đỡ nâng, bằng việc đánh động
con tim hướng nó về Thiên Chúa, bằng việc mở
con mắt trí khôn và bằng việc ban ‘niềm vui cùng với
sự dễ dàng đồng ý và tin tưởng chân lý’ (những
lời của Công Đồng Orange lần hai được
Công Đồng Chung Vaticanô I lập lại). Để
mang lại một hiểu biết mạc khải sâu xa hơn,
vị Thánh Linh này đã liên lỉ làm cho đức tin nên trọn
hảo bằng tặng ân của Ngài” (Dei Verbum, đoạn 5).
Hiến
Chế Dei Verbum nói một cách
gẫy gọn về chủ đề ân
sủng đức tin. Tuy nhiên, mẫu thức tổng hợp
này đã đầy đủ và phản ảnh giáo huấn
của chính Chúa Giêsu là Đấng đã phán: “Không ai đến
đến được với Tôi mà không được
Cha là Đấng sai Tôi lôi kéo” (Jn.6:44). Aân sủng
đức tin thực sự là một “hấp dẫn” Thiên
Chúa gợi lên trước yếu tính nội tại của
con người, và gián tiếp trước toàn chủ thể
con người. Aân sủng đức tin khiến con
người đáp ứng một cách trọn vẹn việc
Thiên Chúa “tỏ mình ra” nơi Chúa Giêsu Kitô, bằng việc
phó mình cho Thiên Chúa. Aân sủng này có trước
tác động đức tin. Nó gợi lên,
hỗ trợ và hướng dẫn đức tin. Nhờ
ân sủng này, con người trước
hết có khả năng “tin vào Thiên Chúa”, và tin tưởng
thực sự. Như thế, việc tác động và hỗ
trợ của ân sủng tạo nên một
mối “hiệp thông” liên ngã và siêu nhiên, một hiệp thông
làm nên cơ cấu kiến trúc sống động của đức
tin. Nhờ việc hiệp thông này, con người tin tưởng
vào Thiên Chúa được tham hưởng “sự sống đời
đời” là “nhận biết Cha và Đấng Cha sai, Đức
Giêsu Kitô” (Jn.17:3), và nhờ đức ái, tiến đến
mối liên hệ thân hữu với các Đấng
(x.Jn.14:23;15:15).
Aân
sủng này là nguồn của việc sáng soi siêu nhiên làm “mở
mắt tâm trí”. Aân sủng đức tin đặc biệt
bao gồm lãnh vực hiểu biết của con người
và chú trọng đến lãnh vực này. Bởi thế mới
có việc chấp nhận hoàn toàn nội dung của mạc
khải thần linh. Mạc khải này chất chứa những
mầu nhiệm của Thiên Chúa và các yếu tố của
dự án cứu độ con người.
Thế nhưng, đồng thời tài năng hiểu biết
của con người, dưới ảnh hưởng của
ân sủng đức tin, hướng đến
một trình độ hiểu biết hơn các vấn đề
được mạc khải. Sự hiểu biết này được
dự trù cho tới khi đạt tới tất cả sự
thật như Chúa Giêsu hứa (x.Jn.16:13), hướng đến
“sự sống đời đời”. Nỗ lực lớn
lên trong việc hiểu biết này được hỗ trợ
bởi các tặng ân của Thánh Linh, nhất là bởi các tặng
ân làm hoàn hảo kiến thức đức tin siêu nhiên - như
ơn minh luận, ơn thâm hiểu, ơn khôn ngoan...
Từ
phác họa ngắn gọn này, nguồn gốc của đức
tin được trình bày như là một tặng ân siêu nhiên. Nhờ tặng ân
này, việc Thiên Chúa “tỏ mình ra” được bắt
nguồn từ trí khôn con người, trở nên nguồn sáng
siêu nhiên. Nhờ nguồn sáng siêu nhiên này, con người,
theo tầm vóc của mình, song ở trình độ hiệp
thông thần linh, tham dự vào kiến thức Thiên Chúa đời
đời nhận biết mình cùng với mọi thực tại
khác trong Ngài.
(Bài
Giáo Lý ngày 10 tháng 4 năm 1985)