(33)
Thiên Chúa dựng nên
Thiên Thần
là các hữu thể tự do
H |
ôm
nay, chúng ta tiếp tục bài giáo lý của chúng ta về các
thiên thần là thành phần, bởi tác động yêu thương
đời đời của Thiên Chúa, cũng đã được
hiện hữu, như chúng ta tuyên xưng bằng những
lời kinh Tin Kính Nicêa-Contantinôpôli: “Tôi tin kính một Thiên Chúa,
là Cha Toàn Năng, Đấng Tạo Thánh trời đất,
muôn vật hữu hình và vô hình”.
Ngay từ ban đầu, bởi
minh trí của mình, cũng như theo tính
chất hoàn hảo của bản tính thiêng liêng của mình,
các thiên thần được kêu gọi để nhận
biết sự thật và yêu mến sự thiện mà các ngài
nhận biết trong sự thật một cách trọn vẹn
và trọn hảo hơn loài người có thể. Tình yêu này
là một tác động của ý muốn tự do, và vì thế,
đối với các thiên thần, tự do cũng bao hàm khả
năng chọn lựa theo hay chống Sự Thiện là chính
Thiên Chúa mà các vị biết được. Cần phải
lập lại ở chỗ này những gì chúng ta đã nói đến
trước đây liên quan đến con người – về
vấn đề Thiên Chúa, bằng việc dựng nên các hữu
thể tự do, muốn rằng thế gian cần phải
có tình yêu thực sự là những gì chỉ khả thủ
nếu được tự do mà thôi. Đó là lý do Ngài muốn
tạo vật, được dựng nên theo
hình ảnh và tương tự như Tạo Hóa, phải hết
sức có thể hiến trao bản thân giống như Thiên
Chúa ‘là tình yêu” (1Jn.4:16) của mình. Bằng việc dựng
nên các vị thuần linh như là những hữu thể tự
do, Thiên Chúa, theo Quan Phòng, không thể nào
không thấy trước việc sa ngã phạm tội của
các thiên thần. Thế nhưng, chính vì Việc Quan Phòng là
việc khôn ngoan của lòng yêu thương đời đời
mà Thiên Chúa đã có thể rút ra từ sự kiện tội
lỗi, một thứ tội lỗi thực sự hơn
hết vì nó là tội lỗi của một loài thuần linh, này sự thiện tối hậu
cho toàn thể vũ trụ tạo thành.
Mạc khải cho thấy
rõ ràng là thế giới thuần linh được chia làm
hai thành phần, thần lành và thần dữ. Việc phân
chia này không phải là công việc tạo
thành của Thiên Chúa, mà là bởi tự do xứng với bản
tính linh thiêng của mỗi một vị. Việc phân chia này
là kết qủa của việc chọn lựa nơi các hữu
thể thuần linh, có khả năng chọn lựa thực
sự hơn cả việc chọn lựa nơi loài người,
và việc phân chia này không thể cứu vãn được
nữa, vì cấp độ minh trí của các vị trong việc
trực giác thấy được sự thiện cũng
như thông thấu sự thiện. Về vấn
đề này cũng cần phải nói là các vị thuần
linh đã phải trải qua một cuộc thử thách có
tính chất luân lý. Đây là một cuộc thử thách
quyết liệt liên quan trước hết đến chính
Thiên Chúa, một vị Thiên Chúa thực sự và trực tiếp
tỏ mình ra cho các vị hơn là cho loài người, một
vị Thiên Chúa ban cho các hữu thể linh thiêng này tặng ân
được tham dự vào bản tính thần linh của
Ngài, trước cả khi Ngài ban tặng ân ấy cho loài người.
Trong trường hợp của
các vị thuần linh, việc chọn lựa dứt khoát,
chấp nhận hay chối bỏ của các vị, một
cách thực sự và trực tiếp hơn trường hợp
tác động ý muốn tự do nơi loài người, trước
hết có liên quan đến chính Thiên Chúa, một Sự Thiện
đệ nhất và tối cao. Các vị thuần
linh có được một kiến thức về Thiên Chúa
hoàn toàn hơn kiến thức nơi loài người.
Với khả năng thông minh của mình, không bị lệ
thuộc và giới hạn bởi môi giới cảm nhận
giác quan, các vị thấy được một cách sâu xa sự
cao cả của Hữu Thể vô cùng, của đệ nhất
Sự Thật, của Sự Thiện tối cao. Thiên Chúa đã tỏ mầu nhiệm thần tính của
Ngài cho khả năng kiến thức cao vời nơi các vị
thuần linh này biết, nhờ đó đã làm cho các vị
thông phần vào vinh quang vô cùng của Ngài. Chính vì là những hữu thể có bản tính linh
thiêng mà các vị, nơi trí tuệ của mình, có một khả
năng, một ước muốn đối với việc
siêu thăng Thiên Chúa đã mời gọi các vị. Khả
năng để ước muốn này làm cho các vị, trước
loài người xa, nên “thành phần tham dự vào bản tính
thần linh” (2Pt.1:4), thành phần tham dự vào sự sống
thân tình của Đấng là Cha và Con và Thánh Thần, của
Đấng “là tình yêu” (1Jn.4:16) trong cuộc hiệp thông của
ba Bản Vị thần linh. Thiên Chúa đã cho tất cả
các vị thuần linh tham dự vào cuộc hiệp thông yêu
thương đời đời trước loài người
và ở một cấp độ cao vượt hơn loài người.
Việc thế giới các
vị thuần linh chọn lựa, căn cứ vào sự
thật về Thiên Chúa, một sự thật biết được
một cách rõ ràng hơn nhờ minh trí tỏ tường của
mình, đã phân chia các vị ra làm hai thành phần, thần lành
và thần dữ. Thần lành, nhờ trí tuệ được
mạc khải sáng soi, đã chọn Thiên Chúa như là một
Sự Thiện tối cao và tối hậu. Để chọn
Thiên Chúa tức là các vị hướng về Ngài bằng
cả nội lực tự do của mình đó là tình yêu. Thiên Chúa trở nên tất cả đích nhắm
sau cùng cho việc hiện hữu linh thiêng của các vị.
Còn các vị kia lại trở mặt với
Thiên Chúa, phản nghịch với sự thật mà kiến
thức cho các vị biết Ngài là tất cả sự thiện
tối hậu. Việc các vị chọn lựa đã đi
ngược lại với mạc khải về mầu
nhiệm Thiên Chúa, ngược lại với ân sủng làm
cho các vị nên thành phần tham dự vào Ba Ngôi và vào cuộc
thân tình đời đời trong Thiên Chúa, qua cuộc hiệp
thông với Ngài bằng lòng yêu thương. Bằng niềm
tự do được ban cho mình, các vị đã thực
hiện một việc chọn lựa vững vàng và bất
khả vãn hồi, tương đương với việc
chọn lựa của các thần lành, song hoàn toàn ngược
nhau. Thay vì chấp nhận một vị Thiên
Chúa đầy yêu thương thì các vị lại chối
bỏ Ngài. Các vị bị một cảm
thức tự mãn sai lầm xui khiến, một cảm thức
ác cảm, thậm chí hận ghét đến biến thành phản
loạn.
Chúng ta hiểu thế nào về
việc đối đầu và phản loạn chống lại
Thiên Chúa nơi các hữu thể có một trí khôn sâu xa và sáng
tỏ như thế? Cái gì đã là động
lực khiến cho các vị quyết định chống
lại Thiên Chúa một cách nặng nề và bất khả
vãn hồi như vậy? Phải chăng
chỉ vì lòng hận ghét qúa sâu đậm đã biến thành
một thứ hoa trái dại khờ? Các Giáo Phụ và
thần học gia không ngần ngại nói đến một
“sự mù quáng” phát sinh từ việc tự cao về tình trạng
hoàn hảo của hữu thể các vị, khiến các vị
phủ nhận tối thượng quyền của Thiên Chúa,
một tối thượng quyền đòi phải có một
tác động thuận phục đơn sơ và dễ dậy.
Tất cả được tóm gọn trong những lời:
“Tôi không muốn phục vụ” (Jer.2:20), những lời nói
lên việc chối từ thật sự và bất khả vãn
hồi trong cuộc tham phần vào công tác xây dựng vương
quốc của Thiên Chúa trên thế gian. Satan, tên
thần phản loạn, muốn có một vương quốc
riêng, không phải là vương quốc của Thiên Chúa.
Hắn nổi lên như “đối thủ” đầu tiên
của Đấng Tạo Hóa, đối phương của
Việc Quan Phòng và là địch thủ cho sự khôn ngoan yêu
thương của Thiên Chúa. Từ việc phản loạn
và tội lỗi của Satan, cũng như từ việc
phản loạn và tội lỗi của con người, chúng
ta phải kết luận bằng cách chấp nhận cảm
nghiệm khôn ngoan của Sách Thánh trong câu: “Kiêu hãnh đưa
đến tiêu vong” (Tob.4:13).
(Bài
Giáo Lý ngày 23 tháng 7 năm 1986)