(34)
Thiên Chúa cho các Thiên Thần
T |
rong
các bài giáo lý mới đây, chúng ta đã thấy được
tại sao qua các thế kỷ Giáo Hội đã tuyên xưng
chân lý về việc hiện hữu của các thiên thần
là các hữu thể thuần linh. Đước ánh sáng từ
Sách Thánh chiếu soi, Giáo Hội đã tuyên xưng chân lý này
nơi Kinh Tin Kính Nicêa-Contantinơpơli, và đã xác nhận
chân lý này nơi Cơng Đồng Chung Latêranơ IV (1215), một
cơng đồng cĩ cơng thức tuyên xưng được
lập lại bởi Cơng Đồng Chung Vaticanơ I
trong tương quan với giáo lý về việc tạo dựng:
“Vào lúc khởi nguyên, Thiên Chúa của thời gian đã từ
hư khơng dựng nên chung cả hai lồi tạo vật,
tạo vật linh thiêng và tạo vật thể chất, tức
là thiên thần và trần thế, và bởi vậy nên Ngài đã
tạo dựng bản tính lồi người cĩ cả
hai, vì nĩ được hình thành bởi tinh thần và thể
xác” (Hiến Chế Dei Filius,
DS 3002). Nĩi cách khác, Thiên Chúa đã dựng nên cả hai thực
tại ngay từ ban đầu – thực tại linh thiêng và
thực tại thể chất, thế giới trần gian
và thế giới thiên thần. Ngài đã dựng nên tất
cả mọi sự này cùng một lúc, trong ý hướng tạo
thành con người là lồi được dựng nên cĩ
cả tinh thần lẫn thể chất, và được
đặt vào, như thánh kinh trình thuật, trong cảnh trí
của một thế giới đã được thiết
định theo lề luật của Ngài cũng như đã
được đo lường theo thời gian.
Đức tin của Giáo Hội
nhận biết chẳng những việc hiện hữu của
các thiên thần mà cịn cả một số đặc tính
chuyên biệt nơi bản tính của các vị nữa. Hữu
thể thuần linh của các vị bao hàm trước hết
tính chất vơ chất thể của các vị cũng
như tính chất bất tử của các vị. Các thiên
thần khơng cĩ “thân thể”, (mặc dù, ở một
số trường hợp đặc biệt, các vị cũng
tỏ mình ra dưới các dạng thức hữu hình để
thi hành sứ vụ mang lại thiện ích cho người
ta). Thế nên các vị khơng lệ thuộc luật hủy
hoại chung nơi thế giới vật chất. Nĩi đến
tình trạng của các thiên thần, chính Chúa Giêsu đã phán,
ở cuộc sống mai này, thành phần phục sinh “khơng
chết được nữa, vì họ giống như các
thần trời” (Lk.20:36).
Là các tạo vật cĩ bản
tính linh thiêng, các thiên thần được phú bẩm cho một
minh trí và ý muốn tự do giống như con người,
tuy luơn luơn hữu hạn bởi giới hạn vốn
cĩ nơi mọi thụ sinh, nhưng ở một mức
độ trổi vượt hơn con người. Bởi
thế, các thiên thần là các hữu thể cĩ bản vị,
do đĩ, cũng là “hình ảnh và tương tự như”
Thiên Chúa. Sách Thánh cũng nĩi đến các thiên thần,
bằng việc sử dụng những từ ngữ, chẳng
những nĩi lên cá vị (với các tên rõ ràng như
Đề tài chúng ta vừa
đề cập đến cĩ vẻ “xa vời” hay “ít
quan trọng” đối với ý hệ tân tiến ngày nay.
Thế nhưng, Giáo Hội tin rằng, Giáo Hội thực
hiện một việc làm quan yếu khi Giáo Hội thành thực
đặt vấn đề tồn bộ của sự thật
về Thiên Chúa Hĩa Cơng cũng như về các thiên thần.
Con người cưu mang niềm xác tín rằng, chính họ
(chứ khơng phải các thiên thần) mới là trung tâm của
mạc khải thần linh tỏ ra nơi Chúa Kitơ, Đấng
vừa là một con người vừa là Thiên Chúa. Chính cuộc
giao ngộ lành thánh với thế giới các hữu thể
thuần linh cĩ một giá trị cho thấy chính hữu
thể của con người, chẳng những nĩ như
là một thân thể mà cịn như là một tinh thần
nữa, cũng như cho thấy họ là thành phần của
dự án cứu độ, một dự án trọng đại
và cĩ hiệu lực thực sự trong một cộng đồn
của những hữu thể cĩ bản vị, thành phần
giúp vào việc thực hiện dự án quan phịng của
Thiên Chúa dành cho con người và theo đuổi con người.
Chúng ta cần chú ý là Sách Thánh
và Thánh Truyền đặt tên xứng hợp với các thiên
thần cho những vị thuần linh quyết chọn Thiên
Chúa, chọn vinh quang của Ngài và chọn vương quốc
của Ngài trong cuộc thử thách cần thiết đối
với niềm tự do của các vị. Các vị hợp
nhất với nhau hướng về Thiên Chúa bằng một
tình yêu nồng cháy, bốc lên từ phúc kiến trực diện
được chiêm ngắm Ba Ngơi Chí Thánh. Chính Chúa Giêsu đã
nĩi với chúng ta điều này: “Các thần trời luơn
chiêm ngưỡng nhan Cha Thày là Đấng ở trên trời”
(Mt.18:10). “Luơn chiêm ngưỡng nhan Chúa Cha” như thế
là một biểu lộ cao cả nhất đối với
việc tơn thờ Thiên Chúa. Người ta cĩ thể
nĩi rằng, việc chiêm ngưỡng này làm nên “phụng
vụ thiên quốc”, được cử hành nhân danh tồn
thể vũ trụ. Phụng vụ của Giáo Hội nơi
trần gian cần phải hợp với phụng vụ
thiên quốc ấy, đặc biệt ở vào những giây
phút trọng đại nhất. Cũng nên nhắc lại ở
đây tác động mà Giáo Hội, mọi ngày và mọi giờ,
trên khắp thế giới, trước khi bắt đấu
Kinh Nguyện Thánh Thể ở trung tâm điểm của
Thánh Lễ, cầu xin “các thiên thần cùng các tổng thần”
hãy ca tụng vinh hiển của Thiên Chúa ba lần thánh. Như
thế, Giáo Hội tự hiệp
nhất mình với những vị tơn thờ Thiên Chúa đầu
tiên trong việc thờ phượng và ưu ái nhận biết
mầu nhiệm thánh thiện khơn tả của Ngài.
Theo mạc khải, các thiên
thần, thành phần tham dự vào sự sống của Ba
Ngơi trong ánh sáng vinh quang, cũng được mời gọi
để đĩng vai trị của mình trong lịch sử
cứu độ nhân loại, vào những lúc ấn định
theo Việc Quan Phịng thần linh. “Tác giả bức Thư
gửi giáo đồn Do Thái đã đặt vấn đề:
“Các ngài khơng phải là tất cả những vị thần
linh thừa tác được sai đến để phục
vụ cho những ai lãnh nhận ơn cứu độ hay
sao?” (1:14). Giáo Hội tin tưởng và truyền dạy điều
này căn cứ vào Sách Thánh. Do đĩ, chúng ta thấy rằng
cơng việc của các thần lành là bảo vệ người
ta và quan tâm đến ơn cứu độ của họ.
Chúng ta thấy những điều
này nơi một số đoạn Sách Thánh, như Thánh Vịnh
91 đã được trích dẫn một số lần:
“Ngài sẽ cho các thiên thần của Ngài lo cho ngươi, để
gìn giữ ngươi trên mọi nẻo đường ngươi
đi. Các vị sẽ lấy tay nâng ngươi lên kẻo
ngươi vấp chân vào đá” (11-12). Khi nĩi về các
trẻ nhỏ và cảnh cáo việc làm gương mù cho chúng,
chính Chúa Giêsu đã nĩi đến “các thiên thần của
chúng” (Mt.18:10). Ngồi ra, Người cịn gán cho các thiên
thần phận sự làm chứng trong cuộc chung thẩm
thần linh về số phận của thành phần nhận
biết hay chối bỏ Chúa Kitơ: “Ai nhận biết Thày
trước mặt người đời thì Con Người
cũng nhận biết họ trước các thiên thần
của Thiên Chúa; cịn ai chối Thày trước mặt
người đời thì cũng sẽ bị phủ nhận
trước các thiên thần của Thiên Chúa” (Lk.12:8-9;
x.Rev.3:5). Những lời này quan trọng là vì, nếu các thiên
thần tham phần vào phán quyết của Thiên Chúa, thì các vị
cũng chú trọng đến cuộc sống của con người.
Việc chú trọng và tham dự này như đạt đến
cao điểm của mình vào lúc cánh chung, khi Chúa Giêsu cùng với
các thiên thần xuất hiện vào lúc Parousia, tức vào lần
đến cuối cùng của Chúa Kitơ khi lịch sử
thế giới kết thúc (x. Mt. 24:31; 25:31-41).
Trong số các sách thuộc
phần Tân Ước, cuốn Tơng Vụ đặc biệt
cho chúng ta thấy một số sự kiện chứng tỏ
việc quan tâm của các thiên thần với lồi người
cũng như phần rỗi của họ. Như thiên thần
Thiên Chúa đã giải thốt các tơng đồ khỏi
ngục tù (x.Acts 5:18-20), trước hết là Thánh Phêrơ,
lúc mạng sống của ngài đang bị bàn tay Hêrơđê
đe dọa (x.Acts 12:5-10). Thiên thần đã hướng dẫn
việc làm của Thánh Phêrơ liên quan đến viên đại
đội trưởng Cornêliơ, người dân ngoại
đầu tiên trở về với Chúa (Acts 10:3-8, 11:1-12), và
tương tự như thế, hướng dẫn việc
làm của phĩ tế Philiphê trên con đường từ
Gia-Liêm tới Gaza (Acts 8:26-29).
Từ một vài sự kiện
chúng ta vừa trích dẫn để làm bằng chứng, chúng
ta mới hiểu tại sao Giáo Hội đã phải xác tín
rằng Thiên Chúa đã ủy thác cho các thiên thần một
sứ vụ cĩ lợi cho con người. Bởi thế,
Giáo Hội tỏ lịng tin tưởng nơi các thiên thần
bản mệnh, tơn kính các vị nơi phụng vụ
bằng một ngày lễ tương xứng, và khuyên bảo
năng chạy đến để kêu cầu các ngài gìn giữ,
như trong lời cầu “Thiên Thần Thiên Chúa”. Lời cầu
nguyện này như được phát xuất từ kho tàng
diệu ngơn của Thánh Basiliơ: “Mọi người
trong tín hữu đều cĩ bên cạnh một thiên thần
như vị chỉ bảo và dẫn lối đưa họ
đến cùng sự sống” (x. Thánh Basiliơ, Adv. Eunomium, III, 1; x. Thánh Tơma,
Summa Theol., q. 11, a. 3).
Sau hết, cũng đáng
ghi nhận là Giáo Hội tơn kính ba vị thiên thần bằng
lễ nghi phụng vụ – những vị được
Sách Thánh nêu tên. Vị thứ nhất là Tổng Thần
Minh-Kha (x.Dan.10:13-20; Rev.12:7; Jude 9). Tên của ngài là một tổng
luận nĩi lên thái độ chính yếu của các thần
lành. Mica-El nghĩa là “Ai giống
như Thiên Chúa?” Danh xưng này nĩi lên việc chọn lựa
ơn cứu độ nhờ đĩ các thiên thần mới
“chiêm ngưỡng nhan Chúa Cha” là Đấng ở trên trời.
Vị thứ hai là Ga-Biên, một vị đặc biệt
gắn liền với mầu nhiệm nhập thể của
Con Thiên Chúa (x.Lk.1:19-26). Tên của ngài nghĩa là “quyền năng
của tơi là Thiên Chúa” hay “quyền năng Thiên Chúa”, như
muốn nĩi lên rằng mầu nhiệm nhập thể,
tột đỉnh của việc tạo thành, là một dấu
hiệu tối thượng của Chúa Cha tồn năng.
Cuối cùng, vị tổng thần thứ ba được
gọi là Ra-Phiên. Rafa-El nghĩa
là “Thiên Chúa chữa trịï”. Ngài được tỏ cho
chúng ta biết qua câu truyện Tơbia trong Cựu Ước
(x.Tb.12:15-20ff.), một câu truyện quan trọng đối
với điều mà nĩ muốn nĩi đến, đĩ
là việc ký thác cho các thiên thần con cái của Thiên Chúa, thành
phần luơn cần được bảo hộ, chăm
sĩc và chở che.
Nếu chúng ta suy niệm kỹ,
chúng ta thấy rằng, mỗi vị một trong bộ ba
tổng thần này, Mica-El, Gabri-El và Rafa-El phản ánh cách đặc biệt sự thật
chất chứa trong vấn nạn được tác giả
của bức Thư gửi giáo đồn Do Thái đặt
ra: “Các ngài khơng phải là tất cả những vị
thần linh thừa tác được sai đến để
phục vụ cho những ai lãnh nhận ơn cứu độ
hay sao?” (1:14).
(Bài
Giáo Lý ngày 23 tháng 7 năm 1986)