(5)
Thiên Chúa
Vô Cùng Uy Linh Cao Cả
C |
húng ta tin rằng Vị Thiên
Chúa đặc thù này tuyệt đối duy nhất nơi
yếu tính vô cùng thánh hảo của Ngài cũng như nơi
tất cả mọi sự toàn thiện của Ngài, trong
quyền toàn năng của Ngài, trong tình yêu vô cùng của Ngài,
trong sự quan phòng của Ngài, trong ý muốn của Ngài và
trong tình yêu của Ngài. Ngài là Đấng hiện hữu như chính Ngài tỏ mình
cho Moisen. Ngài là tình yêu, như tông đồ
Gioan dạy chúng ta. Hai danh xưng này, Hiện Hữu và
Tình Yêu, nói lên một cách khôn tả thực tại thần
linh của Ngài, Đấng muốn tỏ mình cho chúng ta, và Đấng,
trong ánh sáng khôn thấu, tự mình vượt trên mọi
danh hiệu, trên hết mọi
sự và trên mọi trí tuệ tạo vật” (Insegnamenti di Paolo VI, VI; 1968;
302).
Đức
Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói những lời này vào dịp mừng
kỷ niệm 1900 năm tử đạo của hai Thánh Tông
Đồ Phêrô và Phaolô, 30/6/1968, trong bản tuyên xưng đức
tin được gọi là Kinh Tin Kính của Dân Chúa. Những
lời này diễn tả, dài hơn những kinh tin kính cũ,
nhưng một cách gẫy gọn và tổng hợp, chân lý
về Thiên Chúa mà Giáo Hội tuyên xưng từ ban đầu
nơi kinh tin kính: “Tôi tin kính Thiên Chúa”. Ngài là Thiên Chúa, Đấng
tỏ mình ra, Thiên Chúa của đức tin chúng ta. Danh Ngài,
“Ta là Đấng Hiện Hữu”, đã tỏ cho Moisen từ
trong bụi cây cháy ở chân núi Horeb, vẫn còn vang vọng
trong kinh tin kính của ngày hôm nay. Đức Phaolô VI đã nối
kết tên này - danh xưng “Hiện Hữu” - với danh xưng
“Tình Yêu” (theo diễn tả của Bức
Thư Thứ Nhất của Thánh Gioan). Hai
danh xưng này nói lên sự thật về Thiên Chúa một cách
chính thực nhất. Chúng ta còn phải trở về
với hai danh xưng này khi, tự hỏi mình về yếu
tính của Thiên Chúa, chúng ta tìm kiếm câu trả lời cho
vấn đề: Thiên Chúa là ai?
Đức Phaolô đã trích dẫn danh xưng của
Thiên Chúa, “Ta là Đấng hiện hữu”, một danh xưng
được thấy ở trong Sách Xuất Hành. Theo
truyền thống giáo lý và thần học qua nhiều thế
kỷ, ngài thấy nơi danh xưng này mạc khải về
Thiên Chúa như là “Hữu Thể” - một Hữu Thể tự
tại, mà theo ngôn ngữ triết lý về hữu thể
(bản thể học hay siêu hình học) được Thành
Tôma Aquinô sử dụng, nói lên yếu tính của Thiên Chúa.
Người ta phải thêm rằng việc giải thích triệt
để theo ngôn ngữ về những
lời “Ta là Đấng hiện hữu” cũng cho thấy
những ý nghĩa khác mà chúng ta sẽ nói đến sau. Những
lời của Đức Phaolô VI đã đủ rõ ràng là
Giáo Hội, để trả lời cho vấn đề
“Thiên Chúa là Ai?”, theo truyền thống thần học và giáo
phụ lâu đời, vẫn tiếp tục lấy “hữu
thể” (esse) làm khởi điểm.
Người ta không thể tạo nên một câu trả lời
nào có thể chắc ăn và hiểu được
ngoài đường lối nào khác.
Lời
Thiên Chúa dùng để tỏ mình ra bằng việc tự
diễn tả theo “ngôn từ của hữu
thể” cho thấy có một liên hệ đặc biệt
giữa ngôn ngữ của mạc khải với ngôn ngữ
của kiến thức loài người về một thực
tại được cổ thời gọi là “đệ
nhất triết học”. Ngôn ngữ của đệ
nhất triết học này giúp cho người ta, bằng một
cách nào đó, tiến đến danh xưng của Thiên Chúa
như danh xưng “Hữu Thể”. Tuy nhiên - như một
vị tiêu biểu nhất của trường phái Tôma trong
thời chúng ta nhận định, âm vang lại chính Thánh Tôma
(x.Contra Gentes, 1,cc.14,30)
- thì ngay cả việc sử dụng thứ ngôn ngữ ấy
chúng ta vẫn có thể vận dụng hết sức mình để
“bập bẹ” danh xưng mạc khải nói lên yếu tính
của Thiên Chúa này (x.E.Gilson, Le
Thomisme, Paris 1944, ed. Vrin, trang 33,35,41,155-156). Ngôn ngữ loài
người không đủ để diễn tả một
cách xứng hợp và toàn vẹn Thiên Chúa là “Đấng Hiện
Hữu”! Các ý niệm của chúng ta và từ ngữ của
chúng ta liên quan đến Thiên Chúa chỉ nói lên được
cái Ngài không là hơn cái Ngài là (x.Summa
Theologica 1,q.12,a.12).
“Ta
là Đấng hiện hữu”. Thiên Chúa, Đấng trả
lời cho Moisen bằng những lời này cũng là “Đấng
Tạo Thành trời đất”. Ở đây trong lúc hướng
về điều chúng ta sẽ nói đến vào những bài
giáo lý tiếp theo liên quan đến chân lý mạc khải về
việc tạo dựng, tiện thể cũng nên nhận định
rằng, theo cách cắt nghĩa chung, thì từ ngữ “tạo
dựng” có nghĩa là “làm cho hiện hữu từ vô hữu”,
tức là, từ “hư không”. Được tạo dựng
không có nghĩa là tự mình là nguồn gốc, là lý do cho việc
hiện hữu của mình, mà nhận được nó “từ
một khác thể”. Điều này được diễn
tả tổng tắt trong cụm từ Latinh ens ab alio. Ngài, Đấng tạo
dựng - Hóa Công - có sự hiện hữu nơi chính mình và
từ mình (ens a se).
Hiện hữu liên quan đến
bản thể của Ngài: deu tính của Ngài là hiện hữu. Ngài
là hữu thể tự tại (esse
subsistens). Chính vì lý do này Ngài không thể không hiện
hữu, Ngài là hữu thể “tất yếu”. Khác với
Thiên Chúa là “hữu thể tất yếu”, các sự vật
là những gì lãnh nhận sự hiện hữu từ Ngài,
tức các tạo vật, có thể là vô hữu. Việc hiện hữu
không làm nên yếu tính của chúng; chúng là những hữu thể
“tùy thuộc”.
Những cứu xét liên quan đến chân lý mạc
khải về việc tạo dựng thế giới giúp
chúng ta hiểu Thiên Chúa là “Hiện Hữu”. Chúng cũng
giúp cho việc liên kết Đấng “Hiện Hữu” này với
câu trả lời cho Moisen về danh xưng của Thiên Chúa:
“Ta là Đấng hiện hữu”. Theo ý nghĩa của những
suy tư này, những lời nói trịnh trọng của Thánh
Catarina Sienna trở nên hoàn toàn rõ ràng: “Con là vô hữu, Cha là
hiện hữu” (Thánh Catarina, Legenda
Major, 1,10). Đây là yếu tính của
Thiên Chúa, danh xưng của Thiên Chúa, hãy đọc lên từ
đáy đức tin được linh ứng bởi việc
Ngài tỏ mình ra, được xác nhận trong ý nghĩa của
chân lý nền tảng nơi ý niệm về việc tạo
dựng.
Khi
chúng ta nói về Thiên Chúa thì nên viết chữ hoa “Ta Hiện
Hữu” và “Ngài Hiện Hữu”, dành chữ thường cho
tạo vật. Việc này cũng nói lên đúng cách suy tư
về Thiên Chúa theo các thứ loại “hữu
thể”.
Vì Ngài là “ipsum Esse
Subsistens” - tức là Toàn Hữu và vì thế cũng toàn hảo
- Thiên Chúa hoàn toàn siêu vượt đối với thế
giới. Bởi yếu tính của mình, tức bởi
thần tính của mình, Ngài “vượt
ngoài” và đời đời “trổi vượt” hết
mọi tạo thành - cả từng tạo vật, dù hoàn hảo
mấy đi nữa, lẫn đồng nhóm tạo vật,
các hữu thể hữu hình và vô hình.
Vậy
thì rõ ràng Thiên Chúa của đức tin chúng ta, Đấng hiện hữu là
Thiên Chúa vô cùng uy linh cao cả. Sự uy linh cao cả này là
vinh hiển của Hữu Thể thần linh, vinh hiển
của danh xưng Thiên Chúa, sự uy linh cao cả nhiều
lần đã được cử hành trong Sách Thánh.
“Oâi
Chúa là Thiên Chúa của chúng tôi,
danh Ngài uy linh biết bao trên toàn cõi đất!”
(Ps.8:2).
“Vì
Ngài cao cả và thực hiện những sự diệu kỳ,
nên chỉ có mình Ngài là Thiên Chúa” (Ps.86:10).
“Không
có một ai giống như Chúa, Oâi Chúa...” (Jer.10:6).
Trước
Thiên Chúa vinh quang cao cả chúng ta không thể nào không qùi gối
xuống với một thái độ khiêm cung và hân hoan tôn
thờ, hợp cùng phụng vụ lập lại ca khúc Te Deum: “Pleni sunt caeli et terra
maiestatis gloriae tuae... Te per orbem terrarum sancta confitetur Ecclesia:
Patrem immensae maiestati”. “Các tầng trời và trái đất
tràn đầy uy linh và hiển vinh Chúa... và cho đến tận
cùng trái đất Hội Thánh Chúa tuyên xưng đức
tin của mình nơi Chúa là Cha, Đấng uy linh cao cả vô
biên”.
(Bài Giáo Lý ngày 7 tháng 8 năm 1985)