(9)
Thiên Chúa là
Vị Thiên Chúa của Giao Ước
C |
húng ta đã tuần tự tìm
cách trả lời trong các bài giáo lý của chúng ta về vấn
nạn: Thiên Chúa là Ai? Việc tìm câu trả lời
này cần phải có một giải đáp chính đáng, căn
cứ vào lời tự mạc khải của Thiên Chúa.
Đức tin vững vàng cùng với niềm
xác tín của trí khôn được đức tin soi dẫn
đã làm nên đặc tính của câu trả lời này.
Chúng ta một lần nữa hãy trở lại chân
Núi Horeb. Moisen bấy giờ đang chăn
đoàn vật ở đó. Oâng đã nghe từ giữa
bụi cây cháy một giọng nói phán ra: “Hãy cởi giầy
của ngươi ra, vì nơi ngươi đang đứng
là đất thánh” (Ex.3:5). Tiếng nói phán tiếp: “Ta là Thiên
Chúa của cha ông ngươi, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa
của Isaac và Thiên Chúa của Giacóp”. Ngài là Thiên
Chúa của các vị cha ông, Đấng đã sai Moisen đi
giải phóng dân Ngài khỏi cảnh làm tôi người Ai Cập.
Chúng ta đã biết, sau khi lãnh nhận sứ mệnh
này, Moisen đã hỏi Thiên Chúa tên của Ngài. Oâng nhận
được câu trả lời: “Ta là Đấng hiện
hữu”. Truyền thống dẫn giải thánh kinh, truyền
thống thần học và truyền thống huấn quyền
của Giáo Hội, theo mạc khải của Thiên Chúa đây,
đã hiểu câu trả lời ấy có nghĩa là “Hữu
Thể”. Đức Phaolô VI đã lập lại
điều cắt nghĩa này trong Kinh Tin Kính của Dân Thiên Chúa (1968).
Người
ta có thể đạt tới một ý niệm phong phú hơn
và chính xác hơn, khi căn cứ vào ý nghĩa của lịch
sử cứu độ đối với câu Thiên Chúa trả
lời này - “Ta là Đấng hiện hữu”. Thiên Chúa -
Yahweh - tỏ mình ra trước hết như vị Thiên Chúa
của giao ước, bằng việc lấy danh Ngài mà sai Moisen đi: “Ta là Đấng hiện hữu
đối với các người; Ta hiện hữu đây
như một vị Thiên Chúa muốn thiết lập giao ước
và ban ơn cứu độ”, như một vị Thiên Chúa
là Đấng yêu thương các người và cứu độ
các người.
Như thế, Thiên Chúa đã tỏ mình ra như là
một Hữu Thể, Đấng là một Ngôi Vị. Ngài
tỏ mình cho những con người, thành phần Ngài đối
xử như những con người. Thiên Chúa, ở
một nghĩa nào đó, đã vươn ra từ “nỗi
độc thân” của Ngài đến việc thông mình Ngài ra,
trong việc đã tạo thành nên thế gian, bằng việc
cởi mở với thế gian, nhất là với con người
được dựng nên theo hình ảnh
Ngài và tương tự như Ngài (x.Gn.1:26). Việc mạc
khải danh xưng “Ta là Đấng hiện hữu”
(Yahweh), như cho thấy một cách đặc biệt chân
lý Thiên Chúa là một Hữu-Thể-Ngôi-Vị, Đấng
nhận biết, yêu thương và lôi kéo tất cả mọi
người đến cùng Ngài, một vị Thiên Chúa của
giao ước.
Thiên Chúa sửa soạn một giai đoạn mới
của giao ước, một giai đoạn mới của
lịch sử cứu độ trong cuộc nói chuyện với
Moisen. Việc Thiên Chúa khởi xướng việc lập
giao ước đã đánh dấu lịch sử cứu độ
qua nhiều biến cố, như Kinh Nguyện Thánh Thể
số bốn nói lên bằng những lời: “Cha đã lập
đi lập lại giao ước với con người”.
Thiên-Chúa-Yahweh tỏ mình như “Thiên Chúa của
Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp” trong cuộc
nói chuyện với Moisen ở chân Núi Horeb. Ngài là vị
Thiên Chúa đã thiết lập giao ước với Abraham
(x.Gn.17:1-14), cũng như với miêu duệ của ông, với
các tổ phụ, các tổ tộc của dân được
tuyển chọn, thành phần đã trở nên Dân của
Thiên Chúa.
Tuy nhiên, việc xướng xuất của vị
Thiên Chúa giao ước còn được thực hiện
trước cả thời Abraham nữa. Sách Khởi
Nguyên đã đề cập đến việc thiết lập
giao ước với Noe sau trận hồng thủy
(x.Gn.9:1-17). Người ta còn có thể kể đến
giao ước sơ khai trước cả
nguyên tội (x.Gn.2:15-17). Chúng ta có thể nói rằng, theo quan điểm cứu độ, Thiên Chúa
đã muốn thiết lập giao ước với dân Ngài
từ khi bắt đầu lịch sử loài người.
Ơn cứu độ là việc hiệp thông với
sự sống vô tận của Thiên Chúa. “Cây sự sống”
(x.Gn.2:9) trong địa đàng là biểu hiệu cho ơn
cứu độ này. Tất cả mọi giao ước
Thiên Chúa đã ký kết với loài người sau tội
Adong đều xác nhận sự thật là Thiên Chúa muốn
cứu độ con người. Vị Thiên Chúa của
giao ước là vị Thiên Chúa “ban mình” bằng một đường
lối huyền nhiệm - tức là vị Thiên Chúa của
mạc khải và là vị Thiên Chúa của ân sủng. Ngài chẳng
những tỏ mình cho con người mà Ngài còn làm cho họ
thành một người thông phần vào bản tính thần
linh nữa (2Pt.1:4).
Việc
thiết lập giao ước đạt đến giai đoạn
tuyệt đỉnh của mình nơi Chúa Giêsu Kitô - “giao ước
mới”, “giao ước vĩnh cửu” (Heb.12:24,
Việc
thiết lập giao ước, giống như việc sáng
tạo, là một sáng kiến thần linh hoàn toàn tự do và
độc lập. Thế nhưng, việc thiết lập
giao ước còn tỏ cho thấy một cách tuyệt vời
hơn nữa tầm quan trọng và ý nghĩa của việc
sáng tạo trong chiều sâu của tự do thần linh. Sự
khôn ngoan và tình yêu, những yếu tố hướng dẫn
tự do siêu việt của vị Thiên-Chúa-Tạo-Hóa, lại
càng nổi bật hơn nơi niềm tự do siêu việt
của vị Thiên Chúa giao ước.
Qua
việc thiết lập giao ước, nhất là việc
thiết lập giao ước trọn vẹn cuối cùng
nơi Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa, một cách nào đó, đã hòa
nhập với thế gian. Tuy nhiên, Ngài vẫn
hoàn toàn giữ được sự siêu việt của mình.
Vị Thiên Chúa nhập thể, nhất là vị
Thiên Chúa tử giá, vẫn là một Thiên Chúa khôn thấu và
khôn tả. Thế nhưng, đối với chúng ta,
Ngài lại càng trở nên thực sự khôn thấu và khôn tả
hơn nữa, đến độ Ngài đã tỏ lộ
ra như là một vị Thiên Chúa của tình yêu vô cùng và khôn
dò.
Chúng ta không nên đi trước các đề tài của
những bài giáo lý tới đây. Một
lần nữa, chúng ta hãy trở về với Moisen. Việc mạc khải danh xưng của Thiên Chúa
ở chân Núi Horeb đã sửa soạn cho giai đoạn
giao ước mà Thiên Chúa của các vị cha ông muốn thiết
lập với dân Ngài ở núi Sinai. Việc mạc khải
này đã cho thấy một cách vững chắc và rõ ràng cảm
thức độc thần nơi kinh tin kính được
căn cứ vào việc thiết lập giao ước: “Tôi
tin kính một Thiên Chúa!” Thiên Chúa duy nhất, Ngài
là Đấng độc nhất. Sách Xuất Hành viết:
“Ta là Chúa, Thiên Chúa của các người, Đấng đã
đem các người ra khỏi đất Ai Cập, ra khỏi
nhà nô lệ. Các người sẽ không có các thần linh nào
khác trước Ta” (Ex.20:2-3). Chúng ta thấy mẫu thức
căn bản của niềm tin Cựu Ước được
diễn đạt nơi những lời của Sách Nhị
Luật: “Hỡi Yến Duyên, hãy nghe đây: ‘Chúa, Thiên Chúa của
chúng ta, là Chúa duy nhất’” (Dt.6:4; x.Dt.4:39-40).
Tiên
tri Isaia đã hiến cho niềm tin độc thần của
Cựu Ước này một diễn đạt tiên tri sáng
ngời: “Các ngươi là những chứng nhân của Ta -
Chúa phán - những người đầy tớ Ta tuyển
chọn, để các người có thể nhận biết
và tin tưởng Ta, rồi các người hiểu được
rằng Ta là Ngài. Trước Ta không có Thiên Chúa
nào hết, cả sau Ta cũng thế. Ta, Ta là Chúa, ngoài
Ta ra không còn vị cứu tinh nào khác... Các người là chứng
nhân của Ta - Chúa phán - Ta là Thiên Chúa, từ đời đời
luôn mãi không thôi” (Is.43:10-13). “Hãy trở về với Ta để
được cứu rỗi, hỡi tất cả cùng cõi
trái đất, vì Ta là Thiên Chúa, ngoài ra không còn đấng nào
khác” (Is.45:22).
Chân
lý về Thiên Chúa duy nhất này tạo nên nền tảng sâu
xa cho cả hai Giao Ước. Thánh Phaolô đã nói lên điều
này trong Tân Ước bằng những lời này: “Thiên Chúa
duy nhất và Cha của tất cả mọi sự, Đấng
ở trên tất cả, qua tất cả và trong tất cả”
(Eph.4:6). Thánh Phaolô cũng là vị đã chiến đấu
với chủ trương đa thần của dân ngoại
(x.Rm.1:23; Gal.3:8), bằng một nhiệt tình không kém gì nhiệt
tình của Cựu Ước. Thánh nhân đã rao giảng cũng
không kém mạnh mẽ rằng: vị Thiên Chúa chân thật
duy nhất này “là Thiên Chúa của tất cả mọi người,
của cả thành phần cắt bì cũng như không cắt
bì, của cả dân Do Thái cũng như Dân Ngoại”
(x.Rm.3:29-30). Việc mạc khải về một
vị Thiên Chúa chân thật duy nhất được tỏ
ra cho dân tuyển chọn Yến Duyên trong Cựu Ước
cũng nhắm đến cả loài người nữa.
Nhân loại tìm thấy nơi chủ thuyết độc
thần việc diễn tả cho niềm xác tín mà con người
có thể đạt tới ngay cả bằng ánh sáng của
lý trí. Nếu Thiên Chúa thiện hảo, vô cùng, là Hữu Thể
tự tại, thì Ngài cũng phải là Đấng Duy Nhất.
Chân lý được mạc khải trong Cựu Ước
này đã nhờ Chúa Giêsu Kitô trở nên đức tin của
Giáo Hội hoàn vũ trong tân ước. Giáo Hội tuyên xưng:
“Tôi tin kính một Thiên Chúa”.
(Bài Giáo Lý ngày 25 tháng 9 năm 1985)