Bài 10
Thần Linh trong Mầu Nhiệm Tử Nạn
T |
rong Thông Điệp Dominum et Vivificantem, Tôi đã viết:
“Con Thiên Chúa là Chúa Giêsu Kitô, như một con người, bằng
lời nguyện cầu mong tới cuộc tử nạn của
mình, đã làm cho Chúa Thánh Thần, Đấng đã thấm
nhập sâu đậm vào nhân tính của Người, biến
đổi nhân tính ấy thành một hy tế qua hành động
chết đi của Người như tế vật yêu
thương trên thập giá. Người đã
tự mình hiến dâng hy tế này. Như là một tư
tế, ‘Người đã hiến dâng chính mình vô tì tích lên
Thiên Chúa” (Heb.9:14)” (đoạn 40). Hy tế thập giá là tột
đỉnh của một sự sống, làm cho chúng ta, theo
các bản văn Phúc Aâm, thấy được sự thật
về Chúa Thánh Thần, kể từ giây phút Nhập Thể.
Mầu nhiệm Nhập Thể này đã là đề tài của
các buổi giáo lý trước đây, các buổi giáo lý chú trọng
đến những thời điểm thuộc về đời
sống và sứ vụ của Chúa Kitô là những thời điểm
làm cho mạc khải về Chúa Thánh Thần sáng tỏ một
cách đặc biệt. Đề tài của
buổi giáo lý hôm nay là biến cố thập giá.
Chúng ta hãy chú ý đến những lời cuối
cùng của Chúa Giêsu thốt ra trong cuộc khổ nạn của
Người trên đồi Canvê. Theo bản văn của
thánh Luca thì những lời này là: “Lạy Cha, Con xin ký thác thần
trí của Con trong tay Cha” (Lk.23:46). Mặc
dù mỗi một lời trong câu than này, trừ lời “Cha”,
là những lời của Thánh Vịnh 31, song, theo kết cấu
Phúc Âm, chúng lại mang một ý nghĩa khác. Tác
giả Thánh Vịnh đã nguyện cầu cùng Thiên Chúa cứu
mình khỏi chết. Trái lại, sử dụng cùng những
lời của tác giả Thánh Vịnh này, Chúa Giêsu trên thập
giá lại chấp nhận cái chết, hoàn trả thần
trí mình (tức là “sự sống của mình”) cho Chúa Cha. Tác
giả Thánh Vịnh hướng về Thiên Chúa như là một
đấng giải thoát của mình; Chúa Giêsu lại dâng hiến
(tức là trao phó) thần trí mình cho Chúa Cha, hướng về
cuộc phục sinh. Chúa Giêsu đã trao phó toàn
thể nhân tính của mình cho Chúa Cha. Tuy
nhiên, cái “Tôi” thần linh của Con liên kết với Cha và
Thánh Thần lại cùng hiện hữu nơi nhân tính của
Người. Do đó, sự hiện diện của
Chúa Thánh Thần vẫn không biểu lộ một cách rõ ràng
nơi bản văn của thánh Luca như nơi Bức Thư
gửi cho giáo đoàn Do Thái.
Trước
khi sang bản văn khác này, chúng ta cần phải lưu ý đến
cấu trúc hơi khác nhau nơi những lời của Chúa
Giêsu hấp hối theo Phúc Aâm thánh Gioan.
Chúng ta đọc thấy nơi Phúc Aâm này là: “Sau khi Chúa Giêsu
nếm rượu rồi thì Người phán: ‘Đã hoàn tất!’
Rồi gục đầu xuống, Người trao phó thần
trí mình” (Jn.19:30). Thánh ký đã không đề cao “việc trao
phó” (hay “ký thác”) thần trí cho Chúa Cha. Toàn bộ kết cấu
của Phúc Aâm thánh Gioan, nhất là đoạn về cuộc
tử nạn của Người trên thập giá như muốn
nói lên là cái chết của Người khai mào cho việc
sai Chúa Thánh Thần đến như một tặng ân được
trao trối từ việc ra đi của Chúa Kitô.
Cả
ở đoạn Phúc Aâm của thánh Gioan này cũng không rõ ràng
nói đến sự hiện diện của Chúa Thánh Thần
nơi cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Thế nhưng,
chúng ta không thể nào bỏ qua sự liên kết bất ngờ
xẩy ra giữa bản văn của Phúc Aâm thánh Gioan và lời
dẫn giải về cái chết của Chúa Kitô nơi Bức
Thư gửi giáo đoàn Do Thái. Tác giả của bức thư này nói về phận vụ theo nghi lễ
của những huyết tế nơi cựu ước được
dùng để thanh tẩy dân khỏi những lỗi lầm
phạm đến lề luật. Tác giả đã so sánh những
huyết tế này với hy tế thập giá rồi kết
thúc bằng lời than: “Thế thì còn hơn thế nữa
đối với máu của Chúa Kitô, Đấng nhờ Thần
Linh vĩnh cửu đã hiến dâng mình vô tì tích lên Thiên Chúa,
trong việc tẩy rửa lương tâm của chúng ta khỏi
những công việc chết chóc để tôn thờ Thiên
Chúa hằng sống” (Heb.9:14).
Như
Tôi đã viết trong Thông Điệp Dominum et Vivificantem: “Nơi nhân tính
của Người (Đức Kitô) hy tế này đã trở
nên xứng đáng, vì chỉ có một mình Người mới
‘vô tì vết’. Thế nhưng, Người đã hiến dâng
hy tế này ‘nhờ Thần Linh vĩnh cữu’, tức là
Chúa Thánh Thần đã thực hiện một cách đặc
biệt nơi việc tự hiến tuyệt đối này
của Con Người, để biến đổi việc
khổ nạn ấy thành tình yêu cứu độ” (đoạn
40). Việc liên kết mầu nhiệm giữa Đức
Kitô và Chúa Thánh Thần nơi hoạt động thiên sai được
hàm chứa trong đoạn Phúc Aâm của thánh Luca thuật
lại biến cố truyền tin đã từ đó chuyển
sang đoạn Thư gửi giáo đoàn Do Thái này. Mầu
nhiệm của việc liên kết đây nói lên mức độ
sâu xa của hoạt động thiên sai đi sâu vào lương
tâm con người để thanh tẩy và canh tân lương
tâm họ bằng ân sủng thần linh
- một đòi hỏi cần phải có nơi hình thức
của những biểu hiệu lễ nghi bề ngoài.
Cựu
Ước có một số lần nói đến “lửa từ
trời” thiêu hủy những lễ vật do con người
hiến dâng (x.Lev.9:24; 1Kgs.18:38; 2Chr.7:1). “Lửa trên bàn thờ
phải được cháy sáng; không được tắt
đi. Mỗi sáng vị tư tế phải chất củi
đốt trên bàn thờ. Trên bàn thờ này, vị tư tế
phải bày tế vật rồi đốt cháy mỡ của
các lễ tế cầu an” (Lev.6:5). Nay chúng ta
hiểu được rằng những tế vật ngày
xưa ám chỉ hy tế thập giá, một tế vật
hoàn hảo. “So sánh với nhau người
ta có thể nói rằng Chúa Thánh Thần là ‘lữa từ trời’
tác dụng âm thầm nơi mầu nhiệm thập giá.
Nhiệm xuất từ Cha, Ngài hướng hy tế của
Con về Cha, đem hy tế này vào thực tại thần
linh của mối hiệp thông ba ngôi” (Thông Điệp Dominum et Vivificantem, đoạn 41).
Thế
nên, suy niệm về mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa, chúng ta
có thế nói rằng con người thấy được
lời loan báo của thánh Gioan Tẩy Giả ở sông Dược
Đăng đã trọn vẹn hoàn tất: “Người (Đức
Kitô) sẽ rửa trong Thánh Thần và trong lửa” (Mt.3:11).
Trong khi theo Cựu Ước thì lửa mà vị Tẩy Giả
nói đến là biểu hiệu cho sự can thiệp tối
cao của Thiên Chúa qua tác động nhờ Thánh Thần
thanh tẩy lương tâm con người (x.Is.1:25; Zech.13:9;
Mal.3:2-3; Sir.2:5), thì thực tại vượt trên tầm mức
mẫu nghi tới chính hy tế thập giá đây là “phép rửa
(hoàn hảo) chính Chúa Kitô phải lãnh nhận” (x.Mk.10:38).
Trong cuộc sống và sứ vụ trần gian của mình,
Chúa Kitô đã hết sức mong ngóng phép rửa này, như
chính Người phán: “Thày đã đến để thắp
lửa trên thế gian. Thày còn muốn gì hơn là làm cho nó bùng
lên! Thày phải chịu một phép rửa.
Thày cảm thấy sầu buồn biết mấy
cho đến khi hoàn tất!” (Lk.12:49-50). Chúa Thánh Thần là ngọn “lửa” cứu độ,
một ngọn lửa hoàn tất hy tế này.
Trong
Thư gửi cho giáo đoàn Do Thái, chúng ta còn đọc thấy
rằng, Chúa Kitô, “mặc dầu là Con, Người cũng đã
biết tuân phục nơi những gì phải chịu”
(5:8). Khi vào trần gian Người đã thưa cùng Cha: “Này
Con xin đến để thực thi ý Chúa” (Heb.10:9). Nơi
hy tế thập giá việc Người tuân phục hoàn toàn
được thể hiện: “Nếu tội lỗi gây nên
đau khổ, thì nỗi khổ đau của Thiên Chúa nơi
Đức Kitô bị đóng đanh nhờ Thánh Thần đã
được diễn tả trọn vẹn nơi nhân loại...
Thế nhưng, cũng từ thâm cung của nỗi khổ
đau này... Thần Linh đã làm phát sinh một tầm mức
mới của tặng ân đã được
ban cho nhân loại cũng như cho tạo vật ngay từ
ban đầu. Tình yêu làm việc nơi thâm cung của mầu
nhiệm thập giá, một tình yêu mang con người về
lại với việc thông phần vào sự sống của
chính Thiên Chúa” (Thông Điệp Dominum
et Vivificantem, đoạn 41).
Như
thế, trong mối liên hệ với Thiên Chúa, “chúng ta có một
vị thượng tế cao cả là Đấng có thể
cảm thông với nỗi yếu hèn của chúng ta, vì Người
đã chịu thử thách mọi bề song không hề phạm
tội” (Heb.4:15). Trong mầu nhiệm Chúa Kitô tư tế làm
môi giới trước nhan Chúa Cha mới này, có một can dự
thiết yếu của Thần Linh vĩnh cửu là ngọn
lửa yêu thương vô cùng.
“Chúa Thánh Thần xuống như tình yêu và tặng ân,
bằng một cách nào đó, ngay lòng hy tế được
hiến dâng trên thập giá. Căn cứ vào truyền
thống Thánh Kinh, chúng ta có thể nói rằng: Ngài thiêu đốt
hy tế này bằng ngọn lửa yêu thương hiệp
nhất Con với Cha trong mối hiệp thông Ba Ngôi Thiên Chúa.
Mà bởi hy tế thập giá là một tác động xứng
hợp với Chúa Kitô, do đó, cũng nơi hy tế này,
Người đã ‘nhận lấy’ Chúa Thánh Thần. Người
đã nhận lấy Thần Linh ở chỗ, Người
- và chỉ một mình Người với Chúa Cha - có thể
trao ban Thần Linh cho các tông đồ, cho Giáo Hội, cho nhân
loại” (Thông Điệp
Dominum et Vivificantem, đoạn 41).
Thế nên, cũng có lý khi cho rằng mạc khải
về Chúa Thánh Thần trong cuộc sống Chúa Kitô được
hoàn trọn nơi thời điểm của hy tế thập
giá. Biến cố Hiện Xuống và toàn
bộ hiệu năng phát sinh bởi biến cố này cho
thế gian đều được bắt nguồn từ
thời điểm trọng yếu ấy. Vị “Thần
Linh vĩnh cửu” làm việc nơi mầu nhiệm thập
giá cũng là vị sẽ hiện xuống dưới hình
thể “lưỡi lửa” đậu trên đầu các tông
đồ ở nhà tiệc ly. Biểu hiệu
“lưỡi lửa” này biểu hiệu cho việc Ngài dần
dần sẽ thấm nhập vào giòng lịch sử nhân loại
qua hoạt động tông đồ của Giáo Hội.
Cả chúng ta nữa cũng được kêu gọi tham
gia vào lãnh vực hoạt động của quyền lực
cứu độ nhiệm mầu này, một quyền lực
đã được bắt đầu từ thập giá và
nhà tiệc ly để, trong quyền lực này và nhờ
quyền lực này, chúng ta được thu hút vào mối
hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa.
(Bài
Giáo Lý thứ 46 của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chia sẻ
ngày Thứ Tư,
trong loạt 80 bài về chủ đề
Chúa Thánh Thần)